Kinh Hoa Nghiêm
Đại Phương Quảng Phật
giảng giải
Phẩm Thứ 38
Hòa Thượng TUYÊN HÓA
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Minh Ðịnh
— o0o —
PHẨM LY THẾ GIAN
Phần 2
================================
TRẢ LỜI PHÁP THẬP HẠNH
— o0o —
Thập Chủng Lực Trì
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng lực trì. Hà đẳng vi thập? sở vị:
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát có mười pháp lực-trì. Những gì là mười ? Đó là :
Phật lực trì Phật lực-trì.
Pháp lực trì; Pháp lực-trì.
Chúng sanh lực trì; Chúng-sanh lực-trì.
Nghiệp lực trì; Nghiệp lực-trì.
Hạnh lực trì Hạnh lực-trì.
Nguyện lực trì Nguyện lực-trì.
Cảnh giới lực trì Cảnh-giới lực-trì.
Thời lực trì Thời lực-trì.
Thiện lực trì Thiện lực-trì.
Trí lực trì. Trí lực-trì.
Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức ư nhất thiết Pháp đắc vô thượng tự tại lực trì.
Đó là mười. Nếu chư Bồ-Tát an-trụ pháp nầy thời nơi tất cả pháp được lực-trì tự-tại vô-thượng.
Giảng: Đó là mười lực trì. Nếu Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì nơi tất cả các pháp được lực trì tự tại vô thượng.
=======================================
Thập Chủng Đại Hân úy
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng Đại hân úy. Hà đẳng vi thập? sở vị:
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát có mười pháp đại hân-ủy. Những gì là mười ? Đó là :
Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười pháp đại yên vui. Những gì là mười ? Đó là :
Ly thế gian phẩm đệ tam thập bát chi nhị chư Bồ-tát phát như thị tâm: tận vị lai thế sở hữu chư Phật xuất hưng vu thế, ngã đương giai đắc tùy trục thừa sự lệnh sanh hoan hỉ. Như thị tư duy, tâm Đại hân úy.
Chư Bồ-Tát phát tâm như vầy : Tột đời vị-lai có bao nhiêu chư Phật xuất thế tôi đều sẽ được theo gần hầu hạ cho Phật hoan-hỷ. Suy nghĩ như vậy tâm rất hân-ủy.
Giảng: 1. Tất cả Bồ Tát phát tâm như vầy : Hết thuở vị lai hết thảy chư Phật xuất hiện ra đời. Tôi (Bồ Tát tự gọi) sẽ đều thường được theo chư Phật tu học, gần gũi chư Phật, hầu hạ chư Phật, khiến cho chư Phật sinh tâm đại hoan hỉ. Suy tư như vậy, tâm đại yên vui. Bồ Tát chỉ có yên vui, chẳng có sự ưu sầu, chẳng giống như phàm phu tục tử chúng ta, lúc nào cũng buồn rầu lo lắng chẳng vui. Khi hành Bồ Tát đạo, nghĩ như vậy nên rất yên vui.
Phục tác thị niệm: bỉ chư Như Lai xuất hưng ư thế, ngã đương tất dĩ vô thượng cung cụ cung kính cúng dường. Như thị tư duy, tâm Đại hân úy.
Lại nghĩ rằng : Chư Phật đó xuất thế, tôi đều đem đồ cúng-dường vô-thượng mà cung kính dâng lên chư Phật. Suy nghĩ như vậy tâm rất hân-ủy.
Giảng: 2. Bồ Tát lại nghĩ như vầy : Hết thảy chư Phật Như Lai, khi xuất hiện ra đời, tôi sẽ đều dùng đồ cúng quý giá vô thượng, cung kính chư Phật, cúng dường chư Phật. Tư duy như vậy, tâm đại yên vui.
Phục tác thị niệm: ngã ư chư Phật sở hưng cúng dường thời, bỉ chư Như Lai tất thị hối ngã pháp, ngã tất dĩ thâm tâm cung kính thính thọ, như thuyết tu hành, ư Bồ Tát địa tất đắc dĩ sanh, hiện sanh, đương sanh. Như thị tư duy, tâm Đại hân úy.
Lại nghĩ rằng : Tôi ở chỗ chư Phật, lúc cúng-dường, chư Như-Lai đó tất dạy chánh-pháp cho tôi, tôi đều dùng thâm tâm cung kính nghe nhận, tu hành đúng theo lời Phật dạy, nơi bực Bồ-Tát tất được đã sanh, nay sanh, sẽ sanh. Suy nghĩ như vậy tâm rất hân-ủy.
Giảng: 3. Bồ Tát lại nghĩ như vầy : Tôi ở chỗ các đức Phật, khi cúng dường thì các Như Lai đó sẽ từ bi chỉ dạy pháp cho tôi. Tôi sẽ dùng tâm thâm sâu cung kính lắng nghe thọ trì, tôi phải y theo lời Phật nói mà tu hành, tuyệt đối không thối chuyển bồ đề tâm, nhất định sinh bậc Thập địa của Bồ Tát, hoặc đã sinh, hoặc đang sinh, hoặc sẽ sinh. Tư duy như vậy, tâm đại yên vui.
Phục tác thị niệm: ngã đương ư bất khả thuyết bất khả thuyết kiếp hạnh Bồ Tát hạnh, thường dữ nhất thiết chư Phật Bồ Tát nhi đắc cọng câu. Như thị tư duy, tâm Đại hân úy.
Lại nghĩ rằng : Tôi phải nơi bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết kiếp thật hành bồ-tát hạnh. Thường cùng tất cả chư Phật Bồ-Tát ở chung. Suy nghĩ như vậy tâm rất hân-ủy.
Giảng: 4. Bồ Tát lại nghĩ như vầy : Tôi sẽ ở nơi bất khả thuyết bất khả thuyết đại kiếp, tu hành Bồ Tát hạnh. Thường được cùng tụ hội với tất cả chư Phật Bồ Tát, tư duy như vậy, tâm đại yên vui.
Phục tác thị niệm: ngã ư vãng tích vị phát vô thượng đại Bồ-đề tâm, hữu chư bố úy, sở vị: bất hoạt úy, ác danh úy, tử úy, đọa ác đạo úy, Đại chúng uy đức úy. Tự nhất phát tâm, tất giai viễn ly, bất kinh bất khủng, bất úy bất cụ, bất khiếp bất bố, nhất thiết chúng ma cập chư ngoại đạo sở bất năng hoại. Như thị tư duy, tâm Đại hân úy.
Lại nghĩ rằng : Tôi thuở xưa chưa phát tâm vô-thượng bồ-đề có những bố-úy : Sợ chẳng đủ nuôi sống, sợ tiếng xấu, sợ chết, sợ đọa ác-thú, sợ oai-ức của đại-chúng. Từ khi một phen phát tâm thời đều xa lìa chẳng còn kinh sợ. Tất cả chúng ma và các ngoại đạo không phá hoại được. Suy nghĩ như vậy tâm rất hân-ủy.
Giảng: 5. Bồ Tát lại nghĩ như vầy : Khi tôi ở trong quá khứ, chưa phát tâm đại bồ đề vô thượng, có năm điều sợ hãi như là :
a. Sợ chẳng được sống lâu : Sợ chẳng được trường thọ sống lâu.
b. Sợ tiếng xấu : Tức là sợ có người phá hoại danh dự của mình.
c. Sợ chết : Sợ cái chết đến, mình không còn sống lâu ở đời.
d. Sợ đoạ đường ác : Sợ mình tương lai sẽ đoạ vào ba đường ác (Địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh).
e. Sợ oai đức của đại chúng : Có tâm lý sợ khi ở trước đại chúng.
Một khi tự mình đã phát đại bồ đề tâm rồi, thì cảm thấy đều là giả, mình phải làm việc chân thật, buông bỏ hết những sự sợ hãi giả dối đó. Những sự sợ hãi đó thảy đều xa lìa, chẳng còn sợ hãi, khiếp nhược nữa. Tất cả chúng ma và các ngoại đạo, không thể mê hoặc được mình, không thể phá hoại được mình. Tư duy như vậy rồi, tâm sinh đại yên vui.
Phục tác thị niệm: ngã đương lệnh nhất thiết chúng sanh thành vô thượng Bồ-đề; Thành Bồ-đề dĩ, ngã đương ư bỉ Phật sở tu Bồ Tát hạnh tận kỳ hình thọ, dĩ đại tín tâm hưng sở Ứng-Cúng Phật chư cúng dường cụ nhi vi cúng dường; cập Niết-Bàn hậu, các khởi vô lượng tháp cúng dường xá lợi, cập thọ trì thủ hộ sở hữu di pháp. Như thị tư duy, tâm Đại hân úy.
Lại nghĩ rằng : Tôi sẽ làm cho tất cả chúng-sanh thành vô-thượng bồ-đề. Thành bồ-đề rồi, tôi sẽ ở nơi đức Phật đó tu hạnh bồ-tát, trọn đời dùng lòng tin lớn sắm sửa những đồ đáng cúng-dường chư Phật để dâng cúng. Sau khi chư Phật nhập diệt, tôi đều dựng vô-lượng tháp để cúng dường xá-lợi và thọ-trì thủ-hộ pháp của Phật để lại. Suy nghĩ như vậy tâm rất hân-ủy.
Giảng: 6. Bồ Tát lại nghĩ như vầy : Tôi sẽ khiến cho tất cả chúng sinh thành tựu vô thượng bồ đề. Thành tựu bồ đề rồi, tôi sẽ ở tại đạo tràng của vị Phật đó, tu Bồ Tát hạnh, suốt đời dùng đại tín tâm, dâng lên cúng Phật các phẩm vật cúng dường. Và sau khi Phật vào Niết Bàn rồi, đều xây vô lượng tháp cúng dường xá lợi, và thọ trì giữ gìn hết thảy pháp của Phật để lại. Tư duy như vậy, sinh tâm đại yên vui.
Hựu tác thị niệm: thập phương sở hữu nhất thiết thế giới, ngã đương tất dĩ vô thượng trang nghiêm nhi trang nghiêm chi, giai lệnh cụ túc chủng chủng kì diệu bình đẳng thanh tịnh, phục dĩ chủng chủng đại thần thông lực trụ trì chấn động, quang minh chiếu diệu phổ sử chu biến. Như thị tư duy, tâm Đại hân úy.
Lại nghĩ rằng : Mười phương có bao nhiêu thế-giới, tôi phải đều dùng đồ vô-thượng trang-nghiêm để trang-nghiêm, đều làm cho đầy đủ các thú kỳ diệu bình-đẳng thanh-tịnh. Lại dùng những sức đại thần-thông trụ trì chấn-động quang-minh chói sáng cùng khắp tất cả. Suy nghĩ như vậy tâm rất hân-ủy.
Giảng: 7. Bồ Tát lại nghĩ như vầy : Mười phương hết thảy tất cả thế giới, tôi phải dùng đồ trang nghiêm vô thượng để trang nghiêm. Đều khiến cho đầy đủ các thứ đặc biệt tốt đẹp, bình đẳng thanh tịnh. Lại dùng các thứ đại thần thông lực, trụ trì đại địa có sáu thứ chấn động, quang minh chiếu sáng khắp tất cả thế giới. Tư duy như vậy, sinh tâm đại yên vui.
Phục tác thị niệm: ngã đương đoạn nhất thiết chúng sanh nghi hoặc, tịnh nhất thiết chúng sanh dục lạc, khải nhất thiết chúng sanh tâm ý, diệt nhất thiết chúng sanh phiền não, bế nhất thiết chúng sanh ác đạo môn, khai nhất thiết chúng sanh thiện thú môn, phá nhất thiết chúng sanh hắc ám, dữ nhất thiết chúng sanh quang minh, lệnh nhất thiết chúng sanh ly chúng ma nghiệp, sử nhất thiết chúng sanh chí an ẩn xứ. Như thị tư duy, tâm Đại hân úy.
Lại nghĩ rằng : Tôi phải dứt nghi hoặc cho tất cả chúng-sanh, làm sạch tất cả dục lạc của tất cả chúng-sanh, mở tâm ý cho tất cả chúng-sanh, diệt phiền-não cho tất cả chúng-sanh, đóng cửa ác-đạo cho tất cả chúng-sanh, mở cửa thiện-đạo cho tất cả chúng-sanh, phá hắc ám cho tất cả chúng-sanh, ban quang-minh cho tất cả chúng-sanh, khiến tất cả chúng-sanh rời những nghiệp ma, khiến tất cả chúng-sanh đến chỗ an-ổn. Suy nghĩ như vậy tâm rất hân-ủy.
Giảng: 8. Bồ Tát lại nghĩ như vầy : Tôi sẽ dứt trừ nghi hoặc của tất cả chúng sinh, làm thanh tịnh dục lạc của tất cả chúng sinh, khiến cho chúng sinh có dục lạc nặng thành nhẹ, có dục lạc nhẹ thì bớt đi, dục lạc ít thì hết sạch không còn nữa. Khai mở tâm ý của tất cả chúng sinh, đắc được trí huệ, hết ngu si. Diệt trừ phiền não của tất cả chúng sinh, hoặc giảm bớt tập khí mao bệnh. Đóng cửa đường ác của tất cả chúng sinh. Khai mở cửa đường lành cho tất cả chúng sinh. Phá tan đen tối của tất cả chúng sinh, ban ánh sáng cho tất cả chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh lìa các ma nghiệp, tu hành đạo nghiệp thanh tịnh, khiến cho tất cả chúng sinh đến được nơi an ổn. Tư duy như vậy, sinh tâm đại yên vui.
Bồ-Tát Ma-ha-tát phục tác thị niệm: chư Phật Như Lai như ưu-đàm hoa, nan khả trực ngộ, ư vô lượng kiếp mạc năng nhất kiến. Ngã đương ư vị lai thế dục kiến Như Lai tức tiện đắc kiến, chư Phật Như Lai thường bất xả ngã, hằng trụ ngã sở, lệnh ngã đắc kiến, vi ngã thuyết Pháp vô hữu đoạn tuyệt; ký văn Pháp dĩ, tâm ý thanh tịnh, viễn ly siểm khúc, chất trực vô ngụy, ư niệm niệm trung thường kiến chư Phật. Như thị tư duy, tâm đại hân úy.
Lại nghĩ rằng : Chư Phật Như-Lai như hoa ưu-đàm khó gặp được, trong vô-lượng kiếp chẳng được thấy một lần, tôi phải ở đời vị-lai muốn thấy Như-Lai thời bèn được thấy. Chư Phật Như-Lai thường chẳng bỏ tôi, hằng ở chỗ tôi cho tôi được thấy, thuyết pháp cho tôi không dứt mất, đã nghe pháp rồi tâm ý tôi thanh-tịnh, xa rời siểm khúc, chất trực không hư ngụy, trong mỗi niệm thường thấy chư Phật. Suy nghĩ như vậy tâm rất hân-ủy.
Giảng: 9. Đại Bồ Tát lại nghĩ như vầy : Chư Phật Như Lai như hoa ưu đàm (hoa linh đoan, ba ngàn năm mới nở một lần), rất khó có thể gặp được. Trong vô lượng kiếp không dễ gì gặp được Phật. Trong đời vị lai, khi tôi muốn thấy Như Lai, thì sẽ được thấy. Chư Phật Như Lai thường không bỏ tôi, luôn cùng ở với tôi, khiến cho tôi thường được thấy Phật, vì tôi mà nói pháp không ngừng. Khi tôi nghe pháp rồi, tâm ý thanh tịnh, xa lìa hành vi xiểm khúc, xiểm khúc tức là thấy người có tiền, thì cuối đầu tỏ vẻ cung kính, khiến cho họ cảm động, nói những lời hay ý đẹp để tâng bốc. Lại xa lìa lời lẽ quanh co, chẳng nói lời ngay thẳng với tâm mình, mà nói dối. Bồ Tát phải có tâm ngay thẳng, không có tâm giả dối. Ở trong niệm niệm, thường thấy được mười phương ba đời tất cả chư Phật. Tư duy như vậy, sinh tâm đại yên vui.
Phục tác thị niệm: ngã ư vị lai đương đắc thành Phật, dĩ Phật thần lực, ư nhất thiết thế giới, vi nhất thiết chúng sanh các biệt thị hiện thành đẳng chánh giác thanh tịnh vô úy đại sư tử hống, dĩ bổn đại nguyện chu biến pháp giới, kích đại pháp cổ, vũ đại pháp vũ, tác đại pháp thí, ư vô lượng kiếp thường diễn chánh pháp, đại bi sở trì thân, ngữ, ý nghiệp vô hữu bì yếm. Như thị tư duy, tâm đại hân úy.
Ðại Bồ-Tát lại nghĩ rằng : Tôi thuở vị-lai sẽ được thành Phật, do thần-lực của Phật nơi tất cả thế-giới vì tất cả chúng-sanh đều riêng thị-hiện thành Ðẳng Chánh-Giác, thanh-tịnh vô-úy đại-sư-tử hống, do bốn đại nguyện cùng khắp pháp-giới, đánh đại pháp-cổ, mưa đại pháp-vũ, làm đại pháp-thí. Trong vô-lượng kiếp thường diễn chánh-pháp, đại-bi nhiếp trì, thân ngữ ý ba nghiệp không nhàm mỏi. Suy nghĩ như vậy tâm rất hân-ủy.
Giảng: 10. Bồ Tát lại nghĩ như vầy : Trong đời vị lai, tôi phải thành Phật. Dùng Phật thần lực, trong tất cả thế giới, vì tất cả chúng sinh, đều thị hiện pháp thân của tôi, thành Đẳng Chánh Giác, tức cũng là thành Phật. Thanh tịnh đại sư tử hống không sợ hãi. Dùng đại nguyện xưa đi khắp pháp giới, đánh trống pháp lớn, mưa đại pháp vũ, làm đại pháp thí. Trong vô lượng kiếp, thường diễn chánh pháp. Đại bi giữ gìn thân miệng ý nghiệp, khiến cho thanh tịnh, không khi nào nhàm mỏi. Tư duy như vậy, sinh tâm đại yên vui.
Phật tử! thị vi Bồ-Tát Ma-ha-tát thập chủng Đại hân úy. Nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức đắc vô thượng thành chánh giác trí tuệ Đại hân úy
Ðây là mười pháp đại hân-ủy của đại Bồ-Tát. Nếu chư Bồ-Tát an-trụ pháp nầy thời được trí-huệ đại hân-ủy vô-thượng thành Ðẳng-Chánh-Giác.
Giảng: Các vị Phật tử ! Đó là mười pháp đại yên vui của đại Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được trí huệ đại yên vui thành chánh giác vô thượng.
=======================================
Thập Chủng Thâm Nhập Phật Pháp
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng thâm nhập Phật Pháp. Hà đẳng vi thập? sở vị:
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát có mười điều thâm nhập phật-pháp. Những gì là mười ? Đó là :
Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười pháp vào sâu Phật pháp. Những gì là mười ? Đó là :
Nhập quá khứ thế nhất thiết thế giới
Nhập tất cả thế-giới đời quá-khứ.
Giảng: 1. Vào tất cả thế giới đời quá khứ.
Nhập vị lai thế nhất thiết thế giới
Nhập tất cả thế-giới đời vị-lai.
Giảng: 2. Vào tất cả thế giới đời vị lai.
Nhập hiện tại thế thế giới số, thế giới hạnh, thế giới thuyết, thế giới thanh tịnh
Nhập tất cả thế-giới đời hiện-tại, thế-giới hạnh, thế-giới thuyết, thế-giới thanh-tịnh.
Giảng: 3. Vào vô số thế giới đời hiện tại, thế giới hành, thế giới thuyết, thế giới thanh tịnh.
Nhập nhất thiết thế giới chủng chủng tánh
Nhập các thứ tánh của tất cả thế-giới.
Giảng: 4. Vào tất cả thế giới đủ thứ tánh.
Nhập nhất thiết chúng sanh chủng chủng nghiệp báo
Nhập các thứ nghiệp báo của tất cả chúng-sanh.
Giảng: 5. Vào tất cả chúng sinh đủ thứ nghiệp báo.
Nhập nhất thiết bồ tát chủng chủng hạnh
Nhập các thứ hạnh của tất cả Bồ-Tát.
Giảng: 6. Vào tất cả Bồ Tát đủ thứ hạnh.
Tri quá khứ nhất thiết Phật thứ đệ
Biết quá-khứ tất cả Phật thứ đệ.
Giảng: 7. Biết tất cả chư Phật thứ lớp quá khứ thị hiện ra đời.
Tri vị lai nhất thiết Phật thứ đệ
Biết vị-lai tất cả Phật thứ đệ.
Giảng: 8. Biết tất cả chư Phật thứ lớp vị lai thị hiện ra đời.
Tri hiện tại thập phương hư không Pháp giới đẳng nhất thiết chư Phật, quốc độ chúng hội, thuyết Pháp điều phục;
Biết hiện-tại thập phương hư-không pháp-giới tất cả Phật, quốc-độ, chúng-hội, thuyết pháp, điều phục.
Giảng: 9. Biết hiện tại mười phương hư không pháp giới, hết thảy tất cả cõi nước chư Phật, chúng hội của tất cả chư Phật, đều đang thuyết pháp, điều phục tất cả chúng sinh.
Tri thế gian Pháp, Thanh văn Pháp, độc giác Pháp, Bồ Tát Pháp, Như Lai Pháp, tuy tri chư Pháp giai vô phân biệt nhi thuyết chủng chủng Pháp, tất nhập Pháp giới vô sở nhập cố, như kỳ pháp thuyết vô sở thủ trước.
Biết thế-gian pháp, Thanh-Văn pháp, Ðộc-Giác pháp, Bồ-Tát pháp, Như-Lai pháp, dầu biết các pháp đều không phân-biệt mà thuyết các pháp, vì đều nhập pháp-giới mà không sở-nhập, như chỗ thuyết pháp không hề thủ trước.
Giảng: 10. Biết hết thảy pháp thế gian, biết pháp Thanh Văn tu bốn diệu đế : Khổ, tập, diệt, đạo. Biết pháp Độc Giác tu mười hai pháp nhân duyên : Vô minh, hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử. Biết pháp Bồ Tát tu lục độ : Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ. Biết pháp Như Lai, tức là trung đạo liễu nghĩa. Tuy biết các pháp đều không phân biệt, mà lại nói đủ thứ pháp, đều vào pháp giới, mà không chỗ vào, ra mà chẳng ra. Y chiếu theo pháp để nói, chẳng có mọi sự chấp trước.
Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức đắc nhập ư A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề đại trí tuệ thậm thâm tánh.
Đó là mười. Nếu chư Bồ-Tát an-trụ nơi pháp nầy thời được nhập nơi tánh thậm-thâm đại trí-huệ vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác.
Giảng: Đó là mười pháp vào Phật pháp thâm sâu của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ vào được tánh đại trí huệ thâm sâu A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.
=======================================
Thập Chủng Y Chỉ
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng y chỉ, Bồ Tát y thử hành Bồ Tát hạnh. Hà đẳng vi thập? sở vị:
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát có mười pháp y-chỉ, Bồ-Tát nương ở nơi đây mà thật hành hạnh Bồ-Tát. Những gì là mười ? Đó là :
Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười pháp y chỉ, Bồ Tát y chỉ pháp nầy, để tu hành Bồ Tát hạnh. Những gì là mười ? Đó là :
Y chỉ cúng dường nhất thiết chư Phật, hành Bồ Tát hạnh;
Y-chỉ cúng-dường tất cả chư Phật thật hành hạnh Bồ-Tát.
Giảng: 1. Y chỉ cúng dường tất cả chư Phật, để tu hành Bồ Tát hạnh.
Y chỉ điều phục nhất thiết chúng sanh, hành Bồ Tát hạnh
Y-chỉ điều-phục tất cả chúng-sanh thật hành hạnh Bồ-Tát.
Giảng: 2. Y chỉ điều phục tất cả chúng sinh, để tu hành Bồ Tát hạnh.
Y chỉ thân cận nhất thiết thiện hữu, hành Bồ Tát hạnh
Y-chỉ gần-gũi tất cả thiện-hữu thật hành hạnh Bồ-Tát.
Giảng: 3. Y chỉ gần gũi tất cả bạn lành, để tu hành Bồ Tát hạnh.
Y chỉ tích tập nhất thiết thiện căn, hành Bồ Tát hạnh
Y-chỉ chứa nhóm tất cả thiện-căn thật hành hạnh Bồ-Tát.
Giảng: 4. Y chỉ tích tập tất cả căn lành, để tu hành Bồ Tát hạnh.
Y chỉ nghiêm tịnh nhất thiết Phật thổ, hành Bồ Tát hạnh
Y-chỉ nghiêm-tịnh tất cả cõi Phật thật hành hạnh Bồ-Tát.
Giảng: 5. Y chỉ nghiêm tịnh tất cả cõi Phật, để tu hành Bồ Tát hạnh.
Y chỉ bất xả nhất thiết chúng sanh, hành Bồ Tát hạnh
Y-chỉ chẳng bỏ tất cả chúng-sanh thật hành hạnh Bồ-Tát.
Giảng: 6. Y chỉ chẳng xả bỏ tất cả chúng sinh, để tu hành Bồ Tát hạnh.
Y chỉ thâm nhập nhất thiết Ba-la-mật, hành Bồ Tát hạnh
Y-chỉ thâm nhập tất cả ba-la-mật thật hành hạnh Bồ-Tát.
Giảng: 7. Y chỉ vào sâu tất cả Ba la mật, để tu hành Bồ Tát hạnh.
Y chỉ mãn túc nhất thiết Bồ Tát nguyện, hành Bồ Tát hạnh
Y-chỉ đầy đủ tất cả Bồ-Tát nguyện thật hành hạnh Bồ-Tát.
Giảng: 8. Y chỉ đầy đủ tất cả Bồ Tát nguyện, để tu hành Bồ Tát hạnh.
Y chỉ vô lượng Bồ-đề tâm, hành Bồ Tát hạnh
Y-chỉ vô-lượng bồ-đề tâm thật hành hạnh Bồ-Tát.
Giảng: 9. Y chỉ vô lượng bồ đề tâm, để tu hành Bồ Tát hạnh.
Y chỉ nhất thiết Phật Bồ-đề, hành Bồ Tát hạnh.
Y-chỉ tất cả Phật bồ-đề thật hành hạnh Bồ-Tát.
Giảng: 10. Y chỉ tất cả Phật bồ đề, để tu hành Bồ Tát hạnh.
Thị vi thập. Bồ Tát y thử hành Bồ Tát hạnh.
Đó là mười. Bồ-Tát nương nơi đây để thật hành hạnh Bồ-Tát.
Giảng: Đó là mười pháp y chỉ của Bồ Tát. Bồ Tát y chỉ pháp nầy, mà hành Bồ Tát hạnh, mới đắc được tất cả bồ đề tâm viên mãn.
=======================================
Thập Chủng Phát Vô úy Tâm
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng phát vô úy tâm. Hà đẳng vi thập? sở vị:
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát có mười pháp phát tâm vô-úy. Những gì là mười ? Đó là :
Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười pháp phát tâm không sợ hãi. Những gì là mười ? Đó là :
Diệt nhất thiết chướng ngại nghiệp, phát vô úy tâm
Diệt tất cả nghiệp chướng-ngại, phát tâm vô-úy.
Giảng: 1. Diệt trừ tất cả nghiệp chướng ngại, mà phát tâm không sợ hãi.
Ư Phật diệt hậu hộ trì chánh pháp, phát vô úy tâm
Sau khi Phật diệt độ hộ trì chánh-pháp, phát tâm vô-úy.
Giảng: 2. Khi Phật diệt độ rồi hộ trì chánh pháp, mà phát tâm không sợ hãi.
Hàng phục nhất thiết ma, phát vô úy tâm
Hàng phục tất cả ma, phát tâm vô-úy.
Giảng: 3. Hàng phục tất cả ma, mà phát tâm không sợ hãi.
Bất tích thân mạng, phát vô úy tâm
Chẳng tiếc thân mạng, phát tâm vô-úy.
Giảng: 4. Chẳng tiếc thân mạng, mà phát tâm không sợ hãi.
Tồi phá nhất thiết ngoại đạo tà luận, phát vô úy tâm
Xô dẹp tất cả ngoại-đạo tà-luận, phát tâm vô-úy.
Giảng: 5. Phá tan tất cả ngoại đạo tà luận, mà phát tâm không sợ hãi.
Lệnh nhất thiết chúng sanh hoan hỉ, phát vô úy tâm
Khiến tất cả chúng-sanh hoan-hỷ, phát tâm vô-úy.
Giảng: 6. Khiến cho tất cả chúng sinh hoan hỉ, mà phát tâm không sợ hãi.
Lệnh nhất thiết chúng hội giai tất hoan hỉ, phát vô úy tâm
Khiến tất cả chúng-hội đều hoan-hỷ, phát tâm vô-úy.
Giảng: 7. Khiến cho tất cả chúng hội thảy đều hoan hỉ, mà phát tâm không sợ hãi.
Điều phục nhất thiết Thiên, long, dạ xoa, Càn thát bà, A-tu-la, Ca Lâu La, khẩn-na-la, Ma hầu la già, phát vô úy tâm
Ðiều phục tất cả Thiên, Long, Bát-Bộ, phát tâm vô-úy.
Giảng: 8. Điều phục tất cả trời, rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, mà phát tâm không sợ hãi.
Ly nhị thừa địa, nhập thậm thâm Pháp, phát vô úy tâm
Rời bực nhị-thừa nhập pháp thậm-thâm, phát tâm vô-úy.
Giảng: 9. Lìa bậc nhị thừa, vào pháp thâm sâu vi diệu, hành Bồ Tát đạo, mà phát tâm không sợ hãi.
Ư bất khả thuyết bất khả thuyết kiếp hành Bồ Tát hạnh, tâm vô bì yếm, phát vô úy tâm.
Trong bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết kiếp thật hành hạnh Bồ-Tát, tâm không mỏi nhàm, phát tâm vô-úy.
Giảng: 10. Nơi bất khả thuyết bất khả thuyết kiếp, tu hành Bồ Tát hạnh, tâm không nhàm mỏi, mà phát tâm không sợ hãi.
Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức đắc Như Lai vô thượng đại trí vô sở úy tâm.
Đó là mười. Nếu chư Bồ-Tát an-trụ pháp nầy thời được tâm vô-sở-úy đại trí vô-thượng của Như-Lai.
Giảng: Đó là mười pháp phát tâm vô ngại của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được đại trí huệ vô thượng tâm không sợ hãi của Như Lai.
=======================================
Thập Chủng Vô Nghi Tâm
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát phát thập chủng vô nghi tâm, ư nhất thiết Phật Pháp tâm vô nghi hoặc. Hà đẳng vi thập? sở vị:
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát phát mười tâm không nghi, nơi tất cả phật-pháp tâm không nghi lầm. Những gì là mười ? Đó là :
Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát nên phát mười thứ tâm vô ngại. Đối với tất cả Phật pháp, tâm không nghi hoặc. Những gì là mười ? Đó là :
Bồ-Tát Ma-ha-tát phát như thị tâm: ngã đương dĩ ố thí, nhiếp nhất thiết chúng sanh; Dĩ giới, nhẫn, tinh tấn, Thiền định, trí tuệ, từ, bi, hỉ, xả, nhiếp nhất thiết chúng sanh. Phát thử tâm thời, quyết định vô nghi; Nhược sanh nghi tâm, vô hữu thị xứ. Thị vi đệ nhất phát vô nghi tâm.
Ðại Bồ-Tát phát tâm như vầy :Tôi sẽ dùng bố-thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh-tấn, thiền-định, trí-huệ, từ, bi, hỉ, xả, nhiếp tất cả chúng-sanh. Lúc phát tâm nầy quyết-định không nghi. Nếu sinh tâm nghi, thì không có lý. Đó là phát tâm không nghi thứ nhất.
Giảng: 1. Đại Bồ Tát phát tâm như vầy : Tôi sẽ dùng bố thí nhiếp tất cả chúng sinh. Dùng trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ. Lại dùng từ, bi, hỉ, xả, bốn tâm vô lượng để nhiếp thọ tất cả chúng sinh, khiến cho họ phát bồ đề tâm. Khi Bồ Tát phát tâm nầy, thì quyết định không nghi. Nếu sinh chút tâm nghi hoặc, thì không có lý, tức là không đúng. Đó là phát tâm không nghi thứ nhất của Bồ Tát.
Bồ-Tát Ma-ha-tát hựu tác thị niệm: vị lai chư Phật xuất hưng vu thế, ngã đương nhất thiết thừa sự cúng dường. Phát thử tâm thời, quyết định vô nghi; Nhược sanh nghi tâm, vô hữu thị xứ. Thị vi đệ nhị phát vô nghi tâm.
Đại Bồ Tát lại nghĩ như vầy : Vị lai chư Phật xuất hiện ra đời, tôi sẽ thừa sự cúng dường tất cả. Khi phát tâm nầy, thì quyết định không nghi. Nếu sinh tâm nghi, thì không có lý. Đó là phát tâm không nghi thứ hai.
Giảng: 2. Đại Bồ Tát lại nghĩ như vầy : Phàm là vị lai chư Phật xuất hiện ra đời, tôi sẽ thừa sự chư Phật, cúng dường chư Phật. Khi phát tâm nầy, thì quyết định không nghi. Nếu sinh chút tâm nghi hoặc, thì không có lý. Đó là phát tâm không nghi thứ hai của Bồ Tát.
Bồ-Tát Ma-ha-tát hựu tác thị niệm: ngã đương dĩ chủng chủng kì diệu quang minh võng, chu biến trang nghiêm nhất thiết thế giới. Phát thử tâm thời, quyết định vô nghi; Nhược sanh nghi tâm, vô hữu thị xứ. Thị vi đệ tam phát vô nghi tâm.
Đại Bồ Tát lại nghĩ như vầy : Tôi sẽ dùng đủ thứ lưới quang minh kỳ diệu, trang nghiêm khắp cùng tất cả thế giới. Khi phát tâm nầy, thì quyết định không nghi. Nếu sinh tâm nghi, thì không có lý. Đó là phát tâm không nghi thứ ba.
Giảng: 3. Đại Bồ Tát lại nghĩ như vầy : Tôi sẽ dùng đủ thứ lưới quang minh kỳ diệu, trang nghiêm khắp cùng tất cả thế giới. Khi phát tâm nầy, thì quyết định vô ngại. Nếu sinh tâm nghi, thì không có lý. Đó là phát tâm không nghi thứ ba của Bồ Tát.
Bồ-Tát Ma-ha-tát hựu tác thị niệm: ngã đương tận vị lai kiếp tu Bồ Tát hạnh. Vô số, vô lượng, vô biên, vô đẳng, bất khả số, bất khả xưng, bất khả tư, bất khả lượng, bất khả thuyết, bất khả thuyết bất khả thuyết, qua chư toán số, cứu cánh Pháp giới, hư không giới nhất thiết chúng sanh, ngã đương tất dĩ vô thượng giáo hóa điều phục Pháp nhi thành thục chi. Phát thử tâm thời, quyết định vô nghi; Nhược sanh nghi tâm, vô hữu thị xứ. Thị vi đệ tứ phát vô nghi tâm.
Đại Bồ Tát lại nghĩ như vầy : Tôi sẽ tu Bồ Tát hạnh hết kiếp thuở vị lai. Vô số, vô lượng, vô biên, vô đẳng, bất khả số, bất khả xưng, bất khả tư, bất khả lượng, bất khả thuyết, bất khả thuyết bất khả thuyết, vượt qua các toán số, rốt ráo pháp giới hư không giới tất cả chúng sinh, tôi sẽ dùng pháp vô thượng để giáo hoá điều phục, khiến cho họ thành thục. Khi phát tâm nầy, thì quyết định không nghi. Nếu sinh tâm nghi, thì không có lý. Đó là phát tâm không nghi thứ tư.
Giảng: 4. Đại Bồ Tát lại nghĩ như vầy : Tôi sẽ tu Bồ Tát hạnh hết kiếp thuở vị lai. Vô số, vô lượng, vô biên, vô đẳng, bất khả số, bất khả xưng, bất khả tư, bất khả lượng, bất khả thuyết, bất khả thuyết bất khả thuyết, thậm chí vượt qua các toán số, rốt ráo pháp giới hư không giới tất cả chúng sinh, tôi sẽ dùng pháp vô thượng để giáo hoá điều phục, khiến cho họ đều được thành thục, tức cũng là thành Phật. Khi phát tâm nầy, thì quyết định không nghi. Nếu sinh tâm nghi, thì không có lý. Đó là phát tâm không nghi thứ tư của Bồ Tát.
Bồ-Tát Ma-ha-tát hựu tác thị niệm: ngã đương tu Bồ Tát hạnh, mãn đại thệ nguyện, cụ nhất thiết trí, an trụ kỳ trung. Phát thử tâm thời, quyết định vô nghi; Nhược sanh nghi tâm, vô hữu thị xứ. Thị vi đệ ngũ phát vô nghi tâm.
Đại Bồ Tát lại nghĩ như vầy : Tôi sẽ tu Bồ Tát hạnh, viên mãn đại thệ nguyện, đủ nhất thiết trí, an trụ ở trong đó. Khi phát tâm nầy, thì quyết định không nghi. Nếu sinh tâm nghi, thì không có lý. Đó là phát tâm không nghi thứ năm.
Giảng: 5. Đại Bồ Tát lại nghĩ như vầy : Tôi sẽ tu Bồ Tát hạnh, viên mãn đại thệ nguyện, đầy đủ nhất thiết trí, an trụ ở trong đó. Khi phát tâm nầy, thì quyết định không nghi. Nếu sinh tâm nghi, thì không có lý. Đó là phát tâm không nghi thứ năm của Bồ Tát.
Bồ-Tát Ma-ha-tát hựu tác thị niệm: ngã đương phổ vi nhất thiết thế gian hành Bồ Tát hạnh, vi nhất thiết pháp thanh Tịnh Quang minh, chiếu minh nhất thiết sở hữu Phật Pháp. Phát thử tâm thời, quyết định vô nghi; Nhược sanh nghi tâm, vô hữu thị xứ. Thị vi đệ lục phát vô nghi tâm.
Đại Bồ Tát lại nghĩ như vầy : Tôi sẽ khắp vì tất cả thế gian hành Bồ Tát hạnh. Vì tất cả pháp thanh tịnh quang minh, chiếu sáng hết thảy tất cả Phật pháp. Khi phát tâm nầy, thì quyết định không nghi. Nếu sinh tâm nghi, thì không có lý. Đó là phát tâm không nghi thứ sáu.
Giảng: 6. Đại Bồ Tát lại nghĩ như vầy : Tôi sẽ khắp vì tất cả thế gian hành Bồ Tát hạnh. Vì tất cả pháp thanh tịnh quang minh, chiếu sáng hết thảy tất cả Phật pháp. Khi phát tâm nầy, thì quyết định không nghi. Nếu sinh tâm nghi, thì không có lý. Đó là phát tâm không nghi thứ sáu của Bồ Tát.
Bồ-Tát Ma-ha-tát hựu tác thị niệm: ngã đương tri nhất thiết pháp giai thị Phật Pháp, tùy chúng sanh tâm, vi kỳ diễn thuyết, tất lệnh khai ngộ. Phát thử tâm thời, quyết định vô nghi; Nhược sanh nghi tâm, vô hữu thị xứ. Thị vi đệ thất phát vô nghi tâm.
Đại Bồ Tát lại nghĩ như vầy : Tôi sẽ biết tất cả pháp đều là Phật pháp. Tuỳ tâm chúng sinh, vì họ mà diễn nói, đều khiến cho họ khai ngộ. Khi phát tâm nầy, thì quyết định không nghi. Nếu sinh tâm nghi, thì không có lý. Đó là phát tâm không nghi thứ bảy.
Giảng: 7. Đại Bồ Tát lại nghĩ như vầy : Tôi sẽ biết tất cả pháp đều là Phật pháp. Tuỳ thuận tâm của tất cả chúng sinh, vì họ mà diễn nói tất cả Phật pháp, đều khiến cho họ khai ngộ. Khi phát tâm nầy, thì quyết định không nghi. Nếu sinh tâm nghi, thì không có lý nào. Đó là phát tâm không nghi thứ bảy của Bồ Tát.
Bồ-Tát Ma-ha-tát hựu tác thị niệm: ngã đương ư nhất thiết Pháp đắc vô chướng ngại môn, tri nhất thiết chướng ngại bất khả đắc cố; kỳ tâm như thị, vô hữu nghi hoặc, trụ chân thật tánh, nãi chí thành ư A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề. Phát thử tâm thời, quyết định vô nghi; Nhược sanh nghi tâm, vô hữu thị xứ. Thị vi đệ bát phát vô nghi tâm.
Đại Bồ Tát lại nghĩ như vầy : Tôi sẽ ở nơi tất cả pháp đắc được môn không chướng ngại. Vì biết tất cả chướng ngại là bất khả đắc. Tâm đó như vậy, không có nghi hoặc. Trụ tánh chân thật, cho đến thành tựu A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Khi phát tâm đó, thì quyết định không nghi. Nếu sinh tâm nghi, thì không có lý. Đó là phát tâm không nghi thứ tám.
Giảng: 8. Đại Bồ Tát lại nghĩ như vầy : Tôi sẽ đối với tất cả pháp, đắc được môn không chướng ngại. Vì biết tất cả chướng ngại là bất khả đắc. Tâm đó cũng như vậy, không có nghi hoặc. Trụ tánh chân thật, cho đến thành tựu A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Khi phát tâm đó, thì quyết định không nghi. Nếu sinh tâm nghi, thì không có lý nào. Đó là phát tâm không nghi thứ tám của Bồ Tát.
Bồ-Tát Ma-ha-tát hựu tác thị niệm: ngã đương tri nhất thiết pháp mạc bất giai thị xuất thế gian pháp, viễn ly nhất thiết vọng tưởng điên đảo, dĩ nhất trang nghiêm nhi tự trang nghiêm nhi vô sở trang nghiêm; Ư thử tự liễu, bất do tha ngộ. Phát thử tâm thời, quyết định vô nghi; Nhược sanh nghi tâm, vô hữu thị xứ. Thị vi đệ cửu phát vô nghi tâm.
Đại Bồ Tát lại nghĩ như vầy : Tôi nên biết tất cả pháp đều là pháp xuất thế gian. Xa lìa tất cả vọng tưởng điên đảo. Dùng một trang nghiêm mà tự trang nghiêm, nhưng không có sự trang nghiêm. Nơi đây tự thấu rõ, không do người khác mà ngộ được. Khi phát tâm nầy, thì quyết định không nghi. Nếu sinh tâm nghi thì không có lý. Đó là phát tâm không nghi thứ chín.
Giảng: 9. Đại Bồ Tát lại nghĩ như vầy : Tôi nên biết tất cả pháp, chẳng có pháp nào chẳng phải là pháp xuất thế gian. Xa lìa tất cả vọng tưởng điên đảo. Dùng một trang nghiêm, mà tự trang nghiêm, nhưng không có sự trang nghiêm. Đối với đạo lý nầy, tự mình tỏ ngộ, không do người khác dạy mà ngộ được. Khi phát tâm nầy, thì quyết định không nghi. Nếu sinh tâm nghi thì không có lý. Đó là phát tâm không nghi thứ chín của Bồ Tát.
Bồ-Tát Ma-ha-tát hựu tác thị niệm: ngã đương ư nhất thiết pháp thành tối chánh giác, ly nhất thiết vọng tưởng điên đảo cố, đắc nhất niệm tướng ứng trí cố, nhược nhất nhược dị bất khả đắc cố, ly nhất thiết số cố, cứu cánh vô vi cố, ly nhất thiết ngôn thuyết cố, trụ bất khả thuyết cảnh giới tế cố. Phát thử tâm thời, quyết định vô nghi; Nhược sanh nghi tâm, vô hữu thị xứ. Thị vi đệ thập phát vô nghi tâm.
Đại Bồ Tát lại nghĩ như vầy : Tôi sẽ ở nơi tất cả pháp thành tối Chánh Giác, vì lìa tất cả vọng tưởng điên đảo, vì được trí một niệm tương ưng. Vì là một, hoặc là khác đều bất khả đắc, vì lìa tất cả số, vì rốt ráo vô vi, vì lìa tất cả lời nói, vì trụ cảnh giới bất khả thuyết. Khi phát tâm nầy, thì quyết định không nghi. Nếu sinh tâm nghi, thì không có lý. Đó là phát tâm không nghi thứ mười.
Giảng: 10. Đại Bồ Tát lại nghĩ như vầy : Tôi sẽ ở nơi tất cả pháp thành tựu tối thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, vì xa lìa tất cả vọng tưởng và tất cả điên đảo, vì đắc được trí huệ một niệm tương ưng. Vì là một, hoặc chẳng phải một, đều là bất khả đắc, vì ở trong pháp chẳng có tất cả số, vì rốt ráo vô vi, vì lìa tướng tất cả lời nói, vì trụ trong cảnh giới bất khả thuyết. Khi phát tâm nầy, thì quyết định không nghi hoặc. Nếu sinh tâm nghi, thì không có lý. Đó là phát tâm không nghi thứ mười của Bồ Tát.
Nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức ư nhất thiết Phật Pháp tâm vô sở nghi.
Nếu chư Bồ-Tát an-trụ pháp nầy thời nơi tất cả phật-pháp tâm không chỗ nghi.
Giảng: Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì đối với tất cả pháp, tâm không có nghi hoặc.
=======================================
Thập Chủng Bất Khả Tư Nghị
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng bất khả tư nghị. Hà đẳng vi thập? sở vị:
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát có mười pháp bất-tư-nghì. Những gì là mười ? Đó là :
Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười pháp không thể nghĩ bàn. Những gì là mười ? Đó là :
Nhất thiết thiện căn, bất khả tư nghị.
Tất cả thiện-căn bất-tư-nghì.
Giảng: 1. Tất cả căn lành không thể nghĩ bàn.
Nhất thiết thệ nguyện, bất khả tư nghị.
Tất cả thệ nguyện bất-tư-nghì.
Giảng: 2. Tất cả thệ nguyện không thể nghĩ bàn.
Tri nhất thiết pháp như huyễn, bất khả tư nghị.
Biết tất cả pháp như huyễn bất-tư-nghì.
Giảng: 3. Biết tất cả pháp như huyễn không thể nghĩ bàn.
Phát Bồ-đề tâm tu Bồ Tát hạnh, thiện căn bất thất, vô sở phân biệt, bất khả tư nghị.
Phát tâm bồ-đề tu hạnh Bồ-Tát, thiện-căn chẳng mất, không chỗ phân-biệt, bất-tư-nghì.
Giảng: 4. Phát bồ đề tâm, tu Bồ Tát hạnh, căn lành không mất, không có sự phân biệt, không thể nghĩ bàn.
Tuy thâm nhập nhất thiết pháp, diệc bất thủ diệt độ, dĩ nhất thiết nguyện vị thành mãn cố, bất khả tư nghị.
Dầu thâm-nhập tất cả pháp cũng chẳng lấy diệt độ, vì tất cả nguyện chưa thành mãn, bất-tư-nghì.
Giảng: 5. Tuy vào sâu tất cả pháp, cũng không thủ lấy diệt độ, tóm lại, tuy chứng được pháp của Phật chứng, nhưng vẫn không vào Niết Bàn. Tại sao ? Vì nhờ tất cả nguyện chưa thành tựu viên mãn, đây cũng không thể nghĩ bàn.
Tu Bồ Tát đạo nhi thị hiện hàng thần, nhập thai, đản sanh, xuất gia, khổ hạnh, vãng nghệ đạo tràng, hàng phục chúng ma, thành tối chánh giác, chuyển chánh Pháp luân, nhập Bát Niết Bàn, thần biến tự tại vô hữu hưu tức, bất xả bi nguyện cứu hộ chúng sanh, bất khả tư nghị.
Tu Bồ-Tát đạo mà thị-hiện giáng thần, nhập thai, đản sanh, xuất gia, khổ hạnh, đến đạo-tràng, hàng phục chúng ma, thành tối-chánh-giác, chuyển chánh pháp-luân, nhập đại niết-bàn, thần-biến tự-tại không thôi nghỉ, chẳng bỏ bi nguyện cứu hộ chúng-sanh, bất-tư-nghì.
Giảng: 6. Bồ Tát tu Bồ Tát đạo, mà thị hiện cảnh giới hàng thần, từ nội viện cung trời Đâu Suất, hàng sinh xuống nhân gian. Nhập thai, giống như ở trong vườn rừng thanh tịnh. Sau đó đản sinh, lúc đó có chín con rồng phun nước để tắm rửa cho Ngài. Có cảnh giới nhạc trời hoà tấu, Thiên nữ rải các thứ hoa đẹp cúng dường. Xuất gia tu hành, nghiên cứu vấn đề bốn cái khổ lớn của đời người (Sinh, già, bệnh, chết), làm thế nào để được giải thoát ? Trong núi Tuyết tu khổ hạnh sáu năm, mỗi ngày ăn một hạt mè. Sáu năm trôi qua vẫn chưa tìm được câu trả lời, bèn từ bỏ khổ hạnh, đi đến dưới cội bồ đề ngồi tĩnh toạ trên toà kim cang, hàng phục tất cả chúng ma nhiễu loạn, thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Sau đó chuyển bánh xe pháp, trước hết nói Kinh Hoa Nghiêm Đại Phương Quảng Phật, cuối cùng nói Kinh Niết Bàn, mà vào Bát Niết Bàn. Thần thông biến hoá, nhậm vận tự tại, không có khi nào ngừng nghỉ, không xả bỏ đại bi nguyện của mình đã phát, cứu hộ tất cả chúng sinh, lìa khổ được vui, không thể nghĩ bàn.
Tuy năng thị hiện Như Lai thập lực thần biến tự tại, nhi diệc bất xả đẳng Pháp giới tâm giáo hóa chúng sanh, bất khả tư nghị.
Dầu hay thị-hiện thập-lực thần-biến tự-tại của Như-Lai mà chẳng bỏ tâm khắp pháp-giới giáo-hóa chúng-sanh, bất-tư-nghì.
Giảng: 7. Tuy hay thị hiện mười lực của Như Lai, thần thông biến hoá, nhậm vận tự tại, mà cũng không xả bỏ tâm pháp giới, giáo hoá tất cả chúng sinh, không thể nghĩ bàn.
Tri nhất thiết pháp vô tướng thị tướng, tướng thị vô tướng, vô phân biệt thị phân biệt, phân biệt thị vô phân biệt, phi hữu thị hữu, hữu thị phi hữu, vô tác thị tác, tác thị vô tác, phi thuyết thị thuyết, thuyết thị phi thuyết, bất khả tư nghị.
Biết tất cả pháp vô-tướng là tướng, tướng là vô-tướng, vô-phân-biệt là phân-biệt, phân-biệt là vô-phân-biệt, phi-hữu là hữu, hữu là phi-hữu, vô-tác là tác, tác là vô-tác, phi thuyết là thuyết, thuyết là phi thuyết, bất-tư-nghì.
Giảng: 8. Bồ Tát biết tất cả pháp vô tướng tức là tướng, tướng tức là vô tướng. Không phân biệt tức là phân biệt, phân biệt tức là không phân biệt. Chẳng có tức là có, có tức là chẳng có. Không làm tức là làm, làm tức là không làm. Chẳng nói tức là nói, nói tức là chẳng nói, không thể nghĩ bàn.
Tri tâm dữ Bồ-đề đẳng, tri Bồ-đề dữ tâm đẳng, tâm cập Bồ-đề dữ chúng sanh đẳng, diệc bất sanh tâm điên đảo, tưởng điên đảo, kiến điên đảo, bất khả tư nghị.
Biết tâm cùng bồ-đề đồng, biết bồ-đề cùng tâm đồng. Tâm và bồ-đề cùng chúng-sanh đồng. Cũng chẳng sanh tâm điên-đảo, tưởng điên-đảo, kiến điên-đảo, bất-tư-nghì.
Giảng: 9. Bồ Tát biết tâm của mình đồng với bồ đề. Biết bồ đề đồng với tâm mình. Tâm và bồ đề đồng với chúng sinh. Cũng chẳng sinh tâm điên đảo, tưởng điên đảo, thấy điên đảo, không thể nghĩ bàn.
Ư niệm niệm trung nhập diệt tận định, tận nhất thiết lậu nhi bất chứng thật tế, diệc bất tận hữu lậu thiện căn; Tuy tri nhất thiết pháp vô lậu, nhi tri lậu tận, diệc tri lậu diệt; Tuy tri Phật Pháp tức thế gian pháp, thế gian pháp tức Phật Pháp, nhi bất ư Phật Pháp trung phân biệt thế gian pháp, bất ư thế gian pháp trung phân biệt Phật Pháp; Nhất thiết chư pháp tất nhập Pháp giới, vô sở nhập cố; Tri nhất thiết pháp giai vô nhị, vô biến dịch cố; Thị vi đệ thập bất khả tư nghị.
Ở trong mỗi niệm nhập diệt-tận định sạch hết tất cả hữu-lậu, mà chẳng chứng thiệt-tế, cũng chẳng hết thiện-căn hữu-lậu. Dầu biết tất cả pháp vô-lậu, mà biết lậu tận cũng biết lậu diệt. Dầu biết phật-pháp tức thế-gian pháp, thế-gian pháp tức phật-pháp, mà chẳng ở trong phật-pháp phân biệt thế-gian pháp, chẳng ở trong thế-gian pháp phân-biệt phật-pháp. Tất cả pháp đều nhập pháp-giới vì vô-sở nhập. Biết tất cả pháp đều không hai vì không biến đổi. Ðây là pháp bất-tư-nghì thứ mười của đại Bồ-Tát.
Giảng: 10. Bồ Tát ở trong niệm niệm, vào diệt tận định, tức là thiền định diệt hết sáu thức tâm tâm sở chẳng khởi. Tuy dứt hết tất cả lậu, mà cũng không chứng thật tế, cũng chẳng dứt hết căn lành hữu lậu. Tuy biết tất cả pháp vô lậu, mà biết lậu hết, cũng biết lậu diệt. Tuy biết Phật pháp tức là pháp thế gian, pháp thế gian tức là Phật pháp, mà chẳng ở trong Phật pháp phân biệt pháp thế gian, chẳng ở trong pháp thế gian phân biệt Phật pháp. Vì tất cả các pháp đều vào pháp giới, mà không chỗ vào. Vì biết tất cả pháp đều không hai, cũng không biến đổi. Đó là không thể nghĩ bàn thứ mười của Bồ Tát.
Phật tử! thị vi Bồ-Tát Ma-ha-tát thập chủng bất khả tư nghị. Nhược chư Bồ-tát an trụ kỳ trung, tức đắc nhất thiết chư Phật vô thượng bất khả tư nghị Pháp.
Nếu chư Bồ-Tát an-trụ trong mười pháp bất-tư-nghì nầy thời được pháp bất-tư-nghì vô-thượng của chư Phật.
Giảng: Các vị Phật tử ! Đó là mười pháp không thể nghĩ bàn của đại Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được pháp không thể nghĩ bàn vô thượng của tất cả chư Phật.
=======================================
Thập Chủng Xảo Mật Ngữ
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng xảo mật ngữ. Hà đẳng vi thập? sở vị:
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát có mười xảo-mật ngữ. Những gì là mười ? Đó là :
Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười lời khéo léo bí mật. Những gì là mười ? Đó là :
Ư nhất thiết Phật Kinh trung, xảo mật ngữ
Xảo-mật-ngữ ở trong tất cả phật kinh.
Giảng: 1. Lời khéo léo bí mật ở trong tất cả kinh Phật.
Ư nhất thiết thọ sanh xứ, xảo mật ngữ
Xảo-mật-ngữ nơi tất cả chỗ thọ sanh.
Giảng: 2. Lời khéo léo bí mật ở tất cả nơi thọ sinh.
Ư nhất thiết Bồ Tát thần thông biến hiện, thành đẳng chánh giác, xảo mật ngữ
Xảo-mật-ngữ nơi tất cả Bồ-Tát thần-thông biến hiện thành đẳng-chánh-giác.
Giảng: 3. Lời khéo léo bí mật nơi tất cả Bồ Tát thần thông biến hiện thành Đẳng Chánh Giác.
Ư nhất thiết chúng sanh nghiệp báo, xảo mật ngữ
Xảo-mật-ngữ nơi tất cả chúng-sanh nghiệp báo.
Giảng: 4. Lời khéo léo bí mật nơi tất cả chúng sinh nghiệp báo.
Ư nhất thiết chúng sanh sở khởi nhiễm tịnh, xảo mật ngữ
Xảo-mật-ngữ nơi tất cả chúng-sanh phát khởi nhiễm tịnh.
Giảng: 5. Lời khéo léo bí mật nơi tất cả chúng sinh khởi nhiễm tịnh.
Ư nhất thiết Pháp cứu cánh vô chướng ngại môn, xảo mật ngữ
Xảo-mật-ngữ nơi môn tất cả pháp rốt ráo vô chướng-ngại.
Giảng: 6. Lời khéo léo bí mật nơi tất cả pháp môn rốt ráo không chướng ngại.
Ư nhất thiết hư không giới, nhất nhất phương xứ tất hữu thế giới hoặc thành hoặc hoại, gian vô không xứ, xảo mật ngữ
Xảo-mật-ngữ nơi tất cả hư-không-giới, mỗi nơi mỗi chỗ đều có thế-giới hoặc thành hoặc hoại, trong đó không có chỗ trống.
Giảng: 7. Lời khéo léo bí mật nơi tất cả hư không giới, nơi mỗi mỗi phương, đều có thế giới, hoặc thành, hoặc hoại, trong đó không có gì hết.
Ư nhất thiết Pháp giới, nhất thiết thập phương, nãi chí vi tế xứ, tất hữu Như Lai thị hiện sơ sanh, nãi chí thành Phật, nhập Bát Niết Bàn, sung mãn Pháp giới tất phân biệt kiến, xảo mật ngữ
Xảo-mật-ngữ nơi tất cả pháp-giới tất cả mười phương nhẫn đến chỗ vi-tế, đều có Như-Lai thị-hiện sơ-sanh nhẫn đến thành Phật nhập đại niết-bàn đầy khắp pháp-giới, đều phân-biệt thấy.
Giảng: 8. Lời khéo léo bí mật nơi tất cả pháp giới, tất cả mười phương, cho đến nơi vi tế, đều có Như Lai thị hiện sơ sinh, cho đến thành Phật, vào Bát Niết Bàn, đầy khắp pháp giới, đều phân biệt thấy được.
Kiến nhất thiết chúng sanh bình đẳng Niết-Bàn vô biến dịch cố, nhi bất xả đại nguyện, dĩ nhất thiết trí nguyện vị đắc viên mãn lệnh mãn túc cố, xảo mật ngữ
Xảo-mật-ngữ ở chỗ thấy tất cả chúng-sanh bình-đẳng niết-bàn vì không biến-đổi mà chẳng bỏ đại-nguyện, vì tất cả trí-nguyện chưa được viên-mãn làm cho viên-mãn.
Giảng: 9. Lời bí mật khéo léo, vì thấy tất cả chúng sinh bình đẳng Niết Bàn, không biến đổi, mà chẳng xả bỏ đại nguyện thuở xưa đã phát ra, vì nhất thiết trí nguyện chưa được viên mãn, nên khiến cho viên mãn đầy đủ.
Tuy tri nhất thiết pháp bất do tha ngộ, nhi bất xả ly chư thiện tri thức, ư Như Lai sở chuyển gia tôn kính, dữ thiện tri thức hòa hợp vô nhị, ư chư thiện căn tu tập chủng thực, hồi hướng an trụ, đồng nhất sở tác, đồng nhất thể tánh, đồng nhất xuất ly, đồng nhất thành tựu, xảo mật ngữ.
Xảo-mật-ngữ ở chỗ dầu biết tất cả pháp tỏ ngộ chẳng do người khác mà chẳng rời bỏ các bực thiện-tri-thức, đối với Như-Lai càng thêm tôn kính, cùng thiện-tri-thức hòa hiệp không hai. Nơi những thiện-căn thời tu tập gieo trồng hồi-hướng an-trụ. Ðồng một sở-tác, đồng một thể-tánh, đồng một xuất-ly, đồng một thành-tựu.
Giảng: 10. Lời bí mật khéo léo, tuy biết tất cả pháp chẳng do người khác dạy mà tự mình giác ngộ, nhưng chẳng bỏ lìa các thiện tri thức. Ở trong đạo tràng của Như Lai phải đặc biệt tôn kính, phải thường ở chung với thiện tri thức, hoà hợp không hai, đối với các căn lành phải tu tập, phải gieo trồng. Hồi hướng căn lành, an trụ căn lành, cùng một việc làm, cùng một thể tánh, cùng thoát khỏi ba cõi, cùng thành tựu quả Phật.
Thị vi thập. nhược chư Bồ-tát an trụ kỳ trung, tức đắc Như Lai vô thượng thiện xảo vi mật ngữ.
Đó là mười. Nếu chư Bồ-Tát an-trụ trong đây thời được vi-mật-ngữ thiện-xảo vô-thượng của Như-Lai.
Giảng: Đó là mười lời bí mật khéo léo. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được lời bí mật khéo léo vô thượng của Như Lai.
=======================================
Thập Chủng Xảo Phân Biệt Trí
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng xảo phân biệt trí. Hà đẳng vi thập? sở vị:
Phật tử! Ðại Bồ-Tát có mười trí-xảo phân-biệt. Những gì là mười ? Đó là :
Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười thứ trí khéo phân biệt. Những gì là mười ? Đó là :
Nhập nhất thiết sát xảo phân biệt trí
Trí-xảo phân-biệt nhập tất cả cõi.
Giảng: 1. Trí khéo phân biệt vào tất cả cõi.
Nhập nhất thiết chúng sanh xứ xảo phần biệt trí
Trí-xảo phân-biệt nhập tất cả chỗ của các chúng-sanh.
Giảng: 2. Trí khéo phân biệt vào tất cả chỗ chúng sinh.
Nhập nhất thiết chúng sanh tâm hành xảo phân biệt trí
Trí-xảo phân-biệt nhập tất cả tâm hành của các chúng-sanh.
Giảng: 3. Trí khéo phân biệt vào tâm hạnh của tất cả chúng sinh.
Nhập nhất thiết chúng sanh căn xảo phân biệt trí
Trí-xảo phân-biệt nhập căn-tánh của tất cả chúng-sanh.
Giảng: 4. Trí khéo phân biệt vào căn của tất cả chúng sinh.
Nhập nhất thiết chúng sanh nghiệp báo xảo phân biệt trí
Trí-xảo phân-biệt nhập nghiệp-báo của tất cả chúng-sanh.
Giảng: 5. Trí khéo phân biệt vào nghiệp báo của tất cả chúng sinh.
Nhập nhất thiết Thanh văn hạnh xảo phân biệt trí
Trí-xảo phân-biệt nhập tất cả hạnh Thanh-Văn.
Giảng: 6. Trí khéo phân biệt vào hạnh của tất cả Thanh Văn.
Nhập nhất thiết độc giác hạnh xảo phân biệt trí
Trí-xảo phân-biệt nhập tất cả hạnh Ðộc-Giác.
Giảng: 7. Trí khéo phân biệt vào hạnh của tất cả Độc Giác.
Nhập nhất thiết Bồ Tát hạnh xảo phân biệt trí
Trí-xảo phân-biệt nhập tất cả hạnh Bồ-Tát.
Giảng: 8. Trí khéo phân biệt vào hạnh của tất cả Bồ Tát.
Nhập nhất thiết thế gian Pháp xảo phân biệt trí
Trí-xảo phân-biệt nhập tất cả pháp thế-gian.
Giảng: 9. Trí khéo phân biệt vào tất cả pháp thế gian.
Nhập nhất thiết Phật Pháp xảo phân biệt trí.
Trí-xảo phân-biệt nhập tất cả phật-pháp.
Giảng: 10. Trí khéo phân biệt vào tất cả Phật pháp.
Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ kỳ trung, tức đắc nhất thiết chư Phật vô thượng thiện xảo phân biệt chư Pháp trí.
Đó là mười. Nếu chư Bồ-Tát an-trụ trong đây thời được trí phân-biệt các pháp thiện-xảo vô-thượng của tất cả chư Phật.
Giảng: Đó là mười. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được trí khéo phân biệt các pháp vô thượng của tất cả chư Phật.
=======================================
Thập Chủng Nhập Tam Muội
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng nhập tam muội. Hà đẳng vi thập? sở vị:
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát có mười pháp nhập tam-muội. Những gì là mười ? Đó là :
Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười pháp vào tam muội. Những gì là mười ? Đó là :
Ư nhất thiết thế giới nhập tam muội
Nơi tất cả thế-giới nhập tam-muội.
Giảng: 1. Bồ Tát có thể nơi tất cả thế giới vào tam muội.
Ư nhất thiết chúng sanh thân nhập tam muội
Nơi thân tất cả chúng-sanh nhập tam-muội.
Giảng: 2. Bồ Tát có thể nơi tất cả thân chúng sinh vào tam muội.
Ư nhất thiết pháp nhập tam muội
Nơi tất cả pháp nhập tam-muội.
Giảng: 3. Bồ Tát có thể nơi tất cả pháp vào tam muội.
Kiến nhất thiết Phật nhập tam muội
Thấy tất cả Phật nhập tam-muội.
Giảng: 4. Bồ Tát có thể thấy tất cả Phật vào tam muội.
Trụ nhất thiết kiếp nhập tam muội
Trụ tất cả kiếp nhập tam-muội.
Giảng: 5. Bồ Tát có thể trụ tất cả kiếp vào tam muội.
Tùng tam muội khởi hiện bất tư nghị thân nhập tam muội
Từ tam-muội khởi hiện bất-tư-nghì thân nhập tam-muội.
Giảng: 6. Bồ Tát có thể từ tam muội dậy, hiện thân không nghĩ bàn vào tam muội.
Ư nhất thiết Phật thân nhập tam muội
Nơi thân tất cả Phật nhập tam-muội.
Giảng: 7. Bồ Tát có thể nơi tất cả thân Phật vào tam muội.
Giác ngộ nhất thiết chúng sanh bình đẳng nhập tam muội
Giác-ngộ tất cả chúng-sanh bình-đẳng nhập tam-muội.
Giảng: 8. Bồ Tát có thể giác ngộ tất cả chúng sinh bình đẳng vào tam muội.
Nhất niệm trung nhập nhất thiết bồ tát tam muội trí nhập tam muội
Trong một niệm nhập trí tam-muội của tất cả Bồ-Tát, nhập tam-muội.
Giảng: 9. Bồ Tát có thể trong một niệm vào tất cả Bồ Tát tam muội trí vào tam muội.
Nhất niệm trung dĩ vô ngại trí thành tựu nhất thiết chư Bồ-tát hạnh nguyện vô hữu hưu tức nhập tam muội.
Trong một niệm dùng vô-ngại-trí thành-tựu tất cả bồ-tát hạnh nguyện chẳng thôi nghỉ, nhập tam-muội.
Giảng: 10. Bồ Tát có thể trong một niệm dùng trí vô ngại, thành tựu hạnh nguyện của tất cả các Bồ Tát hạnh nguyện không có ngừng nghỉ vào tam muội.
Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ kỳ trung, tức đắc nhất thiết chư Phật vô thượng thiện xảo tam muội Pháp.
Đó là mười. Nếu chư Bồ-Tát an trụ trong đây thời được pháp tam-muội thiện-xảo vô-thượng của tất cả chư Phật.
Giảng: Đó là mười pháp vào tam muội của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ được pháp môn tam muội khéo léo vô thượng của tất cả chư Phật.
=======================================
Thập Chủng Biến Nhập
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng biến nhập. Hà đẳng vi thập? sở vị:
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát có mười pháp biến nhập. Những gì là mười ? Đó là :
Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười pháp vào khắp. Những gì là mười ? Đó là :
Chúng sanh biến nhập; Vào khắp chúng-sanh.
Giảng: 1. Bồ Tát có thể vào khắp tất cả chúng sinh.
Quốc độ biến nhập; Vào khắp quốc-độ.
Giảng: 2. Bồ Tát có thể vào khắp tất cả cõi nước.
Thế gian chủng chủng tướng biến nhập; Vào khắp các loại hình tướng của thế-gian.
Giảng: 3. Bồ Tát có thể vào khắp hết thảy các thứ tướng thế gian.
Hỏa tai biến nhập; Vào khắp hỏa-tai.
Giảng: 4. Bồ Tát có thể vào khắp trong nạn lửa lớn, khiến cho lửa biến thành mát mẻ.
Thủy tai biến nhập; Vào khắp thủy-tai.
Giảng: 5. Bồ Tát có thể vào khắp trong nạn nước lớn, khiến cho nước chẳng làm tổn hại. Do đó :
Lửa thiêu sơ thiền
Nước ngập nhị thiền
Gió thổi tam thiền.
Đó là tai hại của tầng trời thứ chín phải thọ. Khi nạn gió nổi lên thì thổi núi Tu Di thành bụi, hà huống là tất cả chúng sinh, không thể tồn tại. Nhưng Bồ Tát vào khắp ba nạn lớn, để giữ gìn một chút hạt giống chúng sinh.
Phật biến nhập; Vào khắp Phật.
Giảng: 6. Bồ Tát có thể vào khắp xứ sở của Phật, gần gũi Phật.
Trang nghiêm biến nhập; Vào khắp trang-nghiêm.
Giảng: 7. Bồ Tát có thể vào khắp đạo tràng trang nghiêm.
Như Lai vô biên công đức thân biến nhập;
Vào khắp thân vô-biên công-đức của Như-Lai.
Giảng: 8. Bồ Tát có thể vào khắp thân vô biên công đức của tất cả Như Lai.
Nhất thiết chủng chủng thuyết Pháp biến nhập;
Vào khắp tất cả sự thuyết pháp.
Giảng: 9. Bồ Tát có thể vào khắp tất cả các thứ thuyết pháp.
Nhất thiết Như Lai chủng chủng cúng dường biến nhập.
Vào khắp những sự cúng-dường tất cả Như-Lai.
Giảng: 10. Bồ Tát có thể vào khắp các thứ cúng dường tất cả Như Lai.
Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ kỳ trung, tức đắc Như Lai vô thượng đại trí biến nhập Pháp.
Đó là mười. Nếu chư Bồ-Tát an trụ trong đây thời được pháp biến nhập đại-trí vô-thượng của Như-Lai.
Giảng: Đó là mười pháp vào khắp. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ được pháp đại trí vào khắp vô thượng của Như Lai.
=======================================
Thập Chủng Giải Thoát Môn
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng giải thoát môn. Hà đẳng vi thập? sở vị:
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát có mười môn giải-thoát. Những gì là mười ? Đó là :
Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười môn giải thoát. Những gì là mười ? Đó là :
Nhất thân châu biến nhất thiết thế giới giải thoát môn
Môn giải-thoát một thân cùng khắp tất cả thế-giới.
Giảng: 1. Bồ Tát có môn giải thoát, dùng một thân khắp cùng mười phương tất cả thế giới. Đó là cảnh giới : Một chẳng ngại nhiều, nhiều chẳng ngại một, tức cũng là cảnh giới viên dung vô ngại.
Ư nhất thiết thế giới thị hiện vô lượng chủng chủng sắc tướng giải thoát môn
Môn giải-thoát thị-hiện vô-lượng những loại sắc-tướng nơi tất cả thế-giới.
Giảng: 2. Bồ Tát có môn giải thoát, có thể ở tại tất cả thế giới, thị hiện vô lượng đủ thứ sắc tướng (32 tướng 80 vẻ đẹp).
Dĩ nhất thiết thế giới nhập nhất Phật sát giải thoát môn
Môn giải-thoát đem tất cả thế-giới vào một cõi Phật.
Giảng: 3. Bồ Tát có môn giải thoát, có thể đem mười phương tất cả thế giới, để vào trong một cõi Phật.
Phổ gia trì nhất thiết chúng sanh giới giải thoát môn
Môn giải-thoát khắp gia-trì tất cả chúng-sanh-giới.
Giảng: 4. Bồ Tát có môn giải thoát, có thể khắp gia trì tất cả cõi chúng sinh, khiến cho họ thọ trì Phật pháp.
Dĩ nhất thiết Phật trang nghiêm thân sung mãn nhất thiết thế giới giải thoát môn
Môn giải-thoát dùng thân trang-nghiêm của tất cả Phật đầy khắp tất cả thế-giới.
Giảng: 5. Bồ Tát có môn giải thoát, dùng tất cả trang nghiêm thân Phật, đầy khắp tất cả thế giới, do đó : Tận hư không khắp pháp giới.
Ư tự thân trung kiến nhất thiết thế giới giải thoát môn
Môn giải-thoát trong thân mình thấy tất cả thế-giới.
Giảng: 6. Bồ Tát có môn giải thoát, có thể ở trong thân mình, thấy được cảnh giới của tất cả thế giới, đắc được môn giải thoát vô ngại nầy.
Chúng ta phàm phu tục tử, chỉ thấy được bên ngoài mà chẳng thấy được bên trong; chỉ thấy được trước mắt mà chẳng thấy được sau lưng. Nhưng Bồ Tát thì thấy bên ngoài, lại thấy bên trong, cho nên thấy được trong thân của mình, đầy đủ cảnh giới của tất cả thế giới. Bồ Tát còn thấy được quá khứ, lại thấy được vị lai.
Nhất niệm trung vãng nhất thiết thế giới giải thoát môn
Môn giải-thoát trong một niệm qua tất cả thế-giới.
Giảng: 7. Bồ Tát có môn giải thoát, có thể ở trong một niệm, đến tất cả thế giới giáo hoá tất cả chúng sinh.
Chúng ta ở trong vạn niệm, cũng chẳng đến được thế giới khác. Trong Kinh Phật thường dùng số cát sông Hằng để ví dụ, cát của sông Hằng nhiều vô số. Có quả địa cầu nhiều như số cát sông Hằng trong tận hư không khắp pháp giới, con mắt thịt của phàm phu chúng ta nhìn chẳng thấy được. Hiện tại tuy khoa học rất phát đạt, có thể đưa người lên mặt trăng để thám hiểm, nhưng vẫn chưa phát hiện ra có những quả địa cầu khác như thế nào.
Ư nhất thế giới thị hiện nhất thiết Như Lai xuất thế giải thoát môn
Môn giải-thoát thị-hiện tất cả Như-Lai xuất-thế.
Giảng: 8. Bồ Tát có môn giải thoát, có thể ở trong một thế giới, thị hiện tất cả Như Lai xuất hiện ra đời.
Nhất thân sung mãn nhất thiết pháp giới giải thoát môn
Môn giải-thoát một thân đầy khắp tất cả pháp-giới.
Giảng: 9. Bồ Tát có môn giải thoát, ở trong một thân đầy khắp tất cả pháp giới.
Nhất niệm trung thị Hiện-Nhất-Thiết Phật du hí thần thông giải thoát môn.
Môn giải-thoát trong một niệm thị-hiện tất cả Phật du-hí thần-thông.
Giảng: 10. Bồ Tát có môn giải thoát, ở trong một niệm thị hiện tất cả Phật, ở trong hết thảy thế giới du hí, hiện đại thần thông biến hoá.
Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ kỳ trung, tức đắc Như Lai vô thượng giải thoát môn.
Đó là mười. Nếu chư Bồ-Tát an-trụ trong đây thời được môn giải-thoát vô-thượng của Như-Lai.
Giảng: Đó là mười. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ được môn giải thoát vô thượng của Như Lai.
=======================================
Thập Chủng Thần Thông
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng thần thông. Hà đẳng vi thập? sở vị:
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát có mười pháp thần-thông. Những gì là mười ? Đó là :
Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười thứ thần thông. Những gì là mười ? Đó là :
Ức niệm tú mạng phương tiện trí thông
Phương-tiện trí thông ghi nhớ túc-mạng.
Giảng: 1. Thần thông trí huệ phương tiện nghĩ nhớ túc mạng, tức cũng là biết tất cả những sự việc đời quá khứ.
Thiên nhĩ vô ngại phương tiện trí thông
Phương-tiện trí thông thiên-nhĩ vô-ngại.
Giảng: 2. Thần thông trí huệ phương tiện thiên nhĩ vô ngại, tức cũng là nghe được tiếng của người trời nói rõ ràng.
Tri tha chúng sanh bất tư nghị tâm hành phương tiện trí thông
Phương-tiện trí thông biết bất-tư-nghì tâm hành của chúng-sanh.
Giảng: 3. Thần thông trí huệ phương tiện biết tâm hạnh của những chúng sinh khác không nghĩ bàn, tức là tha tâm thông, nghĩa là trong tâm họ nghĩ gì, làm gì, Bồ Tát đều biết được.
Thiên nhãn quan sát vô hữu chướng ngại phương tiện trí thông
Phương-tiện trí thông thiên-nhãn quán-sát vô-ngại.
Giảng: 4. Thần thông trí huệ phương tiện thiên nhãn quán sát không có chướng ngại. Nghĩa là thế giới nầy thế giới kia, quán sát rất rõ ràng, nhìn một cái là thấu rõ.
Tùy chúng sanh tâm hiện bất tư nghị Đại Thần thông lực phương tiện trí thông
Phương-tiện trí thông tùy theo tâm chúng-sanh hiện bất-tư-nghì đại thần-thông-lực.
Giảng: 5. Thần thông trí huệ phương tiện tuỳ tâm chúng sinh hiện sức đại thần thông không nghĩ bàn.
Nhất thân phổ hiện vô lượng thế giới phương tiện trí thông
Phương-tiện trí thông một thân hiện khắp vô-lượng thế-giới.
Giảng: 6. Thần thông trí huệ phương tiện một thân hiện khắp vô lượng thế giới.
Nhất niệm biến nhập bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới phương tiện trí thông
Phương-tiện trí thông một niệm vào khắp bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết thế-giới.
Giảng: 7. Thần thông trí huệ phương tiện một niệm vào khắp bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới.
Xuất sanh vô lượng trang nghiêm cụ, trang nghiêm bất tư nghị thế giới phương tiện trí thông
Phương-tiện trí thông xuất sanh vô-lượng đồ trang-nghiêm để trang-nghiêm bất-tư-nghì thế-giới.
Giảng: 8. Thần thông trí huệ phương tiện sinh ra vô lượng đồ trang nghiêm, trang nghiêm thế giới không nghĩ bàn.
Thị hiện bất khả thuyết biến hóa thân phương tiện trí thông
Phương-tiện trí thông thị-hiện bất-khả-thuyết thân biến-hóa.
Giảng: 9. Thần thông trí huệ phương tiện thị hiện bất khả thuyết biến hoá thân.
Tùy bất tư nghị chúng sanh tâm, ư bất khả thuyết thế giới hiện thành A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề phương tiện trí thông.
Phương-tiện trí thông tùy theo bất-tư-nghì tâm chúng-sanh nơi bất-khả-thuyết thế-giới thị-hiện thành vô-thượng chánh-giác.
Giảng: 10. Thần thông trí huệ phương tiện tuỳ tâm chúng sinh không nghĩ bàn nơi bất khả thuyết thế giới hiện thành A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.
Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ kỳ trung, tức đắc Như Lai vô thượng Đại thiện xảo thần thông, vi nhất thiết chúng sanh chủng chủng thị hiện, lệnh kỳ tu học.
Đó là mười. Nếu chư Bồ-Tát an-trụ trong đây thời được thần-thông đại thiện-xảo vô-thượng của Như-Lai, vì tất cả chúng-sanh thị-hiện nhiều sự việc khiến họ tu học.
Giảng: Đó là mười thứ thần thông của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được đại thần thông khéo léo vô thượng của Như Lai, vì tất cả chúng sinh thị hiện đủ thứ, khiến cho hết thảy chúng sinh y pháp tu hành học tập.
=======================================
Thập Chủng Minh
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng minh. Hà đẳng vi thập? sở vị:
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát có mười thứ Minh. Những gì là mười ? Đó là :
Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười thứ minh. Những gì là mười ? Đó là :
Tri nhất thiết chúng sanh nghiệp báo, thiện xảo trí minh.
Trí-minh thiện-xảo biết nghiệp báo của tất cả chúng-sanh.
Giảng: 1. Trí minh khéo léo biết nghiệp báo của tất cả chúng sinh. Tạo nghiệp gì ? Thọ quả báo gì ? Tóm lại, chúng sinh tu hành thập thiện, sau khi chết được sinh về cõi trời, hưởng thọ an vui trên cõi trời. Chúng sinh giữ năm giới, sau khi chết đi, được sinh làm người. Chúng sinh có tham, sân, si, ba độc, sau khi chết đi thì đoạ lạc vào ba đường ác, thọ vô lượng khổ.
Tri nhất thiết chúng sanh cảnh giới, tịch diệt thanh tịnh, vô chư hí luận, thiện xảo trí minh.
Trí-minh thiện-xảo biết cảnh-giới tịch-diệt thanh-tịnh không hí-luận của tất cả chúng-sanh.
Giảng: 2. Trí minh khéo léo biết cảnh giới của tất cả chúng sinh, tịch diệt thanh tịnh, không có các hí luận.
Tri nhất thiết chúng sanh chủng chủng sở duyên duy thị nhất tướng tất bất khả đắc, nhất thiết chư pháp giai như Kim cương, thiện xảo trí minh.
Trí-minh thiện-xảo biết những cảnh sở-duyên của tất cả chúng-sanh chỉ là một tướng đều bất-khả-đắc, tất cả pháp đều như kim-cang.
Giảng: 3. Trí minh biết khéo léo biết đủ thứ tướng phan duyên của tất cả chúng sinh, chỉ là một tướng, đều bất khả đắc, tất cả các pháp đều kiên cố như kim cang.
Năng dĩ vô lượng vi diệu âm thanh, phổ văn thập phương nhất thiết thế giới, thiện xảo trí minh.
Trí-minh thiện-xảo hay dùng vô-lượng âm-thanh, vi-diệu vang khắp thập phương thế-giới.
Giảng: 4. Trí minh khéo léo dùng vô lượng âm thanh vi diệu, khiến cho chúng sinh mười phương thế giới, đều nghe được diệu pháp âm nầy.
Phổ hoại nhất thiết tâm sở nhiễm trước, thiện xảo trí minh.
Trí-minh thiện-xảo phá hoại khắp tất cả tâm nhiễm trước.
Giảng: 5. Trí minh khéo léo phá hoại hết tất cả nhiễm ô và chấp trước trong tâm của tất cả chúng sinh.
Năng dĩ phương tiện thị hiện thọ sanh hoặc bất thọ sanh, thiện xảo trí minh.
Trí-minh thiện-xảo hay dùng phương-tiện thọ sanh hay chẳng thọ sanh.
Giảng: 6. Trí minh khéo léo dùng phương tiện thị hiện thọ sinh hoặc chẳng thọ sinh.
Xả ly nhất thiết tưởng, thọ cảnh giới, thiện xảo trí minh.
Trí-minh thiện-xảo bỏ rời tất cả cảnh-giới thọ tưởng.
Giảng: 7. Trí minh khéo léo xả lìa tất cả tưởng thọ.
Tri nhất thiết pháp phi tướng, phi vô tướng, nhất tánh Vô tánh, vô sở phân biệt, nhi năng liễu tri chủng chủng chư Pháp, ư vô lượng kiếp phân biệt diễn thuyết, trụ ư Pháp giới, thành A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề, thiện xảo trí minh.
Trí-minh thiện-xảo biết tất cả pháp chẳng tướng chẳng vô-tướng, một tánh vô tánh vô-phân-biệt mà hay rõ biết các loại pháp, trong vô-lượng kiếp phân biệt diễn thuyết, trụ nơi pháp-giới, thành vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác.
Giảng: 8. Trí minh khéo léo biết tất cả pháp chẳng phải có tướng, cũng chẳng phải là vô tướng; chẳng phải một tánh, cũng chẳng phải là vô tánh. Tuy không có sự phân biệt, mà biết rõ đủ thứ các pháp. Ở trong vô lượng kiếp phân biệt diễn nói, trụ nơi pháp giới, thành tựu A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.
Bồ-Tát Ma-ha-tát tri nhất thiết chúng sanh sanh bổn vô hữu sanh, liễu đạt thọ sanh bất khả đắc cố, nhi tri nhân, tri duyên, tri sự, tri cảnh giới, tri hạnh, tri sanh, tri diệt, tri ngôn thuyết, tri mê hoặc, tri ly mê hoặc, tri điên đảo, tri ly điên đảo, tri tạp nhiễm, tri thanh tịnh, tri sanh tử, tri Niết-Bàn, tri khả đắc, tri bất khả đắc, tri chấp trước, tri vô chấp trước, tri trụ, tri động, tri khứ, tri hoàn, tri khởi, tri bất khởi, tri thất hoại, tri xuất ly, tri thành thục, tri chư căn, tri điều phục, tùy kỳ sở ưng chủng chủng giáo hóa, vị tằng vong thất Bồ Tát sở hạnh. Hà dĩ cố? Bồ Tát đãn vi lợi ích chúng sanh cố, phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm, vô dư sở vi. Thị cố, Bồ Tát thường hóa chúng sanh, thân vô bì quyện, bất vi nhất thiết thế gian sở tác.
Trí-minh duyên-khởi thiện-xảo biết tất cả chúng-sanh, sanh vốn không sanh vì tỏ thấu thọ sanh bất-khả-đắc. Mà biết nhơn, biết duyên, biết sự, biết cảnh-giới, biết hạnh, biết sanh, biết diệt, biết ngôn thuyết, biết mê hoặc, biết lìa mê hoặc, biết điên-đảo, biết lìa điên-đảo, biết tạp nhiễm, biết thanh-tịnh, biết sanh tử, biết niết-bàn, biết khả-đắc, biết bất-khả-đắc, biết chấp trước, biết không chấp trước, biết trụ, biết động, biết đi, biết về, biết khởi, biết chẳng khởi, biết hư mất, biết xuất ly, biết thành thục, biết các căn, biết điều phục, tùy theo sở nghi mà nhiều cách giáo-hóa, chưa từng quên mất công-hạnh bồ-tát. Vì Bồ-Tát chỉ vì lợi-ích chúng-sanh nên phát tâm vô-thượng bồ-đề không bỏ sót việc làm vì chúng-sanh. Thế nên Bồ-Tát thường giáo-hóa chúng-sanh thân không mỏi nhọc, chẳng trái tất cả chỗ làm của thế-gian.
Giảng: 9. Đại Bồ Tát biết sự sinh của tất cả chúng sinh, sinh mà chẳng sinh, diệt mà chẳng diệt, thấu rõ thông đạt thọ sinh là bất khả đắc, đều là hư vọng. Do đó có câu : Hư vọng mà sinh, hư vọng mà diệt. Bồ Tát biết được nhân của sự sinh như thế nào ? Duyên của sinh như thế nào ? Lại biết tất cả sự lý, tất cả cảnh giới, tất cả hành vì, lại biết sinh như thế nào, diệt như thế nào. Lại biết tất cả lời nói, lại biết tất cả mê hoặc, phải làm thế nào để lìa khỏi sự mê hoặc, mê hoặc tức là vô minh, vô minh che lấp chân tâm, cho nên làm cho con người mê hoặc. Lại biết tất cả sự điên đảo, phải làm thế nào mới có thể lìa được sự điên đảo, điên đảo tức là lấy khổ làm vui, đối với chân lý sinh ra vọng kiến, có tưởng điên đảo, thấy điên đảo, tâm điên đảo. Lại biết tạp nhiễm của tất cả chúng sinh, thanh tịnh của tất cả chúng sinh. Lại biết sinh tử của chúng sinh, Niết Bàn của chúng sinh. Lại biết gì là khả đắc, gì là bất khả đắc. Lại biết chúng sinh có chấp trước, làm thế nào giáo hoá chúng sinh lìa khỏi sự chấp trước. Lại biết trụ như thế nào, động như thế nào, đi như thế nào, về như thế nào. Lại biết khởi như thế nào, chẳng khởi như thế nào. Lại biết tất cả mất hoại như thế nào, thoát khỏi ba cõi như thế nào. Lại biết làm thế nào khiến cho hạt giống bồ đề thành thục. Biết các căn của tất cả chúng sinh. Biết điều phục chúng sinh như thế nào. Tuỳ sự ứng cơ của chúng sinh, mà dùng đủ thứ pháp môn phương tiện để giáo hoá, chưa từng quên mất hạnh của Bồ Tát tu.
Bởi nguyên nhân gì ? Vì Bồ Tát chỉ lợi ích tất cả chúng sinh, mà phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, không làm việc gì khác, bởi vậy cho nên Bồ Tát thường giáo hoá chúng sinh, bất cứ khổ hạnh như thế nào, cũng chẳng cảm thấy mệt mỏi, chẳng trái việc làm của tất cả thế gian. Đó gọi là trí minh khéo léo duyên khởi.
Thị danh: duyên khởi thiện xảo trí minh. Bồ-Tát Ma-ha-tát ư Phật Vô Trước, bất khởi trước tâm; Ư Pháp Vô Trước, bất khởi trước tâm; Ư sát Vô Trước, bất khởi trước tâm; Ư chúng sanh Vô Trước, bất khởi trước tâm; bất kiến hữu chúng sanh nhi hành giáo hóa điều phục thuyết Pháp, nhiên diệc bất xả Bồ Tát chư hạnh, đại bi đại nguyện, kiến Phật văn pháp, tùy thuận tu hành, y ư Như Lai chủng chư thiện căn, cung kính cúng dường vô hữu hưu tức, năng dĩ thần lực chấn động thập phương vô lượng thế giới, kỳ tâm quảng đại đẳng Pháp giới cố, tri chủng chủng thuyết Pháp, tri chúng sanh số, tri chúng sanh sái biệt, tri khổ sanh, tri khổ diệt, tri nhất thiết hành giai như ảnh tượng, hành Bồ Tát hạnh, vĩnh đoạn nhất thiết thọ sanh căn bản, đãn vi cứu hộ nhất thiết chúng sanh, hành Bồ Tát hạnh nhi vô sở hành, tùy thuận nhất thiết chư Phật chủng tánh, phát như Đại sơn vương tâm, tri nhất thiết hư vọng điên đảo, nhập nhất thiết chủng trí môn, trí tuệ quảng đại bất khả khuynh động, đương thành chánh giác, ư sanh tử hải bình đẳng tế độ nhất thiết chúng sanh, thiện xảo trí minh.
Trí-minh thiện-xảo nơi Phật vô-trước chẳng sanh tâm nhiễm trước, nơi pháp vô-trước chẳng sanh tâm nhiễm trước, nơi cõi vô-trước chẳng sanh tâm nhiễm trước, nơi chúng-sanh vô-trước chẳng sanh tâm nhiễm trước. Chẳng thấy có chúng-sanh mà thật hành giáo-hóa điều-phục thuyết pháp, nhưng cũng chẳng bỏ bồ-tát đại-bi đại-nguyện, thấy Phật, nghe Pháp, tùy thuận tu hành, y-chỉ nơi những thiện-căn của Như-Lai cung-kính cúng-dường không thôi nghỉ. Hay dùng thần-lực chấn-động thập phương vô-lượng thế-giới, vì tâm quảng đại khắp pháp-giới. Biết những cách thuyết pháp, biết số chúng-sanh, biết chúng-sanh sai-biệt, biết khổ sanh, biết khổ diệt, biết tất cả hạnh đều như bóng tượng, thật hành hạnh Bồ-Tát dứt hẳn tất cả căn-bổn thọ sanh. Chỉ vì cứu hộ tất cả chúng-sanh nên thật hành hạnh bồ-tát mà không chỗ làm, tùy thuận chủng-tánh của tất cả chư Phật mà phát tâm quảng-đại như Tu-Di. Biết tất cả hư-vọng điên đảo vào môn nhứt-thiết chủng-trí. Trí-huệ rộng lớn chẳng lay động được, sẽ thành chánh-giác. Ở biển sanh-tử bình-đẳng tế độ tất cả chúng-sanh.
Giảng: 10. Trí minh khéo léo, đại Bồ Tát đối với mười phương ba đời tất cả chư Phật, nên đừng có sự chấp trước, chẳng khởi tâm chấp trước. Đối với tất cả pháp nên đừng có chấp trước, chẳng khởi tâm chấp trước. Đối với tất cả cõi Phật nên đừng có sự chấp trước, chẳng khởi tâm chấp trước. Đối với tất cả chúng sinh nên đừng có sự chấp trước, chẳng khởi tâm chấp trước. Tuy chẳng thấy có chúng sinh, mà vẫn phải giáo hoá chúng sinh, điều phục chúng sinh, vì chúng sinh thuyết pháp. Nhưng cũng chẳng xả bỏ các hạnh đại bi đại nguyện của Bồ Tát tu.
Gặp Phật nghe pháp, tuỳ thuận tu hành. Y chiếu theo đủ thứ pháp của Như Lai nói, mà tu đủ thứ căn lành, cung kính Tam Bảo, cúng dường Tam Bảo, không có lúc nào ngừng nghỉ. Bồ Tát hay dùng sức thần thông, khiến cho đại địa có sáu thứ chấn động, chẳng những hay khiến cho một thế giới chấn động, mà cũng hay khiến cho mười phương vô lượng thế giới đồng thời chấn động. Tâm của Bồ Tát rộng lớn, vì đồng với tận hư không khắp pháp giới.
Bồ Tát biết các thứ phương tiện thuyết pháp, làm thế nào để giáo hoá chúng sinh, lại biết số lượng chúng sinh có bao nhiêu. Lại biết chúng sinh có đủ thứ sự khác biệt. Lại biết khổ sinh ra như thế nào, biết khổ diệt như thế nào. Lại biết tất cả hành vi đều như hình bóng, hư mà chẳng thật. Tu hành Bồ Tát hạnh, vĩnh viễn dứt hẳn nguồn gốc tất cả thọ sinh, nhưng vì cứu hộ tất cả chúng sinh, mà tu hành Bồ Tát hạnh, trên thực tế, làm mà không chỗ làm. Tuỳ thuận tất cả giống tánh của tất cả chư Phật, phát tâm như núi chúa lớn, biết tất cả hư vọng điên đảo. Vào môn nhất thiết chủng trí, trí huệ rộng lớn, không cách chi có thể khuynh động được, sẽ thành Chánh giác, ở trong biển sinh tử, bình đẳng tế độ tất cả chúng sinh.
Thị vi thập. nhược chư Bồ-tát an trụ kỳ trung, tức đắc Như Lai vô thượng Đại thiện xảo trí minh.
Đó là mười. Nếu chư Bồ-Tát an-trụ trong đây thời được thần-thông đại thiện-xảo vô-thượng của Như-Lai
Giảng: Đó là mười pháp minh. Nếu các Bồ Tát an trụ trong đó, thì sẽ đắc được đại trí huệ quang minh khéo léo vô thượng của Như Lai.
=======================================
Thập Chủng Giải Thoát
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng giải thoát. Hà đẳng vi thập? sở vị:
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát có mười pháp giải-thoát. Những gì là mười ? Đó là :
Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười pháp giải thoát. Những gì là mười ? Đó là :
Phiền não giải thoát; Phiền-não giải-thoát.
Giảng: 1. Giải thoát phiền não : Giải thoát là gì ? Tức là tự do tự tại, chẳng có ràng buộc, chẳng có chấp trước, không quái không ngại, không suy không nghĩ. Phiền não là gì ? Tức là phiền thân não tâm, do vọng tưởng mà sinh, nếu không có phiền não, thì vô câu vô thúc. Đem phiền não biến thành bồ đề.
Tà kiến giải thoát; Tà-kiến giải-thoát.
Giảng: 2. Giải thoát tà kiến : Chỉ có chánh tri chánh kiến, chẳng có tà tri tà kiến.
Chư thủ giải thoát; Những chấp thủ giải-thoát.
Giảng: 3. Giải thoát các chấp lấy : Chẳng có mọi sự chấp lấy, chẳng còn mọi sự chấp trước.
Uẩn, giới, xứ giải thoát; Uẩn, xứ, giới giải-thoát.
Giảng: 4. Giải thoát uẩn xứ giới : Uẩn là năm uẩn, tức là : Sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Xứ là mười hai xứ, tức là : Nhãn nhĩ tỹ thiệt thân ý sáu căn, sắc thanh hương vị xúc pháp sáu trần. Giới là mười tám giới, tức là sáu căn và sáu trần với sáu thức, hợp lại là mười tám giới. Sáu thức tức là : Nhãn thức, nhĩ thức, tỹ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức.
Siêu nhị thừa giải thoát; Siêu nhị-thừa giải-thoát.
Giảng: 5. Giải thoát vượt qua nhị thừa : Vượt qua Thanh Văn Duyên Giác nhị thừa, chỉ có Bồ Tát thừa.
Vô sanh Pháp nhẫn giải thoát; Vô-sanh pháp-nhẫn giải-thoát.
Giảng: 6. Giải thoát vô sinh pháp nhẫn : Tức là vô sinh pháp nhẫn, cũng đắc được giải thoát. Vô sinh pháp nhẫn là gì ? Chẳng thấy có chút pháp sinh, chẳng thấy có chút pháp diệt, nhẫn chịu nơi tâm.
Ư nhất thiết thế gian, nhất thiết sát, nhất thiết chúng sanh, nhất thiết pháp ly trước giải thoát;
Nơi tất cả thế-gian, tất cả cõi, tất cả chúng-sanh, tất cả pháp, lìa chấp trước giải-thoát.
Giảng: 7. Giải thoát lìa chấp trước, nơi tất cả thế gian, tất cả cõi, tất cả chúng sinh, tất cả pháp : Hết thảy mọi sự chấp trước đều lìa khỏi, mà được giải thoát.
Vô biên trụ giải thoát; Vô-biên-trụ giải-thoát.
Giảng: 8. Giải thoát vô biên trụ : Trụ tại vô biên cũng được giải thoát.
Phát khởi nhất thiết Bồ Tát hạnh nhập Như Lai vô phân biệt địa giải thoát;
Phát khởi tất cả hạnh bồ-tát nhập bực Phật vô-phân-biệt giải-thoát.
Giảng: 9. Giải thoát phát khởi tất cả Bồ Tát hạnh, vào bậc Như Lai không phân biệt, cũng được giải thoát.
Ư nhất niệm trung tất năng liễu tri nhất thiết tam thế giải thoát.
Ở trong một niệm đều có thể rõ biết tất cả tam-thế giải-thoát.
Giảng: 10. Giải thoát ở trong một niệm, đều biết rõ tất cả ba đời, cũng được giải thoát.
Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức năng thí tác vô thượng Phật sự, giáo hóa thành thục nhất thiết chúng sanh.
Đó là mười. Nếu chư Bồ-Tát an trụ pháp giải-thoát nầy thời có thể ra làm phật-sự vô-thượng, giáo-hóa thành-thục tất cả chúng-sanh.
Giảng: Đó là mười pháp giải thoát của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ pháp nầy, thì có thể ra làm Phật sự vô thượng, giáo hoá thành thục tất cả chúng sinh.
=======================================
Thập Chủng Viên Lâm
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng viên lâm. Hà đẳng vi thập? sở vị:
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát có mười viên-lâm. Những gì là mười ? Đó là :
Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười thứ vườn rừng. Những gì là mười ? Đó là :
Sanh tử thị Bồ Tát viên lâm, vô yếm xả cố
Sanh tử là viên-lâm của Bồ-Tát, vì không nhàm bỏ.
Giảng: 1. Sinh tử là vườn rừng của Bồ Tát, Bồ Tát chẳng sợ sinh tử, chẳng vào Niết Bàn, tức sinh tử mà chấm dứt sinh tử, không nhàm bỏ sinh tử.
Giáo hóa chúng sanh thị Bồ Tát viên lâm, bất bì quyện cố
Giáo-hóa chúng-sanh là viên-lâm của Bồ-Tát, vì không mỏi nhọc.
Giảng: 2. Giáo hoá chúng sinh là vườn rừng của Bồ Tát, Bồ Tát giáo hoá chúng sinh, điều phục chúng sinh, bất cứ lúc nào, cũng chẳng cảm thấy mệt mỏi.
Trụ nhất thiết kiếp thị Bồ Tát viên lâm, nhiếp chư Đại hạnh cố
Trụ tất cả kiếp là viên-lâm của Bồ-Tát, vì nhiếp những hạnh lớn.
Giảng: 3. Trụ tất cả kiếp là vườn rừng của Bồ Tát, nhiếp trì hết thảy chúng sinh có tu các hạnh lớn.
Thanh tịnh thế giới thị Bồ Tát viên lâm, tự sở chỉ trụ cố
Thanh-tịnh thế-giới là viên-lâm của Bồ-Tát, vì là chỗ dừng ở của Bồ-Tát.
Giảng: 4. Thanh tịnh thế giới là vườn rừng của Bồ Tát, vì Bồ Tát tự mình dừng lại ở là thế giới thanh tịnh trang nghiêm.
Nhất thiết ma cung điện thị Bồ Tát viên lâm, hàng phục bỉ chúng cố
Tất cả cung-điện ma là viên-lâm của Bồ-Tát, vì hàng phục chúng ma.
Giảng: 5. Tất cả cung điện ma là vườn rừng của Bồ Tát, Bồ Tát hay hàng phúc chúng thiên ma, ở tại cung điện ma giáo hoá các chúng ma.
Tư tánh sở văn Pháp thị Bồ Tát viên lâm, như lý quan sát cố
Tư duy pháp đã được nghe là viên-lâm của Bồ-Tát, vì đúng như lý quán-sát.
Giảng: 6. Suy gẫm pháp đã nghe là vườn rừng của Bồ Tát, vì như lý quán sát, nghiên cứu diệu nghĩa của pháp. Chúng ta nghe kinh nghe pháp, cũng phải thường nghiên cứu thật nghĩa của diệu pháp.
Lục Ba la mật, tứ nhiếp sự, Tam Thập Thất Bồ-Đề Phân Pháp thị bồ tát viên lâm, thiệu kế Từ Phụ cảnh giới cố
Sáu pháp ba-la-mật, bốn nhiếp pháp, ba mươi bảy pháp bồ-đề phần là viên-lâm của Bồ-Tát, vì là cảnh-giới tiếp nối đức Từ-Phụ.
Giảng: 7. Lục độ Ba la mật, bốn pháp nhiếp, ba mươi bảy pháp bồ đề phần, là vườn rừng của Bồ Tát, vì cảnh giới tiếp nối chí nguyện của đấng Từ Phụ (Phật), tức cũng là Tục Phật huệ mạng.
Thập lực, tứ vô sở úy, thập bát bất cộng nãi chí nhất thiết Phật Pháp thị Bồ Tát viên lâm, bất niệm dư Pháp cố
Thập lực, tứ vô-úy, thập bát pháp bất-công, nhẫn đến tất cả phật-pháp là viên-lâm của Bồ-Tát, vì chẳng niệm nhớ những pháp khác.
Giảng: 8. Thập lực (Trí lực biết xứ phi xứ, trí lực biết nghiệp báo ba đời, trí lực biết các thiền giải thoát tam muội, trí lực biết các căn thắng liệt, trí lực biết chủng chủng giải, trí lực biết đủ thứ cõi, trí lực biết nhất thiết chí sở đạo, trí lực biết thiên nhãn vô ngại, trí lực biết túc mạng vô lậu, trí lực biết vĩnh đoạn tập khí), bốn vô sở uý (Nhất thiết trí vô sở uý, lậu tận vô sở uý, nói chướng đạo vô sở uý, nói đạo hết khổ vô sở uý), mười tám pháp bất cộng (Thân không lỗi, miệng không lỗi, niệm không lỗi, không có nghĩ tưởng khác, vô bất định tâm, vô bất tri kỷ xả, dục chẳng giảm, tinh tấn chẳng giảm, niệm chẳng giảm, huệ chẳng giảm, giải thoát chẳng giảm, giải thoát tri kiến chẳng giảm, tất cả thân nghiệp tuỳ trí huệ hành, tất cả khẩu nghiệp tuỳ trí huệ hành, tất cả ý nghiệp tuỳ trí huệ hành, trí huệ biết đời quá khứ vô ngại, trí huệ biết đời vị lai vô ngại, trí huệ biết đời hiện tại vô ngại), cho đến tất cả Phật pháp là vườn rừng của Bồ Tát, vì Bồ Tát tuyệt đối chẳng học tập pháp của ngoại đạo khác.
Thị Hiện-Nhất-Thiết Bồ Tát uy lực tự tại thần thông thị Bồ Tát viên lâm, dĩ đại thần lực chuyển chánh Pháp luân điều phục chúng sanh vô hưu tức cố
Thị-hiện tất cả bồ-tát oai-lực tự-tại thần-thông là viên-lâm của Bồ-Tát, vì dùng đại thần-lực chuyển chánh pháp-luân điều phục chúng-sanh không thôi nghĩ.
Giảng: 9. Thị hiện tất cả oai lực thần thông tự tại của Bồ Tát là vườn rừng của Bồ Tát, vì dùng đại thần lực chuyển bánh xe pháp, điều phục chúng sinh không ngừng nghỉ.
Nhất niệm ư nhất thiết xứ vi nhất thiết chúng sanh thị thành chánh giác thị Bồ Tát viên lâm, Pháp thân chu biến tận hư không nhất thiết thế giới cố.
Một niệm ở tất cả xứ vì tất cả chúng-sanh thị hiện thành chánh-giác là viên-lâm của Bồ-Tát, vì pháp-thân cùng khắp hư-không tất cả thế-giới.
Giảng: 10. Một niệm nơi tất cả mọi nơi vì tất cả chúng sinh thị hiện thành Chánh Giác là vườn rừng của Bồ Tát, vì pháp thân khắp cùng tận hư không tất cả thế giới.
Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức đắc Như Lai vô thượng ly ưu não, Đại An lạc hạnh.
Đó là mười. Nếu chư Bồ-Tát an-trụ pháp nầy thời được hạnh đại an-lạc lìa ưu-não vô-thượng của Như-Lai.
Giảng: Đó là mười. Nếu các Bồ Tát an trụ pháp nầy, thì sẽ được hạnh đại an lạc vô thượng lìa lo buồn của Như Lai.
=======================================
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng cung điện. Hà đẳng vi thập? sở vị:
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát có mười thứ cung-điện. Những gì là mười ? Đó là :
Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười thứ cung điện. Những gì là mười ? Đó là :
Bồ-đề tâm thị Bồ Tát cung điện, hằng bất vong thất cố
Bồ-đề tâm là cung điện của Bồ-Tát, vì hằng không quên mất.
Giảng: 1. Bồ đề tâm là cung điện của Bồ Tát, vì luôn chẳng quên mất bồ đề tâm mình đã phát ra.
Thập thiện nghiệp đạo phước đức trí tuệ thị Bồ Tát cung điện, giáo hóa dục giới chúng sanh cố
Thập thiện nghiệp đạo phước-đức trí-huệ là cung điện của Bồ-Tát, vì giáo-hóa chúng-sanh cõi dục.
Giảng: 2. Thập thiện (Chẳng sát sinh, chẳng trộm cắp, chẳng tà dâm, chẳng nói dối, chẳng nói thêu dệt, chẳng nói hai lưỡi, chẳng chưởi mắng, chẳng tham sẻn, chẳng sân hận, chẳng ngu si) nghiệp đạo, phước đức trí huệ là cung điện của Bồ Tát, vì giáo hoá chúng sinh cõi dục.
Tứ phạm trụ Thiền định thị Bồ Tát cung điện, giáo hóa sắc giới chúng sanh cố
Tứ phạm-trụ thiền-định là cung điện của Bồ-Tát, vì giáo-hóa chúng-sanh cõi sắc.
Giảng: 3. Bốn phạm trụ thiền định (Trời tứ thiền cõi sắc) là cung điện của Bồ Tát, vì giáo hoá chúng sinh cõi sắc.
Sanh tịnh cư thiên thị Bồ Tát cung điện, nhất thiết phiền não bất nhiễm cố
Sanh Tịnh-Cư-Thiên là cung điện của Bồ-Tát, vì tất cả phiền-não chẳng nhiễm.
Giảng: 4. Sinh vào cõi trời Tịnh Cư (Trời Ngũ Bất Hoàn) là cung điện của Bồ Tát, vì tất cả phiền não chẳng nhiễm.
Sanh vô sắc giới thị Bồ Tát cung điện, lệnh chư chúng sanh ly nan xứ cố
Sanh vô-sắc giới là cung điện của Bồ-Tát, vì khiến tất cả chúng-sanh lìa chỗ nạn.
Giảng: 5. Sinh vào cõi vô sắc là cung điện của Bồ Tát, chúng sinh cõi vô sắc, chẳng có dục niệm, chẳng có hình tướng, chỉ có thức. Khiến các chúng sinh lìa khỏi nơi tám nạn, tám nạn là : Nạn địa ngục, nạn ngạ quỷ, nạn súc sinh, nạn Bắc Câu Lưu Châu, nạn trời Trường Thọ, nạn đui mù câm điết, nạn thế trí biện thông, nạn trước Phật sau Phật. Chúng sinh trong tám nạn nầy, nạn chẳng gặp Phật, nạn chẳng nghe pháp, nạn chẳng thấy Tăng.
Sanh tạp nhiễm thế giới thị Bồ Tát cung điện, lệnh nhất thiết chúng sanh đoạn phiền não cố
Sanh thế-giới tạp nhiễm là cung điện của Bồ-Tát, vì khiến tất cả chúng-sanh dứt phiền-não.
Giảng: 6. Sinh vào thế giới tạp nhiễm là cung điện của Bồ Tát, tức là thế giới chẳng thanh tịnh, ngũ dục hoành hành, khiến cho con người điên đảo. Bồ Tát hay khiến tất cả chúng sinh phá vô minh dứt phiền não.
Hiện xứ nội cung thê tử, quyến thuộc thị bồ tát cung điện, thành tựu vãng tích đồng hạnh chúng sanh cố
Thị hiện ở nội-cung thê tử quyến-thuộc là cung điện của Bồ-Tát, vì thành-tựu chúng-sanh đồng hạnh thuở xưa.
Giảng: 7. Thị hiện nơi nội cung, có vợ con thê thiếp, có lục thân quyến thuộc, là cung điện của Bồ Tát, vì thành tựu chúng sinh đồng hạnh thuở xưa, khiến cho họ phát bồ đề tâm.
Hiện cư luân Vương, hộ thế, thích, phạm thị Bồ Tát cung điện, vi điều phục tự tại tâm chúng sanh cố
Thị hiện ở ngôi Luân-Vương-Tứ-Thiên-Vương, Ðế-Thích, Phạm-Vương là cung điện của Bồ-Tát, vì điều-phục chúng-sanh tâm tự-tại.
Giảng: 8. Hiện ở ngôi Chuyển Luân Thánh Vương (Kim ngân đồng thiết bốn luân vương), hoặc làm Hộ Thế Tứ Thiên Vương, trời Đế Thích, Đại Phạm Thiên là cung điện của Bồ Tát, vì điều phục tự tại tâm chúng sinh, có thể đến ba cõi để giáo hoá chúng sinh.
Trụ nhất thiết Bồ Tát hạnh du hí thần thông giai đắc tự tại thị Bồ Tát cung điện, thiện du hí chư Thiền giải thoát tam muội trí tuệ cố
Trụ tất cả bồ-tát hạnh du hí thần-thông đều được tự-tại là cung điện của Bồ-Tát, vì giỏi du-hí các thiền giải-thoát tam-muội trí-huệ.
Giảng: 9. Trụ tại tất cả Bồ Tát hạnh du hí thần thông đều được tự tại là cung điện của Bồ Tát, vì khéo du hí các thiền (tứ thiền bát định), tất cả giải thoát, tất cả tam muội, tất cả trí huệ.
Nhất thiết Phật sở thọ vô thượng tự tại, nhất thiết trí Vương quán đảnh kí thị Bồ Tát cung điện, trụ thập lực trang nghiêm tác nhất thiết pháp Vương tự tại sự cố.
Tất cả chư Phật thọ ký nhứt-thiết-trí quán-đảnh tự-tại vô-thượng là cung điện của Bồ-Tát, vì trụ thập-lực trang-nghiêm làm việc tự-tại của Pháp-Vương.
Giảng: 10. Được tất cả chư Phật thọ ký vô thượng tự tại nhất thiết trí vương quán đảnh là cung điện của Bồ Tát, vì trụ trang nghiêm của đấng Thập Lực làm tất cả việc của đấng Pháp Vương tự tại.
Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ kỳ trung, tức đắc pháp quán đảnh, ư nhất thiết thế gian thần lực tự tại.
Đó là mười. Nếu chư Bồ-Tát an trụ trong đây thời được pháp quán-đảnh nơi tất cả thế-gian thần-lực tự-tại.
Giảng: Đó là mười. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được pháp quán đảnh, nơi thần lực tự tại của tất cả thế gian.
=======================================
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng sở lạc. Hà đẳng vi thập? sở vị:
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát có mười điều vui thích. Những gì là mười ? Đó là :
Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười thứ ưa thích. Những gì là mười ? Đó là :
Lạc chánh niệm, tâm bất tán loạn cố
Thích chánh-niệm, vì tâm chẳng tán loạn.
Giảng: 1. Bồ Tát thích chánh niệm, vì tâm chẳng tán loạn, chẳng khởi vọng tưởng, chẳng có tư tưởng bất chánh.
Lạc trí tuệ, phân biệt chư Pháp cố
Thích trí-huệ, vì phân biệt các pháp.
Giảng: 2. Bồ Tát thích trí huệ, vì có trí huệ mới phân biệt được thật tướng của các pháp.
Lạc vãng nghệ nhất thiết Phật sở, thính pháp vô yếm cố
Thích qua đến tất cả chỗ Phật, vì nghe pháp không nhàm.
Giảng: 3. Bồ Tát thích đi đến đạo tràng của tất cả chư Phật, để lắng nghe chư Phật thuyết pháp, chẳng có khi nào nhàm chán.
Lạc chư Phật, sung mãn thập phương vô biên tế cố
Thích chư Phật, vì đầy khắp mười phương không biên tế.
Giảng: 4. Bồ Tát thích chư Phật, vì đầy khắp mười phương vô biên bờ mé thế giới.
Lạc Bồ Tát, tự tại vi chư chúng sanh dĩ vô lượng môn nhi hiện thân cố
Thích Bồ-Tát tự-tại, vì tất cả chúng-sanh dùng vô-lượng môn mà hiện thân.
Giảng: 5. Bồ Tát thích tự tại của tất cả Bồ Tát, vì giáo hoá chúng sinh dùng vô lượng pháp môn, mà hiện thân thuyết pháp.
Lạc chư tam muội môn, ư nhất tam muội môn nhập nhất thiết tam muội môn cố
Thích các môn tam-muội, vì nơi một môn tam-muội nhập tất cả môn tam-muội.
Giảng: 6. Bồ Tát thích các môn tam muội, vì nơi một môn tam muội vào tất cả môn tam muội.
Lạc Đà-la-ni, Trì Pháp bất vong chuyển thụ chúng sanh cố
Thích đà-la-ni, vì thọ-trì pháp chẳng quên, dạy lại cho chúng-sanh.
Giảng: 7. Bồ Tát thích đà la ni, vì hay thọ trì pháp, mà chẳng quên mất, lại có thể truyền thọ cho tất cả chúng sinh.
Lạc vô ngại biện tài, ư nhất văn nhất cú Kinh bất khả thuyết kiếp phân biệt diễn thuyết vô cùng tận cố
Thích vô-ngại biện-tài, vì nơi một đoạn một câu, phân-biệt diễn thuyết trải qua bất-khả-thuyết kiếp không cùng tận.
Giảng: 8. Bồ Tát thích vô ngại biện tài, vì nơi mỗi văn tự hoặc mỗi câu kinh, trải qua bất khả thuyết kiếp, vì chúng sinh phân biệt diễn nói, không có khi nào cùng tận.
Lạc thành chánh giác, vi nhất thiết chúng sanh dĩ vô lượng môn thị hiện ư thân thành chánh giác cố
Thích thành chánh-giác, vì tất cả chúng-sanh dùng vô-lượng môn mà thị-hiện thân thành chánh-giác.
Giảng: 9. Bồ Tát thích thành Chánh Giác, vì tất cả chúng sinh, dùng vô lượng pháp môn, thị hiện thành thân Phật.
Lạc chuyển pháp luân, tồi diệt nhất thiết dị đạo pháp cố.
Thích chuyển pháp-luân, vì dẹp trừ tất cả pháp dị-đạo.
Giảng: 10. Bồ Tát thích chuyển bánh xe pháp, vì diệt trừ tất cả pháp của thiên ma ngoại đạo.
Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức đắc nhất thiết chư Phật Như Lai vô thượng pháp lạc
Đó là mười. Nếu chư Bồ-Tát an trụ pháp nầy thời được pháp lạc vô-thượng của chư Phật Như-Lai.
Giảng: Đó là mười pháp ưa thích của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ được pháp ưa thích vô thượng của tất cả chư Phật Như Lai.
=======================================
Thập Chủng Trang Nghiêm
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng trang nghiêm. Hà đẳng vi thập? sở vị:
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát có mười thứ trang-nghiêm. Những gì là mười ? Đó là :
Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười thứ trang nghiêm. Những gì là mười ? Đó là :
Lực trang nghiêm, bất khả hoại cố
Lực trang-nghiêm, vì chẳng thể hư-hoại.
Giảng: 1. Lực trang nghiêm, vì như kim cang, nên không thể phá hoại được.
Vô úy trang nghiêm, vô năng phục cố
Vô-úy trang-nghiêm, vì hay dẹp phục.
Giảng: 2. Vô uý trang nghiêm, vì không có sức lực nào có thể hàng phục được.
Nghĩa trang nghiêm, thuyết bất khả thuyết nghĩa vô cùng tận cố
Nghĩa trang-nghiêm, vì nói bất-khả-thuyết nghĩa vô cùng tận.
Giảng: 3. Nghĩa lý trang nghiêm, vì nói bất khả thuyết nghĩa lý không khi nào hết được.
Pháp trang nghiêm, bát vạn tứ thiên Pháp tụ quan sát diễn thuyết vô vong thất cố
Pháp trang-nghiêm, vì quán-sát diễn thuyết không quên mất tám vạn bốn ngàn pháp-tu.
Giảng: 4. Pháp trang nghiêm, vì có tám vạn bốn ngàn pháp môn, quán sát diễn nói không khi nào quên mất.
Nguyện trang nghiêm, nhất thiết Bồ Tát sở phát hoằng thệ vô thoái chuyển cố
Nguyện trang-nghiêm, vì không thối chuyển nơi hoằng thệ của chư Bồ-Tát đã phát.
Giảng: 5. Thệ nguyện trang nghiêm, vì tất cả Bồ Tát phát bốn hoằng thệ nguyện : Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ, phiền não vô tận thệ nguyện đoạn, pháp môn vô lượng thệ nguyện học, Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành, không có thối chuyển nguyện đã phát ra.
Hạnh trang nghiêm, tu Phổ Hiền hạnh nhi xuất ly cố
Hạnh trang-nghiêm, vì tu hạnh phổ-hiền mà xuất ly.
Giảng: 6. Đại hạnh trang nghiêm, vì tu hành mười đại hạnh nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền : Một là lễ kính các đức Phật, hai là khen ngợi các Như Lai, ba là rộng tu cúng dường, bốn là sám hối nghiệp chướng, năm là tuỳ hỉ công đức, sáu là thỉnh chuyển bánh xe pháp, bảy là thỉnh Phật ở lại đời, tám là thường theo Phật học, chín là luôn thuận chúng sinh, mười là khắp đều hồi hướng, mà thoát ra khỏi ba cõi, chấm dứt sinh tử.
Sát trang nghiêm, dĩ nhất thiết sát tác nhất sát cố
Sát độ trang-nghiêm, vì đem tất cả cõi làm một cõi.
Giảng: 7. Cõi trang nghiêm, vì dùng tất cả cõi Phật làm một cõi Phật.
Phổ âm trang nghiêm, chu biến nhất thiết chư Phật thế giới vũ Pháp vũ cố
Phổ âm trang-nghiêm, vì mưa pháp-vũ cùng khắp tất cả thế-giới của chư Phật.
Giảng: 8. Phổ âm trang nghiêm, vì mưa pháp vũ khắp cùng mười phương tất cả thế giới chư Phật.
Lực trì trang nghiêm, ư nhất thiết kiếp hành vô số hạnh bất đoạn tuyệt cố
Lực trì trang-nghiêm, vì trong tất cả kiếp thật hành vô-số hạnh chẳng đoạn tuyệt.
Giảng: 9. Lực trì trang nghiêm, vì trong tất cả kiếp tu hành vô số vô lượng hạnh, không khi nào đoạn tuyệt.
Biến hóa trang nghiêm, ư nhất chúng sanh thân thị Hiện-Nhất-Thiết chúng sanh số đẳng thân, lệnh nhất thiết chúng sanh tất đắc tri kiến, cầu nhất thiết trí vô thoái chuyển cố.
Biến-hóa trang-nghiêm, vì nơi thân một chúng-sanh thị-hiện thân bằng số tất cả chúng-sanh, khiến tất cả chúng-sanh đều thấy biết cầu nhứt-thiết-trí không thối chuyển.
Giảng: 10. Biến hoá trang nghiêm, vì nơi một thân chúng sinh, thị hiện đồng số thân tất cả chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh đều biết được cảnh giới nầy, lại có thể thấy được cảnh giới nầy, cầu nhất thiết trí, vĩnh viễn không thối chuyển bồ đề tâm.
Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức đắc Như Lai nhất thiết vô thượng pháp trang nghiêm.
Đó là mười. Nếu chư Bồ-Tát an-trụ pháp nầy thời được tất cả pháp trang-nghiêm vô-thượng của Như-Lai.
Giảng: Đó là mười pháp trang nghiêm của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được tất cả pháp trang nghiêm vô thượng của Như Lai.
=======================================
Thập Chủng Bất Động Tâm
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát phát thập chủng bất động tâm. Hà đẳng vi thập? sở vị:
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát phát mười tâm bất động. Những gì là mười ? Đó là :
Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát phát mười thứ tâm bất động. Những gì là mười ? Đó là :
Ư nhất thiết sở hữu tất giai năng xả bất động tâm
Tâm bất động : nơi tất cả sở-hữu thảy đều xả được.
Giảng: 1. Đối với hết thảy tất cả nội tài (đầu mắt tuỷ não) và ngoại tài (đất nước vợ con) của mình thảy đều xả bỏ bố thí cho người cần dùng, mà tâm bất động. Chẳng có xảy ra hiện tượng xả bỏ chẳng được, xả bỏ rồi, cũng chẳng hối tiếc.
Tư tánh quan sát nhất thiết Phật Pháp bất động tâm
Tâm bất động : tư-duy quán-sát tất cả phật-pháp.
Giảng: 2. Suy gẫm tất cả Phật pháp, quán sát tất cả Phật pháp, mà tâm bất động. Tuyệt đối chẳng khởi những vọng tưởng khác.
Ức niệm cúng dưỡng nhất thiết chư Phật bất động tâm
Tâm bất động : ghi nhớ cúng-dường tất cả chư Phật.
Giảng: 3. Nghĩ nhớ tất cả chư Phật, cúng dường tất cả chư Phật, mà tâm bất động. Chuyên tâm nghĩ nhớ, thành tâm cúng dường, tuyệt đối không nghĩ gì khác.
Ư nhất thiết chúng sanh thệ vô não hại bất động tâm
Tâm bất động : nơi tất cả chúng-sanh thệ không não hại.
Giảng: 4. Đối với tất cả chúng sinh, thệ nguyện không não hại, mà tâm bất động. Chẳng giống như chúng ta tu đạo nhiều năm, mà vẫn không có công phu nhẫn nhục, hôm nay nổi giận người nầy, mai lại đánh người kia, chuyên môn não hại chúng sinh.
Phổ nhiếp chúng sanh bất giản oán thân bất động tâm
Tâm bất động : khắp nhiếp chúng-sanh chẳng lựa oán thân.
Giảng: 5. Khắp nhiếp trì tất cả chúng sinh không lựa chọn người nầy là oán thù của tôi, người kia là thân nhân của tôi thì độ họ. Bồ Tát kẻ oán người thân đều bình đẳng, chẳng có phân biệt, cho nên tâm bất động.
Cầu nhất thiết Phật Pháp vô hữu hưu tức bất động tâm
Tâm bất động : cầu tất cả phật-pháp không thôi nghỉ.
Giảng: 6. Vì cầu tất cả Phật pháp, nên không có ngừng nghỉ, dũng mãnh tinh tấn, tâm bất động.
Nhất thiết chúng sanh số đẳng bất khả thuyết bất khả thuyết kiếp, hành Bồ Tát hạnh bất sanh bì yếm diệc vô thoái chuyển bất động tâm
Tâm bất động : số kiếp bằng số chúng-sanh thật hành hạnh bồ-tát chẳng mỏi nhàm, cũng không thối chuyển
Giảng: 7. Tất cả chúng sinh số lượng đồng với bất khả thuyết bất khả thuyết kiếp, tu hành hạnh của Bồ Tát tu, chẳng sinh tâm nhàm mỏi, cũng chẳng sinh tâm thối chuyển, nên tâm bất động.
Thành tựu hữu căn tín, vô trược tín, thanh tịnh tín, cực thanh tịnh tín, ly cấu tín, minh triệt tín, cung kính cúng dường nhất thiết Phật tín, bất thoái chuyển tín, bất khả tận tín, vô năng hoại tín, Đại hoan hỉ dũng dược tín bất động tâm
Tâm bất động : thành-tựu hữu-căn tín, vô-trược tín, thanh-tịnh tín, cực thanh-tịnh tín, ly-cấu tín, minh-triệt tín, cung-kính cúng-dường tất cả chư Phật tín, bất-thối-chuyển tín, bất khả tận tín, vô năng hoại tín, đại hoan-hỉ dũng-dước tín.
Giảng: 8. Thành tựu có căn tin, tin không ô trược, tin thanh tịnh, tin cực thanh tịnh, tin lìa cấu, tin sáng triệt, tin cung kính cúng dường tất cả chư Phật, tin chẳng thối chuyển, tin không hết được, tin không thể hoại, tin đại hoan hỉ hớn hở, sinh ra nhiều tâm tin như vậy, nên tâm bất động.
Thành tựu xuất sanh nhất thiết trí phương tiện đạo bất động tâm
Tâm bất động : thành-tựu đạo phương-tiện xuất sanh nhứt-thiết-trí.
Giảng: 9. Thành tựu phương tiện đạo sinh ra nhất thiết trí tâm bất động.
Văn nhất thiết Bồ Tát hạnh Pháp tín thọ bất báng bất động tâm.
Tâm bất động : nghe tất cả bồ-tát hạnh pháp thời tin thọ chẳng hủy báng.
Giảng: 10. Nghe pháp môn của tất cả Bồ Tát tu hành, tin thọ phụng hành, tuyệt đối không phỉ báng Tam Bảo, nên tâm bất động.
Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức đắc vô thượng nhất thiết trí bất động tâm.
Đó là mười. Nếu chư Bồ-Tát an-trụ pháp nầy thời được tâm bất động nhứt-thiết-trí vô-thượng.
Giảng: Đó là mười pháp tâm bất động của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được nhất thiết tâm bất động vô thượng của Như Lai.
=======================================
Thập Chủng Bất Xả Thâm Đại Tâm
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng bất xả thâm đại tâm. Hà đẳng vi thập? sở vị:
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát có mười pháp chẳng bỏ tâm thâm đại. Những gì là mười ? Đó là :
Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười tâm sâu lớn không xả bỏ. Những gì là mười ? Đó là :
Bất xả thành mãn nhất thiết Phật Bồ-đề thâm đại tâm
Chẳng bỏ tâm thâm đại thành-tựu viên-mãn tất cả Phật bồ-đề.
Giảng: 1. Tâm sâu lớn chẳng xả bỏ thành tựu viên mãn tất cả Phật bồ đề.
Bất xả giáo hóa điều phục nhất thiết chúng sanh thâm đại tâm
Chẳng bỏ tâm thâm đại giáo-hóa điều-phục tất cả chúng-sanh.
Giảng: 2. Tâm sâu lớn chẳng xả bỏ giáo hoá điều phục tất cả chúng sinh.
Bất xả bất đoạn nhất thiết chư Phật chủng tánh thâm đại tâm
Chẳng bỏ tâm thâm đại chẳng dứt chủng-tánh của Phật.
Giảng: 3. Tâm sâu lớn chẳng xả bỏ chẳng dứt giống tánh của tất cả chư Phật.
Bất xả thân cận nhất thiết thiện tri thức thâm đại tâm
Chẳng bỏ tâm thâm đại gần-gũi tất cả thiện-tri-thức.
Giảng: 4. Tâm sâu lớn chẳng xả bỏ gần gũi tất cả thiện tri thức.
Bất xả cúng dường nhất thiết chư Phật thâm đại tâm
Chẳng bỏ tâm thâm đại cúng-dường tất cả chư Phật.
Giảng: 5. Tâm sâu lớn chẳng xả bỏ cúng dường tất cả chư Phật.
Bất xả chuyên cầu nhất thiết Đại-Thừa công đức Pháp thâm đại tâm
Chẳng bỏ tâm thâm đại chuyên cầu tất cả pháp công-đức đại-thừa.
Giảng: 6. Tâm sâu lớn chẳng xả bỏ chuyên cầu tất cả công đức pháp đại thừa.
Bất xả ư nhất thiết Phật sở tu hành phạm hạnh, hộ trì tịnh giới thâm đại tâm
Chẳng bỏ tâm thâm đại ở chỗ chư Phật tu phạm-hạnh, hộ trì tịnh-giới.
Giảng: 7. Tâm sâu lớn chẳng xả bỏ phạm hạnh của tất cả chư Phật tu hành, hộ trì tịnh giới.
Bất xả thân cận nhất thiết Bồ Tát thâm đại tâm
Chẳng bỏ tâm thâm đại thân-cận tất cả Bồ-Tát.
Giảng: 8. Tâm sâu lớn chẳng xả bỏ gần gũi tất cả Bồ Tát.
Bất xả cầu nhất thiết Phật Pháp phương tiện hộ trì thâm đại tâm
Chẳng bỏ tâm thâm đại cầu tất cả phật-pháp phương-tiện hộ-trì.
Giảng: 9. Tâm sâu lớn chẳng xả bỏ phương tiện hộ trì cầu tất cả Phật pháp.
Bất xả mãn nhất thiết Bồ-tát hạnh nguyện, tập nhất thiết chư Phật Pháp thâm đại tâm.
Chẳng bỏ tâm thâm đại thành mãn tất cả bồ-tát hạnh nguyện, chứa nhóm tất cả phật-pháp.
Giảng: 10. Tâm sâu lớn chẳng xả bỏ viên mãn tất cả Bồ Tát hạnh nguyện tích tập tất cả Phật pháp.
Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ kỳ trung, tức năng bất xả nhất thiết Phật Pháp.
Đó là mười. Nếu chư Bồ-Tát an-trụ trong đó thời có thể chẳng bỏ tất cả phật-pháp.
Giảng: Đó là mười tâm sâu lớn. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ không xả bỏ tất cả Phật pháp.
=======================================
Thập Chủng Trí Tuệ Quan Sát
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng trí tuệ quan sát. Hà đẳng vi thập? sở vị:
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát có mười trí-huệ quán-sát. Những gì là mười ? Đó là :
Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười trí huệ quán sát. Những gì là mười ? Đó là :
Thiện xảo phân biệt thuyết nhất thiết pháp trí tuệ quan sát
Trí-huệ quán-sát thiện-xảo phân-biệt diễn thuyết tất cả pháp.
Giảng: 1. Trí huệ quán sát khéo léo phân biệt nói tất cả pháp.
Liễu tri tam thế nhất thiết thiện căn trí tuệ quan sát
Trí-huệ quán-sát biết rõ tam-thế tất cả thiện-căn.
Giảng: 2. Trí huệ quán sát biết rõ tất cả căn lành ba đời.
Liễu tri nhất thiết chư Bồ-tát hạnh tự tại biến hóa trí tuệ quan sát
Trí-huệ quán-sát biết rõ tất cả bồ-tát hạnh biến hóa tự-tại.
Giảng: 3. Trí huệ quán sát biết rõ tất cả các Bồ Tát hạnh tự tại biến hoá.
Liễu tri nhất thiết chư pháp nghĩa môn trí tuệ quan sát
Trí-huệ quán-sát biết rõ nghĩa môn của tất cả pháp.
Giảng: 4. Trí huệ quán sát biết rõ tất cả các môn pháp nghĩa.
Liễu tri nhất thiết chư Phật uy lực trí tuệ quan sát
Trí-huệ quán-sát biết rõ oai-lực của tất cả chư Phật.
Giảng: 5. Trí huệ quán sát biết rõ tất cả chư Phật oai lực.
Liễu tri nhất thiết đà-la-ni môn trí tuệ quan sát
Trí-huệ quán-sát biết rõ tất cả môn đà-la-ni.
Giảng: 6. Trí huệ quán sát biết rõ tất cả môn đà la ni.
Ư nhất thiết thế giới phổ thuyết Chánh Pháp trí tuệ quan sát
Trí-huệ quán-sát nơi tất cả thế-giới khắp nói chánh-pháp.
Giảng: 7. Trí huệ quán sát đối với tất cả thế giới khắp nói chánh pháp.
Nhập nhất thiết pháp giới trí tuệ quan sát
Trí-huệ quán-sát nhập tất cả pháp-giới.
Giảng: 8. Trí huệ quán sát vào tất cả pháp giới.
Tri nhất thiết thập phương bất khả tư nghị trí tuệ quán sát
Trí-huệ quán-sát biết tất cả thập-phương bất-tư-nghì.
Giảng: 9. Trí huệ quán sát biết tất cả mười phương không thể nghĩ bàn
Tri nhất thiết Phật Pháp trí tuệ quang minh vô hữu chướng ngại trí tuệ quán sát.
Trí-huệ quán-sát biết tất cả phật-pháp trí huệ quang-minh vô-ngại.
Giảng: 10. Trí huệ quán sát biết tất cả Phật pháp trí huệ quang minh không có chướng ngại.
Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ kỳ trung, tức đắc Như Lai vô thượng đại trí tuệ quan sát.
Đó là mười. Nếu chư Bồ-Tát an-trụ trong đó thời được trí-huệ quán-sát vô-thượng của Như-Lai.
Giảng: Đó là mười trí huệ quán sát. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ được đại trí huệ quán sát vô thượng của Như Lai.
=======================================
Thập Chủng Thuyết Pháp
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng thuyết Pháp. Hà đẳng vi thập? sở vị:
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát có mười thuyết pháp. Những gì là mười ? Đó là :
Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười thứ nói pháp. Những gì là mười ? Đó là :
Thuyết nhất thiết pháp giai tùng duyên khởi
Nói tất cả pháp đều từ duyên khởi.
Giảng: 1. Nói tất cả pháp đều từ duyên khởi. Do đó có câu :
Các pháp do duyên sinh
Các pháp do duyên diệt
Phật ta đại Sa Môn
Thường hay nói như vậy.
Thuyết nhất thiết pháp giai tất như huyễn
Nói tất cả pháp thảy đều như huyễn.
Giảng: 2. Nói tất cả pháp thảy đều như huyễn như hoá, chẳng chân thật, cho nên đừng chấp trước vào.
Thuyết nhất thiết pháp vô hữu quai tránh
Nói tất cả pháp không chống trái.
Giảng: 3. Nói tất cả pháp không chống trái, chẳng có tranh luận.
Thuyết nhất thiết Pháp vô hữu biên tế
Nói tất cả pháp không biên-tế.
Giảng: 4. Nói tất cả pháp không có bờ mé, chẳng có số lượng.
Thuyết nhất thiết pháp vô sở y chỉ
Nói tất cả pháp không y-chỉ.
Giảng: 5. Nói tất cả pháp không chỗ y chỉ.
Thuyết nhất thiết Pháp do như Kim cương
Nói tất cả pháp dường như kim-cang.
Giảng: 6. Nói tất cả pháp kiên cố và sắc bén giống như kim cang.
Thuyết nhất thiết pháp giai tất như như
Nói tất cả pháp thảy đều như như.
Giảng: 7. Nói tất cả pháp đều là trí huệ như như, cảnh giới như như, tức cũng là như như bất động.
Thuyết nhất thiết Pháp giai tất tịch tĩnh
Nói tất cả pháp thảy đều tịch-tịnh.
Giảng: 8. Nói tất cả pháp thảy đều là tịch tĩnh, do đó có câu :
Các pháp từ xưa nay
Thường tự tướng tịch diệt
Không thể dùng lời nói.
Thuyết nhất thiết pháp giai tất xuất ly
Nói tất cả pháp thảy đều xuất ly.
Giảng: 9. Nói tất cả pháp thảy đều là pháp thoát khỏi ba cõi, tức cũng là pháp chấm dứt sinh tử.
Thuyết nhất thiết Pháp giai trụ nhất nghĩa, bổn tánh thành tựu.
Nói tất cả pháp đều trụ một nghĩa bổn-tánh thành-tựu.
Giảng: 10. Nói tất cả pháp đều là đệ nhất nghĩa, vốn có Phật tánh thành tựu.
Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ kỳ trung, tức năng thiện xảo thuyết nhất thiết pháp.
Đó là mười. Nếu chư Bồ-Tát an-trụ trong đây thời có thể thiện-xảo nói tất cả pháp.
Giảng: Đó là mười pháp nói pháp của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ khéo léo nói tất cả pháp.
=======================================
Thập Chủng Thanh Tịnh
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng thanh tịnh. Hà đẳng vi thập? sở vị:
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát có mười pháp thanh-tịnh. Những gì là mười ? Đó là :
Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười pháp thanh tịnh. Những gì là mười ? Đó là :
Thâm tâm thanh tịnh Thâm tâm thanh-tịnh.
Giảng: 1. Thâm tâm Bồ Tát ý niệm đã ngừng, chẳng khởi vọng tưởng, luôn luôn thanh tịnh.
Đoạn nghi thanh tịnh Ðoạn nghi thanh-tịnh
Giảng: 2. Bồ Tát hay dứt trừ tất cả nghi hoặc, sinh tất cả tâm tin, luôn luôn thanh tịnh.
Ly kiến thanh tịnh Ly-kiến thanh-tịnh
Giảng: 3. Bồ Tát lìa khỏi tất cả tà kiến, sinh ra tất cả chánh kiến, luôn luôn thanh tịnh.
Cảnh giới thanh tịnh Cảnh-giới thanh-tịnh
Giảng: 4. Bồ Tát hay tu tất cả cảnh giới, chuyển được tất cả cảnh giới, luôn luôn thanh tịnh.
Cầu nhất thiết trí thanh tịnh Cầu nhứt-thiết-trí thanh-tịnh
Giảng: 5. Bồ Tát cầu nhất thiết trí huệ, hiểu được nhất thiết trí huệ, luôn luôn thanh tịnh.
Biện tài thanh tịnh Biện-tài thanh-tịnh
Giảng: 6. Bồ Tát có bốn biện tài vô ngại, tức là pháp vô ngại biện, nghĩa vô ngại biện, từ vô ngại biện, nhạo thuyết vô ngại biện, luôn luôn thanh tịnh.
Vô úy thanh tịnh Vô-úy thanh-tịnh
Giảng: 7. Bồ Tát có bốn vô uý, tức là tổng trì vô uý, biết căn vô uý, quyết nghi vô uý, đáp nạn vô uý, luôn luôn thanh tịnh.
Trụ nhất thiết Bồ Tát trí thanh tịnh Trụ tất cả bồ-tát trí thanh-tịnh
Giảng: 8. Bồ Tát trụ nơi bậc trí thanh tịnh của tất cả Bồ Tát, luôn luôn thanh tịnh.
Thọ nhất thiết Bồ Tát luật nghi thanh tịnh Thọ tất cả bồ-tát luật nghi thanh-tịnh
Giảng: 9. Bồ Tát thọ luật nghi thanh tịnh của tất cả Bồ Tát, luôn luôn thanh tịnh.
Cụ túc thành tựu vô thượng Bồ-đề, tam thập nhị chủng bách phước tướng, bạch tịnh Pháp, nhất thiết thiện căn thanh tịnh.
Ðầy đủ thành-tựu vô-thượng bồ-đề, ba mươi hai tướng trăm phước, pháp bạch-tịnh, tất cả thiện-căn thanh-tịnh.
Giảng: 10. Bồ Tát đầy đủ thành tựu vô thượng bồ đề, có ba mươi hai tướng trăm phước trang nghiêm, pháp trắng thanh tịnh, tất cả căn lành luôn luôn thanh tịnh.
Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ kỳ trung, tức đắc nhất thiết Như Lai vô thượng thanh tịnh Pháp.
Đó là mười. Nếu chư Bồ-Tát an-trụ trong đó thời được pháp thanh-tịnh vô-thượng của tất cả Như-Lai.
Giảng: Đó là mười pháp thanh tịnh của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ được tất cả pháp thanh tịnh vô thượng của Như Lai.
=======================================
Thập Chủng Ấn
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng ấn. Hà đẳng vi thập? sở vị:
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát có mười ấn. Những gì là mười ? Đó là :
Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười thứ ấn. Ấn là dùng trí huệ thanh tịnh, quyết định ấn khả tất cả pháp. Những gì là mười ? Đó là :
Bồ-Tát Ma-ha-tát tri khổ khổ, hoại khổ, hành khổ, chuyên cầu Phật Pháp, bất sanh giải đãi, hành Bồ Tát hạnh vô hữu bì giải, bất kinh bất úy, bất khủng bất bố, bất xả đại nguyện, cầu nhất thiết trí kiên cố bất thoái, cứu cánh A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề, thị vi đệ nhất ấn.
Ðại Bồ-Tát biết khổ khổ, hoại khổ, hành khổ, chuyên cầu phật-pháp chẳng sanh giải-đải, thật hành bồ-tát hạnh không mỏi lười, chẳng kinh sợ, chẳng bỏ đại nguyện cầu nhứt-thiết-trí kiên cố bất thối rốt ráo vô-thượng bồ-đề. Ðây là ấn thứ nhứt.
Giảng: 1. Đại Bồ Tát biết khổ khổ, tức là khổ trong khổ, giống như có người chẳng có cơm ăn, chẳng có áo mặc, chẳng có nhà ở, có thể nói là khổ lại thêm khổ. Tại sao lại như vậy ? Vì trong quá khứ, đã từng huỷ báng Tam Bảo, chẳng tin Phật pháp, đoạ lạc trong địa ngục chịu khổ. Thọ khổ xong rồi, tuy nhiên được tái sinh làm người, nhưng nghiệp báo sở cảm, sáu căn không đủ, làm người hạ tiện.
Bồ Tát lại biết hoại khổ, tức là khổ của người giàu có, đang giàu sang phú quý biến thành hoại không, đó cũng là khổ, giống như vàng bạc châu báu, bị người khác trộm cắp, hoặc bị bọn cướp cướp lấy, hoặc bị lửa lớn thiêu sạch, hoặc bị nước lớn ngập chìm, làm cho tất cả tài sản tổn thất hết sạch, hoặc làm ăn bị tai nạn.
Bồ Tát lại biết hành khổ, tức là con người từ trẻ rồi lớn lên, trung niên rồi già đi, già rồi thì chết đi, niệm niệm trôi qua không ngừng. Tuy chẳng có khổ của người nghèo, chẳng có khổ của người giàu, nhưng có hành khổ. Trong một đời bận rộn tối ngày, khi chết rồi, hai bàn tay trắng mà đi, chỉ có nghiệp của mình tạo ra, nó sẽ đi theo mình thọ sinh trong luân hồi sáu nẻo. Trồng nghiệp lành thì sinh về cõi lành, trồng nghiệp ác thì đoạ vào địa ngục. Đó là lược nói về ba khổ, còn có tám khổ và vô lượng khổ. Bồ Tát biết đủ thứ khổ, cho nên chuyên tâm để cầu Phật pháp, dũng mãnh tinh tấn, chẳng sinh tâm giải đãi. Tu hành hạnh môn của Bồ Tát tu, tức là lục độ vạn hạnh, bất cứ lúc nào, cảnh giới gì, tuyệt đối không có lười biếng, không có tâm lý mệt mỏi. Trên cầu Phật đạo, dưới độ chúng sinh. Bồ Tát có định lực, chẳng kinh chẳng hãi, chẳng khiếp chẳng sợ, chẳng xả bỏ đại nguyện của mình đã phát. Cầu nhất thiết trí, kiên cố chí nguyện không thối chuyển. Rốt ráo chứng được A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Đó là tâm pháp ấn thứ nhất.
Bồ-Tát Ma-ha-tát kiến hữu chúng sanh ngu si cuồng loạn, hoặc dĩ thô tệ ác ngữ nhi tướng hủy nhục, hoặc dĩ đao trượng ngõa thạch nhi gia tổn hại, chung bất dĩ thử cảnh giới xả Bồ Tát tâm, đãn nhẫn nhục nhu hòa, chuyên tu Phật Pháp, trụ tối thắng đạo, nhập ly sanh vị, thị vi đệ nhị ấn.
Ðại Bồ-Tát thấy có chúng-sanh ngu si cuồng loạn hoặc dùng lời ác thô tệ để hủy nhục, hoặc dùng dao gậy ngói đá để làm tổn hại, trọn không vì việc nầy mà bỏ tâm bồ-tát, chỉ nhẫn nhục nhu hòa chuyên tu phật-pháp, trụ đạo tối-thắng, nhập ngôi ly-sanh. Ðây là ấn thứ hai.
Giảng: 2. Đại Bồ Tát thấy có chúng sinh ngu si cuồng loạn. Hoặc dùng lời ác thô lỗ, đủ thứ lời nói thậm tệ để mắng chưởi Bồ Tát, hoặc phí báng Bồ Tát, hoặc huỷ nhục Bồ Tát. Hoặc dùng đao gậy, hoặc dùng ngói đá để làm tổn hại Bồ Tát. Bồ Tát sẽ không vì những cảnh giới đó mà xả bỏ tâm Bồ Tát. Giống như hai vị hành giả Tam Bộ Nhất Bái (Thầy Hằng Thật và Hằng Triều) thường bị người đi đường dùng rượu uống say rồi đánh, dùng lời ác để mắng chưởi, nhưng hai vị vẫn như như bất động, vẫn tiếp tục hành trình, chẳng bị cảnh giới làm lay chuyển. Họ có tinh thần kiên nhẫn bất khuất, khắc phục được mọi gian nan và nguy hiểm, cuối cùng hoàn thành chí nguyện, bình an ba bước một lạy đến Vạn Phật Thánh Thành. Bồ Tát luôn nhẫn nhục nhu hoà, chuyên tâm tu học Phật pháp, trụ tại đạo tối thắng, vào bậc lìa khỏi sinh tử. Đó là tâm pháp ấn thứ hai.
Bồ-Tát Ma-ha-tát văn thuyết dữ nhất thiết trí tướng ứng thậm thâm Phật Pháp, năng dĩ tự trí, thâm tín nhẫn khả, giải liễu thú nhập, thị vi đệ tam ấn.
Ðại Bồ-Tát nghe phật-pháp thậm thâm tương-ưng với nhứt-thiết-trí, có thể dùng tự trí thâm tín nhẫn khả hiểu rõ xu nhập. Ðây là ấn thứ ba.
Giảng: 3. Đại Bồ Tát nghe nói Phật pháp thâm sâu vi diệu tương ưng với nhất thiết trí huệ, hay dùng trí huệ của mình tin sâu nhẫn nại, hiểu rõ pháp môn nầy hướng vào pháp môn nầy. Đó là tâm pháp ấn thứ ba.
Bồ-Tát Ma-ha-tát hựu tác thị niệm: ngã phát thâm tâm cầu nhất thiết trí, ngã đương thành Phật đắc A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề. Nhất thiết chúng sanh lưu chuyển ngũ thú thọ vô lượng khổ, diệc đương lệnh kỳ phát Bồ-đề tâm, thâm tín hoan hỉ, cần tu tinh tấn, kiên cố bất thoái. Thị vi đệ tứ ấn.
Ðại Bồ-Tát lại nghĩ rằng : Tôi phát thâm tâm cầu nhứt-thiết-trí, tôi sẽ thành Phật được vô-thượng bồ-đề. Tất cả chúng-sanh lưu chuyển năm loài chịu vô-lượng khổ, tôi cũng làm cho họ phát tâm bồ-đề thâm tín hoan-hỉ, siêng tu tinh-tấn kiên-cố bất-thối. Ðây là ấn thứ tư.
Giảng: 4. Đại Bồ Tát lại nghĩ như vầy : Tôi nên phát tâm sâu lớn, cầu nhất thiết trí. Tôi sẽ thành Phật, đắc được A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Tất cả chúng sinh lưu chuyển trong năm cõi (cõi người, a tu la, súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục), thọ vô lượng vô biên khổ. Tôi cũng sẽ khiến cho họ phát bồ đề tâm, tin sâu Phật pháp, hoan hỉ Phật pháp. Siêng tu tinh tấn, kiên cố bất thối chuyển. Đó là tâm pháp ấn thứ tư.
Bồ-Tát Ma-ha-tát tri Như Lai trí vô hữu biên tế, bất dĩ tề hạn trắc Như Lai trí; Bồ Tát tằng ư vô lượng Phật sở văn Như Lai trí vô hữu biên tế cố, năng bất dĩ tề hạn trắc độ; Nhất thiết thế gian văn tự sở thuyết giai hữu tề hạn, tất bất năng trai Như Lai trí tuệ; Thị vi đệ ngũ ấn.
Ðại Bồ-Tát biết Như-Lai trí vô-biên nên chẳng dùng chừng ngằn đo lường. Tất cả văn tự thế-gian nói ra đều có chừng ngằn, đều chẳng biết được Như-Lai trí-huệ. Ðây là ấn thứ năm.
Giảng: 5. Đại Bồ Tát biết trí huệ của Như Lai không có bờ mé, không thể nào dò lường được trí huệ của Như Lai. Bồ Tát đã từng ở trong đạo tràng của vô lượng chư Phật, lắng nghe trí huệ Như Lai không có bờ mé, nên không thể dò lường được. Tất cả văn tự lời nói của thế gian, đều có giới hạn, đều không thể nào biết được trí huệ của Như Lai. Đó là tâm pháp ấn thứ năm.
Bồ-Tát Ma-ha-tát ư A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề đắc tối thắng dục, thậm thâm dục, quảng dục, Đại dục, chủng chủng dục, Vô năng thắng dục, vô thượng dục, kiên cố dục, chúng ma ngoại đạo tinh kỳ quyến thuộc vô năng hoại dục, cầu nhất thiết trí Bất-thoái-chuyển dục, Bồ-tát trụ như thị đẳng dục, ư vô thượng Bồ-đề tất cánh bất thoái, thị vi đệ lục ấn.
Ðại Bồ-Tát nơi vô-thượng bồ-đề được sự mong muốn tối-thắng, sự mong muốn thậm thâm, sự mong muốn rộng, sự mong muốn lớn, nhiều sự mong muốn, sự mong muốn không gì hơn, sự mong muốn vô-thượng, sự mong muốn kiên cố, sự mong muốn mà chúng ma ngoại-đạo và quyến-thuộc không phá hoại được, sự mong muốn cầu nhứt-thiết-trí không thối-chuyển. Bồ-Tát an trụ nơi những sự mong muốn nầy nơi vô-thượng bồ-đề rốt ráo bất thối. Ðây là ấn thứ sáu.
Giảng: 6. Đại Bồ Tát đối với A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, đắc được sự ưa thích tối thắng, sự ưa thích rất thâm sâu, sự ưa thích rất rộng, sự ưa thích rất lớn, sự ưa thích đủ thứ, sự ưa thích không gì hơn được, sự ưa thích vô thượng, sự ưa thích kiên cố, sự ưa thích chúng ma ngoại đạo và quyến thuộc của chúng không thể nào phá hoại được, sự ưa thích cầu nhất thiết trí không thối chuyển, sự ưa thích Bồ Tát trụ như vậy, nơi vô thượng bồ đề rốt ráo không thối chuyển. Đó là tâm pháp ấn thứ sáu.
Bồ-Tát Ma-ha-tát hành Bồ Tát hạnh, bất cố thân mạng, vô năng tự hoại, phát tâm thú hướng nhất thiết trí cố, nhất thiết trí tánh thường hiện tiền cố, đắc nhất thiết Phật trí quang minh cố, chung bất xả ly Phật Bồ-đề, chung bất xả ly thiện tri thức, thị vi đệ thất ấn.
Ðại Bồ-Tát thật hành bồ-tát hạnh chẳng kể thân mạng không gì trở hoại được, vì phát tâm xu hướng nhứt-thiết-trí, vì nhứt-thiết-trí-tánh thường hiện-tiền, vì được tất cả phật trí quang-minh, trọn chẳng bỏ rời phật bồ đề, trọn chẳng bỏ rời thiện-tri-thức. Ðây là ấn thứ bảy.
Giảng: 7. Đại Bồ Tát tu hành Bồ Tát hạnh, chẳng màng thân mạng của mình, dù chết cũng không sợ. Không có năng lực nào có thể trở ngại phá hoại được bồ đề tâm đó, Bồ Tát phát tâm vì hướng về tánh nhất thiết trí. Vì tánh nhất thiết trí thường hiện tiền trong tâm của Bồ Tát. Vì đắc được trí huệ quang minh của tất cả chư Phật. Trọn không sinh tâm bỏ lìa Phật bồ đề, cũng không sinh tâm bỏ lìa thiện tri thức. Đó là tâm pháp ấn thứ bảy.
Bồ-Tát Ma-ha-tát nhược kiến Thiện nam tử, thiện nữ nhân thú Đại-Thừa giả, lệnh kỳ tăng trưởng cầu Phật Pháp tâm, lệnh kỳ an trụ nhất thiết thiện căn, lệnh kỳ nhiếp thủ nhất thiết trí tâm, lệnh kỳ bất thoái vô thượng Bồ-đề, thị vi đệ bát ấn.
Ðại Bồ-Tát nếu thấy thiện-nam-tử thiện-nữ-nhơn xu hướng đại-thừa, thời làm cho họ tăng trưởng tâm cầu phật-pháp, khiến họ an-trụ tất cả thiện-căn, khiến họ nhiếp thủ tâm nhứt-thiết-trí, khiến họ bất thối vô-thượng bồ-đề. Ðây là ấn thứ tám.
Giảng: 8. Đại Bồ Tát nếu thấy người nam tốt và người nữ tốt hướng về đại thừa, thì khiến cho họ tu Phật pháp đại thừa, khiến cho họ tăng trưởng tâm cầu Phật pháp. Khiến cho họ an ổn trụ nơi tất cả căn lành. Khiến cho họ nhiếp lấy tâm nhất thiết trí. Khiến cho họ chẳng thối chuyển tâm vô thượng bồ đề. Đó là tâm pháp ấn thứ tám.
Bồ-Tát Ma-ha-tát lệnh nhất thiết chúng sanh đắc bình đẳng tâm, khuyến lệnh cần tu nhất thiết trí đạo, dĩ đại bi tâm nhi vi thuyết Pháp, lệnh ư A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề vĩnh Bất-thoái-chuyển, thị vi đệ cửu ấn.
Ðại Bồ-Tát làm cho tất cả chúng-sanh được tâm bình-đẳng, khuy khiến siêng tu đạo nhứt-thiết-trí, dùng tâm đại-bi mà vì họ thuyết pháp, khiến họ trọn chẳng thối chuyển nơi vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác. Ðây là ấn thứ chín.
Giảng: 9. Đại Bồ Tát khiến cho tất cả chúng sinh đắc được tâm bình đẳng, khuyên khiến cho tất cả chúng sinh siêng tu đạo nhất thiết trí huệ. Dùng tâm đại bi mà vì tất cả chúng sinh diễn nói diệu pháp. Khiến cho họ vĩnh viễn chẳng thối chuyển A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Đó là tâm pháp ấn thứ chín.
Bồ-Tát Ma-ha-tát dữ tam thế chư Phật đồng nhất thiện căn, bất đoạn nhất thiết chư Phật chủng tánh, cứu cánh đắc chí nhất thiết trí trí, thị vi đệ thập ấn.
Ðại Bồ-Tát cùng tam thế chư Phật đồng một thiện-căn, chẳng dứt chủng-tánh của tất cả chư Phật, rốt ráo được đến nhứt-thiết-chủng-trí. Ðây là ấn thứ mười.
Giảng: 10. Đại Bồ Tát đồng một căn lành với mười phương tất cả chư Phật ba đời. Chẳng dứt hẳn giống tánh tất cả chư Phật. Rốt ráo đến được trí huệ nhất thiết trí. Đó là tâm pháp ấn thứ mười.
Phật tử! thị vi Bồ-Tát Ma-ha-tát thập chủng ấn. Bồ Tát dĩ thử tốc thành A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề, cụ túc Như Lai nhất thiết pháp vô thượng trí ấn.
Phật tử! Bồ-Tát dùng mười ấn nầy mau thành vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác, đầy đủ trí-ấn nhứt-thiết-pháp vô-thượng của Như-Lai.
Giảng: Phật tử ! Đó là mười thứ ấn của đại Bồ Tát. Bồ Tát nhờ đó mà sớm thành A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, đầy đủ tất cả pháp trí ấn vô thượng của Như Lai.
=======================================
Thập Chủng Trí Quang Chiếu
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng trí quang chiếu. Hà đẳng vi thập? sở vị:
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát có mười trí-quang-chiếu. Những gì là mười ? Đó là :
Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười trí quang chiếu. Những gì là mười ? Đó là :
Tri định đương thành A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề trí quang chiếu
Trí-quang-chiếu quyết định sẽ thành vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác.
Giảng: 1. Bồ Tát có trí quang chiếu, biết được chắc chắn sẽ thành A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.
Kiến nhất thiết Phật trí quang chiếu
Trí-quang-chiếu thấy tất cả Phật.
Giảng: 2. Bồ Tát có trí quang chiếu, thấy được tất cả chư Phật.
Kiến nhất thiết chúng sanh tử thử sanh bỉ trí quang chiếu
Trí-quang-chiếu thấy tất cả chúng-sanh chết đây sanh kia.
Giảng: 3. Bồ Tát có trí quang chiếu, thấy tất cả chúng sinh chết ở đây, lại sinh ở kia.
Giải nhất thiết tu-đa-la Pháp môn trí quang chiếu
Trí-quang-chiếu hiểu tất cả tu-đa-la pháp-môn.
Giảng: 4. Bồ Tát có trí quang chiếu, hiểu tất cả pháp môn Tu đa la (kinh điển).
Y thiện tri thức phát Bồ-đề tâm tập chư thiện căn trí quang chiếu
Trí-quang-chiếu y-chỉ thiện-tri-thức phát tâm bồ-đề tích tập thiện-căn.
Giảng: 5. Bồ Tát có trí quang chiếu, y chỉ thiện tri thức phát bồ đề tâm tích tập các căn lành.
Thị hiện nhất thiết chư Phật trí quang chiếu
Trí-quang-chiếu thị-hiện tất cả chư Phật.
Giảng: 6. Bồ Tát có trí quang chiếu, thị hiện tất cả chư Phật.
Giáo hóa nhất thiết chúng sanh tất lệnh an trụ Như Lai địa trí quang chiếu
Trí-quang-chiếu giáo-hóa tất cả chúng-sanh đều khiến an-trụ Như-Lai địa.
Giảng: 7. Bồ Tát có trí quang chiếu, giáo hoá tất cả chúng sinh đều khiến cho họ an trụ bậc Như Lai.
Diễn thuyết bất khả tư nghị quảng đại Pháp môn trí quang chiếu
Trí-quang-chiếu diễn thuyết bất-tư-nghì quảng-đại pháp-môn.
Giảng: 8. Bồ Tát có trí quang chiếu, diễn nói pháp môn rộng lớn không thể nghĩ bàn.
Thiện xảo liễu tri nhất thiết chư Phật thần thông uy lực trí quang chiếu
Trí-quang-chiếu thiện-xảo biết rõ tất cả chư Phật thần-thông oai-lực.
Giảng: 9. Bồ Tát có trí quang chiếu, khéo léo biết rõ tất cả thần thông oai lực của chư Phật.
Mãn túc nhất thiết chư ba la mật trí quang chiếu.
Trí-quang-chiếu đầy đủ tất cả các ba-la-mật.
Giảng: 10. Bồ Tát có trí quang chiếu đầy đủ tất cả các Ba la mật.
Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức đắc nhất thiết chư Phật vô thượng trí quang chiếu.
Đó là mười. Nếu chư Bồ-Tát an-trụ pháp nầy thời được trí-quang-chiếu vô-thượng của tất cả chư Phật.
Giảng: Đó là mười pháp trí quang chiếu của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được trí quang chiếu vô thượng của tất cả chư Phật.
=======================================
Thập Chủng Vô Đẳng Trụ
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng vô đẳng trụ, nhất thiết chúng sanh, Thanh văn, độc giác tất vô dữ đẳng. Hà đẳng vi thập? sở vị:
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát có mười vô-đẳng-trụ, tất cả chúng-sanh, thanh-văn, độc-giác đều không sánh bằng . Những gì là mười ? Đó là :
Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười vô đẳng trụ, tất cả chúng sinh, Thanh Văn, Độc Giác đều không thể sánh bằng được. Những gì là mười ? Đó là :
Bồ-Tát Ma-ha-tát tuy quán thật tế nhi bất thủ chứng, dĩ nhất thiết nguyện vị thành mãn cố, thị vi đệ nhất vô đẳng trụ.
Ðại Bồ-Tát dầu quán thiệt-tế mà không thủ chứng, vì tất cả nguyện chưa thành-tựu viên-mãn. Ðây là vô-đẳng-trụ thứ nhứt.
Giảng: 1. Đại Bồ Tát tuy quán sát lý thể thật tế, mà không thủ chứng Niết Bàn. Tại sao ? Vì tất cả đại nguyện đã phát ra, chưa thành tựu viên mãn. Đó là pháp vô đẳng trụ thứ nhất.
Bồ-Tát Ma-ha-tát chủng đẳng Pháp giới nhất thiết thiện căn, nhi bất ư trung hữu thiểu chấp trước, thị vi đệ nhị vô đẳng trụ.
Ðại Bồ-Tát gieo tất cả thiện-căn đồng pháp-giới, mà ở trong đó chẳng có một chút chấp lấy. Ðây là vô-đẳng-trụ thứ hai.
Giảng: 2. Đại Bồ Tát gieo trồng tất cả căn lành trong pháp giới, tuy có nhiều căn lành như thế, mà ở trong đó không có sự chấp trước. Đó là pháp vô đẳng trụ thứ hai.
Bồ-Tát Ma-ha-tát tu Bồ Tát hạnh, tri kỳ như hóa, dĩ nhất thiết pháp tất tịch diệt cố, nhi ư Phật Pháp bất sanh nghi hoặc, thị vi đệ tam vô đẳng trụ.
Ðại Bồ-Tát tu bồ-tát hạnh biết đó như hóa, bởi tất cả pháp đều tịch-diệt, mà chẳng nghi hoặc nơi phật-pháp. Ðây là vô-đẳng-trụ thứ ba.
Giảng: 3. Đại Bồ Tát tu Bồ Tát hạnh, đều biết là như huyễn như hoá. Vì hết thảy tất cả các pháp tịch diệt, mà đối với Phật pháp chẳng sinh nghi hoặc. Đó là pháp vô đẳng trụ thứ ba.
Bồ-Tát Ma-ha-tát tuy ly thế gian sở hữu vọng tưởng, nhiên năng tác ý, ư bất khả thuyết kiếp hành Bồ Tát hạnh, mãn túc đại nguyện, chung bất trung khởi bì yếm chi tâm, thị vi đệ tứ vô đẳng trụ.
Ðại Bồ-Tát dầu rời những vọng-tưởng thế-gian, nhưng hay tác ý trong bất-khả-thuyết kiếp thật hành hạnh Bồ-Tát đầy đủ đại-nguyện, trong khoảng giữa trọn chẳng sanh tâm mỏi nhàm. Ðây là vô-đẳng-trụ thứ tư.
Giảng: 4. Đại Bồ Tát tuy lìa hết thảy vọng tưởng thế gian, mà hay tác ý quán sát, trong bất khả thuyết kiếp, tu hành Bồ Tát hạnh, đầy đủ đại nguyện đã phát ra, trọn ở trong đó không khởi tâm nhàm nhán mỏi mệt. Đó là pháp vô đẳng trụ thứ tư.
Bồ-Tát Ma-ha-tát ư nhất thiết Pháp vô sở thủ trước, dĩ nhất thiết pháp tánh tịch diệt cố, nhi bất chứng Niết Bàn. Hà dĩ cố? nhất thiết trí đạo vị thành mãn cố, thị vi đệ ngũ vô đẳng trụ.
Ðại Bồ-Tát nơi tất cả pháp không chấp trước, vì tất cả pháp bổn-tánh tịch-diệt. Mà chẳng chứng niết-bàn vì đạo nhứt-thiết-trí chưa thành mãn. Ðây là vô-đẳng-trụ thứ-năm.
Giảng: 5. Đại Bồ Tát đối với tất cả pháp không có chấp trước. Vì tánh của tất cả pháp là tịch diệt, nên không thủ chứng Niết Bàn. Tại sao ? Vì đạo nhất thiết trí chưa thành tựu viên mãn. Đó là pháp vô đẳng trụ thứ năm.
Bồ-Tát Ma-ha-tát tri nhất thiết kiếp giai tức phi kiếp, nhi chân thật thuyết nhất thiết kiếp số, thị vi đệ lục vô đẳng trụ.
Ðại Bồ-Tát biết tất cả kiếp đều là phi-kiếp, mà chơn-thiệt nói tất cả kiếp số. Ðây là vô-đẳng trụ thứ sáu.
Giảng: 6. Đại Bồ Tát biết tất cả kiếp, đều chẳng phải kiếp, không nên chấp trước. Tuy chẳng có kiếp, nhưng chân thật nói số lượng của tất cả kiếp. Đó là pháp vô đẳng trụ thứ sáu.
Bồ-Tát Ma-ha-tát tri nhất thiết pháp tất vô sở tác, nhi bất xả tác đạo, cầu chư Phật Pháp, thị vi đệ thất vô đẳng trụ.
Ðại Bồ-Tát biết tất cả pháp đều vô-tác, mà chẳng bỏ thật hành đạo-hạnh cầu tất cả phật-pháp. Ðây là vô-đẳng-trụ thứ bảy.
Giảng: 7. Đại Bồ Tát biết tất cả pháp, đều không có kẻ làm, nhưng chẳng xả bỏ làm đạo cầu các Phật pháp. Đó là pháp vô đẳng trụ thứ bảy.
Bồ-Tát Ma-ha-tát tri tam giới duy tâm, tam thế duy tâm, nhi liễu tri kỳ tâm vô lượng vô biên, thị vi đệ bát vô đẳng trụ.
Ðại Bồ-Tát biết tam-giới duy-tâm, tam-thế duy-tâm, mà biết rõ tâm đó vô-lượng vô-biên. Ðây là vô-đẳng-trụ thứ tám.
Giảng: 8. Đại Bồ Tát biết đạo lý ba cõi duy tâm, ba đời duy tâm, nhưng biết rõ tâm đó vô lượng vô biên. Đó là pháp vô đẳng trụ thứ tám.
Bồ-Tát Ma-ha-tát vi nhất chúng sanh, ư bất khả thuyết kiếp hành Bồ Tát hạnh, dục lệnh an trụ nhất thiết trí địa; Như vi nhất chúng sanh, vi nhất thiết chúng sanh tất diệc như thị, nhi bất sanh bì yếm, thị vi đệ cửu vô đẳng trụ.
Ðại Bồ-Tát vì một chúng-sanh, trong bất-khả-thuyết kiếp thật hành hạnh Bồ-Tát, muốn cho chúng-sanh đó an-trụ bực nhứt-thiết-trí. Như vì một chúng-sanh, vì tất cả chúng-sanh cũng như vậy, mà chẳng nhàm mỏi. Ðây là vô-đẳng-trụ thứ chín.
Giảng: 9. Đại Bồ Tát vì tất cả chúng sinh, ở trong bất khả thuyết kiếp hành Bồ Tát hạnh, muốn khiến cho tất cả chúng sinh, an trụ bậc nhất thiết trí. Như vì một chúng sinh, vì tất cả chúng sinh, cũng đều như vậy, mà chẳng sinh tâm nhàm mỏi. Đó là pháp vô đẳng trụ thứ chín.
Bồ-Tát Ma-ha-tát tuy tu hành viên mãn, nhi bất chứng Bồ-đề. Hà dĩ cố? Bồ Tát tác như thị niệm: ngã chi sở tác bổn vi chúng sanh, thị cố ngã ưng cửu xứ sanh tử, phương tiện lợi ích, giai lệnh an trụ vô thượng Phật đạo. Thị vi đệ thập vô đẳng trụ.
Ðại Bồ-Tát dầu tu hành viên mãn mà chẳng chứng bồ-đề. Vì Bồ-Tát nghĩ rằng tôi tu hành vốn là vì chúng-sanh, thế nên tôi phải ở lâu nơi sanh tử phương-tiện làm lợi-ích cho họ đều an-trụ phật-đạo vô-thượng. Ðây là vô-đẳng-trụ thứ mười.
Giảng: 10. Đại Bồ Tát tuy tu hành đến trình độ viên mãn, nhưng chẳng chứng bồ đề. Tại sao ? Vì Bồ Tát nghĩ như vầy : Những việc làm của tôi, vốn là vì tất cả chúng sinh, bởi vậy tôi nên ở lâu trong sinh tử, làm đồng nghiệp với chúng sinh, phương tiện lợi ích tất cả chúng sinh, đều khiến cho họ an trụ Phật đạo vô thượng. Đó là pháp vô đẳng trụ thứ mười.
Phật tử! thị vi Bồ-Tát Ma-ha-tát thập chủng vô đẳng trụ. Nhược chư Bồ-tát an trụ kỳ trung, tức đắc vô thượng đại trí, nhất thiết Phật Pháp vô đẳng trụ.
Phật tử! Nếu chư Bồ-Tát an-trụ trong đây thời được đại-trí vô-thượng, tất cả phật-pháp vô-đẳng-trụ.
Giảng: Các vị Phật tử ! Đó là mười pháp vô đẳng trụ của đại Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được đại trí tất cả Phật pháp vô đẳng trụ vô thượng.
===============================
Thập Chủng Vô Hạ Liệt Tâm
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát phát thập chủng vô hạ liệt tâm. Hà đẳng vi thập?
Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát phát mười tâm chẳng hạ liệt. Những gì là mười ?
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát phát mười thứ tâm không hạ liệt. Những gì là mười ?
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát tác như thị niệm: ngã đương hàng phục nhất thiết thiên ma cập kỳ quyến thuộc. Thị vi đệ nhất vô hạ liệt tâm.
Phật tử ! Đại Bồ Tát nghĩ như vầy : Tôi sẽ hàng phục tất cả thiên ma và quyến thuộc của chúng. Đó là tâm không hạ liệt thứ nhất.
Giảng: 1. Đại Bồ Tát phải nghĩ như vầy : Tôi sẽ hàng phục tất cả thiên ma và quyến thuộc của chúng, khiến cho ma nam ma nữ cải ác hướng thiện, đừng có não hại người tu hành. Đó là tâm không hạ liệt thứ nhất.
Hựu tác thị niệm: ngã đương tất phá nhất thiết ngoại đạo cập kỳ tà pháp. Thị vi đệ nhị vô hạ liệt tâm.
Lại nghĩ như vầy : Tôi sẽ phá tất cả ngoại đạo và tà pháp của họ. Đó là tâm không hạ liệt thứ hai.
Giảng: 2. Bồ Tát lại nghĩ như vầy : Tôi sẽ phá tan tất cả ngoại đạo và tà thuyết của họ, tiêu diệt tà tri tà kiến dị luận của ngoại đạo. Đó là tâm không hạ liệt thứ hai.
Hựu tác thị niệm: ngã đương ư nhất thiết chúng sanh thiện ngôn khai dụ giai lệnh hoan hỉ. Thị vi đệ tam vô hạ liệt tâm.
Lại nghĩ như vầy : Tôi sẽ ở nơi tất cả chúng sinh khéo dùng lời khai thị ví dụ, đều khiến cho họ hoan hỉ. Đó là tâm không hạ liệt thứ ba.
Giảng: 3. Bồ Tát lại nghĩ như vầy : Tôi sẽ đối với tất cả chúng sinh, khéo dùng lời để khai thị, dùng ví dụ để khiến cho họ thấu rõ đạo lý, đều khiến cho họ sinh tâm đại hoan hỉ. Đó là tâm không hạ liệt thứ ba.
Hựu tác thị niệm: ngã đương thành mãn biến Pháp giới nhất thiết Ba-la-mật hạnh. Thị vi đệ tứ vô hạ liệt tâm.
Lại nghĩ như vầy : Tôi sẽ thành tựu viên mãn khắp pháp giới tất cả hạnh Ba la mật. Đó là tâm không hạ liệt thứ tư.
Giảng: 4. Bồ Tát lại nghĩ như vầy : Tôi sẽ thành tựu viên mãn khắp pháp giới tất cả hạnh Ba la mật. Đó là tâm không hạ liệt thứ tư.
Hựu tác thị niệm: ngã đương tích tập nhất thiết phước đức tạng Thị vi đệ ngũ vô hạ liệt tâm.
Lại nghĩ như vầy : Tôi sẽ tích tập tất cả phước đức tạng. Đó là tâm không hạ liệt thứ năm.
Giảng: 5. Bồ Tát lại nghĩ như vầy : Tôi sẽ tích tập tất cả phước đức tạng. Đó là tâm không hạ liệt thứ năm.
Hựu tác thị niệm: vô thượng Bồ-đề quảng đại nan thành, ngã đương tu hành tất lệnh viên mãn. Thị vi đệ lục vô hạ liệt tâm.
Lại nghĩ như vầy : Vô thượng bồ đề rộng lớn khó thành. Tôi sẽ tu hành, đều khiến cho viên mãn. Đó là tâm không hạ liệt thứ sáu.
Giảng: 6. Bồ Tát lại nghĩ như vầy : Vô thượng bồ đề rộng lớn vô biên, không dễ gì thành tựu được, tôi sẽ tu hành, đều khiến cho viên mãn. Đó là tâm không hạ liệt thứ sáu.
Hựu tác thị niệm: ngã đương dĩ vô thượng giáo hóa, vô thượng điều phục, giáo hóa điều phục nhất thiết chúng sanh. Thị vi đệ thất vô hạ liệt tâm.
Lại nghĩ như vầy : Tôi sẽ dùng vô thượng giáo hoá, vô thượng điều phục, để giáo hoá điều phục tất cả chúng sinh. Đó là tâm không hạ liệt thứ bảy.
Giảng: 7. Bồ Tát lại nghĩ như vầy : Tôi sẽ dùng vô thượng giáo hoá, để giáo hoá tất cả chúng sinh, dùng vô thượng điều phục, để điều phục tất cả chúng sinh. Đó là tâm không hạ liệt thứ bảy.
Hựu tác thị niệm: nhất thiết thế giới chủng chủng bất đồng, ngã đương dĩ vô lượng thân thành đẳng chánh giác. Thị vi đệ bát vô hạ liệt tâm.
Lại nghĩ như vầy : Tất cả thế giới đủ thứ sự khác nhau, tôi sẽ dùng vô lượng thân, thành Đẳng Chánh Giác. Đó là tâm không hạ liệt thứ tám.
Giảng: 8. Bồ Tát lại nghĩ như vầy : Mười phương tất cả thế giới, có đủ thứ sự khác nhau. Tôi sẽ dùng vô lượng thân, thành Chánh Đẳng Chánh Giác. Đó là tâm không hạ liệt thứ tám.
Hựu tác thị niệm: ngã tu Bồ Tát hạnh thời, nhược hữu chúng sanh lai tùng ngã khất thủ túc, nhĩ tỳ, huyết nhục, cốt tủy, thê tử, tượng mã nãi chí Vương vị, như thị nhất thiết tất giai năng xả, bất sanh nhất niệm ưu hối chi tâm, đãn vi lợi ích nhất thiết chúng sanh, bất cầu quả báo, dĩ đại bi vi thủ, đại từ cứu cánh. Thị vi đệ cửu vô hạ liệt tâm.
Lại nghĩ như vầy : Khi tôi tu hạnh Bồ Tát, nếu có chúng sinh đến chỗ tôi, xin tay chân tai mũi máu thịt xương cốt, vợ con voi ngựa, cho đến ngôi vua, tất cả như vậy, tôi đều xả được, không sinh một niệm tâm lo lắng hối tiếc, chỉ vì lợi ích tất cả chúng sinh, chẳng cầu quả báo. Dùng đại bi làm đầu, đại từ rốt ráo. Đó là tâm không hạ liệt thứ chín.
Giảng: 9. Bồ Tát lại nghĩ như vầy : Khi tôi tu hạnh Bồ Tát, nếu có chúng sinh đến chỗ tôi ở, xin tôi tay chân tai mũi máu thịt xương cốt, và vợ con, cùng voi ngựa, cho đến ngôi vua, tất cả nội tài và ngoại tài như vậy, tôi đều bố thí hết, tuyệt đối không sinh một niệm tâm lo lắng hối tiếc, chỉ biết vì lợi ích tất cả chúng sinh, chẳng cầu quả báo. Do đó có câu : Thi ân bất cầu báo. Dùng tâm đại bi làm đầu, dùng tâm đại từ rốt ráo. Đó là tâm không hạ liệt thứ chín.
Hựu tác thị niệm: tam thế sở hữu nhất thiết chư Phật, nhất thiết Phật Pháp, nhất thiết chúng sanh, nhất thiết quốc độ, nhất thiết thế gian, nhất thiết tam thế, nhất thiết hư không giới, nhất thiết pháp giới, nhất thiết ngữ ngôn thí thiết giới, nhất thiết tịch diệt Niết Bàn giới, như thị nhất thiết chủng chủng chư Pháp, ngã đương dĩ nhất niệm tướng ứng tuệ, tất tri tất giác, tất kiến tất chứng, tất tu tất đoạn
Lại nghĩ rằng: Tam thế có tất cả chư Phật, tất cả Phật pháp, tất cả chúng sanh, tất cả quốc độ, tất cả thế giới, tất cả tam thế, tất cả hư không giới, tất cả pháp giới, tất cả ngữ ngôn thi thiết giới, tất cả tịch diệt Niết bàn giới, tất cả pháp như vậy, tôi phải dùng một niệm tương ưng huệ đều biết, đều thấy, đều chứng, đều tu, đều đoạn.
Giảng: 10. Bồ Tát lại nghĩ như vầy : Mười phương ba đời hết thảy tất cả chư Phật, tất cả Phật pháp, tất cả chúng sinh, tất cả cõi nước, tất cả thế gian, tất cả ba đời, tất cả cõi hư không, tất cả pháp giới, tất cả cõi lời lẽ thi thiết, tất cả cõi Niết Bàn tịch diệt. Đủ thứ tất cả các pháp như vậy, tôi sẽ dùng một niệm trí huệ tương ưng, đều biết được, đều giác ngộ được, đều thấy được thể của tất cả các pháp, đều chứng được lý của tất cả các pháp, đều tu hành tất cả pháp môn, đều dứt trừ tất cả phiền não.
Nhiên ư kỳ trung vô phân biệt, ly phân biệt, vô chủng chủng vô sái biệt, vô công đức, vô cảnh giới, phi hữu phi vô, phi nhất phi nhị. Dĩ bất nhị trí tri nhất thiết nhị, dĩ vô tướng trí tri nhất thiết tướng, dĩ vô phân biệt trí tri nhất thiết phân biệt, dĩ vô dị trí tri nhất thiết dị, dĩ vô sái biệt trí tri nhất thiết sái biệt, dĩ vô thế gian trí tri nhất thiết thế gian, dĩ vô thế trí tri nhất thiết thế, dĩ vô chúng sanh trí tri nhất thiết chúng sanh, dĩ vô chấp trước trí tri nhất thiết chấp trước, dĩ vô trụ xứ trí tri nhất thiết trụ xứ, dĩ vô tạp nhiễm trí tri nhất thiết tạp nhiễm, dĩ vô tận trí tri nhất thiết tận, dĩ cứu cánh Pháp giới trí ư nhất thiết thế giới thị hiện thân, dĩ ly ngôn âm trí thị bất khả thuyết ngôn âm, dĩ nhất tự tánh trí nhập ư vô tự tánh, dĩ nhất cảnh giới trí hiện chủng chủng cảnh giới; tri nhất thiết pháp bất khả thuyết, nhi hiện đại tự tại ngôn thuyết, chứng nhất thiết trí địa; vi giáo hóa điều phục nhất thiết chúng sanh cố, ư nhất thiết thế gian thị hiện Đại thần thông biến hóa. Thị vi đệ thập vô hạ liệt tâm.
Nhưng ở trong đó vô phân biệt, lìa phân biệt, không các thứ sai biệt, không công đức, không cảnh giới, chẳng có chẳng không, chẳng một chẳng hai, do trí chẳng hai biết tất cả hai, do trí vô tướng biết tất cả tướng, do trí vô phân biệt biết tất cả phân biệt, do trí vô dị biết tất cả dị, do trí không sai biệt biết tất cả sai biệt, do trí không thế gian biết tất cả thế gian, do trí không thế biết tất cả thế, do trí không chúng sanh biết tất cả chúng sanh, do trí không chấp trước biết tất cả chấp trước, do trí vô trụ xứ biết tất cả trụ xứ, do trí không tạp nhiễm biết tất cả tạp nhiễm, do trí vô tận biết tất cả tận, do trí cứu cánh pháp giới biết tất cả thế giới thị hiện thân, do trí lìa ngôn âm thị hiện bất khả thuyết ngôn âm, do trí một tự tánh nhập nơi không tự tánh, do trí một cảnh giới hiện các thứ cảnh giới, biết tất cả pháp bất khả thuyết mà hiện đại tự tại ngôn thuyết, chứng bực nhứt thiết trí, vì giáo hóa điều phục tất cả chúng sanh nên ở nơi tất cả thế gian thị hiện đại thần thông biến hóa.
Giảng: Nhưng ở trong đó không có sự phân biệt, lìa khỏi sự phân biệt. Không có đủ thứ sự khác biệt, không công đức, không cảnh giới, chẳng có, chẳng không, chẳng một, chẳng hai. Dùng trí không hai, biết tất cả hai. Dùng trí vô tướng, biết tất cả tướng. Dùng trí không phân biệt, biết tất cả sự phân biệt. Dùng trí không khác, biết tất cả khác nhau. Dùng trí không khác biệt, biết tất cả sự khác biệt. Dùng trí không thế gian, biết tất cả thế gian. Dùng trí không đời, biết tất cả đời. Dùng trí không chúng sinh, biết tất cả chúng sinh. Dùng trí không chấp trước, biết tất cả sự chấp trước. Dùng trí không trụ xứ, biết tất cả trụ xứ. Dùng trí không tạp nhiễm, biết tất cả tạp nhiễm. Dùng trí vô tận, biết tất cả tận. Dùng trí rốt ráo pháp giới, nơi tất cả thế giới thị hiện thân. Dùng trí lìa tiếng nói, thị hiện bất khả thuyết tiếng nói. Dùng trí một tự tánh, vào nơi không tự tánh. Dùng trí một cảnh giới, hiện đủ thứ cảnh giới. Biết tất cả pháp không thể nói, mà hiện đại tự tại lời nói. Chứng bậc nhất thiết trí, vì giáo hoá điều phục tất cả chúng sinh, nơi tất cả thế gian, thị hiện đại thần thông biến hoá. Đó là tâm không hạ liệt thứ mười.
Phật tử! thị vi Bồ-Tát Ma-ha-tát phát thập chủng vô hạ liệt tâm. Nhược chư Bồ-tát an trụ thử tâm, tức đắc nhất thiết tối thượng vô hạ liệt Phật Pháp.
Chư Phật tử ! Ðây là mười tâm không hạ liệt của đại Bồ Tát phát. Nếu chư Bồ Tát an trụ tâm này thời được tất cả Phật pháp tối thượng không hạ liệt.
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đó là đại Bồ Tát phát mười thứ tâm không hạ liệt. Nếu các Bồ Tát an trụ tâm nầy, thì sẽ đắc được tất cả Phật pháp tối thượng không hạ liệt.
===============================
Thập Chủng Như Sơn Tăng Thượng Tâm
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát ư A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề, hữu thập chủng như sơn tăng thượng tâm. Hà đẳng vi thập?
Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát nơi Vô thượng Bồ đề có mười tâm tăng thượng như núi: Những gì là mười ?
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát đối với A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, có mười thứ tâm tăng thượng như núi. Những gì là mười ?
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát thường tác ý cần tu nhất thiết trí Pháp, thị vi đệ nhất như sơn tăng thượng tâm.
Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát thường tác ý siêng tu pháp nhứt thiết trí. Ðây là tâm tăng thượng như núi thứ nhứt.
Giảng: 1. Phật tử ! Đại Bồ Tát thường tác ý siêng tu tất cả pháp nhất thiết trí huệ. Đó là tâm tăng thượng như núi thứ nhất.
Hằng quán nhất thiết pháp bổn tánh không vô sở đắc, thị vi đệ nhị như sơn tăng thượng tâm.
Hằng quán sát tất cả pháp bổn tánh trống không vô sở đắc. Ðây là tâm tăng thượng như núi thứ hai.
Giảng: 2. Luôn luôn quán tất cả pháp tánh vốn không, chẳng chỗ đắc. Đó là tâm tăng thượng như núi thứ hai.
Nguyện ư vô lượng kiếp hành Bồ Tát hạnh, tu nhất thiết bạch tịnh Pháp, dĩ trụ nhất thiết bạch tịnh Pháp cố, tri kiến Như Lai vô lượng trí tuệ, thị vi đệ tam như sơn tăng thượng tâm.
Nguyện trong vô lượng kiếp thật hành hạnh Bồ Tát tu tất cả pháp bạch tịnh. Do trụ nơi tất cả pháp bạch tịnh nên thấy biết Như Lai vô lượng trí huệ. Ðây là tâm tăng thượng như núi thứ ba.
Giảng: 3. Phát nguyện ở trong vô lượng kiếp tu hành Bồ Tát hạnh, tu hành tất cả pháp trắng tịnh. Nhờ trụ tất cả pháp trắng tịnh, nên thấy biết vô lượng trí huệ của Như Lai. Đó là tâm tăng thượng như núi thứ ba.
Vi cầu nhất thiết Phật Pháp cố, đẳng tâm kính phụng chư thiện tri thức, vô dị hy cầu, vô đạo Pháp tâm, duy sanh tôn trọng, vị tằng hữu ý, nhất thiết sở hữu tất giai năng xả, thị vi đệ tứ như sơn tăng thượng tâm.
Vì cầu tất cả Phật pháp nên tâm bình đẳng kính thờ chư thiện tri thức, không trông cầu gì khác, không tâm trộm pháp, chỉ sanh lòng tôn trọng vị tằng hữu, tất cả sở hữu thảy đều bỏ được. Ðây là tâm tăng thượng như núi thứ tư.
Giảng: 4. Vì cầu tất cả Phật pháp, tâm bình đẳng kính thờ các thiện tri thức, không cầu mong gì khác, không có tâm trộm pháp, đến đâu cũng chân thật cầu pháp, chỉ sinh tâm tôn trọng Phật pháp, chưa từng có sinh tâm trộm pháp. Tất cả hết thảy nội tài và ngoại tài của mình, đều xả bỏ được cho tất cả chúng sinh, chẳng có tâm xẻn tiếc. Đó là tâm tăng thượng như núi thứ tư.
Nhược hữu chúng sanh mạ nhục, hủy báng, đả bổng, đồ cát, khổ kỳ hình thể, nãi chí đoạn mạng, như thị đẳng sự tất giai năng thọ, chung bất nhân thử sanh động loạn tâm, sanh sân hại tâm, diệc bất thoái xả đại bi hoằng thệ, cánh lệnh tăng trưởng vô hữu hưu tức. hà dĩ cố? Bồ Tát ư nhất thiết Pháp như thật xuất ly, xả thành tựu cố; chứng đắc nhất thiết chư Như Lai Pháp, nhẫn nhục nhu hòa dĩ tự tại cố. Thị vi đệ ngũ như sơn tăng thượng tâm.
Nếu có chúng sanh mắng nhục, hủy báng, đánh đập, cắt chém, làm thân hình Bồ Tát khổ đau nhẫn đến chết. Những sự trên đây Bồ Tát đều nhẫn chịu được, trọn không sanh lòng động loạn, lòng sân hại, cũng chẳng thối bỏ hoằng thệ đại bi, trái lại càng thêm tăng trưởng không thôi ngớt. Vì Bồ Tát nơi tất cả pháp như thiệt xuất ly, thành tựu hạnh xả, vì chứng được tất cả Phật pháp, nhẫn nhục nhu hòa đã tự tại. Ðây là tâm tăng thượng như núi thứ năm.
Giảng: 5. Nếu có chúng sinh, hoặc nhục mạ Bồ Tát, hoặc phỉ báng Bồ Tát, hoặc dùng cây đánh đập Bồ Tát, hoặc dùng đao cắt chém Bồ Tát, khiến cho thân thể Bồ Tát đau đớn đến cùng cực, cho đến mất mạng. Những cảnh giới như vậy, nghịch đến thuận thọ, đều chịu đựng được hết. Trọn không vì những việc đó mà sinh tâm cuồng loạn, sinh tâm sân hận, cũng chẳng thối bỏ đại bi hoằng thệ, chẳng những không thối chuyển, mà càng khiến cho tăng trưởng, không có khi nào ngừng nghỉ. Tại sao ? Vì Bồ Tát đối với tất cả pháp, như thật xuất ly, tức cũng là xả bỏ được tất cả các pháp, thành tựu được tất cả các pháp. Chứng được tất cả pháp của các Như Lai, lại có thể nhẫn nhục nhu hoà, vì đã được tự tại. Đó là tâm tăng thượng như núi thứ năm.
Bồ-Tát Ma-ha-tát thành tựu tăng thượng Đại công đức, sở vị: Thiên tăng thượng công đức, nhân tăng thượng công đức, sắc tăng thượng công đức, lực tăng thượng công đức, quyến thuộc tăng thượng công đức, dục tăng thượng công đức, Vương vị tăng thượng công đức, tự tại tăng thượng công đức, phước đức tăng thượng công đức, trí tuệ tăng thượng công đức. Tuy phục thành tựu như thị công đức, chung bất ư thử nhi sanh nhiễm trước, sở vị: bất trước vị, bất trước dục, bất trước tài phú, bất trước quyến thuộc;
Bồ Tát thành tựu đại công đức tăng thượng. Những là thiên tăng thượng công đức, nhơn tăng thượng công đức, sắc tăng thượng công đức, lực tăng thượng công đức, quyến thuộc tăng thượng công đức, dục tăng thượng công đức, vương vị tăng thượng công đức, tự tại tăng thượng công đức, phước đức tăng thượng công đức, trí huệ tăng thượng công đức. Dầu thành tựu những công đức như vậy, nhưng chẳng sanh lòng nhiễm trước nơi những công đức đó. Chẳng nhiễm trước mùi vị, chẳng nhiễm trước dục lạc, chẳng nhiễm trước của giàu, chẳng nhiễm trước quyến thuộc.
Giảng: 6. Đại Bồ Tát thành tựu tăng thượng đại công đức, tức là nói về tăng thượng căn lành công đức ở trên trời, tăng thượng căn lành công đức ở tại nhân gian, tăng thượng căn lành công đức sắc tướng, tăng thượng căn lành công đức sức lực. Quyến thuộc tăng thượng công đức. Dục tăng thượng công đức. Ngôi vua tăng thượng công đức. Tự tại tăng thượng công đức. Phước đức tăng thượng công đức. Trí huệ tăng thượng công đức. Tuy lại thành tựu công đức như vậy, nhưng trọn không sinh tâm nhiễm trước đối với những công đức đó. Như là : Không nhiễm trước vị thiền, không nhiễm trước dục lạc, không nhiễm trước tài sản, không nhiễm trước quyến thuộc.
Đãn thâm lạc Pháp, tùy pháp khứ, tùy pháp trụ, tùy pháp thú hướng, tùy pháp cứu cánh, dĩ pháp vi y, dĩ pháp vi cứu, dĩ pháp vi quy, dĩ pháp vi xá, thủ hộ Pháp, ái lạc Pháp, hy cầu Pháp, tư tánh Pháp. Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát tuy phục cụ thọ chủng chủng Pháp lạc, nhi thường viễn ly chúng ma cảnh giới. Hà dĩ cố? Bồ-Tát Ma-ha-tát ư quá khứ thế phát như thị tâm: ngã đương lệnh nhất thiết chúng sanh giai tất vĩnh ly chúng ma cảnh giới, trụ Phật cảnh giới cố. Thị vi đệ lục như sơn tăng thượng tâm.
Chỉ rất mến thích nơi pháp, đi theo pháp, đứng theo pháp, xu hướng theo pháp, rốt ráo theo pháp. Dùng pháp làm y chỉ, dùng pháp làm cứu hộ, dùng pháp làm quy y, dùng pháp làm nhà. Gìn giữ pháp, mến ưa pháp, trông cầu pháp, suy gẫm pháp. Dầu thọ đủ những pháp lạc mà thường xa lìa cảnh giới của chúng ma, vì từ quá khứ Bồ Tát phát tâm như vầy: Tôi sẽ làm cho tất cả chúng sanh thảy đều xa lìa cảnh giới của chúng ma mà an trụ nơi cảnh giới Phật. Ðây là tâm tăng thượng như núi thứ sáu.
Giảng: Chỉ ưa thích Phật pháp thâm sâu, pháp đi đến đâu thì theo pháp đến đó, pháp trụ ở đâu thì theo pháp trụ ở đó, pháp hướng về đâu thì theo hướng về đó, pháp rốt ráo ở đâu thì theo pháp rốt ráo ở đó. Dùng pháp làm chỗ nương tựa của mình, dùng pháp làm chỗ cứu tinh của mình, dùng pháp làm chỗ quy y của mình, dùng pháp làm nhà của mình, phải giữ gìn Phật pháp nầy, phải ưa thích Phật pháp nầy, phải mong cầu Phật pháp nầy, phải tư duy Phật pháp nầy. Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát tuy lại thọ đủ thứ pháp lạc, mà thường xa lìa các cảnh giới ma. Cảnh giới ma tức là hiện ra cảnh giới tốt, khiến cho bạn vui mừng mà quên tu hành. Tại sao vậy ? Vì đại Bồ Tát ở trong đời quá khứ, đã từng phát tâm nguyện như vầy : Tôi sẽ khiến cho tất cả chúng sinh, thảy đều vĩnh viễn xa lìa các cảnh giới ma, an ổn trụ nơi tất cả cảnh giới của chư Phật – Thường tịch quang tịnh độ. Đó là tâm tăng thượng như núi thứ sáu.
Bồ-Tát Ma-ha-tát vi cầu A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề, dĩ ư vô lượng a-tăng-kì kiếp hành Bồ Tát đạo tinh cần phỉ giải, do vị: ngã kim thủy phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm. hành Bồ Tát hạnh, diệc bất kinh, diệc bất bố, diệc bất úy. Tuy năng nhất niệm tức thành A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề, nhiên vi chúng sanh cố, ư vô lượng kiếp hành Bồ Tát hạnh vô hữu hưu tức, thị vi đệ thất như sơn tăng thượng tâm.
Ðại Bồ Tát vì đã cầu Vô thượng Bồ đề, trong vô lượng vô số kiếp thật hành đạo Bồ Tát siêng năng tinh tấn, mà còn cho là tôi nay mới phát tâm Vô thượng Bồ đề thật hành hạnh Bồ Tát, cũng chẳng kinh sợ. Dầu có thể khoảng một niệm liền thành Vô thượng Chánh Giác, nhưng vì chúng sanh nên trong vô lượng kiếp thật hành Bồ Tát hạnh không thôi nghỉ. Ðây là tâm tăng thượng như núi thứ bảy.
Giảng: 7. Đại Bồ Tát vì cầu A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, đã ở trong vô lượng A tăng kỳ kiếp, tu hành Bồ Tát đạo, rất tinh tấn không giải đãi, Bồ Tát nói rằng : Tôi hiện nay mới phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, kỳ thật Bồ Tát sớm đã phát tâm. Bồ Tát rất khiêm nhường nói : Tôi hiện tại mới hành Bồ Tát hạnh, cũng chẳng kinh tất cả pháp, cũng chẳng sợ tất cả pháp, cũng chẳng hãi tất cả pháp. Tuy có thể ở trong một niệm, liền thành tựu A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, nhưng vì muốn giáo hoá tất cả chúng sinh, mà ở trong vô lượng kiếp, vẫn tu hành Bồ Tát hạnh, không khi nào ngừng nghỉ. Đó là tâm tăng thượng như núi thứ bảy.
Bồ-Tát Ma-ha-tát tri nhất thiết chúng sanh tánh bất hòa thiện, nan điều nan độ, bất năng trai ân, bất năng báo ân, thị cố vi kỳ phát đại thệ nguyện, dục lệnh giai đắc tâm ý tự tại, sở hạnh vô ngại, xả ly ác niệm, bất ư tha sở sanh chư phiền não, thị vi đệ bát như sơn tăng thượng tâm.
Ðại Bồ Tát biết tất cả chúng sanh tánh chẳng hòa chẳng lành, khó điều khó độ, chẳng biết ơn chẳng báo ân. Thế nên Bồ Tát vì họ mà phát đại thệ nguyện, muốn cho họ đều được tâm ý tự tại, chỗ làm vô ngại, lìa bỏ ác niệm, chẳng sanh phiền não đối với người khác. Ðây là tâm tăng thượng như núi thứ tám.
Giảng: 8. Đại Bồ Tát biết tánh của tất cả chúng sinh, chẳng hoà khí và thân thiện, rất là cang cường, thật rất khó điều phục. Chúng sinh đó không thể biết ân, không thể báo ân. Bởi vậy cho nên Bồ Tát mới vì họ mà phát đại thệ nguyện, muốn khiến cho chúng sinh đó, đều được tâm ý tự tại, sở hành vô ngại, xả lìa hết những niệm ác, chẳng làm cho người khác sinh các phiền não. Đó là tâm tăng thượng như núi thứ tám.
Bồ-Tát Ma-ha-tát phục tác thị niệm: phi tha lệnh ngã phát Bồ-đề tâm, diệc bất đãi nhân trợ ngã tu hành. Ngã tự phát tâm, tập chư Phật Pháp, thệ kỳ tự miễn, tận vị lai kiếp hành Bồ Tát đạo, thành A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề. Thị cố ngã kim tu Bồ Tát hạnh, đương tịnh tự tâm diệc tịnh tha tâm, đương tri tự cảnh giới diệc tri tha cảnh giới, ngã đương tất dữ tam thế chư Phật cảnh giới bình đẳng. Thị vi đệ cửu như sơn tăng thượng tâm.
Ðại Bồ Tát lại nghĩ rằng: Chẳng phải ai khác khiến tôi phát tâm Bồ đề, cũng chẳng chờ người khác giúp tôi tu hành. Tôi tự phát tâm tích tập Phật pháp, thề hẹn tự cố gắng tột kiếp vị lai thật hành đạo Bồ Tát thành Vô thượng Bồ đề. Thế nên nay tôi tu hạnh Bồ Tát phải thanh tịnh tự tâm cũng thanh tịnh tha tâm, phải biết cảnh giới của mình cũng biết cảnh giới của người. Tôi phải đều bình đẳng với cảnh của tam thế chư Phật. Ðây là tâm tăng thượng như núi thứ chín.
Giảng: 9. Đại Bồ Tát lại nghĩ như vầy : Tôi phát bồ đề tâm, là do từ trong chân tâm phát ra, chứ chẳng phải bị người khác bắt buộc khiến cho tôi phát tâm bồ đề, cũng chẳng phải chờ người khác giúp tôi tu hành, là do tôi tự phát tâm tu hành đủ thứ căn lành, tích tập pháp lành tất cả Phật pháp. Tôi phát thệ tự hứa với lòng mình cố gắng, hết kiếp thuở vị lai, hành Bồ Tát đạo, thành tựu A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Bởi vậy cho nên nay tôi tu Bồ Tát hạnh, phải tịnh tâm ý mình, khiến cho trong tâm chẳng có vọng tưởng, cũng khiến cho người khác tâm thanh tịnh, cũng chẳng có tạp niệm. Tôi phải biết cảnh giới mình, cũng phải biết cảnh giới người khác. Tóm lại, biết mình là người như thế nào, cũng biết người khác ra sao. Tôi sẽ bình đẳng với cảnh giới của tất cả chư Phật mười phương ba đời. Đó là tâm tăng thượng như núi thứ chín.
Bồ-Tát Ma-ha-tát tác như thị quán: vô hữu nhất pháp tu Bồ Tát hạnh, vô hữu nhất pháp mãn Bồ Tát hạnh, vô hữu nhất pháp giáo hóa điều phục nhất thiết chúng sanh, vô hữu nhất pháp cúng dường cung kính nhất thiết chư Phật, vô hữu nhất pháp ư A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề dĩ thành, kim thành, đương thành, vô hữu nhất pháp dĩ thuyết, kim thuyết, đương thuyết, thuyết giả cập Pháp câu bất khả đắc, nhi diệc bất xả A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề nguyện.
Đại Bồ Tát quán sát như vầy : Không có một pháp nào tu Bồ Tát hạnh, không có một pháp nào viên mãn Bồ Tát hạnh, không có một pháp nào giáo hoá điều phục tất cả chúng sinh, không có một pháp nào cúng dường cung kính tất cả chư Phật. Không có một pháp nào ở nơi A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, đã thành, đang thành, sẽ thành. Không có một pháp nào đã nói, đang nói, sẽ nói. Người nói và pháp đều bất khả đắc, mà cũng không bỏ A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.
Giảng: 10. Đại Bồ Tát lại quán sát như vầy : Chẳng phải dùng một pháp để tu Bồ Tát hạnh, phải dùng rất nhiều thứ pháp để tu Bồ Tát hạnh, tức cũng là phải dùng pháp môn lục độ vạn hạnh để tu hành, mới có thể viên mãn thành tựu Bồ Tát hạnh. Chẳng có một pháp nào có thể viên mãn Bồ Tát hạnh, phải dùng đủ thứ pháp để viên mãn Bồ Tát hạnh. Chẳng có một pháp nào có thể giáo hoá điều phục tất cả chúng sinh, phải dùng đủ thứ pháp môn phương tiện khéo léo, để giáo hoá điều phục. Tuy giáo hoá tất cả chúng sinh, điều phục tất cả chúng sinh, nhưng không chấp trước. Chẳng có một pháp nào có thể cúng dường cung kính tất cả chư Phật, phải dùng đủ thứ pháp để cúng dường cung kính tất cả chư Phật. Chẳng có một pháp nào có thể đối với A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, đã thành tựu, đang thành tựu, sẽ thành tựu. Chẳng có một pháp nào đã nói, đang nói, sẽ nói. Người nói và pháp đều bất khả đắc, nhưng cũng không bỏ A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.
Hà dĩ cố? Bồ Tát cầu nhất thiết pháp giai vô sở đắc, như thị xuất sanh A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề. thị cố, ư Pháp tuy vô sở đắc, nhi cần tu tập tăng thượng thiện nghiệp, thanh tịnh đối trì, trí tuệ viên mãn, niệm niệm tăng trưởng, nhất thiết cụ túc. Kỳ tâm ư thử bất kinh bất bố, bất tác thị niệm: nhược nhất thiết pháp giai tất tịch diệt, ngã hữu hà nghĩa cầu ư vô thượng Bồ-đề chi đạo? thị vi đệ thập như sơn tăng thượng tâm.
Tại sao vậy ? Vì Bồ Tát cầu tất cầu tất cả pháp đều vô sở đắc, như vậy xuất sanh Vô thượng Bồ đề. Thế nên nơi pháp dầu vô sở đắc mà siêng tu tập pháp đối trị tăng thượng thiện nghiệp thanh tịnh, trí huệ viên mản niệm niệm tăng trưởng tất cả đầy đủ. Nơi đây lòng Bồ Tát chẳng kinh sợ. Chẳng nghỉ rằng: nêú tất cả pháp thảy đều tịch diệt thời tôi có nghỉa gì mà cầu đạo Vô thượng Bồ đề. Ðây là tâm tăng thượng Bồ đề. Ðây là tâm tăng thượng như núi thứ mười.
Giảng: Tại sao vậy ? Vì Bồ Tát cầu tất cả pháp, đều không chỗ đắc, như vậy mới sinh ra A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Bởi vậy cho nên đối với tất cả pháp, tuy không chỗ đắc, mà Bồ Tát vẫn siêng tu tập tăng thượng nghiệp lành, thanh tịnh đối trị, trí huệ đã đến được cảnh giới viên mãn. Ở trong niệm niệm đều tăng trưởng, tất cả pháp đều đầy đủ chẳng thiếu. Tâm Bồ Tát đối với pháp nầy, không kinh hãi không sợ sệt. Bồ Tát tuyệt đối chẳng nghĩ rằng : Nếu tất cả pháp thảy đều tịch diệt, thì tôi cầu đạo vô thượng bồ đề còn có ý nghĩa gì. Đó là tâm tăng thượng như núi thứ mười.
Phật tử! thị vi Bồ-Tát Ma-ha-tát ư A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề thập chủng như sơn tăng thượng tâm. Nhược chư Bồ-tát an trụ kỳ trung, tức đắc Như Lai vô thượng Đại trí sơn Vương tăng thượng tâm.
Phật tử ! Đó là mười thứ tâm tăng thượng như núi của Bồ Tát nơi A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Nếu các Bồ Tát an trụ trong đó, thì sẽ đắc được tâm tăng thượng như núi đại trí huệ vô thượng của Như Lai.
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đó là mười thứ tâm tăng thượng như núi của Bồ Tát nơi A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp đó, thì sẽ đắc được tâm tăng thượng như núi đại trí huệ vô thượng của Như Lai.
======================================
Thập Trí Như Biển Nhập Vô thượng Bồ đề
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng nhập A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề như hải trí. Hà đẳng vi thập? sở vị:
Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười trí như biển nhập Vô thượng Bồ đề. Những gì là mười ? Đó là:
Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ trí như biển vào A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Những gì là mười ? Đó là :
Nhập nhất thiết vô lượng chúng sanh giới, thị vi đệ nhất như hải trí.
Trí như biển nhập tất cả vô lượng chúng sanh giới, đó là trí huệ như biển thứ nhất.
Giảng: 1. Bồ Tát vào tất cả vô lượng cõi chúng sinh, đó là trí huệ như biển thứ nhất.
Nhập nhất thiết thế giới nhi bất khởi phân biệt, thị vi đệ nhị như hải trí.
Trí như biển nhập tất cả thế giới mà chẳng sanh tâm phân biệt, đó là trí huệ như biển thứ hai.
Giảng: 2. Bồ Tát vào tất cả thế giới mà chẳng khởi phân biệt, đó là trí huệ như biển thứ hai.
Tri nhất thiết hư không giới vô lượng vô ngại, phổ nhập thập phương nhất thiết sái biệt thế giới võng, thị vi đệ tam như hải trí
Trí như biển biết tất cả hư không giới vô lượng vô ngại vào khắp lưới tất cả thế giới sai biệt ở mười phương, đó là trí huệ như biển thứ ba.
Giảng: 3. Bồ Tát biết tất cả cõi hư không đều là vô lượng vô ngại, vào khắp mười phương tất cả lưới thế giới khác biệt, đó là trí huệ như biển thứ ba.
Bồ-Tát Ma-ha-tát thiện nhập Pháp giới, sở vị: vô ngại nhập, bất đoạn nhập, bất thường nhập, vô lượng nhập, bất sanh nhập, bất diệt nhập, nhất thiết nhập, tất liễu tri cố, thị vi đệ tứ như hải trí.
Trí như biển khéo nhập pháp giới. Những là nhập vô ngại, nhập chẳng đoạn, nhập chẳng thường, nhập vô lượng, nhập chẳng sanh, nhập chẳng diệt, nhập tất cả, vì đều biết rõ vậy, đó là trí huệ như biển thứ tư.
Giảng: 4. Đại Bồ Tát khéo vào khắp pháp giới, đó là : Vào tất cả pháp giới không chướng ngại, vào tất cả pháp giới không dứt, vào tất cả pháp giới chẳng thường, vào tất cả pháp giới không có số lượng. Lại vào chẳng sinh, lại vào chẳng diệt, vào tất cả, vì Bồ Tát đều biết rõ. Đó là trí huệ như biển thứ tư.
Bồ-Tát Ma-ha-tát ư quá khứ, vị lai, hiện tại chư Phật, Bồ Tát, Pháp sư, thanh văn, độc giác cập nhất thiết phàm phu sở tập thiện căn dĩ tập, hiện tập, đương tập, tam thế chư Phật ư A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề dĩ thành, kim thành, đương thành sở hữu thiện căn, tam thế chư Phật thuyết Pháp điều phục nhất thiết chúng sanh dĩ thuyết, kim thuyết, đương thuyết sở hữu thiện căn, ư bỉ nhất thiết giai tất liễu tri, thâm tín tùy hỉ, nguyện lạc tu tập, vô hữu yếm túc, thị vi đệ ngũ như hải trí.
Trí như biển nơi quá khứ vị lai hiện tại chư Phật, Bồ Tát, Pháp Sư, Thanh Văn, Ðộc Giác và tất cả phàm phu chứa nhóm thiện căn, đã nhóm, sẽ nhóm, tam thế chư Phật đã thành, nay thành và sẽ thànhVô thượng Bồ đề, tam thế chư Phật thuyết pháp điều phục tất cả chúng sanh, đã nói, nay nói, sẽ nói. Có bao nhiêu thiện căn, Bồ Tát đều rõ biết tất cả, thâm tín tùy hỉ, nguyện thích tu tập không nhàm đủ, đó là trí huệ như biển thứ năm.
Giảng: 5. Đại Bồ Tát ở trong quá khứ, vị lai, hiện tại, nơi chư Phật Bồ Tát, pháp sư, Thanh Văn, Độc Giác, và tất cả phàm phu tích tập căn lành, đã tích tập, đang tích tập, sẽ tích tập. Mười phương ba đời tất cả chư Phật, nơi A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, đã thành tựu, đang thành tựu, sẽ thành tựu, hết thảy căn lành. Ba đời chư Phật thuyết pháp, điều phục tất cả chúng sinh, đã nói, đang nói, sẽ nói, hết thảy căn lành. Đối với tất cả hết thảy chư Phật, Bồ Tát thảy đều biết rõ, đều tin sâu tuỳ hỷ, nguyện thích tu tập, không khi nào nhàm đủ. Đó là trí huệ như biển thứ năm.
Bồ-Tát Ma-ha-tát ư niệm niệm trung nhập quá khứ thế bất khả thuyết kiếp, ư nhất kiếp trung, hoặc bách ức Phật xuất thế, hoặc thiên ức Phật xuất thế, hoặc bách thiên ức Phật xuất thế, hoặc vô số, hoặc vô lượng, hoặc vô biên, hoặc vô đẳng, hoặc bất khả số, hoặc bất khả xưng, hoặc bất khả tư, hoặc bất khả lượng, hoặc bất khả thuyết, hoặc bất khả thuyết bất khả thuyết, siêu quá toán số chư Phật Thế tôn xuất hưng vu thế, cập bỉ chư Phật đạo tràng chúng hội Thanh văn, Bồ-tát thuyết Pháp điều phục, nhất thiết chúng sanh thọ mạng duyên xúc, pháp trụ cửu cận, như thị nhất thiết tất giai minh kiến; như nhất kiếp, nhất thiết chư kiếp giai diệc như thị.
Trí như biển trong mỗi niệm nhập quá khứ thế bất khả thuyết kiếp. Ở trong một kiếp hoặc có trăm ức Phật xuất thế, hoặc có ngàn ức Phật xuất thế, hoặc trăm ngàn ức Phật xuất thế, hoặc có vô số, hoặc vô lượng, hoặc vô biên, hoặc vô đẳng, hoặc bất khả sổ, hoặc bất khả xưng, hoặc bất khả tư, hoặc bất khả lượng, hoặc bất khả thuyết, hoặc bất khả thuyết bất khả thuyết, siêu quá toán số chư Phật Thế Tôn xuất hiện ra đời. Và đạo tràng, chúng hội Thanh Văn, Bồ Tát, thuyết pháp điều phục tất cả chúng sanh, thọ mạng dài vắn, pháp trụ lâu mau. Tất cả như vậy thảy đều thấy rõ. Như một kiếp, tất cả các kiếp cũng đều thấy rõ như vậy.
Giảng: 6. Đại Bồ Tát ở trong niệm niệm, vào đời quá khứ bất khả thuyết kiếp. Ở trong tất cả kiếp, hoặc có trăm ức Phật ra đời, hoặc có ngàn ức Phật ra đời, hoặc có trăm ngàn ức Phật ra đời, hoặc có vô số, vô lượng, vô biên, vô đẳng, bất khả số, bất khả xưng, bất khả tư, bất khả lượng, bất khả thuyết, bất khả thuyết bất khả thuyết, vượt qua toán số chư Phật Thế Tôn xuất hiện ra đời, và đạo tràng chúng hội Thanh Văn Bồ Tát của chư Phật đó, thuyết pháp điều phục tất cả chúng sinh, thọ mạng dài, hoặc ngắn, pháp trụ lâu mau, tất cả tình hình như vậy, Bồ Tát thảy đều thấy rõ. Như một kiếp, tất cả các kiếp, cũng đều như vậy.
Kỳ vô Phật kiếp sở hữu chúng sanh, hữu ư A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề chủng chư thiện căn, diệc tất liễu tri; nhược hữu chúng sanh thiện căn thục dĩ, ư vị lai thế đương đắc kiến Phật, diệc tất liễu tri. Như thị quan sát quá khứ thế bất khả thuyết bất khả thuyết kiếp, tâm Vô yếm túc, thị vi đệ lục như hải trí.
Những kiếp không Phật, có những chúng sanh gieo căn lành nơi Vô thượng Bồ đề cũng đều biết rõ. Nếu có chúng sanh thiện căn đã thành thục nơi đời vị lai sẽ được thấy Phật cũng đều biết rõ. Quán sát quá khứ thế bất khả thuyết bất khả thuyết kiếp như vậy tâm không nhàm đủ. Đó là trí như biển thứ sáu.
Giảng: Hết thảy chúng sinh trong những kiếp không có Phật, có gieo trồng các căn lành nơi A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, Bồ Tát cũng đều biết rõ. Nếu có chúng sinh căn lành đã thành thục, ở đời vị lai sẽ được thấy Phật, Bồ Tát cũng đều biết rõ. Quán sát đời quá khứ bất khả thuyết bất khả thuyết kiếp như vậy, tâm Bồ Tát không nhàm đủ. Đó là trí huệ như biển thứ sáu.
Bồ-Tát Ma-ha-tát nhập vị lai thế, quan sát phân biệt nhất thiết chư kiếp vô lượng vô biên, tri hà kiếp hữu Phật, hà kiếp vô Phật, hà kiếp hữu kỷ Như Lai xuất thế, nhất nhất Như Lai danh hiệu Hà đẳng, trụ hà thế giới, thế giới danh hà, độ kỷ chúng sanh, thọ mạng kỷ thời. Như thị quan sát, tận vị lai tế giai tất liễu tri, bất khả cùng tận nhi Vô yếm túc, thị vi đệ thất như hải trí.
Trí như biển nhập vị lai thế quán sát tất cả kiếp vô lượng vô biên, biết kiếp nào có Phật, kiếp nào không Phật, kiếp nào có bao nhiêu Như Lai xuất thế. Mỗi Như lai danh hiệu gì, ở thế giới nào, thế giới tên gì, độ bao nhiêu chúng sanh, thọ mạng bao nhiêu thời gian. Quán sát như vậy tột vị lai tế đều biết rõ tất cả chẳng cùng tận mà không nhàm đủ. Đó là trí huệ như biển thứ bảy.
Giảng: 7. Đại Bồ Tát vào đời vị lai, quán sát phân biệt tất cả các kiếp, nhiều vô lượng vô biên. Bồ Tát biết kiếp nào có Phật, kiếp nào không có Phật, kiếp nào có bao nhiêu vị Phật ra đời. Mỗi vị Phật danh hiệu như thế nào ? Trụ ở thế giới nào ? Thế giới tên là gì ? Độ được bao nhiêu chúng sinh ? Thọ mạng dài bao lâu ? Bồ Tát quán sát như vậy, hết thuở vị lai, thảy đều biết rõ, không thể cùng tận, không khi nào nhàm đủ. Đó là trí huệ như biển thứ bảy.
Bồ-Tát Ma-ha-tát nhập hiện tại thế quan sát tư tánh, ư niệm niệm trung phổ kiến thập phương vô biên phẩm loại bất khả thuyết thế giới, giai hữu chư Phật ư vô thượng Bồ-đề dĩ thành, kim thành, đương thành, vãng nghệ đạo tràng Bồ-đề thụ hạ, tọa cát tường thảo, hàng phục ma quân, thành A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề; tòng thử khởi dĩ, nhập ư thành ấp, thăng Thiên cung điện, thuyết vi diệu Pháp, chuyển Đại Pháp luân, thị hiện thần thông, điều phục chúng sanh, nãi chí phó chúc A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề Pháp, xả ư thọ mạng, nhập Bát Niết Bàn; nhập Niết Bàn dĩ, kiết tập pháp tạng lệnh cửu trụ thế, trang nghiêm Phật tháp chủng chủng cúng dường. Diệc kiến bỉ thế giới sở hữu chúng sanh, trị Phật văn Pháp, thọ trì phúng tụng, ức niệm tư tánh, tăng trưởng tuệ giải. Như thị quan sát phổ biến thập phương, nhi ư Phật Pháp vô hữu thác mậu.
Trí như biển nhập hiện tại thế quán sát tư duy. Trong mỗi niệm thấy khắp vô biên phẩm loại mười phương. Nơi bất khả thuyết thế giới đều có chư Phật nơi Vô thượng Bồ đề đã thành, nay thành, sẽ thành, đi đến đạo tràng dưới cây Bồ đề, ngồi trên cỏ kiết tường hàng phục ma quân, thành Ðẳng Chánh giác. Rời cây Bồ đề vào thành ấp, lên cung trời chuyển đại pháp luân, thị hiện thần thông điều phục chúng sanh, nhẫn đến phó chúc Vô thượng Bồ đề, xả thọ mạng nhập niết bàn. Ðã nhập Niết bàn kiết tập pháp tạng khiến còn ở lâu tại thế gian. Trang nghiêm Phật pháp nhiều thứ cúng dường. Cũng thấy thế giới kia, tất cả chúng sanh gặp Phật, nghe pháp, thọ trìn cúng tụng nghi nhớ tư duy tăng trưởng huệ giải. Quán sát cùng khắp mười phương, mà ở nơi Phật pháp không sai lầm.
Giảng: 8. Đại Bồ Tát vào đời hiện tại, quán sát tư duy. Ở trong niệm niệm, thấy khắp mười phương vô biên phẩm loại, bất khả thuyết thế giới, đều có chư Phật. Nơi vô thượng bồ đề, đã thành tựu, đang thành tựu, sẽ thành tựu. Đi đến đạo tràng, ở dưới cội bồ đề, ngồi trên toà cỏ cát tường, hàng phục tất cả ma quân, thành tựu A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Thành Phật rồi, từ toà cỏ cát tường đứng dậy, đi vào thành thị và thôn ấp, lại thăng lên cung điện trời, nói pháp vi diệu, chuyển bánh xe pháp lớn, thị hiện thần thông, điều phục chúng sinh, cho đến phó chúc pháp A nậu đa la tam miệu tam bồ đề cho đệ tử của Phật. Phật xả bỏ thọ mạng, vào Bát Niết Bàn. Vào Niết Bàn rồi, các đệ tử kết tập pháp tạng, khiến cho pháp vĩnh viễn trụ lâu ở thế gian. Lại kiến tạo bảo tháp trang nghiêm, dùng đủ thứ hương hoa để cúng dường. Lại thấy hết thảy chúng sinh ở những thế giới đó, gặp Phật nghe pháp, thọ trì tất cả Phật pháp, đọc tụng tất cả Phật pháp, nghĩ nhớ tất cả Phật pháp, tư duy tất cả Phật pháp, tăng trưởng tất cả Phật pháp, huệ hiểu hết thảy Phật pháp. Quán sát như vậy, khắp cùng mười phương, mà đối với Phật pháp không có chỗ sai lầm nào.
Hà dĩ cố? Bồ-Tát Ma-ha-tát liễu tri chư Phật giai tất như mộng, nhi năng vãng nghệ nhất thiết Phật sở cung kính cúng dường. Bồ Tát nhĩ thời, bất trước tự thân, bất trước chư Phật, bất trước thế giới, bất trước chúng hội, bất trước thuyết Pháp, bất trước kiếp số, nhiên kiến Phật văn pháp, quan sát thế giới, nhập chư kiếp số, vô hữu yếm túc, thị vi đệ bát như hải trí.
Vì sao vậy? Bồ tát biết rõ chư Phật thảy đều như mộng, mà hay đến chỗ chư Phật cung kính cúng dường. Bấy giờ Bồ Tát chẳng chấp tự thân, chẳng chấp nơi Phật, chẳng chấp thế giới, chẳng chấp chúng hội, chẳng chấp thuyết pháp, chẳng chấp kiếp số, nhưng vẫn thấy Phật, nghe Pháp, giám sát thế giới vào các kiếp số không nhàn đủ. Đó là trí huệ như biển thứ tám.
Giảng: Tại sao vậy? Vì đại Bồ Tát đã biết chư Phật thảy đều như mộng như huyễn, mà hay đi đến đạo tràng của tất cả chư Phật, cung kính chư Phật, cúng dường chư Phật. Lúc đó, Bồ Tát chẳng chấp vào thân tướng của mình, cũng chẳng chấp vào chư Phật, cũng chẳng chấp vào tất cả thế giới, cũng chẳng chấp vào chúng hội, cũng chẳng chấp vào thuyết pháp, cũng chẳng chấp vào kiếp số. Tuy không chấp trước vào tất cả, nhưng thấy Phật nghe pháp, quán sát thế giới, vào các kiếp số, không có nhàm đủ. Đó là trí huệ như biển thứ tám.
Bồ-Tát Ma-ha-tát ư bất khả thuyết bất khả thuyết kiếp nhất nhất kiếp trung, cúng dường cung kính bất khả thuyết bất khả thuyết vô lượng chư Phật, thị hiện tự thân một thử sanh bỉ, dĩ xuất qua tam giới nhất thiết cung cụ nhi vi cúng dường, tinh cập cúng dường Bồ Tát, Thanh văn, nhất thiết Đại chúng; nhất nhất Như Lai bát niết bàn hậu, giai dĩ vô thượng cung cụ cúng dường xá lợi, cập quảng hành huệ thí mãn túc chúng sanh.
Trí như biển nơi bất khả, bất khả thuyết kiếp, trong mỗi mỗi kiếp cúng dường cung kính bất khả thuyết bất khả kiếp vô lượng chư Phật, thị hiện tự thân mất đây sanh kia, đem tất cả đồ cúng hơn hẳn tam giới để cúng dường Phật, cúng dường Bồ tát, Thanh Văn, tất cả đại chúng. Sau khi mỗi đức như lai nhập Niết bàn, Bồ tát đều dùng đồ cúng vô thượng để cúng dường Xá lợi và rộng làm sự bố thí để chúng sanh được đầy đủ.
Giảng: 9. Đại Bồ Tát ở nơi bất khả thuyết bất khả thuyết kiếp, trong mỗi mỗi kiếp, cúng dường cung kính bất khả thuyết bất khả thuyết vô lượng chư Phật. Thị hiện thân mình, chết ở đây, lại sinh về bên kia. Dùng tất cả đồ cúng dường hơn hẳn ba cõi để cúng dường chư Phật, và cúng dường Bồ Tát cùng Thanh Văn với tất cả đại chúng. Mỗi một vị Phật vào Bát Niết Bàn rồi, đều dùng đồ cúng vô thượng để cúng dường xá lợi Phật, và rộng tu hành bố thí để chúng sinh đầy đủ sự nhu cầu.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát dĩ ất khả tư nghị tâm, bất cầu báo tâm, cứu cánh tâm, nhiêu ích tâm, ư bất khả thuyết bất khả thuyết kiếp, vi A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề cố, cúng dường chư Phật, nhiêu ích chúng sanh, hộ trì chánh pháp, khai thị diễn thuyết, thị vi đệ cửu như hải trí.
Ðại Bồ Tát dùng tâm bất tư nghì, tâm chẳng cầu báo, tâm rốt ráo, tâm nhiêu ích, trong bất khả thuyết bất khả thuyết kiếp vì Vô thượng Bồ đề mà cúng dường chư Phật, lợi ích chúng sanh, hộ trì chánh pháp khai thị diễn thuyết. Đó là trí huệ như biển thứ chín.
Giảng: Phật tử ! Đại Bồ Tát dùng tâm không thể nghĩ bàn, tâm không cầu báo đáp, tâm rốt ráo bố thí, tâm lợi ích chúng sinh, trong bất khả thuyết bất khả thuyết kiếp, vì A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, mà cúng dường chư Phật, lợi ích chúng sinh, hộ trì chánh pháp, khai thị diễn nói. Đó là trí huệ như biển thứ chín.
Bồ-Tát Ma-ha-tát ư nhất thiết Phật sở, nhất thiết Bồ Tát sở, nhất thiết pháp sư sở, nhất hướng chuyên cầu Bồ Tát sở thuyết pháp, Bồ Tát sở học Pháp, Bồ Tát sở giáo Pháp, Bồ Tát tu hành Pháp, Bồ Tát thanh tịnh Pháp, bồ tát thành thục Pháp, Bồ Tát điều phục Pháp, Bồ Tát bình đẳng pháp, Bồ Tát xuất ly Pháp, Bồ Tát tổng Trì Pháp; đắc thử pháp dĩ, thọ trì đọc tụng, phân biệt giải thuyết, vô hữu yếm túc; lệnh vô lượng chúng sanh, ư Phật Pháp trung, phát nhất thiết trí tướng ứng tâm, nhập chân thật tướng, ư A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề đắc Bất-thoái-chuyển. Bồ Tát như thị ư bất khả thuyết bất khả thuyết kiếp vô hữu yếm túc, thị vi đệ thập như hải trí.
Trí như biển ngay chỗ của tất cả Phật, chỗ của tất cả Bồ Tát, chỗ của tất cả Pháp Sư, nhứt hướng chuyên cầu Pháp của Bồ Tát đã thuyết, Pháp của Bồ Tát đã học, Pháp của Bồ Tát đã dạy, Pháp của Bồ Tát tu hành, Pháp của Bồ Tát thanh tịnh, Pháp của Bồ Tát thành phục, Pháp của Bồ Tát điều phục, Pháp bình đẳng của Bồ Tát, Pháp xuất ly của Bồ Tát, Pháp tổng trì của Bồ Tát. Ðược Pháp này rồi, Bồ Tát thọ trì đọc tụng phân biệt giải thuyết không nhàm đủ, trí vô lượng chúng sanh trong Phật Pháp phát tâm tương ứng với nhứt thuyết trí nhập tướng chơn thiệt. Nơi vô thượng Bồ Ðề được bất hối chuyển. Như vậy trong bất khả thuyết bất khả thuyết kiếp không nhàm đủ. Đó là trí như biển thứ mười.
Giảng: 10. Đại Bồ Tát ở chỗ đạo tràng của tất cả chư Phật, ở chỗ đạo tràng của tất cả Bồ Tát, ở chỗ đạo tràng của tất cả Pháp sư, một lòng chuyên cầu pháp của Bồ Tát nói, pháp của Bồ Tát học, pháp của Bồ Tát dạy, pháp của Bồ Tát tu hành, pháp thanh tịnh của Bồ Tát, pháp thành thục của Bồ Tát, pháp điều phục của Bồ Tát, pháp bình đẳng của Bồ Tát, pháp xuất ly của Bồ Tát, pháp tổng trì của Bồ Tát. Bồ Tát đắc được tất cả pháp đó rồi, tự mình thọ trì đọc tụng, vì chúng sinh phân biệt giải nói, không khi nào nhàm đủ, khiến cho vô lượng chúng sinh ở trong Phật pháp, phát tâm nhất thiết trí tương ưng, vào tướng chân thật, được không thối chuyển nơi A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Bồ Tát ở trong bất khả thuyết bất khả thuyết kiếp không nhàm đủ như vậy. Đó là trí như biển thứ mười.
Phật tử! thị vi Bồ-Tát Ma-ha-tát thập chủng nhập A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề như hải trí. Nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức đắc nhất thiết chư Phật vô thượng Đại trí tuệ hải.
Chư Phật tử ! Ðây là mười trí như biển nhặt vô thượng Bồ đề của đại Bồ tát. nếu chư Bồ Tát an trụ Pháp này thì được biển đại trí huệ vô thượng của tất cả chư Phật.
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đó là mười thứ pháp trí huệ như biển vào A nậu đa la tam miệu tam bồ đề của đại Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được biển đại trí huệ vô thượng của tất cả chư Phật.
Ở trên là ba trăm câu trả lời của Bồ Tát Phổ Hiền, trả lời ba mươi câu hỏi của Bồ Tát Phổ Huệ hỏi về thập hạnh, vì hỏi một đáp mười vậy.
========================================
TRẢ LỜI PHÁP THẬP HỒI HƯỚNG
— o0o —
Thập Chủng Như Bảo Trụ
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát ư A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề, hữu thập chủng như bảo trụ. Hà đẳng vi thập?
Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát nơi vô thượng Bồ đề có mười thứ như thiệt trụ. Những gì là mười ? Đó là:
Giảng: Bồ Tát Phổ Hiền lại gọi một tiếng, các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát nơi A nậu đa la tam miệu tam bồ đề (Vô Thượng Chánh Dẳng Chánh Giác), có mười thứ trụ như thật. Những gì là mười ?
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát tất năng vãng nghệ vô số thế giới chư Như Lai sở, chiêm cận đảnh lễ, thừa sự cúng dường, thị vi đệ nhất như bảo trụ.
Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát đều có thể qua đến chỗ chư Phật nơi vô số thế giới, chiêm ngưỡng đảnh lễ hầu hạ cúng dường. Ðây là như thiệt trụ thứ nhất.
Giảng: 1. Phật tử ! Đại Bồ Tát đều có thể đi đến vô số thế giới, chỗ đạo tràng của chư Phật Như Lai, chiêm ngưỡng chư Phật, đảnh lễ chư Phật, thừa sự chư Phật, cúng dường chư Phật. Đó là trụ như thật thứ nhất.
Ư bất tư nghị chư Như Lai sở, thính văn chánh pháp, thọ trì ức niệm, bất lệnh vong thất, phân biệt tư tánh, giác tuệ tăng trưởng, như thị sở tác sung mãn thập phương, thị vi đệ nhị như bảo trụ.
Ở chỗ của Bất tư nghì chư Phật lắng nghe chánh pháp thọ trì nghi nhớ không để quên mất, phân biệt tư duy giác huệ tăng trưởng. Việc làm như vậy tràn đầy mười phương đây là như thiệt trụ thứ hai.
Giảng: 2. Trong bất khả tư nghì đạo tràng của các đức Như Lai, lắng nghe chánh pháp của chư Phật nói, thọ trì Phật pháp, nghĩ nhớ Phật pháp, chẳng khiến cho Phật pháp quên mất, suy gẫm phân biệt, giác huệ tăng trưởng, làm như vậy, khắp cùng mười phương. Đó là trụ như thật thứ hai.
Ư thử sát một, dư xứ hiện sanh, nhi ư Phật Pháp vô sở mê hoặc, thị vi đệ tam như bảo trụ.
Nơi cõi này mất, thị hiện xứ khác, mà với Phật Pháp không mê hoặc. Ðây là như thiệt trụ thứ ba.
Giảng: 3. Ở nơi cõi nầy chết, ở nơi kia thị hiện thọ sinh, mà đối với Phật pháp không có sự mê hoặc. Đó là trụ như thật thứ ba.
Tri tùng nhất pháp xuất nhất thiết pháp, nhi năng các các phân biệt diễn thuyết, dĩ nhất thiết pháp chủng chủng nghĩa cứu cánh giai thị nhất nghĩa cố, thị vi đệ tứ như bảo trụ.
Biết từ một Pháp xuất sanh tất cả Pháp mà hay đều viên phân biệt diễn thuyết, bởi những nghĩa của tất cả Pháp rốt ráo đều là một nghĩa. Ðây là như thiệt trụ thứ tư.
Giảng: 4. Bồ Tát biết từ trong một pháp sinh ra tất cả pháp. Do đó có câu : Một làm vô lượng, vô lượng làm một, mà trong mỗi mỗi pháp phân biệt diễn nói đạo lý khác nhau. Dùng đủ thứ nghĩa tất cả pháp, rốt ráo đều là một nghĩa. Đó là trụ như thật thứ tư.
Tri yếm ly phiền não, tri chỉ tức phiền não, tri phòng hộ phiền não, tri trừ đoạn phiền não, tu Bồ Tát hạnh bất chứng thật tế, cứu cánh đáo ư thật tế bỉ ngạn, phương tiện thiện xảo, thiện học sở học, lệnh vãng tích nguyện hạnh giai đắc thành mãn, thân bất bì quyện, thị vi đệ ngũ như bảo trụ.
Biết nhàm lìa phiền não, biết ngăn dứt phiền não, biết phòng hộ phiền não, biết trừ đoạn phiền não, tu hạnh Bồ Tát chẳng chính thiệt tế, rốt ráo đến nơi thiệt tế bỉ ngạn, phương tiện thiện xảo học giỏi nơi sở học, làm cho hạnh nguyện thuở xưa đều được thành mãn, thân chẳng mỏi nhọc. Ðây là như thiệt trụ thứ năm.
Giảng: 5. Bồ Tát biết nhàm lìa tất cả phiền não, biết ngừng tất cả phiền não, biết phòng hộ tất cả phiền não, biết dứt trừ tất cả phiền não. Tu Bồ Tát hạnh, chẳng chứng thật tế, rốt ráo đến nơi thật tế bờ bên kia. Đã có thể thành Phật, nhưng chẳng cầu chứng quả Phật. Dùng pháp môn phương tiện khéo léo, khéo học tất cả pháp đáng học, khéo tu tất cả pháp đáng tu, khiến cho hạnh nguyện thuở xưa phát ra, đều được thành tựu viên mãn, thân chẳng cảm thấy mệt mỏi. Đó là trụ như thật thứ năm.
Tri nhất thiết chúng sanh tâm sở phân biệt giai vô xứ sở, nhi diệc thuyết hữu chủng chủng phương xứ; tuy vô phân biệt, vô sở tạo tác, vi dục điều phục nhất thiết chúng sanh nhi hữu tu hành, nhi hữu sở tác, thị vi đệ lục như bảo trụ.
Biết tất cả chúng sanh, những tâm phân biệt của họ đều không xứ sở mà cũng nói có những phương xứ. dầu không phân biệt không tạo tác, nhưng vì muốn điều phục tất cả chúng sanh nên có tu hành nên có sở tác. Ðây là như thiệt trụ thứ sáu.
Giảng: 6. Bồ Tát biết tất cả tâm chúng sinh, có sự phân biệt, vốn không có xứ sở, tức cũng là chẳng có trụ xứ thật tại, nhưng cũng có thể nói dùng đủ thứ phương tiện. Vốn chẳng có xứ sở, nhưng dùng pháp lành phương tiện, nói ra có một xứ sở. Do đó:
Các pháp tùng bổn lai,
Thường tự tịch diệt tướng.
Tuy không có phân biệt, không chỗ tạo tác, nhưng vì muốn điều phục tất cả chúng sinh, mà có sự tu hành, có tạo tác. Đó là trụ như thật thứ sáu.
Tri nhất thiết pháp giai đồng nhất tánh, sở vị: Vô tánh, vô chủng chủng tánh, vô vô lượng tánh, vô khả toán số tánh, vô khả xưng lượng tánh, vô sắc vô tướng, nhược nhất nhược đa giai bất khả đắc, nhi quyết định liễu tri thử thị chư Phật Pháp, thử thị Bồ Tát Pháp, thử thị độc giác Pháp, thử thị thanh văn Pháp, thử thị phàm phu Pháp, thử thị thiện Pháp, thử thị bất thiện pháp, thử thị thế gian pháp, thử thị xuất thế gian Pháp, thử thị quá thất Pháp, thử thị vô quá thất Pháp, thử thị hữu lậu Pháp, thử thị vô lậu Pháp, nãi chí thử thị hữu vi Pháp, thử thị vô vi Pháp, thị vi đệ thất như bảo trụ.
Biết tất cả Pháp đều đồng một tánh, nghĩa là vô tánh: không các thứ tánh, không vô lượng tánh, không khả toán sổ tánh, không khả xứng lượng tánh, không sắc, không tướng, hoặc một hoặc nhiều đều bất khả đắc, mà quyết định biết rõ đây là Phật Pháp, đây là Bồ Tát Pháp, Ðây là Ðộc Giác Pháp, đây là Thanh Văn Pháp, đây là Phàm Phu pháp, đây là Thiện Pháp, đây là Bất Thiện Pháp, đây là Thế Gian Pháp, đây là Xuất Thế Gian Pháp, đây là Pháp Lỗi Lầm, đây là Pháp Không Lỗi Lầm, đây là Pháp Hữu Lậu, đây là Pháp Vô Lậu, nhẫn đến đây là Pháp Hữu Vi, đây là Pháp Vô Vi. Ðây là như thiệt trụ thứ bảy.
Giảng: 7. Bồ Tát biết tất cả pháp đều đồng một tánh, pháp vốn không tánh, không có đủ thứ tánh, không có vô lượng tánh, không thể tính đếm tánh, không thể xưng lượng tánh. Không có sắc, không có tướng. Hoặc là một, hoặc là nhiều, đều bất khả đắc. Tuy bất khả đắc, mà chắc chắn biết rõ, đó là pháp của tất cả chư Phật nói, đó là pháp của tất cả Bồ Tát nói, đó là pháp của Thánh nhân Độc Giác nói, đó là pháp của Thánh nhân Thanh Văn nói, đó là pháp của phàm phu nói, đó là pháp thiện, đó là pháp bất thiện, đó là pháp thế gian, đó là pháp xuất thế gian, đó là pháp có lỗi lầm, đó là pháp không có lỗi lầm, đó là pháp hữu lậu, đó là pháp vô lậu, cho đến đó là pháp hữu vi, đó là pháp vô vi. Đó là trụ như thật thứ bảy.
Bồ-Tát Ma-ha-tát cầu Phật bất khả đắc, cầu Bồ Tát bất khả đắc, cầu Pháp bất khả đắc, cầu chúng sanh bất khả đắc, nhi diệc bất xả điều phục chúng sanh lệnh ư chư pháp thành chánh giác nguyện. Hà dĩ cố? Bồ-Tát Ma-ha-tát thiện xảo quan sát, tri nhất thiết chúng sanh phân biệt, tri nhất thiết chúng sanh cảnh giới, phương tiện hóa đạo lệnh đắc Niết Bàn; vi dục mãn túc hóa chúng sanh nguyện, sí nhiên tu hành Bồ Tát hạnh cố. Thị vi đệ bát như bảo trụ.
Ðại Bồ Tát cầu Phật Bất khả đắc, cầu Bồ Tát bất khả đắc, cầu Pháp bất khả đắc cầu chúng sanh bất khả đắc, mà cũng chẳng bỏ điều phục chúng sanh khiến ở nơi các Pháp nguyện thành chánh giác. Vì Ðại Bồ Tát khéo quan sát biết tất cả chúng sanh phân biệt, biết tất cả chúng sanh cảnh giới phương tiện hoá đạo khiến dược Niết Bàn, Vì muốn hoàn mãn nguyện giáo hoá chúng sanh nên mạnh mẽ tu hành Bồ Tát hạnh. Ðây là như thiệt trụ thứ tám.
Giảng: 8. Đại Bồ Tát cầu Phật bất khả đắc, cầu Bồ Tát bất khả đắc, cầu pháp bất khả đắc, cầu chúng sinh bất khả đắc, nhưng cũng chẳng bỏ điều phục chúng sinh, khiến cho các pháp thành tựu chánh giác nguyện lực. Tại sao vậy? Vì đại Bồ Tát khéo léo quán sát, biết sự phân biệt của tất cả chúng sinh, biết cảnh giới của tất cả chúng sinh, phương tiện giáo hoá khai đạo tất cả chúng sinh, khiến cho đắc được Niết Bàn. Vì muốn đầy đủ nguyện giáo hoá chúng sinh, mà tu hành Bồ Tát hạnh. Đó là trụ như thật thứ tám.
Bồ-Tát Ma-ha-tát tri thiện xảo thuyết Pháp, thị hiện Niết-Bàn, vi độ chúng sanh sở hữu phương tiện, nhất thiết giai thị tâm tưởng kiến lập, phi thị điên đảo, diệc phi hư cuống. Hà dĩ cố? Bồ Tát liễu tri nhất thiết chư pháp tam thế bình đẳng, như như bất động, thật tế vô trụ, bất kiến hữu nhất chúng sanh dĩ thọ hóa, kim thọ hóa, đương thọ hóa, diệc tự liễu tri vô sở tu hành, vô hữu thiểu Pháp nhược sanh nhược diệt nhi khả đắc giả, nhi y ư nhất thiết Pháp, lệnh sở nguyện bất không. Thị vi đệ cửu như bảo trụ.
Ðại Bồ Tát biết thiện xảo thuyết pháp, thị hiện Niết Bàn. Vì độ chúng sanh nện bao nhiêu phương tiện đã có, tất cả đều là tâm tưởng kiến lập, chẳng phải là điên đảo, cũng chẳng phải hư dối. Vì Bồ Tát biết rõ các Pháp tam thế bình đẳng như như bất động thiệt tế vô trụ. Chẳng thấy có một chúng sanh đã thọ hoá độ, nay thọ hoá độ, sẽ thọ hoá độ. Cũng tự biết rõ không chỗ tu hành. Không có chút Pháp gì hoặc sanh hoặc diệt mà có thể được. Nhưng vẫn nương nơi tất cả Pháp khiến sở nguyện chẳng luống không. Ðây là như thiệt trụ thứ chín.
Giảng: 9. Đại Bồ Tát biết phương tiện thuyết pháp khéo léo, thị hiện Niết Bàn, vì độ tất cả chúng sinh. Hết thảy phương tiện, tất cả đều là tâm tưởng kiến lập, đó chẳng phải là điên đảo, cũng chẳng phải là hư dối. Tại sao vậy? Vì Bồ Tát biết rõ tất cả các pháp, ba đời đều là bình đẳng, như như bất động, thật tế không trụ. Chẳng thấy có một chúng sinh đã thọ sự giáo hoá, hiện đang thọ giáo hoá, sẽ thọ sự giáo hoá. Cũng tự biết rõ mình không có chỗ tu hành, không có chút pháp hoặc sinh, hoặc diệt, mà có thể đắc được, mà nương nơi tất cả pháp, khiến cho sở phát nguyện chẳng không. Đó là trụ như thật thứ chín.
Bồ-Tát Ma-ha-tát ư bất tư nghị vô lượng chư Phật nhất nhất Phật sở, văn bất khả thuyết bất khả thuyết thọ kí Pháp, danh hiệu các dị, kiếp số bất đồng; tùng ư nhất kiếp nãi chí bất khả thuyết bất khả thuyết kiếp thường như thị văn, văn dĩ tu hành, bất kinh bất bố, bất mê bất hoặc, tri Như Lai trí bất tư nghị cố, Như Lai thọ kí ngôn vô nhị cố, tự thân hạnh nguyện thù thắng lực cố, tùy ưng thọ hóa lệnh thành A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề mãn đẳng Pháp giới nhất thiết nguyện cố, thị vi đệ thập như bảo trụ.
Ðại Bồ Tát nơi bất tư nghì vô lượng chư Phật ở chỗ mỗi đức Phật nghe bất khả thuyết bất khả thuyết pháp thọ kí danh hiệu đều khác, kiếp số chẳng đồng, từ nơi một kiếp nhẫn đến bất khả thuyết bất khả thuyết kiếp thường nghe như vậy. Nghe rồi tu hành chẳng kinh, chẳng sợ, chẳng mê, chẳng hoặc, vì biết Phật trí bất tư nghì, vì đức Như Lai thọ kí không hai lời, vì tự thân hạnh nguyện sức thu øthắng, vì tùy nghi thọ hoákhiến thành vô thượng bồ đề thành mãn tất cả nguyện đồng pháp giới. Ðây là như thiệt trụ thứ mười.
Giảng: 10. Đại Bồ Tát nơi vô lượng chư Phật không nghĩ bàn, ở trong đạo tràng chỗ mỗi vị Phật, nghe bất khả thuyết bất khả thuyết pháp thọ ký, danh hiệu thọ ký đều khác nhau, kiếp số trụ thế cũng khác nhau. Từ một kiếp, cho đến bất khả thuyết bất khả thuyết kiếp, thường nghe pháp Phật nói như vậy. Nghe pháp rồi, Bồ Tát bèn y theo pháp tu hành, chẳng giống như phàm phu chúng ta, nghe pháp rồi như gió thoảng qua tai, chẳng còn nhớ nữa. Chúng ta nghe Phật pháp, phải đích thân thực hành, thì mới có sự thọ dụng. Nếu chẳng cung hành thực tiễn, không nương vào pháp tu hành, thì hằng ngày nghe pháp, dù có nghe pháp trong tám vạn đại kiếp, thì đối với thân tâm tánh mạng của mình, cũng chẳng có ích gì. Cho nên Bồ Tát nghe pháp rồi, bèn y pháp tu hành, chẳng sợ pháp quá cao, chẳng sợ pháp quá sâu, chẳng sợ pháp quá vi diệu, chẳng sợ pháp không nghĩ bàn, cho nên chẳng kinh hãi, chẳng mê hoặc. Bồ Tát biết trí huệ của Như Lai không thể nghĩ bàn, biết lời Như Lai thọ ký là tánh quyết định, chẳng có thay đổi. Bồ Tát còn biết hạnh nguyện của mình, có sức lực thù thắng. Bồ Tát tuỳ thuận ứng tuyên thọ hoá, khiến cho chúng sinh thành tựu A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, viên mãn đồng với pháp giới tất cả nguyện. Đó là trụ như thật thứ mười.
Phật tử! thị vi Bồ-Tát Ma-ha-tát ư A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề thập chủng như bảo trụ. Nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức đắc chư Phật vô thượng đại trí tuệ bảo.
Phật tử ! Đó là mười thứ trụ như thật của đại Bồ Tát nơi A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Nếu các Bồ Tát an trụ pháp nầy, thì sẽ đắc được đại trí huệ báu vô thượng của chư Phật.
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đó là mười thứ trụ như thật của đại Bồ Tát nơi A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Nếu các Bồ Tát an trụ pháp nầy, thì sẽ đắc được đại trí huệ báu vô thượng của chư Phật, cho nên gọi là trụ như thật.
=======================================
Thập Chủng Như Kim cương Đại-Thừa Thệ Nguyện Tâm
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát phát thập chủng như Kim cương Đại-Thừa thệ nguyện tâm. Hà đẳng vi thập?
Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát phát mười thứ tâm thệ nguyện đại thừa như Kim cang. Những gì là mười ? Đó là:
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát phát mười thứ tâm đại thừa thệ nguyện như kim cang. Những gì là mười ?
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát tác như thị niệm: nhất thiết chư pháp, vô hữu biên tế, bất khả cùng tận. Ngã đương dĩ tận tam thế trí, phổ giai giác liễu, vô hữu di dư. Thị vi đệ nhất như Kim cương Đại-Thừa thệ nguyện tâm.
Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát nghĩ rằng: Tất cả các pháp chẳng có biên tế, chẳng cùng tận tôi sẽ dùng trí tận tam thếđều giác liễu khắp cả không sót thừa. Ðây là tâm thệ nguyện Ðại thừa như Kim cang thứ nhứt.
Giảng: 1. Phật tử ! Đại Bồ Tát nghĩ như vầy : Tất cả các pháp không có bờ mé, không thể cùng tận. Tôi sẽ dùng hết trí huệ ba đời, khắp đều giác ngộ thấu rõ, không có thừa sót. Đó là tâm đại thừa thệ nguyện như kim cang thứ nhất.
Bồ-Tát Ma-ha-tát hựu tác thị niệm: Ư nhất mao đoan xứ hữu vô lượng vô biên chúng sanh, hà huống nhất thiết pháp giới! ngã đương giai dĩ vô thượng Niết Bàn nhi diệt độ chi. Thị vi đệ nhị như Kim cương Đại-Thừa thệ nguyện tâm.
Đại Bồ Tát lại nghĩ rằng: Ở chỗ một đầu lông có vô lượng vô biên chúng sanh, huống là tất cả pháp giới. Tôi sẽ đều dùng vô thượng Niết bàn mà diệc độ họ. Ðây là tâm thệ nguyện Ðại thừa như Kim cang thứ hai.
Giảng: 2. Đại Bồ Tát lại nghĩ như vầy : Nơi đầu một sợi lông, có vô lượng vô biên chúng sinh, hà huống là tất cả pháp giới. Tôi sẽ đều dùng vô thượng Niết Bàn mà diệt độ, khiến cho tất cả chúng sinh đều được diệt độ. Đó là tâm đại thừa thệ nguyện như kim cang thứ hai.
Bồ-Tát Ma-ha-tát hựu tác thị niệm: thập phương thế giới, vô lượng vô biên, vô hữu tề hạn, bất khả cùng tận. Ngã đương dĩ chư Phật quốc độ tối thượng trang nghiêm, trang nghiêm như thị nhất thiết thế giới, sở hữu trang nghiêm giai tất chân thật. Thị vi đệ tam như Kim cương Đại-Thừa thệ nguyện tâm.
Đại Bồ Tát lại nghĩ rằng: Mười phương thế giới vô lương vô biên không có ngằn mé, không thể cùng tận. Tôi sẽ dùng Phật độ tối thựơng trang nghiêm, để trang nghiêm tất cả thế giới như vậy, bao nhiêu sự trang nghiêm thảy đều chơn thiệt. Ðây là tâm thệ nguyện Ðại thừa như Kim cang thứ ba.
Giảng: 3. Đại Bồ Tát lại nghĩ như vầy : Mười phương thế giới vô lượng vô biên, không có giới hạn, không thể cùng tận. Tôi sẽ dùng cõi nước chư Phật trang nghiêm tối thượng, để trang nghiêm tất cả thế giới như vậy, hết thảy sự trang nghiêm thảy đều chân thật. Đó là tâm đại thừa thệ nguyện như kim cang thứ ba.
Bồ-Tát Ma-ha-tát hựu tác thị niệm: nhất thiết chúng sanh, vô lượng vô biên, vô hữu tề hạn, bất khả cùng tận. Ngã đương dĩ nhất thiết thiện căn, hồi hướng ư bỉ vô thượng trí quang, chiếu diệu ư bỉ. Thị vi đệ tứ như Kim cương Đại-Thừa thệ nguyện tâm.
Đại Bồ Tát lại nghĩ rằng: Tất cả chúng sanh vô lượng vô biên không có chừng ngằn, không thể cùng tận. Tôi sẽ đem tất cả thiện căn hồi hướng cho họ. Dùng trí quang vô thượng chiếu diệu nơi họ. Ðây là tâm thệ nguyện Ðại thừa như Kim cang thứ tư.
Giảng: 4. Đại Bồ Tát lại nghĩ như vầy : Tất cả chúng sinh vô lượng vô biên, không có giới hạn, không thể cùng tận. Tôi sẽ đem tất cả căn lành hồi hướng đến tất cả chúng sinh. Vô thượng trí huệ quang minh chiếu soi đến tất cả chúng sinh. Đó là tâm đại thừa thệ nguyện như kim cang thứ tư.
Bồ-Tát Ma-ha-tát hựu tác thị niệm: nhất thiết chư Phật, vô lượng vô biên, vô hữu tề hạn, bất khả cùng tận. Ngã đương dĩ sở chủng thiện căn hồi hướng cúng dường, tất lệnh chu biến, vô sở khuyết thiểu, nhiên hậu ngã đương thành A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề. Thị vi đệ ngũ như Kim cương Đại-Thừa thệ nguyện tâm.
Đại Bồ Tát lại nghĩ rằng: Tất cả chư Phật vô lượng vô biên không có chừng ngằn, không thể cùng tận. Tôi sẽ dùng thiện căn đã gieo hồi hướng cúng dường đều khiến cùng khắp không chỗ kém thiếu, rồi sau tôi sẽ thành Vô thượng Bồ đề. Ðây là tâm thệ nguyện Ðại thừa như Kim cang thứ năm.
Giảng: 5. Đại Bồ Tát lại nghĩ như vầy : Tất cả chư Phật vô lượng vô biên, không có giới hạn, không thể cùng tận. Tôi sẽ đem căn lành đã gieo trồng, hồi hướng chư Phật, cúng dường chư Phật, đều khiến cho khắp cùng, không chỗ thiếu kém. Tóm lại, mỗi vị Phật, tôi đều đem căn lành để cúng dường, sau đó tôi sẽ thành tựu A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Đó là tâm đại thừa thệ nguyện như kim cang thứ năm.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát kiến nhất thiết Phật, văn sở thuyết pháp sanh đại hoan hỉ, bất trước tự thân, bất trước Phật thân, giải Như Lai thân phi thật phi hư, phi hữu phi vô, phi tánh phi Vô tánh, phi sắc phi vô sắc, phi tướng phi vô tướng, phi sanh phi diệt, thật vô sở hữu, diệc bất hoại hữu. Hà dĩ cố? bất khả dĩ nhất thiết tánh tướng nhi thủ trước cố. Thị vi đệ lục như Kim cương Đại-Thừa thệ nguyện tâm.
Chư Phật Tử! Ðại Bồ Tát thấy chư Phật, nghe Phật thuyết pháp, lòng rất hoan hỷ, chẳng chấp tự thân, Phật thân Hiểu thân Như Lai chẳng thiệt chẳng hư, chẳng có chẳng không, chẳng tánh chẳng không tánh, chẳng sắc chẳng không sắc, chẳng tướng chẳng không tướng, chẳng sanh chẳng diệt, thiệt vô sỡ hữu, cũng chẳng hoại sỡ hữu. Vì chẳng thể dùng tất cả tánh tướng để chấp lấy. Ðây là tâm thệ nguyện Ðại thừa như Kim cang thứ sáu.
Giảng: 6. Phật tử ! Đại Bồ Tát thấy tất cả chư Phật nghe thuyết pháp, sinh tâm đại hoan hỉ, chẳng chấp vào thân mình, chẳng chấp vào thân Phật. Hiểu rõ thân Như Lai, chẳng thật chẳng hư, chẳng có, chẳng không, chẳng tánh, chẳng không tánh, chẳng sắc, chẳng không sắc, chẳng tướng, chẳng không tướng, chẳng sinh, chẳng diệt, thật không chỗ có, tuy gì cũng không có, nhưng cũng không thể phá hoại được, có vẫn tồn tại. Đó là do duyên gì ? Vì không thể dùng cảnh giới có tánh, có tướng, có nghĩ bàn để dò lường cảnh giới của Phật, cho nên không thể dùng tất cả tánh tướng mà chấp lấy. Đó là tâm đại thừa thệ nguyện như kim cang thứ sáu.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát, hoặc hữu chúng sanh ha mạ hủy đi, qua đả sở thát, hoặc tiệt thủ túc, hoặc cát nhĩ tỳ, hoặc thiêu kỳ mục, hoặc cấp kỳ đầu; như thị nhất thiết giai năng nhẫn thọ, chung bất nhân thử sanh khuể hại tâm. Ư bất khả thuyết bất khả thuyết vô ương sổ kiếp tu Bồ Tát hạnh, nhiếp thọ chúng sanh hằng vô phế xả. Hà dĩ cố? Bồ-Tát Ma-ha-tát dĩ thiện quan sát nhất thiết chư pháp vô hữu nhị tướng, tâm bất động loạn, năng xả tự thân nhẫn kỳ khổ cố. Thị vi đệ thất như Kim cương Đại-Thừa thệ nguyện tâm.
Chư Phật Tử! Ðại Bồ Tát hoặc bị chúng sanh quở trách mắng nhiếc đánh đập, hoặc chặt tay chân, hoặc thẻo tai mũi, hoặc móc mắt, hoặc cắt đầu. Tất cả sự khổ nhục như vậy đều nhẫn thọ được. Trọn không vì đây mà sanh lòng sân hại. Trong bất khả thuyết bất khả thuyết kiếp tu hạnh Bồ Tát nhiếp thọ chúng sanh hằng không phế bỏ. Vì Ðại Bồ Tát đã khéo quán sát tất cả các pháp không có hai tướng, tâm chẳng động loạn, có thể bỏ thân mình mà nhẫn sự khổ đó. Ðây là tâm thệ nguyện Ðại thừa như Kim cang thứ bảy.
Giảng: 7. Phật tử ! Đại Bồ Tát hoặc bị chúng sinh mắng chửi huỷ nhục đánh đập, hoặc chặt tay chân, hoặc cắt tai mũi, hoặc móc mắt, hoặc chặt đầu. Họ dùng tất cả những phương pháp như vậy để đối đãi, Bồ Tát đều nhẫn thọ được, trọn không vì đó mà sinh tâm sân hại, hoặc sinh tâm báo thù. Trong bất khả thuyết bất khả thuyết vô số kiếp, tu Bồ Tát hạnh. Nhiếp thọ tất cả chúng sinh, bất cứ lúc nào, cũng không xả bỏ tất cả chúng sinh. Tại sao vậy ? Vì đại Bồ Tát đã khéo quán sát tất cả các pháp, không có hai tướng, mà chỉ có một tướng tịch diệt, cho nên tâm chẳng giao động, cũng chẳng tán loạn, xả được thân mình, mà nhẫn thọ được những sự khổ đó. Đó là tâm đại thừa thệ nguyện như kim cang thứ bảy.
Đoạn kinh văn nầy, chúng ta phải đặc biệt chú ý lắng nghe. Chúng ta học Phật nhất định phải học pháp nhẫn nhục Ba la mật. Nếu có người đến không khách sáo đối với chúng ta, phê bình lung tung, thì chúng ta phải nhẫn thọ, đừng có cho rằng họ không đúng. Phải dùng đức cảm hoá, dùng tâm thành đối đãi, thì tự nhiên sẽ chuyển hung hoá cát. Thậm chí có người cố ý phỉ báng, có thủ đoạn, chúng ta cũng phải nhẫn thọ. Nhẫn không được cũng phải nhẫn, đó mới là thật nhẫn nhục. Tu Bồ Tát đạo, tức là tu nhẫn nhục. Bất cứ gặp nghịch cảnh nào, cũng vẫn an nhiên bất động, thì trong tâm tự nhiên sẽ thanh tịnh, chẳng bị nghịch cảnh lay chuyển, đối với người cố ý phê bình, biểu thị không coi họ là kẻ thù, khiến cho họ hổ thẹn tự bỏ đi.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hựu tác thị niệm: vị lai thế kiếp, vô lượng vô biên, vô hữu tề hạn, bất khả cùng tận. Ngã đương tận bỉ kiếp, ư nhất thế giới, hạnh Bồ Tát đạo giáo hóa chúng sanh; như nhất thế giới, tận Pháp giới, hư không giới, nhất thiết thế giới tất diệc như thị, nhi tâm bất kinh, bất bố, bất úy. Hà dĩ cố? vi Bồ Tát đạo Pháp ưng như thị, vi nhất thiết chúng sanh nhi tu hành cố. Thị vi đệ bát như Kim cương Đại-Thừa thệ nguyện tâm.
Chư Phật Tử! Đại Bồ Tát lại nghĩ rằng: Vị lai thế kiếp số vô lượng vô biên không có chừng ngằn chẳng thể cùng tận. Tôi sẽ tột kiếp số đó ở một thế giới tu hạnh Bồ Tát giáo hoá chúng sanh. Như một thế giới, tận pháp giới hư không giới tất cả thế giới cũng đều như vậy mà lòng không kinh sợ. Vì đạo Bồ Tát lẽ phải như vậy, vì tất cả chúng sanh mà tu hành như vậy. Ðây là tâm thệ nguyện Ðại thừa như Kim cang thứ tám.
Giảng: 8. Phật tử ! Đại Bồ Tát lại nghĩ như vầy : Kiếp thuở vị lai, vô lượng vô biên, không có giới hạn, không thể cùng tận. Hết những kiếp đó, tôi sẽ ở trong một thế giới, hành Bồ Tát đạo, giáo hoá chúng sinh. Như một thế giới, tận pháp giới hư không giới tất cả thế giới, cũng đều như thế, mà tâm Bồ Tát chẳng kinh hãi sợ sệt. Tại sao vậy? Vì pháp Bồ Tát đạo, nên như vậy, vì tất cả chúng sinh mà tu hành Bồ Tát đạo. Đó là tâm đại thừa thệ nguyện như kim cang thứ tám.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hựu tác thị niệm: A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề dĩ tâm vi bổn, tâm nhược thanh tịnh, tức năng viên mãn nhất thiết thiện căn, ư Phật Bồ-đề tất đắc tự tại, dục thành A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề tùy ý tức thành. Nhược dục trừ đoạn nhất thiết thủ duyên, trụ nhất hướng đạo, ngã diệc năng đắc, nhi ngã bất đoạn, vi dục cứu cánh Phật Bồ-đề cố, diệc bất tức chứng vô thượng Bồ-đề. Hà dĩ cố? vi mãn Bổn Nguyện, tận nhất thiết thế giới hành Bồ Tát hạnh hóa chúng sanh cố. Thị vi đệ cửu như Kim cương Đại-Thừa thệ nguyện tâm.
Chư Phật Tử! Đại Bồ Tát lại nghĩ rằng: Vô thượng Bồ đề do tâm làm gốc. Nếu tâm thanh tịnh thời có thể viên mãn tất cả thiện căn, nơi Phật Bồ Ðề tất được tự tại, muốn thành Vô thượng Bồ Ðề tùy ý liền thành. Nếu muốn dứt trừ tất cả thủ duyên trụ đạo nhứt hướng, tôi cũng có thể làm được. Nhưng tôi chẳng dứt, vì muốn rốt ráo Phật Bồ Ðề. Tôi cũng chẳng liền chứng Vô thượng Bồ Ðề, vì để thành mãn bổn nguyện: tận tất cả thế giới hành đạo Bồ Tát giáo hoá chúng sanh. Ðây là tâm thệ nguyện Ðại thừa như Kim cang thứ chín.
Giảng: 9. Phật tử ! Đại Bồ Tát lại nghĩ như vầy : A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, dùng tâm làm gốc rễ. Nếu tâm thanh tịnh, thì chẳng có vọng tưởng. Nếu đoạn dục khử ái, thì sẽ viên mãn tất cả căn lành. Nơi Phật bồ đề, tất sẽ đắc được tự tại. Nếu muốn thành A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, thì tuỳ theo ý tưởng của mình liền có thể thành Phật. Nếu muốn đoạn trừ tất cả thủ duyên, thì chẳng có tâm phan duyên. Trụ đạo nhất hướng, tức là đạo cuối cùng. Bồ Tát nghĩ : Tôi cũng sẽ đắc được quả vị, nhưng tôi không dứt tất cả thủ duyên. Tại sao vậy ? Vì muốn rốt ráo Phật bồ đề. Tôi muốn mình rốt ráo thành Phật, cũng muốn tất cả chúng sinh rốt ráo thành Phật, nhưng tôi không lập tức chứng vô thượng bồ đề. Tại sao vậy? Vì để viên mãn đại nguyện xưa đã phát : Cùng tận tất cả thế giới, hành Bồ Tát hạnh, giáo hoá chúng sinh, điều phục chúng sinh. Đó là tâm đại thừa thệ nguyện như kim cang thứ chín.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát tri Phật bất khả đắc, Bồ-đề bất khả đắc, bồ tát bất khả đắc, nhất thiết pháp bất khả đắc, chúng sanh bất khả đắc, tâm bất khả đắc, hạnh bất khả đắc, quá khứ bất khả đắc, vị lai bất khả đắc, hiện tại bất khả đắc, nhất thiết thế gian bất khả đắc, hữu vi vô vi ất khả đắc. Bồ Tát như thị tịch tĩnh trụ, thậm thâm trụ, tịch diệt trụ, vô tránh trụ, vô ngôn trụ, vô nhị trụ, vô đẳng trụ, tự tánh trụ, như lý trụ, giải thoát trụ, Niết-Bàn trụ, thật tế trụ, nhi diệc bất xả nhất thiết đại nguyện, bất xả Tát bà nhã tâm, bất xả Bồ Tát hạnh, bất xả giáo hóa chúng sanh, bất xả chư Ba-la-mật, bất xả điều phục chúng sanh, bất xả thừa sự chư Phật, bất xả diễn thuyết chư Pháp, bất xả trang nghiêm thế giới.
Chư Phật Tử! Ðại Bồ Tát biết Phật bất khả đắc, Bồ Ðề bất khả đắc, Bồ Tát bất khả đắc, tất cả pháp bất khả đắc, chúng sanh bất khả đắc, tâm bất khả đắc, hạnh bất khả đắc, quá khứ bất khả đắc, vị lai bất khả đắc, hiện tại bất khả đắc, tất cả thế gian bất khả đắc, hữu vi vô vi bất khả đắc. Bồ Tát như vậy trụ tịch tịnh, trụ thậm thâm, trụ tịch diệt, trụ vô tránh, trụ vô ngôn, trụ vô nhị, trụ vô đẳng, trụ tự tánh, trụ như lý, trụ giải thoát, trụ Niết Bàn, trụ thiệt tế, mà cũng chẳng bõ tất cả đại nguyện, chẳng bỏ tâm Nhứt thiết trí, chẳng bỏ hạnh Bồ Tát, chẳng bỏ giáo hoá chúng sanh, chẳng bỏ các Ba la mật, chẳng bỏ điều phục chúng sanh, chẳng bỏ thừa sự chư Phật, chẳng bỏ diễn thuyết các Pháp, chẳng bỏ trang nghiêm thế giới.
Giảng: 10. Phật tử ! Đại Bồ Tát biết Phật bất khả đắc, vì Phật đã thành Phật rồi, cho nên bất khả đắc. Lại biết bồ đề bất khả đắc, vì bồ đề là giác đạo, nếu giác ngộ rồi, thì chẳng phải là đắc được, mà là vốn có. Lại biết Bồ Tát bất khả đắc, vì Bồ Tát chỉ là hành Bồ Tát đạo, cũng là vô tướng, cho nên bất khả đắc. Lại biết tất cả pháp đều là không, cũng là bất khả đắc. Lại biết chúng sinh bất khả đắc, vì chúng sinh vốn là Phật, Phật vốn là chúng sinh, do đó : Tâm, Phật và chúng sinh, là ba không khác biệt. Tâm cũng bất khả đắc, tâm quá khứ bất khả đắc, tâm hiện tại bất khả đắc, tâm vị lai bất khả đắc, tại sao ? Vì quá khứ đã qua rồi, cho nên tâm quá khứ bất khả đắc. Hiện tại thì không ngừng, cho nên tâm hiện tại bất khả đắc, vị lai thì chưa đến, cho nên tâm vị lai bất khả đắc, do đó : Ba tâm bất khả đắc. Hạnh bất khả đắc, quá khứ bất khả đắc, vị lai bất khả đắc, hiện tại bất khả đắc. Tất cả thế gian do vọng tưởng của chúng sinh mà tạo thành, cũng là bất khả đắc. Pháp hữu vi và pháp vô vi đều bất khả đắc. Bồ Tát chẳng có bất cứ vọng tưởng gì, tịch tĩnh (vắng lặng) đến cực điểm !
Như vậy Bồ Tát trụ tịch tĩnh, trụ thâm sâu, trụ tịch diệt, trụ không tranh, trụ không lời, trụ không hai, vô đẳng, trụ tự tánh, trụ như lý, trụ giải thoát, trụ Niết Bàn, trụ thật tế. Bồ Tát thấy tất cả đều là không, đều là hư vọng. Vậy Bồ Tát không cần làm gì chăng ? Chẳng phải vậy ! Bồ Tát vốn đã phát đại nguyện thuở xưa, chẳng bỏ tâm nhất thiết trí, chẳng bỏ Bồ Tát hạnh, chẳng bỏ giáo hoá chúng sinh, chẳng bỏ các Ba la mật, chẳng bỏ điều phục chúng sinh, chẳng bỏ thừa sự chư Phật, chẳng bỏ diễn nói các pháp, chẳng bỏ trang nghiêm thế giới, chẳng bỏ những pháp môn đó.
Hà dĩ cố? Bồ-Tát Ma-ha-tát phát đại nguyện cố, tuy phục liễu đạt nhất thiết pháp tướng, đại từ bi tâm chuyển cánh tăng trưởng, vô lượng công đức giai cụ tu hành, ư chư chúng sanh tâm bất xả ly. Hà dĩ cố? nhất thiết chư pháp giai vô sở hữu, phàm phu ngu mê bất tri bất giác, ngã đương lệnh bỉ tất đắc khai ngộ, ư chư pháp tánh phân minh chiếu liễu.
Hà dĩ cố? nhất thiết chư Phật an trụ tịch diệt, nhi dĩ đại bi tâm, ư chư thế gian thuyết Pháp giáo hóa tằng vô hưu tức. Ngã kim vân hà nhi xả đại bi? hựu ngã tiên phát quảng đại thệ nguyện tâm, phát quyết định lợi ích nhất thiết chúng sanh tâm, phát tích tập nhất thiết thiện căn tâm, phát an trụ thiện xảo hồi hướng tâm, phát xuất sanh thậm thâm trí tuệ tâm, phát hàm thọ nhất thiết chúng sanh, tâm phát ư nhất thiết chúng sanh bình đẳng tâm; tác chân thật ngữ, bất hư cuống ngữ, nguyện dữ nhất thiết chúng sanh vô thượng đại pháp, nguyện bất đoạn nhất thiết chư Phật chủng tánh. Kim nhất thiết chúng sanh vị đắc giải thoát, vị thành chánh giác, vị cụ Phật Pháp, đại nguyện vị mãn, vân hà nhi dục xả ly đại bi? thị vi đệ thập như Kim cương Đại-Thừa thệ nguyện tâm.
Giảng: Tại sao vậy ? Vì Ðại Bồ Tát phát đại nguyện, dầu thấu rõ tất cả pháp tướng mà tâm đại từ bi lại càng tăng trửơng, vô lượng công đức đều tu hành đủ, với các chúng sanh lòng không bỏ rời. Vì tất cả pháp đều vô sở hữu, phàm phu ngu mê chẳng hay chẳng biết, tôi sẽ làm cho họ đều được khai ngộ, nơi các pháp tánh chiếu rõ phân minh.
Tại sao vậy ? Vì tất cả chư Phật an trụ tịch diệt mà dùng tâm đại bi nơi các thế gian thuyết pháp giáo hoá chưa tùng thôi nghĩ. Nay tôi sao lại rời bỏ đại bi ! Lại trước kia tôi phát tâm thệ nguyện quảng đại, phát tâm quyết định lợi ích tất cả chúng sanh, phát tâm chứa nhóm tất cả thiện căn, phát tâm an trụ thiện xảo hồi hướng, phát tâm xuất tâm trí huệ thậm thâm, phát tâm hàm thọ tất cả chúng sanh, phát tâm bình đẳng với tất cả chúng sanh, nói lời chơn thiệt, lời chẳng hư dối, nguyện ban cho tất cả chúng sanh đại pháp vô thượng, nguyện chẳng dứt chủng tánh tất cả chư Phật. Nay tất cả chúng sanh chưa được giải thoát, chua thành Chánh Giác, chưa đủ Phật pháp, đại nguyện tôi chưa viên mãn thế nào tôi lại muốn bỏ rời đại bi ! Ðây là tâm thệ nguyện Ðại thừa như Kim cang thứ mười.
Tại sao vậy ? Vì đại Bồ Tát đã từng phát đại nguyện thuở xưa, tuy thấu rõ thông đạt tướng tất cả pháp, đều là không, nhưng tâm đại từ bi càng thêm tăng trưởng, vô lượng công đức, đối với tất cả chúng sinh, tâm chẳng bỏ lìa, lúc nào cũng giáo hoá chúng sinh, lúc nào cũng điều phục chúng sinh, tuy chúng sinh bất khả đắc, nhưng không bỏ chúng sinh.
Tại sao vậy? Vì tất cả các pháp, đều không chỗ có. Nói một cách chân thật, thì tất cả pháp đều là không, không chẳng chỗ có. Phàm phu quá ngu si quá mê hoặc, chẳng biết đạo lý nầy, cho nên truy danh cầu lợi, làm tất cả việc hư vọng mà điên đảo, đàm luận về đủ thứ chuyện điên đảo, đều chẳng biết chẳng giác. Chẳng biết chỗ họ tham là không nên tham, chẳng biết chỗ họ làm là không nên làm. Ví như pháp thế gian, rượu sắc tài khí, phàm phu thì chuyển tới chuyển lui tại chỗ nầy. Đối với pháp xuất thế gian, giới định huệ ba học vô lậu, cũng chẳng đi nghiên cứu. Đối với bốn hoằng thệ nguyện, cũng chẳng phát tâm. Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ, họ cũng chẳng độ. Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn, họ cũng chẳng đoạn. Pháp môn vô lượng thệ nguyện học, họ cũng chẳng học. Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành, họ cũng chẳng thành, đó tức là điên đảo.
Bồ Tát nói : Tôi sẽ khiến cho phàm phu ngu si mê hoặc, đều được khai ngộ, nơi các pháp tánh, chiếu rõ phân minh, khiến cho họ minh bạch, chẳng còn điên đảo. Tại sao phải như vậy ? Vì tất cả chư Phật an trụ pháp tịch diệt, Phật dùng tâm đại bi, trụ nơi tại tất cả thế gian thuyết pháp, giáo hoá tất cả chúng sinh, chưa từng khi nào ngừng nghỉ. Chư Phật lúc nào cũng đang giáo hoá chúng sinh, không ngừng nghỉ, hiện nay tôi sao lại bỏ tâm đại bi cho được ? Chúng sinh có lỗi lầm, phải tha thứ cho họ. Thuở xưa tôi đã từng phát tâm thệ nguyện rộng lớn, sao hiện tại không đi làm ? Như đã từng phát tâm phiên dịch Tam Tạng mười hai bộ kinh điển ra tiếng Anh, hoặc ngôn ngữ khác, sao lại chỉ phát tâm năm phút, thì đã quên mất sạch ?
Bồ Tát lại nói : Tôi phát tâm quyết định lợi ích tất cả chúng sinh. Phát tâm tích tập tất cả căn lành. Phát tâm an trụ hồi hướng khéo léo. Phát tâm sinh ra trí huệ thâm sâu. Phát tâm hàm thọ tất cả chúng sinh. Phát tâm bình đẳng đối với tất cả chúng sinh. Khi tôi nói đều nói lời chân thật, không nói lời hư dối, nguyện ban cho tất cả chúng sinh đại pháp vô thượng. Nguyện chẳng dứt giống tánh tất cả chư Phật. Tôi sẽ thiệu long Tam Bảo, tục Phật huệ mạng. Hiện tại tất cả chúng sinh chưa được giải thoát, chưa thành Chánh Giác, chưa đủ Phật pháp. Đại nguyện của tôi chưa viên mãn, sao lại muốn bỏ lìa tâm đại bi ? Tuyệt đối không thể được, tức là sau khi thành Phật rồi, vẫn phải thực hành tâm đại bi. Đó là tâm đại thừa thệ nguyện như kim cang thứ mười.
Phật tử! thị vi Bồ-Tát Ma-ha-tát phát thập chủng như Kim cương Đại-Thừa thệ nguyện tâm.
Chư Phật tử! Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được trí đại thần thông vô thượng Kim cang tánh của Như Lai.
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đó là mười tâm đại thừa thệ nguyện như kim cang của đại Bồ Tát phát ra. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được tánh kim cang vô thượng đại thần thông trí huệ của Như Lai.
======================================
Thập Chủng Đại Phát Khởi
Nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức đắc Như Lai Kim cương tánh vô thượng đại thần thông trí Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng Đại phát khởi. Hà đẳng vi thập?
Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười pháp đại phát khởi. Những gì là mười ? Đó là:
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ đại phát khởi. Những gì là mười ? Đó là :
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát tác như thị niệm: ngã đương cúng dường cung kính nhất thiết chư Phật. Thị vi đệ nhất Đại phát khởi. hựu tác thị niệm
Phật tử! Ðại Bồ Tát nghĩ rằng: Tôi sẽ cúng dường cung kính tất cả chư Phật. Ðây là đại phát khởi thứ nhứt.
Giảng: 1. Đại Bồ Tát nghĩ như vầy : Tôi sẽ cúng dường cung kính tất cả chư Phật mười phương. Đó là tâm đại phát khởi thứ nhất.
Ngã đương trưởng dưỡng nhất thiết Bồ Tát sở hữu thiện căn. thị vi đệ nhị Đại phát khởi.
Lại nghĩ rằng: Tôi sẽ trưởng dưỡng tất cả thiện căn của Bồ Tát. Ðây là đại phát khởi thứ hai.
Giảng: 2. Bồ Tát lại nghĩ như vầy : Tôi sẽ trưởng dưỡng hết thảy căn lành của tất cả Bồ Tát. Đó là tâm đại phát khởi thứ hai.
Hựu tác thị niệm: ngã đương ư nhất thiết Như Lai Bát Niết Bàn hậu, trang nghiêm Phật tháp, dĩ nhất thiết hoa, nhất thiết man, nhất thiết hương, nhất thiết đồ hương, nhất thiết mạt hương, nhất thiết y, nhất thiết cái, nhất thiết tràng, nhất thiết phan nhi cúng dường chi, thọ trì thủ hộ bỉ Phật chánh pháp. Thị vi đệ tam đại phát khởi.
Lại nghĩ rằng: Sau khi đức Như Lai nhập Niết bàn, tôi sẽ trang nghiêm Phật pháp. Dùng tất cả thứ hoa, tất cả tràng hoa, tất cả hương, tất cả hương thoa, tất cả hương bột, tất cả y, tất cả lọng, tất cả tràng, tất cả phan mà cúng dường tháp. Thọ trì thủ hộ chánh pháp của Phật. Ðây là đại phát khởi thứ ba.
Giảng: 3. Bồ Tát lại nghĩ như vầy : Sau khi tất cả Như Lai vào Niết Bàn rồi, tôi sẽ trang nghiêm bảo tháp của Phật. Dùng tất cả hoa báu, tất cả tràng hoa báu, tất cả hương báu, tất cả hương đốt, tất cả hương bột, tất cả y báu, tất cả lọng báu, tất cả tràng báu, tất cả phan báu, để cúng dường. Còn thọ trì chánh pháp của Phật, giữ gìn chánh pháp của Phật. Đó là tâm đại phát khởi thứ ba.
Hựu tác thị niệm: ngã đương giáo hóa điều phục nhất thiết chúng sanh, lệnh đắc A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề. Thị vi đệ tứ đại phát khởi.
Lại nghĩ rằng: Tôi sẽ giáo hóa điều phục tất cả chúng sanh khiến họ được Vô thượng Bồ đề. Ðây là đại phát khởi thứ tư.
Giảng: 4. Bồ Tát lại nghĩ như vầy : Tôi sẽ giáo hoá tất cả chúng sinh, điều phục tất cả chúng sinh, khiến cho họ đắc được A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Đó là tâm đại phát khởi thứ tư.
Hựu tác thị niệm: ngã đương dĩ chư Phật quốc độ vô thượng trang nghiêm, nhi dĩ trang nghiêm nhất thiết thế giới. Thị vi đệ ngũ đại phát khởi.
Lại nghĩ rằng: Tôi sẽ dùng Phật độ vô thượng trang nghiêm để trang nghiêm tất cả thế giới. Ðây là đại phát khởi thứ năm.
Giảng: 5. Bồ Tát lại nghĩ như vầy : Tôi sẽ dùng sự trang nghiêm vô thượng cõi nước của chư Phật, để trang nghiêm tất cả thế giới. Đó là tâm đại phát khởi thứ năm.
Hựu tác thị niệm: ngã đương phát đại bi tâm, vi nhất chúng sanh, ư nhất thiết thế giới, nhất nhất các tận vị lai tế kiếp hành Bồ Tát hạnh; như vi nhất chúng sanh, vi nhất thiết chúng sanh tất diệc như thị, giai lệnh đắc Phật vô thượng Bồ-đề, nãi chí bất sanh nhất niệm bì giải. Thị vi đệ lục đại phát khởi.
Lại nghĩ rằng: Tôi sẽ phát tâm đại bi vì một chúng sanh nơi tất cả thế giới, mỗi mỗi đều tột kiếp thưở vị lai thật hành Bồ Tát hạnh. Như vì một chúng sanh vì tất cả chúng sanh cũng như vậy, đều khiến họ được Vô thượng Bồ đề, nhẫn đến chẳng sanh một niệm mỏi lười. Ðây là đại phát khởi thứ sáu.
Giảng: 6. Bồ Tát lại nghĩ như vầy : Tôi sẽ phát tâm đại bi, vì một chúng sinh, trong tất cả thế giới, mỗi thế giới đều hết kiếp thuở vị lai, hành Bồ Tát hạnh, để lợi ích cho họ. Như vì một chúng sinh như vậy, vì tất cả chúng sinh, cũng đều như thế, đều khiến cho họ đắc được Phật vô thượng bồ đề, cho đến chẳng sinh một niệm lười biếng giải đãi. Đó là tâm đại phát khởi thứ sáu.
Hựu tác thị niệm: bỉ chư Như Lai vô lượng vô biên, ngã đương ư nhất Như Lai sở, Kinh bất tư nghị kiếp cung kính cúng dường; như ư nhất Như Lai, ư nhất thiết Như Lai tất diệc như thị. Thị vi đệ thất đại phát khởi.
Lại nghĩ rằng: Chư Như Lai đó vô lượng vô biên, tôi sẽ ở chỗ một đức Như Lai trải qua bất tư nghì kiếp cung kính cúng dường. Như ở nơi một đức Như Lai, nơi tất cả đức Như Lai cũng đều như vậy. Ðây là đại phát khởi thứ bảy.
Giảng: 7. Bồ Tát lại nghĩ như vầy : Các Như Lai đó vô lượng vô biên, tôi sẽ ở chỗ đạo tràng của tất cả Như Lai, trải qua số kiếp không thể nghĩ bàn, cung kính cúng dường. Như ở chỗ đạo tràng một đức Như Lai là như vậy, đạo tràng của tất cả Như Lai cũng đều như thế. Đó là tâm đại phát khởi thứ bảy.
Bồ-Tát Ma-ha-tát hựu tác thị niệm: bỉ chư Như Lai diệt độ chi hậu, ngã đương vi nhất nhất Như Lai sở hữu xá lợi các khởi bảo tháp, kỳ lượng cao quảng dữ bất khả thuyết chư thế giới đẳng; tạo Phật hình tượng diệc phục như thị, ư bất khả tư nghị kiếp dĩ nhất thiết bảo tràng, phan cái, hương hoa, y phục nhi vi cúng dường, bất sanh nhất niệm yếm quyện chi tâm. Vi thành tựu Phật Pháp cố, vi cúng dường chư Phật cố, vi giáo hóa chúng sanh cố, vi hộ trì chánh pháp khai thị diễn thuyết cố. Thị vi đệ bát đại phát khởi.
Lại nghĩ rằng: Sau khi chư Như Lai đó diệt độ, mỗi đức Như Lai có bao nhiêu Xá lợi, tôi sẽ đều xây bửu pháp cao rộng bằng bất khả thuyết thế giới. Tạo tượng Phật cũng như vậy. Trong bất tư nghì kiếp dùng tất cả bửu tràng, phan, lọng, hương, hoa, y phục để cúng dường. Chẳng sanh một tâm niệm nhàm mỏi. Vì cúng dường chư Phật, vì thành tựu Phật pháp, vì giáo hóa chúng sanh, vì hộ trì chánh pháp khai thị diễn thuyết. Ðây là đại phát khởi thứ tám.
Giảng: 8. Đại Bồ Tát lại nghĩ như vầy : Sau khi các Như Lai đó diệt độ rồi, tôi sẽ vì hết thảy xá lợi của mỗi đức Như Lai, xây dựng bảo tháp cao lớn, đồng với bất khả thuyết các thế giới. Tạo hình tượng Phật, cũng lại như thế. Trải qua số kiếp không thể nghĩ bàn, dùng tất cả tràng báu, phan báu, lọng báu, hương báu, hoa báu, y báu, để cúng dường. Chẳng sinh một tâm niệm nhàm mỏi, vì thành tựu Phật pháp, vì cúng dường chư Phật, vì giáo hoá tất cả chúng sinh, vì hộ trì chánh pháp, khai thị diễn nói. Đó là tâm đại phát khởi thứ tám.
Bồ-Tát Ma-ha-tát hựu tác thị niệm: ngã đương dĩ thử thiện căn thành vô thượng Bồ-đề, đắc nhập nhất thiết chư Như Lai địa, dữ nhất thiết Như Lai thể tánh bình đẳng. Thị vi đệ cửu Đại phát khởi.
Đại Bồ Tát lại nghĩ rằng: Tôi sẽ dùng thiện căn này thành Vô thượng Bồ đề được nhập Phật địa. Cùng với tất cả Như Lai thể tánh bình đẳng. Ðây là đại phát khởi thứ chín.
Giảng: 9. Đại Bồ Tát lại nghĩ như vầy : Tôi sẽ dùng căn lành nầy, để thành tựu quả vô thượng bồ đề, chứng nhập vào bậc của tất cả chư Phật Như Lai, bình đẳng thể tánh với tất cả Như Lai. Đó là đại phát khởi thứ chín.
Bồ-Tát Ma-ha-tát phục tác thị niệm: ngã đương thành chánh giác dĩ, ư nhất thiết thế giới bất khả thuyết kiếp, diễn thuyết Chánh Pháp, thị hiện bất khả tư nghị tự tại thần thông, thân, ngữ cập ý bất sanh bì quyện, bất ly chánh pháp. Dĩ Phật lực sở trì cố, vi nhất thiết chúng sanh cần hành đại nguyện cố, đại từ vi thủ cố, đại bi cứu cánh cố, đạt vô tướng Pháp cố, trụ chân thật ngữ cố, chứng nhất thiết pháp giai tịch diệt cố; tri nhất thiết chúng sanh tất bất khả đắc nhi diệc bất vi chư nghiệp sở tác cố, dữ tam thế Phật đồng nhất thể cố, chu biến pháp giới, hư không giới cố, thông đạt chư Pháp vô tướng cố, thành tựu bất sanh bất diệt cố, cụ túc nhất thiết Phật Pháp cố, dĩ đại nguyện lực điều phục chúng sanh, tác Đại Phật sự vô hữu hưu tức. Thị vi đệ thập Đại phát khởi.
Đại Bồ Tát lại nghĩ rằng: Khi tôi đã thành Chánh giác, nơi tất cả thế giới trong bất khả thuyết kiếp diễn thuyết chánh pháp, thị hiện bất tư nghì thần thông tự tại. Thân, ngữ, ý chẳng nhàm mỏi, chẳng rời chánh pháp. Vì do Phật lực hộ trì, vì tất cả chúng sanh mà siêng thật hành đại nguyện, vì đại từ làm đầu, vì đại bi rốt ráo, vì đạt pháp vô tướng, vì trụ chơn thiệt ngữ, vì chứng tất cả pháp đều tịch diệt, vì biết tất cả chúng sanh đều bất khả đắc mà cũng chẳng trái những công hạnh đã làm, vì cùng tam thế Phật đồng một thể, vì cùng khắp pháp giới hư không giới, vì thông đạt chư pháp vô tướng, vì thành tựu bất sanh bất diệt, vì đầy đủ tất cả Phật pháp nên dùng sức đại nguyện điều phục chúng sanh làm đại Phật sự không có thôi nghỉ. Ðây là đại phát khởi thứ mười.
Giảng: 10. Đại Bồ Tát lại nghĩ như vầy : Sau khi tôi sẽ thành Chánh Giác rồi, trong tất cả thế giới, trải qua bất khả thuyết kiếp, diễn nói chánh pháp. Thị hiện thần thông tự tại không thể nghĩ bàn. Thân miệng và ý chẳng sinh tâm mệt mỏi, chẳng lìa chánh pháp. Do nhờ Phật lực gia trì, vì tất cả chúng sinh siêng tu hành đại nguyện, vì đại từ làm đầu, vì đại bi rốt ráo, vì đạt pháp vô tướng, vì trụ lời chân thật, vì chứng tất cả pháp đều tịch diệt, vì biết tất cả chúng sinh đều bất khả đắc, nhưng cũng không trái với các nghiệp đã làm, vì đồng một thể với chư Phật ba đời, vì khắp cùng pháp giới hư không giới, vì thông đạt các pháp vô tướng, vì thành tựu bất sinh bất diệt, vì đầy đủ tất cả Phật pháp. Dùng đại nguyện lực điều phục chúng sinh, làm đại Phật sự không khi nào ngừng nghỉ. Đó là tâm đại phát khởi thứ mười.
Phật tử! thị vi Bồ-Tát Ma-ha-tát thập chủng Đại phát khởi. Nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức bất đoạn Bồ Tát hạnh, cụ túc Như Lai vô thượng đại trí.
Phật tử ! Đó là mười thứ đại phát khởi của đại Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ pháp nầy, thì sẽ chẳng dứt Bồ Tát hạnh, đầy đủ đại trí vô thượng của Như Lai.
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đó là mười thứ tâm đại phát khởi của đại Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ chẳng dứt hẳn Bồ Tát hạnh, đầy đủ đại trí huệ vô thượng của Như Lai.
====================================
Thập Chủng Cứu Cánh Đại Sự
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng cứu cánh đại sự. Hà đẳng vi thập? sở vị:
Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười đại sự rốt ráo. Những gì là mười ? Đó là:
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười đại sự rốt ráo. Những gì là mười ? Đó là :
Cung kính cúng dường nhất thiết Như Lai cứu cánh đại sự
Ðại sự rốt ráo cung kính cúng dường tất cả Như Lai.
Giảng: 1. Đại sự rốt ráo cung kính cúng dường tất cả Như Lai mười phương ba đời.
Tùy sở niệm chúng sanh tất năng cứu hộ cứu cánh đại sự
Ðại sự rốt ráo tùy nghĩ nhớ đến chúng sanh nào có thể cứu hộ.
Giảng: 2. Đại sự rốt ráo tuỳ chỗ nghĩ nhớ của chúng sinh, đều có thể cứu hộ.
Chuyên cầu nhất thiết Phật Pháp cứu cánh đại sự
Ðại sự rốt ráo chuyên cầu tất cả Phật pháp.
Giảng: 3. Đại sự rốt ráo chuyên cầu tất cả Phật pháp.
Tích tập nhất thiết thiện căn cứu cánh đại sự
Ðại sự rốt ráo chứa nhóm tất cả thiện căn.
Giảng: 4. Đại sự rốt ráo tích tập tất cả căn lành.
Tư tánh nhất thiết Phật Pháp cứu cánh đại sự
Ðại sự rốt ráo tư duy tất cả Phật pháp.
Giảng: 5. Đại sự rốt ráo tư duy tất cả Phật pháp.
Mãn túc nhất thiết thệ nguyện cứu cánh đại sự
Ðại sự rốt ráo đầy đủ tất cả đại nguyện.
Giảng: 6. Đại sự rốt ráo đầy đủ tất cả thệ nguyện.
Thành tựu nhất thiết Bồ Tát hạnh cứu cánh đại sự
Ðại sự rốt ráo thành tựu tất cả hạnh Bồ Tát.
Giảng: 7. Đại sự rốt ráo thành tựu tất cả Bồ Tát hạnh.
Phụng sự nhất thiết thiện tri thức cứu cánh đại sự
Ðại sự rốt ráo phụng sự tất cả thiện tri thức.
Giảng: 8. Đại sự rốt ráo phụng sự tất cả thiện tri thức, lắng nghe sự chỉ dạy của thiện tri thức.
Vãng nghệ nhất thiết thế giới chư Như Lai sở cứu cánh đại sự
Ðại sự rốt ráo qua đến tất cả thế giới chỗ của chư Phật.
Giảng: 9. Đại sự rốt ráo đi đến tất cả thế giới chỗ đạo tràng của tất cả Như Lai, cúng dường Phật, lễ lạy Phật.
Văn trì nhất thiết chư Phật chánh pháp cứu cánh đại sự
Ðại sự rốt ráo nghe và thọ trì chánh pháp của chư Phật.
Giảng: 10. Đại sự rốt ráo lắng nghe giữ gìn chánh pháp của tất cả chư Phật.
Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức đắc A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề đại trí tuệ cứu cánh sự.
Đó là mười. Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được sự rốt ráo đại trí huệ Vô thượng Bồ đề.
Giảng: Đó là mười pháp đại sự rốt ráo. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được đại sự rốt ráo đại trí huệ A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.
=========================================
Thập Chủng Bất Hoại Tín
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng bất hoại tín. Hà đẳng vi thập? sở vị:
Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười thứ bất hoại tín. Những gì là mười ? Đó là:
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười đại sự rốt ráo. Những gì là mười ? Đó là :
Ư nhất thiết Phật bất hoại tín Bất hoại tín đối với tất cả chư Phật.
Giảng: 1. Đại sự rốt ráo cung kính cúng dường tất cả Như Lai mười phương ba đời.
Ư nhất thiết Phật Pháp bất hoại tín Bất hoại tín đối với tất cả Phật pháp.
Giảng: 2. Đại sự rốt ráo tuỳ chỗ nghĩ nhớ của chúng sinh, đều có thể cứu hộ.
Ư nhất thiết Thánh Tăng bất hoại tín; Bất hoại tín đối với tất cả Thánh tăng.
Giảng: 3. Đại sự rốt ráo chuyên cầu tất cả Phật pháp.
Ư nhất thiết Bồ Tát bất hoại tín Bất hoại tín đối với tất cả Bồ Tát.
Giảng: 4. Đại sự rốt ráo tích tập tất cả căn lành.
Ư nhất thiết thiện tri thức bất hoại tín Bất hoại tín đối với tất cả thiện tri thức.
Giảng: 5. Đại sự rốt ráo tư duy tất cả Phật pháp.
Ư nhất thiết chúng sanh bất hoại tín Bất hoại tín đối với tất cả chúng sanh.
Giảng: 6. Đại sự rốt ráo đầy đủ tất cả thệ nguyện.
Ư nhất thiết Bồ Tát đại nguyện bất hoại tín Bất hoại tín đối với đại nguyện của tất cả Bồ Tát.
Giảng: 7. Đại sự rốt ráo thành tựu tất cả Bồ Tát hạnh.
Ư nhất thiết Bồ Tát hạnh bất hoại tín Bất hoại tín đối với tất cả Bồ Tát hạnh.
Giảng: 8. Đại sự rốt ráo phụng sự tất cả thiện tri thức, lắng nghe sự chỉ dạy của thiện tri thức.
Ư cung kính cúng dường nhất thiết chư Phật bất hoại tín
Bất hoại tín đối với sự cung kính cúng dường tất cả chư Phật.
Giảng: 9. Đại sự rốt ráo đi đến tất cả thế giới chỗ đạo tràng của tất cả Như Lai, cúng dường Phật, lễ lạy Phật.
Ư Bồ Tát xảo mật phương tiện giáo hóa điều phục nhất thiết chúng sanh bất hoại tín.
Bất hoại tín đối với phương tiện thiện xảo giáo hóa điều phục tất cả chúng sanh của Bồ Tát.
Giảng: 10. Đại sự rốt ráo lắng nghe giữ gìn chánh pháp của tất cả chư Phật.
Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức đắc chư Phật vô thượng đại trí tuệ bất hoại tín.
Đó là mười. Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được bất hoại tín đại trí huệ vô thượng của chư Phật.
Giảng: Đó là mười pháp đại sự rốt ráo. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được đại sự rốt ráo đại trí huệ A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.
========================================
Thập Chủng Đắc Thọ Kí
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng đắc thọ kí. Hà đẳng vi thập? sở vị:
Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười điều được thọ ký. Những gì là mười ? Đó là:
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ tin bất hoại. Những gì là mười ? Đó là :
Nội hữu thậm thâm giải đắc thọ kí Trong có tri giải thậm thâm, được thọ ký.
Giảng: 1. Tin bất hoại đối với tất cả chư Phật.
Năng tùy thuận khởi bồ tát chư thiện căn đắc thọ kí
Hai tùy thuận phát khởi những Bồ Tát thiện căn, được thọ ký.
Giảng: 2. Tin bất hoại đối với tất cả các pháp.
Tu quảng đại hạnh đắc thọ kí Tu quảng đại hạnh, được thọ ký.
Giảng: 3. Tin bất hoại đối với tất cả Thánh Tăng.
Hiện tiền đắc thọ kí Hiện tiền, được thọ ký.
Giảng: 4. Tin bất hoại đối với tất cả Bồ Tát.
Bất hiện tiền đắc thọ kí Chẳng hiện tiền, được thọ ký.
Giảng: 5. Tin bất hoại đối với tất cả thiện tri thức.
Nhân tự tâm chứng Bồ-đề đắc thọ kí Nhơn tự tâm chứng Bồ đề, được thọ ký.
Giảng: 6. Tin bất hoại đối với tất cả chúng sinh.
Thành tựu nhẫn đắc thọ kí Thành tựu nhẫn, được thọ ký.
Giảng: 7. Tin bất hoại đối với tất cả Bồ Tát đại nguyện.
Giáo hóa điều phục chúng sanh đắc thọ kí Giáo hóa điều phục chúng sanh, được thọ ký.
Giảng: 8. Tin bất hoại đối với tất cả Bồ Tát hạnh.
Cứu cánh nhất thiết kiếp số đắc thọ kí Rốt ráo tất cả kiếp số, được thọ ký.
Giảng: 9. Tin bất hoại đối với sự cung kính cúng dường tất cả chư Phật.
Nhất thiết Bồ Tát hạnh tự tại đắc thọ kí. Tất cả Bồ Tát hạnh tự tại, được thọ ký.
Giảng: 10. Tin bất hoại đối với Bồ Tát phương tiện khéo léo giáo hoá điều phục tất cả chúng sinh.
Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức ư nhất thiết chư Phật sở nhi đắc thọ kí.
Đó là mười. Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này, thời ở chỗ chư Phật được thọ ký.
Giảng: Đó là mười thứ tâm tin bất hoại của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ pháp nầy, thì sẽ đắc được tin bất hoại đại trí huệ vô thượng của chư Phật.
==========================================
Thập Chủng Thiện Căn Hồi Hướng
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng thiện căn hồi hướng, Bồ Tát do thử năng dĩ nhất thiết thiện căn tất giai hồi hướng. Hà đẳng vi thập? sở vị:
Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười thứ thiện căn hồi hướng. Bồ Tát do đây có thể dùng tất cả thiện căn thảy đều hồi hướng. Những gì là mười ? Đó là:
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ hồi hướng căn lành. Bồ Tát nhờ đó mà có thể đem tất cả căn lành, đều hồi hướng đến tất cả chúng sinh, tất cả bồ đề, tất cả thật tế. Những gì là mười ? Đó là :
Mạc biệt thành tựu; dĩ ngã thiện căn đồng thiện tri thức nguyện, như thị thành tựu
Do thiện căn tôi đồng thiện tri thức nguyện. Thành tựu như đây chớ thành tựu khác.
Giảng: 1. Đem căn lành của tôi, đồng nguyện với thiện tri thức, thành tựu như vậy, chớ thành tựu khác.
Mạc biệt thành tựu; dĩ ngã thiện căn đồng thiện tri thức tâm, như thị thành tựu
Do thiện căn tôi đồng thiện tri thức tâm. Thành tựu như đây chớ thành tựu khác.
Giảng: 2. Đem căn lành của tôi, đồng tâm với thiện tri thức, thành tựu như vậy, chớ thành tựu khác.
Mạc biệt thành tựu; dĩ ngã thiện căn đồng thiện tri thức hạnh, như thị thành tựu,
Do thiện căn tôi đồng thiện tri thức hạnh. Thành tựu như đây chớ thành tựu khác.
Giảng: 3. Đem căn lành của tôi, đồng hạnh với thiện tri thức, thành tựu như vậy, chớ thành tựu khác.
Mạc biệt thành tựu; dĩ ngã thiện căn đồng thiện tri thức thiện căn, như thị thành tựu
Do thiện căn tôi đồng thiện tri thức thiện căn. Thành tựu như đây chớ thành tựu khác.
Giảng: 4. Đem căn lành của tôi, đồng thiện căn với thiện tri thức, thành tựu như vậy, chớ thành tựu khác.
Mạc biệt thành tựu; dĩ ngã thiện căn đồng thiện tri thức bình đẳng, như thị thành tựu
Do thiện căn tôi đồng thiện tri thức bình đẳng. Thành tựu như đây chớ thành tựu khác.
Giảng: 5. Đem căn lành của tôi, đồng bình đẳng với thiện tri thức, thành tựu như vậy, chớ thành tựu khác.
Mạc biệt thành tựu; dĩ ngã thiện căn đồng thiện tri thức niệm, như thị thành tựu
Do thiện căn tôi đồng thiện tri thức niệm. Thành tựu như đây chớ thành tựu khác.
Giảng: 6. Đem căn lành của tôi, đồng niệm với thiện tri thức, thành tựu như vậy, chớ thành tựu khác.
Mạc biệt thành tựu; dĩ ngã thiện căn đồng thiện tri thức thanh tịnh, như thị thành tựu
Do thiện căn tôi đồng thiện tri thức thanh tịnh. Thành tựu như đây chớ thành tựu khác.
Giảng: 7. Đem căn lành của tôi, đồng thanh tịnh với thiện tri thức, thành tựu như vậy, chớ thành tựu khác.
Mạc biệt thành tựu; dĩ ngã thiện căn đồng thiện tri thức sở trụ, như thị thành tựu
Do thiện căn tôi đồng thiện tri thức sở trụ. Thành tựu như đây chớ thành tựu khác.
Giảng: 8. Đem căn lành của tôi, đồng sở trụ với thiện tri thức, thành tựu như vậy, chớ thành tựu khác.
Mạc biệt thành tựu; dĩ ngã thiện căn đồng thiện tri thức thành mãn, như thị thành tựu
Do thiện căn tôi đồng thiện tri thức thành mãn. Thành tựu như đây chớ thành tựu khác.
Giảng: 9. Đem căn lành của tôi, đồng thành mãn với thiện tri thức, thành tựu như vậy, chớ thành tựu khác.
Mạc biệt thành tựu; dĩ ngã thiện căn đồng thiện tri thức bất hoại, như thị thành tựu,
Do thiện căn tôi đồng thiện tri thức bất hoại. Thành tựu như đây chớ thành tựu khác.
Giảng: 10. Đem căn lành của tôi, đồng bất hoại với thiện tri thức, thành tựu như vậy, chớ thành tựu khác.
Thị vi thập. nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức đắc vô thượng thiện căn hồi hướng.
Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được thiện căn hồi hướng vô thượng.
Giảng: Đó là mười pháp hồi hướng căn lành. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được căn lành hồi hướng vô thượng.
===========================================
Thập Chủng Đắc Trí Tuệ
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng đắc trí tuệ. Hà đẳng vi thập? sở vị:
Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười pháp được trí huệ. Những gì là mười ? Đó là:
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có thứ được trí huệ. Những gì là mười ? Đó là :
Ư thí tự tại đắc trí tuệ
Xả thí tự tại, được trí huệ.
Giảng: 1. Đối với sự bố thí tự tại được trí huệ.
Thâm giải nhất thiết Phật Pháp đắc trí tuệ
Hiểu sâu tất cả Phật pháp, được trí huệ.
Giảng: 2. Hiểu sâu tất cả Phật pháp được trí huệ.
Nhập Như Lai vô biên trí đắc trí tuệ
Nhập Như Lai trí, được trí huệ.
Giảng: 3. Vào vô biên trí Như Lai được trí huệ.
Ư nhất thiết vấn đáp trung năng đoạn nghi đắc trí tuệ
Hay đoạn nghi trong tất cả vấn đáp, được trí huệ.
Giảng: 4. Trong tất cả vấn đáp hay dứt nghi được trí huệ.
Nhập ư trí giả nghĩa đắc trí tuệ
Nhập nơi nghĩa của trí giả, được trí huệ.
Giảng: 5. Vào nơi nghĩa của bậc trí được trí huệ.
Thâm giải nhất thiết Như Lai ư nhất thiết Phật Pháp trung ngôn âm thiện xảo đắc trí tuệ
Hay hiểu sâu ngôn âm thiện xảo trong tất cả Phật pháp của tất cả chư Phật, được trí huệ.
Giảng: 6. Hiểu sâu tất cả Như Lai, ở trong tất cả Phật pháp lời nói âm thanh khéo léo được trí huệ.
Thâm giải ư chư Phật sở chủng thiểu thiện căn tất năng mãn túc nhất thiết bạch tịnh Pháp hoạch Như Lai vô lượng trí đắc trí tuệ
Hiểu sâu ở chỗ chư Phật gieo ít căn lành tất có thể đầy đủ tất cả pháp bạch tịnh, được trí vô lượng của Như Lai, được trí huệ.
Giảng: 7. Hiểu sâu chỗ chư Phật, gieo trồng chút căn lành, tất sẽ đầy đủ tất cả pháp trắng tịnh, đắc được vô lượng trí Như Lai được trí huệ.
Thành tựu Bồ Tát bất tư nghị trụ đắc trí tuệ;
Thành tựu Bồ Tát bất tư nghì trụ, được trí huệ.
Giảng: 8. Thành tựu trụ không thể nghĩ bàn của Bồ Tát được trí huệ.
Ư nhất niệm trung tất năng vãng nghệ bất khả thuyết Phật sát đắc trí tuệ
Ở trong một niệm đều có thể qua đến bất khả thuyết cõi Phật, được trí huệ.
Giảng: 9. Ở trong một niệm, đều có thể đi đến bất khả thuyết cõi Phật được trí huệ.
Giác nhất thiết Phật Bồ-đề, nhập nhất thiết pháp giới văn trì nhất thiết Phật sở thuyết pháp, thâm nhập nhất thiết Như Lai chủng chủng trang nghiêm ngôn âm đắc trí tuệ.
Giác ngộ chư Phật Bồ đề, nhập tất cả pháp giới, văn trì tất cả pháp của Phật nói, vào sâu những ngôn âm trang nghiêm của tất cả Như Lai, được trí huệ.
Giảng: 10. Giác tất cả Phật bồ đề, vào tất cả pháp giới, lắng nghe thọ trì pháp của tất cả chư Phật nói, vào sâu đủ thứ lời nói âm thanh trang nghiêm của tất cả Như Lai được trí huệ.
Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức đắc nhất thiết chư Phật vô thượng hiện chứng trí.
Đó là mười. Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được hiện chứng trí vô thượng của tất cả chư Phật.
Giảng: Đó là mười pháp được trí huệ. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được hiện chứng trí huệ vô thượng của tất cả chư Phật.
===================================
Thập Chủng Phát Vô Lượng Vô Biên Quảng Đại Tâm
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng phát vô lượng vô biên quảng đại tâm. Hà đẳng vi thập? sở vị:
Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười pháp phát tâm vô lượng vô biên quảng đại tâm. Những gì là mười ? Đó là:
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ phát tâm rộng lớn vô lượng vô biên. Những gì là mười ? Đó là :
Ư nhất thiết chư Phật sở, phát vô lượng vô biên quảng đại tâm
Ở chỗ của tất cả chư Phật phát vô lượng vô biên quảng đại tâm.
Giảng: 1. Ở chỗ đạo tràng của tất cả chư Phật mười phương, phát tâm rộng lớn vô lượng vô biên.
Quán nhất thiết chúng sanh giới, phát vô lượng vô biên quảng đại tâm
Quán tất cả chúng sanh giới phát vô lượng vô biên quảng đại tâm.
Giảng: 2. Quán tất cả cõi chúng sinh, phát tâm rộng lớn vô lượng vô biên.
Quán nhất thiết sát, nhất thiết thế, nhất thiết pháp giới, phát vô lượng vô biên quảng đại tâm
Quán sát tất cả cõi, tất cả thế, tất cả pháp giới phát vô lượng vô biên quảng đại tâm.
Giảng: 3. Quán sát tất cả cõi Phật, tất cả thế giới, tất cả pháp giới, phát tâm rộng lớn vô lượng vô biên.
Quan sát nhất thiết pháp giai như hư không, phát vô lượng vô biên quảng đại tâm
Quán sát tất cả pháp đều như hư không phát vô lượng vô biên quảng đại tâm.
Giảng: 4. Quán sát tất cả pháp đều như hư không, không có sự chấp trước, phát tâm rộng lớn vô lượng vô biên.
Quan sát nhất thiết Bồ Tát quảng đại hạnh, phát vô lượng vô biên quảng đại tâm
Quán sát hạnh quảng đại của Bồ Tát phát vô lượng vô biên quảng đại tâm.
Giảng: 5. Quán sát tất cả Bồ Tát hạnh rộng lớn, phát tâm rộng lớn vô lượng vô biên.
Chánh niệm tam thế nhất thiết chư Phật, phát vô lượng vô biên quảng đại tâm
Chánh niệm tam thế tất cả chư Phật phát vô lượng vô biên quảng đại tâm.
Giảng: 6. Chánh niệm mười phương ba đời tất cả chư Phật, phát tâm rộng lớn vô lượng vô biên.
Quán bất tư nghị chư nghiệp quả báo, phát vô lượng vô biên quảng đại tâm
Quán sát những nghiệp báo bất tư nghì phát vô lượng vô biên quảng đại tâm
Giảng: 7. Quán các nghiệp quả báo không thể nghĩ bàn, phát tâm rộng lớn vô lượng vô biên.
Nghiêm tịnh nhất thiết Phật sát, phát vô lượng vô biên quảng đại tâm
Nghiêm tịnh tất cả cõi Phật phát vô lượng vô biên quảng đại tâm.
Giảng: 8. Trang nghiêm thanh tịnh tất cả cõi Phật, phát tâm rộng lớn vô lượng vô biên.
Biến nhập nhất thiết chư Phật đại hội, phát vô lượng vô biên quảng đại tâm
Vào khắp đại hội của tất cả chư Phật phát vô lượng vô biên quảng đại tâm.
Giảng: 9. Vào khắp đại hội của tất cả chư Phật mười phương, lắng nghe chánh pháp, phát tâm rộng lớn vô lượng vô biên.
Quan sát nhất thiết Như Lai Diệu-Âm, phát vô lượng vô biên quảng đại tâm.
Quán sát diệu âm của tất cả Như Lai phát vô lượng vô biên quảng đại tâm.
Giảng: 10. Quán sát diệu âm của tất cả chư Phật mười phương, phát tâm rộng lớn vô lượng vô biên.
Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ thử tâm, tức đắc nhất thiết Phật Pháp vô lượng vô biên quảng đại trí tuệ hải.
Đó là mười. Nếu chư Bồ Tát an trụ mười tâm quảng đại này thời được biển trí huệ quảng đại vô lượng vô biên tất cả Phật pháp.
Giảng: Đó là mười thứ phát tâm rộng lớn vô lượng vô biên. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được biển trí huệ tất cả Phật pháp rộng lớn vô lượng vô biên.
=======================================
Thập Chủng Phục Tạng
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng phục tạng. Hà đẳng vi thập? sở vị:
Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười phục tạng. Những gì là mười ? Đó là:
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ phục tạng. Những gì là mười ? Đó là :
Phục tạng là gì ? Đó là hồi hướng vô tận công đức trong hạnh. Phục là tức pháp mà quán, hoặc nghĩa là chẳng thấy. Tạng là nơi tất cả các pháp.
Tri nhất thiết pháp thị khởi công đức hạnh tạng
Biết tất cả pháp là tạng khởi hạnh công đức.
Giảng: 1. Bồ Tát biết tất cả pháp, là bảo tạng sinh khởi hạnh công đức.
Tri nhất thiết pháp thị chánh tư duy tạng
Biết tất cả pháp là tạng chánh tư duy.
Giảng: 2. Bồ Tát biết tất cả pháp, là bảo tạng chánh tư duy.
Tri nhất thiết pháp thị đà La ni chiếu minh tạng
Biết tất cả pháp là tạng đà la ni chiếu sáng.
Giảng: 3. Bồ Tát biết tất cả pháp, là bảo tạng Đà la ni chiếu sáng.
Tri nhất thiết pháp thị biện tài khai diễn tạng
Biết tất cả pháp là tạng biện tài khai diễn.
Giảng: 4. Bồ Tát biết tất cả pháp, là bảo tạng vô ngại biện tài khai diễn.
Tri nhất thiết Pháp thị bất khả thuyết thiện giác chân thật tạng
Biết tất cả pháp là tạng bất khả thuyết thiện giác chơn thiệt.
Giảng: 5. Bồ Tát biết tất cả pháp, là bảo tạng bất khả thuyết khéo hay giác ngộ chân thật.
Tri nhất thiết Phật tự tại thần thông thị quan sát thị hiện tạng
Biết tất cả Phật tự tại thần thông là tạng quán sát thị hiện.
Giảng: 6. Bồ Tát biết tất cả thần thông nhậm vận tự tại của Phật, là bảo tạng quán sát thị hiện.
Tri nhất thiết pháp thị thiện xảo xuất sanh bình đẳng tạng
Biết tất cả pháp là tạng thiện xảo xuất sanh bình đẳng.
Giảng: 7. Bồ Tát biết tất cả pháp, là bảo tạng khéo léo sinh ra bình đẳng.
Tri nhất thiết pháp thị thường kiến nhất thiết chư Phật tạng
Biết tất cả pháp là tạng thường thấy tất cả chư Phật.
Giảng: 8. Bồ Tát biết tất cả pháp, là bảo tạng thường thấy tất cả chư Phật.
Tri nhất thiết bất tư nghị kiếp thị thiện liễu giai như huyễn trụ tạng
Biết tất cả bất tư nghì kiếp là tạng biết rõ đều như huyễn trụ.
Giảng: 9. Bồ Tát biết tất cả kiếp không nghĩ bàn, là bảo tạng khéo hay biết rõ đều trụ như huyễn hoá.
Tri nhất thiết chư Phật Bồ-tát thị phát sanh hoan hỉ tịnh tín tạng.
Biết tất cả chư Phật Bồ Tát là tạng phát sanh hoan hỷ tịnh tín.
Giảng: 10. Bồ Tát biết tất cả chư Phật Bồ Tát, là bảo tạng phát sinh hoan hỉ tịnh tín.
Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức đắc nhất thiết chư Phật vô thượng trí tuệ Pháp tạng, tất năng điều phục nhất thiết chúng sanh.
Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được pháp tạng trí huệ vô thượng của tất cả chư Phật. Trọn có thể điều phục tất cả chúng sanh.
Giảng: Đó là mười thứ pháp phục tạng. Nếu các Bồ Tát an trụ pháp nầy, thì sẽ đắc được pháp tạng trí huệ vô thượng của tất cả chư Phật, đều điều phục được tất cả chúng sinh.
======================================
Thập Chủng Luật Nghi
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng luật nghi. Hà đẳng vi thập? sở vị:
Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười luật nghi. Những gì là mười ? Đó là:
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ luật nghi. Những gì là mười ? Đó là :
Ư nhất thiết Phật Pháp bất sanh phỉ báng luật nghi
Luật nghi chẳng hủy báng tất cả Phật pháp.
Giảng: 1. Luật nghi chẳng sinh phỉ báng, đối với tất cả Phật pháp.
Ư nhất thiết Phật sở tín lạc tâm bất khả hoại luật nghi
Luật nghi ở chỗ chư Phật tin mến tâm chẳng hoại được.
Giảng: 2. Luật nghi tâm tin ưa không phá hoại, ở chỗ đạo tràng của tất cả chư Phật.
Ư nhất thiết Bồ Tát sở khởi tôn trọng cung kính luật nghi
Luật nghi tôn trọng cung kính tất cả Bồ Tát.
Giảng: 3. Luật nghi khởi tâm tôn trọng cung kính, ở chỗ đạo tràng của tất cả Bồ Tát.
Ư nhất thiết thiện tri thức sở chung bất xả ái lạc tâm luật nghi
Luật nghi trọn chẳng bỏ tâm mến thích tất cả thiện tri thức.
Giảng: 4. Luật nghi trọn không xả tâm ái lạc, ở chỗ đạo tràng của tất cả thiện tri thức.
Ư nhất thiết Thanh văn, độc giác bất sanh ức niệm tâm luật nghi
Luật nghi chẳng móng lòng ghi nhớ tất cả Thanh Văn, Ðộc Giác.
Giảng: 5. Luật nghi chẳng sinh tâm nghĩ nhớ, đối với tất cả Thanh Văn Độc Giác, nghĩa là không tu hành pháp nhị thừa (Tứ diệu đế và mười hai nhân duyên).
Viễn ly nhất thiết thoái Bồ Tát đạo luật nghi
Luật nghi xa lùa tất cả sự thối chuyển Bồ Tát đạo.
Giảng: 6. Luật nghi xa lìa tất cả thối chuyển Bồ Tát đạo.
Bất khởi nhất thiết tổn hại chúng sanh tâm luật nghi
Luật nghi chẳng khởi tất cả tâm tổn hại chúng sanh.
Giảng: 7. Luật nghi tuyệt đối chẳng khởi tâm tổn hại tất cả chúng sinh.
Tu nhất thiết thiện căn giai lệnh cứu cánh luật nghi
Luật nghi tu tất cả thiện căn đều khiến rốt ráo.
Giảng: 8. Luật nghi tu tất cả căn lành, đều khiến cho rốt ráo.
Ư nhất thiết ma tất năng hàng phục luật nghi
Luật nghi đều có thể hàng phục được tất cả ma.
Giảng: 9. Luật nghi đối với tất cả ma, đều hàng phục được, không để cho chúng nổi sóng làm gió, làm hại chúng sinh.
Ư nhất thiết Ba-la-mật giai lệnh mãn túc luật nghi
Luật nghi đều làm cho đầy đủ tất cả Ba la mật.
Giảng: 10. Luật nghi đối với tất cả Ba la mật, đều khiến cho viên mãn đầy đủ.
Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức đắc vô thượng đại trí luật nghi.
Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được luật nghi đại trí vô thượng.
Giảng: Đó là mười. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được luật nghi đại trí vô thượng.
=================================
Thập Chủng Tự Tại
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng tự tại. Hà đẳng vi thập? sở vị:
Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười tự tại. Những gì là mười ? Đó là:
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ tự tại. Những gì là mười ? Đó là :
Mạng tự tại, ư bất khả thuyết kiếp trụ thọ mạng cố
Mạng tự tại, vì trụ thọ mạng trong bất khả thuyết kiếp.
Giảng: 1. Mạng tự tại, vì trong bất khả thuyết kiếp trụ thọ mạng, cũng có thể nói là muốn sống thì sống, muốn diệt thì diệt.
Tâm tự tại, trí tuệ năng nhập a-tăng-kì chư tam muội cố
Tâm tự tại, vì trí huệ hay nhập vô số tam muội.
Giảng: 2. Tâm tự tại, vì trí huệ vào được A tăng kỳ các tam muội.
Tư cụ tự tại, năng dĩ vô lượng trang nghiêm trang nghiêm nhất thiết thế giới cố
Ðồ dùng tự tại, vì hay dùng vô lượng đồ trang nghiêm để trang nghiêm tất cả thế giới
Giảng: 3. Đồ dùng tự tại, vì muốn dùng gì thì dùng, rất là nhậm vận tự tại, có thể dùng vô lượng sự trang nghiêm, để trang nghiêm tất cả thế giới.
Nghiệp tự tại, tùy thời thọ báo cố
Nghiệp tự tại, vì tùy thời thọ báo.
Giảng: 4. Nghiệp tự tại, nghiệp là nghiệp báo. Nghiệp báo cũng tự do tự tại, tuỳ thời tuỳ lúc có thể thọ quả báo. Tóm lại, muốn lúc nào thọ quả báo, thì thọ lúc đó. Nếu không muốn thọ thì để đó, không bắt buộc, không miễn cưỡng, tuỳ ý mà làm.
Thọ sanh tự tại, ư nhất thiết thế giới thị hiện thọ sanh cố
Thọ sanh tự tại, vì thị hiện thọ sanh nơi tất cả thế giới.
Giảng: 5. Thọ sanh tự tại, bất cứ nhập thai, trụ thai, đều tự tại, chẳng bị hạn chế. Nơi tất cả thế giới thị hiện thọ sanh.
Giải tự tại, ư nhất thiết thế giới kiến Phật sung mãn cố
Giải tự tại, vì thấy Phật đầy khắp tất cả thế giới.
Giảng: 6. Hiểu tự tại, vì trong mười phương tất cả thế giới thấy Phật đầy khắp.
Nguyện tự tại, tùy dục tùy thời ư chư sát trung thành chánh giác cố
Nguyện tự tại, vì trong các cõi tùy dục tùy thời mà thành Chánh giác.
Giảng: 7. Nguyện tự tại, tuỳ ý muốn tuỳ thời, ở trong tất cả cõi nước thành Chánh Giác.
Thần lực tự tại, thị Hiện-Nhất-Thiết Đại thần biến cố
Thần lực tự tại, vì thị hiện tất cả đại thần thông.
Giảng: 8. Thần lực tự tại, vì có thể thị hiện tất cả đại thần thông biến hoá.
Pháp tự tại, thị hiện vô biên chư Pháp môn cố
Pháp tự tại, vì thị hiện vô biên pháp môn.
Giảng: 9. Pháp tự tại, vì có thể thị hiện vô biên tất cả pháp môn.
Trí tự tại, ư niệm niệm trung thị hiện Như Lai thập lực, vô úy, thành chánh giác cố
Trí tự tại, vì trong mỗi niệm thị hiện Như Lai thập lực vô úy thành Chánh giác
Giảng: 10. Trí tự tại, vì ở trong niệm niệm, có thể thị hiện thập lực và bốn vô uý của Như Lai, mà thành Chánh Giác.
Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức đắc viên mãn nhất thiết chư Phật chư Ba-la-mật trí tuệ thần lực Bồ-đề tự tại.
Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được viên mãn tất cả các môn Ba la mật, Trí huệ thần lực, Bồ đề tự tại của chư Phật.
Giảng: Đó là mười thứ pháp tự tại của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ được viên mãn các Ba la mật, trí huệ thần lực, bồ đề tự tại, của tất cả chư Phật.
==================================================
QUYỂN NĂM MƯƠI SÁU
— o0o —
Thập Chủng Vô Ngại Dụng
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng vô ngại dụng. Hà đẳng vi thập? sở vị:
Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười vô ngại dụng. Những gì là mười ? Đó là:
Giảng: Bồ Tát Phổ Hiền dùng tâm đại từ đại bi, để giáo hoá chúng ta chúng sinh ngu si, giúp Phật hoằng dương giáo hoá, để diễn nói diệu nghĩa Kinh Hoa Nghiêm.
Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười pháp vô ngại dụng. Vô ngại dụng là gì ? Tức là dụng đồ hổ tương chẳng có chướng ngại. Chẳng phải có một thứ dụng đồ, mà là có vô lượng thứ dụng đồ. Đưa ra một ví dụ để nói rõ, giống như đạo lý sáu căn hổ dụng với nhau. Con mắt chẳng những nhìn thấy được sự vật, mà còn có thể nghe được âm thanh, lại có thể ngửi mùi, lại có thể nếm vị, lại có thể xúc giác, lại có thể biết pháp. Còn năm căn kia cũng giống như vậy, mỗi một căn đều có sáu thứ tác dụng. Tại sao ? Vì đại dụng vô ngại vậy ! Một dụng đầy đủ vô lượng dụng, vô lượng dụng quy về một dụng. Một làm vô lượng chẳng là nhiều, vô lượng làm một chẳng là ít. Do đó :
Một gốc tán làm vạn thù
Vạn thù quy về một gốc.
Đó là đạo lý đại dụng vô ngại. Và đưa ra một ví dụ khác nữa, như cái bàn, người biết xử dụng thì có thể dùng để làm bàn viết, để dùng làm bàn ăn cơm v.v… có đủ thứ dụng đồ, nếu người không biết xử dụng, thì chấp vào một thứ dụng đồ, chẳng biết có dụng đồ thứ hai, như vậy thì chẳng phải là đại dụng vô ngại. Những gì là mười ? Đó là :
Chúng sanh vô ngại dụng Chúng sanh vô ngại dụng.
Quốc độ vô ngại dụng Quốc độ vô ngại dụng
Pháp vô ngại dụng Pháp vô ngại dụng.
Thân vô ngại dụng Thân vô ngại dụng.
Nguyện vô ngại dụng Nguyện vô ngại dụng.
Cảnh giới vô ngại dụng Cảnh giới vô ngại dụng.
Trí vô ngại dụng Trí vô ngại dụng.
Thần thông vô ngại dụng Thần thông vô ngại dụng.
Thần lực vô ngại dụng Thần lực vô ngại dụng
Lực vô ngại dụng. Lực vô ngại dụng.
Giảng:
1. Chúng sinh viên dung vô ngại đại dụng.
2. Cõi nước viên dung vô ngại đại dụng.
3. Pháp viên dung vô ngại đại dụng.
4. Thân viên dung vô ngại đại dụng.
5. Nguyện viên dung vô ngại đại dụng.
6. Cảnh giới viên dung vô ngại đại dụng.
7. Trí viên dung vô ngại đại dụng.
8. Thần thông viên dung vô ngại đại dụng.
9. Thần lực viên dung vô ngại đại dụng.
10. Lực viên dung vô ngại đại dụng.
Phật tử! vân hà vi Bồ-Tát Ma-ha-tát chúng sanh đẳng vô ngại dụng?
Chư Phật tử! Thế nào là chúng sanh vô ngại dụng của Ðại Bồ Tát ?
Giảng: Đó là mười thứ đại dụng vô ngại, ở dưới đây có phân tích nói rõ mỗi thứ. Đây là tổng vấn đề, cho nên mười hồi hướng chỉ có hai mươi chín vấn đề.
==================================================
Thập Chủng Chúng Sanh Vô Ngại Dụng
Phật tử! Bồ Tát ma ha tát hữu thập chủng chúng sanh vô ngại dụng. Hà đẳng vi thập? sở vị:
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười chúng sanh vô ngại dụng. Những gì là mười ? Đó là:
Giảng: Bồ Tát Phổ Hiền lại gọi một tiếng các vị đệ tử của Phật ! Các vị có biết thế nào là đại Bồ Tát chúng sinh đồng vô ngại dụng ? Nếu chẳng hiểu, chẳng biết, xin các vị hãy lắng nghe, hiện tại tôi sẽ vì quý vị giải nói rõ ràng.
Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ chúng sinh vô ngại dụng. Những gì là mười ? Đó là :
Tri nhất thiết chúng sanh vô chúng sanh vô ngại dụng
Biết tất cả chúng sanh không chúng sanh, vô ngại dụng.
Giảng: 1. Bồ Tát biết tất cả chúng sinh, vốn là hư vọng, vì chẳng có chúng sinh, cho nên không chúng sinh có thể độ, có không chỉ là hổ tương vô ngại, có đại dụng vô ngại nầy.
Tri nhất thiết chúng sanh đãn tưởng sở trì vô ngại dụng
Biết tất cả chúng sanh chỉ do tưởng chấp trì, vô ngại dụng.
Giảng: 2. Bồ Tát biết tất cả chúng sinh, do bị vọng tưởng chi trì, cho nên điên điên đảo đảo, có đại dụng vô ngại nầy.
Vi nhất thiết chúng sanh thuyết Pháp vị tằng thất thời vô ngại dụng
Vì tất cả chúng sanh thuyết pháp chưa từng lỗi thời, vô ngại dụng.
Giảng: 3. Bồ Tát vì tất cả chúng sinh thuyết pháp chưa từng thất thời, vô ngại dụng.
Phổ hóa Hiện-Nhất-Thiết chúng sanh giới vô ngại dụng
Khắp hoá hiện tất cả chúng sanh giới, vô ngại dụng.
Giảng: 4. Bồ Tát biến hoá khắp cùng, thị hiện tất cả cõi chúng sinh vô ngại dụng.
Trí nhất thiết chúng sanh ư nhất mao khổng trung nhi bất bách ải vô ngại dụng
Ðể tất cả chúng sanh ở trong một lỗ lông mà không chật hẹp, vô ngại dụng.
Giảng: 5. Bồ Tát đem tất cả chúng sinh, để ở trong một lỗ chân lông mà chẳng cảm thấy chật hẹp, vẫn có không gian, chẳng có hiện tượng ngột ngạt, vô ngại dụng.
Vi nhất thiết chúng sanh thị hiện tha phương nhất thiết thế giới lệnh kỳ tất kiến vô ngại dụng
Vì tất cả chúng sanh thị hiện tất cả thế giới phương khác cho họ đều được thấy, vô ngại dụng.
Giảng: 6. Bồ Tát vì tất cả chúng sinh mà thị hiện tất cả thế giới phương khác, khiến cho họ đều thấy được những cảnh giới đó vô ngại dụng.
Vi nhất thiết chúng sanh thị hiện thích, phạm, hộ thế chư Thiên thân vô ngại dụng
Vì tất cả chúng sanh thị hiện những thân trời: Ðế Thích, Phạm Vương, Tứ Thiên Vương, vô ngại dụng.
Giảng: 7. Bồ Tát vì tất cả chúng sinh mà thị hiện thân Thích Đề Hoàn Nhân, thân Đại Phạm Thiên Vương, thân Hộ Thế Tứ Thiên Vương, vô ngại dụng.
Vi nhất thiết chúng sanh thị hiện Thanh văn, Bích Chi Phật tịch tĩnh uy nghi vô ngại dụng
Vì tát cả chúng sanh thị hiện Thanh Văn, Bích Chi Phật oai nghi tịch tịnh, vô ngại dụng.
Giảng: 8. Bồ Tát vì tất cả chúng sinh thị hiện thân Thanh Văn, thân Bích Chi Phật, rất tịch tĩnh có oai nghi vô ngại dụng.
Vi nhất thiết chúng sanh thị hiện Bồ Tát hạnh vô ngại dụng
Vì tất cả chúng sanh thị hiện Bồ Tát hạnh, vô ngại dụng.
Giảng: 9. Bồ Tát vì tất cả chúng sinh thị hiện Bồ Tát hạnh, phát bồ để tâm như thế nào ? Hành Bồ Tát đạo như thế nào ? Khiến cho chúng sinh y pháp phụng hành, vô ngại dụng.
Vi nhất thiết chúng sanh thị hiện chư Phật sắc thân tướng hảo, nhất thiết trí lực, thành đẳng chánh giác vô ngại dụng.
Vì tất cả chúng sanh thị hiện chư Phật, sắc thân tướng hảo, nhứt thiết trí lực, thành Ðẳng Chánh Giác, vô ngại dụng.
Giảng: 10. Bồ Tát vì tất cả chúng sinh, thị hiện mười phương chư Phật sắc thân tướng tốt, tức cũng là ba mươi hai tướng đại nhân, tám mươi vẻ đẹp thanh tịnh trang nghiêm. Nhất thiết trí huệ, mười lực, thành tựu Chánh Đẳng Chánh Giác, vô ngại dụng.
Thị vi thập.
Đó là mười
Giảng: Đó là mười pháp chúng sinh vô ngại dụng.
==================================================
Thập Chủng Quốc Độ Vô Ngại Dụng
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng quốc độ vô ngại dụng. Hà đẳng vi thập? sở vị:
Ðại Bồ Tát có mười quốc độ vô ngại dụng. Những gì là mười ? Đó là:
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ cõi nước vô ngại dụng. Những gì là mười ? Đó là :
Nhất thiết sát tác nhất sát vô ngại dụng
Tất cả cõi làm một cõi, vô ngại dụng.
Giảng: 1. Bồ Tát có thể đem tất cả cõi Phật, biến hoá làm một cõi Phật; lại có thể đem một cõi Phật, biến hoá làm tất cả cõi Phật, vô ngại dụng.
Nhất thiết sát nhập nhất mao khổng vô ngại dụng
Tất cả cõi vào một lỗ lông, vô ngại dụng.
Giảng: 2. Bồ Tát có thể đem tất cả cõi Phật, để vào trong một lỗ chân lông vô ngại dụng.
Tri nhất thiết sát vô hữu tận vô ngại dụng
Biết tất cả cõi vô tận, vô ngại dụng.
Giảng: 3. Bồ Tát biết tất cả cõi Phật không cùng tận vô ngại dụng.
Nhất thân kiết già tọa sung mãn nhất thiết sát vô ngại dụng
Một thân ngồi kiết già đầy khắp tất cả cõi, vô ngại dụng.
Giảng: 4. Bồ Tát một thân ngồi kiết già, đầy khắp tất cả cõi Phật vô ngại dụng.
Nhất thân trung Hiện-Nhất-Thiết sát vô ngại dụng
Trong một thân hiện tất cả cõi, vô ngại dụng.
Giảng: 5. Bồ Tát có thể trong một thân, thị hiện tất cả cõi Phật vô ngại dụng.
Chấn động nhất thiết sát bất lệnh chúng sanh khủng bố vô ngại dụng
Chấn động tất cả cõi chẳng khiến chúng sanh kinh sợ, vô ngại dụng.
Giảng: 6. Bồ Tát có thể chấn động tất cả cõi Phật, mà chẳng khiến cho tất cả chúng sinh sinh tâm kinh hãi vô ngại dụng.
Dĩ nhất thiết sát trang nghiêm cụ trang nghiêm nhất sát vô ngại dụng
Dùng đồ trang nghiêm tất cả cõi để trang nghiêm một cõi, vô ngại dụng.
Giảng: 7. Bồ Tát có thể dùng đồ trang nghiêm tất cả cõi Phật, để trang nghiêm một cõi Phật vô ngại dụng.
Dĩ nhất sát trang nghiêm cụ trang nghiêm nhất thiết sát vô ngại dụng
Dùng đồ trang nghiêm một cõi để trang nghiêm tất cả cõi, vô ngại dụng.
Giảng: 8. Bồ Tát có thể dùng đồ trang nghiêm một cõi Phật, để trang nghiêm tất cả cõi Phật vô ngại dụng.
Dĩ nhất Như Lai nhất chúng hội biến nhất thiết Phật sát thị hiện chúng sanh vô ngại dụng
Ðem một Như Lai, một chúng hội khắp tất cả Phật độ thị hiện cho chúng sanh, vô ngại dụng.
Giảng: 9. Bồ Tát có thể dùng một đức Như Lai, một chúng hội, khắp cùng tất cả cõi Phật, thị hiện tất cả chúng sinh vô ngại dụng.
Nhất thiết tiểu sát, trung sát, Đại sát, quảng sát, thâm sát, ngưỡng sát, phước sát, trắc sát, chánh sát, biến chư phương võng, vô lượng sái biệt, dĩ thử phổ thị nhất thiết chúng sanh vô ngại dụng.
Tất cả cõi nhỏ, cõi vừa, cõi lớn, cõi rộng, cõi sâu, cõi ngửa, cõi úp, cõi nghiêng, cõi ngay, khắp các phương vô lượng sai biệt. Ðem những cõi này khắp thị hiện cho tất cả chúng sanh, vô ngại dụng.
Giảng: 10. Bồ Tát có thể đem tất cả cõi nhỏ, cõi vừa, cõi lớn, cõi rộng, cõi sâu, cõi ngửa, cõi úp, cõi nghiêng, cõi thẳng, đầy khắp các phương, giống như tấm lưới, những cõi Phật đó có vô lượng khác biệt, đều khác nhau, đem những cõi đó khắp thị hiện cho tất cả chúng sinh vô ngại dụng.
Thị vi thập.
Đó là mười
Giảng: Đó là mười thứ cõi nước vô ngại dụng.
==================================================
Thập Chủng Pháp Vô Ngại Dụng
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng pháp vô ngại dụng. Hà đẳng vi thập? sở vị:
Ðại Bồ Tát có mười pháp vô ngại dụng. Những gì là mười ? Đó là:
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ pháp vô ngại dụng. Những gì là mười ? Đó là :
Tri nhất thiết pháp nhập nhất pháp, nhất pháp nhập nhất thiết pháp, nhi diệc bất vi chúng sanh tâm giải vô ngại dụng
Biết tất cả pháp vào một pháp, một pháp vào tất cả pháp mà chẳng trái tâm giải của chúng sanh, vô ngại dụng.
Giảng: 1. Bồ Tát biết tất cả pháp vào một pháp, một pháp lại vào tất cả pháp, mà cũng chẳng trái với tâm hiểu của tất cả chúng sinh, vô ngại dụng.
Tùng Bát-nhã Ba-la-mật xuất sanh nhất thiết Pháp, vi tha giải thuyết tất lệnh khai ngộ vô ngại dụng
Từ Bát nhã Ba la mật xuất sanh tất cả pháp, vì người khác giải nói đều làm cho khai ngộ, vô ngại dụng.
Giảng: 2. Bồ Tát có thể từ trong Bát Nhã Ba La Mật sinh ra tất cả pháp, hết thảy pháp chẳng ngoài sắc pháp, tâm pháp, tâm sở pháp, bất tương ưng pháp, vô vi pháp, năm loại pháp nầy, hay vì người khác giảng giải diễn nói, đều khiến cho họ hiểu rõ minh bạch nghĩa lý chân thật năm loại pháp nầy, mà thông đạt khai ngộ cảnh giới nầy, vô ngại dụng.
Tri nhất thiết pháp ly văn tự, nhi lệnh chúng sanh giai đắc ngộ nhập vô ngại dụng
Biết tất cả pháp lìa văn tự mà khiến chúng sanh đều được ngộ nhập, vô ngại dụng.
Giảng: 3. Bồ Tát biết tất cả pháp vốn là không. Do đó :
Lìa tướng văn tự,
Lìa lời nói tướng,
Lìa tâm duyên tướng.
Nhưng vẫn khiến cho tất cả chúng sinh, đều được ngộ nhập vô ngại dụng. Tóm lại, một đạo lý nầy có thể diễn nói vô lượng đạo lý, vô lượng đạo lý vẫn quy về một đạo lý. Do đó :
Một chẳng ngại nhiều
Nhiều chẳng ngại một.
Đây là cảnh giới diệu dụng vô ngại.
Tri nhất thiết pháp nhập nhất tướng, nhi năng diễn thuyết vô lượng Pháp tướng vô ngại dụng
Biết tất cả pháp nhập một tướng mà hay diễn thuyết vô lượng pháp tướng, vô ngại dụng.
Giảng: 4. Bồ Tát biết tất cả pháp vào một tướng, mà hay diễn nói vô lượng pháp tướng khác nhau vô ngại dụng.
Tri nhất thiết pháp ly ngôn thuyết, năng vi tha thuyết vô biên Pháp môn vô ngại dụng
Biết tất cả pháp lìa ngôn thuyết mà có thể vì người nói vô biên pháp môn, vô ngại dụng.
Giảng: 5. Bồ Tát biết tất cả pháp lìa phạm vi lời nói, nghĩa là dùng lời nói cũng nói không ra. Tuy lìa lời nói, nhưng vẫn hay vì họ diễn nói vô biên pháp môn. Tại sao vậy ? Vì pháp pháp đều đồng, pháp pháp đều viên, đều là đệ nhất nghĩa. Nếu minh bạch được thì tất cả pháp đều là diệu pháp; nếu chẳng minh bạch, thì vẫn phải dụng công nghiên cứu, có pháp vô ngại đại dụng nầy.
Ư nhất thiết Pháp thiện chuyển Phổ môn tự luân vô ngại dụng
Nơi tất cả pháp khéo chuyển phổ môn tự luân, vô ngại dụng.
Giảng: 6. Bồ Tát đối với tất cả pháp, khéo chuyển phổ môn tự luân vô ngại dụng.
Dĩ nhất thiết pháp nhập nhất Pháp môn nhi bất tướng vi, ư bất khả thuyết kiếp thuyết bất cùng tận vô ngại dụng
Ðem tất cả pháp vào một pháp môn mà chẳng trái nhau, trong bất khả thuyết kiếp nói chẳng cùng tận, vô ngại dụng.
Giảng: 7. Bồ Tát có thể đem tất cả pháp vào một pháp môn, mà chẳng trái nhau, chẳng xung đột nhau, trong bất khả thuyết kiếp nói không cùng tận vô ngại dụng.
Dĩ nhất thiết pháp tất nhập Phật Pháp, lệnh chư chúng sanh giai đắc ngộ giải vô ngại dụng
Ðem tất cả pháp đều vào Phật pháp, khiến các chúng sanh đều được tỏ ngộ, vô ngại dụng.
Giảng: 8. Bồ Tát có thể đem tất cả pháp đều vào trong Phật pháp, khiến cho tất cả chúng sinh đều được ngộ hiểu vô ngại dụng.
Tri nhất thiết pháp vô hữu biên tế vô ngại dụng
Biết tất cả pháp không có biên te, vô ngại dụng.
Giảng: 9. Bồ Tát biết tất cả pháp không có bờ mé vô ngại dụng.
Tri nhất thiết Pháp vô chướng ngại tế, do như huyễn võng vô lượng sái biệt, ư vô lượng kiếp vi chúng sanh thuyết bất khả cùng tận vô ngại dụng.
Biết tất cả pháp không ngằn mé chướng ngại, dường như lưới huyễn vô lượng sai biệt, trong vô lượng kiếp vì chúng sanh mà nói chẳng thể cùng tận, vô ngại dụng.
Giảng: 10. Bồ Tát biết tất cả pháp không bờ mé chướng ngại, giống như lưới huyễn, có vô lượng sự khác biệt, trong vô lượng vô số đại kiếp vì chúng sinh diễn nói diệu pháp không cùng tận vô ngại dụng.
Thị vi thập.
Đó là mười
Giảng: Đó là mười thứ pháp vô ngại dụng.
==================================================
Thập Chủng Thân Vô Ngại Dụng
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng thân vô ngại dụng. Hà đẳng vi thập? sở vị:
Ðại Bồ Tát có mười thân vô ngại dụng. Những gì là mười ? Đó là:
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ thân vô ngại dụng. Những gì là mười ? Đó là :
Dĩ nhất thiết chúng sanh thân nhập kỷ thân vô ngại dụng; Dĩ kỷ thân nhập nhất thiết chúng sanh thân vô ngại dụng
Ðem tất cả thân chúng sanh vào thân mình, vô ngại dụng. Đem thân mình vào thân tất cả chúng sinh vô ngại dụng.
Giảng: 1. Bồ Tát có thể đem tất cả thân chúng sinh vào trong thân mình vô ngại dụng. Bồ Tát lại có thể đem thân mình vào trong thân tất cả chúng sinh vô ngại dụng.
Nhất thiết Phật thân nhập nhất Phật thân vô ngại dụng
Ðem thân mình vào thân tất cả chúng sanh, vô ngại dụng.
Giảng: 2. Bồ Tát lại có thể đem thân mình vào trong thân tất cả chúng sinh vô ngại dụng.
Nhất Phật thân nhập nhất thiết Phật thân vô ngại dụng; nhất thiết sát nhập kỷ thân vô ngại dụng
Ðem tất cả Phật thân vào một Phật thân, vô ngại dụng.
Giảng: 3. Tất cả thân chư Phật vào trong một thân Phật vô ngại dụng. Do đó có câu:
Mười phương Phật ba đời
Đều cùng một pháp thân.
Dĩ nhất thân sung biến nhất thiết tam thế Pháp thị hiện chúng sanh vô ngại dụng
Ðem một Phật thân vào tất cả Phật thân, vô ngại dụng.
Giảng: 4. Một thân Phật vào trong tất cả thân Phật vô ngại dụng. Do đó có câu:
Một chẳng ngại nhiều,
Nhiều chẳng ngại một.
Đây là cảnh giới một nhiều dung với nhau, một nhiều vô ngại.
Ư nhất thân thị hiện vô biên thân nhập tam muội vô ngại dụng
Ðem tất cả cõi vào thân mình, vô ngại dụng.
Giảng: 5. Tất cả cõi Phật vào trong lỗ chân lông trên thân Bồ Tát vô ngại dụng.
Ư nhất thân thị hiện chúng sanh số đẳng thân thành chánh giác vô ngại dụng
Ðem một thân đầy khắp tất cả pháp tam thế thị hiện cho chúng sanh, vô ngại dụng.
Giảng: 6. Bồ Tát dùng một thân, đầy khắp cùng tất cả pháp giới ba đời, thị hiện chúng sinh vô ngại dụng.
Ư nhất thiết chúng sanh thân hiện nhất chúng sanh thân,
Nơi một thân thị hiện vô biên thân nhập tam muội, vô ngại dụng
Giảng: 7. Bồ Tát có thể ở trong một thân, thị hiện vô biên thân nhập tam muội vô ngại dụng.
Ư nhất chúng sanh thân Hiện-Nhất-Thiết chúng sanh thân vô ngại dụng
Nơi một thân thị hiện thân đồng số chúng sanh thành Chánh giác, vô ngại dụng.
Giảng: 8. Bồ Tát có thể ở trong một thân, thị hiện thân đồng số chúng sinh thành Chánh Đẳng Chánh Giác vô ngại dụng.
Ư nhất thiết chúng sanh thân thị hiện Pháp thân,
Nơi thân tất cả chúng sanh hiện thân một chúng sanh, nơi thân một chúng sanh hiện thân tất cả chúng sanh, vô ngại dụng.
Giảng: 9. Bồ Tát có thể ở trong tất cả thân chúng sinh, thị hiện một thân chúng sinh, trong thân một chúng sinh thị hiện hiện tất cả thân chúng sinh vô ngại dụng.
Ư Pháp thân thị Hiện-Nhất-Thiết chúng sanh thân vô ngại dụng.
Nơi thân tất cả chúng sanh thị hiện pháp thân, nơi pháp thân thị hiện thân tất cả chúng sanh, vô ngại dụng.
Giảng: 10. Bồ Tát có thể ở trong thân tất cả chúng sinh thị hiện pháp thân, ở trong pháp thân thị hiện tất cả thân chúng sinh vô ngại dụng.
Thị vi thập.
Đó là mười
Giảng: Đó là mười thứ thân vô ngại dụng.
==================================================
Thập Chủng Nguyện Vô Ngại Dụng
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng nguyện vô ngại dụng. Hà đẳng vi thập? sở vị:
Ðại Bồ Tát có mười nguyện vô ngại dụng. Những gì là mười ? Đó là:
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ nguyện vô ngại dụng. Những gì là mười ? Đó là :
Dĩ nhất thiết Bồ Tát nguyện tác tự nguyện vô ngại dụng
Ðem nguyện của tất cả Bồ Tát làm nguyện của mình, vô ngại dụng.
Giảng: 1. Dùng nguyện của tất cả Bồ Tát phát ra, làm nguyện của mình vô ngại dụng.
Dĩ nhất thiết Phật thành Bồ-đề nguyện lực thị hiện tự thành chánh giác vô ngại dụng
Ðem nguyện lực thành Bồ đề của tất cả Phật, thị hiện tự mình thành Chánh giác, vô ngại dụng.
Giảng: 2. Dùng nguyện lực của tất cả chư Phật thành tựu bồ đề, thị hiện tự mình thành Chánh Giác vô ngại dụng.
Tùy sở hóa chúng sanh tự thành A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề vô ngại dụng
Tùy chúng sanh được hoá độ, tự mình thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, vô ngại dụng.
Giảng: 3. Tuỳ sự giáo hoá chúng sinh, tự mình thành tựu A nậu đa la tam miệu tam bồ đề vô ngại dụng. Giáo hoá chúng sinh thành Phật, tự mình cũng thành Phật.
Ư nhất thiết vô biên tế kiếp đại nguyện bất đoạn vô ngại dụng
Nơi tất cả vô biên tế kiếp, đại nguyện chẳng dứt, vô ngại dụng.
Giảng: 4. Trong tất cả vô biên tế kiếp, liên tục phát đại nguyện, khiến cho chẳng dứt vô ngại dụng.
Viễn ly thức thân, bất trước trí thân, dĩ tự tại nguyện Hiện-Nhất-Thiết thân vô ngại dụng
Xa lìa thức thân, chẳng chấp trí thân, dùng nguyện tự tại hiện tất cả thân, vô ngại dụng.
Giảng: 5. Xa lìa thức thân, chẳng chấp trí thân, dùng nguyện lực tự tại, thị hiện tất cả thân vô ngại dụng. Nghĩa là muốn thị hiện thân gì, thì hiện thân đó, nhậm vận tự tại, chẳng bị hạn chế.
Xả khí tự thân thành mãn tha nguyện vô ngại dụng
Xả bỏ thân mình để thành mãn nguyện của người, vô ngại dụng.
Giảng: 6. Xả bỏ thân mình, thành tựu viên mãn nguyện lực của người khác vô ngại dụng.
Phổ giáo hóa nhất thiết chúng sanh nhi bất xả đại nguyện vô ngại dụng
Giáo hoá khắp tất cả chúng sanh mà chẳng bỏ đại nguyện, vô ngại dụng.
Giảng: 7. Căn cứ vào đại nguyện của mình đã phát ra, giáo hoá khắp tất cả chúng sinh mà chẳng bỏ đại nguyện vô ngại dụng.
Ư nhất thiết kiếp hành bồ tát hạnh nhi đại nguyện bất đoạn vô ngại dụng
Ở tất cả kiếp thật hành Bồ Tát hạnh mà đại nguyện chẳng dứt, vô ngại dụng.
Giảng: 8. Trong tất cả kiếp hành Bồ Tát hạnh, mà đại nguyện chẳng dứt vô ngại dụng.
Ư nhất mao khổng hiện thành chánh giác, dĩ nguyện lực cố, sung biến nhất thiết chư Phật quốc độ, ư bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới, vi nhất nhất chúng sanh như thị thị hiện vô ngại dụng
Ở một lỗ lông hiện thành Chánh giác, do nguyện lực nên đầy khắp tất cả Phật độ. Ở bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới vì mỗi mỗi chúng sanh mà thị hiện như vậy, vô ngại dụng.
Giảng: 9. Trong một lỗ chân lông hiện thành Chánh Giác, do nhờ nguyện lực, khắp cùng tất cả cõi nước chư Phật, trong bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới, vì mỗi mỗi chúng sinh thị hiện như vậy vô ngại dụng.
Thuyết nhất cú pháp biến nhất thiết pháp giới, hưng Đại chánh pháp vân, diệu giải thoát điện quang, chấn thật Pháp lôi âm, vũ cam lộ vị vũ, dĩ đại nguyện lực sung hiệp nhất thiết chư chúng sanh giới vô ngại dụng.
Nói một câu pháp khắp tất cả pháp giới, nổi mây lớn chánh pháp, chói điển quang giải thoát, nổ tiếng sấm thiệt pháp, rưới mưa vị cam lồ, dùng nguyện lực lớn thấm nhuần khắp tất cả chúnh sanh giới, vô ngại dụng.
Giảng: 10. Nói một câu pháp, đầy khắp tất cả pháp giới, nổi mây đại chánh pháp, chiếu soi ánh chớp giải thoát, chấn động tiếng sấm chân thật pháp, mưa xuống vị mưa cam lồ. Dùng sức đại nguyện, thấm khắp tất cả các cõi chúng sinh vô ngại dụng.
Thị vi thập.
Đó là mười
Giảng: Đó là mười thứ nguyện vô ngại.
==================================================
Thập Chủng Cảnh Giới Vô Ngại Dụng
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng cảnh giới vô ngại dụng. Hà đẳng vi thập? sở vị:
Ðại Bồ Tát có mười cảnh giới vô ngại dụng. Những gì là mười ? Đó là:
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ cảnh giới vô ngại dụng. Những gì là mười ? Đó là :
Tại Pháp giới cảnh giới nhi bất xả chúng sanh cảnh giới vô ngại dụng
Tại pháp giới cảnh giới mà chẳng bỏ chúng sanh cảnh giới, vô ngại dụng.
Giảng: 1. Tại cảnh giới pháp giới mà chẳng bỏ cảnh giới chúng sinh vô ngại dụng.
Tại Phật cảnh giới nhi bất xả ma cảnh giới vô ngại dụng
Tại Phật cảnh giới mà chẳng bỏ ma cảnh giới, vô ngại dụng.
Giảng: 2. Tại cảnh giới Phật mà chẳng bỏ cảnh giới ma vô ngại dụng. Tại sao vậy ? Vì Phật và ma nhất như, Phật và ma chẳng hai. Có người hỏi : Tại sao Phật và ma nhất như ? Do đó có câu :
Thấy việc tỉnh việc xuất thế gian
Thấy việc mê việc đoạ trầm luân.
Đây là lời giải thích tốt nhất. Khi thật sự minh bạch thì, Phật và ma chẳng có gì phân biệt. Tại sao ma làm phiền não bạn ? Vì nó muốn làm thiện tri thức của bạn, trợ giúp bạn tu hành, xem thử bạn có qua được sự thử thách chăng ? Nó là phản diện trợ giúp bạn tu hành, Phật là chánh diện đến giáo hoá bạn tu hành, cho nên nói Phật và ma nhất như.
Giống như Đề Bà Đạt Đa, tuy lúc nào cũng phá hoại đức Phật, phản đối đức Phật, nhưng kỳ thật, ông ta lúc nào cũng hộ trì Phật. Nếu bạn thật sự nhìn thấu, thì Phật và ma chẳng có gì phân biệt ! Bạn xem ông ta là Phật, thì ông ta là Phật; bạn coi ông ta là ma, thì ông ta là ma, tất cả do tâm tạo. Nếu thấu hiểu được thì người chuyển được cảnh, mà cảnh chẳng chuyển được người. Tóm lại, tâm chuyển được cảnh, mà cảnh chẳng chuyển được tâm người. Tâm chuyển được cảnh, thì giống như Phật; cảnh chuyển được tâm, thì giống như ma. Phật và ma chỉ trong một niệm tâm con người chúng ta. Ma sẽ làm Phật cũng có thể được, Phật sẽ làm ma cũng có thể được. Tóm lại, tất cả do tâm tạo. Cho nên đừng có sợ ma, cũng đừng hoan hỉ Phật. Tại sao ? Vì Phật và ma chẳng hai !
Tại Niết-Bàn cảnh giới nhi bất xả sanh tử cảnh giới vô ngại dụng
Tại Niết bàn cảnh giới mà chẳng bỏ sanh tử cảnh giới, vô ngại dụng
Giảng: 3. Tại cảnh giới Niết Bàn mà chẳng bỏ cảnh giới sinh tử vô ngại dụng.
Nhập nhất thiết trí cảnh giới nhi bất đoạn Bồ-tát chủng tánh cảnh giới vô ngại dụng
Nhập nhứt thiết trí cảnh giới mà chẳng dứt Bồ Tát chủng tánh cảnh giới, vô ngại dụng.
Giảng: 4. Vào cảnh giới nhất thiết trí mà chẳng dứt cảnh giới giống tánh Bồ Tát vô ngại dụng.
Trụ tịch tĩnh cảnh giới nhi bất xả tán loạn cảnh giới vô ngại dụng
Trụ cảnh giới tịch tịnh mà chẳng bỏ cảnh giới tán loạn, vô ngại dụng.
Giảng: 5. Trụ cảnh giới tịch tĩnh mà chẳng bỏ cảnh giới tán loạn vô ngại dụng.
Trụ vô khứ, vô lai, vô hí luận, vô tướng trạng, vô thể tánh, vô ngôn thuyết, như hư không cảnh giới nhi bất xả nhất thiết chúng sanh hí luận cảnh giới vô ngại dụng
Trụ cảnh giới như hư không, chẳng khứ, chẳng lai, không hý luận, không tướng trạng, không thể tánh, không ngôn thuyết mà chẳng bỏ cảnh giới hý luận của tất cả chúng sanh, vô ngại dụng.
Giảng: 6. Trụ cảnh giới không đến, không đi, không hí luận, không tướng trạng, không thể tánh, không lời nói, như hư không, mà chẳng bỏ cảnh giới tất cả chúng sinh hí luận vô ngại dụng.
Trụ chư lực giải thoát cảnh giới nhi bất xả nhất thiết chư phương sở cảnh giới vô ngại dụng
Trụ cảnh giới những trí lực, giải thoát mà chẳng bỏ cảnh giới của tất cả những phương sở, vô ngại dụng.
Giảng: 7. Trụ cảnh giới các lực giải thoát, mà chẳng bỏ cảnh giới tất cả các phương sở vô ngại dụng.
Nhập vô chúng sanh tế cảnh giới nhi bất xả giáo hóa nhất thiết chúng sanh vô ngại dụng
Nhập cảnh giới vô chúng sanh tế, mà chẳng bỏ giáo hoá tất cả chúng sanh, vô ngại dụng.
Giảng: 8. Vào cảnh giới không bờ mé chúng sinh, mà chẳng bỏ giáo hoá tất cả chúng sinh vô ngại dụng.
Trụ Thiền định giải thoát, thần thông minh trí, tịch tĩnh cảnh giới nhi ư nhất thiết thế giới thị hiện thọ sanh vô ngại dụng
Trụ cảnh giới tịch tịnh thiền định giải thoát thần thông minh trí, mà ở tất cả thế giới thị hiện thọ sanh, vô ngại dụng.
Giảng: 9. Trụ cảnh giới thiền định, giải thoát, thần thông, minh trí, tịch tĩnh, mà nơi tất cả thế giới thị hiện thọ sinh vô ngại dụng.
Trụ Như Lai nhất thiết hành trang nghiêm thành chánh giác cảnh giới nhi Hiện-Nhất-Thiết Thanh văn, Bích Chi Phật tịch tĩnh uy nghi vô ngại dụng.
Trụ cảnh giới Như Lai tất cả hạnh trang nghiêm thành Chánh giác, mà hiện oai nghi tịch tịnh của tất cả Thanh Văn, Bích Chi Phật, vô ngại dụng.
Giảng: 10. Trụ cảnh giới Như Lai tất cả hạnh trang nghiêm thành Chánh Giác, mà hiện tất cả Thanh Văn Bích Chi Phật tịch tĩnh oai nghi vô ngại dụng.
Thị vi thập.
Đó là mười
Giảng: Đó là mười thứ cảnh giới vô ngại dụng.
==================================================
Thập Chủng Trí Vô Ngại Dụng
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng trí vô ngại dụng. Hà đẳng vi thập? sở vị:
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười trí vô ngại dụng. Những gì là mười ? Đó là:
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ trí vô ngại dụng. Những gì là mười ? Đó là :
Vô tận biện tài vô ngại dụng
Vô tận biện tài, vô ngại dụng.
Giảng: 1. Vô tận biện tài vô ngại dụng.
Nhất thiết tổng trì vô hữu vong thất vô ngại dụng
Tất cả tổng trì không quên mất, vô ngại dụng.
Giảng: 2. Tất cả pháp tổng trì không quên mất vô ngại dụng.
Năng quyết định tri, quyết định thuyết nhất thiết chúng sanh chư căn vô ngại dụng
Hay quyết định biết, quyết định nói những căn tánh của tất cả chúng sanh, vô ngại dụng.
Giảng: 3. Hay quyết định biết quyết định nói các căn của tất cả chúng sinh vô ngại dụng.
Ư nhất niệm trung dĩ vô ngại trí tri nhất thiết chúng sanh tâm chi sở hạnh vô ngại dụng
Ở trong một niệm dùng trí vô ngại biết tâm hành của tất cả chúng sanh, vô ngại dụng.
Giảng: 4. Trong một niệm, dùng trí huệ vô ngại biết tâm hành của tất cả chúng sinh vô ngại dụng.
Tri nhất thiết chúng sanh dục lạc, tùy miên, tập khí, phiền não bệnh, tùy ưng thọ dược vô ngại dụng
Biết bịnh dục lạc tùy miên tập khí phiền não cảu tất cả chúng sanh, tùy theo chỗ thích nghi mà cho thuốc, vô ngại dụng.
Giảng: 5. Biết bệnh dục lạc tuỳ miên tập khí phiền não của tất cả chúng sinh, tuỳ chỗ thích nghi mà cho thuốc vô ngại dụng. Tóm lại, có bệnh gì thì cho thuốc đó, thuốc đến thì bệnh khỏi. Có tám muôn bốn ngàn bệnh, Phật cho tám muôn bốn ngàn thứ thuốc.
Nhất niệm năng nhập Như Lai thập lực vô ngại dụng;
Khoảng một niệm hay vào được Thập lực của Như Lai, vô ngại dụng.
Giảng: 6. Một niệm có thể vào mười lực của Như Lai vô ngại dụng.
Dĩ vô ngại trí tri tam thế nhất thiết kiếp cập kỳ trung chúng sanh vô ngại dụng
Dùng trí vô ngại biết tất cả kiếp tam thế và chúng sanh trong đó, vô ngại dụng.
Giảng: 7. Dùng trí huệ vô ngại biết tất cả kiếp ba đời, và chúng sinh ở trong đó vô ngại dụng.
Ư niệm niệm trung hiện thành chánh giác thị hiện chúng sanh vô hữu đoạn tuyệt vô ngại dụng
Ở trong mỗi niệm hiện thành Chánh giác, thị hiện cho chúng sanh không đoạn tuyệt, vô ngại dụng.
Giảng: 8. Trong niệm niệm hiện thành Chánh Giác, thị hiện chúng sinh không có đoạn tuyệt vô ngại dụng.
Ư nhất chúng sanh tưởng tri nhất thiết chúng sanh nghiệp vô ngại dụng
Nơi một chúng sanh tưởng biết tất cả chúng sanh nghiệp, vô ngại dụng.
Giảng: 9. Nơi một chúng sinh nghĩ tưởng, biết nghiệp của tất cả chúng sinh vô ngại dụng.
Ư nhất chúng sanh âm giải nhất thiết chúng sanh ngữ vô ngại dụng.
Nơi ngôn âm của một chúng sanh, hiểu lời nói của tất cả chúng sanh, vô ngại dụng.
Giảng: 10. Nơi âm thanh một chúng sinh, hiểu rõ tiếng nói của tất cả chúng sinh.
Thị vi thập.
Đó là mười
Giảng: Đó là mười thứ trí vô ngại dụng.
Hôm nay có bà cư sĩ đến Vạn Phật Thành, bà ta dùng tay chữa bệnh, phàm là nghi nan tạp chứng, bà đều chữa khỏi, thật là không thể nghĩ bàn. Kỳ thật, tâm thành thì linh, bất cứ người chữa bệnh và bệnh nhân, hai bên đều kiền thành, thì tâm điện sẽ cảm ứng, sẽ có hiệu quả. Bằng không, phí sức tốn công.
Bằng kinh nghiệm của tôi, Chú Đại Bi có thể trị tám vạn bốn ngàn chứng bệnh, chỉ cần thành tâm, thì sẽ có cảm ứng của chư Phật Bồ Tát đến gia bị, mới có sự hiệu quả không thể tả được.
Tôi còn nhớ vào mùa thu năm 1949, tôi từ Thượng Hải đến Hán Khẩu bằng thuyền, sau đó ngồi xe lửa đến Quảng Châu, để đi đến Chùa Nam Hoa, gần gũi hoà thượng Hư Vân. Trên thuyền gặp một người tàn tật, anh ta phải chống nạn để đi, thật là khó khăn đáng thương.
Tôi quan sát chứng bệnh của anh ta, biết là có thể chữa trị, nhưng không thể lập tức chữa trị cho anh ta. Tại sao vậy ? Vì trên thuyền có rất nhiều người, nếu chữa lành cho anh ta, thì chắc chắn sẽ có nhiều người nhờ tôi chữa bệnh, đó chẳng phải là phiền phức sao !
Do đó, tôi đợi thuyền đến Hán Khẩu. Sau khi thuyền đến Hán Khẩu khoảng tám giờ sáng, anh ta chống nạn đi ngang qua trước mặt tôi, tôi thấy cơ duyên đã thành thục, bèn hỏi anh ta : Tại sao chân anh bị như vậy ?
– Anh ta nói : Vì tôi phạm pháp, nên bị chính phủ giam trong tù bị ẩm thấp, nên chân mới bị què, đứng đi không được, cho nên đi phải chống nạn.
– Tôi lại hỏi : Anh có muốn đi đứng lại bình thường không ?
– Anh ta nói : Nếu được vậy thì tốt.
– Tôi lại nói với anh ta : Anh muốn là được rồi, vậy, anh hãy quẳn cái nạn đó xuống sông đi.
– Anh ta nói : Nếu tôi quẳn cái nạn xuống sông, làm sao tôi có thể đi được ?
– Tôi nói : Tôi có thể chữa lành bệnh của anh, anh sẽ đi lại bình thường được.
– Anh ta còn có chút hoài nghi hỏi : Có thật chăng ?
– Tôi nói : Tại sao phải gạt anh !
Lúc đó, anh ta bèn quyết định quẳn cái nạn xuống sông, sau đó ngồi xuống đó, đợi phép lạ xuất hiện, cặp mắt nhìn tôi thỉnh cầu, tôi bèn niệm Chú Đại Bi khoảng bảy biến, tay xoa bóp chân của anh ta, gia trì một phen, rồi kêu anh ta đứng dậy ! Tâm lý anh ta bán tín bán nghi, bèn đứng dậy thử, anh ta đứng dậy được. Tôi kêu anh ta hãy đi thử đi, anh ta cũng đi thử. Kêu anh ta chạy thử đi, anh ta cũng chạy thử. Anh ta mừng rỡ vô cùng, không cách chi hình dung được. Anh ta tươi cười đảnh lễ tôi, biểu thị sự cảm kích ơn cứu mạng.
Anh ta đi lại được, kinh động hết mọi người trên thuyền, mọi người đều đến chỗ anh què hỏi :
– Làm thế nào mà anh đi lại được, sự việc ra sao ?
– Anh què quay qua chỗ tôi chỉ và nói : Nhờ vị Pháp Sư đó, từ bi dùng tay xoa bóp đầu gối của tôi, tôi bèn đi được.
Tuyên truyền như vậy, một lát sau thì có bảy tám mươi người, bu xung quanh tôi. Người này nói : – Lão tu hành ! Đầu của tôi đau quá ! Người kia nói : – Lão tu hành ! Lưng của tôi đau khó chịu quá. Có người thì chân đau, có người thì tay đau, tóm lại, bệnh gì cũng có, nhiều người bệnh như vậy, niệm Chú Đại Bi thì chẳng có thời giờ, chẳng có cách gì khác, linh cơ nhất động, muốn khởi la hán lại, tôi bèn nói với mọi người muốn chữa bệnh rằng : Các vị đây đều phải đánh !
Nói xong, người đau đầu thì đánh trên đầu một gậy, người đau lưng thì đánh trên lưng một cái, người đau đầu gối thì đánh đầu gối một cái, người đau tay thì đánh lên tay một cái. Đánh xong thì mọi người đều kêu khỏi bệnh rồi, họ cùng nhau phát tâm cúng dường. Có người cúng tới mấy vạn tệ, có người cúng năm vạn tệ, có người cúng một vạn tệ, có người cúng năm trăm ngàn tệ. Tổng cộng họ cúng dường được khoảng hơn bảy mươi vạn tệ. Lúc đó, vé xe lửa từ Hán Khẩu đến Quảng Châu khoảng hơn hai mươi vạn tệ.
Lúc đó có người nói với tôi : Họ nói có người thân bị bệnh bại liệt, không dậy được, bác sĩ đông tây y đều bó tay. Nên họ muốn mời tôi đến nhà người thân để chữa bệnh, công đức vô lượng. Có người thì nói với tôi : Họ có người thân bị bệnh bán thân bất toại, đi đứng không thuận tiện, trị thế nào cũng không khỏi, họ nói : Xin thỉnh Thầy khi đến Hán Khẩu thì, bất cứ như thế nào cũng chữa trị dùm cho. Có khoảng bảy tám mươi người đều nói như vậy. Lúc đó tôi cũng không trả lời, cũng không hứa khả, tôi chỉ nói với họ : Đợi thuyền đến Hán Khẩu thì hãy nói !
Khi thuyền đến Hán Khẩu, mọi người đều đi lấy hành lý, tôi nhân cơ hội nầy, bèn bỏ đi, không ai hay biết. Nếu không sẽ có nhiều phiền phức, mà trễ thời gian đến Chùa Nam Hoa. Đó là chính thân tôi biết sức lực của Chú Đại Bi, thật là không thể nghĩ bàn. Nếu ai kiền thành trì Chú, thì chắc chắn gặp hung hoá cát, gặp nạn biến thành cát tường.
==================================================
Thập Chủng Thần Thông Vô Ngại Dụng
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng thần thông vô ngại dụng. Hà đẳng vi thập? sở vị:
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười môn thần thông vô ngại dụng. Những gì là mười ? Đó là:
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ thần thông vô ngại dụng. Những gì là mười ? Đó là :
Ư nhất thân thị Hiện-Nhất-Thiết thế giới thân vô ngại dụng
Nơi một thân thị hiện tất cả thế giới thân, vô ngại dụng.
Giảng: 1. Trong một thân chúng sinh, có thể thị hiện thân của hết thảy chúng sinh trong tất cả thế giới vô ngại dụng.
Ư nhất Phật chúng hội thính thọ nhất thiết Phật chúng hội trung sở thuyết pháp vô ngại dụng
Nơi chúng hội một đức Phật, thính thọ lời thuyết pháp trong chúng hội của tất cả chư Phật, vô ngại dụng.
Giảng: 2. Trong chúng hội của một vị Phật, có thể nghe thọ được hết tất cả chư Phật chúng hội thuyết pháp vô ngại dụng.
Ư nhất chúng sanh tâm niệm trung thành tựu bất khả thuyết vô thượng Bồ-đề khai ngộ nhất thiết chúng sanh tâm vô ngại dụng
Ở trong tâm niệm của một chúng sanh, thành tựu bất khả thuyết Vô thượng Bồ đề, khai ngộ tâm của tất cả chúng sanh, vô ngại dụng.
Giảng: 3. Trong tâm niệm của một chúng sinh, có thể thành tựu bất khả thuyết vô thượng bồ đề, khai ngộ tâm tất cả chúng sinh vô ngại dụng.
Dĩ nhất âm Hiện-Nhất-Thiết thế giới sái biệt ngôn âm, lệnh chư chúng sanh các đắc giải liễu vô ngại dụng
Dùng một âm thanh hiện ngôn âm sai biệt của tất cả thế giới, làm cho tất cả chúng sanh đều được hiểu rõ, vô ngại dụng.
Giảng: 4. Dùng một âm thanh có thể hiện ra âm thanh khác nhau trong tất cả thế giới, khiến các chúng sinh đều hiểu rõ được vô ngại dụng.
Nhất niệm trung hiện tận tiền tế nhất thiết kiếp sở hữu nghiệp quả chủng chủng sái biệt, lệnh chư chúng sanh tất đắc tri kiến vô ngại dụng
Trong một niệm hiện hết tất cả kiếp quá khứ có bao nhiêu nghiệp quả nhiều thứ sai khác, làm cho các chúng sanh đều được thấy biết, vô ngại dụng.
Giảng: 5. Trong một niệm có thể hiện ra hết thảy nghiệp quả đủ thứ sự khác nhau của tất cả kiếp thuở trước, khiến các chúng sinh đều thấy biết được vô ngại dụng.
Nhất vi trần xuất hiện quảng đại Phật sát vô lượng trang nghiêm vô ngại dụng
Một vi trần xuất hiện cõi Phật quảng đại vô lượng trang nghiêm, vô ngại dụng.
Giảng: 6. Trong một hạt bụi xuất hiện cõi nước chư Phật rộng lớn vô lượng trang nghiêm vô ngại dụng.
Lệnh nhất thiết thế giới cụ túc trang nghiêm vô ngại dụng
Làm cho tất cả thế giới đầy đủ trang nghiêm, vô ngại dụng.
Giảng: 7. Khiến cho tất cả thế giới đều đầy đủ trang nghiêm vô ngại dụng.
Phổ nhập nhất thiết tam thế vô ngại dụng
Vào khắp tất cả tam thế, vô ngại dụng.
Giảng: 8. Khắp vào tất cả ba đời vô ngại dụng.
Phóng Đại pháp quang minh hiện nhất thiết chư Phật Bồ-đề, chúng sanh hạnh nguyện vô ngại dụng
Phóng quang minh đại pháp, hiện tất cả chư Phật Bồ đề, tất cả chúng sanh hạnh nguyện, vô ngại dụng.
Giảng: 9. Phóng đại pháp quang minh, hiện tất cả chư Phật bồ đề, chúng sinh hạnh nguyện vô ngại dụng.
Thiện thủ hộ nhất thiết Thiên, long, dạ xoa, Càn thát bà, A-tu-la, Ca Lâu La, khẩn-na-la, ma hầu La già, thích, phạm, hộ thế, Thanh văn, độc giác, Bồ Tát, sở hữu Như Lai thập lực, Bồ Tát thiện căn vô ngại dụng.
Khéo thủ hộ tất cả Thiên, Long, Bát Bộ, Ðế Thích, Phạm Vương, Tứ Thiên Vương, Thanh Văn, Ðộc Giác, Bồ Tát, bao nhiêu Thập lực của Như Lai, thiện căn của Bồ Tát, vô ngại dụng.
Giảng: 10. Khéo hộ trì tất cả trời, rồng, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lâu la, Khẩn na la, Ma hầu la già, đây là trời rồng tám bộ hộ pháp thiện thần. Trời Đế Thích, trời Đại Phạm, trời Hộ Thế Tứ Thiên Vương, Thanh Văn, Độc Giác, Bồ Tát, hết thảy Như Lai thập lực, Bồ Tát căn lành, vô ngại dụng.
Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát đắc thử vô ngại dụng, tức năng phổ nhập nhất thiết Phật Pháp.
Đó là mười. Nếu chư Bồ Tát được thần thông vô ngại dụng này thời có thể vào khắp tất cả Phật pháp.
Giảng: Đó là mười thứ thần thông vô ngại dụng. Nếu các Bồ Tát được vô ngại dụng nầy, thì sẽ vào khắp được tất cả Phật pháp.
==================================================
Thập Chủng Thần Lực Vô Ngại Dụng
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng thần lực vô ngại dụng. Hà đẳng vi thập? sở vị:
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười thần lực vô ngại dụng. Những gì là mười ? Đó là:
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ thần lực vô ngại dụng. Những gì là mười ? Đó là :
Dĩ bất khả thuyết thế giới trí nhất trần trung vô ngại dụng
Ðem bất khả thuyết thế giới để vào một vi trần, vô ngại dụng.
Giảng: 1. Đem bất khả thuyết thế giới, để vào trong một hạt bụi, không có sự chật hẹp, vẫn có không gian. Đây là cảnh giới không thể nghĩ bàn, sức thần thông biến hoá của Bồ Tát vô ngại dụng.
Ư nhất trần trung hiện đẳng Pháp giới nhất thiết Phật sát vô ngại dụng
Trong một vi trần hiện khắp pháp giới tất cả cõi Phật, vô ngại dụng.
Giảng: 2. Ở trong một hạt bụi, có thể hiện ra tất cả cõi Phật đồng pháp giới vô ngại dụng.
Dĩ nhất thiết đại hải thủy trí nhất mao khổng, chu toàn vãng phản thập phương thế giới, nhi ư chúng sanh vô sở xúc nhiêu vô ngại dụng
Ðem nước tất cả đại hải để vào một lỗ lông qua lại cùng khắp mười phương thế giới mà không làm xúc não chúng sanh, vô ngại dụng.
Giảng: 3. Đem nước của tất cả biển để vào trong một lỗ chân lông. Qua lại khắp mười phương thế giới, mà tất cả chúng sinh không bị xúc nhiễu vô ngại dụng.
Dĩ bất khả thuyết thế giới nội tự thân trung, thị Hiện-Nhất-Thiết thần thông sở tác vô ngại dụng
Ðem bất khả thuyết thế giới nạp trong thân mình, thị hiện tất cả việc làm do sức thần thông, vô ngại dụng.
Giảng: 4. Đem bất khả thuyết thế giới, để vào trong thân mình, thị hiện tất cả thần thông việc biến hoá vô ngại dụng.
Dĩ nhất mao hệ bất khả số Kim cương vi sơn, trì dĩ du hành nhất thiết thế giới, bất lệnh chúng sanh sanh khủng bố tâm vô ngại dụng
Dùng một sợi lông buộc bất khả sổ núi Kim Cang, núi Thiết Vi, cầm đi du hành tất cả thế giới, chẳng làm cho chúng sanh có lòng kinh sợ, vô ngại dụng.
Giảng: 5. Dùng một sợi lông buộc bất khả số núi Kim Cang, núi Thiết Vi, cầm đi du hành tất cả thế giới, chẳng khiến cho chúng sinh sinh tâm sợ hãi vô ngại dụng.
Dĩ bất khả thuyết kiếp tác nhất kiếp, nhất kiếp tác bất khả thuyết kiếp, ư trung thị hiện thành hoại sái biệt, bất lệnh chúng sanh tâm hữu khủng bố vô ngại dụng
Ðem bất khả thuyết kiếp làm một kiếp, một kiếp làm bất khả thuyết kiếp, trong đó thị hiện sự thành hoại sai biệt, chẳng làm cho chúng sanh có lòng kinh sợ, vô ngại dụng.
Giảng: 6. Đem bất khả thuyết kiếp làm một kiếp, một kiếp làm bất khả thuyết kiếp, trong đó thị hiện cảnh giới thành, trụ, hoại, không, khác nhau, nhưng chẳng khiến cho chúng sinh có tâm sợ hãi vô ngại dụng.
Ư nhất thiết thế giới hiện thủy, hỏa, phong tai chủng chủng biến hoại nhi bất não chúng sanh vô ngại dụng
Trong tất cả thế giới hiện thủy tai, hỏa tai, phong tai, những sự biến hoại mà chẳng não chúng sanh, vô ngại dụng.
Giảng: 7. Trong tất cả thế giới, thị hiện nạn nước, nạn gió, nạn lửa, đủ thứ sự biến hoại, mà chẳng não hại chúng sinh vô ngại dụng.
Nhất thiết thế giới tam tai hoại thời, tất năng hộ trì nhất thiết chúng sanh tư sanh chi cụ bất lệnh tổn khuyết vô ngại dụng
Tất cả thế giới lúc tam tai hoại, đều có thể hộ trì đồ dùng của tất cả chúng sanh, chẳng để tổn hư thiếu thốn, vô ngại dụng.
Giảng: 8. Khi ba nạn huỷ hoại tất cả thế giới, thì Bồ Tát đều có thể hộ trì tất cả chúng sinh những vật cần dùng, chẳng khiến cho tổn hại thiếu thốn vô ngại dụng.
Dĩ nhất thủ trì bất tư nghị thế giới, trịch bất khả thuyết thế giới chi ngoại, bất lệnh chúng sanh hữu kinh phố tưởng vô ngại dụng
Dùng một tay cầm bất tư nghì thế giới, ném ra ngoài bất khả thuyết thế giới, chẳng làm cho chúng sanh có tưởng kinh sợ, vô ngại dụng.
Giảng: 9. Dùng một tay cầm bất tư nghì thế giới, ném qua bất khả thuyết thế giới, sự việc này còn lợi hại hơn động đất gấp vạn lần, tuy như vậy, nhưng chẳng khiến cho chúng sinh có tâm sợ hãi vô ngại dụng.
Thuyết nhất thiết sát đồng ư hư không, lệnh chư chúng sanh tất đắc ngộ giải vô ngại dụng.
Nói tất cả cõi đồng với hư không, làm cho các chúng sanh đều được tỏ ngộ, vô ngại dụng.
Giảng: 10. Diễn nói tất cả các cõi, đồng với hư không, gì cũng chẳng có, khiến cho tất cả chúng sinh chẳng khởi tâm tham, khiến cho tất cả chúng sinh đều được ngộ hiểu nghĩa lý của nó vô ngại dụng.
Thị vi thập.
Đó là mười
Giảng: Đó là mười thứ thần thông vô ngại dụng.
==================================================
Thập Chủng Lực Vô Ngại Dụng
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng lực vô ngại dụng. Hà đẳng vi thập? sở vị:
Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười lực vô ngại dụng. Những gì là mười ? Đó là:
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ lực vô ngại dụng. Những gì là mười ? Đó là :
Chúng sanh lực vô ngại dụng, giáo hóa điều phục bất xả ly cố
Chúng sanh lực vô ngại dụng, vì giáo hóa điều phục chẳng bỏ rời.
Giảng: 1. Lực chúng sinh vô ngại dụng, vì giáo hoá tất cả chúng sinh, điều phục tất cả chúng sinh, chẳng xả lìa tất cả chúng sinh.
Sát lực vô ngại dụng, thị hiện bất khả thuyết trang nghiêm nhi trang nghiêm cố
Sát lực vô ngại dụng, vì thị hiện bất khả thuyết trang nghiêm để trang nghiêm.
Giảng: 2. Lực cõi Phật vô ngại dụng, vì hay thị hiện bất khả thuyết sự trang nghiêm để trang nghiêm.
Pháp lực vô ngại dụng, lệnh nhất thiết thân nhập vô thân cố
Pháp lực vô ngại dụng, vì làm cho tất cả thân vào một thân.
Giảng: 3. Lực của pháp vô ngại dụng, vì hay khiến tất cả thân vào không thân.
Kiếp lực vô ngại dụng, tu hành bất đoạn cố
Kiếp lực vô ngại dụng, vì tu hành chẳng dứt.
Giảng: 4. Lực của kiếp vô ngại dụng, vì hay khiến tất cả chúng sinh thường tu hành chẳng gián đoạn.
Phật lực vô ngại dụng, giác ngộ thụy miên cố
Phật lực vô ngại dụng, vì giác ngộ thùy miên.
Giảng: 5. Lực của Phật vô ngại dụng, vì hay khiến chúng sinh giác ngộ rằng ngủ là đá cột chân sự tu hành, cản trở sự tiến bộ.
Hành lực vô ngại dụng, nhiếp thủ nhất thiết Bồ Tát hạnh cố
Hành lực vô ngại dụng, vì nhiếp thủ tất cả Bồ Tát hạnh.
Giảng: 6. Lực của hạnh vô ngại dụng, vì hay nhiếp lấy tất cả Bồ Tát hạnh, khiến cho tất cả chúng sinh phát bồ đề tâm, tu đạo vô thượng.
Như Lai lực vô ngại dụng, độ thoát nhất thiết chúng sanh cố
Như Lai lực vô ngại dụng, vì độ thoát tất cả chúng sanh.
Giảng: 7. Lực của Như Lai vô ngại dụng, vì hay độ thoát tất cả chúng sinh, mà chẳng chấp tướng.
Vô sư lực vô ngại dụng, tự giác nhất thiết chư pháp cố
Vô sư lực vô ngại dụng, vì tự giác tất cả các pháp.
Giảng: 8. Lực không thầy vô ngại dụng, vì chính mình tự giác ngộ tất cả các pháp chân thật nghĩa.
Nhất thiết trí lực vô ngại dụng, dĩ nhất thiết trí thành chánh giác cố
Nhứt thiết trí lực vô ngại dụng, vì dùng nhứt thiết trí thành Chánh giác.
Giảng: 9. Lực nhất thiết trí vô ngại dụng, vì nhờ nhất thiết trí mà có thể thành Chánh Đẳng Chánh Giác.
Đại bi lực vô ngại dụng, bất xả nhất thiết chúng sanh cố.
Ðại bi lực vô ngại dụng, vì chẳng bỏ tất cả chúng sanh.
Giảng: 10. Lực đại bi vô ngại dụng, vì chẳng xả bỏ tất cả chúng sinh, mà giáo hoá điều phục tất cả chúng sinh. Đó là mười thứ lực vô ngại dụng của Bồ Tát.
Thị vi thập. Phật tử! như thị danh vi: Bồ-Tát Ma-ha-tát thập chủng vô ngại dụng. Nhược hữu đắc thử thập vô ngại dụng giả, ư A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề dục thành, bất thành, tùy ý vô vi, tuy thành chánh giác nhi diệc bất đoạn hành Bồ Tát hạnh. hà dĩ cố? Bồ-Tát Ma-ha-tát phát đại thệ nguyện, nhập vô biên vô ngại dụng môn, thiện xảo thị hiện cố.
Trên đây là mười môn vô ngại dụng của chư đại Bồ Tát. Nếu có Bồ Tát được mười môn vô ngại dụng này, thời nơi Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, muốn thành hay chẳng muốn thành đều tùy ý vô ngại. Dầu thành Chánh giác nhưng vẫn chẳng dứt hạnh Bồ Tát. Tại sao vậy ? Vì đại Bồ Tát phát thệ nguyện lớn nhập vô biên môn vô ngại dụng mà thiện xảo thị hiện.
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Trên đây là mười thứ vô ngại dụng của đại Bồ Tát. Nếu Bồ Tát đắc được mười vô ngại dụng nầy, thì đối với A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, muốn thành tựu thì thành, hoặc chẳng muốn thành tựu thì chẳng thành, đều tuỳ ý muốn của mình, chẳng trái với ý của mình. Tuy đã thành Chánh Giác, nhưng cũng chẳng dứt tu hành Bồ Tát hạnh. Tại sao vậy? Vì đại Bồ Tát đã phát đại thệ nguyện, vào vô lượng vô biên môn vô ngại dụng, khéo léo thị hiện, giáo hoá tất cả chúng sinh.
==================================================
Thập Chủng Du Hí
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng du hí, Hà đẳng vi thập? sở vị:
Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười môn du hý. Những gì là mười ? Đó là:
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ thần thông du hí, biến hoá vô cùng, có cảnh giới không thể nghĩ bàn. Các vị muốn biết phải chú ý lắng nghe, tôi (Bồ Tát Phổ Hiền) hiện tại sẽ vì quý vị nói rõ. Những gì là mười ? Đó là :
Dĩ chúng sanh thân tác sát thân, nhi diệc bất hoại chúng sanh thân, thị Bồ Tát du hí
Ðem thân chúng sanh làm thân quốc độ, mà cũng chẳng hoại thân chúng sanh, là môn du hý của Bồ Tát.
Giảng: 1. Bồ Tát có thể dùng thân chúng sinh, biến làm làm thân cõi Phật, mà cũng chẳng hoại thân chúng sinh, đây là nói thân chúng sinh vẫn là thân chúng sinh, nhưng có thể ở trong thân chúng sinh biến thành thế giới (trái đất). Chúng ta phải biết nguyên lai của trái đất, vẫn là do thần thông biến hoá của Bồ Tát mà ra. Một trái đất là do thân của một chúng sinh mà ra, bất quá, chính chúng sinh không biết mà thôi. Làm thế nào biến thành trái đất ? Vì tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, là do Phật tánh biến hiện ra, đó là thần thông du hí của Bồ Tát.
Dĩ sát thân tác chúng sanh thân, nhi diệc bất hoại ư sát thân, thị Bồ Tát du hí
Ðem thân quốc độ làm thân chúng sanh, mà cũng chẳng hoại thân quốc độ, là môn du hý của Bồ Tát.
Giảng: 2. Bồ Tát lại dùng thân cõi nước chư Phật, biến làm thân chúng sinh, mà cũng chẳng hoại thân cõi, là du hí của Bồ Tát.
Ư Phật thân thị hiện Thanh văn, độc giác thân, nhi bất tổn giảm Như Lai thân, thị Bồ Tát du hí
Nơi Phật thân thị hiện thân Thanh Văn, thân Ðộc Giác, mà chẳng tổn giảm thân Phật, là môn du hý của Bồ Tát.
Giảng: 3. Nơi thân Phật thị hiện thân Thanh Văn và thân Độc Giác, mà chẳng tổn giảm thân Như Lai, là du hí của Bồ Tát.
Ư Thanh văn, độc giác thân thị hiện Như Lai thân, nhi bất tăng trưởng Thanh văn, độc giác thân, thị Bồ Tát du hí
Nơi thân Thanh Văn, thân Ðộc Giác thị hiện Phật thân, mà chẳng tăng trưởng thân Thanh Văn, thân Ðộc Giác, là môn du hý của Bồ Tát.
Giảng: 4. Nơi thân Thanh Văn và thân Độc Giác, thị hiện thân Như Lai, mà chẳng tăng trưởng thân Thanh Văn và thân Độc Giác, là du hí của Bồ Tát.
Ư Bồ Tát hạnh thân thị hiện thành chánh giác thân, nhi diệc bất đoạn Bồ Tát hạnh thân, thị Bồ Tát du hí
Nơi thân Bồ Tát hạnh thị hiện thân thành Chánh giác mà chẳng đoạn thân Bồ Tát hạnh, là môn du hý của Bồ Tát.
Giảng: 5. Nơi thân Bồ Tát hạnh, thị hiện thành thân Chánh Giác, mà cũng chẳng dứt thân Bồ Tát hạnh, là du hí của Bồ Tát.
Ư thành chánh giác thân thị hiện tu Bồ Tát hạnh thân, nhi diệc bất giảm thành Bồ-đề thân, thị Bồ Tát du hí
Nơi thân thành Chánh giác thị hiện thân tu Bồ Tát hạnh, mà chẳng giảm thân thành Chánh giác, là môn du hý của Bồ Tát.
Giảng: 6. Nơi thân thành Chánh Giác, thị hiện thân tu Bồ Tát hạnh, mà cũng chẳng giảm thân thành bồ đề, là du hí của Bồ Tát.
Ư Niết Bàn giới thị hiện sanh tử thân, nhi bất trước sanh tử, thị Bồ Tát du hí
Nơi cõi Niết bàn thị hiện thân sanh tử, mà chẳng nhiễm trước sanh tử, là môn du hý của Bồ Tát.
Giảng: 7. Nơi cõi Niết Bàn, thị hiện thân sanh tử, mà chẳng chấp sanh tử, là du hí của Bồ Tát.
Ư sanh tử giới thị hiện Niết-Bàn, diệc bất cứu cánh nhập ư Niết-Bàn, thị Bồ Tát du hí
Nơi cõi sanh tử thị hiện Niết bàn, mà chẳng rốt ráo nhập nơi Niết bàn, là môn du hý của Bồ Tát.
Giảng: 8. Nơi cõi sanh tử, thị hiện Niết Bàn, cũng chẳng rốt ráo vào nơi Niết Bàn, là du hí của Bồ Tát.
Nhập ư tam muội nhi thị hiện hành, trụ, tọa, ngọa nhất thiết nghiệp, diệc bất xả tam muội chánh thọ, thị Bồ Tát du hí
Nhập tam muội mà thị hiện tất cả nghiệp đi, đứng, ngồi, nằm, nhưng chẳng bỏ rời tam muội chánh thọ, là môn du hý của Bồ Tát.
Giảng: 9. Bồ Tát vào nơi tam muội, mà có thể thị hiện đi, đứng, nằm, ngồi, bốn đại oai nghi, và tất cả nghiệp quả báo ứng, nhưng cũng chẳng bỏ tam muội chánh thọ, là du hí của Bồ Tát.
Tại nhất Phật sở văn Pháp thọ trì, kỳ thân bất động, nhi dĩ tam muội lực, ư bất khả thuyết chư Phật hội trung các các hiện thân, diệc bất phần thân, diệc bất khởi định, nhi văn Pháp thọ trì tướng tục bất đoạn, như thị niệm niệm ư nhất nhất tam muội thân các xuất sanh bất khả thuyết bất khả thuyết tam muội thân, như thị thứ đệ nhất thiết chư kiếp do khả cùng tận, nhi Bồ Tát tam muội thân bất khả cùng tận, thị Bồ Tát du hí.
Ở chỗ một đức Phật nghe pháp thọ trì, thân chẳng động mà dùng sức tam muội ở trong bất khả thuyết Phật hội đều hiện thân mà chẳng phân thân cũng chẳng khởi định, mà nghe pháp thọ trì tương tục chẳng dứt, niệm niệm như vậy nơi mỗi mỗi thân tam muội đều xuất sanh bất khả thuyết bất khả thuyết thân tam muội. Thứ đệ như vậy, tất cả kiếp còn có thể cùng tận, mà thân tam muội của Bồ Tát chẳng thể cùng tận, là môn du hý của Bồ Tát.
Giảng: 10. Bồ Tát ở tại đạo tràng của tất cả chư Phật, nghe pháp thọ trì, thân Bồ Tát chẳng động, mà dùng sức tam muội, thảy đều thị hiện thân trong bất khả thuyết hội chư Phật, cũng chẳng phân thân, cũng chẳng khởi định, mà nghe pháp thọ trì, liên tục không dứt. Trong niệm niệm như vậy, trong mỗi mỗi thân tam muội, đều sinh ra bất khả thuyết bất khả thuyết thân tam muội. Như vậy thứ lớp tất cả các kiếp, có thể cùng tận, mà thân tam muội Bồ Tát không thể cùng tận, là du hí của Bồ Tát.
Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức đắc Như Lai vô thượng đại trí du hí.
Ðây là mười môn du hý. Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này, thời được đại trí du hý vô thượng của Như Lai.
Giảng: Đó là mười thứ thần thông du hí của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ pháp nầy, thì sẽ đắc được đại trí huệ du hí vô thượng của Như Lai.
====================================
Thập Chủng Cảnh Giới
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng cảnh giới. Hà đẳng vi thập? sở vị:
Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười cảnh giới. Những gì là mười ? Đó là:
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ cảnh giới. Những gì là mười ? Đó là :
Thị hiện vô biên pháp giới môn, lệnh chúng sanh đắc nhập, thị Bồ Tát cảnh giới
Thị hiện môn vô biên pháp giới, làm cho chúng sanh được nhập, là cảnh giới của Bồ Tát.
Giảng: 1. Thị hiện vô biên môn pháp giới, khiến cho chúng sinh đều được vào, là cảnh giới của Bồ Tát.
Thị Hiện-Nhất-Thiết thế giới vô lượng diệu trang nghiêm, lệnh chúng sanh đắc nhập
Thị hiện tất cã thế giới vô lượng diệu trang nghiêm làm cho chúng sanh được nhập, là cảnh giới của Bồ Tát.
Giảng: 2. Thị hiện vô lượng sự trang nghiêm tốt đẹp của tất cả thế giới, khiến cho tất cả chúng sinh đều được vào, là cảnh giới của Bồ Tát.
Thị Bồ Tát cảnh giới; hóa vãng nhất thiết chúng sanh giới, tất phương tiện khai ngộ
Hóa hiện ra tầt cả chúng sanh giới, đều phương tiện khai ngộ, là cảnh giới của Bồ Tát.
Giảng: 3. Hoá vãng tất cả cõi chúng sinh, đều được phương tiện thiện xảo khai ngộ, là cảnh giới của Bồ Tát.
Thị Bồ Tát cảnh giới; ư Như Lai thân xuất Bồ Tát thân, ư Bồ Tát thân xuất Như Lai thân, thị Bồ Tát cảnh giới
Nơi thân Như Lai xuất hiện thân Bồ Tát, nơi thân Bồ Tát xuất hiện thân Như Lai, là cảnh giới của Bồ Tát.
Giảng: 4. Trong thân Như Lai sinh ra thân Bồ Tát, trong thân Bồ Tát sinh ra thân Như Lai, là cảnh giới của Bồ Tát.
Ư hư không giới hiện thế giới, ư thế giới hiện hư không giới, thị Bồ Tát cảnh giới
Nơi hư không hiện thế giới, nơi thế giới hiện hư không, là cảnh giới của Bồ Tát.
Giảng: 5. Nơi cõi hư không xuất hiện thế giới, nơi thế giới xuất hiện cõi hư không, là cảnh giới của Bồ Tát.
Ư sanh tử giới hiện Niết Bàn giới, ư Niết Bàn giới hiện sanh tử giới, thị Bồ Tát cảnh giới
Nơi sanh tử giới hiện Niết bàn giới, Nơi Niết bàn giới hiện sanh tử giới, là cảnh giới của Bồ Tát.
Giảng: 6. Nơi cõi sinh tử hiện ra cõi Niết Bàn, nơi cõi Niết Bàn hiện ra cõi sinh tử, là cảnh giới của Bồ Tát.
Ư nhất chúng sanh ngữ ngôn trung, xuất sanh nhất thiết Phật Pháp ngữ ngôn, thị Bồ Tát cảnh giới;
Ở trong ngôn ngử của một chúng sanh xuất sanh ngử ngôn của tất c ả Phật Pháp, là cảnh giới của Bồ Tát.
Giảng: 7. Trong ngôn ngữ của một chúng sinh, sinh ra ngôn ngữ tất cả Phật pháp, là cảnh giới của Bồ Tát.
Dĩ vô biên thân hiện tác nhất thân, nhất thân tác nhất thiết sái biệt thân, thị Bồ Tát cảnh giới
Ðem vô biên thân hiện làm một thân, một thân hiện làm tất cả thân sai biệt, là cảnh giới của Bồ Tát.
Giảng: 8. Dùng vô biên thân biến hoá làm một thân, một thân biến hoá làm tất cả thân khác nhau, là cảnh giới của Bồ Tát.
Dĩ nhất thân sung mãn nhất thiết pháp giới, thị Bồ Tát cảnh giới;
Ðem một thân đầy khắp tất cả pháp giới, là cảnh giới của Bồ Tát.
Giảng: 9. Dùng một thân có thể sung mãn tất cả pháp giới, là cảnh giới của Bồ Tát.
Ư nhất niệm trung, lệnh nhất thiết chúng sanh phát Bồ-đề tâm, các hiện vô lượng thân thành đẳng chánh giác, thị Bồ Tát cảnh giới.
Ở trong một niệm làm cho tất cả chúng sanh phát tâm Bồ đề, đều hiện vô lượng thân thành Ðẳng Chánh Giác, là cảnh giới của Bổ Tát.
Giảng: 10. Trong một niệm, khiến cho tất cả chúng sinh phát bồ đề tâm, tu Bồ Tát hạnh, đều hiện ra vô lượng thân thành Chánh Đẳng Chánh Giác, là cảnh giới của Bồ Tát.
Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức đắc Như Lai vô thượng đại trí tuệ cảnh giới.
Nếu chư Bồ Tát an trụ trong pháp nầy thời được cảnh giới đại trí huệ vô thượng của Như Lai.
Giảng: Đó là mười pháp cảnh giới của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ pháp nầy, thì sẽ đắc được cảnh giới đại trí huệ vô thượng của Như Lai.
=================================
Thập Chủng Lực
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng lực. Hà đẳng vi thập? sở vị:
Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười lực. Những gì là mười ? Đó là:
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ lực. Những gì là mười ? Đó là :
Thâm tâm lực, bất tạp nhất thiết thế Tình cố
Thâm tâm lực, vì chẳng tạp tất cả thế tình.
Giảng: 1. Thâm tâm lực, vì chẳng tạp nhiễm tất cả tình ái của thế gian.
Tăng thượng thâm tâm lực, bất xả nhất thiết Phật Pháp cố
Tăng thượng thâm tâm lực, vì chẳng bỏ tất cả Phật pháp.
Giảng: 2. Tăng thượng thâm tâm lực, vì chẳng xả bỏ tất cả Phật pháp. Hết thảy Phật pháp, không những đọc tụng, mà còn thọ trì, y giáo phụng hành.
Phương tiện lực, chư hữu sở tác cứu cánh cố
Phương tiện lực, vì tất cả công hạnh đều rốt ráo.
Giảng: 3. Phương tiện lực, vì tất cả việc làm các cõi đều rốt ráo, đó là sức phương tiện của Bồ Tát.
Trí lực, liễu tri nhất thiết tâm hành cố
Trí lực, vì biết tất cả tâm hành.
Giảng: 4. Trí lực, vì biết rõ vọng tưởng trong tâm của tất cả chúng sinh, làm việc gì, tạo nghiệp gì, đó là trí lực của Bồ Tát.
Nguyện lực, nhất thiết sở cầu lệnh mãn cố
Nguyện lực, vì tất cả mong cầu đều làm cho viên mản.
Giảng: 5. Nguyện lực, vì tất cả sở cầu của tất cả chúng sinh, đều khiến cho viên mãn, đó là nguyện lực của Bồ Tát.
Hạnh lực, tận vị lai tế bất đoạn cố
Hạnh lực, vì cùng tột thuở vị lai chẳng dứt.
Giảng: 6. Hạnh lực, vì hết thuở vị lai cũng chẳng dứt sự tu hành, đó là hạnh lực của Bồ Tát.
Thừa lực, năng xuất sanh nhất thiết thừa, nhi bất xả Đại-Thừa cố
Thừa lực, vì hay xuất sanh tất cả thừa mà chẳng bỏ Ðại thừa.
Giảng: 7. Thừa lực, tức là sức lực đại thừa, vì hay sinh ra tất cả thừa, mà chẳng bỏ đại thừa.
Thần biến lực, ư nhất nhất mao khổng trung, các các thị Hiện-Nhất-Thiết thanh tịnh thế giới nhất thiết Như Lai xuất hưng thế cố
Thần biến lực, vì ở trong mỗi lỗ lông đều thị hiện tất cả thế giới thanh tịnh, tất cả Như Lai xuất thế.
Giảng: 8. Thần thông lực, vì trong mỗi lỗ chân lông, thảy đều thị hiện tất cả thế giới thanh tịnh, tất cả Như Lai xuất hiện ra đời, giáo hoá tất cả chúng sinh, đó là sức thần biến của Bồ Tát.
Bồ-đề lực, lệnh nhất thiết chúng sanh phát tâm thành Phật vô đoạn tuyệt cố
Bồ đề lực, vì làm cho tất cả chúng sanh phát tâm thành Phật không đoạn tuyệt.
Giảng: 9. Bồ đề lực, vì khiến cho tất cả chúng sinh phát bồ đề tâm, trên cầu Phật đạo, dưới độ chúng sinh, thành Chánh Đẳng Chánh Giác, vĩnh viễn không đoạn tuyệt hạt giống bồ đề, đó là sức bồ đề của Bồ Tát.
Chuyển pháp luân lực, thuyết nhất cú pháp tất xưng nhất thiết chúng sanh chư căn tánh dục cố.
Chuyển pháp luân lực, vì nói một câu pháp đều xứng những tánh dục lạc của tất cả chúng sanh.
Giảng: 10. Chuyển pháp luân lực, vì nói một câu pháp, đều xứng với các căn dục của tất cả chúng sinh, đó là sức chuyển pháp luân của Bồ Tát.
Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức đắc chư Phật vô thượng nhất thiết trí thập lực.
Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được thập lực nhứt thiết trí vô thượng của chư Phật.
Giảng: Đó là mười thứ pháp lực của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ pháp nầy, thì sẽ đắc được mười lực nhất thiết trí vô thượng của chư Phật.
==================================
Thập Chủng Vô úy
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng vô úy. Hà đẳng vi thập?
Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười vô úy. Những gì là mười ? Đó là:
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ không sợ hãi. Những gì là mười ?
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát tất năng văn trì nhất thiết ngôn thuyết, tác như thị niệm: thiết hữu chúng sanh vô lượng vô biên tùng thập phương lai, dĩ ách thiên đại pháp nhi vấn ư ngã. Ngã ư bỉ vấn bất kiến vi thiểu nan khả đáp tướng; dĩ ất kiến cố, tâm đắc vô úy, cứu cánh đáo bỉ Đại vô úy ngạn, tùy kỳ sở vấn tất năng thù đối, đoạn kỳ nghi hoặc vô hữu khiếp nhược. Thị vi Bồ Tát đệ nhất vô úy.
Ðại Bồ Tát đều hay văn trì tất cả ngôn thuyết nghĩ rằng: giả sử có vô lượng vô biên chúng sanh từ mười phương đến đem trăm ngàn đại pháp để hỏi tôi. Nơi tất cả câu hỏi của họ, tôi không thấy có chút gì khó đáp cả. Vì không thấy khó nên tâm được vô úy, rốt ráo đến bĩ ngạn đại vô úy. Tùy theo chỗ họ hỏi đều có thể giải đáp quyết đoán trừ sự nghi hoặc cho họ không hề khiếp sợ. Ðây là vô úy thứ nhứt của đại Bồ Tát.
Giảng: 1. Phật tử ! Đại Bồ Tát đều có thể nghe thọ trì tất cả lời nói, bèn nghĩ như vầy : Nếu có vô lượng vô biên chúng sinh, từ mười phương tất cả thế giới đến chỗ tôi, dùng trăm ngàn thứ đại pháp để hỏi tôi. Tôi theo câu hỏi của họ, trả lời không có chút khó khăn gì, vì chẳng thấy câu hỏi khó, nên trong tâm không sợ hãi, rốt ráo đến được bờ bên kia không sợ hãi. Tuỳ theo câu hỏi của họ, đều giải đáp đúng đắn, phân tích rõ ràng, khiến cho chúng sinh hỏi pháp, dứt trừ sự nghi hoặc, trong tâm của tôi không có cảm giác khiếp nhược, cũng chẳng sợ sệt, cũng chẳng kinh hãi. Đó là không sợ hãi thứ nhất của Bồ Tát.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát đắc Như Lai quán đảnh vô ngại biện tài, đáo ư nhất thiết văn tự ngôn âm khai thị bí mật cứu cánh bỉ ngạn, tác như thị niệm: thiết hữu chúng sanh vô lượng vô biên tùng thập phương lai, dĩ vô lượng Pháp nhi vấn ư ngã. Ngã ư bỉ vấn bất kiến vi thiểu nan khả đáp tướng; dĩ ất kiến cố, tâm đắc vô úy, cứu cánh đáo bỉ Đại vô úy ngạn, tùy kỳ sở vấn tất năng thù đối, đoạn kỳ nghi hoặc vô hữu khủng cụ. Thị vi Bồ Tát đệ nhị vô úy.
Ðại Bồ Tát được Như Lai quán đảnh vô ngại biện tài đến nơi bĩ ngạn rốt ráo tất cả văn tự ngôn âm khai thị bí mật. Nghĩ rằng: giả sử có vô lượng vô biên chúng sanh từ mười phương đến, đem vô lượng pháp hỏi tôi. Nơi tất cả lời hỏi của họ, tôi không thấy có chút gì là khó đáp cả. Vì không thấy khó nên tâm được vô úy, rốt ráo đến nơi bĩ ngạn đại vô úy. Tùy chỗ hỏi của họ đều có thể giải đáp dứt nghi hoặc không kinh sợ. Ðây là môn vô úy thứ hai của đại Bồ Tát.
Giảng: 2. Phật tử ! Đại Bồ Tát được Như Lai quán đảnh, đắc được vô ngại biện tài, đã đến nơi tất cả văn tự ngôn âm, khai thị bí mật, rốt ráo bờ bên kia. Bèn nghĩ như vầy : Nếu có vô lượng vô biên chúng sinh, từ mười phương đến chỗ tôi, dùng vô lượng pháp để hỏi tôi. Tôi sẽ theo câu hỏi của họ, trả lời không thấy có chút khó khăn gì, vì không thấy câu hỏi khó khăn, nên trong tâm không sợ hãi, rốt ráo đến bờ bên kia không sợ hãi. Tuỳ theo câu hỏi của họ, đều giải đáp được, khiến cho chúng sinh hỏi pháp, dứt trừ sự nghi hoặc của họ, trong tâm tôi không có cảm giác kinh hãi. Đó là không sợ hãi thứ hai của Bồ Tát.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát tri nhất thiết pháp không, ly ngã, ly ngã sở, vô tác, vô tác giả, vô tri giả, vô mạng giả, vô dưỡng dục giả, vô bổ già la, ly uẩn, giới, xứ, vĩnh xuất chư kiến, tâm như hư không, tác như thị niệm: bất kiến chúng sanh hữu vi thiểu tướng năng tổn não ngã thân, ngữ, ý nghiệp. hà dĩ cố? Bồ Tát viễn ly ngã, ngã sở cố, bất kiến chư pháp hữu thiểu tánh tướng. Dĩ ất kiến cố, tâm đắc vô úy, cứu cánh đáo bỉ Đại vô úy ngạn, kiên cố dũng mãnh, bất khả tự hoại, thị vi Bồ Tát đệ tam vô úy.
Ðại Bồ Tát biết tất cả pháp là không, lìa ngã, lìa ngã sở, không tạo tác, không tác giả, không tri giả, không mạng giả, không dưỡng dục giả, không bổ đặc già la. Rời uẩn, xứ, giới. Thoát hẳn các kiến chấp. Tâm như hư không. Nghĩ rằng: chẳng thấy chúng sanh có chút tướng tổn não được thân ngữ ý của tôi. Tại sao vậy ? Vì đại Bồ Tát đã rời ngã và ngã sở, nên chẳng thấy các pháp có chút tánh tướng. Vì chẳng thấy nên tâm được vô úy, rốt ráo đến bĩ ngạn đại vô úy, kiên cố dũng mãnh chẳng ai trở hoại được. Ðây là môn úy thứ ba của đại Bồ Tát.
Giảng: 3. Phật tử ! Đại Bồ Tát biết tất cả pháp không, lìa tướng ta, lìa tướng của ta, không làm, không kẻ làm, không có một pháp biết mình là pháp, không có nhân mạng khiến pháp đó, không có người dưỡng dục pháp đó, không có bổ già la (số thú thủ) nghĩa là tính đếm vãng lai các cõi. Lìa khỏi năm uẩn, mười hai xứ, mười tám giới, vĩnh viễn đoạn trừ tất cả các kiến, tâm thanh tịnh như hư không. Bèn nghĩ như vầy : Chẳng thấy chúng sinh có chút tướng có thể tổn não nghiệp thân lời ý của tôi. Tại sao vậy ? Vì Bồ Tát đã xa lìa cái ta và của ta, chẳng chấp vào cái ta và của ta, cho nên tất cả pháp đều không, gì cũng chẳng có, vì không thấy, nên tâm không sợ hãi, rốt ráo đến bờ bên kia không sợ hãi. Kiên cố dũng mãnh, không pháp gì có thể trở hoại. Đó là không sợ hãi thứ ba của Bồ Tát.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát Phật lực sở hộ, Phật lực sở trì, trụ Phật uy nghi, sở hạnh chân thật, vô hữu biến dịch, tác như thị niệm: ngã bất kiến hữu thiểu phần uy nghi, lệnh chư chúng sanh sanh ha trách tướng. Dĩ ất kiến cố, tâm đắc vô úy, ư Đại chúng trung an ổn thuyết Pháp, thị vi Bồ Tát đệ tứ vô úy.
Ðại Bồ Tát được Phật lực gia hộ, Phật lực nhiếp trì, trụ tại oai nghi của Phật, việc làm chơn thiệt không biến đổi. Nghĩ rằng: tôi chẳng thấy có chút phần oai nghi làm cho chúng sanh móng lòng quở trách. Vì chẳng thấy nên tâm được vô úy, ở trong đại chúng an ổn thuyết pháp. Ðây là môn vô úy thứ tư của đại Bồ Tát.
Giảng: 4. Phật tử ! Đại Bồ Tát nhờ Phật lực hộ niệm, nhờ Phật lực nhiếp trì, trụ Phật oai nghi, tu hành pháp chân thật, vì việc làm đều chân thật, nên không có sự đổi khác. Bèn nghĩ như vầy : Tôi chẳng thấy có chút phần chẳng hợp oai nghi, khiến cho các chúng sinh sinh tướng quở trách, vì chẳng thấy nên tâm mình không sợ hãi. Có thể ở trong đại chúng pháp hội an ổn thuyết pháp. Đó là không sợ hãi thứ tư của Bồ Tát.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát thân, ngữ, ý nghiệp giai tất thanh tịnh, tiên bạch nhu hòa, viễn ly chúng ác, tác như thị niệm: ngã bất tự kiến thân, ngữ, ý nghiệp nhi hữu thiểu phần khả ha trách tướng. Dĩ ất kiến cố, tâm đắc vô úy, năng lệnh chúng sanh trụ ư Phật Pháp, thị vi Bồ Tát đệ ngũ vô úy.
Ðại Bồ Tát, thân khẩu ý đều thanh tịnh, sạch trắng nhu hòa, xa lìa những điều ác. Nghĩ rằng: tôi chẳng thấy thân khẩu ý ba nghiệp có chút phần đáng quở trách. Vì chẳng thấy nên tâm được vô úy, có thể làm cho chúng sanh an trụ nơi Phật pháp. Ðây là môn vô úy thứ năm của đại Bồ Tát.
Giảng: 5. Phật tử ! Đại Bồ Tát thân lời ý ba nghiệp, đều đã thanh tịnh, lại sạch trắng, lại nhu hoà, xa lìa các pháp ác. Bèn nghĩ như vầy : Tôi dùng diệu quán sát trí để khảo sát mình, chẳng thấy thân lời ý nghiệp của mình có chút nghiệp ác nào, chẳng có chút phần nào đáng cho người quở trách phỉ báng, cũng chẳng có lỗi lầm nào, vì chẳng thấy, nên tâm không sợ hãi. Hay khiến cho tất cả chúng sinh, trụ trong Phật pháp, y pháp tu hành. Đó là không sợ hãi thứ năm của đại Bồ Tát.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát, Kim Cương lực sĩ, Thiên, long, dạ xoa, Càn thát bà, A-tu-la, Đế Thích, Phạm Vương, Tứ Thiên Vương đẳng thường tùy thị vệ, nhất thiết Như Lai hộ niệm bất xả. Bồ-Tát Ma-ha-tát tác như thị niệm: ngã bất kiến hữu chúng ma ngoại đạo hữu kiến chúng sanh năng lai chướng ngã hạnh Bồ Tát đạo thiểu phần chi tướng. Dĩ ất kiến cố, tâm đắc vô úy, cứu cánh đáo bỉ Đại vô úy ngạn, phát hoan hỉ tâm hành Bồ Tát hạnh, thị vi Bồ Tát đệ lục vô úy.
Ðại Bồ Tát thường được Kim Cang lực sĩ, Thiên, Long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ðế Thích, Phạm Vương, Tứ Thiên Vương v.v… theo hộ vệ. Tất cả Như Lai luôn hộ niệm chẳng rời. Ðại Bồ Tát nghĩ rằng tôi chẳng thấy có chúng ma ngoại đạo kẻ tà kiến nào có thể đến làm chướng ngại hạnh Bồ Tát của tôi. Vì chẳng thấy nên tâm được vô úy rốt ráo đến bỉ ngạn đại vô úy, phát tâm hoan hỷ thật hành hạnh Bồ Tát. Ðây là môn vô úy thứ sáu của đại Bồ Tát.
Giảng: 6. Phật tử ! Đại Bồ Tát được Kim Cang Lực Sĩ, trời, rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A tu la, trời Đế Thích, Đại Phạm Thiên Vương, Tứ Thiên Vương .v.v… thường theo hầu hạ vị đại Bồ Tát đó. Chẳng những thiên long bát bộ đến hộ trì, mà tất cả chư Phật Như Lai cũng thường hộ niệm chẳng xa rời. Đại Bồ Tát bèn nghĩ như vầy : Tôi chẳng thấy có chúng ma và ngoại đạo, hoặc chúng sinh nào, có thể đến chướng ngại chút phần sự tu hành Bồ Tát đạo của tôi. Vì không thấy, nên tâm không sợ hãi, rốt ráo đến được bờ bên kia không sợ hãi. Phát tâm hoan hỉ, hành Bồ Tát hạnh. Đó là không sợ hãi thứ sáu của Bồ Tát.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát dĩ đắc thành tựu đệ nhất niệm căn, tâm vô vong thất Phật sở duyệt khả, tác như thị niệm: Như Lai sở thuyết thành Bồ-đề đạo văn tự cú Pháp, ngã bất ư trung kiến hữu thiểu phần vong thất chi tướng. Dĩ ất kiến cố, tâm đắc vô úy, thọ trì nhất thiết Như Lai chánh Pháp hành Bồ Tát hạnh, thị vi Bồ Tát đệ thất vô úy.
Ðại Bồ Tát đã được thành tựu niệm căn đệ nhứt tâm không quên mất, được Phật hứa khả. Nghĩ rằng: Ðức Như Lai nói văn tự cú pháp thành đạo Bồ đề. Trong đó tôi chẳng thấy có chút phần quên mất. Vì chẳng thấy nên tâm được vô úy, thọ trì tất cả chánh pháp của Như Lai, thật hành Bồ Tát hạnh. Ðây là môn vô úy thứ bảy của đại Bồ Tát.
Giảng: 7. Phật tử ! Đại Bồ Tát đã thành tựu được niệm căn đệ nhất (một trong năm căn : Tín, tấn, niệm, định, huệ), trong tâm thuỷ chung không quên mất, được Phật hoan hỉ hứa khả. Bèn nghĩ như vầy : Như Lai nói văn tự câu pháp thành tựu đạo bồ đề, tôi chẳng thấy trong đó có chút phần quên mất, dù chỉ là một chữ, vì không thấy mình quên mất Phật pháp, nên tâm không sợ hãi. Hay thọ trì tất cả chánh pháp của Như Lai, tu hành Bồ Tát hạnh. Đó là không sợ hãi thứ bảy của Bồ Tát.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát trí tuệ phương tiện tất dĩ thông đạt, Bồ Tát chư lực giai đắc cứu cánh, thường cần giáo hóa nhất thiết chúng sanh, hằng dĩ nguyện tâm hệ Phật Bồ-đề, nhi vi bi mẫn chúng sanh cố, thành tựu chúng sanh cố, ư phiền não trược thế thị hiện thọ sanh, chủng tộc tôn quý, quyến thuộc viên mãn, sở dục tùng tâm, hoan ngu khoái lạc, nhi tác thị niệm: ngã tuy dữ thử quyến thuộc tụ hội, bất kiến thiểu tướng nhi khả tham trước, phế ngã tu hành Thiền định, giải thoát, cập chư tam muội, tổng trì, biện tài, Bồ Tát đạo Pháp. Hà dĩ cố? Bồ-Tát Ma-ha-tát ư nhất thiết Pháp dĩ đắc tự tại đáo ư bỉ ngạn, tu Bồ Tát hạnh thệ bất đoạn tuyệt, bất kiến thế gian hữu nhất cảnh giới nhi năng hoặc loạn Bồ Tát đạo giả. Dĩ ất kiến cố, tâm đắc vô úy, cứu cánh đáo bỉ Đại vô úy ngạn, dĩ đại nguyện lực ư nhất thiết thế giới thị hiện thọ sanh, thị vi Bồ Tát đệ bát vô úy.
Ðại Bồ Tát trí huệ phương tiện đều đã thông đạt, Bồ Tát chư lực đều đã rốt ráo, thường xuyên giáo hóa tất cả chúng sanh. Vì bi mẫn chúng sanh nên luôn dùng nguyện tâm khắn chặt nơi Phật Bồ đề. Vì thành tựu chúng sanh nên ở nơi đời phiền não trược thị hiện thọ sanh, dòng họ tôn quý, quyến thuộc viên mãn, chỗ mong muốn tùy tâm được toại nguyện, hoan hỷ vui sướng. Nghĩ rằng: tôi dầu cùng quyến thuộc này tụ hội mà chẳng có một chút gì đáng tham luyến để bỏ phế việc tu hành thiền định, giải thoát và các môn tam muội, tổng trì, biện tài, đạo pháp Bồ Tát. Tại sao vậy ? Vì đại Bồ Tát ở nơi tất cả pháp đã được tự tại đến bĩ ngạn, tu hạnh Bồ Tát thề chẳng đoạn tuyệt. Chẳng thấy thế gian có một cảnh giới nào làm mê loạn được Bồ Tát đạo. Vì chẳng thấy nên tâm được vô úy rốt ráo đến nơi bĩ ngạn đại vô úy. Dùng đại nguyện lực nơi tất cả thế giới thị hiện thọ sanh. Ðây là môn vô úy thứ tám của đại Bồ Tát.
Giảng: 8. Phật tử ! Đại Bồ Tát trí huệ phương tiện, đều đã thông đạt viên mãn. Bồ Tát các lực đều được rốt ráo. Thường xuyên giáo hoá tất cả chúng sinh, luôn dùng sức nguyện tâm, kết buộc Phật bồ đề, là vì bi mẫn tất cả chúng sinh, vì thành tựu tất cả chúng sinh. Ở trong đời ác ngũ trược : Kiếp trược, kiến trược, phiền não trước, chúng sinh trược, mạng trược, thị hiện thọ sanh vào dòng dõi tôn quý, quyến thuộc viên mãn. Tất cả sự mong muốn đều toại tâm mãn nguyện, muốn gì có nấy, hoan hỉ vui sướng, bèn nghĩ như vầy : Tuy tôi có gia đình vui sướng, quyến thuộc mỹ mãn, sớm chiều tụ hội, nhưng chẳng thấy có chút gì đáng tham luyến, để tôi phải bỏ sự tu hành thiền định giải thoát, và các tam muội, tổng trì, biện tài, và pháp Bồ Tát đạo. Tại sao vậy ? Vì đại Bồ Tát nơi tất cả các pháp, đã được nhậm vận tự tại, đến nơi bờ kia. Tu hành Bồ Tát hạnh, phát thệ nguyện chẳng bao giờ đoạn tuyệt. Chẳng thấy thế gian có cảnh giới nào, có thể mê loạn Bồ Tát tu pháp môn Bồ Tát đạo. Vì chẳng thấy, nên tâm không sợ hãi, rốt ráo đến bờ bên kia không sợ hãi. Nhờ sức đại nguyện, nơi tất cả thế giới, thị hiện thọ sanh. Đó là không sợ hãi thứ tám của Bồ Tát.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hằng bất vong thất Tát bà nhã tâm, thừa ư Đại-Thừa hành Bồ Tát hạnh, dĩ nhất thiết trí Đại tâm thế lực, thị Hiện-Nhất-Thiết Thanh văn, độc giác tịch tĩnh uy nghi, tác thị niệm ngôn: ngã bất tự kiến đương ư nhị thừa nhi thủ xuất ly thiểu phần chi tướng. Dĩ ất kiến cố, tâm đắc vô úy, đáo bỉ vô thượng Đại vô úy ngạn, phổ năng thị Hiện-Nhất-Thiết thừa đạo, cứu cánh mãn túc bình đẳng Đại-Thừa, thị vi Bồ Tát đệ cửu vô úy.
Ðại Bồ Tát luôn chẳng quên mất tâm Nhứt thiết trí, ngự nơi Ðại thừa, thật hành hạnh Bồ Tát. Dùng thế lực của đại tâm nhứt thiết trí, thị hiện tất cả oai nghi tịch tịnh của Thanh Văn, Ðộc Giác. Nghĩ rằng: tôi chẳng tự thấy sẽ ở nơi nhị thừa mà lấy chút phần xuất ly. Vì chẳng thấy nên tâm được vô úy đến nơi bĩ ngạn vô thượng đại vô úy. Có thể khắp thị hiện đạo nhứt thiết thừa, rốt ráo đầy đủ bình đẳng Ðại thừa. Ðây là môn vô úy thứ chín của đại Bồ Tát.
Giảng: 9. Phật tử ! Đại Bồ Tát luôn chẳng quên mất tâm Tát bà nhạ (Nhất thiết trí). Ngồi nơi pháp môn đại thừa, hành Bồ Tát hạnh. Dùng thế lực đại tâm nhất thiết trí, thị hiện tất cả tướng trạng oai nghi tịch tĩnh của Thanh Văn và Độc Giác. Bèn nghĩ như vầy : Tôi chẳng thấy mình sẽ ở nơi nhị thừa mà lấy chút phần xuất ly. Vì chẳng thấy chút phần nguyện lực nhị thừa, nên tâm không sợ hãi, đến bờ bên kia vô thượng không sợ hãi. Hay thị hiện khắp tất cả thừa đạo, hoặc tiểu thừa đạo, hoặc đại thừa đạo, hoặc Phật thừa đạo, rốt ráo đầy đủ đại thừa bình đẳng. Đó là không sợ hãi thứ chín của Bồ Tát.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát thành tựu nhất thiết chư bạch tịnh Pháp, cụ túc thiện căn, viên mãn thần thông, cứu cánh trụ ư chư Phật Bồ-đề, mãn túc nhất thiết chư Bồ-tát hạnh, ư chư Phật sở thọ nhất thiết trí quán đảnh chi kí, nhi thường hóa chúng sanh hành Bồ Tát đạo, tác như thị niệm: ngã bất tự kiến hữu nhất chúng sanh ưng khả thành thục nhi bất năng hiện chư Phật tự tại nhi thành thục tướng. Dĩ ất kiến cố, tâm đắc vô úy, cứu cánh đáo bỉ Đại vô úy ngạn, bất đoạn Bồ Tát hạnh, bất xả Bồ Tát nguyện, tùy sở ưng hóa nhất thiết chúng sanh hiện Phật cảnh giới nhi hóa độ chi, thị vi Bồ Tát đệ thập vô úy.
Ðại Bồ Tát thành tựu tất cả pháp bạch tịnh, đầy đủ thiện căn, viên mãn thần thông, rốt ráo an trụ nơi Phật Bồ đề, đầy đủ tất cả hạnh Bồ Tát. Ở chỗ chư Phật thọ ký nhứt thiết trí quán đảnh, mà thường khuyến hóa chúng sanh thật hành Bồ Tát đạo. Nghĩ rằng: tôi chẳng tự thấy có một chúng sanh đáng được thành thục, mà chẳng thể thị hiện Phật tự tại để thành thục. Vì chẳng thấy nên tâm được vô úy, rốt ráo đến nơi bĩ ngạn đại vô úy, chẳng dứt Bồ Tát hạnh, chẳng bỏ Bồ Tát nguyện. Tùy tất cả chúng sanh đáng được giáo hóa, hiện Phật cảnh giới để giáo hóa họ. Ðây là môn vô úy thứ mười của đại Bồ Tát.
Giảng: 10. Phật tử ! Đại Bồ Tát thành tựu tất cả các pháp trắng tịnh, đầy đủ tất cả căn lành, viên mãn tất cả thần thông. Rốt ráo trụ nơi bồ đề giác đạo của chư Phật, đầy đủ tất cả hạnh nguyện của Bồ Tát tu. Ở chỗ đạo tràng của tất cả chư Phật, được chư Phật thọ ký quán đảnh nhất thiết trí, mà thường giáo hoá độ thoát tất cả chúng sinh, tu hành Bồ Tát đạo. Bèn nghĩ như vầy : Tôi chẳng thấy mình có chúng sinh nào, đáng được thành thục, mà không thể thị hiện sự tự tại của chư Phật để thành thục. Vì không thấy, nên tâm không sợ hãi. Rốt ráo đến bờ bên kia không sợ hãi, chẳng dứt Bồ Tát hạnh, chẳng bỏ nguyện Bồ Tát. Tuỳ sự ứng hoá tất cả chúng sinh, mà hiện cảnh giới Phật giáo hoá họ, độ thoát họ. Đó là không sợ hãi thứ mười của Bồ Tát.
Phật tử! thị vi Bồ-Tát Ma-ha-tát thập chủng vô úy. Nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức đắc chư Phật vô thượng Đại vô úy, nhi diệc bất xả Bồ Tát vô úy.
Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được đại úy vô thượng của chư Phật, nhưng cũng chẳng bỏ vô úy của Bồ Tát.
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đó là mười điều không sợ hãi của đại Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ pháp nầy, thì sẽ đắc được không sợ hãi vô thượng của chư Phật, mà cũng chẳng bỏ không sợ hãi của Bồ Tát.
===================================
Thập Chủng Bất Cộng Pháp
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng bất cộng pháp. Hà đẳng vi thập?
Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười pháp bất cộng. Những gì là mười ? Đó là:
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười pháp bất cộng. Những gì là mười ?
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát bất do tha giáo, tự nhiên tu hành lục Ba la mật thường lạc đại thí, bất sanh xan lận; hằng trì tịnh giới, vô sở hủy phạm; cụ túc nhẫn nhục, tâm bất động dao; hữu đại tinh tấn, vị tằng thoái chuyển; thiện nhập chư Thiền, vĩnh vô tán loạn; xảo tu trí tuệ, tất trừ ác kiến. Thị vi đệ nhất bất do tha giáo tùy thuận Ba-la-mật đạo tu lục độ bất cộng pháp.
Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát chẳng do người dạy, tự nhiên tu hành sáu pháp Ba la mật, thường thích đại thí chẳng hề bỏn xẻn, luôn trì tịnh giới chẳng hủy phạm, đầy đủ nhẫn nhục tâm chẳng lay động, có đại tinh tấn chưa từng thối chuyển, khéo vào các thiền định trọn không tán loạn, khéo tu trí huệ trừ sạch ác kiến. Ðây là pháp bất cộng thứ nhứt: chẳng do người dạy mà tùy thuận đạo Ba la mật tu Lục độ.
Giảng: 1. Phật tử ! Đại Bồ Tát chẳng cần người khác giáo hoá, tự mình hiểu biết. Mọi người chú ý ! « Chẳng do người khác dạy », phải tự mình chân chánh minh bạch mới được, chẳng phải nói mình chẳng có trí huệ, nghe trong Kinh Hoa Nghiêm nói : « Chẳng do người khác dạy », bèn cho rằng không cần bậc thiện tri thức chỉ dạy, đây là tư tưởng cống cao ngã mạn, tự cho mình khác người, là quan niệm sai lầm. Điểm nầy các vị phải rõ ràng, không thể tự nói bậy bạ. Bồ Tát Bát địa trở lên, mới có tư cách nói : « Chẳng do người khác dạy ». Bồ Tát chẳng do người khác dạy, tự nhiên biết tu hành, chẳng giải đãi, chẳng phóng dật, chuyên tâm tu hành pháp lục độ Ba la mật, tức cũng là : Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ, sáu pháp nầy là pháp môn đến bờ bên kia. Bồ Tát thường ưa thích bố thí lớn, cứu giúp người cần dùng, như có tài vật thì liền bố thí tài vật cho người, chẳng để lại cho mình. Đem nội tài và ngoại tài bố thí rồi, tuyệt đối chẳng sinh tâm bỏn sẻn, cũng chẳng sinh tâm hối tiếc. Luôn giữ giới thanh tịnh, không khi nào phạm giới. Đầy đủ công phu nhẫn nhục, tâm có thiền định, chẳng bị cảnh giới làm giao động. Có tâm đại tinh tấn dũng mãnh, chưa từng khi nào sinh tâm thối chuyển. Khéo vào các thiền định, lúc nào cũng ở trong định, vĩnh viễn không có sự tán loạn phát sinh. Khéo tu hành pháp môn trí huệ, tiêu trừ sạch hết tư tưởng tà tri tà kiến chẳng chánh đáng. Đó là pháp bất cộng thứ nhất : Không do người khác dạy, tuỳ thuận đạo Ba la mật, tu hành lục độ.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát phổ năng nhiếp thọ nhất thiết chúng sanh. Sở vị: dĩ tài cập Pháp nhi hành huệ thí, chánh niệm hiện tiền, hòa nhan ái ngữ, kỳ tâm hoan hỉ, thị như thật nghĩa, lệnh đắc ngộ giải chư Phật Bồ-đề, vô hữu tăng hiềm, bình đẳng lợi ích. Thị vi đệ nhị bất do tha giáo thuận tứ nhiếp đạo cần nhiếp chúng sanh bất cộng pháp.
Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát hay khắp nhiếp thọ tất cả chúng sanh, dùng của cải và chánh pháp để ban cho họ, chánh niệm hiện tiền, hòa nhan ái ngữ, trong lòng hoan hỷ, dạy nghĩa như thiệt, làm cho được tỏ ngộ Phật Bồ đề, không hiềm ghét bình đẳng làm lợi ích cho tất cả. Ðây là pháp bất cộng thứ hai: chẳng do người dạy, tùy thuận đạo Tứ nhiếp pháp siêng nhiếp thọ tất cả chúng sanh.
Giảng: 2. Phật tử ! Đại Bồ Tát hay nhiếp thọ khắp tất cả chúng sinh, hay dùng tài thí và pháp thí. Chánh niệm thường hiện tiền, tức cũng là tư tưởng chánh đại quang minh. Đối với chúng sinh luôn vui vẻ, nói lời dịu dàng, tâm sinh hoan hỉ, khiến cho chúng sinh trong tâm có cảm giác vui mừng. Chỉ thị chúng sinh như thật nghĩa, như lý tu hành, khiến cho chúng sinh được ngộ hiểu pháp bồ đề giác đạo của chư Phật. Đối với chúng sinh không sinh ra tâm hiềm ghét, đối đãi bình đẳng, lợi ích chúng sinh, chẳng phân biệt người thân kẻ lạ, đều xem như nhau. Đó là pháp bất cộng thứ hai : Không do người khác dạy, thuận đạo bốn pháp nhiếp : Bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự, siêng nhiếp thọ chúng sinh.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát thiện xảo hồi hướng, sở vị: bất cầu quả báo hồi hướng, thuận Phật Bồ-đề hồi hướng, bất trước nhất thiết thế gian Thiền định tam muội hồi hướng, vi lợi ích nhất thiết chúng sanh hồi hướng, vi ất đoạn Như Lai trí tuệ hồi hướng. Thị vi đệ tam bất do tha giáo vi chư chúng sanh phát khởi thiện căn cầu Phật trí tuệ bất cộng pháp.
Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát thiện xảo hồi hướng: Chẳng cầu quả báo mà hồi hướng, cầu Phật Bồ đề mà hồi hướng, chẳng tham chấp tất cả thiền định tam muội thế gian mà hồi hướng, vì lợi ích tất cả chúng sanh mà hồi hướng, vì chẳng dứt trí huệ của Như Lai mà hồi hướng. Ðây là pháp bất cộng thứ ba: chẳng do người dạy, vì các chúng sanh phát khởi thiện căn cầu Phật trí huệ.
Giảng: 3. Phật tử ! Đại Bồ Tát hồi hướng khéo léo, đó là : Hồi hướng chẳng cầu quả báo, hồi hướng thuận Phật bồ đề, hồi hướng chẳng chấp trước tất cả thiền định tam muội thế gian, hồi hướng vì lợi ích tất cả chúng sinh, nghĩa là đem căn lành của mình tu tập, đều hồi hướng cho tất cả chúng sinh, đó là tâm từ bi của Bồ Tát, hồi hướng vì chẳng dứt trí huệ Như Lai. Đó là pháp bất cộng thứ ba : Chẳng do người khác dạy, vì các chúng sinh phát khởi căn lành, cầu trí huệ của Phật.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát đáo thiện xảo phương tiện cứu cánh bỉ ngạn, tâm hằng cố phục nhất thiết chúng sanh, bất yếm thế tục phàm ngu cảnh giới, bất lạc nhị thừa xuất ly chi đạo, bất trước kỷ lạc, duy cần hóa độ, thiện năng nhập xuất Thiền định giải thoát, ư chư tam muội tất đắc tự tại, vãng lai sanh tử như du viên quán, vị tằng tạm khởi bì yếm chi tâm; hoặc trụ ma cung, hoặc vi thích Thiên, Phạm Vương, thế chủ, nhất thiết sanh xứ mị bất ư trung nhi hiện kỳ thân; hoặc ư ngoại đạo chúng trung xuất gia, nhi hằng viễn ly nhất thiết tà kiến; nhất thiết thế gian văn từ, chú thuật, tự ấn, toán số, nãi chí du hí, ca vũ chi Pháp, tất giai thị hiện, vô bất tinh xảo; hoặc thời thị tác đoan chánh phụ nhân, trí tuệ tài năng thế trung đệ nhất; ư chư thế gian, xuất thế gian pháp năng vấn năng thuyết, vấn đáp đoạn nghi giai đắc cứu cánh; nhất thiết thế gian, xuất thế gian sự diệc tất thông đạt đáo ư bỉ ngạn, nhất thiết chúng sanh hằng lai chiêm ngưỡng; tuy hiện Thanh văn, Bích Chi Phật uy nghi, nhi bất thất Đại-Thừa tâm; tuy niệm niệm trung thị thành chánh giác, nhi bất đoạn Bồ Tát hạnh. Thị vi đệ tứ bất do tha giáo phương tiện thiện xảo cứu cánh bỉ ngạn bất cộng pháp.
Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát đến bỉ ngạn rốt ráo thiện xảo phương tiện, lòng thường ngó lại tất cả chúng sanh, chẳng nhàm cảnh giới thế tục phàm ngu, chẳng thích đạo xuất ly của Nhị thừa, chẳng ham sự an lạc của mình, chỉ siêng hóa độ khéo có thể nhập xuất thiền định giải thoát, nơi các tam muội đều được tự tại, qua lại chốn sanh tử như dạo trong vườn chưa từng tạm sanh lòng mỏi nhàm. Hoặc ở ma cung, hoặc làm Thiên Ðế, Phạm Vương, Thế Chủ. Tất cả chỗ có chúng sanh, không nơi nào chẳng hiện thân trong đó. Hoặc xuất gia trong chúng ngoại đạo mà luôn xa lìa tất cả tà kiến. Tất cả văn từ chú thuật tự ấn toán số nhẫn đến ca vũ du hí của thế gian thảy đều thị hiện không một môn nào chẳng tinh xảo. Hoặc có lúc thị hiện làm phụ nữ xinh đẹp, trí huệ tài năng đệ nhứt trong đời. Nơi pháp thế gian và xuất thế đều hay hỏi hay thuyết, vấn đáp quyết nghi đều rốt ráo cả. Tất cả sự thế gian và xuất thế cũng đều thông đạt đến bĩ ngạn. Tất cả chúng sanh thường đến chiêm ngưỡng. Dầu hiện oai nghi Thanh Văn, Bích Chi Phật mà chẳng mất tâm Ðại thừa. Dầu trong mỗi niệm thị hiện thành Chán giác mà chẳng dứt Bồ Tát hạnh. Ðây là pháp bất cộng thứ tư: chẳng do người dạy, được phương tiện thiện xảo rốt ráo bĩ ngạn.
Giảng: 4. Phật tử ! Đại Bồ Tát đã đến được phương tiện khéo léo rốt ráo bờ bên kia, nhưng trong tâm luôn đoái hoài tất cả chúng sinh, chẳng nhàm chán cảnh giới phàm phu ngu si thế tục, chẳng thích đạo xuất ly của nhị thừa, chẳng chấp vào sự ưa thích của mình, chỉ siêng năng giáo hoá độ thoát tất cả chúng sinh. Hay khéo nhập định và xuất định, thường ở nơi cảnh giới giải thoát. Đối với các tam muội, hoàn toàn được nhậm vận tự tại, vãng lai trong sinh tử tự do, chẳng bị hạn chế nào. Coi sự sinh tử như dạo chơi vườn hoa, khoái lạc giống như ngắm xem phong cảnh. Đối với tâm bồ đề trên cầu Phật đạo, dưới độ chúng sinh, chưa từng tạm khởi tâm nhàm mỏi. Hoặc trụ ở trong cung điện ma vương, hoặc làm trời Đế Thích, hoặc làm Đại Phạm Thiên Vương, hoặc làm chủ thế gian (hoàng đế). Tất cả nơi thọ sanh, Bồ Tát đều hiện thân ở trong đó. Hoặc xuất gia ở trong chúng ngoại đạo,
Tại sao vậy ? Vì khiến cho tất cả ngoại đạo xa lìa tất cả tà tri tà kiến. Hiện thân thuyết pháp, thay đổi tà kiến không chánh đáng của ngoại đạo. Tất cả văn từ, chú thuật, tự ấn, toán số của thế gian, cho đến pháp du hí, ca múa .v.v… thảy đều thị hiện tinh xảo. Hoặc có lúc thị hiện làm phụ nữ xinh đẹp, trí huệ tài năng bậc nhất trong đời. Đối với các pháp thế gian và xuất thế gian, chẳng gì mà chẳng biết, chẳng gì mà chẳng thấu, cho nên hay hỏi, hay nói. Trong sự vấn đáp, hay dứt trừ tất cả sự nghi hoặc, đều đến được rốt ráo. Đối với tất cả việc thế gian và xuất thế gian, cũng đều thông đạt hết, đến được bờ bên kia. Tất cả chúng sinh luôn đến chiêm ngưỡng, tuy hiện oai nghi của bậc Thanh Văn và Bích Chi Phật, nhưng chẳng mất tâm đại thừa, vẫn tu Bồ Tát đạo. Tuy ở trong niệm niệm thị hiện thành Chánh Giác, những vẫn chẳng dứt Bồ Tát hạnh. Đó là pháp bất cộng thứ tư : Chẳng do người khác dạy, phương tiện khéo léo, rốt ráo bờ kia.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát thiện tri quyền thật song hành đạo, trí tuệ tự tại, đáo ư cứu cánh. Sở vị: trụ ư Niết-Bàn nhi thị hiện sanh tử, tri vô chúng sanh nhi cần hạnh giáo hóa, cứu cánh tịch diệt nhi hiện khởi phiền não, trụ nhất kiên mật trí tuệ Pháp thân nhi phổ hiện vô lượng chư chúng sanh thân, thường nhập thâm Thiền định nhi thị thọ dục lạc, thường viễn ly tam giới nhi bất xả chúng sanh, thường lạc Pháp lạc nhi hiện hữu thải nữ ca vịnh hi hí, tuy dĩ chúng tướng hảo trang nghiêm kỳ thân nhi thị thọ xú lậu bần tiện chi hình, thường tích tập chúng thiện vô chư quá ác nhi hiện sanh địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ, tuy dĩ đáo ư Phật trí bỉ ngạn nhi diệc bất xả Bồ Tát trí thân. Bồ-Tát Ma-ha-tát thành tựu như thị vô lượng trí tuệ, Thanh văn, độc giác thượng bất năng trai, hà huống nhất thiết đồng mông chúng sanh! thị vi đệ ngũ bất do tha giáo quyền thật song hành bất cộng pháp.
Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát khéo biết đạo quyền thiệt song hành, trí huệ tự tại đến rốt ráo. Những là an trụ nơi Niết bàn mà thị hiện sanh tử. Biết không chúng sanh mà siêng thật hành công hạnh giáo hóa. Rốt ráo tịch diệt mà thị hiện khỏi phiền não. An trụ một pháp thân trí huệ kiên mật, mà hiện khắp vô lượng thân chúng sanh. Thường nhập thâm thiền định mà thị hiện thọ dục lạc. Thường xa rời tam giới mà chẳng bỏ chúng sanh. Thường thích pháp lạc mà hiện có thể nữ ca ngâm hát múa. Dầu dùng những tướng hảo trang nghiêm thân mình mà thị hiện thọ thân bần tiện xấu xí. Thường chứa nhóm những điều lành không có lỗi ác mà thị hiện sanh địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ. Dầu đã đến nơi Phật trí bĩ ngạn mà cũng chẳng bỏ trí thân Bồ Tát. Ðại Bồ Tát thành tựu vô lượng trí huệ như vậy. Thanh Văn Bích Chi Phật còn chẳng biết được, huống là tất cả hàng đồng môn chúng sanh. Ðây là pháp bất cộng thứ năm: chẳng do người dạy, quyền thiệt song hành.
Giảng: 5. Phật tử ! Đại Bồ Tát khéo biết pháp môn đạo quyền thật song hành, quyền là tạm thời, thật là vĩnh viễn. Tạm thời là pháp môn phương tiện thiện xảo; vĩnh viễn là pháp môn chân thật không đổi. Nhưng Bồ Tát giáo hoá chúng sinh, có lúc dùng quyền pháp, có lúc dùng thật pháp. Trí huệ của Bồ Tát là tự tại, đến cảnh giới rốt ráo. Tuy trụ tại Niết Bàn, mà vẫn thị hiện sanh tử. Tuy biết không có chúng sinh đáng độ, mà vẫn phải siêng hành giáo hoá tất cả chúng sinh. Tuy rốt ráo tịch diệt, tức là cảnh giới chẳng sinh, chẳng diệt, chẳng dơ, chẳng sạch, chẳng tăng, chẳng giảm. Nhưng Bồ Tát vẫn phải thị hiện có phiền não, cố ý hiện ra có tướng phiền não, để du hí ba cõi. Trụ một pháp thân trí huệ kiên mật, mà có thể hiện ra khắp vô lượng vô số thân các chúng sinh, đó là thần thông biến hoá diệu dụng của Bồ Tát.
Bồ Tát thường vào thiền định thâm sâu, mà thị hiện tiếp thọ tất cả dục lạc. Bồ Tát thường xa lìa ba cõi, mà chẳng bỏ tất cả chúng sinh. Bồ Tát thường hoan hỉ thích pháp lạc, mà hiện có thể nữ biểu diễn ca ngâm múa hát, du hí vui chơi. Tuy dùng 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp để trang nghiêm thân mình, mà thị hiện thọ thân hình xấu xí bần tiện. Thường tích tập tất cả căn lành, không có các lỗi ác, mà hay thị hiện sinh vào địa ngục, lại làm súc sanh, lại làm ngạ quỷ. Tuy đã đến nơi Phật trí bờ kia, mà cũng chẳng bỏ trí thân của Bồ Tát. Đại Bồ Tát thành tựu vô lượng trí huệ như vậy, trí huệ đó, hàng Thanh Văn và Độc Giác còn không biết được, hà huống là tất cả nhi đồng và chúng sinh vô tri khác, họ càng không thể nào biết được. Đó là pháp bất cộng thứ năm : Quyền thật song hành, chẳng do người khác dạy.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát thân, khẩu, ý nghiệp, tùy trí tuệ hành giai tất thanh tịnh. Sở vị: cụ túc đại từ vĩnh ly sát tâm, nãi chí cụ túc chánh giải vô hữu tà kiến. Thị vi đệ lục bất do tha giáo thân, khẩu, ý nghiệp tùy trí tuệ hành bất cộng Pháp.
Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát thân khẩu ý ba nghiệp tùy trí huệ hành thảy đều thanh tịnh. Những là đầy đủ đại từ lìa hẳn tâm sát sanh, nhẫn đến đầy đủ chánh giải không có tà kiến. Ðây là pháp bất cộng thứ sáu: chẳng do người dạy, thân khẩu ý ba nghiệp tùy trí huệ hành.
Giảng: 6. Phật tử ! Đại Bồ Tát thân miệng ý ba nghiệp, làm theo trí huệ, thảy đều thanh tịnh. Đó là : Đầy đủ tâm đại từ, vĩnh viễn lìa khỏi tâm giết hại chúng sinh, cho đến đầy đủ sự hiểu biết chân chánh, không có tà kiến. Đó là pháp bất cộng thứ sáu : Thân miệng ý ba nghiệp làm theo trí huệ, chẳng do người khác dạy.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát cụ túc đại bi, bất xả chúng sanh, đại nhất thiết chúng sanh nhi thọ chư khổ, sở vị: địa ngục khổ, súc sanh khổ, ngạ quỷ khổ. Vi lợi ích cố, bất sanh lao quyện, duy chuyên độ thoát nhất thiết chúng sanh, vị tằng đam nhiễm ngũ dục cảnh giới, thường vi tinh cần diệt trừ chúng khổ. Thị vi đệ thất bất do tha giáo thường khởi đại bi bất cộng pháp.
Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát đầy đủ đại bi chẳng bỏ chúng sanh, thay tất cả chúng sanh mà chịu khổ. Những là chịu khổ địa ngục, khổ súc sanh, khổ ngạ quỷ. Vì lợi ích cho chúng sanh nên chẳng sanh mỏi nhọc, chỉ chuyên độ thoát tất cả chúng sanh, chưa từng nhiễm say cảnh giới ngũ dục. Thường vì chúng sanh mà chuyên cần diệt trừ mọi sự khổ. Ðây là pháp bất cộng thứ bảy: chẳng do người dạy, thường có lòng đại bi.
Giảng: 7. Phật tử ! Đại Bồ Tát đầy đủ tâm đại bi, chẳng xả bỏ tất cả chúng sinh, không những chẳng bỏ chúng sinh, mà còn thế tất cả chúng sinh thọ các khổ, đó là tinh thần của Bồ Tát. Như là : Khổ trong địa ngục, khổ trong súc sinh, khổ trong ngạ quỷ, Bồ Tát cam tâm tình nguyện chịu khổ thay thể tất cả khổ của chúng sinh. Bồ Tát vì làm lợi ích cho tất cả chúng sinh, nên chẳng sinh mệt nhọc, chẳng khi nào mệt mỏi. Chỉ một mụch đích là chuyên độ thoát tất cả chúng sinh. Bồ Tát chưa từng đắm nhiễm cảnh giới năm dục (tài, sắc, danh, ăn, ngủ). Thường vì tất cả chúng sinh tinh cần diệt trừ tất cả các khổ hoạn nạn. Đó là pháp bất cộng thứ bảy : Thường khởi tâm đại bi, chẳng do người khác dạy.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát thường vi chúng sanh chi sở lạc kiến, Phạm Vương, Đế Thích, Tứ Thiên Vương đẳng nhất thiết chúng sanh kiến Vô yếm túc. Hà dĩ cố? Bồ-Tát Ma-ha-tát cửu viễn thế lai, hành nghiệp thanh tịnh vô hữu quá thất, thị cố chúng sanh kiến giả vô yếm. Thị vi đệ bát bất do tha giáo nhất thiết chúng sanh giai tất lạc kiến bất cộng pháp.
Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát thường được chúng sanh thích thấy: Phạm Vương, Ðế Thích, Tứ Thiên Vương nhẫn đến tất cả chúng sanh thấy không biết chán. Tại sao vậy ? Vì đại Bồ Tát từ đời lâu xa đến nay, hành nghiệp thanh tịnh không có lỗi lầm, vì thế nên chúng sanh thích thấy không nhàm. Ðây là pháp bất cộng thứ tám: không do người dạy, tất cả chúng sanh thảy đều thích thấy.
Giảng: 8. Phật tử ! Đại Bồ Tát thường làm chỗ ưa thích thấy của chúng sinh. Như Đại Phạm Thiên Vương, Trời Đế Thích, Trời Tứ Thiên Vương v.v… tất cả chúng sinh, thấy không khi nào nhàm đủ. Tại sao vậy ? Vì đại Bồ Tát từ đời lâu xa đến nay, tu hành nghiệp thanh tịnh không nhiễm, không có lỗi lầm, cho nên tất cả chúng sinh đều hoan hỉ nhìn thấy Bồ Tát, mà không nhàm chán. Đó là pháp bất cộng thứ tám : Tất cả chúng sinh đều ưa nhìn thấy Bồ Tát, chẳng do người khác dạy.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát ư Tát bà nhã đại thệ trang nghiêm chí lạc kiên cố, tuy xứ phàm phu, Thanh văn, độc giác hiểm nan chi xứ, chung bất thoái thất nhất thiết trí tâm minh tịnh diệu bảo.
Phật tử! như hữu bảo châu, danh: tịnh trang nghiêm, trí nê lạo trung quang sắc bất cải, năng lệnh trược thủy tất giai trừng tịnh. Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, tuy tại phàm ngu tạp trược đẳng xứ, chung bất thất hoại cầu nhất thiết trí thanh tịnh bảo tâm, nhi năng lệnh bỉ chư ác chúng sanh viễn ly vọng kiến, phiền não, uế trược, đắc cầu nhất thiết trí thanh tịnh tâm bảo. Thị vi đệ cửu bất do tha giáo tại chúng nan xứ bất thất nhất thiết trí tâm bảo bất cộng pháp.
Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát nơi nhứt thiết trí đại thệ trang nghiêm chí nguyện kiên cố. Dầu ở chỗ phàm phu, Thanh Văn, Ðộc Giác, hiểm nạn, trọn không thối thất tâm nhứt thiết trí diệu bửu sáng sạch.
Chư Phật tử ! Như có bửu châu tên là Tịnh trang nghiêm để trong bùn lầy vẫn không thay đổi màu sáng, có thể làm cho nước đục thảy đều đứng sạch. Cũng vậy đại Bồ Tát dầu ở chỗ phàm ngu tạp trược, trọn chẳng hư mất bửu tâm thanh tịnh cầu nhứt thiết trí, mà có thể làm cho những chúng sanh ác kia xa rời uế trược phiền não vọng kiến để được tâm bửu cầu nhứt thiết trí. Ðây là pháp bất cộng thứ chín: chẳng do người dạy: tại những chỗ hiểm nạn chẳng mất trân bửu Nhứt thiết trí.
Giảng: 9. Phật tử ! Đại Bồ Tát nơi nhất thiết trí đại thệ trang nghiêm, chí ưa thích rất kiên cố. Tuy chỗ hiểm nạn nơi phàm phu, Thanh Văn, Độc Giác, trọn không thối chuyển mất tâm nhất thiết trí sáng tịnh diệu báu.
Phật tử ! Ví như có hạt châu báu, tên là Tịnh trang nghiêm, để ở trong vũng bùn, ánh sáng màu sắc của hạt châu báu vẫn không thay đổi. Công năng của hạt châu báu, hay khiến cho nước đục, trở thành lắng trong. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, tuy ở nơi phàm ngu tạp trược, trọn không mất hoại tâm báu thanh tịnh cầu nhất thiết trí, mà hay khiến cho các chúng sinh ác đó, xa lìa vọng kiến, phiền não, uế trược, được tâm báu thanh tịnh cầu nhất thiết trí. Đó là pháp bất cộng thứ chín : Tại nơi các nạn chẳng mất tâm báu nhất thiết trí, chẳng do người khác dạy.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát thành tựu tự giác cảnh giới trí, vô sư tự ngộ, cứu cánh tự tại đáo ư bỉ ngạn, ly cấu Pháp tăng dĩ quan kỳ thủ, nhi ư thiện hữu bất xả thân cận, ư chư Như Lai thường lạc tôn trọng, thị vi đệ thập bất do tha giáo đắc tối thượng Pháp bất ly thiện tri thức, bất xả tôn trọng Phật bất cộng pháp.
Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát thành tựu trí tự giác cảnh giới. Không thầy tự ngộ rốt ráo tự tại đến bĩ ngạn. Dùng lụa pháp ly cấu để đội trên đầu, mà chẳng bỏ sự thân cận thiện hữu, thường thích tôn trọng chư Như Lai. Ðây là pháp bất cộng thứ mười: chẳng do người dạy, được pháp tối thượng chẳng rời thiện tri thức, chẳng bỏ tôn trọng Phật.
Giảng: 10. Phật tử ! Đại Bồ Tát thành tựu trí huệ tự giác cảnh giới, không thầy chỉ dạy mà tự khai ngộ, đến được rốt ráo tự tại, đến nơi Niết Bàn bờ kia, lụa pháp lìa cấu, dùng làm mũ pháp, đội trên đầu, rất là trang nghiêm. Nơi bạn lành gần gũi không rời, nơi các Như Lai thường thích tôn trọng. Đó là pháp bất cộng thứ mười : Được pháp tối thượng, chẳng lìa thiện tri thức, chẳng bỏ sự tôn trọng Phật, chẳng do người khác dạy.
Phật tử! thị vi Bồ-Tát Ma-ha-tát thập chủng bất cộng pháp. Nhược chư Bồ-tát an trụ kỳ trung, tức đắc Như Lai vô thượng quảng đại bất cộng pháp.
Chư Phật tử ! Trên đây là mười pháp bất cộng của Bồ Tát. Nếu chư Bồ Tát an trụ nơi pháp này thời được pháp bất cộng quảng đại vô thượng của Như Lai.
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đó là mười pháp bất cộng của của đại Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được pháp bất cộng rộng lớn vô thượng của Như Lai.
====================================
Thập Chủng Nghiệp
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng nghiệp. Hà đẳng vi thập? sở vị:
Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười nghiệp. Những gì là mười ? Đó là:
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ nghiệp. Những gì là mười ? Đó là :
Nhất thiết thế giới nghiệp, tất năng nghiêm tịnh cố
Tất cả thế giới nghiệp, vì đều có thể trang nghiêm thanh tịnh.
Giảng: 1. Tất cả thế giới nghiệp, vì có thể đổi đời ác năm trược, thành thế giới trang nghiêm thanh tịnh.
Nhất thiết chư Phật nghiệp, tất năng cúng dường cố
Tất cả chư Phật nghiệp, vì đều có thể cúng dường.
Giảng: 2. Tất cả chư Phật nghiệp, vì đều cúng dường hết thảy chư Phật.
Nhất thiết Bồ Tát nghiệp, đồng chủng thiện căn cố
Tất cả Bồ Tát nghiệp, vì đồng gieo thiện căn.
Giảng: 3. Tất cả Bồ Tát nghiệp, vì cùng trồng căn lành.
Nhất thiết chúng sanh nghiệp, tất năng giáo hóa cố
Tất cả chúng sanh nghiệp, vì đều có thể giáo hóa.
Giảng: 4. Tất cả chúng sinh nghiệp, vì đều giáo hoá chúng sinh, điều phục chúng sinh, độ thoát chúng sinh.
Nhất thiết vị lai nghiệp, tận vị lai tế nhiếp thủ cố
Tất cả vị lai nghiệp, vì nhiếp thủ tột thưở vị lai.
Giảng: 5. Tất cả vị lai nghiệp, vì hết kiếp thuở vị lai, nhiếp lấy tất cả chúng sinh.
Nhất thiết thần lực nghiệp, bất ly nhất thế giới biến chí nhất thiết thế giới cố
Tất cả thần lực nghiệp, vì chẳng rời một thế giới đến khắp tất cả thế giới.
Giảng: 6. Tất cả thần lực nghiệp, vì chẳng lìa một thế giới, mà có thể đến khắp tất cả thế giới.
Nhất thiết quang minh nghiệp, phóng vô biên sắc quang minh, nhất nhất quang trung hữu liên hoa tọa, các hữu Bồ Tát kết già phu tọa nhi hiển hiện cố
Tất cả quang minh nghiệp, vì phóng quang minh vô biên màu, trong mỗi quang minh có tòa liên hoa đều có Bồ Tát ngồi kiết già trên đó. Dùng đây để hiển hiện.
Giảng: 7. Tất cả quang minh nghiệp, vì có thể phóng ra vô biên quang minh màu sắc, trong mỗi quang minh đều có toà hoa sen. Trên mỗi toà hoa sen, đều có Bồ Tát ngồi kiết già, hiện thân trang nghiêm, vì chúng sinh diễn nói diệu pháp.
Nhất thiết Tam Bảo chủng bất đoạn nghiệp, chư Phật diệt hậu, thủ hộ trụ trì chư Phật Pháp cố
Tất cả giống Tam Bửu chẳng đoạn nghiệp, vì sau khi đức Phật diệt độ thời thủ hộ trụ trì những Phật pháp.
Giảng: 8. Tất cả giống Tam Bảo chẳng dứt, vì chư Phật diệt rồi, phải giữ gìn pháp của chư Phật nói, phải hoằng dương pháp của chư Phật nói. Do đó có câu : Tục Phật huệ mạng, thiệu long Tam Bảo.
Nhất thiết biến hóa nghiệp, ư nhất thiết thế giới thuyết Pháp giáo hóa chư chúng sanh cố;
Tất cả biến hóa nghiệp, vì ở tất cả thế giới thuyết pháp giáo hóa các chúng sanh.
Giảng: 9. Tất cả biến hoá nghiệp, vì trong tất cả thế giới thuyết pháp giáo hoá các chúng sinh, khiến cho họ được lợi ích của pháp, thoát khỏi ba cõi.
Nhất thiết gia trì nghiệp, ư nhất niệm trung tùy chư chúng sanh tâm chi sở dục giai vi thị hiện, lệnh nhất thiết nguyện tất thành mãn cố.
Tất cả gia trì nghiệp, ở trong một niệm tùy tâm sở thích của các chúng sanh đều vì họ mà thị hiện làm cho tất cả nguyện vọng đều thành mãn.
Giảng: 10. Tất cả gia trì nghiệp, ở trong một niệm, tuỳ tâm ưa thích của các chúng sinh mà thị hiện, khiến cho tất cả nguyện đều thành tựu. Nghĩa là chúng sinh hy vọng gì, đều khiến cho họ đắc được, khiến cho được được toại tâm mãn nguyện, một lòng một dạ cầu Phật pháp, chấm dứt sinh tử.
Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức đắc Như Lai vô thượng quảng đại nghiệp.
Đó là mười. Nếu chư Bồ Tát an trụ trong pháp này thời được nghiệp quảng đại vô thượng của Như Lai.
Giảng: Đó là mười thứ nghiệp của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được nghiệp thanh tịnh rộng lớn vô thượng của Như Lai.
===============================
Thập Chủng Thân
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng thân. Hà đẳng vi thập? sở vị:
Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười thân. Những gì là mười ? Đó là:
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ thân. Những gì là mười ? Đó là :
Bất-lai thân, ư nhất thiết thế gian bất thọ sanh cố
Bất lai thân, vì chẳng thọ sanh ở tất cả thế gian.
Giảng: 1. Thân chẳng đến, vì chẳng còn thọ sinh trong tất cả thế gian, nên gọi là chẳng đến.
Bất khứ thân, ư nhất thiết thế gian cầu bất đắc cố
Bất khứ thân, vì nơi tất cả thế gian cầu chẳng được.
Giảng: 2. Thân chẳng đi, vì trong tất cả thế gian cầu chẳng thể được, nên gọi là chẳng đi.
Bất thật thân, nhất thiết thế gian như thật đắc cố
Bất thiệt thân, vì tất cả thế gian được như thiệt.
Giảng: 3. Thân chẳng thật, thân thể của chúng ta là do đất, nước, gió, lửa, bốn đại giả hợp mà thành thân năm uẩn. Những chất cứng trên thân thể thuộc về đất, chất lỏng thuộc về nước, hơi ấm thuộc về lửa, hô hấp thuộc về gió. Bốn đại điều hoà, thì thân thể khoẻ mạnh; còn nếu bốn đại chẳng điều hoà thì thân thể suy nhược. Thân thể nầy vốn chẳng thật, tất cả thế gian giống tựa như thật, nhưng trên thật tế đều là hư vọng.
Bất hư thân, dĩ như thật lý thị thế gian cố
Bất hư thân, vì dùng lý như thiệt thị hiện thế gian.
Giảng: 4. Thân chẳng hư, thân nầy chẳng thật, vậy tức là hư chăng ? Chẳng phải. Tuy chẳng thật, nhưng Phật tánh ở trong tâm là chân thật, cho nên có lý thể chân như thật tánh, thị hiện tại thế gian.
Bất tận thân, tận vị lai tế vô đoạn tuyệt cố
Bất tận thân, vì tột thưở vị lai không đoạn tuyệt.
Giảng: 5. Thân chẳng tận, thân nầy chẳng thật chẳng hư, cũng chẳng cùng tận. Sinh rồi lại chết, chết rồi lại sinh, vĩnh viễn không khi nào chấm dứt. Đây chẳng phải là nhục thân, mà là linh tánh, hết thuở vị lai, cũng không đoạn tận.
Kiên cố thân, nhất thiết chúng ma bất năng hoại cố
Kiên cố thân, vì tất cả chúng sanh ma chẳng phá hoại được.
Giảng: 6. Thân kiên cố, thân thể nầy như kim cang, tất cả chúng ma không thể phá hoại được. Có tâm tin kiên cố thì thiên ma ngoại đạo, tìm hết cách cũng không thể nào phá hoại được.
Bất động thân, chúng ma ngoại đạo bất năng động cố
Bất động thân, vì chúng ma ngoại đạo chẳng động được.
Giảng: 7. Thân chẳng động, vì như như bất động, cho nên chúng ma ngoại đạo không thể lay động được tâm tin của Bồ Tát.
Cụ tướng thân, thị hiện thanh tịnh bách phước tướng cố
Cụ tướng thân, vì thị hiện tướng trăm phước thanh tịnh.
Giảng: 8. Thân đủ tướng, đầy đủ ba mươi hai tướng đại nhân, tám mươi vẻ đẹp, hay thị hiện thân tướng trăm phước trang nghiêm thanh tịnh.
Vô tướng thân, Pháp tướng cứu cánh tất vô tướng cố
Vô tướng thân, vì pháp tướng rốt ráo đều vô tướng.
Giảng: 9. Thân vô tướng, vì pháp tướng rốt ráo đều vô tướng, nghĩa là thật tướng vô tướng, chẳng gì mà không có tướng.
Phổ chí thân, dữ tam thế Phật đồng nhất thân cố.
Phổ chí thân, vì đồng một thân với tam thế Phật.
Giảng: 10. Thân đến khắp, vì đồng một pháp thân với chư Phật ba đời.
Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức đắc Như Lai vô thượng vô tận chi thân.
Nếu chư Bồ Tát an trụ trong pháp này thời được thân vô thượng vô tận của Như Lai.
Giảng: Đó là mười thứ pháp thân của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ pháp nầy, thì sẽ đắc được pháp thân vô tận vô thượng của Như Lai.
Ở trên là Bồ Tát Phổ Hiền trả lời hai mươi chín câu hỏi của Bồ Tát Phổ Huệ hỏi về hạnh Thập Hồi Hướng. Vì một đáp mười, nên có tới hai trăm chín mươi câu trả lời.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét