Phẩm Vào Pháp Giới – 7

Kinh Hoa Nghiêm

Đại Phương Quảng Phật

giảng giải

Phẩm Thứ 39

Hòa Thượng TUYÊN HÓA
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Minh Ðịnh

— o0o —

Phẩm Vào Pháp Giới

Phần 7

==============================

PHÓ THÁC THẬP HOAN HỈ

— o0o —

31. DẠ THẦN BÀ SAN BÀ DIỄN ĐỂ
PHÓ THÁC THỨ 31 – HOAN HỈ ĐỊA

Nhĩ thời, Thiện tài đồng tử nhất tâm tư tánh an trụ Thần giáo, ức trì Bồ Tát bất khả tự hoại Trí Tạng giải thoát, tu kỳ tam muội, học kỳ quỹ tắc, quán kỳ du hí, nhập kỳ vi diệu, đắc kỳ trí tuệ, đạt kỳ bình đẳng, tri kỳ vô biên, trắc kỳ thậm thâm.

Bấy giờ Thiện Tài nhất tâm tư duy lời dạy của An Trụ Ðịa Thần, ghi nhớ môn Bồ Tát bất khả trở hoại trí tạng giải thoát, tu tam muội đó, học quỹ tắc đó, quán sát thần thông du hí đó, nhập vi diệu đó, được trí huệ đó đạt bình đẳng đó, biết vô biên đó lường thậm thâm đó.

Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử một lòng suy gẫm lời dạy của Chủ Địa Thần An Trụ, ghi nhớ thọ trì pháp môn giải thoát Tạng trí huệ không thể trở hoại của Bồ Tát. Tu học tam muội của Bồ Tát. Học tập quỹ tắc của Bồ Tát. Quán sát cảnh giới tự tại du hí nhân gian của Bồ Tát, vô câu vô thúc. Chứng nhập cảnh giới vi diệu không thể nghĩ bàn của Bồ Tát. Đắc được trí huệ rộng lớn của Bồ Tát. Đạt được cảnh giới bình đẳng của Bồ Tát. Biết được thần thông diệu dụng vô lượng vô biên của Bồ Tát. Dò lường pháp vi diệu thâm sâu của Bồ Tát.

 

Tiệm thứ du hành, chí ư bỉ thành, tùng Đông môn nhập, trữ lập vị cửu, tiện kiến nhật một. Tâm niệm tùy thuận chư Bồ-tát giáo, khát ngưỡng dục kiến bỉ chủ dạ thần, ư thiện tri thức sanh Như Lai tưởng

Ði lần đến thành Ca Tỳ La vào cửa đông, Thiện Tài đứng chờ chẳng bao lâu kế trời tối. Thiện Tài tâm niệm tùy thuận lời dạy của chư Bồ Tát, khác ngưỡng muốn được thấy Chủ Dạ Thần. Nơi thiện tri thức tưởng như Phật.

Giảng: Thiện Tài đồng tử từ từ đi du hành về hướng nam, đến thành Ca Tỳ La, đi vào từ cửa hướng đông, đứng ở đó chờ chẳng bao lâu thì mặt trời lặn. Tâm Ngài nghĩ nhớ tới lời dạy tuỳ thuận các Bồ Tát, khát ngưỡng muốn gặp vị Chủ Dạ Thần Bà San Bà Diễn Để. Ngài đối với thiện tri thức sinh nghĩ tưởng như Phật, thấy thiện tri thức giống như thấy Phật.

 

Phục tác thị niệm: do thiện tri thức đắc chu biến nhãn, phổ năng minh kiến thập phương cảnh giới; do thiện tri thức đắc quảng đại giải, phổ năng liễu đạt nhất thiết sở duyên; do thiện tri thức đắc tam muội nhãn, phổ năng quan sát nhất thiết pháp môn; do thiện tri thức đắc trí Tuệ-nhãn, phổ năng minh chiếu thập phương sát hải.

Thiện Tài lại nghĩ rằng: Nhờ thiện tri thức mà được phổ biến nhãn, thấy rõ cảnh giới mười phương. Nhờ thiện tri thức mà được quảng đại giải thấu rõ tất cả cảnh sở duyên. Nhờ thiện tri thức mà được tam muội nhãn quán sát tất cả pháp môn. Nhờ thiện tri thức mà đước trí huệ nhãn soi sáng mười phương sát hải.

Giảng: Lại nghĩ như vầy: Nhờ thiện tri thức mà được con mắt khắp cùng, thấy rõ khắp cảnh giới mười phương. Nhờ thiện tri thức mà hiểu biết rộng lớn, thấu đạt khắp tất cả nhân duyên. Nhờ thiện tri thức mà được mắt tam muội, quán sát được khắp tất cả pháp môn. Nhờ thiện tri thức mà được mắt trí huệ, chiếu rõ được khắp biển cõi mười phương.

Đây là phó thác Hoan hỉ địa thứ nhất, bạn lành là Chủ Dạ Thần Bà San Bà Diễn Để, thành tên là Ca Tỳ La, dịch là “Hoàng sắc”. Thuở xưa có vị Tiên nhơn đầu vàng ở đây, nên theo đây mà đặc tên, hoàng là màu ở giữa, biểu thị hợp với trung đạo. Hơn nữa đây là thành thị của đức Phật đản sinh, biểu thị Sơ địa sinh nơi nhà Phật.
“Bà San” dịch là “hương”, “Bà Diễn Để” dịch là “Chủ đương”, biểu thị khi mùa xuân thì chủ đương cấy mạ. Tức là sơ nhập địa, sinh trưởng vạn hạnh, cứu hộ chúng sinh. Trên đất thường thấy nhiều Dạ Thần, biểu thị chứng trí huyền diệu, lìa tướng phá tối. Hết thảy thiện tri thức của Thập địa, đều thị hiện thân nữ thần, biểu thị chứng nơi đồng thể từ bi.

 

Tác thị niệm thời, kiến bỉ dạ Thần ư hư không trung, xứ bảo lâu các hương liên hoa tạng sư tử chi tọa, thân chân kim sắc, mục phát cám thanh, hình mạo đoan nghiêm, kiến giả hoan hỉ, chúng bảo anh lạc dĩ vi nghiêm sức, thân phục chu y, thủ đái phạm quan, nhất thiết tinh tú bỉnh nhiên tại thể.

Lúc suy nghĩ như vậy, Thiện Tài thấy trên hư không, Dạ Thần ngồi trên tòa hương liên hoa tạng sư tử trong bửu lâu các. Thân màu chơn kim, mắt và tóc xanh biếc, hình mạo đoan nghiêm, những chuỗi ngọc báu dùng trang sức. Thân mặc y phục đỏ, đầu đội mão Phạm Thiên. Tất cả tinh tú hiện rõ trên thân.

Giảng: Lại nữa, Thiện Tài đồng tử đi vào cửa hướng đông, vì phương đông là sáng trước nhất, hiển nhập chứng ban đầu. Thấy mặt trời lặn, là biểu thị Dạ Thần sắp chấp hành nhiệm vụ. Tại Sơ địa, Bồ Tát ban đầu đắc được Thánh vị, chứng đủ hai không, hay lợi ích ta, người, sinh đại hoan hỉ. Sơ địa đoạn kiến hoặc, tức phân biệt phiền não.

 

Ư kỳ thân thượng nhất nhất mao khổng, giai hiện hóa độ vô lượng vô số ác đạo chúng sanh, lệnh kỳ miễn ly hiểm nan chi tượng; thị chư chúng sanh, hoặc sanh nhân trung, hoặc sanh Thiên thượng, hoặc hữu thú hướng nhị thừa Bồ-đề, hoặc hữu tu hành nhất thiết trí đạo.

Mỗi lỗ lông trên thân của Dạ Thần đều hiện hóa độ vô lượng vô số chúng sanh ở ác đạo, cho họ thoát khỏi thân hình hiễm nạn. Những chúng sanh này, hoặc sanh nhơn gian, hoặc sanh lên trời, hoặc xu hướng Nhị thừa Bồ đề, hoặc tu hành đạo Nhứt thiết trí.

Giảng: Khi Thiện Tài đồng tử đang nghĩ như vậy, thì thấy vị Dạ Thần Bà San Bà Diễn Để ở trong hư không, ngồi trên toà sư tử hương liên hoa tạng trong lầu các báu. Thân Ngài màu vàng ròng, mắt và tóc màu xanh biếc, tướng mạo rất đoan nghiêm, khiến cho ai thấy được Ngài cũng đều sinh tâm hoan hỉ. Các chuỗi báu dùng làm nghiêm sức, thân Ngài mặc y phục màu đỏ, trên đầu đội mão báu của trời Phạm Thiên, tất cả tinh tú hiện rõ trên thân của Ngài. Mỗi lỗ chân lông trên thân của vị Dạ Thần đó, đều thị hiện hoá độ vô lượng vô số chúng sinh trong đường ác, khiến cho thân họ được lìa khỏi hiểm nạn. Các chúng sinh đó, hoặc được sinh vào cõi người, hoặc được sinh lên cõi trời, hoặc có người hướng về hai thừa (Thanh Văn và Duyên Giác) bồ đề. Hoặc có người tu hành đạo nhất thiết trí. Đây là vị Dạ Thần chiếu theo căn tánh chúng sinh khác nhau, để giáo hoá họ.

 

Hựu bỉ nhất nhất chư mao khổng trung, thị hiện chủng chủng giáo hóa phương tiện, hoặc vi hiện thân, hoặc vi thuyết Pháp, hoặc vi thị hiện Thanh văn thừa đạo, hoặc vi thị hiện độc giác thừa đạo, hoặc vi thị hiện chư Bồ-tát hạnh, Bồ Tát dũng mãnh, Bồ Tát tam muội, Bồ Tát tự tại, Bồ Tát trụ xứ, Bồ Tát quan sát, Bồ Tát sư tử tần thân, Bồ Tát giải thoát du hí, như thị chủng chủng thành thục chúng sanh.

Lại trong mỗi lỗ lông thị hiện những phương tiện giáo hóa: hoặc hiện thân, hoặc thuyết pháp, hoặc thị hiện đạo Thanh Văn thừa, Ðộc Giác thừa, Bồ Tát hạnh, Bồ Tát dũng mãnh, Bồ Tát tam muội, Bồ Tát tự tại, Bồ Tát trụ xứ, Bồ Tát quán sát, Bồ Tát sư tử tần thân, Bồ Tát giải thoát du hí. Thị hiện những phương tiện thành thục chúng sanh như vậy.

Giảng: Lại trong mỗi mỗi các chân lông của vị Dạ Thần đó, thị hiện đủ thứ pháp môn phương tiện giáo hoá: Hoặc vì chúng sinh thị hiện thân, hoặc vì chúng sinh thuyết pháp, hoặc vì chúng sinh thị hiện đạo Thanh Văn thừa, hoặc vì chúng sinh thị hiện đạo Độc Giác thừa, hoặc vì chúng sinh thị hiện Bồ Tát hạnh, Bồ Tát dũng mãnh, Bồ Tát tam muội, Bồ Tát tự tại, Bồ Tát trụ xứ, Bồ Tát quán sát, Bồ Tát sư tử tần thân, Bồ Tát giải thoát du hí. Vị Dạ Thần dùng đủ thứ pháp môn phương tiện như vậy, để thành thục chúng sinh.

Ở trên tường thuật lại cảnh giới Dạ Thần ở trong hư không. Thành thị là biểu thị giáo đạo, hư không là biểu thị chứng đạo. Thân Dạ Thần mặc y màu đỏ, là biểu thị chứng trí hiển rõ của Ngài. Và tất cả tinh tú, hiện rõ trong thân Ngài. Thân thể của Ngài dùng biểu như thể, tinh tú dùng biểu pháp môn. Tinh tú chẳng lìa một thân, như pháp môn chẳng lìa như thế. Trên thân của Ngài, mỗi mỗi lỗ chân lông đều thị hiện giáo hoá chúng sinh, là biểu thị giáo hoá đại dụng của Ngài, chẳng lìa khỏi tánh một chân lông. Đoạn kinh văn nầy tường thuật lại một cảnh giới cao thâm: Tất cả duy tâm tạo, chánh ngộ tự tâm, chẳng do người khác ngộ, mà lỗ chân lông dùng sự so sánh chân tánh, do đó: “Lớn mà không ngoài, nhỏ mà không trong”. Cho nên tất cả tinh tú, đều hiển rõ trong thân Ngài, tất cả chúng sinh có thể thị hiện nơi mỗi lỗ lông, mà những cảnh giới nầy đều đồng thời phát sinh, viên dung vô ngại.

 

Thiện tài đồng tử kiến văn thử dĩ, tâm đại hoan hỉ, dĩ thân đầu địa, lễ dạ thần túc, nhiễu vô số tạp, ư tiền hợp chưởng nhi tác thị ngôn: Thánh Giả! ngã dĩ tiên phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm, ngã tâm kí vọng y thiện tri thức hoạch chư Như Lai công đức Pháp tạng. Duy nguyện thị ngã nhất thiết trí đạo, ngã hành ư trung, chí thập lực địa!

Thiện tài thấy và nghe những sự trên đây, lòng rất vui mừng. Ðảnh lễ nơi chân Dạ Thần, hữu nhiễu vô số vòng, chắp tay cung kính thưa rằng: Bạch đức Thánh ! Con đã phát tâm Vô thượng Bồ đề. Lòng con trông mong nương thiện tri thức để được công đức pháp tạng của Như Lai. Xin dạy cho con đạo Nhứt thiết trí, con đi trong đó đến bực Thập lực.

Giảng: Thiện Tài đồng tử thấy nghe cảnh giới thị hiện không thể nghĩ bàn của vị Chủ Dạ Thần như vậy rồi, tâm sinh đại hoan hỉ, cúi thân mình sát đất, đảnh lễ vị Dạ Thần, đi nhiễu quanh vô lượng vòng, rồi chắp tay ở trước vị Dạ Thần mà bạch rằng: “Đức Thánh! Con trước đã phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, tâm con trông mong nương nhờ thiện tri thức, đắc được công đức pháp tạng của tất cả các Như Lai, xin Ngài hãy vì con thị hiện đạo nhất thiết trí, khiến cho con tu hành trong đó, cho đến bậc Thập Lực của Như Lai”.

 

Thời, bỉ dạ Thần cáo Thiện Tài ngôn: Thiện tai thiện tai! Thiện nam tử! nhữ năng thâm tâm kính thiện tri thức, lạc văn kỳ ngữ, tu hành kỳ giáo; dĩ tu hành cố, quyết định đương đắc A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề.

Dạ Thần bảo Thiện Tài rằng: Lành thay ! Lành thay ! Này thiện nam tử ! Ngươi có thể thâm tâm kính thiện trí thức, thích nghe lời dạy và tu hành theo. Do tu hành nên quyết định sẽ được Vô thượng Bồ đề.

Giảng: Lúc đó, vị Dạ Thần đó bảo Thiện Tài đồng tử rằng: “Lành thay lành thay! Thiện nam tử! Thâm tâm ngươi cung kính thiện tri thức, thích nghe lời thiện tri thức, tu hành theo lời dạy của thiện tri thức, nhờ tu hành mà chắc chắn ngươi sẽ đắc được quả Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”.

 

Thiện nam tử! ngã đắc Bồ Tát phá nhất thiết chúng sanh si ám pháp quang minh giải thoát.

Này thiện nam tử ! Ta được môn giải thoát Bồ Tát pháp quang minh phá tất cả chúng sanh si ám.

Giảng: Thiện nam tử! Ta đắc được giải thoát Bồ Tát pháp quang minh phá si ám của tất cả chúng sinh.

Vị Dạ Thần nầy đã đắc được trí vô ngã, nhờ sức bi mà phá được chúng sinh ám. Pháp quang minh là trí huệ, Ngài bi trí đều đầy đủ.

 

Thiện nam tử! ngã ư ác tuệ chúng sanh, khởi Đại từ tâm; ư bất thiện nghiệp chúng sanh, khởi đại bi tâm; ư tác thiện nghiệp chúng sanh, khởi ư hỉ tâm; ư thiện ác nhị hạnh chúng sanh, khởi bất nhị tâm; ư tạp nhiễm chúng sanh, khởi lệnh sanh thanh tịnh tâm; ư tà đạo chúng sanh, khởi lệnh sanh chánh hạnh tâm; ư liệt giải chúng sanh, khởi lệnh hưng Đại giải tâm; ư lạc sanh tử chúng sanh, khởi lệnh xả luân chuyển tâm; ư trụ nhị thừa đạo chúng sanh, khởi lệnh trụ nhất thiết trí tâm.

Này thiện nam tử ! Ta ở nơi ác huệ chúng sanh khởi tâm đại từ, nơi chúng sanh bất thiện khởi tâm đại bi, nơi chúng sanh làm lành khởi tâm đại hỷ, nơi chúng sanh đủ hai hạnh thiện ác khởi tâm bất nhị, nơi chúng sanh tạp nhiễm ta khởi tâm làm cho họ thanh tịnh, nơi chúng sanh tà đạo ta khởi tâm làm cho họ sanh chánh hạnh, nơi chúng sanh hiểu biết kém ta khởi tâm làm cho họ được trí sáng suốt, nơi chúng sanh mến sanh tử ta khởi tâm làm cho họ bỏ luân chuyển, nơi chúng sanh an trụ Nhị thừa ta khởi tâm làm cho họ tu Nhứt thiết trí.

Giảng: Thiện nam tử! Ta đối với chúng sinh ác huệ không giữ quy cụ, tà tri tà kiến, thì khởi tâm đại từ. Đối với chúng sinh tạo nhiều nghiệp bất thiện, chẳng có nghiệp thiện, thì ta khởi tâm đại từ đại bi. Do đó: “Từ hay ban vui, bi hay cứu khổ”. Đối với chúng sinh làm nghiệp thiện, thì ta khởi tâm hoan hỉ. Đối với chúng sinh thiện ác hai hạnh xen tạp, thì ta chỉ nhớ nghiệp thiện, quên đi nghiệp ác, chẳng khởi tâm phân biệt hai thứ. Đối với chúng sinh tạp nhiễm chẳng thanh tịnh, thì ta khiến cho họ sinh tâm thanh tịnh. Đối với chúng sinh tà tri tà kiến bàng môn ngoại đạo, thì ta khiến cho họ sinh tâm chánh hạnh. Đối với chúng sinh hiểu biết thấp kém, thì ta khiến cho họ được hiểu biết rộng lớn, để minh bạch đạo lý chân chánh. Đối với chúng sinh thích sinh tử, thì ta khiến cho họ bỏ luân chuyển trong sáu đường. Đối với chúng sinh trụ đạo Thanh Văn Duyên Giác hai thừa, thì ta khiến cho họ trụ tâm nhất thiết trí, mà tu đại thừa Bồ Tát đạo.

 

Thiện nam tử! ngã dĩ đắc thử giải thoát cố, thường dữ như thị tâm cộng tướng ứng.

Này thiện nam tử ! Vì ta được môn giải thoát này nên thường tương ứng với những tâm như vậy.

Giảng: Thiện nam tử! Ta nhờ đắc được môn giải thoát Pháp quang minh tạng phá si ám của tất cả chúng sinh nầy, mà ta thường cùng với tâm tương ưng như vậy.

 

Thiện nam tử! ngã ư dạ ám nhân tĩnh, quỷ, Thần, đạo tặc, chư ác chúng sanh sở du hành thời, mật vân trọng vụ, ác phong bạo vũ, nhật nguyệt tinh tú tịnh giai hôn tế bất kiến sắc thời, kiến chư chúng sanh, nhược nhập ư hải, nhược hành ư lục, sơn lâm, khoáng dã, chư hiểm nan xứ, hoặc tao đạo tặc, hoặc phạp tư lương, hoặc mê hoặc phương ngung, hoặc vong thất đạo lộ, hoặc hoàng ưu bố bất năng tự xuất; ngã thời tức dĩ chủng chủng phương tiện nhi cứu tế chi.

Này thiện nam tử ! Ðêm tối yên lặng, lúc quỷ thần, trộm cướp, các ác chúng sanh du hành, lúc mây kính sương dầy gió to mưa lớn nhựt nguyệt tinh tú đều tối tâm, thấy có các chúng sanh hoặc vào biển, hoặc đi trong lục địa, nơi núi rừng hoang vu, những chỗ hiểm nạn, hoặc gặp trộm cướp, hoặc thiếu lương thực, hoặc lạc đường kinh hải lo buồn không thể thoát được. Ta liền dùng nhiều phương tiện để cứu giúp họ.

Giảng: Thiện nam tử! Mỗi đêm khi lúc trời tối yên tĩnh, quỷ thần trộm cướp, các chúng sinh ác đi du hành, lúc mây nhiều sương dày, gió bão mưa lớn, mặt trời mặt trăng tinh tú, đều bị che khuất hết, chẳng thấy gì nữa. Ta thấy các chúng sinh, hoặc vào trong biển, hoặc đi trên đất, núi rừng hoang vắng các nơi hiểm nạn, hoặc gặp trộm cướp, hoặc thiếu lương thực, hoặc mê mất phương hướng, hoặc quên mất đường về, hoảng hốt sợ hãi, không thể tự thoát được, thì ta liền dùng đủ thứ phương tiện để cứu giúp họ.

 

Vi hải nan giả, thị tác thuyền sư, ngư Vương, mã Vương, quy Vương, Tượng Vương, A-tu-la Vương cập dĩ hải Thần; vi bỉ chúng sanh, chỉ ác phong vũ, tức Đại ba lãng, dẫn kỳ đạo lộ, thị kỳ châu ngạn, lệnh miễn bố úy, tất đắc an ổn. Phục tác thị niệm: dĩ thử thiện căn, hồi thí chúng sanh, nguyện lệnh xả ly nhất thiết chư khổ.

Vì chúng sanh bị nạn nơi biển mà hiện làm lái thuyền, làm Ngư vương, Mã vương, Quy vương, Tượng vương, A Tu La vương, Hải thần, vì họ mà ngăn mưa gió, dứt sóng mòi, dắt đường chỉ bờ cho họ thoát nạn. Nguyện đem thiện căn này ban cho tất cả chúng sanh đều được khỏi khổ.

Giảng: Vì những người gặp nạn trên biển, thì ta liền vì họ hiện làm người lái thuyền, làm vua cá, vua ngựa, vua rùa, vua voi, vua A tu la và Thần Biển. Vì những chúng sinh đó ngăn gió ác mưa lớn, ngừng sóng to, mà dẫn đường cho họ, chỉ bờ cho họ, khiến cho họ khỏi sợ hãi, đều được an ổn. Ta lại nghĩ như vầy: “Nguyện đem căn lành nầy, hồi hướng cho chúng sinh, khiến cho họ xả lìa tất cả các khổ, mà được an lạc”.

Lúc trước ở Hương Cảng, có người rớt xuống biển, được con rùa lớn cõng đưa vào bờ, cứu sống một sinh mạng. Đó là Bồ Tát thị hiện đủ thứ hình dáng để cứu độ chúng sinh, nhưng người vẫn không biết đó thôi!

 

Vi tại lục địa nhất thiết chúng sanh ư dạ ám trung tao khủng bố giả, hiện tác nhật nguyệt cập chư tinh tú, Thần hà, tịch điện chủng chủng quang minh, hoặc tác ốc trạch, hoặc vi nhân chúng, lệnh kỳ đắc miễn khủng bố chi ách. Phục tác thị niệm: dĩ thử thiện căn, hồi thí chúng sanh, tất lệnh trừ diệt chư phiền não ám. Nhất thiết chúng sanh, hữu tích thọ mạng, hữu ái danh văn, hữu tham tài bảo, hữu trọng quan vị, hữu trước nam nữ, hữu luyến thê thiếp, vị xưng sở cầu, đa sanh ưu bố; ngã giai cứu tế, lệnh kỳ ly khổ.

Vì chúng sanh đi trong lục địa, đêm tối bị nạn mà hiện mặt nhựt, mặt nguyệt, tinh tú, ráng ban mai, chớp đêm tối, cho họ thấy ánh sáng, nhẫn đến hiện làm nhơn chúng nhà cửa, cho họ được khỏi nạn khủng bố. Nguyện đem thiện căn này ban cho tất cả chúng sanh thoát khỏi màn tối phiền não. Những chúng sanh tiếc thân mạng, chuộng danh tiếng, ham của báu, trọng quyền tước, đắm nam nữ, luyến thê thiếp, mà chưa toại theo sở cầu phải lo sợ, thời ta đều cứu giúp cho họ khỏi khổ.

Giảng: Vị Dạ Thần Bà San Bà Diễn Để lại nói: “Vì tất cả chúng sinh ở trên đất, trong đêm tối gặp sợ hãi, thì ta hiện làm mặt trời, mặt trăng và các tinh tú, đủ thứ ánh sáng, soi sáng sớm tối. Hoặc hiện làm nhà cửa, khiến cho chúng sinh được an ổn. Hoặc thị hiện ra rất nhiều người, khiến cho chúng sinh khỏi nạn sợ hãi. Ta nguyện đem căn lành nầy hồi hướng cho tất cả chúng sinh, đều khiến cho họ trừ diệt được các tối phiền não”.

Tất cả chúng sinh thương tiếc mạng sống, hoặc thích danh vọng, hoặc tham tiền tài, hoặc coi trọng chức quan, hoặc chấp trước nam nữ, hoặc luyến ái thê thiếp, buông bỏ tình ái chẳng được. Họ chưa thoả lòng mong cầu, sinh nhiều lo sợ, thì ta đều cứu giúp họ, khiến cho họ lìa khỏi tất cả khổ não.

 

Vi hành sơn hiểm nhi lưu nan giả, vi tác thiện thần, hiện hình thân cận; vi tác hảo điểu, phát âm úy duyệt; vi tác linh dược, thư quang chiếu diệu; thị kỳ quả thọ, thị kỳ tuyền tỉnh, thị chánh trực đạo, thị bình thản địa, lệnh kỳ miễn ly nhất thiết ưu ách.

Vì người đi trên núi hiễm mà bị nạn, thời ta làm thiện thần hiện hình thân cận, hoặc hiện làm chim đẹp kêu hót cho họ được vui, hoặc hiện làm linh dược soi sáng cho họ thấy cây trái, chỉ cho họ suối ngọt, chỉ cho họ đường sá bằng phẳng để họ thoát ách nạn.

Giảng: Ta lại vì người đi vào núi nguy hiểm mà gặp nạn, thì ta làm thiện thần, hiện thân gần gũi. Hoặc hiện làm chim đẹp, hót tiếng hay, để làm cho họ vui. Hoặc làm thuốc hay, ánh sáng chiếu soi họ, chỉ chỗ có trái cây, chỉ chỗ có giếng nước và suối nước, khiến cho họ được uống nước mà hết khát. Lại chỉ cho họ con đường chánh, chỉ chỗ đất bằng phẳng, khiến cho họ lìa khỏi các hoạn nạn.

 

Vi hành khoáng dã, trù lâm, hiểm đạo, đằng La sở quyển, vân vụ sở ám nhi khủng bố giả, thị kỳ chánh đạo, lệnh đắc xuất ly. Tác thị niệm ngôn: nguyện nhất thiết chúng sanh, phạt kiến trù lâm, tiệt ái la võng, xuất sanh tử dã, diệt phiền não ám, nhập nhất thiết trí bình thản chánh đạo, đáo vô úy xứ tất cánh an lạc.

Vì người bị nạn nơi đồng hoang rừng rậm mà hiện ra chỉ đường cho họ. Nguyện tất cả chúng sanh đốn rừng rậm kiến chấp, chặt lưới tham ái thoát đồng sanh tử, diệt tối phiền não, vào đường bằng thẳng Nhứt thiết trí, đến chỗ vô uý rốt ráo an lạc.

Giảng: Ta lại vì người đi nơi đường hiểm hoang dã, rừng rậm quấn quít ngăn trở, mây dày đen tối mà sợ hãi, thì ta chỉ cho họ con đường chánh, khiến cho họ được thoát khỏi. Sau đó ta bèn nghĩ như vầy: “Nguyện tất cả chúng sinh đốn ngã rừng rậm tà kiến, chặt đứt lưới tham ái, ra khỏi đồng hoang sinh tử, diệt trừ phiền não đen tối, đi vào con đường chánh bằng phẳng nhất thiết trí, đạt đến nơi rốt ráo an lạc không sợ hãi”.

Đoạn nầy miêu tả rất nhiều giai đoạn khác nhau, cũng ẩn thị đủ thứ cảnh giới của đất tâm. Rừng rậm hoang vắng trong đất tâm, mây đen tối dày đặc là đầy dẫy tà ác gian xảo, khiến cho chúng sinh chẳng có chỗ nương tựa, mà mất đi con đường chánh giác. Đây cũng là đủ thứ cảnh giới pháp môn trong đất tâm và nhiệm vụ Bồ Tát cứu độ chúng sinh.

 

Thiện nam tử! nhược hữu chúng sanh, lạc trước quốc độ nhi ưu khổ giả; ngã dĩ phương tiện, lệnh sanh yếm ly. Tác thị niệm ngôn: nguyện nhất thiết chúng sanh bất trước chư uẩn, trụ nhất thiết Phật Tát bà nhã cảnh.

Thiện nam tử! Nếu có chúng sinh, ưa chấp cõi nước mà sầu khổ, thì ta dùng phương tiện, khiến cho họ sinh nhàm lìa. Bèn nghĩ như vầy: Nguyện cho tất cả chúng sinh, đừng chấp trước các uẩn, trụ cảnh giới Tát Bà Nhạ của tất cả chư Phật.

Giảng: Thiện nam tử! Nếu có chúng sinh, ưa chấp cõi nước mà sinh ra sầu lo khổ não, thì ta dùng pháp môn phương tiện, khiến cho họ sinh tâm nhàm lìa. Sau đó ta bèn nghĩ như vầy: “Nguyện cho tất cả chúng sinh, đừng chấp trước các uẩn sắc thọ tưởng hành thức, mà an trụ nơi cảnh giới Tát Bà Nhạ của tất cả chư Phật”.

 

Thiện nam tử! nhược hữu chúng sanh, lạc trước tụ lạc, tham ái trạch xá, thường xứ hắc ám, thọ chư khổ giả; ngã vi thuyết Pháp, lệnh sanh yếm ly, lệnh Pháp mãn túc, lệnh y pháp trụ. Tác thị niệm ngôn: nguyện nhất thiết chúng sanh, tất bất tham lạc lục xứ tụ lạc, tốc đắc xuất ly sanh tử cảnh giới, cứu cánh an trụ nhất thiết trí thành.

Thiện nam tử! Nếu có chúng sinh, ưa chấp tụ lạc, tham ái nhà cửa, thường ở chỗ đen tối, thọ các khổ, thì ta vì họ thuyết pháp, khiến cho họ sinh nhàm lìa, khiến cho được pháp đầy đủ, khiến cho họ nương pháp mà trụ. Bèn nghĩ như vầy: Nguyện cho tất cả chúng sinh, đều không tham ưa tụ lạc sáu nơi, sớm được thoát khỏi cảnh giới sinh tử, rốt ráo an trụ thành nhất thiết trí

Giảng: Thiện nam tử! Nếu có chúng sinh, ưa chấp vào tụ lạc, tham ái nhà cửa phòng ốc, không được toại tâm mãn nguyện, thường ở chỗ đen tối, thọ các đau khổ, thì ta vì họ thuyết tất cả pháp vô thường, khiến cho họ sinh tâm nhàm lìa hoàn cảnh, khiến cho được pháp đầy đủ, khiến cho họ nương pháp mà trụ. Sau đó ta bèn nghĩ như vầy: “Nguyện cho tất cả chúng sinh, đều không tham ưa tụ lạc sáu nơi (Sắc thanh hương vị xúc pháp), sớm được thoát khỏi cảnh giới sinh tử, rốt ráo an trụ thành nhất thiết trí, tức là thành Niết Bàn không sinh không diệt”.

 

Thiện nam tử! nhược hữu chúng sanh hành ám dạ trung, mê hoặc thập phương, ư bình thản lộ sanh hiểm nan tưởng, ư hiểm nan đạo khởi bình thản tưởng, dĩ cao vi hạ, dĩ hạ vi cao, kỳ tâm mê hoặc, sanh đại khổ não. ngã dĩ phương tiện thư quang chiếu cập, nhược dục xuất giả, thị kỳ môn hộ; nhược dục hành giả, thị kỳ đạo lộ; dục độ câu hức, thị kỳ kiều lương; dục thiệp hà hải, dữ kỳ thuyền phiệt; lạc quán phương giả, thị kỳ hiểm dịch an nguy chi xứ; dục hưu tức giả, thị kỳ thành ấp, thủy, thọ chi sở.

Này thiện nam tử ! Nếu có chúng sanh đi đêm tối quên mất phương hướng, lạc đường lo sợ. Ta dùng phương tiện soi sáng cho họ. Nếu là người muốn ra khỏi, thời ta chỉ cửa nẻo, người muốn đi thì ta chỉ đường sá, người muốn qua sông thời ta chỉ cầu đò, người muốn đi sông biển thời ta cho thuyền bè, người thích xem phương hướng thời ta chỉ cho họ chỗ an nguy hiễm dễ, người muốn nghỉ ngơi thì ta chỉ cho họ thành ấp cội cây.

Giảng: Thiện nam tử! Nếu có chúng sinh, đi trong đêm tối, mê hoặc mười phương. Nơi đường bằng phẳng, thì nghĩ tưởng hiểm nạn khó khăn. Nơi đường hiểm nạn, thì nghĩ tưởng bằng phẳng. Lấy cao làm thấp, lấy thấp làm cao. Tâm họ mê loạn nghi hoặc, sinh đại khổ não. Lúc đó, ta dùng pháp môn phương tiện, ánh sáng chiếu soi đến họ. Nếu người muốn thoát khỏi ba cõi, thì ta chỉ cửa nẻo cho họ. Nếu người muốn đi, thì ta chỉ đường cho họ đi. Muốn qua sông thì ta chỉ cây cầu cho họ. Muốn qua sông biển, thì ta cho họ thuyền bè. Người thích xem phương hướng, thì ta chỉ cho họ chỗ khỏi an nguy. Người muốn nghỉ ngơi, thì ta chỉ cho họ chỗ thành ấp có nước, có cây.

 

Tác thị niệm ngôn: như ngã ư thử chiếu trừ dạ ám, lệnh chư thế sự tất đắc tuyên tự; nguyện ngã phổ ư nhất thiết chúng sanh sanh tử trường dạ, vô minh ám xứ, dĩ trí tuệ quang phổ giai chiếu liễu.

Ta nghĩ rằng: Như ở tại đây ta trừ đêm tối làm cho những thế sự đều được thứ tự hiển bài. Nguyện ta dùng ánh sáng trí huệ soi rõ khắp những chỗ tối tăm vô minh, đêm dài sanh tử.

Giảng: Sau đó ta bèn nghĩ như vầy: “Như ta chiếu trừ đêm tối nơi đây, khiến cho các việc thế gian, đều được tuyên dương rõ ràng. Ta nguyện dùng ánh sáng trí huệ, đều chiếu soi khắp tất cả chúng sinh ở trong đêm dài đen tối vô minh”.

Do đó có thể biết, Bồ Tát vận dụng đủ thứ phương tiện giáo hoá chúng sinh, các Ngài thường hoá thân làm mặt trời, mặt trăng, tinh tú, núi biển sông hồ, cầu đường, nhà cửa, cây cối, hoa quả, tùng lâm, hoặc động vật khác nhau, mục đích đều muốn khiến cho chúng sinh được an lạc.

 

Thị chư chúng sanh vô hữu trí nhãn, tưởng tâm kiến đảo chi sở phước ế, vô thường thường tưởng, vô lạc lạc tưởng, vô ngã ngã tưởng, bất tịnh tịnh tưởng, kiên cố chấp trước ngã nhân chúng sanh, uẩn giới xứ Pháp, mê hoặc nhân quả, bất thức thiện ác, sát hại chúng sanh, nãi chí tà kiến, bất hiếu phụ mẫu, bất kính Sa Môn cập Bà-la-môn, bất tri ác nhân, bất thức thiện nhân, tham trước ác sự, an trụ tà pháp, hủy báng Như Lai, hoại chánh Pháp luân, ư chư Bồ-tát 呰nhục thương hại, khinh Đại thừa đạo, đoạn Bồ-đề tâm, ư hữu ân nhân phản gia sát hại, ư vô ân xứ thường hoài oán kết, hủy báng hiền thánh, thân cận ác bạn, đạo tháp tự vật, tác ngũ nghịch tội, bất cửu đương đọa tam ác đạo xứ. Nguyện ngã tốc dĩ Đại trí quang minh, phá bỉ chúng sanh vô minh hắc ám, lệnh kỳ tật phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm.

Những chúng sanh không có trí nhãn bị che đậy bởi tâm tưởng kiến chấp điên đảo: vô thường tưởng là thường, vô lạc tưởng là lạc, vô ngã tưởng là ngã, bất tịnh tưởng là tịnh, chấp chặt những ngã, nhơn, chúng sanh, uẩn, xứ, giới, mê lầm nhơn quả, chẳng biết thiện ác, sát hại chúng sanh nhẫn đến tà kiến, chẳng hiếu với cha mẹ, chẳng kính Sa Môn, Bà la môn, chẳng biết người ác người lành, ham ác sự, trụ pháp tà, hủy báng Như Lai, phá hoại chánh pháp, sỉ nhục thương hại chư Bồ Tát, khinh đạo Ðại thừa, dứt tâm Bồ đề, hại người ơn, oán kẻ thù, khinh rẻ Hiền Thánh, gần gũi bạn ác, trộm vật của chùa tháp, làm tội ngũ ngịch, chẳng bao lâu sẽ bị đọa ba ác đạo. Nguyện tôi mau dùng ánh sáng đại trí phá màn tối vô minh của những chúng sanh đó, khiến họ mau phát tâm Vô thượng Bồ đề.

Giảng: Tất cả chúng sinh đó, không có con mắt trí huệ, bị màng vọng tưởng tà tri tà kiến điên đảo che phủ. Họ tưởng vô thường cho là thường, không vui cho là vui, vô ngã cho là ngã, bất tịnh cho là tịnh. Bốn đức Niết Bàn là thường lạc ngã tịnh, nhưng chúng sinh điên đảo thị phi, chẳng rõ sự lý. Họ kiên cố chấp trước vào bốn tướng: Ta, người, chúng sinh, thọ mạng, và năm uẩn (Sắc thọ tưởng hành thức), 18 giới (Mắt tai mũi lưỡi thân ý, sắc thanh hương vị xúc pháp, ở giữa sinh ra nhãn thức, nhĩ thức, tĩ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức), 12 xứ (Mắt tai mũi lưỡi thân ý, sắc thanh hương vị xúc pháp).

Họ mê hoặc nhân quả, chẳng biết thiện ác, vì lợi ích của chính mình, mà giết hại chúng sinh khác. Tệ hại nhất là hoan hỉ tà tri tà kiến, bất hiếu với cha mẹ, chẳng kính bậc Sa Môn và Bà La Môn tu hạnh thanh tịnh. Họ chẳng biết người ác, chẳng biết người thiện. Tham ái chấp trước việc ác, suốt ngày đến tối ăn uống chơi bời. An trụ pháp tà, huỷ báng Phật, phá hoại bánh xe chánh pháp. Họ sỉ nhục mắng chửi thương hại các Bồ Tát, khinh đại thừa Phật đạo, dứt tâm bồ đề. Đối với người có ơn, ngược lại thêm lòng giết hại, thế giới nầy đầy dẫy những người nầy. Đối với người vô ơn, trong tâm thường mang lòng cừa oán kết thù. Họ huỷ báng bậc Hiền Thánh, gần gũi bạn ác. Trộm cắp vật dụng của chùa tháp, làm tội ngũ nghịch (giết cha, giết mẹ, giết A la hán, phá hoà hợp Tăng, làm thân Phật chảy máu), chẳng bao lâu sẽ đoạ vào ba đường ác (địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh).

Tôi nguyện sớm dùng đại trí quang minh, để phá tan vô minh đen tối của các chúng sinh đó, khiến cho họ mau phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

 

Ký phát tâm dĩ, thị Phổ Hiền thừa, khai thập lực đạo, diệc thị Như Lai pháp vương cảnh giới, diệc thị chư Phật nhất thiết trí thành, chư Phật sở hạnh, chư Phật tự tại, chư Phật thành tựu, chư Phật tổng trì, nhất thiết chư Phật cộng đồng nhất thân, nhất thiết chư Phật bình đẳng chi xứ, lệnh kỳ an trụ.

Họ đã phát tâm, tôi liền chỉ hạnh Phổ Hiền, mở đường thập lực, chỉ cảnh giới Như Lai pháp vương, cũng hiển thị thành trì nhất thiết trí của chư Phật. Chư Phật thật hành, chư Phật tự tại, chư Phật thành tựu, chư Phật tổng trì, tất cả chư Phật chung đồng một thân, tất cả chư Phật bình đẳng một chỗ, đều làm cho họ được an trụ.

Giảng: Khi phát tâm rồi, ta sẽ chỉ bày thừa Phổ Hiền, mở đạo Thập lực, cũng chỉ bày cho họ cảnh giới của Như Lai Pháp Vương, đồng thời cũng chỉ bày thành nhất thiết trí của chư Phật, hạnh tu của chư Phật, tự tại của chư Phật, thành tựu của chư Phật, tổng trì của chư Phật, cùng đồng một thân của tất cả chư Phật mười phương ba đời, nơi bình đẳng của tất cả chư Phật, khiến cho họ an trụ ở trong đó.

Đoạn nầy, vị Dạ Thần tường thuật lại bệnh phiền não của chúng sinh, sau đó phát nguyện muốn giúp đỡ họ diệt trừ tà tri tà kiến, khiến cho họ sớm đến được nơi an lạc rốt ráo.

 

Thiện nam tử! nhất thiết chúng sanh, hoặc bệnh sở triền, hoặc lão sở xâm, hoặc khổ bần cùng, hoặc tao họa nan, hoặc phạm vương pháp, lâm đương thọ hình, vô sở y hỗ, sanh Đại bố úy; ngã giai cứu tế, sử đắc an ổn.

Này thiện nam tử ! tất cả chúng sanh hoặc bị bịnh y buộc ràng, hoặc bị già xâm lấn, hoặc khổ vì nghèo cùng, hoặc gặp hoạn nạn, hoặc phạm pháp vua bị gia hình, ta đều cứu giúp cho họ được an ổn.

Giảng: Thiện nam tử! Tất cả chúng sinh, hoặc bị bệnh trói buộc, hoặc bị già xâm lấn, hoặc bị khổ bần cùng, hoặc gặp thiên tai nhân hoạ, đủ thứ các tai nạn, hoặc phạm vương pháp, bị bắt giam sẽ phải thọ hình phạt, không chỗ nương tựa, sinh lòng sợ hãi, thì ta đều cứu giúp họ, khiến cho họ được an ổn.

 

Phục tác thị niệm: nguyện ngã dĩ pháp phổ nhiếp chúng sanh, lệnh kỳ giải thoát nhất thiết phiền não, sanh lão bệnh tử, ưu bi khổ hoạn, cận thiện tri thức, thường hành pháp thí, cần hành thiện nghiệp, tốc đắc Như Lai thanh tịnh Pháp thân, trụ ư cứu cánh vô biến dịch xứ.

Ta lại nghĩ rằng: Nguyện dùng chánh pháp nhiếp khắp chúng sanh cho họ giải thoát tất cả phiền não, sanh gìa bệnh chết, ưu bi khổ hoạn. Thường được gần thiện tri thức, thật hành pháp thí, siêng tu hạnh lành, mau được pháp thân thanh tịnh của Như Lai, an trụ nơi rốt ráo không biến đổi.

Giảng: Sau đó ta lại nghĩ như vầy: “Ta nguyện dùng Phật pháp nhiếp thọ khắp tất cả chúng sinh, khiến cho họ giải thoát tất cả phiền não, sinh già bệnh chết, lo sầu khổ hoạn. Khiến cho họ gần gũi thiện tri thức, thường tu hành pháp bố thí. Siêng tu nghiệp lành, mau đắc được pháp thân thanh tịnh của Như Lai, mà trụ nơi rốt ráo không biến đổi, tức là thành Niết Bàn”.

 

Thiện nam tử! nhất thiết chúng sanh nhập kiến trù lâm, trụ ư tà đạo, ư chư cảnh giới khởi tà phân biệt, thường hành bất thiện thân, ngữ, ý nghiệp, vọng tác chủng chủng chư tà khổ hạnh, ư phi chánh giác sanh chánh giác tưởng, ư chánh giác sở phi chánh giác tưởng, vi ác tri thức chi sở nhiếp thọ, dĩ khởi ác kiến, tướng đọa ác đạo; ngã dĩ chủng chủng chư phương tiện môn nhi vi cứu hộ, lệnh trụ chánh kiến, sanh nhân thiên trung.

Này thiện nam tử ! Tất cả chúng sanh vào rừng kiến chấp, trụ nơi đạo tà, nơi các cảnh giới khởi tà phân biệt, thân khẩu ý thường làm sự bất thiện, vọng làm những sự khổ hạnh. Nơi chẳng phải chánh giác tưởng là chánh giác. Nơi chánh giác tưởng là chẳng phải chánh giác. Bị ác tri thức nhiếp thọ. Do họ khởi ác kiến sắp đọa ác đạo, ta dùng nhiều môn phương tiện cứu hộ họ, cho họ an trụ nơi chánh kiến sanh trong Nhơn Thiên.

Giảng: Thiện nam tử! Tất cả chúng sinh, vào rừng rậm tà kiến, trụ nơi tà đạo. Nơi các cảnh giới khởi tà kiến phân biệt, thường tạo nghiệp thân miệng ý bất thiện. Vọng tưởng làm đủ thứ các khổ hạnh tà kiến: Chẳng chánh giác mà sinh tưởng chánh giác. Chánh giác mà sinh tưởng chẳng chánh giác. Bởi vì họ do ác tri thức nhiếp thọ khống chế, nên sinh khởi kiến giải tà ác, tương lai sẽ đoạ vào ba đường ác. Ta bèn dùng đủ thứ pháp môn phương tiện để cứu hộ họ, khiến cho họ trụ nơi chánh tri chánh kiến, được sinh trong trời người.

 

Phục tác thị niệm: như ngã cứu thử tướng trụy ác đạo chư chúng sanh đẳng, nguyện ngã phổ Cứu nhất thiết chúng sanh, tất lệnh giải thoát nhất thiết chư khổ, trụ Ba-la-mật xuất thế Thánh đạo, ư nhất thiết trí đắc Bất-thoái-chuyển, cụ Phổ Hiền nguyện, cận nhất thiết trí, nhi bất xả ly chư Bồ-tát hạnh, thường cần giáo hóa nhất thiết chúng sanh

Lại tự nghĩ rằng: Như ta cứu những chúng sanh sắp đọa ác đạo, nguyện ta cứu tất cả chúng sanh, đều làm cho họ giải thoát tất cả khổ, an trụ nơi Ba la mật Thánh đạo xuất thế. Nguyện ta được chẳng thối chuyển nơi nhất thiết trí, đủ nguyện Phổ Hiền, gần Nhứt thiết trí, chẳng rời bỏ hạnh Bồ Tát, thường siêng giáo hóa tất cả chúng sanh.

Giảng: Sau đó ta lại nghĩ như vầy: “Như ta cứu các chúng sinh đó sắp bị đọa vào đường ác, ta nguyện cũng cứu khắp tất cả chúng sinh, đều khiến cho họ được giải thoát tất cả các khổ ách, trụ nơi Ba La Mật, đạo xuất thế của bậc Thánh. Được không thối chuyển nơi nhất thiết trí, đầy đủ nguyện Phổ Hiền, gần nhất thiết trí, mà chẳng xả lìa các Bồ Tát hạnh, thường siêng giáo hoá tất cả chúng sinh”.

 

Nhĩ thời, Bà san bà diễn để chủ dạ thần, dục trọng tuyên thử giải thoát nghĩa, thừa Phật thần lực, quan sát thập phương, vi Thiện tài đồng tử nhi thuyết tụng ngôn:

Bấy giờ Bà San Bà Diễn Ðể Chủ Dạ Thần muốn tuyên lại nghĩa giải thoát này, thừa thần lực của Phật, quán sát mười phương, vì Thiện Tài đồng tử mà nói kệ rằng:

Giảng: Lúc đó, vị Chủ Dạ Thần Bà San Bà Diễn Để muốn thuật lại nghĩa lý của giải thoát nầy, bèn nương đại oai thần lực của mười phương chư Phật, quán sát căn tánh của chúng sinh mười phương, sau đó vì Thiện Tài đồng tử mà nói kệ dưới đây:

 

Ngã thử giải thoát môn Môn giải thoát của ta
Sanh tịnh pháp quang minh Sanh tịnh pháp quang minh
Năng phá ngu si ám Phá được tối ngu si
Đãi thời nhi diễn thuyết. Chờ thời mà diễn thuyết.

“Môn giải thoát của ta đây, hay sinh ra pháp quang minh thanh tịnh, hay phá trừ ngu si đen tối, tất phải đợi đúng thời mới diễn nói”.

Con người phải có chánh tri chánh kiến, nhưng không thể bới lông tìm vết. Trong Tâm Kinh có nói: “Vô trí diệc vô đắc”. Tức là không trí cũng không đắc, lại làm thế nào mà đắc được môn giải thoát nầy? Nếu bạn nói như vậy, thì tức là không tin hết thảy Phật pháp. Trong Tâm Kinh nói như thế, đó là giảng về Bát Nhã, ở đây là giảng về cảnh giới tu Bồ Tát đạo chứng đắc được. Trong Tâm Kinh là không trí cũng không đắc, ở đây không thể giải thích như thế. Bạn không thể đem hai bộ Kinh nầy ra luận bàn, sẽ sinh ra sự hoài nghi, không tin.

 

Ngã tích vô biên kiếp Ta từ vô biên kiếp
Cần hành quảng đại từ Siêng tu đại từ tâm
Phổ phước chư thế gian Che chở khắp thế gian
Phật tử ưng tu học. Phật tử nên tu học.

Thuở xưa ta ở trong vô biên đại kiếp, lúc nào cũng siêng năng tu hành tâm từ bi rộng lớn. Che khắp tất cả chúng sinh thế gian, khiến cho họ đều được pháp ích của ta. Phật tử! Ngươi cũng nên tu hành pháp môn nầy.

 

Tịch tĩnh đại bi hải Biển đại bi tịch tịnh
Xuất sanh tam thế Phật Xuất sanh tam thế Phật
Năng diệt chúng sanh khổ Hay diệt khổ chúng sanh
Nhữ ưng nhập thử môn. Ngươi nên nhập môn này.

Biển nguyện lực đại bi tịch tĩnh đó, hay sinh ra tất cả chư Phật ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai. Ngươi có tâm đại từ nầy, thì có thể tu hành Bồ Tát đạo, học Bồ Tát hạnh, sẽ diệt được khổ của chúng sinh. Ngươi nên vào tu học hạnh môn đại bi nầy.

 

Năng sanh thế gian lạc Hay sanh thế gian vui
Diệc sanh xuất thế lạc Cũng sanh vui xuất thế
Lệnh ngã tâm hoan hỉ, Khiến lòng ta hoan hỷ
Nhữ ưng nhập thử môn. Ngươi nên nhập môn này.

Môn giải thoát đại bi nầy hay sinh tất cả vui của thế gian, cũng sinh ra vui của xuất thế gian, thường khiến cho tâm ta cảm thấy hoan hỉ, ngươi cũng nên vào tu học pháp môn nầy.

 

Ký xả hữu vi hoạn Ðã bỏ họa hữu vi
Diệc viễn Thanh văn quả Cũng xa Thanh Văn quả
Tịnh tu chư Phật lực Tịnh tu chư Phật lực
Nhữ ưng nhập thử môn. Ngươi nên nhập môn này.

Ngươi hãy xả bỏ hết lo sầu hoạn nạn hữu vi, cũng xa lìa quả vị Thanh Văn thừa, thanh tịnh tu hành mười lực của chư Phật, ngươi nên vào môn đại bi nầy.

 

Ngã mục thậm thanh tịnh Mắt ta rất thanh tịnh
Phổ kiến thập phương sát Thấy khắp mười phương cõi
Diệc kiến kỳ trung Phật Cũng thấy Phật trong đó
Bồ-đề thụ hạ tọa Ngồi dưới cây Bồ đề.

Mắt của ta rất thanh tịnh, có thể nhìn thấy khắp mười phương cõi nước chư Phật, cũng thấy chư Phật ở trong đó, đang ngồi dưới cội bồ đề ban đầu thành Chánh Giác, chuyển bánh xe pháp, để giáo hoá chúng sinh.

 

Tướng hảo trang nghiêm thân Thân tướng tốt trang nghiêm
Vô lượng chúng vi nhiễu Vô lượng chúng câu hội
Nhất nhất mao khổng nội Trong mỗi lỗ chân lông
Chủng chủng quang minh xuất Phóng ra nhiều tia sáng.

Các đức Phật đó đều đầy đủ 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, vạn đức trang nghiêm thân, có vô lượng đại chúng vây quanh Phật. Trong mỗi lỗ chân lông, có đủ thứ quang minh hiện ra.

 

Kiến chư quần sanh loại, Thấy những loài quần sanh
Tử thử nhi sanh bỉ Chết đây mà sanh kia
Luân-hồi ngũ thú trung Luân hồi trong năm loài
Thường thọ vô lượng khổ. Thường thọ vô lượng khổ.

Ta cũng thấy tất cả các loại quần sinh, chết ở đây mà sinh về kia, luân hồi trong cõi người, cõi A tu la, địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh năm cõi, thường thọ vô lượng khổ sinh tử.

 

Ngã nhĩ thậm thanh tịnh Tai ta rất thanh tịnh
Thính chi vô bất cập Nghe thấu đến mười phương
Nhất thiết ngữ ngôn hải Tất cả biển ngữ ngôn
Tất văn năng ức trì Ðều nghe hay ghi nhớ.

Lỗ tai của ta rất thanh tịnh, hết thảy âm thanh xa gần đều nghe được. Tất cả biển lời nói, ta đều hoàn toàn nghe nhớ thọ trì được, ta đã vào sâu tam muội lời nói.

 

Chư Phật chuyển pháp luân Chư Phật chuyển pháp luân
Kỳ thanh diệu vô bỉ, Tiến Phật diệu vô tỷ
Sở hữu chư văn tự Bao nhiêu những văn tự
Tất giai năng ức trì. Ðều có thể ghi nhớ.

Tất cả chư Phật chuyển bánh xe chánh pháp, âm thanh của các Ngài diệu không thể nghĩ bàn, chẳng gì sánh bằng. Hết thảy lời lẽ văn tự, ta đều nhớ trì nơi căn tai.

 

Ngã tỳ thậm thanh tịnh Mũi ta rất thanh tịnh
Ư Pháp vô sở ngại Nơi pháp không chướng ngại
Nhất thiết giai tự tại Tất cả đều tự tại
Nhữ ưng nhập thử môn. Ngươi nên nhập môn này.

Căn mũi của ta rất thanh tịnh, đối với tất cả pháp đều vô ngại, tất cả đều đắc được tự tại, ngươi nên vào pháp môn nầy.

 

Ngã thiệt thậm quảng đại Lưỡi ta rất rộng dài
Tịnh hảo năng ngôn thuyết Sạch tốt hay nói năng
Tùy ưng diễn diệu pháp Tùy nghi diễn diệu pháp
Nhữ ưng nhập thử môn Ngươi nên nhập môn này.

Căn lưỡi của ta rất rộng lớn, là lưỡi rộng dài (một trong ba mươi hai tướng tốt của Phật), rất thanh tịnh tốt đẹp, hay diễn nói thao thao bất tuyệt. Tuỳ thuận căn cơ của chúng sinh mà diễn nói diệu pháp, ngươi nên vào pháp môn nầy.

 

Ngã thân thậm thanh tịnh Thân ta rất thanh tịnh
Tam thế đẳng như như, Tam thế đồng như như
Tùy chư chúng sanh tâm Tùy tâm các chúng sanh
Nhất thiết tất giai hiện. Tất cả thảy đều hiện.

Thân ta rất thanh tịnh, với thanh tịnh diệu pháp thân không hai không khác, có thể đến khắp ba đời, quá khứ, hiện tại, vị lai, mà như như bất động. Tuỳ thuận tâm tất cả chúng sinh, mà khắp thị hiện ở trước họ.

 

Ngã tâm tịnh vô ngại Tâm ta tịnh vô ngại
Như không hàm vạn tượng Như không chứa muôn vật
Phổ niệm chư Như Lai Khắp nhớ tất cả Phật
Nhi diệc bất phân biệt. Mà cũng chẳng phân biệt.

Tâm ta thanh tịnh vô ngại, sáu căn thanh tịnh, với hư không là một, có thể bao hàm vạn hữu, ta có thể khắp niệm tất cả các Như Lai, mà cũng chẳng sinh tâm phân biệt.

 

Liễu tri vô lượng sát, Biết rõ vô lượng cõi
Nhất thiết chư tâm hải, Tất cả biển tâm tánh
Chư căn cập dục lạc Các căn và dục lạc
Nhi diệc bất phân biệt. Mà cũng chẳng phân biệt.

Ta biết rõ vô lượng cõi nước chư Phật, tất cả biển tâm chúng sinh, căn tánh chúng sinh và dục lạc, mà cũng chẳng phân biệt họ.

 

Ngã dĩ đại thần thông Ta dùng đại thần thông
Chấn động vô lượng sát, Chấn động vô lượng cõi
Kỳ thân tất biến vãng Thân mình đến khắp nơi
Điều bỉ nan điều chúng. Phục kia chúng khó phục

Chẳng những ta dùng đại thần thông, chấn động vô lượng cõi, khiến cho phát sinh sáu thứ chấn động, mà thân ta đồng thời cũng đều đến khắp những cõi nước đó, để điều phục những chúng sinh khó điều phục.

 

Ngã phước thậm quảng đại, Phước ta rất rộng lớn
Như không vô hữu tận, Như hư không vô tận
Cúng dường chư Như Lai, Cúng dường chư Như Lai
Nhiêu ích nhất thiết chúng. Lợi ích tất cả chúng.

Phước báo của ta rất rộng lớn, như hư không chẳng cùng tận. Ta cúng dường tất cả chư Phật, lợi ích tất cả chúng sinh.

 

Ngã trí quảng thanh tịnh Trí ta rộng thanh tịnh
Liễu tri chư pháp hải, Biết rõ biển các pháp
Trừ diệt chúng sanh hoặc, Trừ diệt chúng sanh mê
Nhữ ưng nhập thử môn. Ngươi nên nhập môn này.

Trí huệ của ta rộng lớn thanh tịnh, biết rõ biển tất cả các pháp, trừ diệt được nghi hoặc của chúng sinh, ngươi cũng nên vào pháp môn nầy.

 

Ngã tri tam thế Phật, Ta biết tam thế Phật
Cập dĩ nhất thiết pháp Và biết tất cả pháp
Diệc liễu bỉ phương tiện, Cũng biết phương tiện kia
Thử môn biến vô đẳng. Môn này khắp vô thượng.

Ta biết chư Phật ba đời, và tất cả các pháp, cũng hiểu rõ pháp môn phương tiện của chư Phật, pháp môn nầy trên hết khắp tất cả.

 

Nhất nhất trần trung kiến, Thấy trong mỗi vi trần
Tam thế nhất thiết sát, Tam thế tất cả cõi
Diệc kiến bỉ chư Phật, Cũng thấy chư Phật kia
Thử thị Phổ môn lực. Ðây là phổ môn lực.

Trong mỗi mỗi hạt bụi, ta thấy được tất cả cõi nước của chư Phật ba đời, cũng thấy được tất cả chư Phật mười phương ba đời. Đây là sức phổ môn ta chứng đuợc.

 

Thập phương sát trần nội, Trong thập phương sát trần
Tất kiến Lô-xá-na, Ðều thấy Lô Xá Na
Bồ-đề thụ hạ tọa Ngồi dưới cây Bồ đề
Thành đạo diễn diệu pháp. Thành đạo diễn diệu pháp

Ta ở trong bụi cõi mười phương chư Phật, đều thấy được pháp thân Phật Lô Xá Na, ngồi ở dưới cội bồ đề, ban đầu thành đạo, chuyển bánh xe pháp, diễn nói diệu pháp, giáo hoá chúng sinh.

 

Nhĩ thời, Thiện tài đồng tử bạch dạ Thần ngôn: nhữ phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm vi kỷ thời da? đắc thử giải thoát kỳ dĩ cửu như, nãi năng như thị nhiêu ích chúng sanh?

Thiện Tài thưa rằng: Ðức Thánh pháp tâm Vô thượng Bồ đề được bao lâu ? Ðược môn giải thoát này hồi nào mà có thề lợi ích chúng sanh như vậy ?

Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử bạch với Chủ Dạ Thần rằng: “Ngài đã phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề được bao lâu rồi? Ngài đắc được giải thoát nầy lúc nào? Mà có thể lợi ích tất cả chúng sinh như thế”?

 

Kỳ Thần đáp ngôn: Thiện nam tử! nãi vãng cổ thế, qua Như-Tu-Di-Sơn vi trần số kiếp, hữu kiếp danh: tịch tĩnh quang, thế giới danh: xuất sanh diệu bảo, hữu ngũ ức Phật ư trung xuất hiện.

Chủ Dạ Thần nói: Này thiện nam tử ! Thuở xưa quá Tu Di sơn vi trần số kiếp, có một kiếp tên là Tịch Tịnh Quang, thế giới tên Xuất Sanh Diệu Bửu, có năm ức Phật xuất hiện trong đó.

Giảng: Vị Chủ Dạ Thần đáp rằng: “Thiện nam tử! Vào đời quá khứ trải qua số kiếp nhiều như hạt bụi núi Tu Di, có một kiếp tên là Tịch Tĩnh Quang. Thế giới đó tên là Xuất Sinh Diệu Bảo. Trong kiếp đó, có năm ức vị Phật ra đời.

 

Bỉ thế giới trung hữu tứ thiên hạ, danh: Bảo nguyệt đăng quang, hữu thành, danh: Liên Hoa Quang, Vương danh: thiện pháp độ, dĩ pháp thí hóa, thành tựu thất bảo, Vương tứ thiên hạ. Vương hữu phu nhân, danh: Pháp Tuệ nguyệt, dạ cửu miên mị.

Giảng: Trong thế giới Xuất Sanh Diệu Bửu có tứ thiên hạ tên Bửu Nguyệt Ðăng Quang, có thành tên Liên Hoa Quang, vua hiệu Pháp Thiện Ðộ dùng pháp trị dân, đầy đủ thất bửu. Vua có phu nhơn tên là Pháp Huệ Nguyệt giữa đêm đang ngủ.

Trong thế giới đó, có bốn thiên hạ, tên là Bảo Nguyệt Đăng Quang. Có thành tên là Liên Hoa Quang. Trong thành đó, có ông vua tên là Thiện Pháp Độ, ông ta dùng Phật pháp bố thí giáo hoá chúng sinh, thành tựu bảy báu của kim luân vương (Bánh xe báu, voi báu, ngựa báu, châu báu, ngọc nữ báu, chủ tạng báu, chủ binh thần báu), mà xưng làm vua bốn thiên hạ. Vua có phu nhân, tên là Pháp Huệ Nguyệt. Tối hôm đó, nửa đêm đang ngủ.

 

Thời, bỉ thành Đông hữu nhất Đại lâm, danh vi: tịch trụ, lâm trung hữu nhất Đại bồ-đề thọ, danh: nhất thiết quang ma-ni Vương trang nghiêm thân xuất sanh nhất thiết Phật thần lực quang minh.

Thành Ðông có khu rừng lớn tên là Tịch Trụ, trong rừng có cây Bồ đề lớn tên là Nhứt Thiết Quang Ma Ni Vương Trang Nghiêm Thân thường xuất sanh thần lực quang minh của tất cả Phật.

Giảng: Lúc đó, ở hướng đông thành Liên Hoa Quang đó, có một khu rừng lớn, tên là Tịch Trụ. Trong rừng đó, có một cây đại bồ đề, tên là Nhất Thiết Quang Ma Ni Vương Trang Nghiêm Thân, sinh ra tất cả Phật thần lực quang minh.

 

Nhĩ thời, hữu Phật danh: nhất thiết pháp lôi âm Vương, ư thử thụ hạ thành đẳng chánh giác, phóng vô lượng sắc quảng đại quang minh, biến chiếu xuất sanh diệu bảo thế giới.

Giảng: Bấy giờ có đức Phật thành Ðẳng Chánh Giác dưới cây Bồ đề này hiệu là Nhứt Thiết Pháp Lôi Âm Vương, phóng quang minh rộng lớn vô lượng màu chiếu khắp thế giới Xuất Sanh Diệu Bửu.

Lúc đó, có vị Phật hiệu là Nhất Thiết Pháp Lôi Âm Vương, đang ở dưới cây bồ đề đó, thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, phóng ra vô lượng màu sắc quang minh rộng lớn, chiếu khắp thế giới Xuất Sinh Diệu Bảo.

 

Liên Hoa Quang thành nội hữu chủ dạ thần, danh vi: tịnh nguyệt, nghệ Vương phu nhân Pháp Tuệ nguyệt sở, động thân anh lạc dĩ giác phu nhân, nhi cáo chi ngôn: phu nhân đương tri, nhất thiết pháp lôi âm Vương Như Lai, ư tịch trụ lâm thành vô thượng giác, cập quảng vi thuyết chư Phật công đức tự tại thần lực, Phổ Hiền Bồ Tát sở hữu hạnh nguyện. Lệnh Vương phu nhân phát A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề ý, cúng dường bỉ Phật cập chư Bồ-tát, Thanh văn, tăng chúng.

Trong thành Liên Hoa Quang có Chủ Dạ Thần tên Tịnh Nguyệt đến cung, động chuỗi ngọc để đánh thức phu nhơn Pháp Huệ Nguyệt mà bảo rằng: Này phu nhơn ! Nơi rừng Tịch Trụ, đức Nhứt Thiết Pháp Lôi Âm Vương Như Lai thành Ðẳng Chánh Giác. Dạ Thần lại vì phu nhơn mà nói công đức thần lực tự tại của Phật, hạnh nguyện của Phổ Hiền Bồ Tát, cho phu nhơn phát tâm Vô thượng Bồ đề đến cúng dường Phật và chư Bồ Tát cùng chúng Thanh Văn.

Giảng: Trong thành Liên Hoa đó, có vị Chủ Dạ Thần, tên là Tịnh Nguyệt, đi đến chỗ phu nhân của vua là Pháp Huệ Nguyệt, lay động chuỗi ngọc trên thân của bà ta, để đánh thức dậy, sau đó nói với phu nhân rằng: “Phu nhân nên biết! Đức Như Lai Nhất Thiết Pháp Lôi Âm Vương, đang ở trong rừng Tịch Trụ, thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác và rộng vì chúng sinh diễn nói công đức tự tại thần lực của chư Phật, và hết thảy hạnh nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền”, vị Dạ Thần Tịnh Nguyệt khiến cho phu nhân của vua phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, mà cúng dường đức Phật đó, và tất cả chúng Bồ Tát mười phương cùng với Tăng chúng Thanh Văn.

 

Thiện nam tử! thời Vương phu nhân Pháp Tuệ nguyệt giả, khởi dị nhân hồ?

Này thiện nam tử ! Phu nhơn Pháp Huệ Nguyệt thuở xưa chính là tiền thân của ta.

Giảng: Thiện nam tử! Phu nhân của vua là Pháp Huệ Nguyệt thuở đó, đâu phải là người nào khác, chính là thân ta vậy.

 

Ngã thân thị dã! ngã ư bỉ Phật sở phát Bồ-đề tâm chủng thiện căn cố, ư Tu-di sơn vi trần số kiếp, bất sanh địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh chư ác thú trung, diệc bất sanh ư hạ tiện chi gia, chư căn cụ túc, vô hữu chúng khổ, ư Thiên Nhân trung phước đức thù thắng, bất sanh ác thế, hằng bất ly Phật cập chư Bồ-tát, đại thiện tri thức, thường ư kỳ sở chủng thực thiện căn, Kinh bát thập Tu-di sơn vi trần số kiếp thường thọ an lạc, nhi vị mãn túc Bồ Tát chư căn. qua thử kiếp dĩ, phục qua vạn kiếp, ư hiền kiếp tiền, hữu kiếp danh: Vô ưu biến chiếu, thế giới danh: ly cấu diệu quang. Kỳ thế giới trung tịnh uế tướng tạp, hữu ngũ bách Phật ư trung xuất hiện.

Từ thuở đó ta phát tâm Vô tận Bồ đề gieo căn lành, trải qua Tu Di sơn vi trần số kiếp chẳng sanh trong các ác đạo, dũng chẳng sanh nơi nhà hạ tiện. Ở trong nhân thiên ta được phước đức thù thắng, chẳng sanh ác thế, thường chẳng rời Phật và chư Bồ Tát đại thiện tri thức gieo trồng căn lành. Trải qua tám mươi Tu Di sơ vi trần số kiếp thường được an lạc, mà chưa đầy đủ chư căn của Bồ Tát. Lại trải qua vạn kiếp trước Hiền kiếp, có một kiếp tên là Vô Ưu Biến Chiếu, thế giới tên là Vô Cấu Diệu Quang. Trong thế giới đó tịnh uế xen lẫn, có năm trăm đức Phật xuất hiện trong đó.

Giảng: Nhờ ta ở chỗ đức Phật đó, phát tâm bồ đề trồng căn lành, nên trải qua số kiếp nhiều như hạt bụi núi Tu Di, chưa từng sinh vào trong các cõi ác địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, cũng chẳng sinh vào nhà hạ tiện. Sáu căn của ta đầy đủ, không có các sự thống khổ. Ta ở trong trời người, phước đức rất thù thắng. Chẳng sinh vào đời ác, luôn luôn chẳng lìa khỏi Phật và các Bồ Tát đại thiện tri thức. Ta thường ở chỗ các Ngài, gieo trồng căn lành, trải qua số kiếp nhiều như hạt bụi tám mươi núi Tu Di, luôn luôn hưởng thọ sự an lạc, mà chưa đầy đủ các căn của Bồ Tát.

Qua các số kiếp nhiều như hạt bụi tám mươi núi Tu Di rồi, lại trải qua một vạn kiếp trước hiền kiếp, có kiếp tên là Vô Ưu Biến Chiếu. Thế giới tên là Ly Cấu Diệu Quang. Trong thế giới đó, có sự thanh tịnh và dơ bẩn xen tạp lẫn nhau. Thời đó, có năm trăm vị Phật xuất hiện ra đời trong thế giới đó.

 

Kỳ đệ nhất Phật, danh: Tu-Di tràng tịch tĩnh diệu nhãn Như Lai, ưng, chánh đẳng giác; ngã vi: danh xưng Trưởng-giả; nữ danh: diệu tuệ quang minh, đoan chánh thù diệu.

Ðức Phật đệ nhứt hiệu là Tu Di Tràng Tịch Tịnh Diệu Nhãn. Lúc đó ta là con gái của Trưởng giả Danh Xưng, tên là Diệu Huệ Quang Minh, dung nhan đoan chánh.

Giảng: Vị Phật thứ nhất, hiệu là Tu Di Tràng Tịch Tịnh Diệu Nhãn, Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Lúc đó, ta là con gái của trưởng giả Danh Xưng, tên là Diệu Huệ Quang Minh, rất đoan chánh xinh đẹp.

 

Bỉ tịnh nguyệt dạ Thần, dĩ nguyện lực cố, ư ly cấu thế giới nhất tứ thiên hạ diệu tràng vương thành trung sanh, tác chủ dạ thần, danh: thanh Tịnh nhãn.

Tịnh Nguyệt Dạ Thần vì bổn nguyện mà sanh trong vương thành Diệu Trang nơi một tứ thiên hạ ở Ly Cấu thế giới, làm Chủ Dạ Thần tên là Thanh Tịnh Nhãn.

Giảng: Vị Dạ Thần Tịnh Nguyệt đó do vì nguyện lực, mà sinh trong thành vua Diệu Tràng, nơi thế giới Ly Cấu, một bốn thiên hạ, làm Chủ Dạ Thần, tên là Thanh Tịnh Nhãn.

 

Ngã ư nhất thời, tại phụ mẫu biên, dạ cửu miên tức. Bỉ thanh Tịnh nhãn lai nghệ ngã sở, chấn động ngã trạch, phóng đại quang minh, xuất hiện kỳ thân, tán Phật công đức ngôn: diệu nhãn Như Lai tọa Bồ-đề tọa, thủy thành chánh giác. Khuyến dụ ư ngã cập dĩ phụ mẫu tinh chư quyến chúc, lệnh tốc kiến Phật; tự vi tiền đạo, dẫn chí Phật sở, quảng hưng cúng dường.

Một đêm ta nằm ngủ bên cha mẹ. Thanh Tịnh Nhãn Dạ Thần đến chấn động nhà ta, phóng quang minh hiện thân ca ngợi công đức của Phật và cho hay rằng: Diệu Nhãn Như Lai ngồi tòa Bồ đề mới thành Chánh Giác. Dạ Thần khuyên ta cùng cha mẹ và quyến thuộc mau đến gặp Phật. Rồi Dạ Thần tự làm tiền đạo dẫn đến chỗ Phật cúng dường.

Giảng: Một đêm nọ, ta đang ngủ bên cha mẹ, thì vị Chủ Dạ Thần Tịnh Nguyệt đó, đi đến chỗ ta, chấn động nhà của ta, sau đó phóng đại quang minh, mà hiện thân, tán thán công đức của Phật nói: “Đức Phật Diệu Nhãn đang ngồi trên toà bồ đề kim cương báu, vừa mới thành Chánh Giác”, chẳng những khuyên ta, mà còn khuyên cha mẹ của ta, cùng với lục thân quyến thuộc, hãy mau đến gặp đức Phật, vị Chủ Dạ Thần tự đi trước dẫn chúng tôi đến chỗ đức Phật đó, chúng tôi dâng lễ vật lên cúng dường đức Phật đó.

 

Ngã tài kiến Phật, tức đắc tam muội, danh: xuất sanh kiến Phật điều phục chúng sanh tam thế trí quang minh luân. Hoạch thử tam muội cố, năng ức niệm Tu-di sơn vi trần số kiếp, diệc kiến kỳ trung chư Phật xuất hiện, ư bỉ Phật sở thính văn diệu pháp; dĩ văn Pháp cố, tức đắc thử phá nhất thiết chúng sanh ám pháp quang minh giải thoát.

Ta vừa thấy Phật liền được tam muội tên là “Xuất sanh kiến Phật điều phục chúng sanh tam thế trí quang minh luân”. Do được tam muội này nên có thể nhớ Tu Di sơn vi trần số kiếp. Cũng thấy chư Phật xuất hiện trong những kiếp đó. Ta ở chỗ chư Phật nghe diệu pháp. Do nghe pháp nên được môn giải thoát pháp quang minh phá tối của tất cả chúng sanh này.

Giảng: Khi ta vừa thấy đức Phật Tu Di Tràng Tịch Tĩnh Diệu Nhãn đó, liền lập tức đắc được tam muội, tên là Sinh ra thấy Phật điều phục chúng sinh ba đời trí quang minh luân. Trải qua đại kiếp lâu dài đó, ta đều đắc được tam muội thù thắng của Bồ Tát. Nhờ ta đắc được tam muội nầy, nên liền nghĩ nhớ được số kiếp nhiều như số hạt bụi núi Tu Di, đồng thời cũng thấy chư Phật xuất hiện ra đời ở trong đó. Ta ở chỗ các đức Phật đó, lắng nghe diệu pháp. Nhờ nghe pháp, mà ta liền đắc được môn giải thoát pháp quang minh phá đen tối của tất cả chúng sinh.

 

Đắc thử giải thoát dĩ, tức kiến kỳ thân biến vãng Phật sát vi trần số thế giới, diệc kiến bỉ thế giới sở hữu chư Phật, hựu kiến tự thân tại kỳ Phật sở

Ðược môn giải thoát này, ta liền thấy thân mình đến Phật sát vi trần số thế giới, cũng thấy tất cả chư Phật trong những thế giới đó.

Giảng: Ta đắc được môn giải thoát pháp quang minh phá đen tối của tất cả chúng sinh đó rồi, liền lập tức thấy thân mình đến khắp các thế giới nhiều như số hạt bụi cõi Phật, đồng thời ta cũng thấy hết thảy chư Phật trong các thế giới đó.

 

Diệc kiến bỉ thế giới nhất thiết chúng sanh, giải kỳ ngôn âm, thức kỳ căn tánh, tri kỳ vãng tích tằng vi thiện hữu chi sở nhiếp thọ, tùy kỳ sở lạc nhi vi hiện thân, lệnh sanh hoan hỉ. Ngã thời ư bỉ sở đắc giải thoát, niệm niệm tăng trưởng, thử tâm Vô gián

Ta lại thấy thân mình ở chỗ chư Phật. Ta cũng thấy tất cả chúng sanh trong những thế giới đó, hiểu ngôn âm của họ, biết căn tánh của họ, biết họ thuở quá khứ đã từng được thiện hữu nhiếp thọ. Tùy sở thích của họ mà hiện thân cho họ hoan hỷ. Nơi môn giải thoát đã được, niệm niệm ta được tăng trưởng không ngớt.

Giảng: Lại thấy thân mình ở chỗ đạo tràng của các đức Phật đó, ta cũng thấy tất cả chúng sinh trong các thế giới đó, mà còn hiểu rõ tiếng nói của họ, biết được căn tánh của họ, biết thuở xưa họ đã từng làm bạn lành mà được nhiếp thọ, đó đều do được sự cảm ứng của môn giải thoát nầy. Ta tuỳ theo sự ưa thích của họ mà vì họ hiện thân, khiến cho họ sinh tâm hoan hỉ. Khi ta đắc được môn giải thoát đó, thì niệm niệm tăng trưởng, tâm bồ đề đó chưa từng gián đoạn.

 

Hựu kiến tự thân biến vãng bách Phật sát vi trần số thế giới, thử tâm Vô gián

Ta lại thấy thân mình đến khắp trăm Phật sát vi trần số thế giới, tâm giải thoát kia cũng vẫn liên tục.

Giảng: Ta lại thấy thân mình đến khắp các thế giới nhiều như số hạt bụi trăm cõi Phật, mà tâm bồ đề đó cũng không gián đoạn.

 

Hựu kiến tự thân biến vãng thiên Phật sát vi trần số thế giới, thử tâm Vô gián; hựu kiến tự thân biến vãng bách thiên Phật sát vi trần số thế giới. Như thị, niệm niệm nãi chí bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số thế giới, diệc kiến bỉ thế giới trung nhất thiết Như Lai; diệc tự kiến thân tại bỉ Phật sở, thính văn diệu pháp, thọ trì ức niệm, quan sát quyết liễu; diệc tri bỉ Phật chư bổn sự hải, chư Đại nguyện hải, bỉ chư Như Lai nghiêm tịnh Phật sát, ngã diệc nghiêm tịnh;

Ta lại thấy thân mình đến khắp ngàn Phật sát, trăm ngàn Phật sát, nhẫn đến bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số thế giới, cũng thấy tất cả Như Lai trong những thế giới, cũng thấy chính mình nghe chư Phật thuyết pháp, ghi nhớ thọ trì, quán sát giải quyết. Cũng biết những biển bổn sự, bổn nguyện của chư Phật đó. Chư Như Lai đó nghiêm tịnh Phật độ, ta cũng nghiêm tịnh.

Giảng: Lại thấy thân mình đến khắp các thế giới nhiều như số hạt bụi ngàn cõi Phật, mà tâm bồ đề đó cũng không gián đoạn. Lại thấy thân mình đến khắp các thế giới nhiều như số hạt bụi trăm ngàn cõi Phật. Niệm niệm như vậy cho đến các thế giới nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật, ta cũng thấy tất cả Như Lai ở trong các thế giới đó, ta cũng thấy thân mình ở trong đạo tràng của các đức Phật đó, lắng nghe diệu pháp thâm sâu, thọ trì ghi nhớ, quán sát biết rõ. Ta cũng biết các biển bổn sự, các biển đại n guyện, của chư Phật đó. Các Như Lai đó nghiêm tịnh tất cả cõi Phật, ta cũng trang nghiêm thanh tịnh tất cả cõi Phật.

 

Diệc kiến bỉ thế giới nhất thiết chúng sanh, tùy kỳ sở ưng nhi vi hiện thân giáo hóa điều phục. Thử giải thoát môn, niệm niệm tăng trưởng, như thị nãi chí sung mãn Pháp giới.

Ta cũng thấy tất cả chúng sanh trong những thế giới đó, tùy cơ nghi của họ mà hiện thân giáo hóa điều phục. Trong thời gian đó, môn giải thoát này niệm niệm tăng trưởng. Như vậy nhẫn đến sung mãn pháp giới.

Giảng: Ta cũng thấy tất cả chúng sinh trong các thế giới đó, tuỳ căn cơ của họ mà vì họ hiện thân ra trước họ, để giáo hoá điều phục họ. Từ khi ta đắc được môn giải thoát nầy, niệm niệm tăng trưởng, như vậy cho đến đầy khắp pháp giới và hư không.

 

Thiện nam tử! ngã duy tri thử Bồ Tát phá nhất thiết chúng sanh ám pháp quang minh giải thoát.

Này thiện nam tử ! Ta chỉ biết môn “Bồ Tát phá Nhứt thiết chúng sanh ám pháp quang minh giải thoát”.

Giảng: Thiện nam tử! Ta chỉ biết môn giải thoát Bồ Tát pháp quang minh phá đen tối của tất cả chúng sinh nầy.

 

Như chư Bồ-Tát Ma-ha-tát, thành tựu Phổ Hiền vô biên hạnh nguyện, phổ nhập nhất thiết chư pháp giới hải, đắc chư Bồ-tát Kim Cương trí tràng tự tại tam muội, xuất sanh đại nguyện, trụ trì Phật chủng; ư niệm niệm trung, thành mãn nhất thiết Đại công đức hải, nghiêm tịnh nhất thiết quảng đại thế giới; dĩ tự tại trí, giáo hóa thành thục nhất thiết chúng sanh; dĩ trí tuệ nhật, diệt trừ nhất thiết thế gian ám chướng; dĩ dũng mãnh trí, giác ngộ nhất thiết chúng sanh hôn thụy; dĩ trí Tuệ nguyệt, quyết liễu nhất thiết chúng sanh nghi hoặc; dĩ thanh tịnh âm, đoạn trừ nhất thiết chư hữu chấp trước; ư nhất thiết Pháp giới nhất nhất trần trung, thị Hiện-Nhất-Thiết tự tại thần lực, trí nhãn minh tịnh, đẳng kiến tam thế.

Như chư đại Bồ Tát thành tựu Phổ Hiền vô biên hạnh nguyện, vào khắp tất cả pháp giới hải, được Bồ Tát kim cang trí tràng tự tại tam muội, xuất sanh đại nguyện , trụ trì Phật chủng, ở trong mỗi niệm thành mãn biển tất cả công đức lớn, nghiêm tịnh tất cả thế giới rộng lớn, dùng trí tự tại giáo hóa thành thục tất cả chúng sanh, dùng trí huệ nhật, diệt trừ tất cả thế gian ám chướng, dùng trí dũng mãnh giác ngộ giấc ngủ của tất cả chúng sanh, dùng trí huệ nguyệt quyết rõ sự nghi hoặc của tất cả chúng sanh, dùng thanh tịnh âm dứt trừ tất cả sự hữu lậu, thị hiện tất cả thần lực tự tại trong mỗi vi trần nơi tất cả pháp giới, trí nhãn thanh tịnh thấy khắp tam thế.

Giảng: Như các đại Bồ Tát thành tựu vô biên hạnh nguyện Phổ Hiền. Vào khắp tất cả biển pháp giới. Đắc được tam muội chư Bồ Tát kim cang trí tràng tự tại. Sinh ra đại nguyện. Trụ trì giống Phật. Ở trong niệm niệm, thành tựu viên mãn tất cả biển đại công đức. Trang nghiêm thanh tịnh tất cả thế giới rộng lớn. Các Ngài dùng trí huệ tự tại, giáo hoá thành thục tất cả chúng sinh. Dùng trí huệ mặt trời, diệt trừ ám chướng của tất cả thế gian. Dùng trí huệ dũng mãnh, giác ngộ giấc ngủ của tất cả chúng sinh. Dùng trí huệ mặt trăng, quyết rõ nghi hoặc của tất cả chúng sinh. Dùng âm thanh tịnh, đoạn trừ chấp trước của tất cả tam giới hai mươi lăm cõi. Các Ngài nơi tất cả pháp giới, trong mỗi mỗi hạt bụi, thị hiện tất cả thần lực tự tại, mắt trí huệ sáng tịnh của các Ngài, thấy ba đời đều bình đẳng.

 

Nhi ngã hà năng tri kỳ diệu hạnh, thuyết kỳ công đức, nhập kỳ cảnh giới, thị kỳ tự tại?

Ta thế nào biết được diệu hạnh đó, nói được công đức đó, vào được cảnh giới đó, thị hiện được tự tại đó.

Giảng: Mà ta làm sao biết được những diệu hạnh đó? Diễn nói được công đức đó? Vào được những cảnh giới đó? Thị hiện sự tự tại đó? Sự thành tựu của các Ngài rất cao thâm khó dò, ta không thể nào hiểu biết được. Thiện nam tử! Ngươi nên đi tìm một vị thiện tri thức khác.

 

Thiện nam tử! thử Diêm-phù-đề Ma kiệt đề quốc Bồ-đề trường nội, hữu chủ dạ thần, danh: phổ đức Tịnh Quang. Ngã bổn tùng kỳ phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm, thường dĩ diệu pháp khai ngộ ư ngã. Nhữ nghệ bỉ vấn: Bồ Tát vân hà học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo.

Này thiện nam tử ! Trong Bồ đề tràng đây có Chủ Dạ Thần tên là Phổ Ðức Tịnh Quang. Ta vốn từ Thần đó phát tâm Vô thượng Bồ đề, thường dùng diệu pháp khai ngộ cho ta. Ngươi đến đó hỏi Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo ?

Giảng: Thiện nam tử! Trong Bồ Đề Tràng nước Ma Kiệt Đề Diêm Phù Đề nầy, có vị Chủ Dạ Thần, tên là Phổ Đức Tịnh Quang. Ta vốn từ chỗ Ngài phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, Ngài thường dùng diệu pháp khai ngộ ta. Ngươi hãy đi đến đó hỏi: “Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh? Tu Bồ Tát đạo”?

 

Nhĩ thời, Thiện tài đồng tử hướng Bà san bà diễn để Thần nhi thuyết tụng viết:

Thiện Tài đồng tử cung kính hướng về Dạ Thần Bà San Bà Diễn Ðể mà nói kệ rằng:

Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử hướng về Chủ Dạ Thần Bà San Bà Diễn Để mà nói kệ rằng:

 

Kiến nhữ thanh tịnh thân Thấy Ngài thân thanh tịnh
Tướng hảo siêu thế gian, Tướng hảo hơn thế gian,
Như Văn-thù-sư-lợi Như Văn Thù Sư Lợi
Diệc như bảo sơn vương. Cũng như Bửu Sơn Vương.

Con thấy thân thanh tịnh của Ngài, tướng tốt hơn tất cả thế gian, giống như Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, cũng như núi báu chúa.

 

Nhữ Pháp thân thanh tịnh Pháp thân Ngài thanh tịnh
Tam thế tất bình đẳng, Tam thế đều bình đẳng
Thế giới tất nhập trung Vào tất cả thế giới
Thành hoại vô sở ngại. Thành hoại không chướng ngại,

Pháp thân Ngài thanh tịnh, ba đời đều bình đẳng, chẳng có sự phân biệt. Hết thảy thế giới đều vào trong thân Ngài, thế giới thành trụ hoại không đều không thể chướng ngại được Ngài.

 

Ngã quán nhất thiết thú Con xem tất cả loài
Tất kiến nhữ hình tượng Ðều thấy hình tượng Ngài
Nhất nhất mao khổng trung Trong mỗi mỗi lỗ lông
Tinh nguyệt các phân bố. Tinh nguyệt đều phân bố

Con quán sát trong tất cả cõi, đều thấy hình tượng của Ngài đang ở đó giáo hoá chúng sinh, trong mỗi mỗi lỗ lông, đều có rất nhiều thế giới và trăng sao đều giăng bày với nhau.

 

Nhữ tâm cực quảng đại Tâm Ngài rất quảng đại
Như không biến thập phương, Như không khắp mười phương
Chư Phật tất nhập trung Chư Phật đều vào trong
Thanh tịnh vô phân biệt. Thanh tịnh vô phân biệt.

Tâm lượng của Ngài rất rộng lớn, giống như hư không đầy khắp mười phương, chư Phật đều vào hết trong thân của Ngài, rất thanh tịnh mà Ngài không có sự phân biệt.

 

Nhất nhất mao khổng nội Trong mỗi mỗi lỗ lông
Tất phóng vô số quang, Ðều phóng vô số quang
Thập phương chư Phật sở Chỗ chư Phật mươi phương
Phổ vũ trang nghiêm cụ. Khắp rưới đồ trang nghiêm.

Trong mỗi mỗi lỗ lông, đều phóng ra vô số quang minh, ở chỗ đạo tràng của mười phương chư Phật, Ngài khắp mưa xuống đồ cúng dường trang nghiêm.

 

Nhất nhất mao khổng nội Trong mỗi mỗi lỗ lông
Các hiện vô số thân, Ðều hiện vô số thân
Thập phương chư quốc độ Khắp quốc độ mười phương
Phương tiện độ chúng sanh. Phương tiện độ chúng sanh.

Trong mỗi mỗi lỗ lông, đều hiện ra vô số thân, đến trong mười phương các cõi nước, dùng pháp môn phương tiện thiện xảo để độ tất cả chúng sinh.

 

Nhất nhất mao khổng nội Trong mỗi mỗi lỗ lông
Thị hiện vô lượng sát, Thị hiện vô lượng cõi
Tùy chư chúng sanh dục Tùy sở thích chúng sanh
Chủng chủng lệnh thanh tịnh Cho họ được thanh tịnh.

Trong mỗi mỗi lỗ lông của Ngài, thị hiện vô lượng cõi nước chư Phật, tuỳ tất cả chúng sinh ưa thích, mà dùng đủ thứ pháp môn phương tiện, khiến cho chúng sinh được thanh tịnh.

 

Nhược hữu chư chúng sanh, Nếu có các chúng sanh
Văn danh cập kiến thân, Nghe danh và thấy thân
Tất hoạch công đức lợi, Ðều được công đức lợi
Thành tựu Bồ-đề đạo. Thành tựu Bồ đề đạo.

Nếu có các chúng sinh, nghe được danh hiệu của Ngài và thấy được thân Ngài, thì họ đều được công đức và lợi ích, mà thành tựu đạo bồ đề.

 

Đa kiếp tại ác thú, Nhiều kiếp ở ác đạo
Thủy đắc kiến văn nhữ, Mới được thấy nghe Ngài
Diệc ưng hoan hỉ thọ, Cũng nên hoan hỷ họ
Dĩ diệt phiền não cố. Vì để diệt phiền não.

Những chúng sinh đó nhiều kiếp trôi nổi ở trong ba đường ác, sau đó mới được thấy nghe Ngài, mà thoát khỏi thống khổ đường ác. Ngài nên hoan hỉ tiếp thọ sự cầu nguyện của chúng sinh, để diệt trừ phiền não của chúng sinh.

 

Thiên sát vi trần kiếp, Ngàn cõi vi trần kiếp
Thán nhữ nhất mao đức, Khen Ngài chút công đức
Kiếp số do khả cùng, Kiếp số có cùng tận
Công đức chung vô tận. Ðức Ngài không cùng tận

Dù trải qua số kiếp nhiều như hạt bụi ngàn cõi Phật, để khen chút công đức Ngài nhỏ bằng chừng một sợi lông, cũng khen ngợi không hết được. Kiếp số có thể hết, nhưng công đức của Ngài không thể nào hết được.

 

Thời, Thiện tài đồng tử thuyết thử tụng dĩ, đảnh lễ kỳ túc, nhiễu vô lượng tạp, ân cần chiêm ngưỡng, từ thoái nhi khứ.

Thiện Tài nói kệ xong, đảnh lễ nơi chân Dạ Thần, hữu nhiễu vô lượng vòng, ân cần chiêm ngưỡng từ tạ mà đi.

Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử nói kệ đó rồi, bèn đảnh lễ vị Chủ Dạ Thần, rồi đi nhiễu vô lượng vòng, ân cần chiêm ngưỡng thiện tri thức, sau đó từ tạ mà đi về hướng nam, tìm cầu vị thiện tri thức khác.

 

================================

KINH HOA NGHIÊM ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT
QUYỂN SÁU MƯƠI CHÍN

— o0o —

32. DẠ THẦN PHỔ ĐỨC TỊNH QUANG
PHÓ THÁC THỨ 32 – LY CẤU ĐỊA

Nhĩ thời, Thiện tài đồng tử liễu tri bỉ Bà san bà diễn để dạ Thần sơ phát Bồ-đề tâm sở sanh Bồ-tát tạng, sở phát Bồ Tát nguyện, sở tịnh bồ tát độ, sở nhập Bồ Tát địa, sở tu Bồ Tát hạnh, sở hạnh xuất ly đạo, nhất thiết trí quang hải, phổ cứu chúng sanh tâm, phổ biến đại bi vân, ư nhất thiết Phật sát tận vị lai tế thường năng xuất sanh Phổ Hiền hạnh nguyện.

Lúc đó Thiện Tài biết rõ Dạ Thần Bà San Bà Diễn Ðể khi mới phát tâm Vô thượng Bồ đề, phát sanh Bồ Tát tạng, thệ phát Bồ Tát nguyện, thanh tịnh Bồ Tát độ, nhập Bồ Tát địa, tu Bồ Tát hạnh, hành xuất ly đạo, quang minh nhứt thiết trí, tâm cứu khắp chúng sanh, nổi mây đại bi khắp nơi, thường có thể xuất sanh hạnh nguyện Phổ Hiền tận thuở vị lai nơi tất cả Phật độ.

Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử biết rõ, Chủ Dạ Thần Bà San Bà Diễn Để ban đầu phát bồ đề tâm, sinh ra Bồ Tát tạng, thanh tịnh Bồ Tát lục độ vạn hạnh, vào Bồ Tát địa, tu Bồ Tát hạnh, tu hành đạo xuất ly tam giới, biển quang minh nhất thiết trí, tâm cứu khắp chúng sinh, mây đại bi cùng khắp, nơi tất cả cõi Phật hết thuở vị lai, thường sinh ra hạnh nguyện Bồ Tát Phổ Hiền tu hành và nguyện lực phát ra.

 

Tiệm thứ du hành, chí phổ đức Tịnh Quang dạ Thần sở, đảnh lễ kỳ túc, nhiễu vô số tạp, ư tiền hợp chưởng nhi tác thị ngôn: Thánh Giả! ngã dĩ tiên phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm, nhi ngã vị tri Bồ Tát vân hà tu hành Bồ Tát địa? vân hà xuất sanh Bồ Tát địa? vân hà thành tựu bồ tát địa?

Thiện Tài đi lần đến chỗ Dạ Thần Phổ Ðức Tịnh Quang, đảnh lễ nơi chân, hữu nhiễu vô số vòng, chắp tay cung kính thưa rằng: Bạch đức Thánh ! Con đã pháp tâm Vô thượng Bồ đề mà chưa biết Bồ Tát thế nào tu Bồ Tát địa, thế nào xuất sanh Bồ Tát địa, thế nào thành tựu Bồ Tát địa ?

Giảng: Thiện Tài đồng tử từ từ đi du hành về hướng nam, đến chỗ Chủ Dạ Thần Phổ Đức Tịnh Quang, đảnh lễ Ngài, rồi đi nhiễu bên phải vô lượng vòng, sau đó đứng ở trước Ngài chắp tay lại, mà bạch rằng: “Đức Thánh! Con trước đã phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, mà chưa biết Bồ Tát làm thế nào tu hành Bồ Tát địa? Làm thế nào sinh ra Bồ Tát địa? Làm thế nào thành tựu Bồ Tát địa”?

Đây là Ly Cấu Địa thứ hai, là đủ tịnh thi la, vì lìa khỏi sự sinh khởi huỷ phạm phiền não cấu vi tế. Bạn lành là Chủ Dạ Thần Phổ Đức Tịnh Quang. Phổ Đức là pháp giới tối thắng, vì đức đều đầy đủ. Tịnh Quang là biểu thị chánh trí chứng nhập, xa lìa phạm lỗi cấu bẩn. Vị thiện tri thức nầy tức là Dạ Thần Tịnh Nguyệt đã nói ở trên, là thầy của Chủ Dạ Thần Bà San Bà Diễn Để.

 

Dạ Thần đáp ngôn: Thiện tai thiện tai! Thiện nam tử! nhữ dĩ năng phát A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề tâm, kim phục vấn ư Bồ Tát địa tu hành, xuất sanh cập dĩ thành tựu.

Dạ Thần nói: Lành thay ! Lành thay ! Thiện nam tử đã có thể phát tâm Vô thượng Bồ đề. Nay lại hỏi tu hành xuất sanh và thành tựu Bồ Tát địa.

Giảng: Vị Dạ Thần Phổ Đức Tịnh Quang đáp rằng: “Lành thay! Lành thay! Thiện nam tử! Ngươi đã phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, nay ngươi lại hỏi về sự tu hành, sinh ra và thành tựu Bồ Tát địa”.

 

Thiện nam tử! Bồ Tát thành tựu thập pháp, năng viên mãn Bồ Tát hạnh. Hà giả vi thập?

Này thiện nam tử ! Bồ Tát thành tựu mười pháp thời có thể viên mãn Bồ Tát hạnh:

Giảng: Thiện nam tử! Bồ Tát thành tựu mười pháp, sẽ viên mãn Bồ Tát hạnh. Những gì là mười pháp?

 

Nhất giả, đắc thanh tịnh tam muội, thường kiến nhất thiết Phật

Một là được thanh tịnh tam muội thường thấy chư Phật.

Giảng: Một là được tam muội thanh tịnh, thường thường nhìn thấy bồ đề thân của tất cả chư Phật.

 

Nhị giả, đắc thanh Tịnh nhãn, thường quán nhất thiết Phật tướng hảo trang nghiêm

Hai là được thanh tịnh nhãn thường xem tướng hảo trang nghiêm của chư Phật.

Giảng: Hai là được con mắt pháp thanh tịnh, thường hay quán sát 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp trang nghiêm của tất cả chư Phật.

 

Tam giả, tri nhất thiết Như Lai vô lượng vô biên công đức đại hải

Ba là biết tất cả Như Lai vô lượng vô biên công đức đại hải.

Giảng: Ba là biết vô lượng vô biên biển công đức của tất cả Như Lai, tức là trí thân của Phật.

 

Tứ giả, tri đẳng pháp giới vô lượng chư Phật pháp quang minh hải

Bốn là biết vô lượng Phật pháp quang minh hải khắp pháp giới.

Giảng: Bốn là biết vô lượng biển pháp quang minh của chư Phật đồng pháp giới, tức là pháp thân của Phật.

 

Ngũ giả, tri nhất thiết Như Lai, nhất nhất mao khổng phóng đẳng chúng sanh số đại quang minh hải, lợi ích vô lượng nhất thiết chúng sanh

Năm là biết tất cả Như Lai, mỗi mỗi lỗ lông phóng đại quang minh hải đồng số chúng sanh lợi ích tất cả chúng sanh.

Giảng: Năm là biết mỗi mỗi lỗ lông của tất cả Như Lai, đều phóng ra biển đại quang minh đồng số chúng sinh, lợi ích vô lượng tất cả chúng sinh, tức là nguyện thân, lỗ lông phóng quang, đều vì nguyện xưa.

 

Lục giả, kiến nhất thiết Như Lai, nhất nhất mao khổng xuất nhất thiết bảo sắc quang minh diệm hải

Sáu là thấy tất cả Như Lai, mỗi lỗ lông phóng ra quanh minh diệm hải đủ tất cả bửu sắc.

Giảng: Sáu là thấy mỗi mỗi lỗ lông của tất cả Như Lai, đều hiện ra tất cả sắc báu quang minh diệm hải, tức là phước đức thân.

 

Thất giả, ư niệm niệm trung xuất Hiện-Nhất-Thiết Phật biến hóa hải sung mãn Pháp giới, cứu cánh nhất thiết chư Phật cảnh giới điều phục chúng sanh

Bảy là trong mỗi niệm xuất hiện tất cả Phật biến hóa hải đầy khắp pháp giới, rốt ráo tất cả cảnh giới chư Phật điều phục chúng sanh.

Giảng: Bảy là trong niệm niệm, xuất hiện biển biến hoá của tất cả chư Phật, đầy khắp pháp giới, tất cả cảnh giới chư Phật rốt ráo, điều phục chúng sinh, tức là hoá thân.

 

Bát giả, đắc Phật âm thanh đồng nhất thiết chúng sanh ngôn âm hải, chuyển tam thế nhất thiết Phật Pháp luân

Tám là được Phật âm thanh đồng tất cả chúng sanh ngôn âm hải, chuyển pháp luân tam thế Phật.

Giảng: Tám là được âm thanh của Phật đồng với biển lời nói của tất cả chúng sinh, chuyển bánh xe pháp của tất cả chư Phật ba đời, tức là lực trì thân, do viên âm trì pháp, nên tận vị lai.

 

Cửu giả, tri nhất thiết Phật vô biên danh hiệu hải

Chín là biết tất cả Phật vô biên danh hiệu hải.

Giảng: Chín là biết vô biên biển danh hiệu của tất cả chư Phật, tức là ý sinh thân của Phật, có thể tuỳ ý lập danh, mỗi vị Phật đều có mười danh hiệu.

 

Thập giả, tri nhất thiết Phật điều phục chúng sanh bất tư nghị tự tại lực.

Mười là biết tất cả chư Phật bất tư nghì tự tại lực điều phục chúng sanh.

Giảng: Mười là biết sức tự tại điều phục chúng sinh không thể nghĩ bàn của tất cả chư Phật, đây là oai thế thân của Phật.

 

Thiện nam tử! Bồ Tát thành tựu thử thập chủng Pháp, tức năng viên mãn Bồ Tát chư hạnh.

Này thiện nam tử ! Bồ Tát thành tựu mười pháp này thời có thể viên mãn công hạnh Bồ Tát.

Giảng: Thiện nam tử! Bồ Tát thành tựu mười thứ pháp nầy, thì sẽ viên mãn các hạnh của Bồ Tát. Vì mười thân nầy, trong ngoài đều đủ, nếu chuyên niệm, thì sao lại tu không thành.

 

Thiện nam tử! ngã đắc Bồ Tát giải thoát, danh: tịch tĩnh Thiền định lạc phổ du bộ. Phổ kiến tam thế nhất thiết chư Phật, diệc kiến bỉ Phật thanh tịnh quốc độ, đạo tràng, chúng hội, thần thông, danh hiệu, thuyết Pháp, thọ mạng, ngôn âm, thân tướng, chủng chủng bất đồng, tất giai minh đổ nhi vô thủ trước.

Này thiện nam tử ! Ta được Bồ Tát giải thoát tên là “Tịch tịnh thiền định lạc phổ du bộ” thấy khắp tất cả chư Phật tam thế, cũng thấy chư Phật: quốc độ thanh tịnh đạo tràng, chúng hội thần thông, danh hiệu, thuyết pháp, thọ mạng, ngôn âm, thân tướng nhiều loại chẳng đồng, thảy đều thấy rõ mà không chấp lấy.

Giảng: Thiện nam tử! Ta được Bồ Tát giải thoát, tên là Tịch tĩnh thiền định lạc phổ du bộ. Ta thấy khắp tất cả chư Phật ba đời, cũng thấy cõi nước thanh tịnh của các đức Phật đó, đạo tràng chúng hội, thần thông danh hiệu, thuyết pháp và thọ mạng của Phật, lời nói thân tướng, đều đủ thứ sự khác nhau, ta đều thấy rõ ràng, mà ta chẳng chấp lấy các tướng đó. Ta biết các Như Lai đều chẳng đi, như hoa trong hư không, mặt trăng ở dưới nước, không mà chẳng không, đều là không thể được.

 

Hà dĩ cố?

Tại sao vậy ?

Giảng: Tại sao?

 

Tri chư Như Lai phi khứ, thế thú vĩnh diệt cố

Vì biết đức Như Lai chẳng phải đi vì đã diệt hẳn thời gian không gian.

Giảng: Vì ta biết tất cả chư Phật chẳng đến, cũng chẳng đi, vì cõi thế gian hoàn toàn khác nhau, chẳng có tướng sinh diệt.

 

Phi lai, thể tánh vô sanh cố,

Vì biết đức Như Lai chẳng phải đến, vì thể tánh vô sanh.

Giảng: Các Như Lai chẳng đến, vì thể tánh của Phật không sinh, cũng chẳng diệt.

 

Phi sanh, Pháp thân bình đẳng cố

Ðức Như Lai chẳng phải sanh, vì pháp thân bình đẳng.

Giảng: Các Như Lai chẳng sinh, vì pháp thân bình đẳng khắp tất cả mọi nơi.

 

Phi diệt, vô hữu sanh tướng cố

Ðức Như Lai chẳng phải diệt, vì không có tướng sanh.

Giảng: Các Như Lai chẳng diệt, vì chẳng có tướng sinh, sao lại có tướng diệt?

 

Phi thật, trụ như huyễn Pháp cố

Ðức Như Lai chẳng phải thiệt, vì an trụ pháp như huyễn.

Giảng: Các Như Lai chẳng thật, vì Phật trụ trong tam muội pháp như huyễn, nên thấy tất cả cảnh giới đều như mộng huyễn bọt bóng.

 

Phi vọng, lợi ích chúng sanh cố

Ðức Như Lai chẳng phải vọng, vì lợi ích chúng sanh.

Giảng: Các Như Lai chẳng vọng, tức là chẳng thường. Tuy Phật không thật, nhưng cũng chẳng vọng, vì lợi ích chúng sinh không cùng tận.

 

Phi Thiên, siêu quá sanh tử cố

Ðức Như Lai chẳng phải dời đổi, vì vượt khỏi sanh tử.

Giảng: Các Như Lai chẳng dời đổi, vì Phật đã vượt qua luân chuyển sinh tử.

 

Phi hoại, tánh thường bất biến cố

Ðức Như Lai chẳng phải hư hoại, vì tánh thường chẳng biến đổi.

Giảng: Các Như Lai chẳng hoại, vì tánh của Phật hằng thường không đổi.

 

Nhất tướng, ngôn ngữ tất ly cố

Ðức Như Lai một tướng, vì đều rời ngôn ngữ.

Giảng: Các Như Lai một tướng, vì Phật cũng chẳng phải là một tướng, cũng chẳng phải tướng khác, lời nói miêu tả đều không ra được.

 

Vô tướng, tánh tướng bổn không cố.

Ðức Như Lai vô tướng, vì tánh tướng vốn không.

Giảng: Các Như Lai không tướng, vì tánh tướng vốn không, nhưng cũng chẳng phải một.

 

Thiện nam tử! ngã như thị liễu tri nhất thiết Như Lai thời, ư Bồ Tát tịch tĩnh Thiền định lạc phổ du bộ giải thoát môn, phân minh liễu đạt, thành tựu tăng trưởng, tư tánh quan sát, kiên cố trang nghiêm, bất khởi nhất thiết vọng tưởng phân biệt, đại bi cứu hộ nhất thiết chúng sanh.

Này Thiện nam tử ! Lúc ta biết rõ tất cả Như Lai như vậy, nơi môn giải thoát “Bồ Tát tịch tịnh thiền định lạc phổ du bộ” tỏ thấu rõ ràng thành tựu tăng trưởng, tư duy quán sát, kiên cố trang nghiêm, chẳng khởi tất cả vọng tưởng phân biệt, đại bi cứu hộ tất cả chúng sanh.

Giảng: Thiện nam tử! Khi ta biết rõ tất cả chư Phật như vậy, thì pháp môn giải thoát Bồ Tát tịch tĩnh thiền định lạc phổ du bộ, có thể phân minh thấu đạt, thành tựu tăng trưởng. Ta suy gẫm quán sát, kiên cố trang nghiêm pháp môn nầy, chẳng khởi tất cả vọng tưởng phân biệt, lìa khỏi tất cả chướng ngại.

 

Nhất tâm bất động, tu tập sơ Thiền, tức nhất thiết ý nghiệp, nhiếp nhất thiết chúng sanh, trí lực dũng mãnh, hỉ tâm duyệt dự

Nhứt tâm chẳng động, tu tập Sơ thiền, dứt tất cả ý nghiệp, nhiếp tất cả chúng sanh, trí lực dũng mãnh, hỷ tâm vui vẽ.

Giảng: Ta dùng tâm đại bi cứu hộ tất cả chúng sinh, một lòng chẳng động, tu tập sơ thiền. Ta lìa khỏi phiền não của mình, mà nhớ lo âu hoạn nạn của chúng sinh, nên sinh tâm vui vẻ.

 

Sơ thiền là ly sinh hỉ lạc địa. Nhị thiền là định sinh hỉ lạc địa. Tam thiền là ly hỉ diệu lạc địa. Tứ thiền là xả niệm thanh tịnh địa.

Tu đệ nhị Thiền, tư tánh nhất thiết chúng sanh tự tánh, yếm ly sanh tử

Tu đệ Nhị thiền, tư duy tất cả chúng sanh tự tánh, nhàm lìa sanh tử.

Giảng: Ta ngừng diệt tất cả ý nghiệp, diệt trừ giác quán, nhiếp thọ tất cả chúng sinh, trí lực dũng mãnh, nội tâm thanh tịnh, không giác không quán, nên tâm hỉ vui vẻ, nên tu đệ nhị thiền định sinh hỉ lạc.

 

Tu đệ tam Thiền, tất năng tức diệt nhất thiết chúng sanh chúng khổ nhiệt não

Tu đệ Tam thiền, đều có thể dứt diệt những khổ nhiệt não của tất cả chúng sanh.

Giảng: Ta suy gẫm tự tánh của tất cả chúng sinh, xả lìa vui ở trước nhiếp sinh, sau đó ở trong xả nầy, chẳng mất chánh niệm. Nhàm lìa sinh tử, biết sinh tử không thể vui, tức được vui thật vắng lặng, nên tu đệ tam thiền.

 

Tu đệ tứ Thiền, tăng trưởng viên mãn nhất thiết trí nguyện, xuất sanh nhất thiết chư tam muội hải, nhập chư Bồ-tát giải thoát hải môn, du hí nhất thiết thần thông, thành tựu nhất thiết biến hóa, dĩ thanh tịnh trí phổ nhập Pháp giới.

Tu đệ Tứ thiền, tăng trưởng viên mãn nguyện nhứt thiết trí, xuất sanh tất cả những biển tam muội. Nhập những Bồ Tát giải thoát môn, du hí tất cả thần thông, thành tựu tất cả biến hóa, dùng trí thanh tịnh vào khắp pháp giới.

Giảng: Ta hoàn toàn ngừng diệt các khổ nhiệt não của tất cả chúng sinh, xả niệm thanh tịnh không khổ vui, nên tu đệ tứ thiền.

Thấu hiểu tứ thiền rồi, ta tăng trưởng viên mãn nguyện nhất thiết trí thuở xưa, sinh ra tất cả các biển tam muội, nhập vào biển môn giải thoát của các Bồ Tát, du hí tất cả thần thông, thành tựu tất cả biến hoá, dùng trí thanh tịnh, vào khắp pháp giới.

Hôm nay Phật thất viên mãn, năm giờ chiều nay đem bài vị vào vãng sinh đường. Tối nay bắt đầu đả thiền thất, chúng ta dụng công, đừng cho rằng đả Phật thất nhiều rồi, cũng chẳng có cảm giác gì, đả Phật thất nhiều như vậy, cũng chẳng khai ngộ. Nhưng bạn phải biết, tuy đả Phật thất, nhưng bạn chẳng thấy được Phật; đả thiền thất, bạn cũng chẳng khai ngộ, nhưng bạn đang đi trên con đường gặp Phật và khai ngộ. Từ vô thuỷ kiếp đến nay, vô minh của chúng ta quá nặng, ngu si và đen tối cũng quá sâu. Giống như lớp băng quá dày, dùng nước nóng tưới lên, cũng không thể lập tức tan đuợc. Phải giống như “Lau chùi tấm gương, nay lau chùi, mai lau chùi, lau tới, lau lui”. Chúng ta ở đây đả Phật thất và ngồi thiền, đều đang lau chùi tấm gương, lau chùi sạch hết bụi bặm trên tấm gương, thì tự nhiên sẽ thấy được Phật, hoặc khai ngộ. Cho nên cơ hội đả thiền thất và đả Phật thất, không dễ gì gặp được. Trong tùng lâm đạo tràng, một năm không nhất định có mấy lần cơ hội tốt nầy. Các vị gặp được thiền thất và Phật thất, nên thương tiếc thời gian, đừng tuỳ tiện để nó trôi qua một cách lãng phí.

Có người nói ở trong định nhìn thấy Phật, đây là do định lực hiện ra. Chẳng những bạn được như thế, mà ai có định lực cũng sẽ thường thấy được mười phương chư Phật. Bạn thấy trong Kinh Hoa Nghiêm có nói những vị Bồ Tát đó chẳng lìa khỏi toà ngồi, mà thường thấy được tất cả chư Phật mười phương hiện tiền. Phật cũng chẳng đến, Ngài cũng chẳng đi, nhưng đều nhìn thấy được với nhau. Đả Phật thất và đả thiền thất, tức là luyện ở trong Chánh điện nầy, giống như dùng lửa nấu vàng, để luyện thành vàng thật. Do đó có câu: “Vàng thật chẳng sợ lửa”. Vàng thật vốn chẳng sợ lửa luyện, cho đến chữ luyện cũng không còn. Chúng ta đả thiền thất và đả Phật thất, đều đang luyện ở đây. Đây là một lò hồng lô thật lớn, đều thiêu sạch tất cả rác rến dơ bẩn trong tâm của bạn. Chúng ta người tu đạo, siêng tắc biến, biến tắc hoá. Vọng tưởng của bạn chẳng sợ khởi lên, khởi lên rồi thì sẽ có một sự biến hoá. Có khi biến hoá đi tốt, có khi biến hoá đi không tốt. Nhưng bạn cứ giữ gìn chánh niệm, thì nhất định sẽ hoá tốt. Bình thường chúng ta phân ra nam nữ riêng biệt rõ ràng, nhưng khi đả thiền thất thì đều tụ lại với nhau tại một phòng, đây tức là luyện, xem thử vọng tưởng của bạn như thế nào? Cho nên, đây là lò đại hồng lô dùng để luyện, là một biện pháp rất tốt! Giống như các vị nhìn thấy tôi thì giữ quy cụ, chẳng nhìn thấy tôi, thì chẳng giữ quy cụ, như vậy thì chẳng có ích gì! Bạn chẳng nhìn thấy tôi và nhìn thấy tôi, đều phải giữ quy cụ, thì mới được! Cho nên tôi ôm hoài bảo đạo lý nầy, chẳng màng đến các vị. Các vị muốn học tốt, cũng do mình; chẳng muốn học tốt cũng do mình. Do đó có câu:

“Sư Phụ dẫn đến cửa,
Tu hành tại mỗi người”.
“Mình ăn uống thì mình no
Sinh tử của mình tự mình lo”.

Sư phụ nầy chỉ bày con đường đi cho các vị, các vị phải đi thì sẽ thành Phật, nếu không đi thì cũng tuỳ các vị thôi. Cho nên tu hành là: “Nhân pháp địa, địa pháp thiên, thiên pháp đạo, đạo pháp tự nhiên”. Đạo là rất tự nhiên để tu hành. Tôi từ nhỏ tu hành, thì rất hoan hỉ đạo lý tự nhiên, sự việc gì cũng chẳng miễn cưỡng.

Đối với người gần phải xa một chút, người xa phải gần một chút. Nên biết ân nhân của nước Phật, là cừu nhân của nhân gian. Cừu nhân của nước Phật, tức là ân nhân của nhân gian. Nên phóng tâm ra cho lớn, nhận thức hết thảy tất cả mọi người đều là quyến thuộc của mình, đừng nghĩ người nào đó là thân thuộc quyến thuộc của mình. Phải xem hết thảy mọi người, đều là thân thuộc bạn bè của mình. Nghĩ như thế, thì giữa ta và họ, chẳng có gần, chẳng có xa, chẳng có thân, chẳng có sơ. Bạn một lòng tu đạo, tức cũng là trợ giúp hết thảy thân thuộc. Bạn phải chân tu thành đạo rồi, thì sẽ có định lực chân chánh, trở lại con thuyền từ bi, đương nhiên sẽ có thể trợ giúp hết thảy chúng sinh. Do đó, con người phải tu hành thành Phật, tu hành thành Bồ Tát, để giáo hoá chúng sinh. Nếu bạn ở trong định, không thể đến thế giới Ta Bà để giáo hoá chúng sinh, thì như vậy tu hành cũng chẳng có ích gì.

 

Thiện nam tử! ngã tu thử giải thoát thời, dĩ chủng chủng phương tiện thành tựu chúng sanh.

Này thiện nam tử ! Lúc ta tu môn giải thoát này dùng các thứ phương tiện để thành tựu chúng sanh.

Giảng: Thiện nam tử! Khi ta tu giải thoát nầy, thì dùng đủ thứ phương tiện thành tựu tất cả chúng sinh.

 

Sở vị: ư tại gia phóng dật chúng sanh, lệnh sanh bất tịnh tưởng, khả yếm tưởng, bì lao tưởng, bức bách tưởng, hệ phược tưởng, La-sát tưởng, vô thường tưởng, khổ tưởng, vô ngã tưởng, không tưởng, vô sanh tưởng, bất tự tại tưởng, lão bệnh tử tưởng. Tự ư ngũ dục bất sanh lạc trước, diệc khuyến chúng sanh bất trước dục lạc, duy trụ pháp lạc, xuất ly ư gia, nhập ư phi gia.

Như là đối với người tại gia phóng dật, làm cho họ có cảm tưởng bất tịnh đáng nhàm lìa, mỏi nhọc, bức bách, ràng buộc, họa hại, vô thường, khổ, vô ngã, rỗng không, vô sanh, chẳng tự tại, gìa bịnh chết. Ðể cho họ ở nơi cảnh ngũ dục tự chẳng mến chấp và cũng khuyên người khác chẳng đắm nơi dục lạc, chỉ an trụ nơi pháp lạc, ra khỏi nhà hữu vi mà vào nhà vô vi.

Giảng: Đó là: Đối với chúng sinh tại gia phóng dật, họ thường phóng dật, không giữ quy cụ, thì ta liền vì họ nói Bốn Niệm Xứ: Quán thân bất tịnh, quán thọ là khổ, quán tâm vô thường, quán pháp vô ngã. Lại nói đủ thứ pháp môn quán bất tịnh, khiến cho họ sinh ra tưởng thân thể là bất tịnh, tưởng đáng chán. Đối với tất cả sự việc thế gian sinh ra tưởng mệt nhọc. Tưởng bức bách, cảm thấy tất cả thế gian đều là tánh bức bách, đầy dẫy sự thống khổ. Tưởng trói buộc, cảm thấy ở tại gia chẳng được tự do, giống như bị gông cùm trói chặt, giống như ở trong nhà tù. Tưởng La Sát, lại cảm thấy người nữ tại gia, giống như quỷ La Sát, uống hết tinh khí máu huyết của mình. Người nữ tưởng người nam cũng giống như La Sát Vương, cướp đi bảo bối của mình. Tưởng vô thường, lại cảm thấy đời người là vô thường, chẳng biết lúc nào sẽ chết. Tưởng khổ, tất cả thế gian đều là khổ, chẳng có gì vui hết. Tưởng vô ngã, vốn chẳng có một cái gì là của mình, thì sao lại phải cực nhọc về nó? Tưởng không, tất cả sự vật giống như hư không, chẳng có thật tại. Tưởng không sinh, tất cả đều không sinh, chẳng có gì chẳng được. Tưởng chẳng tự tại, tất cả đời người đều chẳng tự tại, phải dùng hạnh khổ để đổi lại. Tưởng già bệnh chết, sinh ra chẳng bao lâu thì già đi, già đi thì lại có bệnh, bệnh rồi lại chết. Ta tự nhiên đối với năm dục chẳng sinh ưa mến và chấp trước. Ta cũng khuyên tất cả chúng sinh, chẳng chấp vào cảnh giới năm dục lạc nầy. Chỉ trụ nơi pháp lạc, mà phát tâm xuất gia tu hành, nhập vào nơi chẳng phải nhà, chẳng còn gia đình của mình nữa.

 

Nhược hữu chúng sanh trụ ư không nhàn, ngã vi chỉ tức chư ác âm thanh, ư tĩnh dạ thời vi thuyết thâm pháp, dữ thuận hành duyên, khai xuất gia môn, thị chánh đạo lộ, vi tác quang minh, trừ kỳ ám chướng, diệt kỳ bố úy, tán xuất gia nghiệp, thán Phật, Pháp, tăng cập thiện tri thức cụ chư công đức, diệc thán thân cận thiện tri thức hạnh.

Nếu có chúng sanh ở nơi chỗ không nhàn, thời ta vì họ mà ngăn dứt những âm thanh xấu ác. Lúc đêm vắng tịch tịnh ta vì họ mà thuyết pháp. Ban cho họ duyên tu hành thuận tiện, mở cửa xuất gia, chỉ đường chơn chánh. Vì họ mà làm ánh sáng trừ ám chướng, diệt kinh sợ, khen hạnh xuất gia, ca ngợi Phật, Pháp và Tăng cùng thiện tri thức đủ những công đức, cũng khen hạnh gần gũi thiện tri thức.

Giảng: Nếu có chúng sinh ở chỗ không nhàn để tu hành, thì ta vì họ ngăn dứt các âm thanh ác chung quanh bốn phía. Lúc ban đêm yên tĩnh, thì ta vì họ nói pháp thâm sâu vi diệu, ban cho họ đủ thứ thuận duyên tu hành, ta vì họ mở cửa xuất gia, khiến cho họ xuất gia tu đạo, chỉ bày cho họ con đường chân chánh. Ta vì họ làm đuốc lớn ánh sáng, trừ diệt đen tối chướng ngại cho họ. Diệt trừ tư tưởng sợ hãi của họ, mà khen ngợi nghiệp xuất gia, khen ngợi Phật Pháp Tăng Tam Bảo và hết thảy các bậc thiện tri thức, đầy đủ tất cả công đức, ta cũng khen ngợi hạnh gần gũi thiện tri thức.

 

Phục thứ, Thiện nam tử! ngã tu giải thoát thời, lệnh chư chúng sanh, bất sanh phi pháp tham, bất khởi tà phân biệt, bất tác chư tội nghiệp. Nhược dĩ tác giả, giai lệnh chỉ tức; nhược vị sanh thiện Pháp, vị tu Ba-la-mật hạnh, vị cầu nhất thiết trí, vị khởi đại từ bi, vị tạo nhân thiên nghiệp, giai lệnh kỳ sanh; nhược dĩ sanh giả, lệnh kỳ tăng trưởng.

Lại này thiện nam tử ! Lúc ta tu môn giải thoát, làm cho các chúng sanh chẳng khởi lòng tham phi pháp, chẳng khởi tà kiến, chẳng phạm tội ác, nếu đã làm ác thời khiến thôi dứt. Nếu chưa sanh pháp lành, chưa tu hạnh Ba la mật, chưa cầu Nhứt thiết trí, chưa khởi đại từ bi, chưa tạo nghiệp Nhơn Thiên thời đều làm cho phát sanh, nếu đã sanh rồi thời làm cho thêm lớn.

Giảng: Lại nữa, thiện nam tử! Khi ta tu môn giải thoát Bồ Tát tịch tĩnh thiền định lạc phổ du bộ, thì khiến cho hết thảy tất cả chúng sinh chẳng khởi tâm tham phi pháp, chẳng khởi tâm tà tri tà kiến phân biệt, chẳng làm các tội nghiệp ác. Nếu chúng sinh đã sinh tâm tham, tà kiến phân biệt và làm tội nghiệp, thì ta đều khiến cho họ ngừng lại. Nếu ai chưa sinh pháp lành, chưa trồng căn lành, chưa tu hạnh Ba La Mật, chưa cầu nhất thiết trí huệ, chưa sinh khởi pháp đại từ bi, chưa tạo phước nghiệp trời người, thì ta đều khiến cho họ sinh trưởng căn lành. Do đó: “Người chưa trồng căn lành, thì khiến cho trồng căn lành. Đã trồng căn lành, thì khiến cho tăng trưởng. Đã tăng trưởng thì khiến cho thành thục. Đã thành thục thì khiến cho giải thoát”. Nếu đã sinh căn lành rồi, làm đủ thứ việc lành, thì ta khiến cho họ tăng trưởng tất cả căn lành.

 

Ngã dữ như thị thuận đạo nhân duyên, nãi chí lệnh thành nhất thiết chủng trí.

Ta ban cho họ nhơn duyên thuận đạo như vậy, nhẫn đến khiến họ thành Nhứt thiết chủng trí.

Giảng: Ta ban cho chúng sinh đủ thứ nhân duyên thuận đạo như vậy, cho đến khiến cho chúng sinh thành tựu trí huệ nhất thiết trí.

 

Thiện nam tử! ngã duy đắc thử Bồ Tát tịch tĩnh Thiền định lạc phổ du bộ giải thoát môn.

Này thiện nam tử ! Ta chỉ được môn giải thoát ” Bồ Tát tịch tịnh thiền định lạc phổ du bộ” này.

Giảng: Thiện nam tử! Ta chỉ được môn giải thoát Bồ Tát tịch tĩnh thiền định lạc phổ du bộ nầy.

 

Như chư Bồ-Tát Ma-ha-tát, cụ túc Phổ Hiền sở hữu hạnh nguyện, liễu đạt nhất thiết vô biên pháp giới, thường năng tăng trưởng nhất thiết thiện căn, chiếu kiến nhất thiết Như Lai thập lực, trụ ư nhất thiết Như Lai cảnh giới, hằng xứ sanh tử, tâm vô chướng ngại, tật năng mãn túc nhất thiết trí nguyện, phổ năng vãng nghệ nhất thiết thế giới, tất năng quán kiến nhất thiết chư Phật, biến năng thính thọ nhất thiết Phật Pháp, năng phá nhất thiết chúng sanh si ám, năng ư sanh tử đại dạ chi trung xuất sanh nhất thiết trí tuệ quang minh

Như chư đại Bồ Tát đầy đủ hạnh nguyện Phổ Hiền, liễu đạt tất cả vô biên pháp giới thường có thể tăng trưởng tất cả thiện căn, chiếu thấy trí lực của tất cả Như Lai, an trụ nơi cảnh giới của tất cả Như Lai, hằng ở sanh tử tâm không chướng ngại, mau đầy đủ được nguyện nhứt thiết trí, đến tất cả thế giới, đều có thể xem thấy tất cả chư Phật, có thể khắp thính thọ tất cả Phật pháp, có thể phá tất cả si ám của chúng sanh, có thể ở trong đêm đài sanh tử mà xuất sanh tất cả trí huệ quang minh.

Giảng: Như các đại Bồ Tát đầy đủ hết thảy hạnh nguyện Bồ Tát Phổ Hiền, và phát đại nguyện, thấu đạt tất cả cảnh giới của vô biên pháp giới chúng sinh, căn tánh, ưa thích. Bồ Tát tu hành rất tinh tấn chẳng thối chuyển, nên căn lành thường tăng trưởng. Các Ngài chiếu thấy trí huệ mười lực của tất cả chư Phật, trụ nơi cảnh giới của tất cả Như Lai. Các Ngài luôn ở nơi sinh tử, mà trong tâm chẳng chướng ngại. Tuy còn sinh tử, nhưng đó là thị hiện sinh tử, nên không có sự chướng ngại. Các Ngài sớm đầy đủ nhất thiết trí và nguyện xưa đã phát, khắp đi đến tất cả thế giới, đều quán thấy được tất cả chư Phật. Bất cứ vị Phật nào giảng kinh thuyết pháp, Ngài đều lắng nghe thọ trì được, phá tan được ngu si đen tối của tất cả chúng sinh, ở trong đêm dài sinh tử, sinh ra nhất thiết trí huệ quang minh,

 

Nhi ngã vân hà năng tri năng thuyết bỉ công đức hạnh?

Ta thế nào biết được nói được những công đức hạnh đó.

Giảng: Mà ta làm sao biết được nói được những hạnh công đức đó?

 

Thiện nam tử! khứ thử bất viễn, ư Bồ-đề trường hữu biên, hữu nhất dạ Thần, danh: hỉ mục quan sát chúng sanh.

Này thiện nam tử ! Cách đây không xa, nơi bên phía hữu đạo tràng Bồ đề, có một Dạ Thần tên là Hỉ Mục Quán Sát Chúng Sanh.

Giảng: Thiện nam tử! Cách đây không xa, phía bên phải Bồ Đề Tràng, có một vị Dạ Thần, tên là Hỉ Mục Quán Sát Chúng Sinh.

 

Nhữ nghệ bỉ vấn: Bồ Tát vân hà học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo?

Nhĩ thời, phổ đức Tịnh Quang dạ Thần, dục trọng tuyên thử giải thoát nghĩa, vi Thiện tài đồng tử nhi thuyết tụng viết:

Ngươi đến đó hỏi: Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo ?

Phổ Ðức Tịnh Quang Dạ Thần, muốn tuyên lại nghĩa giải thoát này, vì Thiện Tài đồng tử mà nói kệ rằng:

Giảng: Ngươi hãy đến đó hỏi: “Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh? Tu Bồ Tát đạo”?

Lúc đó, vị Dạ Thần Phổ Đức Tịnh Quang muốn thuật lại nghĩa lý môn giải thoát nầy vừa nói ở trên, vì Thiện Tài đồng tử mà nói kệ dưới đây:

 

Nhược hữu tín giải tâm Nếu có lòng tin hiểu
Tận kiến tam thế Phật Thấy hết tam thế Phật
Bỉ nhân nhãn thanh tịnh Người này mắt thanh tịnh
Năng nhập chư Phật hải. Vào được biển chư Phật

Nếu có tâm tin hiểu, thì sẽ thấy hết tất cả chư Phật đời quá khứ, hiện tại, vị lai ba đời. Mắt của chúng sinh đó thanh tịnh, sẽ vào được biển pháp môn của chư Phật.

 

Nhữ quán chư Phật thân Người xem thân chư Phật
Thanh tịnh tướng trang nghiêm, Tướng thanh tịnh trang nghiêm
Nhất niệm thần thông lực, Một niệm sức thần thông
Pháp giới tất sung mãn. Ðều sung mãn pháp giới.

Ngươi hãy quán pháp thân của chư Phật, dùng ba mươi hai tướng tốt thanh tịnh và tám mươi vẻ đẹp trang nghiêm thân. Một niệm sức thần thông diệu dụng, đều đầy khắp tất cả mười phương pháp giới.

 

Lô-xá-na Như Lai Lô Xá Na Như Lai
Đạo tràng thành chánh giác, Ðạo tràng thành Chánh Giác
Nhất thiết pháp giới trung, Trong tất cả pháp giới
Chuyển ư tịnh Pháp luân. Chuyển pháp luân thanh tịnh

Lô Xá Na Như Lai, tại đạo tràng nầy thành Chánh Giác. Hết thảy tất cả pháp giới tận hư không khắp pháp giới, Ngài đang ở đó chuyển bánh xe diệu pháp thanh tịnh, giáo hoá chúng sinh.

 

Như Lai tri pháp tánh, Như Lai biết pháp tánh
Tịch diệt vô hữu nhị, Tịch diệt không có hai
Thanh tịnh tướng nghiêm thân, Tướng thanh tịnh nghiêm thân
Biến thị chư thế gian. Hiện khắp các thế gian.

Như Lai biết pháp tánh là tịch diệt chẳng có hai, nhưng vẫn dùng 32 tướng tốt thanh tịnh và 80 vẻ đẹp trang nghiêm thân, khắp hiện tại tất cả thế gian.

 

Phật thân bất tư nghị, Thân Phật bất tư nghì
Pháp giới tất sung mãn, Pháp giới đều sung mãn
Phổ Hiện-Nhất-Thiết sát Hiện khắp tất cả cõi
Nhất thiết vô bất kiến. Tất cả đều thấy rõ

Pháp thân của Phật không thể nghĩ bàn, cho nên pháp giới đều đầy khắp tận hư không pháp giới. Khắp thị hiện nơi tất cả cõi nước chư Phật, tất cả đều thấy ở trong pháp thân của Phật.

 

Phật thân thường quang minh, Thân Phật thường quang minh
Nhất thiết sát trần đẳng Những màu sắc thanh tịnh
Chủng chủng thanh tịnh sắc Số Phật sát vi trần
Niệm niệm biến Pháp giới. Niệm niệm khắp pháp giới.

Thân Phật thường phóng đại quang minh, bình đẳng chiếu khắp tất cả bụi cõi tận hư không khắp pháp giới. Đủ thứ sắc thân thanh tịnh của Phật, niệm niệm đều đầy khắp hư không pháp giới. Chúng ta đều đang ở trong pháp thân của Phật, bất quá chúng ta tự mình chẳng biết đó thôi.

 

Như Lai nhất mao khổng, Như Lai một lỗ lông
Phóng bất tư nghị quang, Phóng bất tư nghì quang
Phổ chiếu chư quần sanh Chiếu khắp các quần sanh
Lệnh kỳ phiền não diệt. Cho họ diệt phiền não.

Một lỗ chân lông của Như Lai, đều phóng ra quang minh không thể nghĩ bàn, chiếu khắp hết thảy chúng sinh, khiến cho họ diệt trừ phiền não, dù chúng sinh mắng chửi huỷ báng, đều chẳng có phiền não.

 

Như Lai nhất mao khổng Như Lai một lỗ lông
Xuất sanh vô tận hóa, Xuất sanh vô tận hóa
Sung biến ư Pháp giới, Ðầy khắp cả pháp giới
Trừ diệt chúng sanh khổ Diệt trừ khổ chúng sanh.

Một lỗ chân lông của Như Lai, sinh ra vô tận hoá Phật, đầy khắp tận hư không pháp giới, trừ diệt thống khổ của chúng sinh.

 

Phật diễn nhất Diệu-Âm, Phật diễn một diệu âm
Tùy loại giai lệnh giải, Tùy loại đều tự hiểu
Phổ vũ quảng đại Pháp Khắp mưa pháp quảng đại
Sử phát Bồ-đề ý. Khiến phát tâm Bồ đề.

Phật diễn nói một diệu âm, chúng sinh tuỳ loại đều hiểu được tiếng của Phật, khắp diễn nói mưa pháp rộng lớn, khiến cho chúng sinh phát tâm bồ đề.

 

Phật tích tu chư hạnh, Phật xưa tu các hạnh
Dĩ tằng nhiếp thọ ngã, Ðã từng nhiếp thọ ta
Cố đắc kiến Như Lai Nên được thấy Như Lai
Phổ Hiện-Nhất-Thiết sát. Hiện khắp tất cả cõi.

Thuở xưa Phật tu lục độ vạn hạnh, đã từng nhiếp thọ ta, cho nên ta thấy được Như Lai, khắp thấy tất cả cõi nước chư Phật.

 

Chư Phật xuất thế gian Chư Phật xuất thế gian
Lượng đẳng chúng sanh số Lượng bằng số chúng sanh
Chủng chủng giải thoát cảnh Tất cả cảnh giải thoát
Phi ngã sở năng tri. Chẳng phải ta biết được.

Chư Phật xuất hiện ra thế gian, số lượng đồng với số chúng sinh, có bao nhiêu chúng sinh thì có bấy nhiêu chư Phật. Đủ thứ cảnh giới giải thoát của chư Phật đó, chẳng phải Dạ Thần ta biết được.

 

Nhất thiết chư Bồ-tát Tất cả đại Bồ Tát
Nhập Phật nhất mao khổng, Vào một lỗ lông Phật
Như thị diệu giải thoát Diệu giải thoát như vậy
Phi ngã sở năng tri. Chẳng phải ta biết được.

Hết thảy tất cả Bồ Tát, đều vào một lỗ chân lông của Phật. Giải thoát tam muội vi diệu như vậy, chẳng phải Dạ Thần ta biết được.

 

Thử cận hữu dạ Thần Gần đây có Dạ Thần
Danh hỉ mục quan sát, Tên Hỉ Mục Quán Sát
Nhữ ưng vãng nghệ bỉ, Ngươi đến đó hỏi
Vấn tu Bồ Tát hạnh Học tu Bồ Tát hạnh.

Bên phải Bồ đề tràng gần đây có một vị Dạ Thần, tên là Hỉ Mục Quán Sát Chúng Sinh, ngươi nên đi đến chỗ Ngài đó hỏi: “Làm thế nào tu Bồ Tát hạnh”?

Thời, Thiện tài đồng tử đảnh lễ kỳ túc, nhiễu vô số tạp, ân cần chiêm ngưỡng, từ thoái nhi khứ.

Thiện Tài đảnh lể chân Dạ Thần Phổ Ðức Tịnh Quang, hữu nhiễu vô số vòng ân cần chiêm ngưỡng từ tạ mà đi.

Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử đảnh lễ vị Dạ Thần Phổ Đức Tịnh Quang, rồi đi nhiễu quanh bên phải vô lượng vòng, ân cần chiêm ngưỡng thiện tri thức, sau đó từ tạ mà đi về hướng nam, tìm cầu vị thiện tri thức khác.

 

Nhĩ thời, Thiện tài đồng tử kính thiện tri thức giáo, hành thiện tri thức ngữ, tác như thị niệm: thiện tri thức giả, nan kiến nan ngộ; kiến thiện tri thức, lệnh tâm bất tán loạn; kiến thiện tri thức, phá chướng ngại sơn; kiến thiện tri thức, nhập đại bi hải cứu hộ chúng sanh; kiến thiện tri thức, đắc trí tuệ quang phổ chiếu Pháp giới; kiến thiện tri thức, tất năng tu hành nhất thiết trí đạo; kiến thiện tri thức, phổ năng đổ kiến thập phương Phật hải; kiến thiện tri thức, đắc kiến chư Phật chuyển ư Pháp luân ức trì bất vong.

Bấy giờ Thiện Tài kính thuận lời dạy của thiện tri thức, thật hành theo lời thiện tri thức, tự nghĩ rằng : Khó thấy khó gặp thiện tri thức. Thấy thiện tri thức thời tâm chẳng tán loạn. Thấy thiện tri thức thời phá núi chướng ngại. Thấy thiện tri thức thời vào biển đại bi cứu hộ chúng sanh. Thấy thiện tri thức thời được trí huệ quang chiếu khắp pháp giới. Thấy thiện tri thức thời có thể tu hành đạo Nhứt thiết trí. Thấy thiện tri thức thời có thể thấy khắp mười phương chư Phật. Thấy thiện tri thức thời được thấy chư Phật chuyển pháp luân ghi nhớ chẳng quên.

Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử gần gũi Dạ Thần Tịnh Quang đắc được pháp ích, trong tâm lãnh thọ diệu pháp nầy, cung kính thường nhớ lời dạy của thiện tri thức, tu hành lời dạy của thiện tri thức đã nói với Ngài, bèn nghĩ như vầy: “Bậc thiện tri thức chân chánh chẳng dễ gì thấy gặp được. Gặp được cũng không chắc nhận ra được, thậm chí ở trước mắt mà bỏ lỡ cơ hội. Thường thấy được thiện tri thức, thì khiến cho tâm mình chẳng tán loạn, chẳng khởi vọng tưởng, chẳng có nhiều tà tri tà kiến. Thấy được thiện tri thức, thì sẽ phá tan được núi chướng ngại. Thấy được thiện tri thức, thì sẽ vào được biển đại bi, cứu hộ hết thảy chúng sinh. Thấy được thiện tri thức, thì sẽ đắc được trí huệ quang minh, chiếu sáng khắp pháp giới. Thấy được thiện tri thức, thì đều có thể tu hành đạo nhất thiết trí. Thấy được thiện tri thức, thì sẽ thấy khắp được biển cõi mười phương chư Phật. Thấy được thiện tri thức, thì sẽ thấy được tất cả chư Phật chuyển bánh xe pháp, nghĩ nhớ thọ trì không quên”.

 

Tác thị niệm dĩ, phát ý dục nghệ hỉ mục quan sát chúng sanh dạ Thần sở

Suy nghĩ như vậy, Thiện Tài muốn đến chỗ Dạ Thần Hỉ Mục Quán Sát Chúng Sanh.

Giảng: Thiện Tài đồng tử nghĩ như vậy rồi, bèn phát tâm muốn đến chỗ Dạ Thần Hỉ Mục Quán Sát Chúng Sinh.

 

Thời, hỉ mục Thần gia Thiện tài đồng tử, lệnh tri thân cận thiện tri thức, năng sanh chư thiện căn, tăng trưởng thành thục.

Lúc đó Hỉ Mục Dạ Thần gia hộ cho Thiện Tài biết thân cận thiện tri thức có thể sanh những thiện căn tăng trưởng thành thục.

Giảng: Lúc đó, Dạ Thần Hỉ Mục Quán Sát Chúng Sinh gia bị cho Thiện Tài đồng tử, khiến cho Ngài biết gần gũi thiện tri thức, thì sẽ sinh ra tất cả căn lành, tăng trưởng thành thục pháp lành.

 

Sở vị: lệnh tri thân cận thiện tri thức, năng tu trợ đạo cụ; lệnh tri thân cận thiện tri thức, năng khởi dũng mãnh tâm; lệnh tri thân cận thiện tri thức, năng tác nan hoại nghiệp; lệnh tri thân cận thiện tri thức, năng đắc nan phục lực; lệnh tri thân cận thiện tri thức, năng nhập vô biên phương; lệnh tri thân cận thiện tri thức, năng cửu viễn tu hành; lệnh tri thân cận thiện tri thức, năng biện vô biên nghiệp; lệnh tri thân cận thiện tri thức, năng hành vô lượng đạo; lệnh tri thân cận thiện tri thức, năng đắc tốc tật lực phổ nghệ chư sát; lệnh tri thân cận thiện tri thức, năng bất ly bổn xứ biến chí thập phương.

Như là làm cho Thiện Tài biết thân cận thiện tri thức thời có thể tu các môn trợ đạo. Biết thân cận thiện tri thức thời có thể khởi tâm dũng mãnh. Biết thân cận thiện tri thức thời có thể tạo công hạnh không hư hoại. Biết thân cận thiện tri thức có thể được sức không bị chế phục. Biết thân cận thiện tri thức thời có thể nhập vô biên phương. Biết thân cận thiện tri thức thời có thể tu hành lâu xa. Biết thân cận thiện tri thức thời có thể làm xong vô biên công hạnh. Biết thân cận thiện tri thức thời có thể thật hành vô lượng đạo. Biết thân cận thiện tri thức thời được sức tốc tật đến khắp các cõi. Biết thân cận thiện tri thức thời có thể chẳng rời bổn xứ mà đến khắp mười phương.

Giảng: Như là: Khiến cho biết gần gũi thiện tri thức, thì sẽ tu công đức trợ đạo cụ. Khiến cho biết gần gũi thiện tri thức, thì sẽ khởi tâm tinh tấn dũng mãnh. Khiến cho biết gần gũi thiện tri thức, thì sẽ làm thiện nghiệp khó hoại. Khiến cho biết gần gũi thiện tri thức, thì sẽ được sức lực khó phục. Khiến cho biết gần gũi thiện tri thức, thì sẽ vào được vô biên biển cõi phương hướng. Khiến cho biết gần gũi thiện tri thức, thì sẽ tu hành Phật pháp lâu dài. Khiến cho biết gần gũi thiện tri thức, thì sẽ biện lý được vô biên đạo nghiệp. Khiến cho biết gần gũi thiện tri thức, thì sẽ tu hành vô lượng đạo pháp. Khiến cho biết gần gũi thiện tri thức, thì sẽ được sức mau chóng thành Phật, đến khắp biển cõi của chư Phật. Khiến cho biết gần gũi thiện tri thức, thì sẽ không lìa bổn xứ, mà đến khắp mười phương cõi nước chư Phật.

 

Thời, Thiện tài đồng tử cự phát thị niệm: do thân cận thiện tri thức, năng dũng mãnh cần tu nhất thiết trí đạo; do thân cận thiện tri thức, năng tốc tật xuất sanh chư Đại nguyện hải; do thân cận thiện tri thức, năng vi nhất thiết chúng sanh, tận vị lai kiếp thọ vô biên khổ; do thân cận thiện tri thức, năng bị đại tinh tấn giáp, ư nhất vi trần trung thuyết Pháp thanh biến Pháp giới; do thân cận thiện tri thức, năng tốc vãng nghệ nhất thiết phương hải; do thân cận thiện tri thức, ư nhất mao đạo, tận vị lai kiếp tu Bồ Tát hạnh; do thân cận thiện tri thức, ư niệm niệm trung hành Bồ Tát hạnh, cứu cánh an trụ nhất thiết trí địa; do thân cận thiện tri thức, năng nhập tam thế nhất thiết Như Lai tự tại thần lực chư trang nghiêm đạo; do thân cận thiện tri thức, năng thường biến nhập chư Pháp giới môn; do thân cận thiện tri thức, thường duyên Pháp giới vị tằng động xuất, nhi năng biến vãng thập phương quốc độ.

Lúc đó Thiện Tài liền phát ý nghĩ rằng : do thân cận thiện tri thức mà có thể dũng mãnh siêng tu nhứt thiết trí đạo. Do thân cận thiện tri thức mà có thể mau xuất sanh những đại nguyện. Do thân cận thiện tri thức mà có thể vì chúng sanh thọ vô biên khổ tận kiếp vị lai. Do thân cận thiện tri thức mà có thể mặc áo giáp đại tinh tấn trong một vi trần thuyết pháp tiếng vang khắp pháp giới. Do thân cận thiện tri thức mà có thể mau đến tất cả phương. Do thân cận thiện tri thức mà ở trong một sợi lông tu Bồ Tát hạnh tận vị lai kiếp. Do thân cận thiện tri thức mà trong mỗi niệm thật hành Bồ Tát hạnh rốt ráo an trụ bực nhứt thiết trí. Do thân cận thiện tri thức mà có thể nhập những đạo trang nghiêm thần lực tự tại của tất cả Như Lai. Do thân cận thiện tri thức mà có thể thường vào khắp các môn pháp giới. Do thân cận thiện tri thức nên thường duyên pháp giới chưa từng động xuất mà có thể qua khắp quốc độ mười phương.

Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử bèn nghĩ như vầy: “Do nhờ gần gũi thiện tri thức, mà dũng mãnh siêng tu đạo nhất thiết trí huệ. Do nhờ gần gũi thiện tri thức, mà mau chóng sinh ra biển các đại nguyện. Do nhờ gần gũi thiện tri thức, mà chí nguyện vì tất cả chúng sinh hết kiếp thuở vị lai thọ vô lượng khổ. Do nhờ gần gũi thiện tri thức, mà mặc áo giáp đại tinh tấn, ở trong một hạt bụi nói pháp, âm thanh khắp cùng pháp giới, có sức thần thông nầy. Do nhờ gần gũi thiện tri thức, mà có thể sớm đi đến biển tất cả phương hướng. Do nhờ gần gũi thiện tri thức, mà có thể ở trong một sợi lông hết kiếp thuở vị lai tu Bồ Tát hạnh. Do nhờ gần gũi thiện tri thức, mà ở trong niệm niệm hành Bồ Tát hạnh, rốt ráo an trụ bậc nhất thiết trí. Do nhờ gần gũi thiện tri thức, mà có thể nhập vào thần lực tự tại, các đạo trang nghiêm của tất cả Như Lai ba đời. Do nhờ gần gũi thiện tri thức, mà có thể thường vào khắp các pháp giới môn. Do nhờ gần gũi thiện tri thức, thường duyên pháp giới chưa từng động xuất, mà có thể đến khắp mười phương cõi nước”.

======================

33. DẠ THẦN HỈ MỤC QUÁN SÁT CHÚNG SANH
PHÓ THÁC THỨ 33 – PHÁP QUANG ĐỊA

Đây là Phát quang địa thứ ba, thành tựu thắng định đại pháp tổng trì, vì có thể phát vô biên diệu huệ quang. Thiện hữu là Hỉ Mục Quán Sát Chúng Sinh. Hỉ mục, biểu thị Ngài có thể nhẫn thấy ác vật. Quán sát, tức là Ngài từ sự tu hành văn trì mà phát quang.

 

Nhĩ thời, Thiện tài đồng tử phát thị niệm dĩ, tức nghệ Hỉ Mục Quan Sát Chúng Sanh dạ Thần sở.

Sai khi phát ý nghĩ như vậy. Thiện Tài đến chỗ Dạ Thần Hỉ Mục Quan Sát Chúng Sanh

Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử phát tâm như vậy rồi, lập tức đi đến chỗ Dạ Thần Hỉ Mục Quán Sát Chúng Sinh,

 

Kiến bỉ dạ Thần tại ư Như Lai chúng hội đạo tràng, tọa liên hoa tạng sư tử chi tọa, nhập đại thế lực phổ hỉ tràng giải thoát, ư kỳ thân thượng nhất nhất mao khổng, xuất vô lượng chủng biến hóa thân vân, tùy kỳ sở ưng, dĩ diệu ngôn âm nhi vi thuyết Pháp, phổ nhiếp vô lượng nhất thiết chúng sanh, giai lệnh hoan hỉ nhi đắc lợi ích.

Thấy Dạ Thần này ở trong chúng hội đạo tràng của đức Như Lai ngồi trên tòa sư tử Liên Hoa Tạng, nhập đại thế lực phổ hỉ tràng giải thoát. Ở trên thân của Dạ Thần, mỗi lỗ lông phát ra vô lượng thân biến hóa, tùy theo sở nghi dùng âm thanh vi diệu để vì họ thuyết pháp, nhiếp khắp tất cả chúng sanh đều làm cho họ hoan hỷ được lợi ích.

Giảng: Thấy vị Dạ Thần đó ở tại đạo tràng chúng hội của Như Lai, ngồi trên toà sư tử Liên hoa tạng, nhập vào giải thoát tam muội Đại thế lực phổ hỉ tràng (nhiếp phục hết là đại thế lực, khắp xưng quần cơ, nên gọi là phổ hỉ. Thôi phục cao hiển, cho nên gọi là tràng). Từ trên thân Ngài, trong mỗi lỗ chân lông, đều hiện ra vô lượng thứ mây biến hoá thân. Tuỳ thuận căn cơ chúng sinh đáng dùng lời nói vi diệu, liền vì họ mà nói pháp. Nhiếp thọ khắp vô lượng tất cả chúng sinh, đều khiến cho họ hoan hỉ mà đắc được lợi ích.

 

Sở vị: xuất vô lượng hóa thân vân, sung mãn thập phương nhất thiết thế giới, thuyết chư Bồ-tát hạnh đàn ba-la-mật, ư nhất thiết sự giai vô luyến trước, ư nhất thiết chúng sanh phổ giai thí dữ; kỳ tâm bình đẳng, vô hữu khinh mạn, nội ngoại tất thí, nan xả năng xả.

Như là hiện ra vô lượng hóa thân sung mãn tất cả thế giới mười phương, diễn nói những Bồ Tát hạnh Ðàn Ba la mật, không luyến mến tất cả sự, đều đem ban cho tất cả chúng sanh, tâm đó bình đẳng không có khinh mạn, trong ngoài đều đem cho, có thể xả được thứ khó xả.

Giảng: Như là: Hiện ra vô lượng mây biến hoá thân bố thí Ba La Mật, đầy khắp mười phương tất cả thế giới, diễn nói các Bồ Tát tu hạnh bố thí Ba La Mật. Đối với tất cả sự việc đều không tham luyến chấp trước. Đối với tất cả chúng sinh đều bố thí cho khắp. Tâm Ngài bình đẳng, không có sự phân biệt phú quý bần tiện cao thấp. Đối với chúng sinh chẳng khởi tâm khinh mạn, nội thí đầu mắt tuỷ não, ngoại thí đất nước vợ con, khó xả mà xả bỏ được.

 

Hựu xuất đẳng chúng sanh số vô lượng hóa thân vân, sung mãn Pháp giới, phổ Hiện-Nhất-Thiết chúng sanh chi tiền, thuyết trì tịnh giới vô hữu khuyết phạm, tu chư khổ hạnh giai tất cụ túc, ư chư thế gian vô hữu sở y, ư chư cảnh giới vô sở ái trước, thuyết tại sanh tử luân hồi vãng phản, thuyết chư nhân thiên thịnh suy khổ lạc, thuyết chư cảnh giới giai thị bất tịnh, thuyết nhất thiết pháp giai thị vô thường, thuyết nhất thiết hành tất khổ vô vị, lệnh chư thế gian xả ly điên đảo, trụ chư Phật cảnh trì Như Lai giới. như thị diễn thuyết chủng chủng giới hạnh, giới hương phổ huân, lệnh chư chúng sanh tất đắc thành thục.

Hiện ra vô lượng hóa thân bằng số chúng sanh đầy khắp pháp giới ở trước chúng sanh mà diễn nói trì tịnh giới không khuyết phạm, tu những khổ hạnh đều đầy đủ cả, không y tựa các thế gian, không ái nhiễm những cảnh giới. Nói trong sanh tử luân hồi qua lại. Nói hàng Nhơn, Thiên thạnh suy khổ vui. Nói các cảnh giới đều là bất tịnh. Nói tất cả pháp đều vô thường. Nói tất cả hành pháp đều khổ vô vị. Nói như vậy để làm cho các thế gian rời bỏ điên đảo an trụ nơi cảnh giới Phật, trì giới pháp của Như Lai diễn nói những giới hạnh như vậy, giới hương xông khắp làm cho các chúng sanh đều được thành thục.

Giảng: Từ trong mỗi lỗ chân lông của vị Dạ Thần, lại hiện ra vô lượng mây hoá thân trì giới Ba La Mật đồng số chúng sinh, đầy khắp pháp giới, khắp hiện ra trước tất cả chúng sinh, diễn nói giữ giới thanh tịnh, không có thiếu khuyết và huỷ phạm. Tu các khổ hạnh, thảy đều đầy đủ Bồ Tát hạnh. Không nương tựa tất cả các thế gian, không tham ái chấp trước tất cả cảnh giới. Diễn nói qua lại trong sáu nẻo luân hồi sinh tử, lúc lên trời, lúc cõi người, lúc ở địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ. Lại diễn nói năm tướng suy hiện, tám khổ, sự thạnh suy khổ vui của các trời người. Nói tất cả cảnh giới đều là bất tịnh. Nói tất cả pháp đều là vô thường. Lại nói tất cả hành đều khổ vô vị, khiến cho chúng sinh của tất cả thế gian đều xả lìa điên đảo mộng tưởng, mà trụ cảnh giới của chư Phật, giữ gìn giới của Phật. Diễn nói đủ thứ giới hạnh như vậy, giới hương xông khắp pháp giới, khiến cho hết thảy tất cả chúng sinh đều được thành thục hạnh môn tu hành.

 

Hựu xuất đẳng chúng sanh số chủng chủng thân vân, thuyết năng nhẫn thọ nhất thiết chúng khổ, sở vị: cát tiệt, chúy sở, ha mạ, khi nhục, kỳ tâm thái nhiên, bất động bất loạn; ư nhất thiết hạnh bất ti bất cao, ư chư chúng sanh bất khởi ngã mạn, ư chư pháp tánh an trụ nhẫn thọ

Lại hiện ra vô lượng thân bằng số chúng sanh diễn nói nhẫn thọ được tất cả sự khổ. Như là bị cắt chém, đánh đập, mắng nhiếc, sỉ nhục, mà tâm vẫn thơ thới chẳng động chẳng loạn. Với tất cả công hạnh, chẳng quan niệm thấp cao. Với tất cả chúng sanh chẳng có ý nghĩ ngã mạn. Với các pháp tánh thời an trụ nhẫn thọ.

Giảng: Từ trong mỗi lỗ chân lông của vị Dạ Thần, lại hiện ra đủ thứ mây thân nhẫn nhục Ba La Mật đồng số chúng sinh, diễn nói nhẫn thọ được tất cả các khổ. Như là: Dùng đao chặt, cắt, dùng gậy đánh đập, mắng chửi sỉ nhục, tâm vẫn thư thái, chẳng động chẳng loạn. Cho nên tôi dạy các vị, bất cứ ai đến mắng sư phụ của các vị, thì các vị đừng có mắng lại họ. Đến đánh sư phụ của các vị, thì các vị cũng đừng đánh lại họ. Các vị không cần đánh lại họ để bảo vệ sư phụ như thế, đây là không đúng. Các vị có thể dùng tinh thần nhẫn nhục, để hành trì Phật pháp, đó mới là chân chánh bảo vệ sư phụ. Cho nên lúc nào cũng phải thư thái, không động, không loạn, không trước cấp.

Đối với tất cả hạnh, cũng chẳng hiềm thấp, cũng chẳng cao ngạo. Đối với hết thảy chúng sinh, đừng sinh tâm ngã mạn. Đối với tất cả pháp tánh, an trụ nhẫn thọ, không thể nhẫn cũng phải nhẫn, không thể nhường cũng phải nhường, không thể ăn cũng phải ăn, không thể thọ cũng phải thọ.

 

Thuyết Bồ-đề tâm vô hữu cùng tận, tâm vô tận cố trí diệc vô tận, phổ đoạn nhất thiết chúng sanh phiền não

Diễn nói tâm Bồ đề không cùng tận, vì tâm vô tận nên trí cũng vô tận, dứt phiền não của khắp tất cả chúng sanh.

Giảng: Đối với chúng sinh nói tâm bồ đề không cùng tận, vì tâm chẳng cùng tận, cho nên trí huệ cũng chẳng cùng tận, khắp đoạn trừ phiền não của tất cả chúng sinh.

 

Thuyết chư chúng sanh ti tiện xú lậu bất cụ túc thân, lệnh sanh yếm ly; tán chư Như Lai thanh tịnh diệu sắc vô thượng chi thân, lệnh sanh hân lạc.

Diễn nói thân của chúng sanh chẳng hoàn cụ ty tiện xấu xí cho họ nhàm lìa, khen ngợi thần diệu sắc thanh tịnh vô thượng của Như Lai cho họ ham mến.

Giảng: Nói thân của các chúng sinh bị quả báo ti tiện xấu xí, chẳng đầy đủ sáu căn, đui mù câm điếc, khiến cho họ sinh tâm nhàm lìa. Sau đó khen ngợi thân thanh tịnh sắc đẹp vô thượng của các Như Lai, khiến cho họ hoan hỉ vui thích.

 

Như thị phương tiện, thành thục chúng sanh.

Dùng những phương tiện như vậy để thành thục chúng sanh.

Giảng: Dùng pháp môn phương tiện như vậy thành thục tất cả chúng sinh.

 

Hựu xuất đẳng chúng sanh giới chủng chủng thân vân, tùy chư chúng sanh tâm chi sở lạc, thuyết dũng mãnh tinh tấn, tu nhất thiết trí trợ đạo chi Pháp; dũng mãnh tinh tấn, hàng phục ma oán; dũng mãnh tinh tấn, phát Bồ-đề tâm, bất động bất thoái; dũng mãnh tinh tấn, độ nhất thiết chúng sanh, xuất sanh tử hải; dũng mãnh tinh tấn, trừ diệt nhất thiết ác đạo chư nạn; dũng mãnh tinh tấn, hoại vô trí sơn; dũng mãnh tinh tấn, cúng dường nhất thiết chư Phật Như Lai bất sanh bì yếm; dũng mãnh tinh tấn, thọ trì nhất thiết chư Phật Pháp luân; dũng mãnh tinh tấn, hoại tán nhất thiết chư chướng ngại sơn; dũng mãnh tinh tấn, giáo hóa thành thục nhất thiết chúng sanh; dũng mãnh tinh tấn, nghiêm tịnh nhất thiết chư Phật quốc độ.

Lại hiện ra vô lượng thân đồng với số chúng sanh, tùy theo tâm sở thích của chúng sanh mà nói dũng mãnh tinh tấn tu tập pháp trợ đạo nhất thiết trí. Dũng mãnh tinh tấn hàng phục quân ma. Dũng mãnh tinh tấn phát Bồ đề tâm chẳng động chẳng thối. Dũng mãnh tinh tấn độ tất cả chúng sanh ra khỏi biển sanh tử. Dũng mãnh tinh tấn trừ diệt tất cả nạn ác đạo. Dũng mãnh tinh tần phá vở núi vô trí. Dũng mãnh tinh tấn cúng dường tất cả chư Phật Như Lai không nhàm mỏi. Dũng mãnh tinh tấn thọ trì tất cả pháp luân của chư Phật. Dũng mãnh tinh tấn làm tan tất cả chướng ngại. Dũng mãnh tinh tấn giáo hóa thành thục tất cả chúng sanh. Dũng mãnh tinh tấn nghiêm tịnh tất cả Phật độ.

Giảng: Lại ở trong mỗi lỗ chân lông của vị Dạ Thần, hiện ra đủ thứ thân mây tinh tấn Ba La Mật đồng cõi chúng sinh, tuỳ tâm ưa thích của các chúng sinh, mà nói pháp môn dũng mãnh tinh tấn, tu hành pháp trợ đạo nhất thiết trí. Dũng mãnh tinh tấn, hàng phục tất cả thiên ma ngoại đạo. Dũng mãnh tinh tấn, phát tâm bồ đề, chẳng giao động, chẳng thối lùi. Dũng mãnh tinh tấn, độ tất cả chúng sinh thoát khỏi biển sinh tử. Dũng mãnh tinh tấn, trừ diệt các nạn của tất cả đường ác. Dũng mãnh tinh tấn, phá hoại núi ngu si không có trí huệ. Dũng mãnh tinh tấn, cúng dường tất cả chư Phật Như Lai, chẳng sinh mệt mỏi nhàm chán. Dũng mãnh tinh tấn, thọ trì bánh xe pháp của tất cả chư Phật. Dũng mãnh tinh tấn, phá tan tất cả các núi chướng ngại. Dũng mãnh tinh tấn, giáo hoá thành thục tất cả chúng sinh. Dũng mãnh tinh tấn, nghiêm tịnh tất cả cõi nước chư Phật.

 

Như thị phương tiện, thành thục chúng sanh.

Dùng những phương tiện như vậy để thành thục chúng sanh.

Giảng: Đủ thứ pháp môn phương tiện như vậy để thành thục chúng sinh.

 

Hựu xuất chủng chủng vô lượng thân vân, dĩ chủng chủng phương tiện, lệnh chư chúng sanh, tâm sanh hoan hỉ, xả ly ác ý, yếm nhất thiết dục; vi thuyết tàm quý, lệnh chư chúng sanh tạng hộ chư căn; vi thuyết vô thượng thanh tịnh phạm hạnh; vi thuyết dục giới thị ma cảnh giới, lệnh sanh khủng bố; vi hiện bất lạc thế gian dục lạc, trụ ư Pháp lạc, tùy kỳ thứ đệ, nhập chư Thiền định chư tam muội lạc, lệnh tư tánh quan sát, trừ diệt nhất thiết sở hữu phiền não; hựu vi diễn thuyết nhất thiết Bồ Tát chư tam muội hải thần lực biến hiện tự tại du hí, lệnh chư chúng sanh hoan hỉ Thích-duyệt, ly chư ưu bố, kỳ tâm thanh tịnh, chư căn mãnh lợi, ái trọng ư Pháp, tu tập tăng trưởng.

Lại hiện ra vô lượng thân, dùng nhiều phương tiện làm cho các chúng sanh có lòng hoan hỷ bỏ ác niệm, nhàm dục lạc. Diễn nói sự hổ thẹn, cho chúng sanh che giấu các căn. Diễn nói phạm hạnh thanh tịnh vô thượng. Diễn nói Dục giới là cảnh của ma, cho họ kinh sợ. Vì họ mà hiện chẳng thích dục lạc của thế gian để an trụ nơi pháp lạc, theo thứ đệ nhập các thiền định, các tam muội. Khiến họ tự duy quán sát diệt trừ tất cả phiền não. Lại diễn nói những môn tam muội thần lực biến hiện tự tại du hí của Bồ Tát, cho các chúng sanh hoan hỉ thích thú, rời sự lo sợ, tâm được thanh tịnh, căn tánh mãnh lợi, mến trọng chánh pháp tu tập tăng trưởng.

Giảng: Lại từ trong mỗi lỗ chân lông của vị Dạ Thần, hiện ra đủ thứ vô lượng thân mây, dùng đủ thứ pháp môn phương tiện, khiến cho các chúng sinh, sinh tâm hoan hỉ, bỏ lìa tâm ý tà ác, nhàm chán tất cả sự dâm dục. Do đó:

“Vạn ác dâm vi thủ
Tử lộ bất khả tẩu”.

Nghĩa là:
“Vạn ác dâm đứng đầu
Đường cùng hết chỗ đi”.

Nếu phạm tội dâm dục, thì không dễ gì sám hối được. Vì họ nói pháp hổ thẹn, khiến cho các chúng sinh che dấu các căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Vì họ nói phạm hạnh thanh tịnh vô thượng. Vì họ nói chúng sinh trong dục giới, đều ở trong cảnh giới ma, khiến cho họ sinh tâm sợ hãi. Vì họ hiện dục lạc thế gian chẳng vui, trụ nơi an vui của pháp. Tuỳ thuận thứ lớp thiền định, mà nhập vào an vui các tam muội của tất cả thiền định, khiến cho họ suy gẫm quán sát trừ diệt tất cả hết thảy phiền não. Lại vì họ diễn nói tất cả biển tam muội của tất cả Bồ Tát, sức thần thông biến hoá và thị hiện, tự tại du hí nơi pháp giới, khiến cho các chúng sinh hoan hỉ vui mừng, xa lìa khỏi các lo âu sợ hãi. Tâm họ thanh tịnh, các căn dũng mãnh lanh lợi, cung kính ưa thích Phật pháp, tu hành học tập tăng trưởng.

 

Hựu xuất đẳng chúng sanh giới chủng chủng thân vân, vi thuyết vãng nghệ thập phương quốc độ, cúng dường chư Phật cập dĩ sư trưởng, chân thiện tri thức, thọ trì nhất thiết chư Phật Pháp luân tinh cần bất giải; hựu vi diễn thuyết, xưng tán nhất thiết chư Như Lai hải, quan sát nhất thiết chư pháp môn hải, hiển thị nhất thiết chư pháp tánh tướng, khai xiển nhất thiết chư tam muội môn, khai trí tuệ cảnh giới, kiệt nhất thiết chúng sanh nghi hải; thị trí tuệ Kim cương, hoại nhất thiết chúng sanh kiến sơn; thăng trí tuệ nhật luân, phá nhất thiết chúng sanh si ám. Giai lệnh hoan hỉ, thành nhất thiết trí.

Lại hiện ra vô lượng thân diễn nói qua đến mười phương quốc độ cúng dường chư Phật, Sư trưởng, chơn thiện tri thức, thọ trì pháp luân của chư Phật, siêng năng chẳng lười. Lại diễn nói ca ngợi tất cả chư Phật Như Lai, quát sát tất cả pháp môn, hiển thị tánh tướng của tất cả pháp, khai xiển tất cả môn tam muội. Mở cảnh giới trí huệ cạn biển nghi của tất cả chúng sanh. Chỉ kim cang trí huệ phá vỡ núi kiến chấp của tất cả chúng sanh. Mọc mặt nhự t trí huệ phá si tối của tất cả chúng sanh, cho họ hoan hỷ thành nhứt thiết trí.

Giảng: Lại từ trong mỗi lỗ chân lông của vị Dạ Thần, hiện ra đủ thứ thân mây trí huệ biến hoá đồng cõi chúng sinh. Vì họ nói đi đến mười phương cõi nước, cúng dường chư Phật, sư trưởng và chân chánh thiện tri thức. Thọ trì bánh xe pháp của tất cả chư Phật, siêng năng tu tập không giải đãi.

Lại vì họ diễn nói khen ngợi biển tất cả các Như Lai, quán sát biển tất cả các pháp môn, hiển bày tướng tất cả các pháp tánh, khai xiển tất cả các môn tam muội. Khai mở cảnh giới trí huệ, khô cạn biển nghi hoặc của tất cả chúng sinh. Chỉ bày trí huệ kim cang, phá hoại núi tà tri tà kiến của tất cả chúng sinh. Thăng lên mặt trời trí huệ, phá tan ngu si đen tối của tất cả chúng sinh, đều khiến cho họ hoan hỉ, thành tựu nhất thiết trí.

 

Hựu xuất đẳng chúng sanh giới chủng chủng thân vân, phổ nghệ nhất thiết chúng sanh chi tiền, tùy kỳ sở ưng, dĩ chủng chủng ngôn từ nhi vi thuyết Pháp; hoặc thuyết thế gian thần thông phước lực; hoặc thuyết tam giới giai thị khả phố, lệnh kỳ bất tác thế gian nghiệp hạnh, ly tam giới xứ, xuất kiến trù lâm; hoặc vi xưng tán nhất thiết trí đạo, lệnh kỳ siêu việt nhị thừa chi địa; hoặc vi diễn thuyết bất trụ sanh tử, bất trụ Niết Bàn, lệnh kỳ bất trước hữu vi, vô vi; hoặc vi diễn thuyết trụ ư Thiên cung nãi chí đạo tràng, lệnh kỳ hân lạc phát Bồ-đề ý.

Lại hiện ra vô lượng thân đến trước tất cả chúng sanh, tùy theo sở nghi dùng nhiều ngôn từ để thuyết pháp. Hoặc nói thần thông phước lực thế gian. Hoặc nói tam giới đều đáng sợ, cho họ chẳng gây tạo nghiệp hạnh thế gian để rời tam giới, khỏi rừng kiến chấp. Hoặc ca ngợi đạo nhứt thiết trí cho họ siêu việt bực Nhị thừa. Hoặc diễn nói chẳng trụ sanh tử chẳng trụ Niết bàn cho họ chẳng chấp hữu vi và vô vi. Hoặc diễn nói ở Ðâu Suất Thiên cung nhẫn đến đạo tràng, cho họ vui thích phát tâm Bồ đề.

Giảng: Lại từ trong mỗi lỗ chân lông của vị Dạ Thần, hiện ra đủ thứ thân mây phương tiện thiện xảo Ba La Mật biến hoá đồng cõi chúng sinh, đến trước khắp tất cả chúng sinh. Tuỳ thuận căn tánh của người đáng được độ, dùng đủ thứ lời lẽ để vì họ nói pháp. Hoặc nói thần thông phước lực thế gian, hoặc nói ba cõi đều đáng sợ, do đó: “Ba cõi không yên, giống như nhà lửa”, khiến cho họ chẳng làm nghiệp hạnh thế gian, mà xa lìa khỏi nơi ba cõi, thoát khỏi rừng rậm vọng tưởng tà tri tà kiến, ác tri ác kiến. Hoặc vì họ khen ngợi đạo nhất thiết trí, khiến cho họ vượt qua bậc hai thừa, và quả vị của bậc hai thừa tu. Hoặc vì họ diễn nói chẳng trụ sinh tử, chẳng trụ Niết Bàn, khiến cho họ chẳng chấp vào pháp hữu vi và pháp vô vi. Hoặc vì họ diễn nói trụ ở Thiên cung, cho đến đạo tràng Phật thuyết pháp, khiến cho họ hoan hỉ vui thích, mà phát tâm bồ đề.

 

Như thị phương tiện, giáo hóa chúng sanh, giai lệnh cứu cánh đắc nhất thiết trí.

Dùng những phương tiện giáo hóa chúng sanh, cho họ rốt ráo được Nhứt thiết trí.

Giảng: Đủ thứ phương tiện thiện xảo giáo hoá chúng sinh như vậy, đều khiến cho họ rốt ráo đắc được nhất thiết trí huệ.

 

Hựu xuất nhất thiết thế giới vi trần số thân vân, phổ nghệ nhất thiết chúng sanh chi tiền, niệm niệm trung, thị Phổ Hiền Bồ Tát nhất thiết hành nguyện; niệm niệm trung, thị thanh tịnh đại nguyện sung mãn Pháp giới; niệm niệm trung, thị nghiêm tịnh nhất thiết thế giới hải; niệm niệm trung, thị cúng dường nhất thiết Như Lai hải; niệm niệm trung, thị nhập nhất thiết pháp môn hải; niệm niệm trung, thị nhập nhất thiết thế giới hải, vi trần số thế giới hải; niệm niệm trung, thị ư nhất thiết sát tận vị lai kiếp thanh tịnh tu hành nhất thiết trí đạo; niệm niệm trung, thị nhập Như Lai lực; niệm niệm trung, thị nhập nhất thiết tam thế phương tiện hải; niệm niệm trung, thị vãng nhất thiết sát hiện chủng chủng thần thông biến hóa; niệm niệm trung, thị chư Bồ-tát nhất thiết hành nguyện, lệnh nhất thiết chúng sanh trụ nhất thiết trí. Như thị sở tác, hằng vô hưu tức.

Lại hiện ra vô lượng thân đến trước tất cả chúng sanh, trong mỗi niệm chỉ bày tất cả hạnh nguyện của Phổ Hiền Bồ Tát. Trong mỗi niệm chỉ bày đại nguyện thanh tịnh sung mãn pháp giới. Trong mỗi niệm chỉ bày nghiêm tịnh tất cả thế giới. Trong mỗi niệm chỉ bày cúng dường tất cả Như Lai. Trong mỗi niệm chỉ bày nhập tất cả pháp môn. Trong mỗi niệm chỉ bày nhập tất cả Phật sát vi trần số thế giới. Trong mỗi niệm chỉ bày thanh tịnh tu hành đạo Nhứt thiết trí nơi tất cả cõi tận kiếp vị lại. Trong mỗi niệm chỉ bày nhập Như Lai lực. Trong mỗi niệm chỉ bày phương tiện nhập tất cả tam thế. Trong mỗi niệm chỉ bày hiện những thần thông biến hóa qua tất cả cõi. Trong mỗi niệm chỉ bày tất cả hạnh nguyện Bồ Tát cho tất cả chúng sanh an trụ nhất thiết trí. Những việc làm như vậy luôn không thôi nghỉ.

Giảng: Lại từ trong mỗi lỗ chân lông của vị Dạ Thần, hiện ra thân mây nhiều như số hạt bụi tất cả thế giới, đến khắp trước tất cả chúng sinh. Trong niệm niệm chỉ bày tất cả hạnh nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền. Trong niệm niệm chỉ bày đại nguyện thanh tịnh đầy khắp pháp giới. Trong niệm niệm chỉ bày chúng sinh trang nghiêm thanh tịnh tất cả biển thế giới. Trong niệm niệm chỉ bày chúng sinh cúng dường tất cả biển Như Lai. Trong niệm niệm chỉ bày chúng sinh vào tất cả biển pháp môn của Phật nói. Trong niệm niệm chỉ bày chúng sinh vào biển thế giới nhiều như số hạt bụi tất cả biển thế giới. Trong niệm niệm chỉ bày chúng sinh nơi tất cả cõi Phật, hết kiếp thuở vị lai, thanh tịnh tu hành đạo nhất thiết trí. Trong niệm niệm chỉ bày chúng sinh vào mười lực của Như Lai. Trong niệm niệm chỉ bày chúng sinh vào biển phương tiện tất cả ba đời. Trong niệm niệm chỉ bày chúng sinh đến tất cả cõi Phật, thị hiện đủ thứ thần thông biến hoá. Trong niệm niệm chỉ bày chúng sinh tất cả hạnh nguyện của các Bồ Tát, khiến cho tất cả chúng sinh trụ cảnh giới nhất thiết trí huệ. Các việc làm như vậy, luôn luôn không ngừng nghỉ.

 

Hựu xuất đẳng nhất thiết chúng sanh tâm số thân vân, phổ nghệ nhất thiết chúng sanh chi tiền, thuyết chư Bồ-tát tập nhất thiết trí trợ đạo chi Pháp vô biên tế lực, cầu nhất thiết trí bất phá hoại lực, vô cùng tận lực, tu vô thượng hạnh Bất-thoái-chuyển lực, Vô gián đoạn lực, ư sanh tử Pháp vô nhiễm trước lực, năng phá nhất thiết chư ma chúng lực, viễn ly nhất thiết phiền não cấu lực, năng phá nhất thiết nghiệp chướng sơn lực, trụ nhất thiết kiếp tu đại bi hạnh vô bì quyện lực, chấn động nhất thiết chư Phật quốc độ lệnh nhất thiết chúng sanh sanh hoan hỉ lực, năng phá nhất thiết chư ngoại đạo lực, phổ ư thế gian chuyển pháp luân lực.

Lại hiện ra vô lượng thân đến trước tất cả chúng sanh nói vô biên tế lực của chư Bồ Tát chứa nhóm pháp trợ đạo Nhứt thiết trí. Nói bất hoại lực, vô tận lực cầu Nhứt thiết trí. Nói bất thối lực, vô gián lực tu hạnh vô thượng. Nói vô nhiễm lực đối với pháp sanh tử. Nói sức có thể phá tất cả ma chúng. Nói sức có thể xa rời tất cả phiền não. Nói sức có thể phá tất cả núi nghiệp chướng. Nói sức không mỏi trụ tất cả kiếp tu hành đại bi. Sức chấn động tất cả quốc độ làm cho tất cả chúng sanh, sanh lòng hoan hỷ. Sức có thể phá tất cả ngoại đạo. Sức chuyển pháp luân trong các thế gian.

Giảng: Lại từ trong mỗi lỗ chân lông của vị Dạ Thần, hiện ra số thân mây đồng tất cả tâm chúng sinh, đến khắp trước tất cả chúng sinh, diễn nói vô biên lực của các Bồ Tát tu tập pháp trợ đạo nhất thiết trí. Lực cầu nhất thiết trí không thể phá hoại. Lực vô cùng tận. Lực bất thối chuyển tu hạnh vô thượng. Lực không gián đoạn. Lực pháp không nhiễm trước nơi sinh tử. Lực phá được tất cả các chúng ma. Lực xa lìa tất cả dơ phiền não. Lực phá được tất cả núi nghiệp chướng. Lực trụ nhất thiết trí, tu hạnh đại bi không mệt mỏi. Lực chấn động tất cả cõi nước chư Phật, khiến cho tất cả chúng sinh hoan hỉ. Lực phá được tất cả các ngoại đạo. Lực chuyển bánh xe pháp khắp thế gian.

 

Dĩ như thị đẳng phương tiện thành thục, lệnh chư chúng sanh chí nhất thiết trí.

Dùng những phương tiện thành thục như vậy làm cho các chúng sanh đến Nhứt thiết trí.

Giảng: Dùng đủ thứ lực phương tiện thành thục như vậy, khiến các chúng sinh đến bậc nhất thiết trí.

 

Hựu xuất đẳng nhất thiết chúng sanh tâm số vô lượng biến hóa sắc thân vân, phổ nghệ thập phương vô lượng thế giới, tùy chúng sanh tâm, diễn thuyết nhất thiết Bồ Tát trí hành. Sở vị: thuyết nhập nhất thiết chúng sanh giới hải trí, thuyết nhập nhất thiết chúng sanh tâm hải trí, thuyết nhập nhất thiết chúng sanh căn hải trí, thuyết nhập nhất thiết chúng sanh hạnh hải trí, thuyết độ nhất thiết chúng sanh vị tằng thất thời trí, thuyết xuất nhất thiết pháp giới âm thanh trí, thuyết niệm niệm biến nhất thiết pháp giới hải trí, thuyết niệm niệm tri nhất thiết thế giới hải hoại trí, thuyết niệm niệm tri nhất thiết thế giới hải thành trụ trang nghiêm sái biệt trí, thuyết niệm niệm tự tại thân cận cúng dường nhất thiết Như Lai thính thọ Pháp luân trí.

Lại hiện ra vô lượng thân biến hóa đến khắp vô lượng thế giới, tùy theo tâm của chúng sanh mà diễn nói trí hạnh của tất cả Bồ Tát. Như là nói trí nhập tất cả chúng sanh giới, trí nhập tất cả chúng sanh tâm, trí nhập tất cả chúng sanh căn, trí nhập tất cả chúng sanh hạnh, trí độ tất cả chúng sanh chưa từng lỗi thời, trí phát ra tất cả pháp giới âm thanh, trí mỗi niệm khắp tất cả pháp giới, trí mỗi niệm biết tất cả thế giới hoại, trí mỗi niệm biết tất cả thế giới thành tựu trang nghiêm sai khác nhau, trí mỗi niệm tự tại thân cận cúng dường tất cả Như Lai thính thọ pháp luân.

Giảng: Lại từ trong mỗi mỗi lỗ chân lông của vị Dạ Thần, hiện ra vô lượng mây biến hoá sắc thân đồng số tất cả tâm chúng sinh, đến khắp mười phương vô lượng thế giới. Tuỳ tâm chúng sinh, diễn nói trí hạnh của tất cả Bồ Tát. Như là: Nói trí huệ vào tất cả biển cõi chúng sinh. Nói trí huệ vào tất cả biển tâm chúng sinh. Nói trí huệ vào tất cả biển căn chúng sinh. Nói trí huệ vào tất cả biển hạnh chúng sinh. Nói trí huệ độ tất cả chúng sinh chưa từng thất thời. Nói trí huệ âm thanh vang tất cả pháp giới. Nói trí huệ niệm niệm khắp tất cả biển pháp giới. Nói trí huệ niệm niệm biết tất cả biển thế giới thành hoại. Nói trí huệ niệm niệm biết tất cả biển thế giới thành, trụ, hoại, không, bốn giai đoạn, sự trang nghiêm của một thế giới, là do nghiệp lực của chúng sinh sở cảm. Như thế giới Tây Phương Cực Lạc, thế giới Đông Phương Tịnh Lưu Ly, còn có mười phương vô lượng cõi nước chư Phật thanh tịnh, đều dùng bảy báu trang nghiêm, thanh tịnh không gì sánh bằng. Có những thế giới có dơ sạch xen tạp, có những thế giới dơ bẩn làm thành, đầy dẫy cát đá, núi gò, ví như cõi đời năm ác trược hiện tại của chúng ta đang sống. Tất cả đều do nghiệp lực của chúng sinh sở cảm, do đó có câu: “Tất cả do tâm tạo”. Mà Bồ Tát dùng trí lực của Ngài, trong niệm niệm biết rõ ràng tất cả thế giới, mà không chướng ngại. Lại diễn nói trí huệ niệm niệm tự tại gần gũi cúng dường tất cả chư Phật, nghe thọ pháp luân.

 

Thị hiện như thị trí Ba-la-mật, lệnh chư chúng sanh, giai đại hoan hỉ, điều sướng Thích-duyệt, kỳ tâm thanh tịnh, sanh quyết định giải, cầu nhất thiết trí vô hữu thoái chuyển.

Thị hiện trí Ba la mật như vậy, làm cho các chúng sanh đều rất hoan hỉ thơ thới thích thú, lòng họ thanh tịnh, sanh trí hiểu quyết định cầu nhứt thiết trí không thối chuyển.

Giảng: Những thân mây trí biến hoá đó thị hiện trí Ba La Mật như vậy, khiến cho các chúng sinh đều sinh đại hoan hỉ, sung sướng vui mừng. Tâm họ thanh tịnh, sinh sự hiểu biết chắc chắn, cầu nhất thiết trí, không có thối chuyển.

 

Như thuyết Bồ Tát chư Ba-la-mật thành thục chúng sanh, như thị tuyên thuyết nhất thiết Bồ Tát chủng chủng hành Pháp nhi vi lợi ích.

Như nói các môn Ba la mật của Bồ Tát thành thục chúng sanh, tuyên nói những hành pháp của tất cả Bồ Tát làm lợi ích cho chúng sanh cũng như vậy.

Giảng: Như diễn nói các Ba La Mật của Bồ Tát, thành thục chúng sinh. Các Ngài cũng diễn nói đủ thứ hạnh pháp của tất cả Bồ Tát như vậy, để vì lợi ích chúng sinh.

 

Phục ư nhất nhất chư mao khổng trung, xuất vô lượng chủng chúng sanh thân vân.

Lại ở trong mỗi lỗ lông xuất hiện vô lượng thân chúng sanh.

Giảng: Lại ở trong mỗi mỗi lỗ chân lông của vị Dạ Thần, hiện ra vô lượng thân mây chúng sinh.

 

Sở vị: xuất dữ Sắc cứu kính Thiên, thiện hiện Thiên, thiện kiến Thiên, vô nhiệt Thiên, vô phiền Thiên tương tự thân vân

Như là xuất hiện thân giống như các trời Sắc Cứu Cánh,Thiện Hiện, Thiện Kiến, Vô Nhiệt, Vô Phiền.

Như là hiện ra thân mây tương tự như trời Sắc Cứu Kính, trời Thiện Hiện, trời Thiện Kiến, trời Vô Nhiệt, trời Vô Phiền

Giảng: (Đây là năm trời Bất Hoàn – Ngũ Bất Hoàn Thiên, là trời Tứ Thiền của sắc giới. Cư dân cho rằng mình chứng được tam quả A la hán. Họ chẳng còn trở lại dục giới thọ sinh tử nữa, nên gọi là trời Bất Hoàn – trời Không Trở Lại. Trời Vô Tưởng cũng thuộc về trời Tứ Thiền, nhưng vì tu tam muội vô tưởng của ngoại đạo, nên họ chỉ là Tiên nhân thông thường, chứ chưa chứng được Thánh quả).

 

Xuất thiểu quảng, quảng quả, phước sanh, vô vân Thiên tương tự thân vân

Xuất hiện thân giống như các trời Quảng Quả, Phước Ái, Phước Sanh, Vô Vân.

Giảng: Lại hiện ra thân mây tương tự như trời Thiểu Quảng, trời Quảng Quả, trời Phước Sanh, trời Vô Vân (Đây là trời Tứ Thiền).

 

Xuất Biến tịnh, vô lượng tịnh, thiểu tịnh Thiên tương tự thân vân

Xuất hiện thân giống như các trời Biến Tịnh, Vô Lượng Tịnh, Thiểu Tịnh.

Giảng: Lại hiện ra thân mây tương tự trời Biến Tịnh, trời Vô Lượng Tịnh, trời Thiểu Tịnh (Đây là trời Tam Thiền).

 

Xuất quang âm, Vô Lượng Quang, thiểu quang Thiên tương tự thân vân

Xuất hiện thân giống như các trời Quang Âm, Vô Lượng Quang, Thiểu Quang.

Giảng: Lại hiện ra thân mây tương tự trời Quang Âm, trời Vô Lượng Quang, trời Thiểu Quang (Đây là trời Nhị Thiền).

 

Xuất đại phạm, phạm phụ, phạm chúng Thiên tương tự thân vân

Xuất hiện thân giống như các trời Ðại Phạm, Phạm Chúng, Phạm Phụ.

Giảng: Lại hiện ra thân mây tương tự trời Đại Phạm, trời Phạm Phụ, trời Phạm Chúng (Đây là trời Sơ Thiền của sắc giới).

 

Xuất Tự tại Thiên, Hoá Lạc Thiên, Đâu-Xuất-Đà Thiên, Tu dạ ma Thiên, Đao Lợi Thiên cập kỳ thải nữ, chư Thiên Tử chúng tương tự thân vân

Xuất hiện thân giống như các trời Tự Tại Tha Hóa, Hóa Lạc, Ðâu Suất, Dạ Ma, Ðao Lợi và các Thiên Tử, Thiên Nữ.

Giảng: Lại hiện ra thân mây tương tự trời Tự Tại, trời Hoá Lạc, trời Đâu Suất Đà, trời Tu Dạ Ma, trời Đao Lợi và các Thiên tử Thiên nữ (Đây là trời Lục Dục của dục giới, trời Tứ Thiên Vương chẳng thuộc ở đây).

Trên đây là những thân mây do vị Dạ Thần hiện ra, đầy khắp tam giới hai mươi lăm cõi.

 

Xuất Đề đầu lại trá càn thát bà vương, Càn thát bà tử, Càn thát bà nữ tương tự thân vân

Xuất hiện thân giống như Càn Thát Bà Vương, Càn Thát Bà Tử, Càn Thát Bà Nữ.

Giảng: Vị Dạ Thần lại hiện ra thân mây tương tự Càn Thát Bà Vương, Càn Thát Bà tử, Càn Thát Bà nữ (Đây là Thần nhạc).

 

Xuất Tì-lâu lặc xoa, Cưu bàn trà Vương, Cưu bàn trà tử, Cưu bàn trà nữ tương tự thân vân

Xuất hiện thân giống như Cưu Bàn Trà Vương, Cưu Bàn Trà Tử, Cưu Bàn Trà Nữ.

Giảng: Hiện ra thân mây tương tự Cưu Bàn Trà Vương, Cưu Bàn Trà tử, Cưu Bàn Trà nữ (Đây là quỷ úng hình).

 

Xuất tỳ lâu bác xoa long Vương, long tử, Long nữ tương tự thân vân

Xuất hiện thân giống như Long Vương, Long Tử, Long Nữ.

Giảng: Hiện ra thân mây tương tự Long Vương, Long tử, Long nữ.

 

Xuất Tỳ sa môn dạ xoa Vương, dạ xoa tử, Dạ xoa nữ tương tự thân vân

Xuất hiện thân giống như Dạ Xoa Vương, Dạ Xoa Tử, Dạ Xoa Nữ.

Giảng: Lại hiện ra thân mây tương tự Dạ Xoa Vương, Dạ Xoa tử, Dạ Xoa nữ (Đây là quỷ tốc tật).

 

Xuất Đại thụ khẩn na la Vương, thiện tuệ Ma hầu la già Vương, Đại tốc tật lực Ca Lâu La Vương, La-hầu a tu La Vương, Diêm La pháp vương cập kỳ tử, kỳ nữ tương tự thân vân

Xuất hiện thân giống như Khẩn Na La Vương, Ma Hầu La Già Vương, Ca Lâu La Vương, A Tu La Vương, Diêm La Vương cùng chư Tử, chư Nữ.

Giảng: Lại hiện ra thân mây tương tự Khẩn Na La Vương, Ma Hầu La Già Vương, Ca Lâu La Vương, Càn Thát Bà Vương, Diêm La Pháp Vương, và con trai con gái của chúng.

 

Xuất chư nhân Vương cập kỳ tử, kỳ nữ tương tự thân vân

Xuất hiện thân giống như nhơn vương cùng chư Tử, chư Nữ.

Giảng: Lại hiện ra thân mây tương tự các ông vua và con trai, con gái của vua. Trên đây là Thiên Long bát bộ.

 

Xuất Thanh văn, độc giác cập chư Phật chúng tương tự thân vân,

Xuất hiện thân giống như chúng của Thanh Văn, Ðộc Giác, chư Phật.

Giảng: Vị Dạ Thần lại hiện ra thân mây tương tự chúng Thanh Văn Độc Giác và chư Phật (Đây là Thánh Hiền Tăng).

 

Xuất địa thần, thủy thần, hỏa thần, Phong Thần, hà Thần, hải Thần, sơn Thần, thọ Thần nãi chí trú, dạ, chủ phương thần đẳng tương tự thân vân.

Xuất hiện thân giống như Ðịa Thần, Thủy Thần, Hỏa Thần, Phong Thần, Hà Thần, Hải Thần, Sơn Thần, Thọ Thần, Trú Thần, Dạ Thần, Chủ Phương Thần.

Giảng: Hiện ra thân mây tương tự Thần Đất, Thần Nước, Thần Lửa, Thần Gió, Thần Sông, Thần Biển, Thần Núi, Thần Cây, cho đến Thần Ngày Đêm Chủ Phương v.v…

 

Chu biến thập phương, sung mãn Pháp giới. Ư bỉ nhất thiết chúng sanh chi tiền, hiện chủng chủng thanh.

Xuất hiện vô lượng thân như vậy sung mãn pháp giới. Ở trước tất cả chúng sanh xuất hiện những âm thanh.

Giảng: Đủ thứ thân như vậy, khắp cùng mười phương, đầy khắp tận hư không pháp giới. Vị Dạ Thần lại ở trước tất cả chúng sinh đó, thị hiện đủ thứ âm thanh.

 

Sở vị: phong luân thanh, thủy luân thanh, hỏa diệm thanh, hải triều thanh, địa chấn thanh, Đại sơn tướng kích thanh, Thiên thành chấn động thanh, ma-ni tướng kích thanh, Thiên Vương thanh, long Vương thanh, dạ xoa Vương thanh, càn thát bà vương thanh, A-tu-la Vương thanh, Ca Lâu La Vương thanh, khẩn-na-la Vương thanh, ma hầu La già Vương thanh, nhân Vương thanh, Phạm Vương thanh, Thiên nữ ca vịnh thanh, chư Thiên âm nhạc thanh, ma-ni bảo vương thanh.

Như là : tiếng phong luân, tiếng thủy luân, tiếng hỏa diệm, tiếng hải triều, tiếng địa chấn, tiếng núi lớn chạm nhau, tiếng thiên thành chấn động, tiếng ma ni khua, tiếng Thiên Vương, tiếng Long Vương , tiếng Dạ Xoa Vương, tiếng Càn Thát Bà Vương, tiếng A Tu La Vương, tiếng Ca Lâu La Vương, tiếng Khẩn Na La Vương, tiếng Ma Hầu La Già Vương, tiếng Nhơn Vương, tiếng Phạm Vương, tiếng ca ngâm của Thiên Nữ, tiếng âm nhạc của chư Thiên, tiếng ma ni bửu vương.

Giảng: Như là: Tiếng phong luân, tiếng thuỷ luân, tiếng hoả diệm, tiếng hải triều, tiếng địa chấn, tiếng núi lớn chạm nhau, tiếng thiên thành chấn động, tiếng ma ni đụng nhau, tiếng Thiên Vương, tiếng Long Vương, tiếng Càn Thát Bà Vương, tiếng A Tu La Vương, tiếng Ca Lâu La Vương, tiếng Khẩn Na La Vương, tiếng Ma Hầu La Già Vương, tiếng ông vua, tiếng Phạm Vương, tiếng Thiên nữ ca ngâm, tiếng các âm nhạc trời, ma ni bảo vương, để diễn nói mười hạnh môn Ba La Mật của vị Dạ Thần tu.

 

Dĩ như thị đẳng chủng chủng âm thanh, thuyết hỉ mục quan sát chúng sanh dạ Thần tùng sơ phát tâm sở tập công đức. sở vị: thừa sự nhất thiết chư thiện tri thức, thân cận chư Phật, tu hành thiện Pháp; hành đàn ba-la-mật, nan xả năng xả; hành thi Ba-la-mật, khí xả Vương vị, cung điện, quyến thuộc, xuất gia học đạo; hành Sạn-đề Ba-la-mật, năng nhẫn thế gian nhất thiết khổ sự

Dùng những âm thanh như vậy để diễn nói Hỉ Mục Dạ Thần từ lúc sơ phát tâm gieo trồng công đức, như là kính thờ các bực thiện tri thức, thân cận chư Phật, tu tập thiện pháp. Thật hành Bố Thí Ba la mật khó xả mà xả được. Thật hành Giới Ba la mật vất bỏ ngôi vua, cung điện, quyến thuộc để xuất gia học đạo. Thật hành Nhẫn Nhục Ba la mật có thể nhẫn chịu tất cả sự khổ thế gian,

Giảng: Hiện ra đủ thứ những âm thanh như vậy, để nói về vị Dạ Thần Hỉ Mục Quán Sát Chúng Sinh, từ lúc ban đầu phát tâm tu tập công đức. Như là: Hầu hạ tất cả các thiện tri thức. Gần gũi chư Phật tu hành pháp lành.
Tu hành bố thí Ba La Mật, khó xả mà xả bỏ được.
Tu hành trì giới Ba La Mật, từ bỏ ngôi vua cung điện quyến thuộc, để xuất gia học đạo. Tu hành nhẫn nhục Ba La Mật, nhẫn được tất cả việc khổ của thế gian

 

Cập dĩ Bồ Tát sở tu khổ hạnh, sở trì chánh pháp, giai tất kiên cố, kỳ tâm bất động, diệc năng nhẫn thọ nhất thiết chúng sanh ư kỷ thân tâm ác tác ác thuyết, nhẫn nhất thiết nghiệp giai bất thất hoại, nhẫn nhất thiết pháp sanh quyết định giải, nhẫn chư pháp tánh năng đế tư tánh; hành tinh tấn Ba-la-mật, khởi nhất thiết trí hạnh, thành nhất thiết Phật Pháp; hành Thiền Ba-la-mật, kỳ Thiền Ba-la-mật sở hữu tư cụ, sở hữu tu tập, sở hữu thành tựu, sở hữu thanh tịnh, sở hữu khởi tam muội thần thông, sở hữu nhập tam muội hải môn

Cho đến những khổ hạnh của Bồ Tát tu tập, thọ trì chánh pháp, thảy đều kiên cố lòng chẳng lay động, cũng nhẫn thọ được những ác tác ác thuyết của tất cả chúng sanh gia vào thân tâm mình, nhẫn thọ tất cả công nghiệp không để hư mất, nhẫn thọ tất cả pháp sanh trí hiểu quyết định, nhẫn thọ pháp tánh có thể suy gẫm chín chắn. Thật hành Tinh Tấn Ba la mật khởi hạnh Nhứt thiết trí, thành tựu tất cả Phật pháp. Thật hành Thiền Ba la mật, những tư cụ của Thiền Ba la mật cho đến những sự tu tập, những sự thành tựu, những sự thanh tịnh, những tam muội thần thông, những sự nhập tam muội môn của Thiền Ba la mật đều hiển thị cả.

Giảng: Và tu khổ hạnh của Bồ Tát tu, do đó “Vì pháp quên mình”. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuở xưa đã từng vì bốn câu kệ mà xa xả bỏ thân mạng. Vị Dạ Thần cũng thọ trì chánh pháp đều rất kiên cố, tâm chẳng động. Cũng nhẫn thọ được tất cả chúng sinh nói ác làm ác đối với thân tâm của mình. Nhẫn được tất cả nghiệp quả báo, đều chẳng tán mất hoặc tổn hoại. Nhẫn thọ tất cả pháp, nhẫn nơi tâm, sinh ra sự hiểu biết chắc chắn, có vô sinh pháp nhẫn. Nhẫn thọ được các pháp tánh, suy gẫm kỹ càng.

Những thân mây đó lại diễn nói Ngài tu hành tinh tấn Ba La Mật, sinh khởi hạnh nhất thiết trí, thành tựu tất cả Phật pháp.

Lại diễn nói sự tu hành thiền định Ba La Mật, hết thảy tư cụ thiền Ba La Mật, hết thảy tu tập, hết thảy thành tựu, hết thảy thanh tịnh, hết thảy khởi tam muội thần thông, hết thảy nhập vào biển môn tam muội, thảy đều hiển bày ra công phu thiền định của vị Dạ Thần.

 

Giai tất hiển thị; hành Bát-nhã Ba-la-mật, kỳ Bát-nhã Ba-la-mật sở hữu tư cụ, sở hữu thanh tịnh, đại trí tuệ nhật, đại trí tuệ vân, đại trí tuệ tạng, đại trí tuệ môn, giai tất hiển thị; hành phương tiện Ba-la-mật, kỳ phương tiện Ba-la-mật sở hữu tư cụ, sở hữu tu hành, sở hữu thể tánh, sở hữu lý thú, sở hữu thanh tịnh, sở hữu tướng ứng sự, giai tất hiển thị; hành nguyện Ba-la-mật, kỳ nguyện Ba-la-mật sở hữu thể tánh, sở hữu thành tựu, sở hữu tu tập, sở hữu tướng ứng sự, giai tất hiển thị; hành lực ba-la-mật, kỳ lực ba-la-mật sở hữu tư cụ, sở hữu nhân duyên, sở hữu lý thú, sở hữu diễn thuyết, sở hữu tướng ứng sự, giai tất hiển thị; hành trí Ba-la-mật, kỳ trí Ba-la-mật sở hữu tư cụ, sở hữu thể tánh, sở hữu thành tựu, sở hữu thanh tịnh, sở hữu xứ sở, sở hữu tăng trưởng, sở hữu thâm nhập, sở hữu quang minh, sở hữu hiển thị, sở hữu lý thú, sở hữu tướng ưng sự, sở hữu giản trạch, sở hữu hành tướng, sở hữu tướng ứng Pháp, sở hữu sở nhiếp Pháp, sở tri Pháp, sở tri nghiệp, sở tri sát, sở tri kiếp, sở tri thế, sở tri Phật xuất hiện, sở tri Phật, sở tri Bồ Tát, sở tri Bồ Tát tâm, Bồ Tát vị, Bồ Tát tư cụ, Bồ Tát phát thú, Bồ Tát hồi hướng, Bồ Tát đại nguyện, Bồ Tát Pháp luân, Bồ Tát giản trạch pháp, Bồ Tát pháp hải, Bồ Tát Pháp môn hải, Bồ Tát Pháp toàn lưu, Bồ Tát Pháp lý thú, như thị đẳng trí Ba-la-mật tướng ứng cảnh giới, giai tất hiển thị, thành thục chúng sanh.

Thật hành Bát Nhã Ba la mật, Bát Nhã Ba la mật đây có những tư cụ, những trí huệ nhựt thanh tịnh quảng đại, trí huệ vân quảng đại, trí huệ tạng quảng đại, trí huệ môn quảng đại, thảy đều hiển thị cả. Thật hành Phương Tiện Ba la mật, Ba la mật này có những tư cụ, sự tu hành, thể tánh, lý thú, thanh tịnh, tương ưng, đều hiển thị cả. Thật hành Nguyện Ba la mật, Ba la mật này có thể tánh, thành tựu, tu tập, tương ưng, điều hiển thị cả. Thật hành Lực Ba la mật, Ba la mật này có những tư cụ, nhơn duyên, lý thú, diễn thuyết, tương ưng, đều hiển thị cả. Thật hành Trí Ba la mật, Ba la mật này có những tư cụ, thể tánh, thành tựu, thanh tịnh, xứ sở, tăng trưởng, thâm nhập, quang minh, hiển thị, lý thú, sự tương ưng, giảng trạch, hành tướng, pháp tương ưng, pháp sở nhiếp, pháp sở tri, nghiệp sở tri, cõi sở tri, kiếp sở tri, thế sở tri, Phật xuất hiện đã biết, Phật đã biết, Bồ Tát đã biết, Bồ Tát tâm, Bồ Tát vị, Bồ Tát tư cụ, Bồ Tát phát thu, Bồ Tát hồi hướng, Bồ Tát đại nguyện, Bồ Tát pháp luân, Bồ Tát giản trạch pháp, Bồ Tát pháp hải, Bồ Tát pháp môn hải, Bồ Tát pháp triền lưu, Bồ Tát pháp lý thú, tất cả cảnh giới tương ưng với Trí Ba la mật như vậy đều hiển thị để thành thục chúng sanh.

Giảng: Lại diễn nói sự tu hành Bát Nhã (trí huệ) Ba La Mật, hết thảy tư cụ Ba La Mật, hết thảy thanh tịnh, mặt trời đại trí huệ, mây đại trí huệ, tạng đại trí huệ, môn đại trí huệ, thảy đều hiển bày ra.

Lại diễn nói sự tu hành phương tiện Ba La Mật, thì hết thảy tư cụ phương tiện Ba La Mật, hết thảy tu hành, hết thảy thể tánh, hết thảy lý thú, hết thảy thanh tịnh, hết thảy việc tương ưng, thảy đều hiển bày ra sự tu hành quá khứ của vị Dạ Thần.

Lại diễn nói sự tu hành nguyện Ba La Mật, thì hết thảy thể tánh nguyện Ba La Mật, hết thảy thành tựu, hết thảy tu tập, hết thảy việc tương ưng, thảy đều hiện ra.

Lại diễn nói sự tu hành lực Ba La Mật, thì hết thảy tư cụ lực Ba La Mật, hết thảy nhân duyên, hết thảy lý thú, hết thảy diễn nói, hết thảy việc tương ưng, thảy đều hiển bày ra.

Lại diễn nói sự tu hành trí Ba La Mật, thì hết thảy tư cụ trí Ba La Mật, hết thảy thể tánh, hết thảy thành tựu, hết thảy thanh tịnh, hết thảy xứ sở, hết thảy tăng trưởng, hết thảy thâm nhập, hết thảy quang minh, hết thảy lý thú, hết thảy việc tương ưng, hết thảy giản trạch, hết thảy hạnh tướng, hết thảy pháp tương ưng, hết thảy pháp nhiếp, biết pháp, biết nghiệp, biết cõi, biết kiếp, biết đời, biết vị Phật nào xuất hiện ra trước, vị Phật nào xuất hiện ra sau, biết Phật, biết Bồ Tát, biết tâm Bồ Tát, bậc Bồ Tát, tư cụ Bồ Tát, Bồ Tát phát thú, Bồ Tát hồi hướng, Bồ Tát đại nguyện, Bồ Tát pháp luân, Bồ Tát giản trạch pháp, Bồ Tát biển pháp, Bồ Tát biển pháp môn, Bồ Tát pháp triền lưu, Bồ Tát pháp lý thú. Những cảnh giới trí Ba La Mật tương ưng như vậy, thảy đều hiển bày ra, để thành thục tất cả chúng sinh.

 

Hựu thuyết thử Thần tùng sơ phát tâm sở tập công đức tướng tục thứ đệ; sở tập thiện căn tướng tục thứ đệ; sở tu vô lượng chư ba la mật tướng tục thứ đệ; tử thử sanh bỉ cập kỳ danh hiệu tướng tục thứ đệ; thân cận thiện hữu, thừa sự chư Phật, thọ trì chánh pháp, tu Bồ Tát hạnh, nhập chư tam muội, dĩ tam muội lực, phổ kiến chư Phật, phổ kiến chư sát, phổ tri chư kiếp, thâm nhập Pháp giới, quan sát chúng sanh, nhập Pháp giới hải, tri chư chúng sanh tử thử sanh bỉ, đắc tịnh thiên nhĩ văn nhất thiết thanh, đắc tịnh thiên nhãn kiến nhất thiết sắc, đắc tha tâm trí tri chúng sanh tâm, đắc tú trụ trí tri tiền tế sự, đắc vô y vô tác thần túc Trí Thông tự tại du hành biến thập phương sát

Lại diễn thuyết Hỉ Mục Dạ Thần từ lúc sơ phát tâm chứa nhóm công đức tiếp nối thứ đệ, chứa nhóm thiện căn tiếp nối thứ đệ, tu tập vô lượng môn Ba la mật tiếp nối thứ đệ, chết đây sanh kia và danh hiệu tiếp nối thứ đệ, thân cận thiện hữu, kính thờ chư Phật, thọ trì chánh pháp, tu Bồ Tát hạnh, nhập, môn tam muội, dùng sức tam muội thấy khắp chư Phật, thấy khắp các cõi, thấy khắp các kiếp, thâm nhập pháp giới, quán sát chúng sanh, nhập pháp giới hải biết các chúng sanh chết đây sanh kia, được tịnh Thiên nhĩ nghe tất cả tiếng, được tịnh Thiên nhãn thấy tất cả sắc, được Tha tâm trí biết tâm chúng sanh, được Túc trụ trí biết sự đời trước, được Thần túc trí thông vô y vô tác du hành khắp mười phương cõi,

Giảng: Những âm thanh đó lại diễn nói về vị Dạ Thần Hỉ Mục Quán Sát Chúng Sinh, từ lúc ban đầu phát tâm tích tập công đức lớn nhỏ thứ tự liên tục. Tích tập căn lành thứ tự liên tục không gián đoạn. Tu vô lượng các Ba La Mật thứ tự liên tục không gián đoạn. Lại có chúng sinh chết ở thế giới nầy, lại sinh về thế giới kia và danh hiệu mỗi đời thứ tự liên tục, gần gũi hết thảy bạn lành, hầu hạ tất cả chư Phật, thọ trì chánh pháp, làm thế nào tu Bồ Tát hạnh, để nhập vào các tam muội, nhờ sức tam muội thấy khắp chư Phật, thấy khắp các cõi nước chư Phật, biết khắp tất cả các kiếp, vào sâu pháp giới, để quán sát nhân duyên chúng sinh. Vào biển pháp giới, biết đạo lý tất cả chúng sinh chết đây sinh kia. Đắc được thiên nhĩ thanh tịnh, nghe được tất cả tiếng của chúng sinh. Đắc được thiên nhãn thanh tịnh, nhìn thấy được tất cả hình sắc của chúng sinh. Đắc được tha tâm trí, biết được trong tâm chúng sinh nghĩ gì. Đắc được túc trụ trí huệ (túc mạng thông), biết được nhân duyên cảnh giới những việc thuở xưa.

 

Như thị sở hữu tướng tục thứ đệ; đắc Bồ Tát giải thoát, nhập Bồ Tát giải thoát hải, đắc Bồ Tát tự tại, đắc Bồ Tát dũng mãnh, đắc Bồ Tát du bộ, trụ Bồ Tát tưởng, nhập Bồ Tát đạo, như thị nhất thiết sở hữu công đức tướng tục thứ đệ. giai tất diễn thuyết, phân biệt hiển thị, thành thục chúng sanh.

tất cả những tiếp nối thứ đệ của tất cả công đức thần thông ấy. Ðược Bồ Tát giải thoát, nhập Bồ Tát giải thoát hải, được Bồ Tát tự tại, được Bồ Tát dũng mãnh, được Bồ Tát du bộ, trụ Bồ Tát tưởng, nhập Bồ Tát đạo, tất cả những công đức nối tiếp thứ đệ như vậy đều diễn nói phân biệt hiển thị để thành thục chúng sanh.

Giảng: Lại đắc được thần túc trí huệ thần thông không nương không làm, tự tại du hành khắp mười phương cõi nước chư Phật. Hết thảy tất cả công đức liên tục thứ tự như vậy. Lại đắc được giải thoát tam muội của Bồ Tát, nhập vào biển giải thoát của Bồ Tát. Đắc được tự tại tam muội của Bồ Tát. Đắc được dũng mãnh tam muội của Bồ Tát. Đắc được du hí tam muội của Bồ Tát. Trụ nơi tư tưởng của Bồ Tát, tức là tự lợi lợi tha, tự giác giác tha. Lại nhập vào đạo của Bồ Tát tu. Những thân mây đó thảy đều diễn nói tất cả hết thảy công đức liên tục thứ tự như vậy, phân biệt hiển bày, để thành thục tất cả chúng sinh.

 

Như thị thuyết thời, ư niệm niệm trung, thập phương các nghiêm tịnh bất khả thuyết bất khả thuyết chư Phật quốc độ, độ thoát vô lượng ác thú chúng sanh, lệnh vô lượng chúng sanh sanh Thiên Nhân trung phú quý tự tại, lệnh vô lượng chúng sanh xuất sanh tử hải, lệnh vô lượng chúng sanh an trụ Thanh văn, Bích Chi Phật địa, lệnh vô lượng chúng sanh trụ Như Lai địa.

Lúc diễn nói nhự vậy, trong mỗi niệm, mỗi phương trong mười phương đều nghiêm tịnh bất khả thuyết bất khả thuyết Phật độ, độ thoát vô lượng ác thú chúng sanh, làm cho vô lượng chúng sanh trong hàng Nhơn, Thiên giàu sang tự tại. Làm cho vô lượng chúng sanh thoát biển sanh tử. Làm cho vô lượng chúng sanh an trụ bực Thanh Văn, Bích Chi Phật. Làm cho vô lượng chúng sanh an trụ Như Lai địa.

Giảng: Khi đủ thứ âm thanh đó diễn nói những việc ở trên, thì trong niệm niệm, mười phương đều nghiêm tịnh bất khả thuyết bất khả thuyết cõi nước chư Phật, độ thoát vô lượng chúng sinh thọ khổ trong cõi ác, khiến cho vô lượng chúng sinh, sinh trong trời người, được phú quý tự tại. Lại khiến cho vô lượng chúng sinh, thoát khỏi biển sinh tử. Lại khiến cho vô lượng chúng sinh, an trụ bậc Thanh Văn và Bích Chi Phật. Lại khiến cho vô lượng chúng sinh, trụ bậc Như Lai. Những âm thanh đó diễn nói ra sự giáo hoá, khiến cho vô lượng chúng sinh hiểu rõ căn cơ của họ, mà giác ngộ.

 

Nhĩ thời, Thiện tài đồng tử kiến văn như thượng sở Hiện-Nhất-Thiết chư hy hữu sự, niệm niệm quan sát, tư tánh giải liễu, thâm nhập an trụ, thừa Phật uy lực cập giải thoát lực, tức đắc Bồ Tát bất tư nghị đại thế lực phổ hỉ tràng tự tại lực giải thoát.

Thiện Tài đồng tử thấy nghe tất cả những sự hi hữu đã hiển hiện đó, liền quán sát tư duy hiểu rõ và thâm nhập an trụ trong đó. Nương oai lực của Phật và sức giải thoát nên được Bồ Tát tư nghì đại thế lực, phổ hỉ tràng tự tại lực giải thoát.

Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử nghe thấy đủ thứ tất cả các việc thị hiện hi hữu ở trên, thì Ngài niệm niệm quán sát, suy gẫm hiểu rõ, thâm nhập an trụ nơi tam muội đó. Nương oai lực của đức Phật và lực giải thoát, liền đắc được lực giải thoát Bồ Tát không nghĩ bàn đại thế lực phổ hỉ tràng tự tại.

 

Hà dĩ cố?

Tại sao vậy ?

Giảng: Tại sao vậy?

 

Dữ hỉ mục dạ Thần ư vãng tích thời đồng tu hành cố, Như Lai thần lực sở gia trì cố, bất tư nghị thiện căn sở hữu trợ cố, đắc Bồ Tát chư căn cố, sanh Như Lai chủng trung cố, đắc thiện hữu lực sở nhiếp thọ cố, thọ chư Như Lai sở hộ niệm cố, Tỳ Lô Giá Na Như Lai tằng sở hóa cố, bỉ phần thiện căn dĩ thành thục cố, kham tu Phổ Hiền Bồ Tát hạnh cố.

Vì Thiện Tài cùng Hỉ Mục Dạ Thần, từ thuở xưa đã từng cùng nhau tu hành, vì thần lực của Phật gia hộ, vì bất tư nghì thiện căn hộ trợ, vì được Bồ Tát căn, vì sanh trong dòng Như Lai, vì được sức thiện hữu nhiếp thọ, vì được chư Phật hộ niệm, vì đã từng được sự giáo hóa của đức Tỳ Lô Giá Na Như Lai, vì phần thiện căn đó đã thành thục, vì kham tu tập hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.

Giảng: Vì lúc thuở xưa Ngài cùng tu hành với vị Dạ Thần Hỉ Mục, vì được thần lực của Như Lai gia trì. Từ chỗ nầy quý vị nên biết pháp hội nầy, đã từng cùng tu hành Phật pháp trong quá khứ. Vì được căn lành không thể nghĩ bàn trợ giúp. Vì được các căn của Bồ Tát. Vì sinh ra trong nhà Như Lai, trong giống Như Lai. Vì được lực bạn lành nhiếp thọ. Vì được các Như Lai hộ niệm. Vì được Tỳ Lô Giá Na Như Lai đã từng giáo hoá. Vì căn lành của Ngài đã thành thục. Vì Ngài kham tu hạnh nguyện Bồ Tát Phổ Hiền. Hạnh nguyện Phổ Hiền là khuôn phép của tất cả Bồ Tát, là hạnh môn rộng lớn cao sâu nhất.

 

Nhĩ thời, Thiện tài đồng tử đắc thử giải thoát dĩ, tâm sanh hoan hỉ, hợp chưởng hướng hỉ mục quan sát chúng sanh dạ Thần, dĩ kệ tán viết:

Ðược môn giải thoát này rồi, Thiện Tài rất hoan hỉ, chắp tay cung kính hướng về phía Hỉ Mục Quán Sát Chúng Sanh Dạ Thần mà nói kệ khen ngợi rằng :

Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử đắc được giải thoát tam muội Bồ Tát không nghĩ bàn đại thế lực phổ hỉ tràng tự tại lực nầy rồi, tâm sinh đại hoan hỉ, chắp tay hướng về vị Dạ Thần Hỉ Mục Quán Sát Chúng Sinh, dùng kệ khen ngợi Ngài rằng:

 

Vô lượng vô số kiếp Vô lượng vô số kiếp
Học Phật thậm thâm Pháp Học Phật pháp thậm thâm.
Tùy kỳ sở ưng hóa Tùy chỗ nên hóa độ
Hiển hiện diệu sắc thân. Hiển hiện diệu sắc thân.

“Ngài từ vô lượng vô số kiếp, học tập pháp thâm sâu vi diệu của Phật, tuỳ theo căn cơ chúng sinh đáng được giáo hoá, mà hiển hiện diệu sắc thân thanh tịnh của Ngài, khiến cho chúng sinh phát tâm bồ đề.

 

Liễu tri chư chúng sanh, Biết rõ các chúng sanh
Trầm mê anh vọng tưởng Trầm mê mắc vọng tưởng
Chủng chủng thân giai hiện, Ðều hiện nhiều thân hình
Tùy ưng tất điều phục. Tùy nghi điều phục họ.

Ngài biết rõ các chúng sinh, bị trầm mê chấp trước vào cảnh giới sắc thanh hương vị xúc pháp sáu trần. Họ bỏ giác hợp trần, sinh ra đủ thứ vọng tưởng. Ngài vì muốn lợi ích họ, nên thị hiện ra đủ thứ thân, để tuỳ thuận căn cơ đáng được điều phục của chúng sinh, mà điều phục họ.

 

Pháp thân hằng tịch tĩnh Pháp thân hằng tịch tịnh
Thanh tịnh vô nhị tướng Thanh tịnh không hai tướng
Vi hóa chúng sanh cố Vì giáo hóa chúng sanh
Thị hiện chủng chủng hình. Thị hiện những thân hình.

Pháp thân của Ngài luôn vắng lặng, thanh tịnh không hai tướng. Nhưng vì giáo hoá chúng sinh, mà thị hiện ra đủ thứ thân hình.

 

Ư chư uẩn giới xứ Nơi các uẩn xứ giới
Vị tằng hữu sở trước, Chưa từng có chỗ chấp
Thị hạnh cập sắc thân Công hạnh và sắc thân
Điều phục nhất thiết chúng Hiện ra điều phục chúng.

Ngài đối với năm uẩn, mười tám giới, mười hai xứ, chưa từng có sự chấp trước, Ngài thị hiện tu và sắc thân thanh tịnh, để điều phục tất cả chúng sinh.

 

Bất trước nội ngoại Pháp Chẳng chấp pháp nội ngoại
Dĩ độ sanh tử hải, Ðã vượt biển sanh tử
Nhi hiện chủng chủng thân Mà hiện những thân hình
Trụ ư chư hữu giới. Ở nơi cõi hữu lậu.

Ngài chẳng chấp pháp trong, pháp ngoài, nhìn họ giống như hư không. Đã vượt qua biển sinh tử, mà thị hiện đủ thứ thân, trụ nơi tam giới hai mươi lăm cõi, để giáo hoá chúng sinh.

 

Viễn ly chư phân biệt Lìa xa những phân biệt
Hí luận sở bất động, Hý luận không làm động
Vi trước vọng tưởng giả Vì người chấp vọng tưởng
Hoằng tuyên thập lực Pháp. Hoằng tuyên pháp thập lực.

Ngài đã xa lìa tất cả sự phân biệt, chẳng hí luận cười đùa, chẳng nói những lời không thật, tất cả hí luận đều không thể động tâm bạn được. Ngài vì những chúng sinh chấp trước vọng tưởng, hoằng dương tuyên nói pháp môn mười lực của Phật.

 

Nhất tâm trụ tam muội Nhứt tâm trụ tam muội
Vô lượng kiếp bất động Vô lượng kiếp chẳng động
Mao khổng xuất hóa vân Lỗ lông hiện biến hóa
Cúng dường thập phương Phật. Cúng dường thập phương Phật.

Ngài một lòng một dạ dụng công được tương ưng, do đó : “Chuyên nhất thì linh, phân chia thì tán”, nên trụ nơi tam muội, trải qua vô lượng kiếp thời gian lâu dài cũng không động, luôn luôn vắng lặng. Từ trong mỗi lỗ chân lông trên thân Ngài hiện mây hoá thân, để cúng dường mười phương chư Phật.

 

Đắc Phật phương tiện lực Ðược Phật phương tiện lực
Niệm niệm vô biên tế, Niệm niệm vô biên tế
Thị hiện chủng chủng thân Thị hiện nhiều thân hình
Phổ nhiếp chư quần sanh. Khắp nhiếp các quần sanh

Ngài đắc được sức phương tiện sức trí huệ của Phật, trong niệm niệm đều ở trong chỗ không có bờ mé, thị hiện đủ thứ thân mây, nhiếp thọ khắp tất cả chúng sinh.

 

Liễu tri chư hữu hải Biết rõ biển hữu lậu
Chủng chủng nghiệp trang nghiêm Nhiều công hạnh trang nghiêm
Vi thuyết vô ngại Pháp Vì nói pháp vô ngại
Lệnh kỳ tất thanh tịnh. Khiến họ đều thanh tịnh.

Ngài đã biết rõ tất cả biển tam giới hai mươi lăm cõi, đủ thứ thế giới vì đủ thứ nghiệp khác nhau trang nghiêm, để vì chúng sinh diễn nói pháp môn vô ngại, khiến họ đều được thanh tịnh.

 

Sắc thân diệu vô bỉ, Sắc thân diệu vô tỷ
Thanh tịnh như Phổ Hiền, Thanh tịnh như Phổ Hiền
Tùy chư chúng sanh tâm Tùy tâm các chúng sanh
Thị hiện thế gian tướng. Thị hiện tướng thế gian.

Sắc tướng của Ngài vi diệu không gì sánh, không thể nghĩ bàn, quang minh thanh tịnh khắp cùng hư không pháp giới, như sắc thân của Bồ Tát Phổ Hiền, hay tuỳ thuận tâm tất cả chúng sinh, mà thị hiện tất cả tướng thế gian, để giáo hoá chúng sinh.

 

Nhĩ thời, Thiện tài đồng tử thuyết thử tụng dĩ, bạch ngôn: Thiên thần! nhữ phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm, vi kỷ thời da? đắc thử giải thoát, kỳ dĩ cửu như?

Thiện Tài nói kệ xong, bạch rằng : Ðức Thánh phát tâm Vô thượng Bồ đề hồi nào ? Ðược môn giải thoát này được bao lâu ?

Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử nói kệ nầy rồi, bạch rằng: “Thiên Thần! Ngài đã phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác từ lúc nào? Ngài đắc được giải thoát nầy đã bao lâu”?

 

Nhĩ thời, hỉ mục quan sát chúng sanh chủ dạ thần dĩ tụng đáp viết:

Hỉ Mục Dạ Thần nói kệ đáp rằng :

Giảng: Lúc đó, vị Dạ Thần Hỉ Mục Quán Sát Chúng Sinh dùng kệ đáp rằng:

 

Ngã niệm quá khứ thế Ta nhớ đời quá khứ
Qua ư sát trần kiếp, Qua khỏi sát trần kiếp
Sát hiệu ma-ni quang Cõi hiệu Ma Ni Quang
Kiếp danh tịch tĩnh âm. Kiếp tên Tịch Tịnh Âm.

“Ta nhớ đời quá khứ, trải qua số kiếp nhiều như hạt bụi. Có một cõi Phật tên là Mâu Ni Quang, kiếp tên Tịch Tĩnh Âm, lúc đó ta đã phát tâm bồ đề”.

 

Bách vạn na-do-tha Trăm vạn na do tha
Câu-chi tứ thiên hạ Câu chi tứ thiên hạ
Kỳ Vương số diệc nhĩ Nhơn vương số cũng vậy
Các các tự lâm ngự. Mỗi vua trị mỗi châu.

Trong kiếp Tịch Tĩnh Âm, có trăm vạn Na do tha Câu Chi bốn thiên hạ. Một thiên hạ là một mặt trời, mặt trăng, một núi Tu Di và bốn đại bộ châu. Số mục ông vua cũng nhiều, mỗi một vị vua đều cai trị một châu, để thống trị tất cả chúng sinh.

 

Trung hữu nhất Vương đô Có một Vương đô thành
Hiệu viết hương tràng bảo Hiệu là Hương Tràng Bửu
Trang nghiêm tối thù diệu Trang nghiêm rất đẹp lạ
Kiến giả giai hân duyệt. Ai thấy cũng hoan hỷ.

Trong đó có một Vương đô, tên là thành Xuân Tràng Bảo. Sự trang nghiêm rất đẹp thù thắng, ai thấy được Vương đô đều hoan hỉ vui mừng.

 

Trung hữu Chuyển luân Vương Thành có Chuyển Luân Vương
Kỳ thân thậm vi diệu Thân vua rất xinh đẹp
Tam thập nhị chủng tướng Ðủ ba hai tướng tốt
Tùy hảo dĩ trang nghiêm Tùy hảo trang nghiêm thân.

Trong đó có một vị vua Chuyển Luân Thánh Vương, thân ông ta rất đẹp, có đủ ba mươi hai tướng đại nhân, tám mươi vẻ đẹp dùng trang nghiêm thân.

 

Liên hoa trung hóa sanh Từ hoa sen hóa sanh
Kim sắc quang minh thân Thân sáng chói màu vàng
Đằng không chiếu viễn cận Bay cao chiếu xa gần
Phổ cập Diêm-phù giới. Khắp đến châu Diêm Phù.

Vua đó hoá sinh trong hoa sen, thân thể phóng ra quang minh sắc vàng, chiếu sáng khắp hư không pháp giới, cũng chiếu đến khắp cõi Diêm Phù Đề.

 

Kỳ Vương hữu thiên tử, Vua có ngàn Vương Tử
Dũng mãnh thân đoan chánh Thân đoan chánh dũng mãnh,
Thần tá mãn nhất ức, Các quan đủ một ức
Trí tuệ thiện phương tiện Có trí huệ phương tiện,

Vị vua Chuyển Luân Thánh Vương đó, có một ngàn vị vương tử, đều dũng mãnh thiện chiến, thân thể viên mãn đoan nghiêm. Các quan đại thần có một ức người, đều có đại trí huệ và phương tiện khéo léo.

 

Tần ngự hữu thập ức, Cung tần mười ức người
Nhan dung trạng Thiên nữ, Dung nhan như Thiên Nữ,
Lợi ích điều nhu ý, Lòng điều nhu lợi ích
Từ tâm cấp thị Vương. Thương mến hầu hạ vua.

Cung phi mỹ nữ của vua có tới mười ức người, dung nhan của họ tựa như Thiên nữ, hay lợi ích tất cả chúng sinh, tâm ý nhu hoà nhã nhặn, họ đều có tâm từ để hầu hạ nhà vua.

 

Kỳ Vương dĩ pháp hóa Nhà vua dùng pháp trị
Phổ cập tứ thiên hạ, Khắp đến tứ thiên hạ
Luân vi Đại địa trung Trong khắp cõi đại địa
Nhất thiết giai phong thịnh. Tất cả đều giàu mạnh,

Vị vua Chuyển Luân Thánh Vương đó, dùng pháp giáo hoá khắp cùng bốn thiên hạ. Trong Luân Vi đại địa, hết thảy tất cả vật chất đều hưng thịnh đầy đủ, đây là hiện tượng con người có phước báu sâu dày. Mỗi một bốn thiên hạ, đều có núi Thiết Luân Vi, bao quanh núi Tu Di.

 

Ngã thời vi ảo nữ Thuở ấy ta Bửu Nữ
Cụ túc Phạm Âm thanh, Có ngôn âm thanh tịnh
Thân xuất kim sắc quang, Thân chiếu sáng kim sắc
Chiếu cập thiên do-tuần. Chiếu đến ngàn do tuần.

Lúc đó ta là nữ báu của Chuyển Luân Thánh Vương, đầy đủ tiếng Phạm âm, khéo ca ngâm, tiếng hát rất thanh tịnh. Thân ta toả ra quang minh sắc vàng ròng, chiếu đến khắp ngàn do tuần.

 

Nhật quang ký dĩ một Một đêm nọ trời tối,
Âm nhạc hàm tịch nhiên Âm nhạc đã ngừng bặt,
Đại Vương cập thị ngự Ðại Vương và quan hầu
Nhất thiết giai an tẩm. Tất cả đều ngủ yên.

Một ngày nọ, lúc trời tối, tiếng âm nhạc đều ngừng hẳn, rất là yên tĩnh. Đại vương và tất cả những người hầu cận, đều đã an giấc.

 

Bỉ thời đ ức hải Phật Lúc đó Phật Ðức Hải
Xuất hưng ư thế gian Xuất hiện trên thế gian
Hiển hiện thần thông lực, Hiển thị thần thông lực
Sung mãn thập phương giới; Sung mãn mười phương cõi.

Lúc đó, có một vị Phật Đức Hải xuất hiện ra thế gian thành Phật, Ngài hiển hiện sức thần thông, đầy khắp mười phương thế giới.

 

Phóng đại quang minh hải, Phật phóng đại quang minh
Nhất thiết sát trần số Chiếu khắp tất cả cõi,
Chủng chủng tự tại thân Hiện những thân tự tại
Biến mãn ư thập phương. Ðầy khắp cả mười phương.

Vị Phật đó phóng biển đại quang minh, chiếu sáng tất cả cõi nhiều như số hạt bụi cõi Phật. Ngài thị hiện đủ thứ thân tự tại, đầy khắp trong mười phương thế giới.

 

Địa chấn xuất Diệu-Âm, Ðịa chấn vang tiếng diệu
Phổ cáo Phật hưng thế Phổ cáo Phật xuất thế
Thiên Nhân long thần chúng Chúng Thiên, Nhơn, Long, Thần,
Nhất thiết giai hoan hỉ. Tất cả đều hoan hỷ.

Đại địa đều phát sinh sáu thứ chấn động, vang ra diệu âm, phổ cáo tất cả nói Phật đã xuất hiện ra đời. Tất cả chúng trời người rồng thần, đều hoan hỉ vui mừng.

 

Nhất nhất mao khổng trung Trong mỗi mỗi lỗ lông
Xuất Phật hóa thân hải Hiện ra hóa thân Phật
Thập phương giai biến mãn Mười phương đều đầy khắp
Tùy ưng thuyết diệu pháp. Tùy nghi nói diệu pháp.

Trong lỗ chân lông của mỗi chúng sinh, xuất hiện biển hoá thân của Phật. Mười phương thế giới đều đầy khắp pháp thân Phật, tuỳ căn cơ của chúng sinh mà diễn nói diệu pháp.

 

Ngã thời ư mộng trung Lúc đó ta chiêm bao
Kiến Phật chư thần biến, Thấy thần biến của Phật
Diệc văn thâm diệu Pháp, Cũng nghe pháp thâm diệu
Tâm sanh đại hoan hỉ. Lòng ta rất vui mừng

Lúc đó ta đang ở trong mộng, nhìn thấy tất cả thần thông biến hoá của Phật. Cũng nghe được pháp thâm sâu vi diệu, trong tâm sinh đại hoan hỉ.

 

Nhất vạn chủ dạ thần Một vạn Chủ Dạ Thần
Cọng tại không trung trụ Cũng dừng tại hư không
Tán thán Phật hưng thế Tán thán Phật xuất thế
Đồng thời giác ngộ ngã Ðồng thời đánh thức ta :

Lúc đó có một vạn Chủ Dạ Thần, cùng ở trong hư không, khen ngợi Phật xuất hiện ra đời, đồng thời cũng giác ngộ ta.

 

Hiền tuệ nhữ ưng khởi Bửu Nữ ! Nàng mau dậy
Phật dĩ hiện nhữ quốc Phật đã hiện nước người
Kiếp hải nan trực ngộ Nhiều kiếp khó gặp gỡ
Kiến giả đắc thanh tịnh Người thấy được thanh tịnh,

Các vị đó nói: “Hiền Huệ phu nhân, ngươi hãy dậy đi! Phật Đức Hải đã xuất hiện ra đời trong nước của nhà ngươi. Dù trải qua biển đại kiếp, cũng khó gặp được Phật ra đời, ai thấy được Phật thì liền đắc được thanh tịnh”.

 

Ngã thời tiện mị ngụ Liền đó ta thức dậy
Tức đổ thanh Tịnh Quang Thấy quang minh thanh tịnh
Quán thử tùng hà lai? Xem coi từ đâu chiếu
Kiến Phật thụ Vương hạ, Thấy Phật ngự Bồ đề

Lúc đó ta bèn tỉnh dậy, lập tức nhìn thấy được quang minh thanh tịnh. Ta quán sát quang minh đó từ đâu đến? Thì thấy đức Phật Đức Hải đang ngồi dưới cội bồ đề thành Phật.

 

Chư tướng trang nghiêm thể Thân tướng tốt trang nghiêm
Do như bảo sơn vương Dường như Bửu Sơn Vương
Nhất thiết mao khổng trung, Trong tất cả lỗ lông
Phóng đại quang minh hải Phóng vô lượng quang minh.

Ba mươi hai tướng và tám mươi vẻ đẹp của Phật trang nghiêm thân, như núi chúa châu báu. Từ trong tất cả lỗ lông của Phật, phóng ra biển đại quang minh.

 

Kiến dĩ tâm hoan hỉ Thấy rồi rất vui mừng
Tiện sanh thử niệm ngôn Lòng ta tự nghĩ rằng :
Nguyện ngã đắc như Phật Nguyện ta được như Phật
Quảng đại thần thông lực. Sức thần thông quảng đại

Ta nhìn thấy rồi trong tâm rất hoan hỉ, bèn sinh ý niệm như vầy: “Nguyện cho con tương lai cũng được như đức Phật, đầy đủ sức thần thông rộng lớn”.

 

Ngã thời tầm giác ngụ Lúc đó ta đánh thức
Đại Vương tinh quyến thuộc Ðại Vương và quyến thuộc
Lệnh kiến Phật quang minh Cho thấy Phật quang minh
Nhất thiết giai hân khánh. Tất cả đều mừng rỡ.

Lúc đó ta bèn đánh thức đại vương và quyến thuộc, cũng khiến cho họ thấy được quang minh của Phật, khiến cho tất cả nhân dân cả nước đều hoan hỉ vui mừng.

Vì Chủ Dạ Thần nhiều đời nhiều kiếp tu phước, tu huệ, tu công đức đó, cho nên bất cứ phát sinh âm thanh gì, đều là đang thuyêt pháp, diễn nói tất cả tiếng diệu pháp. Nếu tâm bạn có chút thanh tịnh, thì sẽ được quang minh của Phật chiếu đến, khiến cho bạn nghiệp chướng tiêu trừ, căn lành tăng trưởng. Có người nói khi ngồi thiền, thì cảm thấy thân thể như pháo nổ tung, đó là một thứ trạng thái. Do đó : “Động thì biến, biến thì hoá”, nó nổ tung như vậy, thì phiền não vô minh của bạn tiêu diệt rất nhiều, bất quá đừng chấp trước vào nó là cảnh giới tốt, hoặc là cảnh giới xấu, mà cần phải tiếp tục dụng công. Như vậy giống như bụng đói thì phải ăn cơm, ăn no rồi thì được, đừng nghĩ tưởng ăn vật đó tốt như thế nào? dở như thế nào? Vật tốt ăn vào trong bụng tiêu hoá như thế nào? Vật dở ăn vào trong bụng tiêu hoá ra sao? Đừng nghĩ đến những thứ đó. Bất cứ thức ăn ngon dở, nó vào trong bụng tự nhiên sẽ tiêu hoá. Cảnh giới cũng như vậy, xuất hiện một cảnh giới, cũng đừng nghĩ nó là tốt, hoặc không tốt. Khi bạn truy cầu tốt hay không tốt, thì rơi vào đệ nhị nghĩa đế, chứ chẳng phải là đệ nhất nghĩa đế, vì bạn động niệm. Do đó có câu :
“Niệm động trăm sự có
Niệm dừng vạn sự không.
Tâm dừng niệm bặc chân phú quý
Tư dục đoạn sạch chân phước điền”.

Bất cứ bạn dụng công phu gì, nhất định phải đoạn trừ tư dục của bạn. Nếu không đoạn tư dục của bạn, thì bất cứ bạn có cảnh giới gì, cũng đều là lông da. Dục niệm của bạn ngừng hẳn rồi, thì mới là chân chánh phú quý. Tư dục đoạn sạch, thì mới là chân chánh phước điền.

 

Ngã thời dữ Đại Vương Ta cùng với Ðại Vương
Kị tùng thiên vạn ức Người theo ngàn muôn ức
Chúng sanh diệc vô lượng Chúng sanh cũng vô lượng
Câu hành nghệ Phật sở Ðều đi đến chỗ Phật.

Lúc đó ta với vua và hàng ngàn vạn người đi theo, cũng có vô lượng vô biên chúng sinh, cùng nhau đi đến chỗ đạo tràng của đức Phật Đức Hải.

 

Ngã ư nhị vạn tuế, Trọn trong hai muôn năm
Cúng dường bỉ Như Lai Ta cúng dường đức Phật
Thất bảo tứ thiên hạ, Thất bửu tứ thiên hạ
Nhất thiết giai phụng thí. Tất cả đều dâng cúng.

Ta trong hai vạn năm, đều cúng dường đức Như Lai đó, dùng đủ thứ bảy báu nhiều như bốn thiên hạ, tất cả đều cúng dường bố thí.

 

Thời bỉ Như Lai thuyết, Phật Ðức Hải diễn nói
Công đức phổ vân Kinh, Kinh Công Ðức Phổ Vân
Phổ ưng quần sanh tâm Ứng khắp tâm quần sanh
Trang nghiêm chư nguyện hải. Trang nghiêm tất cả nguyện.

Lúc đó, đức Phật đó nói “Kinh Công Đức Phổ Vân”, ứng khắp tâm tất cả chúng sinh, mà trang nghiêm các biển nguyện đã phát ra thời quá khứ.

 

Dạ Thần giác ngộ ngã Dạ Thần giác ngộ ta
Lệnh ngã đắc lợi ích, Cho ta được lợi ích,
Ngã nguyện tác thị thân Ta nguyện làm Dạ Thần
Giác chư phóng dật giả Giác ngộ người phóng dật.

Lúc đó có một vị Dạ Thần giác ngộ ta, khiến cho ta được lợi ích. Ta bèn phát nguyện làm thân Dạ Thần, để giác ngộ tất cả những người phóng dật không giữ quy cụ.

 

Ngã tòng thử sơ phát Từ đó ta bắt đầu
Tối thượng Bồ-đề nguyện, Phát nguyện đại Bồ đề
Vãng lai chư hữu trung Qua lại trong các cõi
Kỳ tâm vô vong thất. Tâm nguyện không quên mất

Ta từ đó phát tâm vô thượng bồ đề, cho đến hiện tại, dù đến đi trong tam giới hai mươi lăm cõi, sinh rồi chết, chết rồi sinh, trong tâm ta vẫn không quên, hoặc thiếu mất tâm bồ đề.

 

Tòng thử hậu cúng dường, Sau đó ta cúng dường
Thập ức na do Phật, Mười ức na do Phật,
Hằng thọ nhân Thiên nhạc, Hằng hưởng vui nhơn thiên
Nhiêu ích chư quần sanh. Lợi ích các quần sanh.

Ta từ đó về sau, bắt đầu cúng dường mười ức Na do tha chư Phật, luôn luôn thọ sự an vui của trời người, ta lợi ích khắp tất cả chúng sinh.

 

KIẾP THỨ NHẤT

 

Sơ Phật công đức hải; Kế Phật Công Ðức Hải
Đệ nhị công đức đăng Là Phật Công Ðức Ðăng
Đệ tam diệu bảo tràng Thứ ba Diệu Bửu Tràng.
Đệ tứ hư không trí Thứ tư Hư Không Trí,

Vị Phật thứ nhất là Phật Công Đức Hải. Vị thứ hai là Phật Công Đức Đăng. Vị thứ ba là Phật Diệu Bảo Tràng. Vị thứ tư là Phật Hư Không Trí.

 

Đệ ngũ liên hoa tạng Thứ năm Liên Hoa Tạng,
Đệ lục vô ngại tuệ Thứ sáu Vô Ngại Huệ,
Đệ thất pháp nguyệt vương Thứ bảy Pháp Nguyệt Vương,
Đệ bát trí đăng luân Thứ tám Trí Ðăng Luân,

Vị Phật thứ năm là Phật Liên Hoa Tạng. Vị thứ sáu là Phật Vô Ngại Huệ. Vị thứ bảy là Phật Pháp Nguyệt Vương. Vị thứ tám là Phật Trí Đăng Luân.

 

Đệ cửu lượng túc tôn Ðức Phật thứ chín hiệu :
Bảo diệm sơn đăng Vương Bửu Diệm Sơn Ðăng Vương,
Đệ thập điều ngự sư Ðức Phật thứ mười hiệu :
Tam thế hoa quang âm. Tam thế Hoa Quang Âm

Vị Phật thứ chín Lưỡng Túc Tôn (một tên riêng của Phật) là Phật Bảo Diệm Sơn Đăng Vương. Vị thứ mười Điều Ngự Sư (một trong mười hiệu của Phật) là Phật Tam Thế Hoa Quang Âm.

 

Như thị đẳng chư Phật Tất cả Phật như vậy
Ngã tất tằng cúng dường Ta đều cúng dường đủ
Nhiên vị đắc Tuệ-nhãn, Nhưng chưa được huệ nhãn
Nhập ư giải thoát hải. Nhập nơi biển giải thoát.

Các đức Phật nhiều như đã nói ở trên, ta đều đã từng cúng dường các Ngài. Nhưng ta vẫn chưa đắc được con mắt trí huệ, để tiến vào trong biển giải thoát chân chánh.

Trong bài kệ đầu tiên, vị Dạ Thần nói nhân duyên lúc ban đầu Ngài phát tâm bồ đề ở tại kiếp tên là Tịch Tĩnh Âm, còn tường thuật lại tình hình Ngài phát nguyện. Phát tâm rồi, dần dần cúng dường vô lượng chư Phật, vẫn chưa đắc được mắt trí huệ, đây là do chưa được mười giải chánh huệ minh. Cho nên chúng ta có thể biết phải dùng vô lượng máu mồ hôi để tưới tẩm, khiến cho mầm bồ đề sinh rễ, khai hoa kết trái.

 

KIẾP THỨ HAI

 

Tòng thử thứ đệ hữu, Sao đó lần lượt có
Nhất thiết Bảo quang sát, Cõi Nhất Thiết Bửu Quang,
Kỳ kiếp danh Thiên thắng Kiếp đó tên Thiên Thắng
Ngũ bách Phật hưng thế. Năm trăm Phật ra đời :

Từ đó về sau, thứ tự lại có cõi Nhất Thiết Bảo Quang, kiếp đó tên Thiên Thắng, có năm trăm vị Phật xuất hiện ra đời.

 

Tối sơ nguyệt quang luân Trước nhứt Nguyệt Quang Luân,
Đệ nhị danh nhật đăng Thứ hai Phật Nhựt Ðăng,
Đệ tam Danh-Quang tràng Thứ ba Phật Quang Tràng.
Đệ tứ bảo Tu-Di Thứ tư Bửu Tu Di,

Vị Phật đầu tiên là Phật Nguyệt Quang Luân. Vị thứ hai là Phật Nhựt Đăng. Vị Phật thứ ba là Phật Quang Tràng. Vị thứ tư là Phật Bảo Tu Di.

 

Đệ ngũ danh hoa diệm Thứ năm Phật Hoa Diệm,
Đệ lục hiệu đăng hải; Thứ sáu Phật Ðăng Hải,
Đệ thất sí nhiên Phật Thứ bảy Phật Xí Nhiên,
Đệ bát thiên tạng Phật Thứ tám Phật Thiên Tạng,
Cửu Quang minh vương tràng Chín : Quang Minh Vương Tràng,
Thập phổ trí quang Vương. Mười : Phổ Trí Quang Vương.

Vị thứ năm là Phật Hoa Diệm. Vị thứ sáu là Phật Đăng Hải. Vị thứ bảy là Phật Xí Nhiên. Vị thứ tám là Phật Thiên Tạng. Vị thứ chín là Phật Quang Minh Vương Tràng. Vị thứ mười là Phật Phổ Trí Quang Vương.

 

Như thị đẳng chư Phật Tất cả chư Phật ấy
Ngã tất tằng cúng dường Ta đều cúng dường đủ
Thượng ư chư Pháp trung Vẫn còn trong các pháp
Vô nhi kế vi hữu. Không mà cho là có.

Các đức Phật như đã nói ở trên, ta đều đã từng cúng dường, nhưng vẫn ở trong tất cả Phật pháp, vốn không mà ta cho là có; vốn có mà ta cho là không. Có và không vẫn chưa phân biệt rõ ràng. Vị Dạ Thần ở trong nửa bốn câu kệ, tường thuật lại Ngài ở trong kiếp Thiên Thắng thứ hai, cúng dường năm trăm vị Phật, nhưng thời gian lâu dài, Ngài vẫn chưa thấu hiểu đạo lý tức tâm tự tánh, vẫn chưa đắc được thập trụ thắng tấn.

 

KIẾP THỨ BA

 

Tòng thử phục hưũ kiếp, Sau đó lại có kiếp
Danh viết phạm quang minh Tên là Phạm Quang Minh,
Thế giới liên hoa đăng Cõi tên Liên Hoa Ðăng
Trang nghiêm cực thù diệu. Trang nghiêm rất đẹp lạ.

Từ đó lại có kiếp tên là Phạm Quang Minh. Thế giới tên là Liên Hoa Đăng, thế giới đó rất trang nghiêm thù thắng vi diệu.

 

Bỉ hữu vô lượng Phật Có vô lượng đức Phật
Nhất nhất vô lượng chúng, Mỗi Phật vô lượng chúng,
Ngã tất tằng cúng dường Ta đều từng cúng dường
Tôn trọng thính văn Pháp. Tôn trọng nghe thuyết pháp.

Trong thế giới Liên Hoa Đăng, có vô lượng chư Phật. Mỗi vị Phật giáo hoá vô lượng chúng sinh. Ta đều từng cúng dường vô lượng các đức Phật đó, và còn tôn trọng lắng nghe pháp của chư Phật nói.

 

Sơ bảo Tu-Di Phật Một là Bửu Tu Di,
Nhị công đức hải Phật Hai, Phật Công Ðức Hải,
Tam Pháp giới âm Phật Ba, Phật pháp Giới Âm,
Tứ pháp chấn lôi Phật Bốn, Phật pháp Chấn Lôi,

Vị Phật thứ nhất hiệu là Phật Bảo Tu Di. Vị thứ hai hiệu là Phật Công Đức Hải. Vị thứ ba hiệu là Phật Pháp Giới Âm. Vị thứ tư hiệu là Phật Pháp Chấn Lôi.

 

Ngũ danh Pháp-Tràng Phật Năm là Phật pháp Tràng,
Lục danh địa quang Phật Thứ sáu Phật Ðịa Quang,
Thất danh pháp lực quang Bảy, Phật pháp Lực Quang,
Bát danh hư không giác Thứ tám Hư Không Giác,
Đệ cửu Tu-Di-Quang Thứ chín Tu Di Quang,
Đệ thập công đức vân Thứ mười Công Ðức Vân

Vị Phật thứ năm hiệu là Phật Pháp Tràng. Vị thứ sáu hiệu là Phật Địa Quang. Vị thứ bảy hiệu là Phật Pháp Lực Quang. Vị thứ tám hiệu là Phật Hư Không Giác. Vị thứ chín hiệu là Phật Tu Di Quang. Vị thứ mười hiệu là Phật Công Đức Vân.

 

Như thị đẳng Như Lai Chư Như Lai như vậy
Ngã tất tằng cúng dường Ta đều từng cúng dường
Vị năng minh liễu Pháp Còn chưa hiểu rõ pháp
Nhi nhập chư Phật hải Ðể nhập biển chư Phật.

Các Như Lai như vậy, ta đều đã từng cúng dường, mà vẫn chưa thấu rõ triệt để ý nghĩa áo diệu các Phật pháp, để vào biển nguyện lực của chư Phật. Kiếp thứ ba nầy, vị Dạ Thần vẫn chưa thấu rõ chân thật hạnh pháp của thập hạnh.

 

KIẾP THỨ TƯ

 

Thứ hậu phục hưũ kiếp Kế đó lại có kiếp
Danh vi công đức nguyệt Tên là Công Ðức Nguyệt,
Nhĩ thời hữu thế giới Có thế giới trang nghiêm
Kỳ danh công đức tràng. Tên là Công Ðức Tràng,

Kế tiếp về sau lại có kiếp, tên là Công Đức Nguyệt, lúc đó có thế giới tên là Công Đức Tràng.

 

Bỉ trung hữu chư Phật Trong đó có chư Phật
Bát thập na-do-tha Tám mươi na do tha,
Ngã giai dĩ diệu cúng Ta đều sắm đồ cúng
Thâm tâm nhi kính phụng. Thâm tâm dưng lên Phật.

Trong thế giới đó có tám mươi Na do tha chư Phật, ta đều dùng đồ cúng dường tốt đẹp không thể nghĩ bàn, dùng tâm chí thành khẩn thiết để cung phụng tất cả chư Phật.

 

Sơ càn thát bà vương Một, Phật Thát Bà Vương,
Nhị danh Đại thọ Vương Hai, Phật Ðại Thọ Vương,
Tam công đức Tu-Di Ba, Công Ðức Tu Di,
Đệ tứ bảo nhãn Phật Thứ tư Phật Bửu Nhãn,

Vị Phật thứ nhất hiệu là Phật Càn Thát Bà Vương. Vị thứ hai hiệu là Phật Đại Thụ Vương. Vị thứ ba hiệu là Phật Công Đức Tu Di. Vị thứ tư hiệu là Phật Bảo Nhãn.

 

Đệ ngũ Lô-xá-na; Thứ năm Lô Xá Na,
Đệ lục quang trang nghiêm Thứ sáu Quang Trang Nghiêm,
Đệ thất pháp hải Phật Thứ bảy Phật pháp Hải,
Đệ bát quang Thắng Phật Thứ tám Phật Quang Thắng,
Cửu danh hiền Thắng Phật Thứ chín Phật Hiền Thắng,
Đệ thập pháp Vương Phật. Thứ mười Phật pháp Vương.

Vị thứ năm hiệu là Phật Lô Xá Na. Vị thứ sáu hiệu là Phật Quang Trang Nghiêm. Vị thứ bảy hiệu là Phật Pháp Hải. Vị thứ tám hiệu là Phật Quang Thắng. Vị thứ chín hiệu là Phật Hiền Thắng. Vị thứ mười hiệu là Phật Pháp Vương.

 

Như thị đẳng chư Phật Chư Phật Như Lai đó
Ngã tất tằng cúng dường, Ta đều từng cúng dường
Nhiên vị đắc thâm trí Nhưng chưa được thâm trí
Nhập ư chư pháp hải. Nhập vào biển Phật pháp.

Các đức Phật như đã nói ở trên, ta đều từng cúng dường, mà vẫn chưa đắc được đại trí huệ thâm sâu, để tiến vào biển tất cả Phật pháp. Đây là do chưa đắc được thâm trí thiện xảo hồi hướng, để hướng về biển Phật trí.

 

KIẾP THỨ NĂM

 

Thử hậu phục hưũ kiếp Sau đó lại có kiếp
Danh vi tịch tĩnh tuệ Tên là Tịch Tịnh Huệ
Sát hiệu Kim cương bảo Kiếp hiệu Kim Cang Bửu
Trang nghiêm tất thù diệu. Rất trang nghiêm đẹp lạ.

Kế tiếp về sau lại có kiếp, tên là Tịch Tĩnh Huệ, cõi tên là Kim Cang Bảo, rất trang nghiêm tốt đẹp.

 

Ư trung hữu thiên Phật Trong đó có ngàn Phật
Thứ đệ nhi xuất hưng Thứ đệ hiện thế gian.
Chúng sanh thiểu phiền não Chúng sanh phiền não nhẹ,
Chúng hội tất thanh tịnh. Chúng hội đều thanh tịnh

Trong cõi Kim Cang Bảo đó, có ngàn vị Phật thứ tự xuất hiện ra đời. Chúng sinh thế giới đó bớt đi phiền não, nên đại chúng pháp hội đều thanh tịnh.

 

Sơ Kim cương tề Phật Một, Phật Kim Cang Tê,
Nhị vô ngại lực Phật Hai, Phật Vô Ngại Lực
Tam danh Pháp giới ảnh Ba, Phật Pháp Giới Ảnh,
Tứ hiệu thập phương đăng Bốn, Phật Thập Phương Ðăng,

Vị Phật thứ nhất hiệu là Phật Kim Cang Tề. Vị thứ hai hiệu là Phật Vô Ngại Lực. Vị thứ ba hiệu là Phật Pháp Giới Ảnh. Vị thứ tư hiệu là Phật Thập Phương Đăng.

 

Đệ ngũ danh bi quang Thứ năm Phật Bi Quang,
Đệ lục danh giới hải Thứ sáu Phật Giới Hải,
Đệ thất nhẫn đăng luân Thứ bảy Nhẫn Ðăng Luân,
Đệ bát Pháp luân quang Thứ tám Pháp Luân Quang,

Vị thứ năm hiệu là Phật Bi Quang. Vị thứ sáu hiệu là Phật Giới Hải. Vị thứ bảy hiệu là Phật Nhẫn Đăng Luân. Vị thứ tám hiệu là Phật Pháp Luân Quang.

 

Cửu Danh-Quang trang nghiêm Thứ chín Quang Trang Nghiêm,
Thập danh tịch tĩnh quang Mười, Phật Tịch Tịnh Quang.
Như thị đẳng chư Phật Chư Phật Như Lai đó
Ngã tất tằng cúng dường, Ta đều từng cúng dường

Vị thứ chín hiệu là Phật Quang Trang Nghiêm. Vị thứ mười hiệu là Phật Tịch Tĩnh Quang. Các đức Phật như vậy, ta đều từng cúng dường.

 

Do vị năng thâm ngộ Còn chưa được thâm ngộ
Như không thanh tịnh Pháp. Pháp thanh tịnh như không
Du hành nhất thiết sát Du hành tất cả cõi
Ư bỉ tu chư hạnh Hằng tu những công hạnh.

Nhưng ta vẫn chưa thể lãnh ngộ thâm sâu diệu pháp tịnh như hư không, để du hành tất cả cõi Phật, sau đó ở trong cõi nước chư Phật, tu tập các hạnh. Đây là vì chưa đắc được pháp thanh tịnh nhị không chân như của bậc thượng.

 

KIẾP THỨ SÁU

 

Thứ đệ phục hưũ kiếp Thứ đệ lại có kiếp
Danh vi thiện xuất hiện, Tên là Thiện Xuất Hiện
Sát hiệu hương đăng vân Cõi hiệu Hương Ðăng Vân
Tịnh uế sở cọng thành. Tịnh uế chung nhau thành,

Thứ tự lại có kiếp, tên là Thiện Xuất Hiện. Cõi tên Hương Đăng Vân, là thế giới hình thành có sạch, có dơ, chẳng phải hoàn toàn sạch sẽ, cũng chẳng phải hoàn toàn dơ bẩn.

 

Ức Phật ư trung hiện Trong đó có ức Phật
Trang nghiêm sát cập kiếp, Trang nghiêm cõi và kiếp,
Sở thuyết chủng chủng Pháp Chư Phật đó thuyết pháp,
Ngã giai năng ức trì. Ta đều thọ trì được,

Trong thế giới Hương Đăng Vân đó, có một ức vị Phật xuất hiện ra đời, các Ngài trang nghiêm cõi Phật và kiếp. Chư Phật diễn nói đủ thứ diệu pháp, ta đều nhớ trì tụng được.

 

Sơ danh quảng xưng Phật Thứ nhất Phật Quảng Xưng,
Thứ danh pháp hải Phật Kế đến Phật pháp Hải,
Tam danh Tự tại Vương Thứ ba Tự Tại Vương,
Tứ danh công đức vân Thứ tư Công Ðức Vân,

Vị Phật thứ nhất hiệu là Phật Quảng Xưng. Vị thứ hai hiệu là Phật Pháp Hải. Vị thứ ba hiệu là Phật Tự Tại Vương. Vị thứ tư hiệu là Phật Công Đức Vân.

 

Đệ ngũ pháp Thắng Phật Thứ năm Phật pháp Thắng,
Đệ lục thiên quan Phật Thứ sáu Phật Thiên Quan,
Đệ thất trí diệm Phật Thứ bảy Phật Trí Diệm,
Đệ bát hư không âm Thư tám Hư Không Âm,

Vị thứ năm hiệu là Phật Pháp Thắng. Vị thứ sáu hiệu là Phật Thiên Quan. Vị thứ bảy hiệu là Phật Trí Diệm. Vị thứ tám hiệu là Phật Hư Không Âm.

 

Đệ cửu lượng túc tôn, Ðức Thế Tôn thứ chín
Danh phổ sanh thù thắng Hiệu Phổ Sanh Thù Thắng,
Đệ thập Vô-thượng-Sĩ Vô Thượng Sĩ thứ mười
My gian thắng quang minh. Mi Gian Thắng Quang Minh.

Vị Phật thứ chín hiệu là Phật Phổ Sanh Thù Thắng. Vị Phật thứ mười hiệu là Phật Mi Gian Thắng Quang Minh.

 

Như thị nhất thiết Phật, Tất cả Phật như vậy
Ngã tất tằng cúng dường Ta đều từng cúng dường.
Nhiên do vị năng tịnh Nhưng còn chưa sạch được
Ly chư chướng ngại đạo. Ðạo rời lìa chướng ngại.

Tất cả chư Phật như vậy, ta đều từng cúng dường, nhưng vẫn chưa được thanh tịnh, để xa lìa các chướng ngại đạo. Đây là kiếp thứ sáu Thiện Xuất Hiện, chưa tịnh chướng tu đạo.

 

KIẾP THỨ BẢY

 

Thứ đệ phục hưũ kiếp Kế đó lại có kiếp
Danh tập kiên cố Vương Tên Tập Kiên Cố Vương,
Sát hiệu bảo tràng Vương Cõi hiệu Bửu Tràng Chủ
Nhất thiết thiện phân bố. Tất cả khéo nghiêm bày.

Thứ tự lại có kiếp, tên là Tập Kiên Cố Vương, cõi tên là Bảo Tràng Vương, tất cả đều khéo phân bố.

 

Hữu ngũ bách chư Phật, Có năm trăm đức Phật
Ư trung nhi xuất hiện; Xuất hiện trong cõi đó,
Ngã cung kính cúng dường Ta cung kính cúng dường
Cầu vô ngại giải thoát. Cầu vô ngại giải thoát.

Trong cõi Bảo Tràng Vương đó, có năm trăm vị Phật xuất hiện ra đời. Ta đều cung kính cúng dường các Ngài, để cầu pháp môn giải thoát vô ngại.

 

Tối sơ công đức luân Thứ nhứt Phật Công Ðức,
Kỳ thứ tịch tĩnh âm; Thứ hai Tịch Tịnh Âm,
Thứ danh công đức hải Thứ ba Công Ðức Hải,
Thứ danh nhật quang Vương Thứ tư Nhựt Quang Vương

Vị Phật thứ nhất hiệu là Phật Công Đức Luân. Kế tiếp đó là vị Phật Tịch Tĩnh Âm. Vị thứ ba hiệu là Phật Công Đức Hải. Vị thứ tư hiệu là Phật Nhựt Quang Vương.

 

Đệ ngũ công đức Vương Thư năm Công Ðức Vương,
Đệ lục Tu-Di-Tướng Thứ sáu Tu Di Tướng,
Thứ danh pháp tự tại Thứ bảy Pháp Tự tại,
Thứ Phật công đức Vương; Thứ tám Công Ðức Vương,

Vị thứ năm hiệu là Phật Công Đức Vương. Vị thứ sáu hiệu là Phật Tu Di Tướng. Vị thứ bảy hiệu là Phật Pháp Tự Tại. Vị thứ tám hiệu là Phật Công Đức Vương

 

Đệ cửu phước Tu-Di Thứ chín Phước Tu Di,
Đệ thập Quang minh vương. Mười, Phật Quang Minh Vương.
Như thị đẳng chư Phật, Chư Phật Như Lai đó
Ngã tất tằng cúng dường, Ta đều từng cúng dường,

Vị thứ chín hiệu là Phật Phước Tu Di. Vị thứ mười hiệu là Phật Quang Minh Vương. Các đức Phật như vậy, ta đều từng cúng dường các Ngài, không bỏ lỡ cơ hội nào.

 

Sở hữu thanh tịnh đạo Bao nhiêu đạo thanh tịnh
Phổ nhập tận vô dư, Ta đều nhập không sót
Nhiên ư sở nhập môn Nhưng nơi môn đã nhập
Vị năng thành tựu nhẫn. Chưa thành tựu được nhẫn.

Hết thảy đạo thanh tịnh, ta khắp vào hết không thừa, mà đối với pháp môn ta chứng nhập, vẫn chưa đắc được lục địa thâm thuận nhẫn (vì lục địa được thượng phẩm thuận nhẫn).

 

KIẾP THỨ TÁM

 

Thứ đệ phục hưũ kiếp Kế đó lại có kiếp
Danh vi diệu thắng chủ Tên là Diệu Thắng Chủ,
Sát hiệu tịch tĩnh âm, Cõi hiệu Tịch Tịnh Âm,
Chúng sanh phiền não bạc. Chúng sanh phiền não nhẹ.

Thứ tự lại có kiếp, tên là Diệu Thắng Vương, cõi tên là Tịch Tĩnh Âm. Chúng sinh thế giới đó ít phiền não.

 

Ư trung hữu Phật hiện, Cõi ấy có Phật hiện
Bát thập na-do-tha Tám mươi na do tha,
Ngã tất tằng cúng dường Ta đều từng cúng dường
Tu hành tối thắng đạo. Ta hành đạo tối thắng,

Trong thế giới Diệu Thắng Vương đó, có tám mươi Na do tha vị Phật xuất hiện ra đời. Ta đều từng cúng dường, tu hành Phật đạo tối thù thắng.

 

Sơ Phật danh hoa tụ Thứ nhất Phật Hoa Tụ,
Thứ Phật danh hải tạng Thứ hai Phật Hải Tạng,
Thứ danh công đức sanh; Thứ ba Công Ðức Sanh,
Thứ hiệu Thiên Vương kế; Thứ tư Thiên Vương Kế,

Vị Phật thứ nhất hiệu là Phật Hoa Tụ, vị thứ hai hiệu là Phật Hải Tạng. Vị thứ ba hiệu là Phật Công Đức Sanh. Vị thứ tư hiệu là Phật Thiên Vương Kế.

 

Đệ ngũ ma-ni tạng Thư năm Ma Ni Tạng,
Đệ lục chân kim sơn Thứ sáu Chơn Kim Sơn,
Đệ thất bảo tụ tôn Thứ bảy Bửu Tụ Tôn,
Đệ bát Pháp-Tràng Phật Thứ tám Pháp Tràng Phật,

Vị thứ năm là Phật Ma Ni Tạng. Vị thứ sáu là Phật Chân Kim Sơn. Vị thứ bảy là Phật Bảo Tụ Tôn. Vị thứ tám là Phật Pháp Tràng.

 

Đệ cửu danh thắng tài; Thứ chín Phật Thắng Tài,
Đệ thập danh trí tuệ. Thứ mười Phật Trí Huệ.
Thử thập vi thượng thủ Tất cả chư Phật này
Cúng dường vô bất tận. Ta đều cúng dường đủ.

Vị thứ chín là Phật Thắng Tài. Vị thứ mười là Phật Trí Huệ. Mười vị Phật nầy là thượng thủ, ta cúng dường các Ngài không cùng tận, một chút cũng không giải đãi. Đây là kiếp Diệu Thắng Vương thứ tám, bậc tu đạo tối thắng. Vì Lục địa Bát Nhã là thắng đạo. Thứ bảy Viễn hành địa, tức là đã đắc được Bát Nhã thắng đạo, đắc được Lục địa vậy.

 

KIẾP THỨ CHÍN

 

Thứ đệ phục hưũ kiếp Kế đó lại có kiếp
Danh viết thiên công đức Hiệu là Thiên Công Ðức,
Nhĩ thời hữu thế giới Kiếp đó có thế giới
Hiệu thiện hóa tràng đăng Hiệu Thiện Hóa Tràng Ðăng,

Thứ tự lại có kiếp tên là Thiên Công Đức. Lúc đó có thế giới tên là Thiện Hoá Tràng Đăng.

 

Lục thập ức na do Sáu mươi ức do tha
Chư Phật hưng ư thế. Như Lai hiện thế gian
Tối sơ tịch tĩnh tràng Một là Tịch Tịnh Tràng,
Kỳ thứ xa ma tha Hai, Phật Xa Ma Tha

Trong kiếp Thiên Công Đức đó, có sáu mươi ức Na do tha chư Phật xuất hiện ra đời giáo hoá chúng sinh. Vị Phật thứ nhất là Phật Tịch Tĩnh Tràng, kế tiếp là vị Phật Xa Ma Tha.

 

Đệ tam bách đăng Vương; Ba, Phật Bá Ðăng Vương,
Đệ tứ tịch tĩnh quang Bốn, Phật Tịch Tịnh Quang,
Đệ ngũ vân mật uẩn Thứ năm Vân Mật Âm,
Đệ lục nhật Đại Minh Thứ sáu Nhựt Ðại Minh,

Thứ ba là vị Phật Bách Đăng Vương. Vị thứ tư là Phật Tịch Tĩnh Quang. Vị thứ năm là Phật Vân Mật Âm. Vị thứ sáu là Phật Nhựt Đại Minh.

 

Thất hiệu pháp đăng quang Thứ bảy Pháp Ðăng Quang,
Bát danh thù thắng diệm Thứ tám Thù Thắng Diệm,
Cửu danh Thiên thắng tạng Thứ chín Thiên Thắng Tạng,
Thập danh Đại hống âm. Thứ mười Ðại Hống Âm.

Thứ bảy là Phật Pháp Đăng Quang. Vị thứ tám là Phật Thù Thắng Diệm. Vị thứ chín hiệu là Phật Thiên Thắng Tạng. Vị thứ mười hiệu là Phật Đại Hống Âm.

 

Như thị đẳng chư Phật, Chư Phật Như Lai đó
Ngã tất thường cúng dường Ta đều thường cúng dường
Vị đắc thanh tịnh nhẫn Chưa được thanh tịnh nhẫn
Thâm nhập chư pháp hải Thâm nhập biển Phật pháp,

Các đức Phật như vậy, ta đều thường cúng dường, không có luống qua, nhưng ta vẫn chưa đắc được vô sinh pháp nhẫn thanh tịnh, để vào sâu biển tất cả các pháp. Đây là kiếp Thiên Công Đức thứ chín, vì chưa vào được Bát địa tịnh vô sinh nhẫn.

 

KIẾP THỨ MƯỜI

 

Thứ đệ phục hưũ kiếp, Kế đó lại có kiếp
Danh Vô Trước trang nghiêm Tên Vô Trước Trang Nghiêm,
Nhĩ thời hữu thế giới Lúc đó có thế giới
Danh viết vô biên quang Tên là Vô Biên Quang,

Thứ tự lại có kiếp tên là Vô Trước Trang Nghiêm. Lúc đó có thế giới tên là Vô Biên Quang.

 

Trung hữu tam thập lục Trong đó có ba sáu
Na-do-tha Phật hiện. Na do tha Phật hiện :
Sơ công đức Tu-Di Một, Công Ðức Tu Di,
Đệ nhị hư không tâm Hai, Phật Hư Không Tâm,

Trong kiếp đó, có ba mươi sáu Na do tha đức Phật xuất hiện ra đời. Vị Phật thứ nhất hiệu là Phật Công Đức Tu Di. Vị thứ hai hiệu là Phật Hư Không Tâm.

 

Đệ tam cụ trang nghiêm Thứ ba Cụ Trang Nghiêm,
Đệ tứ pháp lôi âm Thứ tư Pháp Lôi Âm,
Đệ ngũ Pháp giới thanh Thứ năm Pháp Giới Thanh,
Đệ lục Diệu-Âm vân Thứ sáu Diệu Âm Vân,

Vị thứ ba hiệu là Phật Cụ Trang Nghiêm. Vị thứ tư hiệu là Phật Pháp Lôi Âm. Vị thứ năm hiệu là Phật Pháp Giới Thanh. Vị thứ sáu hiệu là Phật Diệu Âm Vân.

 

Đệ thất chiếu thập phương Thứ bảy Chiếu Thập Phương,
Đệ bát pháp hải âm Thứ tám Pháp Hải Âm,
Đệ cửu công đức hải Thứ chín Công Ðức Hải,
Đệ thập công đức tràng. Thứ mười Công Ðức Tràng.

Như thị đẳng chư Phật, Chư Phật Như Lai đó
Ngã tất tằng cúng dường Ta đều từng cúng dường.

Vị thứ bảy hiệu là Phật Chiếu Thập Phương. Vị thứ tám hiệu là Phật Pháp Hải Âm. Vị thứ chín hiệu là Phật Công Đức Hải. Vị thứ mười hiệu là Phật Công Đức Tràng. Các đức Phật như vậy, ta đều từng cúng dường, không có luống qua. Đây là kiếp Vô Trước Trang Nghiêm thứ mười, vị Dạ Thần ở kiếp đầu tiên đắc được Sơ địa, chưa đắc được Địa thứ hai, cho đến Địa thứ chín, Địa thứ mười. Trong kiếp thứ mười mới được viên mãn, nên tên kiếp đó cũng thuận địa nghĩa.
Dùng sơ kiếp tên Tịch Tĩnh Âm, đã được Sơ địa. Kiếp Thiên Thắng thứ hai, thiên tức tịnh nghĩa, cũng thuận ly cấu. Kiếp Phạm Quang Minh thứ ba thuận phát quang. Kiếp Công Đức Nguyệt thứ tư, thuận diệm huệ. Vì mặt trăng có ánh sáng, phát quang diệm. Kiếp Tịch Tĩnh Huệ thứ năm, vì thuận thiền tăng. Kiếp Thiện Xuất Hiện thứ sáu, vì thuận thiện hiện. Kiếp Tập Kiên Cố Vương thứ bảy, công dụng viên mãn, vì đã được phương tiện, không thể hoại. Kiếp Diệu Thắng Vương thứ tám, thuận nơi bất động, vì vô công dụng. Kiếp Thiên Công Đức thứ chín, vì bậc pháp sư. Kiếp Vô Trước Trang Nghiêm thứ mười, vì trí huệ vô trước, nhị nghiêm viên mãn.

 

Thứ hữu Phật xuất hiện, Kế đó Phật xuất thế
Danh vi công đức tràng Hiệu là Công Ðức Tràng
Ngã vi nguyệt diện Thiên Ta làm Nguyệt Diện Thiên
Cúng dường nhân trung chủ Cúng dường đức Thế Tôn,

Thứ tự lại có Phật xuất hiện ra đời, hiệu là Phật Công Đức Tràng. Lúc đó, ta làm Nguyệt Diện Thiên Thần, cúng dường vị Nhân Trung Chủ đó – Phật Công Đức Tràng.

Đây là lần thứ hai có Phật xuất hiện, hiệu là Công Đức Tràng, tức là trong thời tiết đắc pháp, cũng là ở trước kiếp Vô Trước, đắc được pháp nầy vậy.

 

Thời Phật vi ngã thuyết Như Lai vì ta nói
Vô y diệu Pháp môn Vô y diệu pháp môn.
Ngã văn chuyên niệm trì Ta nghe chuyên nhớ nghĩ
Xuất sanh chư nguyện hải. Phát sanh biển đại nguyện.

Lúc đó, đức Phật Công Đức Tràng vì ta diễn nói pháp môn vi diệu không nương, không làm, ta lắng nghe rồi bèn chuyên tâm nghĩ nhớ thọ trì, mà sinh ra tất cả biển đại nguyện. Đây là đắc được Địa thứ tám vô công dụng không nương đại nguyện.

 

Ngã đắc thanh Tịnh nhãn Ta được thanh tịnh nhãn
Tịch diệt định tổng trì, Tịch diệt định tổng trì
Năng ư niệm niệm trung Có thể trong mỗi niệm
Tất kiến chư Phật hải. Ðều thấy tất cả Phật.

Ta đắc được mắt pháp thanh tịnh và môn giải thoát tổng trì tịch tĩnh định, có thể ở trong niệm niệm, đều thấy tất cả biển chư Phật. Đây là đắc được Địa thứ chín vô công dụng diệt định tổng trì.

 

Ngã đắc đại bi tạng Ta được đại bi tạng
Phổ minh phương tiện nhãn Phương tiện nhãn khắp sáng
Tăng trưởng Bồ-đề tâm Thêm lớn tâm Bồ đề
Thành tựu Như Lai lực. Thành tựu Như Lai lực.

Ta đắc được đại bi tạng, tức là trừ khổ ban vui, mắt khắp thấu rõ tất cả phương tiện, mà tăng trưởng tâm đại bồ đề của ta, thành tựu mười lực của Như Lai. Đây là đắc được vô công dụng Địa thứ mười thành Như Lai lực.

 

Kiến chúng sanh điên đảo Thấy chúng sanh điên đảo
Chấp thường lạc ngã tịnh Chấp thường, lạc, ngã, tịnh,
Ngu si ám sở phước Tối ngu si che lấp,
Vọng tưởng khởi phiền não. Vọng tưởng khởi phiền não,

Ta nhìn thấy chúng sinh điên đảo, bỏ giác hợp trần, chạy theo vô minh phiền não, chẳng thường cho là thường, chẳng vui cho là vui, chẳng phải của ta cho là của ta, chẳng tịnh cho là tịnh, đây là bốn thứ điên đảo. Họ bị vô minh ngu si đen tối che đậy, do vọng tưởng, tâm tham, tâm sân, tâm si, mà sinh khởi rất nhiều phiền não.

 

Hành chỉ kiến trù lâm Ði đứng rừng kiến chấp,
Vãng lai tham dục hải, Qua lại biển tham dục,
Tập ư chư ác thú Nhóm ở các ác đạo
Vô lượng chủng chủng nghiệp. Tạo vô lượng ác nghiệp,

Họ làm gì cũng đều ở trong rừng kiến chấp, đến đi nơi tâm tham và ở trong biển ái dục. Họ tụ tập trong địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh các cõi ác, mà tạo ra vô lượng đủ thứ tội nghiệp.

 

Nhất thiết chư thú trung Trong tất cả các loài
Tùy nghiệp nhi thọ thân, Theo nghiệp mà thọ thân,
Sanh lão tử chúng hoạn Các họa sanh già chết
Vô lượng khổ bức bách. Vô lượng khổ bức bách.

Họ ở trong tất cả các cõi, theo nghiệp mà thọ thân, từ khi sinh ra rồi già, do bệnh mà chết, đủ thứ các hoạn nạn, có vô lượng thống khổ bức bách thân tâm tánh mạng của họ, nên chẳng được tự tại.

 

Vi bỉ chúng sanh cố Vì những chúng sanh đó
Ngã phát vô thượng tâm Ta phát tâm vô thượng
Nguyện đắc như thập phương Nguyện được như mười phương
Nhất thiết thập lực tôn. Tất cả đấng Thập Lực.

Ta vì những chúng sinh tội khổ đó, mà ta phát tâm vô thượng bồ đề: “Nguyện ta được giống như tất cả đấng Thập Lực trong mười phương”.

 

Duyên Phật cập chúng sanh Duyên Phật và chúng sanh
Khởi ư đại nguyện vân Phát khởi những đại nguyện
Tùng thị tu công đức Từ đó tu công đức
Thú nhập phương tiện đạo Xu nhập phương tiện đạo,

Ta nhờ duyên Phật và chúng sinh, mà sinh khởi mây đại nguyện. Từ vị Phật đó mà ta tu tất cả công đức, ta hướng về Phật đạo phương tiện.

 

Nguyện vân tất di phước Ðại nguyện đều che chở
Phổ nhập nhất thiết đạo Vào khắp tất cả đạo,
Cụ túc Ba-la-mật, Ðầy đủ Ba la mật
Sung mãn ư Pháp giới. Ðầy khắp nơi pháp giới

Mây đại nguyện của ta phát ra, đều che phủ ta, khiến cho ta vào khắp tất cả Phật đạo, mà đầy đủ pháp môn Ba La Mật đến bờ kia, tận hư không khắp pháp giới, đều là nơi ta hành Bồ Tát đạo.

 

Tốc nhập ư chư địa Mau nhập nơi các địa
Tam thế phương tiện hải, Biển phương tiện tam thế,
Nhất niệm tu chư Phật Một niệm tu chư Phật
Nhất thiết vô ngại hạnh Tất cả hạnh vô ngại.

Ta sớm tiến vào các quả vị Thập Địa, biển phương tiện quá khứ, hiện tại, vị lai ba đời. Ta ở trong một niệm tu hành hạnh môn của chư Phật, tất cả đều là hạnh môn viên dung vô ngại.

 

Phật tử ngã Nhĩ thời Lúc đó ta được nhập
Đắc nhập Phổ Hiền đạo Ðạo Phổ Hiền Bồ Tát,
Liễu tri thập pháp giới Biết rõ mười pháp giới
Nhất thiết sái biệt môn. Tất cả môn sai biệt.

Phật tử! Ngươi có biết lúc đó ta vào được pháp môn hạnh nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền, biết rõ đạo lý mười pháp giới, đó là: Pháp giới của Phật, Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn, Trời, người, A tu la, địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, đều thấu rõ tất cả pháp môn khác nhau.

Thiện nam tử! ư nhữ ý vân hà, bỉ thời Chuyển luân Thánh Vương, danh: thập phương chủ, năng thiệu long Phật chủng giả, khởi dị nhân hồ? Văn-thù-sư-lợi Đồng tử thị dã

Nói kệ xong, Dạ Thần bảo Thiện Tài rằng : Này thiện nam tử ! Ý ngươi nghĩ sao ? Thuở xưa, Chuyển Luân Thánh Vương hiệu Thập Phương Chủ có thể nối thạnh dòng Phật là ai ? Chính là Ngài Văn Thù Sư Lợi Ðồng Tử đấy.

Thiện nam tử! Ý của ngươi thế nào? Vị Chuyển Luân Thánh Vương Thập Phương Chủ lúc đó, thiệu long giống Thánh của Phật, đâu phải là người nào khác, chính là Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát,

 

Nhĩ thời dạ Thần giác ngộ ngã giả, Phổ Hiền Bồ Tát chi sở hóa nhĩ!

Còn Dạ Thần giác ngộ ta, chính là hóa thân của đức Phổ Hiền Bồ Tát.

Giảng: Còn vị Dạ Thần lúc đó giác ngộ ta, là hoá thân của Bồ Tát Phổ Hiền.

 

Ngã ư Nhĩ thời vi Vương bảo nữ, mông bỉ dạ Thần giác ngộ ư ngã, lệnh ngã kiến Phật, phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm. Tự tùng thị lai, Kinh Phật sát vi trần số kiếp, bất đọa ác thú, thường sanh nhân, Thiên, ư nhất thiết xứ thường kiến chư Phật, nãi chí ư diệu đăng công đức tràng Phật sở, đắc thử đại thế lực phổ hỉ Tràng Bồ-tát giải thoát, dĩ thử giải thoát như thị lợi ích nhất thiết chúng sanh.

Thuở ấy ta làm Bửu Nữ Nhờ Dạ Thần giác ngộ cho ta thấy Phật để phát tâm Vô thượng Bồ đề. Từ đó về sau trải qua Phật sát vi trần số kiếp chẳng đọa ác đạo, thường sanh Nhơn, Thiên, thường thấy chư Phật. Nhẫn đến ở chỗ đức Phật Diệu Ðăng Công Ðức Tràng được môn Bồ Tát giải thoát “Ðại thế lực phổ hỉ tràng” này. Ta dùng môn giải thoát này làm lợi ích cho tất cả chúng sanh.

Giảng: Lúc đó ta làm bảo nữ của Chuyển Luân Thánh Vương. Ta nhờ vị Dạ Thần đó giác ngộ, khiến cho ta thấy được Phật, mà phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Từ đó đến nay, trải qua số kiếp nhiều như số hạt bụi cõi Phật, ta không hề đoạ vào các cõi ác, thường sinh trong tất cả cõi trời và người, hưởng vui thù thắng vi diệu. Ta ở đâu cũng thường gặp được chư Phật, nghe pháp, thấy Tăng, cho đến ở chỗ đức Phật Diệu Đăng Công Đức Tràng, ta đắc được giải thoát Đại thế lực phổ hỉ tràng Bồ Tát nầy. Nhờ giải thoát nầy mà ta lợi ích tất cả chúng sinh như vậy.
Đây là vị Dạ Thần kết hội xưa nay.

 

Thiện nam tử! ngã duy đắc thử đại thế lực phổ hỉ tràng giải thoát môn.

Này thiện nam tử ! Ta chỉ được môn giải thoát Ðại thế lực phổ hỉ tràng này.

Giảng: Thiện nam tử! Ta chỉ đắc được môn giải thoát Đại thế lực phổ hỉ tràng Bồ Tát nầy.

 

Như chư Bồ-Tát Ma-ha-tát, ư niệm niệm trung, phổ nghệ nhất thiết chư Như Lai sở, tật năng thú nhập nhất thiết trí hải; ư niệm niệm trung, dĩ phát thú môn, nhập ư nhất thiết chư Đại nguyện hải; ư niệm niệm trung, dĩ nguyện hải môn, tận vị lai kiếp, niệm niệm xuất sanh nhất thiết chư hạnh. Nhất nhất hạnh trung xuất sanh nhất thiết sát vi trần số thân, nhất nhất thân phổ nhập nhất thiết pháp giới môn; nhất nhất pháp giới môn, nhất thiết Phật sát trung, tùy chúng sanh tâm thuyết chư diệu hạnh. nhất thiết sát nhất nhất trần trung, tất kiến vô biên chư Như Lai hải; nhất nhất Như Lai sở, tất kiến biến Pháp giới chư Phật thần thông; nhất nhất Như Lai sở, tất kiến vãng kiếp tu Bồ Tát hạnh; nhất nhất Như Lai sở, thọ trì thủ hộ sở hữu Pháp luân; nhất nhất Như Lai sở, tất kiến tam thế nhất thiết Như Lai chư thần biến hải.

Như chư đại Bồ Tát trong mỗi niệm đến khắp trước tất cả chư Phật Như Lai, mau xu nhập được biển nhứt thiết trí, trong mỗi niệm dùng môn phát thu vào tất cả biển đại nguyện. Trong mỗi niệm dùng môn đại nguyện tận kiếp vị lai, mỗi niệm xuất sanh tất cả công hạnh. Trong mỗi hạnh xuất sanh tất cả Phật sát vi trần số thân, mỗi mỗi thân vào khắp tất cả cả pháp giới môn. Mỗi pháp giới môn, trong tất cả cõi Phật, tùy tâm chúng sanh mà nói những diệu hạnh. Trong mỗi vi trần của tất cả cõi đều thấy vô biên chư Phật. Ở chỗ mỗi Như Lai đều thấy khắp pháp giới chư Phật thần thông. Ở chỗ mỗi Như Lai đều thấy đời trước tu Bồ Tát hạnh. Ở chỗ mỗi Như Lai thọ trì thủ hộ những pháp luân. Ở chỗ mỗi Như Lai đều thấy những thần biến của tam thế tất cả Như Lai.

Giảng: Như các đại Bồ Tát ở trong niệm niệm, đến khắp đạo tràng của tất cả chư Phật, sớm hướng vào biển nhất thiết trí. Trong niệm niệm, dùng môn phát thú vô thượng, vào sâu biển tất cả các đại nguyện. Trong niệm niệm, dùng môn các biển đại nguyện, hết kiếp thuở vị lai, niệm niệm sinh ra tất cả các hạnh của các Bồ Tát. Trong mỗi mỗi hạnh, sinh ra hoá thân nhiều như số hạt bụi tất cả các cõi. Mỗi mỗi hoá thân, vào khắp tất cả môn pháp giới. Mỗi mỗi môn pháp giới, ở trong tất cả cõi Phật, tuỳ thuận tâm chúng sinh, mà diễn nói các diệu hạnh. Tất cả cõi Phật, trong mỗi mỗi hạt bụi, ta đều thấy vô biên các biển chư Phật. Ở chỗ đạo tràng của mỗi vị Phật, ta đều thấy thần thông của chư Phật khắp pháp giới. Ở chỗ đạo tràng của mỗi vị Phật, ta đều thấy kiếp xưa tu Bồ Tát hạnh. Ở chỗ đạo tràng của mỗi vị Phật, ta đều thọ trì giữ gìn hết thảy bánh xe pháp. Ở chỗ đạo tràng của mỗi vị Phật, ta đều thấy các biển thần thông biến hoá của tất cả chư Phật ba đời. Đủ thứ những sự việc ở trên,

 

Nhi ngã vân hà năng tri năng thuyết bỉ công đức hạnh?

Ta thế nào biết được nói được công đức hạnh đó.

Giảng: Ta làm sao biết được nói được những hạnh công đức của các đại Bồ Tát đó?

 

Thiện nam tử! thử chúng hội trung, hữu nhất dạ Thần, danh: phổ cứu chúng sanh diệu đức. Nhữ nghệ bỉ vấn: Bồ Tát vân hà nhập Bồ Tát hạnh, tịnh Bồ Tát đạo?

Này thiện nam tử ! Trong chúng hội đây có một Dạ Thần tên là Phổ Cứu Chúng Sanh Diệu Ðức. Ngươi đến đó hỏi Bồ Tát thế nào nhập Bồ Tát hạnh, tịnh Bồ Tát đạo ?

Giảng: Thiện nam tử! Ngươi nên đi tìm cầu một vị thiện tri thức khác. Thiện nam tử! Trong chúng hội nầy, có một vị Dạ Thần, tên là Phổ Cứu Chúng Sinh Diệu Đức, ngươi đi đến đó hỏi: “Bồ Tát làm thế nào vào Bồ Tát hạnh? Tịnh Bồ Tát đạo”?

 

Thời, Thiện tài đồng tử đảnh lễ kỳ túc, nhiễu vô số tạp, ân cần chiêm ngưỡng, từ thoái nhi khứ.

Bấy giờ Thiện Tài đồng tử đảnh lễ chân Hỉ Mục Quán Sát Chúng Sanh Chủ Dạ Thần, hữu nhiễu vô số vòng, ân cần chiêm ngưỡng từ tạ mà đi.

Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử đảnh lễ vị Dạ Thần, rồi đi nhiễu quanh bên phải vô lượng vòng, ân cần chiêm ngưỡng vị Dạ Thần Hỉ Mục Quán Sát Chúng Sinh, sau đó từ tạ mà đi tìm cầu một vị thiện tri thức khác.






Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét