Phẩm Thập Hồi Hướng 10

Kinh Hoa Nghiêm

Đại Phương Quảng Phật

giảng giải

Phẩm Thứ 25

Hòa Thượng TUYÊN HÓA
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Minh Ðịnh

— o0o —

Phẩm Thập Hồi Hướng – 10

Hồi hướng đẳng pháp giới vô lượng thứ mười.

 

Phật tử! vân hà vi Bồ-Tát Ma-ha-tát đẳng pháp giới vô lượng hồi hướng?

Phật tử ! Thế nào là hồi hướng đẳng pháp giới vô lượng của đại Bồ Tát.

Giảng: Bồ Tát Kim Cang Tràng lại gọi một tiếng các vị đệ tử của Phật ! Các vị có biết thế nào gọi là hồi hướng đẳng pháp giới vô lượng của đại Bồ Tát tu hành Bồ Tát đạo chăng ?

Thế nào gọi là pháp giới ? Pháp là các pháp, giới tức là phân giới. Các pháp đều có tự thể, mà phân giới khác nhau, nên gọi là pháp giới. Tóm lại, pháp giới tức là tâm của con người, lớn mà không ngoài, nhỏ mà không ở trong, tức cũng là bổn thể thân tâm của chúng sinh.

Tông Hiền Thủ, chia pháp giới làm bốn thứ:

  1. Sự pháp giới.
  2. Lý pháp giới.
  3. Lý sự vô ngại pháp giới.
  4. Sự sự vô ngại pháp giới.

Tông Thiên Thai chia pháp giới làm mười thứ:

  1. Pháp giới của Phật.
  2. Pháp giới của Bồ Tát
  3. Pháp giới của Duyên Giác.
  4. Pháp giới của Thanh Văn
  5. Pháp giới của Trời.
  6. Pháp giới của người.
  7. Pháp giới của A tu la.
  8. Pháp giới của súc sinh
  9. Pháp giới của ngạ quỷ.
  10. Pháp giới của địa ngục.

Do đó: “Mười pháp giới không lìa khỏi một tâm niệm”, tức cũng là đạo lý tất cả do tâm tạo.

Thế nào gọi là hồi hướng ? Có nhiều lối nói. Một là hồi tự hướng tha: Đem hết thảy công đức của mình cho người khác. Hai là hồi nhân hướng quả: Tại nhân địa tu tập đủ thứ căn lành, tương lai sẽ đắc được công đức quả địa. Ba là hồi sự hướng lý: Đem sự hồi hướng về lý. Bốn là hồi tiểu hướng đại: Hồi tiểu thừa hướng về đại thừa. Đó là ý nghĩa của hồi hướng.

 

Phật tử! thử Bồ-Tát Ma-ha-tát dĩ ly cấu tăng nhi hệ kỳ đảnh, trụ pháp sư vị

Phật tử ! Đại Bồ Tát nầy dùng lụa vô cấu mà quấn trên đầu mình, trụ ở ngôi vị pháp sư.

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Vị đại Bồ Tát nầy tu hành Bồ Tát đạo, dùng dải lụa vô cấu (nghiêm trì giới luật), quấn trên đầu của mình, thường làm đại pháp sư. Phàm là người tinh thông Phật pháp, đều có thể làm thầy của người. Làm bậc Pháp sư phải có đủ năm điều kiện:

  1. Thọ trì.
  2. Đọc Kinh.
  3. Tụng Kinh.
  4. Giải nói.
  5. Biên chép.

Người có năm thứ khả năng nầy, được gọi là Pháp sư. Tinh thông tạng Kinh, tạng Luật, tạng Luận, gọi là Tạm Tạng Pháp sư.

Nói một cách khác, pháp sư phải có mười đức hạnh:

  1. Khéo biết pháp nghĩa.
  2. Rộng tuyên nói.
  3. Ở trong chúng không sợ hãi.
  4. Biện tài vô ngại.
  5. Khéo phương tiện nói.
  6. Pháp tuỳ đức hành.
  7. Oai nghi đầy đủ.
  8. Dũng mãnh tinh tấn.
  9. Thân tâm không mệt.
  10. Thành tựu sức nhẫn.

Tóm lại, phàm là người giảng Kinh thuyết pháp, đều gọi là pháp sư.

Pháp giới là vô lượng, chẳng có bờ mé; nếu có lượng, thì chẳng phải là pháp giới. Tuy nhiên vô lượng, nhưng đại Bồ Tát dùng năm nhãn để quán sát, cũng biết được bờ mé của pháp giới.

 

Quảng hành pháp thí, khởi đại từ bi an lập chúng sanh, ư Bồ-đề tâm thường hành nhiêu ích vô hữu hưu tức. Dĩ Bồ-đề tâm trưởng dưỡng thiện căn, vi chư chúng sanh tác điều ngự sư, thị chư chúng sanh nhất thiết trí đạo. Vi chư chúng sanh tác pháp tạng nhật, thiện căn quang minh phổ chiếu nhất thiết. ư chư chúng sanh kỳ tâm bình đẳng, tu chư thiện hạnh vô hữu hưu tức. Tâm tịnh vô nhiễm, trí tuệ tự tại, bất xả nhất thiết thiện căn đạo nghiệp. Tác chư chúng sanh đại trí thương chủ, phổ lệnh đắc nhập an ổn chánh đạo. Vi chư chúng sanh nhi tác đạo thủ, lệnh tu nhất thiết thiện căn Pháp hành. Vi chư chúng sanh tác bất khả hoại kiên cố thiện hữu, lệnh kỳ thiện căn tăng trưởng thành tựu.

Rộng thực hành bố thí pháp, khởi đại từ bi, an lập chúng sinh. Nơi tâm bồ đề, thường hành lợi ích, không có ngừng nghỉ. Dùng tâm bồ đề, nuôi lớn căn lành, vì các chúng sinh làm Điều Ngự Sư. Mở bày cho các chúng sinh đạo nhất thiết trí, vì chúng sinh làm mặt trời pháp tạng, ánh sáng căn lành, chiếu khắp tất cả. Nơi các chúng sinh, tâm đều bình đẳng. Tu các hạnh lành, chẳng có ngừng nghỉ. Tâm thanh tịnh không nhiễm, trí huệ tự tại, không xả bỏ tất cả căn lành đạo nghiệp. Làm thương chủ đại trí của các chúng sinh, khiến khắp tất cả được vào con đường chân chánh an ổn. Vì các chúng sinh mà làm dẫn đầu, khiến cho họ tu tất cả căn lành pháp hành. Vì các chúng sinh mà làm bạn lành kiên cố không thể hoại, khiến cho căn lành của họ tăng trưởng thành tựu.

Giảng: Bồ Tát thường thường rộng thực hành bố thí pháp, sinh khởi tâm đại từ đại bi. Do đó:

“Từ hay ban vui
Bi hay cứu khổ”.

An lập tất cả chúng sinh. Đối với tâm bồ đề (trên cầu Phật đạo, dưới độ chúng sinh) vĩnh viễn không giải đãi, không có lúc nào ngừng nghỉ. Thường làm lợi ích cho tất cả chúng sinh, trong niệm niệm đều nghĩ tới lợi ích chúng sinh, mà không có lúc nào ngừng nghỉ.

Bồ Tát dùng tâm bồ đề, nuôi lớn căn lành của mình. Vì tất cả chúng sinh mà làm Điều Ngự Sư, mở bày cho chúng sinh, khiến cho họ được đạo nhất thiết trí huệ. Vì tất cả chúng sinh, mà làm mặt trời pháp tạng, nói tạng pháp, giống như mặt trời, ánh sáng chiếu khắp tất cả chúng sinh. Căn lành và trí huệ quang minh của Bồ Tát tu tập, chiếu sáng khắp tất cả. Đối với tất cả chúng sinh, đối đãi bình đẳng, chẳng phân biệt đó đây. Tu tất cả hạnh lành, chẳng có lúc nào ngừng nghỉ.

Tâm của Bồ Tát rất thanh tịnh, chẳng có tư tưởng nhiễm ô. Trí huệ của Ngài nhậm vận tự tại, không xả bỏ tất cả căn lành, cũng chẳng xả bỏ tất cả đạo nghiệp. Vì tất cả chúng sinh mà làm thương chủ đại trí huệ, khắp khiến cho tất cả chúng sinh, vào được con đường chân chánh an ổn. Vì tất cả chúng sinh mà làm lãnh tụ dẫn đầu, khiến cho họ tu tất cả căn lành pháp hành. Vì tất cả chúng sinh mà làm bạn lành kiên cố không thể phá hoại, khiến cho tất cả căn lành của chúng sinh, không những tăng trưởng, mà còn có sự thành tựu.

 

Phật tử! thử Bồ-Tát Ma-ha-tát dĩ pháp thí vi thủ, phát sanh nhất thiết thanh tịnh bạch pháp, nhiếp thọ thú hướng nhất thiết trí tâm, thù thắng nguyện lực cứu cánh kiên cố. Thành tựu tăng ích, cụ đại uy đức, y thiện tri thức, tâm vô siểm cuống, tư tánh quan sát nhất thiết trí môn vô biên cảnh giới.

Phật tử ! Đại Bồ Tát nầy dùng bố thí pháp làm đầu, phát sinh tất cả pháp trắng thanh tịnh, nhiếp thọ hướng về tâm nhất thiết trí. Nguyện lực thù thắng, rốt ráo kiên cố, thành tựu tăng trưởng, đầy đủ oai đức. Nương thiện tri thức, tâm không xiểm nịnh lừa dối. Suy gẫm quán sát cảnh giới môn nhất thiết trí vô biên.

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Vị đại Bồ Tát nầy tu hành Bồ Tát đạo, dùng bố thí pháp làm hàng đầu, phát sinh tất cả pháp trắng thanh tịnh, nhiếp thọ tất cả chúng sinh, hướng về tâm nhất thiết trí. Phát nguyện lực thù thắng, đắc được tâm kiên cố rốt ráo, thành tựu viên mãn, tăng trưởng lợi ích, đầy đủ sức đại oai đức. Nương tựa thiện tri thức, gần gũi thiện tri thức; thiện tri thức biết được tâm ý, chỉ dẫn chúng sinh về con đường lành; tức cũng là hay giáo hoá chúng sinh xa lìa mười điều ác, tu hành mười điều lành. Trong tâm không xiểm nịnh vị thiện tri thức đó, cũng không lừa dối vị thiện tri thức đó. Thường thường suy gẫm, quán sát, nghiên cứu môn nhất thiết trí huệ, có cảnh giới vô biên.

 

Dĩ thử thiện căn như thị hồi hướng: nguyện đắc tu tập, thành tựu, tăng trưởng quảng đại vô ngại nhất thiết cảnh giới.

Đem căn lành đó hồi hướng như vầy: Nguyện được tu tập thành tựu tăng trưởng tất cả cảnh giới rộng lớn vô ngại.

Giảng: Bồ Tát đem căn lành đó, hồi hướng như vầy: Nguyện được tu hành, học tập, thành tựu, viên mãn, tăng trưởng, rộng lớn, vô ngại, đủ thứ tất cả cảnh giới.

 

Nguyện đắc ư Phật chánh giáo chi trung, nãi chí thính văn nhất cú, nhất kệ thọ trì diễn thuyết.

Nguyện được ở trong chánh giáo của Phật, cho đến nghe được một câu, một bài kệ, đều thọ trì diễn nói.

Giảng: Bồ Tát nguyện được ở trong chánh giáo của Phật, cho đến nghe một câu, hoặc một bài kệ, cũng phải thọ trì Phật pháp, cũng phải diễn nói Phật pháp, khiến cho tất cả chúng sinh, đều được thấu hiểu thông đạt nghĩa lý một câu, một bài kệ.

 

Nguyện đắc ức niệm dữ Pháp giới đẳng vô lượng vô biên nhất thiết thế giới khứ, lai, hiện tại nhất thiết chư Phật, ký ức niệm dĩ, tu Bồ Tát hạnh.

Nguyện nghĩ nhớ được tất cả chư Phật quá khứ hiện tại vị lai, vô lượng vô biên tất cả thế giới, đồng với pháp giới. Nghĩ nhớ rồi, liền tu hạnh Bồ Tát

Giảng: Bồ Tát nguyện nghĩ nhớ được tất cả các đức Phật, đời quá khứ, đời vị lai, đời hiện tại, vô lượng vô biên tất cả thế giới, đồng với pháp giới. Nghĩ nhớ rồi, lập tức tu hạnh của Bồ Tát tu.

 

Hựu nguyện dĩ thử niệm Phật thiện căn, vi nhất chúng sanh ư nhất thế giới tận vị lai kiếp tu Bồ Tát hạnh. Như ư nhất thế giới, tận Pháp giới, hư không giới, nhất thiết thế giới giai diệc như thị. Như vi nhất chúng sanh, vi nhất thiết chúng sanh diệc phục như thị. Dĩ thiện phương tiện, nhất nhất giai vi tận vị lai kiếp đại thệ trang nghiêm, chung vô ly Phật thiện tri thức tưởng, thường kiến chư Phật hiện tại kỳ tiền, vô hữu nhất Phật xuất hưng ư thế bất đắc thân cận.

Lại nguyện đem căn lành niệm Phật nầy, vì tất cả chúng sinh, trong một thế giới, hết kiếp thuở vị lai, tu hạnh Bồ Tát. Như trong một thế giới, tận pháp giới hư không giới tất cả thế giới, cũng đều như vậy. Như vì một chúng sinh, vì tất cả chúng sinh, cũng lại như vậy. Dùng phương tiện khéo léo, thảy đều làm. Hết kiếp thuở vị lai, dùng đại thệ nguyện trang nghiêm, trọn không lìa nghĩ đến Phật thiện tri thức. Thường thấy chư Phật hiện ra ở trước, chẳng có một vị Phật nào ra đời mà không được gần gũi.

Giảng: Bồ Tát lại nguyện đem căn lành nghĩ nhớ mười phương chư Phật nầy, vì tất cả chúng sinh, ở trong một thế giới, hết kiếp thuở vị lai, tu hạnh Bồ Tát; như một tại một thế giới là tình hình như vậy, tận pháp giới hư không giới tất cả thế giới, cũng đều tình hình như vậy. Như vì một chúng sinh, hết kiếp thuở vị lai như vậy, tu hạnh Bồ Tát. Vì tất cả chúng sinh, cũng lại như thế. Dùng pháp môn phương tiện khéo léo, khiến cho mỗi mỗi đều như vậy, hết kiếp thuở vị lai, dùng đại thệ nguyện để trang nghiêm, trọn không lìa khỏi chư Phật, hoặc lìa khỏi các vị thiện tri thức. Thường thấy mười phương chư Phật hiện ra ở trước, bất cứ vị Phật nào, xuất hiện ra đời, đều gần gũi, chẳng có một vị Phật nào mà không đến gần gũi, cho nên rộng tu cúng dường các đức Phật, rộng độ tất cả chúng sinh.

 

Nhất thiết chư Phật cập chư Bồ-tát sở tán sở thuyết thanh tịnh phạm hạnh, thệ nguyện tu hành, tất lệnh viên mãn

Tất cả chư Phật và các Bồ Tát, khen ngợi diễn nói phạm hạnh thanh tịnh, thệ nguyện tu hành, đều khiến cho viên mãn.

Giảng: Hết thảy mười phương chư Phật và tất cả Bồ Tát, các Ngài khen ngợi diễn nói phạm hạnh thanh tịnh. Bồ Tát phát đại thệ nguyện, tu hành hai mươi thứ phạm hạnh, thảy đều khiến cho viên mãn, đến được cảnh giới không thiếu khuyết.

 

Sở vị: bất phá phạm hạnh, bất khuyết phạm hạnh, bất tạp phạm hạnh, vô điểm phạm hạnh, vô thất phạm hạnh, vô năng tế phạm hạnh, Phật sở tán phạm hạnh, vô sở y phạm hạnh, vô sở đắc phạm hạnh, tăng ích Bồ Tát thanh tịnh phạm hạnh, tam thế chư Phật sở hạnh phạm hạnh, vô ngại phạm hạnh, Vô Trước phạm hạnh, vô tránh phạm hạnh, vô diệt phạm hạnh, an trụ phạm hạnh, vô bỉ phạm hạnh, vô động phạm hạnh, vô loạn phạm hạnh, vô nhuế phạm hạnh.

Đó là: Phạm hạnh không phá. Phạm hạnh không thiếu. Phạm hạnh không tạp. Phạm hạnh không vết. Phạm hạnh không mất. Phạm hạnh không che đậy. Phạm hạnh được khen ngợi. Phạm hạnh không chỗ nương. Phạm hạnh không chỗ được. Phạm hạnh thanh tịnh tăng ích cho Bồ Tát. Phạm hạnh chư Phật ba đời thực hành. Phạm hạnh vô ngại. Phạm hạnh không chấp trước. Phạm hạnh không tranh. Phạm hạnh không diệt. Phạm hạnh an trụ. Phạm hạnh không gì sánh bằng. Phạm hạnh không động. Phạm hạnh không loạn. Phạm hạnh không sân hận.

Giảng: Những phạm hạnh đó là:

  1. Phạm hạnh không phá: Phạm hạnh giữ gìn giới luật.
  2. Phạm hạnh không thiếu: Tức là tu tất cả hạnh nhẫn nhục, mà không thiếu khuyết.
  3. Phạm hạnh không tạp: Tức là phạm hạnh thanh tịnh chẳng có tạp nhiễm.
  4. Phạm hạnh không vết: Tức là phạm hạnh chẳng có tì vết nào.
  5. Phạm hạnh không mất: Tức là phạm hạnh chẳng có sự mất mác không tu.
  6. Phạm hạnh không che đậy: Tức là phạm hạnh chẳng có sự che đậy.
  7. Phạm hạnh được Phật khen ngợi: Tức là phạm hạnh được Phật khen ngợi người thực hành.
  8. Phạm hạnh không chỗ nương: Tức là phạm hạnh chẳng có chỗ nương tựa.
  9. Phạm hạnh không chỗ được: Tức là phạm hạnh chẳng có chỗ đắc được.
  10. Phạm hạnh tăng ích cho Bồ Tát: Tức là phạm hạnh tăng thêm lợi ích cho Bồ Tát.
  11. Phạm hạnh chư Phật ba đời thực hành: Tức là phạm hạnh chư Phật đời quá khứ, đời hiện tại, đời vị lai, mười phương tất cả chư Phật đều tu hành.
  12. Phạm hạnh vô ngại: Tức là phạm hạnh chẳng có sự chướng ngại.
  13. Phạm hạnh không chấp trước: Tức là phạm hạnh chẳng có sự chấp trước.
  14. Phạm hạnh không tranh: Tức là phạm hạnh chẳng có tranh luận.
  15. Phạm hạnh không diệt: Tức là phạm hạnh chẳng có tội nghiệp có thể diệt.
  16. Phạm hạnh an trụ: Tức là phạm hạnh an trụ nơi thanh tịnh.
  17. Phạm hạnh không gì sánh bằng: Tức là phạm hạnh không có gì so sánh bằng.
  18. Phạm hạnh không động: Tức là phạm hạnh không có làm làm lay động được.
  19. Phạm hạnh không loạn: Tức là phạm hạnh không thể tán loạn.
  20. Phạm hạnh không sân hận: Tức là phạm hạnh chẳng có sự sân hận.

Phạm hạnh tức là hạnh thanh tịnh lợi tha, tức cũng là pháp đoạn tuyệt dâm dục. Tu hành thanh tịnh, mới sinh ra phạm hạnh. Tu bốn tâm vô lượng, bèn sinh ra hạnh nghiệp Phạm thiên, nên gọi là Phạm hạnh.

 

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát nhược năng vi kỷ tu hành như thị thanh tịnh phạm hạnh, tức năng phổ vi nhất thiết chúng sanh, lệnh nhất thiết chúng sanh giai đắc an trụ. Lệnh nhất thiết chúng sanh giai đắc khai hiểu. Lệnh nhất thiết chúng sanh giai đắc thành tựu. Lệnh nhất thiết chúng sanh giai đắc thanh tịnh. Lệnh nhất thiết chúng sanh giai đắc vô cấu. Lệnh nhất thiết chúng sanh giai đắc chiếu minh. Lệnh nhất thiết chúng sanh ly chư trần nhiễm. Lệnh nhất thiết chúng sanh vô chư chướng ế. Lệnh nhất thiết chúng sanh ly chư nhiệt não. Lệnh nhất thiết chúng sanh ly chư triền phược. Lệnh nhất thiết chúng sanh vĩnh ly chư ác. Lệnh nhất thiết chúng sanh vô chư não hại, tất cánh thanh tịnh.

Phật tử ! Nếu đại Bồ Tát vì mình tu hành phạm hạnh thanh tịnh như vậy, tức khắp vì tất cả chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh đều được an trụ. Khiến cho tất cả chúng sinh đều được khai ngộ thấu hiểu. Khiến cho tất cả chúng sinh đều được thành tựu. Khiến cho tất cả chúng sinh đều được thanh tịnh. Khiến cho tất cả chúng sinh đều được không dơ bẩn. Khiến cho tất cả chúng sinh đều được chiếu sáng. Khiến cho tất cả chúng sinh lìa các bụi trần nhiễm ô. Khiến cho tất cả chúng sinh lìa các sự chướng ngại. Khiến cho tất cả chúng sinh lìa các nhiệt não. Khiến cho tất cả chúng sinh lìa các sự trói buộc. Khiến cho tất cả chúng sinh vĩnh viễn lìa khỏi các điều ác. Khiến cho tất cả chúng sinh không còn các não hại, rốt ráo được thanh tịnh.

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát tu hành Bồ Tát đạo, tích tụ đủ thứ căn lành. Nếu vì mình tu hành phạm hạnh thanh tịnh, đó tức là vì khắp tất cả chúng sinh, đắc được hai mươi điều lợi ích:

  1. Khiến cho tất cả chúng sinh, đều được an trụ nơi phạm hạnh.
  2. Khiến cho tất cả chúng sinh, đều được khai ngộ hiểu rõ các pháp.
  3. Khiến cho tất cả chúng sinh, đều được thành tựu trí huệ.
  4. Khiến cho tất cả chúng sinh, đều được tư tưởng thanh tịnh.
  5. Khiến cho tất cả chúng sinh, đều chẳng còn hành vi cấu bẩn.
  6. Khiến cho tất cả chúng sinh, đều được trí huệ quang minh chiếu sáng khắp cùng.
  7. Khiến cho tất cả chúng sinh, đều được lìa khỏi tất cả pháp bụi trần ô nhiễm.
  8. Khiến cho tất cả chúng sinh, đều được lìa khỏi tất cả pháp chướng ngại.
  9. Khiến cho tất cả chúng sinh, đều được lìa khỏi tất cả nhiệt não, đắc được mát mẻ.
  10. Khiến cho tất cả chúng sinh, đều được lìa khỏi tất cả sự trói buộc, đắc được tự tại.
  11. Khiến cho tất cả chúng sinh, vĩnh viễn lìa khỏi tất cả nghiệp ác.
  12. Khiến cho tất cả chúng sinh, đều không còn tất cả sự não hại, đắc được rốt ráo thanh tịnh.

 

Hà dĩ cố? Bồ-Tát Ma-ha-tát tự ư phạm hạnh bất năng thanh tịnh, bất năng lệnh tha nhi đắc thanh tịnh. Tự ư phạm hạnh nhi hữu thoái chuyển, bất năng lệnh tha vô hữu thoái chuyển. Tự ư phạm hạnh nhi hữu thất hoại, bất năng lệnh tha vô hữu thất hoại. Tự ư phạm hạnh nhi hữu viễn ly, bất năng lệnh tha thường bất viễn ly. Tự ư phạm hạnh nhi hữu giải đãi, bất năng lệnh tha bất sanh giải đãi. Tự ư phạm hạnh bất sanh tín giải, bất năng lệnh tha tâm sanh tín giải. Tự ư phạm hạnh nhi bất an trụ, bất năng lệnh tha nhi đắc an trụ. Tự ư phạm hạnh nhi bất chứng nhập, bất năng lệnh tha tâm đắc chứng nhập. Tự ư phạm hạnh nhi hữu phóng xả, bất năng lệnh tha hằng bất phóng xả. Tự ư phạm hạnh nhi hữu tán động, bất năng lệnh tha tâm bất tán động.

Tại sao ? Vì đại Bồ Tát tự mình ở nơi phạm hạnh không được thanh tịnh, thì không thể khiến cho họ được thanh tịnh. Mình ở nơi phạm hạnh mà có sự thối chuyển, thì không thể khiến cho họ được không thối chuyển. Mình ở nơi phạm hạnh mà có sự mất hoại, thì không thể khiến cho họ không có sự mất hoại. Mình ở nơi phạm hạnh mà có sự xa lìa, thì không thể khiến cho họ thường không xa lìa. Mình ở nơi phạm hạnh mà có sự giải đãi, thì không thể khiến cho họ không sinh sự giải đãi. Mình ở nơi phạm hạnh mà không sinh tin hiểu, thì không thể nào khiến cho họ sinh tin hiểu. Mình ở nơi phạm hạnh mà không an trụ, thì không thể nào khiến cho họ được an trụ. Mình ở nơi phạm hạnh mà không chứng nhập, thì không thể nào khiến cho tâm họ chứng nhập được. Mình ở nơi phạm hạnh mà có sự buông bỏ, thì không thể nào khiến cho họ luôn không buông bỏ. Mình ở nơi phạm hạnh mà có sự tán động, thì không thể nào khiến cho tâm họ không tán động.

Giảng: Đây là nhân duyên gì ? Đại Bồ Tát tu hành Bồ Tát đạo, tích tụ đủ thứ công đức, chính mình không thể dùng thân làm phép tắc, vì người làm mô phạm, thì làm sao giáo hoá người ? Tóm lại, chính mình không thanh tịnh, mà dạy người thanh tịnh, thì không thể nào được. Chính mình không lìa khỏi dục niệm, mà dạy người lìa khỏi dục niệm, cũng không thể nào được. Chính mình không dứt hoặc, mà dạy người dứt hoặc, cũng không thể nào được. Nói chung, sự thực hành của mình không đủ tiêu chuẩn, thì làm sao hướng dẫn người ? Dưới đây nói ra mười điều không thể được:

  1. Nếu Bồ Tát chính mình đối với phạm hạnh không thanh tịnh, thì không thể nào khiến cho tất cả chúng sinh được thanh tịnh.
  2. Nếu Bồ Tát chính mình đối với phạm hạnh sinh tâm thối chuyển, thì không thể nào khiến cho tất cả chúng sinh không sinh tâm thối chuyển.
  3. Nếu Bồ Tát chính mình đối với phạm hạnh có sự mất hoại, trì giới không viên mãn, thì không thể nào khiến cho tất cả chúng sinh chẳng có sự mất hoại, trì giới viên mãn.
  4. Nếu Bồ Tát chính mình đối với phạm hạnh có sự xa lìa, thì không thể nào khiến cho tất cả chúng sinh không xa lìa phạm hạnh.
  5. Nếu Bồ Tát chính mình đối với phạm hạnh giải đãi, thì không thể nào khiến cho tất cả chúng sinh không sinh giải đãi.
  6. Nếu Bồ Tát chính mình đối với phạm hạnh không sinh tin hiểu, thì không thể nào khiến cho tất cả chúng sinh sinh tâm tin hiểu.
  7. Nếu Bồ Tát chính mình đối với phạm hạnh không an trụ, thì không thể nào khiến cho tất cả chúng sinh an trụ nơi phạm hạnh.
  8. Nếu Bồ Tát chính mình đối với phạm hạnh không chứng nhập, thì không thể nào khiến cho tất cả chúng sinh chứng nhập phạm hạnh được.
  9. Nếu Bồ Tát chính mình đối với phạm hạnh có sự buông bỏ, thì không thể nào khiến cho tất cả chúng sinh luôn không buông bỏ phạm hạnh được.
  10. Nếu Bồ Tát chính mình đối với phạm hạnh có sự tán động, thì không thể nào khiến cho tất cả chúng sinh tâm chẳng tán động, vì Ngài đã hoàn toàn mất đi tác dụng lãnh đạo.

 

Hà dĩ cố? Bồ-Tát Ma-ha-tát trụ vô đảo hạnh, thuyết vô đảo Pháp, sở ngôn thành thật, như thuyết tu hành, tịnh thân, khẩu, ý, ly chư tạp nhiễm, trụ vô ngại hạnh, diệt nhất thiết chướng. Bồ-Tát Ma-ha-tát tự đắc tịnh tâm, vi tha diễn thuyết thanh tịnh tâm Pháp. Tự tu hòa nhẫn, dĩ chư thiện căn điều phục kỳ tâm, lệnh tha hòa nhẫn, dĩ chư thiện căn điều phục kỳ tâm. Tự ly nghi hối, diệc lệnh tha nhân vĩnh ly nghi hối. Tự đắc tịnh tín, diệc lệnh tha đắc bất hoại tịnh tín. Tự trụ chánh pháp, diệc lệnh chúng sanh an trụ chánh pháp.

Tại sao ? Vì đại Bồ Tát trụ hạnh không điên đảo, nói pháp không điên đảo, lời nói thành thật. Như nói về tu hành, thanh tịnh thân miệng ý, lìa khỏi các tạp nhiễm, trụ hạnh vô ngại, diệt tất cả chướng ngại. Đại Bồ Tát tự mình được tâm thanh tịnh, cũng vì họ diễn nói pháp tâm thanh tịnh. Tự mình tu hoà nhẫn, dùng các căn lành điều phục tâm mình, cũng khiến cho họ hoà nhẫn, dùng các căn lành điều phục tâm mình. Tự mình lìa khỏi nghi hối, cũng khiến cho người khác vĩnh viễn lìa khỏi nghi hối. Tự mình được niềm tin thanh tịnh, cũng khiến cho họ được niềm tin thanh tịnh bất hoại. Tự mình trụ chánh pháp, cũng khiến cho chúng sinh an trụ chánh pháp.

Giảng: Đây là nguyên nhân gì ? Đại Bồ Tát tu hành Bồ Tát đạo, tích tập đủ thứ căn lành, trụ trong hạnh không điên đảo, diễn nói Phật pháp không điên đảo, lời nói ra đặc biệt thành thật. Y chiếu theo pháp môn đã nói ra, nỗ lực tu hành, thanh tịnh thân miệng ý ba nghiệp, lìa khỏi tất cả pháp tạp nhiễm. Trụ nơi hạnh môn chẳng có chướng ngại, tiêu diệt tất cả pháp chướng đạo. Đại Bồ Tát tự mình đắc được tâm thanh tịnh, mới có thể vì người khác diễn nói pháp tâm thanh tịnh; tự mình tu hành nhẫn nhục Ba La Mật, dùng tất cả căn lành, điều phục tâm mình, cũng khiến cho người khác tu pháp môn hoà khí nhẫn nhục, dùng tất cả căn lành của mình tích tập được điều phục tâm mình; tự mình lìa khỏi tâm hoài nghi và hối hận, cũng khiến cho người khác vĩnh viễn lìa khỏi nghi hối; tự mình đắc được tâm tin thanh tịnh, cũng khiến cho người khác đắc được tâm tin thanh tịnh bất hoại; tự mình trụ nơi chánh pháp, cũng khiến cho người khác an trụ ở trong chánh pháp. Chánh pháp tức là chánh tri chánh kiến. Có chánh tri chánh kiến rồi, mới có thể giáo hoá chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh đều được chánh tri chánh kiến; bằng không thì được pháp tà tri tà kiến.

 

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát phục dĩ pháp thí sở sanh thiện căn như thị hồi hướng, sở vị: nguyện ngã hoạch đắc nhất thiết chư Phật vô tận Pháp môn, phổ vi chúng sanh phân biệt giải thuyết, giai lệnh hoan hỉ, tâm đắc mãn túc, tồi diệt nhất thiết ngoại đạo dị luận. Nguyện ngã năng vi nhất thiết chúng sanh diễn thuyết tam thế chư Phật pháp hải

Phật tử ! Đại Bồ Tát lại đem căn lành do bố thí pháp sinh ra hồi hướng như vầy: Nguyện cho tôi đắc được pháp môn vô tận của tất cả chư Phật, khắp vì chúng sinh phân biệt giải nói, đều khiến cho họ hoan hỉ, tâm được đầy đủ, tiêu diệt tất cả ngoại đạo dị luận. Nguyện cho tôi có thể vì tất cả chúng sinh diễn nói biển pháp của chư Phật ba đời.

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát tu hành Bồ Tát đạo, tích tập đủ thứ căn lành, đem căn lành công đức do bố thí pháp sinh ra, vì chúng sinh hồi hướng, phát đại thệ nguyện như vầy.

  1. Tôi nguyện đắc được pháp môn vô tận của tất cả chư Phật.
  2. Tôi nguyện khắp vì tất cả chúng sinh, phân biệt giải nói nghĩa lý Kinh điển.
  3. Tôi nguyện có thể khiến cho tất cả chúng sinh, đều được pháp hỉ, tâm sinh ra an vui đầy đủ.
  4. Tôi nguyện có thể diệt hết sạch tất cả dị luận của ngoại đạo.
  5. Tôi nguyện có thể vì tất cả chúng sinh, diễn nói biển pháp của tất cả chư Phật trong mười phương ba đời đã nói.

 

Ư nhất nhất pháp sanh khởi, nhất nhất pháp nghĩa lý, nhất nhất pháp danh ngôn, nhất nhất pháp an lập, nhất nhất Pháp giải thuyết, nhất nhất Pháp Hiển thị, nhất nhất Pháp môn hộ, nhất nhất pháp ngộ nhập, nhất nhất pháp quan sát, nhất nhất pháp phần vị, tất đắc vô biên vô tận Pháp tạng, hoạch vô sở úy, cụ tứ biện tài, quảng vi chúng sanh phân biệt giải thuyết, cùng vị lai tế nhi vô hữu tận. Vi dục lệnh nhất thiết chúng sanh lập thắng chí nguyện, xuất sanh vô ngại, vô mậu thất biện. Vi dục lệnh nhất thiết chúng sanh giai sanh hoan hỉ, vi dục lệnh nhất thiết chúng sanh thành tựu nhất thiết tịnh pháp quang minh, tùy kỳ loại âm, diễn thuyết vô đoạn: vi dục lệnh nhất thiết chúng sanh thâm tín hoan hỉ, trụ nhất thiết trí, biện liễu chư Pháp tỉ vô mê hoặc

Nơi sinh khởi của mỗi mỗi pháp, nghĩa lý của mỗi mỗi pháp, danh ngôn của mỗi mỗi pháp, an lập của mỗi mỗi pháp, giải nói của mỗi mỗi pháp, hiển bày của mỗi mỗi pháp, môn hộ của mỗi mỗi pháp, ngộ nhập của mỗi mỗi pháp, quán sát của mỗi mỗi pháp, phân vị của mỗi mỗi pháp, đều được vô biên vô tận pháp tạng. Đắc được vô sở uý, đủ bốn biện tài, rộng vì chúng sinh phân biệt giải nói, hết thuở vị lai cũng không hết được. Vì muốn khiến cho tất cả chúng sinh lập chí nguyện thù thắng, sinh ra biện tài vô ngại không sai lầm. Vì muốn khiến cho tất cả chúng sinh đều sinh hoan hỉ. Vì muốn khiến cho tất cả chúng sinh thành tựu tất cả pháp thanh tịnh quang minh, tuỳ theo loại tiếng, diễn nói không dứt. Vì muốn khiến cho tất cả chúng sinh tin sâu hoan hỉ, trụ nhất thiết trí, thấu rõ các pháp, không có mê hoặc.

Giảng: Bồ Tát phát nguyện:

  1. Tôi nguyện đối với: Sự sinh khởi của mỗi thứ pháp, nghĩa lý của mỗi thứ pháp, danh ngôn của mỗi thứ pháp, sự an lập của mỗi thứ pháp, giải nói mỗi thứ pháp, hiển bày của mỗi thứ pháp, môn hộ của mỗi thứ pháp, sự ngộ nhập của mỗi thứ pháp, quán sát mỗi thứ pháp, phân vị mỗi thứ pháp, thảy đều đắc được pháp tạng vô biên vô tận.
  2. Tôi nguyện đắc được bốn vô sở uý, đầy đủ bốn biện tài vô ngại, rộng vì tất cả chúng sinh, phân biệt giải nói nghĩa lý của tất cả các pháp, hết thuở vị lai, cũng không khi nào hết được.
  3. Tôi nguyện khiến cho tất cả chúng sinh, lập chí nguyện thù thắng, sinh ra biện tài không có sự chướng ngại, không có sự sai lầm, không có sự quên mất.
  4. Tôi nguyện khiến cho tất cả chúng sinh, đều sinh tâm đại hoan hỉ, học tập Phật pháp.
  5. Tôi nguyện khiến cho tất cả chúng sinh, thành tựu tất cả pháp quang minh thanh tịnh, tuỳ thuận giống loài và tiếng nói của chúng sinh, diễn nói Phật pháp, chẳng có lúc nào gián đoạn.
  6. Tôi nguyện khiến cho tất cả chúng sinh, tin sâu Phật pháp, hoan hỉ Phật pháp, trụ ở trong nhất thiết trí huệ, phân biệt thấu rõ nghĩa lý của các pháp, chẳng có sự mê hoặc.

 

Tác thị niệm ngôn: ngã đương phổ ư nhất thiết thế giới, vi chư chúng sanh tinh cần tu tập, đắc biến pháp giới vô lượng tự tại thân, đắc biến pháp giới vô lượng quảng đại tâm, cụ đẳng pháp giới vô lượng thanh tịnh âm thanh, hiện đẳng pháp giới vô lượng chúng hội đạo tràng, tu đẳng pháp giới vô lượng Bồ Tát nghiệp, đắc đẳng pháp giới vô lượng Bồ-tát trụ, chứng đẳng pháp giới vô lượng Bồ Tát bình đẳng, học đẳng pháp giới vô lượng Bồ Tát Pháp, trụ đẳng pháp giới vô lượng Bồ Tát hạnh, nhập đẳng pháp giới vô lượng Bồ Tát hồi hướng. Thị vi Bồ-Tát Ma-ha-tát dĩ chư thiện căn nhi vi hồi hướng, vi lệnh chúng sanh tất đắc thành tựu nhất thiết trí cố.

Bồ Tát tự nghĩ rằng: Tôi sẽ ở khắp trong tất cả thế giới, vì các chúng sinh tinh tấn siêng năng tu tập. Được vô lượng thân tự tại khắp pháp giới. Được tâm rộng lớn vô lượng khắp pháp giới. Đầy đủ vô lượng âm thanh thanh tịnh đồng pháp giới. Thị hiện vô lượng chúng hội đạo tràng đồng pháp giới. Tu vô lượng nghiệp của Bồ Tát đồng pháp giới. Được vô lượng trụ của Bồ Tát đồng pháp giới. Chứng được vô lượng bình đẳng của Bồ Tát đồng pháp giới. Học vô lượng pháp của Bồ Tát đồng pháp giới. Trụ vô lượng hạnh của Bồ Tát đồng pháp giới. Vào vô lượng hồi hướng của Bồ Tát đồng pháp giới. Đó là đại Bồ Tát đem các căn lành hồi hướng, vì khiến cho chúng sinh đều được thành tựu nhất thiết trí.

Giảng: Bồ Tát lại nghĩ như vầy: Tôi sẽ ở khắp trong tất cả thế giới, vì tất cả chúng sinh, tinh cần tu tập tất cả Phật pháp, đắc được pháp thân nhậm vận tự tại tận hư không khắp pháp giới, đắc được tâm từ rộng lớn vô lượng tận hư không khắp pháp giới, đầy đủ vô lượng âm thanh thanh tịnh đồng pháp giới, thị hiện vô lượng chúng hội đạo tràng đồng pháp giới, tu hành vô lượng nghiệp thiện của Bồ Tát tu đồng pháp giới, đắc được vô lượng hạnh của Bồ Tát tu đồng pháp giới, chứng được vô lượng bình đẳng của Bồ Tát tu đồng pháp giới, học tập vô lượng pháp của Bồ Tát tu đồng pháp giới, an trụ vô lượng hạnh của Bồ Tát thực hành đồng pháp giới, vào được vô lượng pháp môn hồi hướng của Bồ Tát tu đồng pháp giới.

Đó là đại Bồ Tát tu hành Bồ Tát đạo, đem mười thứ căn lành nầy, vì tất cả chúng sinh hồi hướng. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, đều được thành tựu nhất thiết trí huệ, mới tu hành Bồ Tát đạo, vì chúng sinh mà hồi hướng.

 

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát phục dĩ thiện căn như thị hồi hướng, sở vị: vi dục kiến đẳng pháp giới vô lượng chư Phật, điều phục đẳng pháp giới vô lượng chúng sanh, trụ trì đẳng pháp giới vô lượng Phật sát, chứng đẳng pháp giới vô lượng Bồ Tát trí, hoạch đẳng pháp giới vô lượng vô sở úy, thành đẳng pháp giới vô lượng chư Bồ-tát Đà-la-ni, đắc đẳng pháp giới vô lượng chư Bồ-tát bất tư nghị trụ, cụ đẳng Pháp giới vô lượng công đức, mãn đẳng pháp giới vô lượng lợi ích chúng sanh thiện căn.

Phật tử ! Đại Bồ Tát lại đem căn lành hồi hướng như vầy. Đó là: Vì muốn thấy vô lượng chư Phật đồng pháp giới. Điều phục vô lượng chúng sinh đồng pháp giới. Trụ trì vô lượng cõi Phật đồng pháp giới. Chứng vô lượng trí của Bồ Tát đồng pháp giới. Đắc được vô lượng vô sở uý đồng pháp giới. Thành tựu vô lượng Đà la ni của các Bồ Tát đồng pháp giới. Đắc được vô lượng trụ không nghĩ bàn của các Bồ Tát đồng pháp giới. Đủ vô lượng công đức đồng pháp giới. Tròn đầy vô lượng căn lành lợi ích chúng sinh đồng pháp giới.

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát lại đem đủ thứ căn lành của Ngài tu tập, vì chúng sinh hồi hướng như vầy. Đó là: Vì muốn thấy vô lượng các đức Phật đồng pháp giới, vì muốn điều phục vô lượng chúng sinh đồng pháp giới, vì muốn trụ trì vô lượng cõi Phật đồng pháp giới, vì muốn chứng được vô lượng trí huệ của Bồ Tát đồng pháp giới, vì muốn đắc được vô lượng vô sở uý đồng pháp giới, vì muốn thành tựu vô lượng tổng trì (Đà la ni) của Bồ Tát đồng pháp giới, vì muốn đắc được vô lượng trụ không nghĩ bàn của Bồ Tát đồng pháp giới, vì muốn đầy đủ vô lượng công đức đồng pháp giới, vì muốn viên mãn vô lượng căn lành lợi ích chúng sinh đồng pháp giới. Đó là chín điều hy vọng của Bồ Tát, tức cũng là pháp nghĩ tưởng của Bồ Tát.

 

Hựu nguyện dĩ thử thiện căn cố, lệnh ngã đắc phước đức bình đẳng, trí tuệ bình đẳng, lực bình đẳng, vô úy bình đẳng, thanh tịnh bình đẳng, tự tại bình đẳng, chánh giác bình đẳng, thuyết Pháp bình đẳng, nghĩa bình đẳng, quyết định bình đẳng, nhất thiết thần thông bình đẳng, như thị đẳng Pháp giai tất viên mãn. Như ngã sở đắc, nguyện nhất thiết chúng sanh diệc như thị đắc, như ngã vô dị.

Lại nguyện do đem căn lành nầy, khiến cho tôi được phước đức bình đẳng, trí huệ bình đẳng, lực bình đẳng, vô uý bình đẳng, thanh tịnh bình đẳng, tự tại bình đẳng, chánh giác bình đẳng, thuyết pháp bình đẳng, nghĩa bình đẳng, quyết định bình đẳng, tất cả thần thông bình đẳng, như vậy bình đẳng, thảy đều viên mãn. Như tôi đắc được, nguyện cho tất cả chúng sinh cũng được như vậy, như tôi không khác.

Giảng: Bồ Tát lại phát nguyện, do nhờ đem căn lành nầy hồi hướng cho chúng sinh, khiến cho tôi (Bồ Tát Kim Cang Tràng) đắc được: Phước đức bình đẳng, trí huệ bình đẳng, mười lực bình đẳng, vô uý bình đẳng, thanh tịnh bình đẳng, tự tại bình đẳng, chánh giác bình đẳng, thuyết pháp bình đẳng, nghĩa lý bình đẳng, quyết định bình đẳng, tất cả thần thông bình đẳng, các thứ pháp vừa nói ở trên, thảy đều viên mãn. Như tôi đắc được tất cả pháp viên mãn, nguyện cho tất cả chúng sinh, cũng đắc được pháp viên mãn bình đẳng như vậy, giống như tôi không có gì khác biệt.

 

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát phục dĩ thiện căn như thị hồi hướng, sở vị: như pháp giới vô lượng, thiện căn hồi hướng diệc phục như thị, sở đắc trí tuệ chung vô hữu lượng. Như Pháp giới vô biên, thiện căn hồi hướng diệc phục như thị, kiến nhất thiết Phật, vô hữu kỳ biên. Như Pháp giới vô hạn, thiện căn hồi hướng diệc phục như thị, nghệ chư Phật sát vô hữu tề hạn. Như Pháp giới vô tế, thiện căn hồi hướng diệc phục như thị, ư nhất thiết thế giới tu Bồ Tát hạnh vô hữu nhai tế. Như Pháp giới vô đoạn, thiện căn hồi hướng diệc phục như thị, trụ nhất thiết trí vĩnh bất đoạn tuyệt.

Phật tử ! Đại Bồ Tát lại đem căn lành hồi hướng như vầy. Đó là: Như pháp giới vô lượng, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy, trí huệ đắc được, trọn không có lượng. Như pháp giới vô biên, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy, thấy tất cả chư Phật, chẳng có bờ mé. Như pháp giới vô hạn, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy, đến cõi nước của chư Phật, chẳng có giới hạn. Như pháp giới không bờ mé, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy, nơi tất cả thế giới tu hạnh Bồ Tát, chẳng có bờ mé. Như pháp giới không dứt, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy, trụ nhất thiết trí, vĩnh viễn không đoạn tuyệt.

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát tu hành Bồ Tát đạo, lại đem đủ thứ căn lành của mình tu tập được, vì chúng sinh hồi hướng, đắc được mười thứ lợi ích như vầy:

  1. Như pháp giới vô lượng, căn lành hồi hướng cũng như vậy, đắc được vô lượng trí huệ quang minh.
  2. Như pháp giới vô biên, căn lành hồi hướng cũng như vậy, thấy được mười phương chư Phật nhiều không có bờ mé.
  3. Như pháp giới vô hạn, căn lành hồi hướng cũng như vậy, đến cõi nước chư Phật mười phương, chẳng có giới hạn.
  4. Như pháp giới không bờ mé, căn lành hồi hướng cũng như vậy, ở trong tất cả thế giới tu hạnh Bồ Tát, chẳng có bờ mé.
  5. Như pháp giới không dứt, căn lành hồi hướng cũng như vậy, trụ nơi bậc nhất thiết trí huệ, vĩnh viễn không đoạn tuyệt.

 

Như Pháp giới nhất tánh, thiện căn hồi hướng diệc phục như thị, dữ nhất thiết chúng sanh đồng nhất trí tánh. Như Pháp giới tự tánh thanh tịnh, thiện căn hồi hướng diệc phục như thị, lệnh nhất thiết chúng sanh cứu cánh thanh tịnh. Như Pháp giới tùy thuận, thiện căn hồi hướng diệc phục như thị, lệnh nhất thiết chúng sanh tất giai tùy thuận Phổ Hiền hạnh nguyện. Như Pháp giới trang nghiêm, thiện căn hồi hướng diệc phục như thị, lệnh nhất thiết chúng sanh dĩ Phổ Hiền hạnh nhi vi trang nghiêm. Như Pháp giới bất khả thất hoại, thiện căn hồi hướng diệc phục như thị, lệnh chư Bồ-tát vĩnh bất thất hoại chư thanh tịnh hạnh.

Như pháp giới một tánh, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy, với tất cả chúng sinh đồng một trí tánh. Như pháp giới tự tánh thanh tịnh, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy, khiến cho tất cả chúng sinh rốt ráo thanh tịnh. Như pháp giới tuỳ thuận, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy, khiến cho tất cả chúng sinh thảy đều tuỳ thuận hạnh nguyện Phổ Hiền. Như pháp giới trang nghiêm, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy, khiến cho tất cả chúng sinh, dùng hạnh Phổ Hiền mà làm trang nghiêm. Như pháp giới không thể mất hoại, căn lành hồi hướng cũng lại như vậy, khiến cho các Bồ Tát vĩnh viễn không mất hoại các hạnh thanh tịnh.

Giảng:

  1. Như pháp giới một tánh, căn lành hồi hướng cũng như vậy, đồng một tánh trí huệ.
  2. Như pháp giới tự tánh thanh tịnh, căn lành hồi hướng cũng như vậy, khiến cho tất cả chúng sinh, đắc được rốt ráo thanh tịnh.
  3. Như pháp giới tuỳ thuận, căn lành hồi hướng cũng như vậy, khiến cho tất cả chúng sinh, đều tuỳ thuận hạnh nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền.
  4. Như pháp giới trang nghiêm, căn lành hồi hướng cũng như vậy, khiến cho tất cả chúng sinh, dùng hạnh Phổ Hiền mà làm trang nghiêm.
  5. Như pháp giới không thể mất hoại, căn lành hồi hướng cũng như vậy, khiến cho tất cả Bồ Tát, vĩnh viễn không mất hoại tất cả hạnh thanh tịnh, đắc được trí huệ thanh tịnh.

 

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát phục dĩ thử thiện căn như thị hồi hướng, sở vị: nguyện dĩ thử thiện căn, thừa sự nhất thiết chư Phật Bồ Tát giai lệnh hoan hỉ. Nguyện dĩ thử thiện căn, tốc đắc thú nhập nhất thiết trí tánh. Nguyện dĩ thử thiện căn, biến nhất thiết xứ, tu nhất thiết trí. Nguyện dĩ thử thiện căn, lệnh nhất thiết chúng sanh thường đắc vãng cận nhất thiết chư Phật. Nguyện dĩ thử thiện căn, lệnh nhất thiết chúng sanh thường kiến chư Phật, năng tác Phật sự. Nguyện dĩ thử thiện căn, lệnh nhất thiết chúng sanh hằng đắc kiến Phật, bất ư Phật sự sanh đãi mạn tâm.

Phật tử ! Đại Bồ Tát lại đem căn lành đó hồi hướng như vầy: Nguyện đem căn lành nầy, thừa sự tất cả chư Phật Bồ Tát, đều khiến cho hoan hỉ. Nguyện đem căn lành nầy, mau được hướng nhập tánh nhất thiết trí. Nguyện đem căn lành nầy, khắp tất cả mọi nơi, tu nhất thiết trí. Nguyện đem căn lành nầy, khiến cho tất cả chúng sinh, thường được qua thấy tất cả chư Phật. Nguyện đem căn lành nầy, khiến cho tất cả chúng sinh, thường thấy chư Phật, hay làm Phật sự. Nguyện đem căn lành nầy, khiến cho tất cả chúng sinh, luôn được thấy Phật, đối với Phật sự không sinh tâm lười trễ. Nguyện đem căn lành nầy, khiến cho tất cả chúng sinh thường được thấy Phật, tâm vui thanh tịnh, chẳng có thối chuyển.

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát tu hành Bồ Tát đạo, lại đem căn lành nầy, vì chúng sinh hồi hướng như vầy. Bồ Tát phát ra mười bốn lời nguyện rằng:

  1. Nguyện đem căn lành nầy, thừa sự mười phương chư Phật và Bồ Tát, đều khiến cho các Ngài đều đại hoan hỉ.
  2. Nguyện đem căn lành nầy, khiến cho tất cả chúng sinh, mau chóng vào trong tánh nhất thiết trí không điên đảo, đắc được trí huệ phá vô minh.
  3. Nguyện đem căn lành nầy, khắp cùng tất cả mọi nơi, khiến cho tất cả chúng sinh, bất cứ ở đâu lúc nào, cũng đều tu nhất thiết trí huệ.
  4. Nguyện đem căn lành nầy, khiến cho tất cả chúng sinh, thường được qua thấy mười phương chư Phật, cúng dường chư Phật, lễ kính chư Phật.
  5. Nguyện đem căn lành nầy, khiến cho tất cả chúng sinh, thường được thấy mười phương chư Phật, ở trước chư Phật làm đại Phật sự, trang nghiêm đạo tràng.
  6. Nguyện đem căn lành nầy, khiến cho tất cả chúng sinh, thường được thấy mười phương chư Phật, đối với Phật sự không sinh tâm lười trễ.
  7. Nguyện đem căn lành nầy, khiến cho tất cả chúng sinh, thường được thấy mười phương chư Phật, tâm sinh hoan hỉ thanh tịnh, chẳng có tâm không thối chuyển.

 

Nguyện dĩ thử thiện căn, lệnh nhất thiết chúng sanh thường đắc kiến Phật, tâm hỉ thanh tịnh, vô hữu thoái chuyển. Nguyện dĩ thử thiện căn, lệnh nhất thiết chúng sanh thường đắc kiến Phật, tâm thiện giải liễu. Nguyện dĩ thử thiện căn, lệnh nhất thiết chúng sanh thường đắc kiến Phật, bất sanh chấp trước. Nguyện dĩ thử thiện căn, lệnh nhất thiết chúng sanh thường đắc kiến Phật, liễu đạt vô ngại. Nguyện dĩ thử thiện căn, lệnh nhất thiết chúng sanh thường đắc kiến Phật, thành Phổ Hiền hạnh. Nguyện dĩ thử thiện căn, lệnh nhất thiết chúng sanh thường kiến chư Phật, hiện tại kỳ tiền, vô thời tạm xả. Nguyện dĩ thử thiện căn, lệnh nhất thiết chúng sanh thường kiến chư Phật, xuất sanh Bồ Tát vô lượng chư lực. Nguyện dĩ thử thiện căn, lệnh nhất thiết chúng sanh thường kiến chư Phật, ư nhất thiết Pháp vĩnh bất vong thất.

Nguyện đem căn lành nầy, khiến cho tất cả chúng sinh thường được thấy Phật, tâm khéo hiểu rõ. Nguyện đem căn lành nầy, khiến cho tất cả chúng sinh thường được thấy Phật, không sinh chấp trước. Nguyện đem căn lành nầy, khiến cho tất cả chúng sinh thường được thấy Phật, thấu đạt vô ngại. Nguyện đem căn lành nầy, khiến cho tất cả chúng sinh thường được thấy Phật, thành hạnh Phổ Hiền. Nguyện đem căn lành nầy, khiến cho tất cả chúng sinh thường thấy chư Phật hiện ra ở trước, không lúc nào tạm xả bỏ. Nguyện đem căn lành nầy, khiến cho tất cả chúng sinh thường thấy chư Phật, sinh ra vô lượng lực của Bồ Tát. Nguyện đem căn lành nầy, khiến cho tất cả chúng sinh thường thấy chư Phật, nơi tất cả pháp, vĩnh viễn không quên mất.

Giảng:

  1. Nguyện đem căn lành nầy, khiến cho tất cả chúng sinh, thường thấy được mười phương chư Phật, tâm khéo hiểu rõ lý thể thật tướng của các pháp.
  2. Nguyện đem căn lành nầy, khiến cho tất cả chúng sinh, thường thấy được mười phương chư Phật, không sinh tâm chấp trước, phá trừ vọng tưởng.
  3. Nguyện đem căn lành nầy, khiến cho tất cả chúng sinh, thường thấy được mười phương chư Phật, thấu rõ thông đạt các pháp, viên dung vô ngại.
  4. Nguyện đem căn lành nầy, khiến cho tất cả chúng sinh, thường thấy được mười phương chư Phật, thành tựu đại hạnh của Bồ Tát Phổ Hiền tu.
  5. Nguyện đem căn lành nầy, khiến cho tất cả chúng sinh, thường thấy được mười phương chư Phật, thị hiện ở trước mặt, chẳng lúc nào tạm xả bỏ.
  6. Nguyện đem căn lành nầy, khiến cho tất cả chúng sinh, thường thấy được mười phương chư Phật, sinh ra vô lượng thập lực thần thông của Bồ Tát.
  7. Nguyện đem căn lành nầy, khiến cho tất cả chúng sinh, thường thấy được mười phương chư Phật, đối với tất cả các pháp, vĩnh viễn không quên mất.

 

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hựu dĩ chư thiện căn như thị hồi hướng, sở vị: như Pháp giới vô khởi tánh hồi hướng, như Pháp giới căn bản tánh hồi hướng, như Pháp giới tự thể tánh hồi hướng, như Pháp giới vô y tánh hồi hướng, như Pháp giới vô vong thất tánh hồi hướng, như Pháp giới không vô tánh hồi hướng, như Pháp giới tịch tĩnh tánh hồi hướng, như Pháp giới vô xứ sở tánh hồi hướng, như Pháp giới vô thiên động tánh hồi hướng, như Pháp giới vô sái biệt tánh hồi hướng.

Phật tử ! Đại Bồ Tát lại đem căn lành nầy hồi hướng như vầy. Đó là: Hồi hướng không khởi tánh như pháp giới. Hồi hướng căn bản tánh như pháp giới. Hồi hướng tự thể tánh như pháp giới. Hồi hướng không nương tánh như pháp giới. Hồi hướng không quên mất tánh như pháp giới. Hồi hướng không vô tánh như pháp giới. Hồi hướng tịch tĩnh tánh như pháp giới. Hồi hướng không xứ sở tánh như pháp giới. Hồi hướng không lay động tánh như pháp giới. Hồi hướng không sai biệt tánh như pháp giới.

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát tu hành Bồ Tát đạo, lại đem đủ thứ căn lành của mình tu tập được, vì chúng sinh hồi hướng như vầy. Đó là:

  1. Hồi hướng không khởi tánh, chẳng có một tánh nào sinh khởi, chẳng có một tánh nào tiêu diệt, giống như pháp giới.
  2. Hồi hướng căn bản tánh, vô cùng vô tận, giống như pháp giới.
  3. Hồi hướng tự thể tánh, tận hư không khắp pháp giới, tự thể đều là pháp giới, giống như pháp giới.
  4. Hồi hướng không nương tánh, chẳng có sự nương tựa, giống như pháp giới.
  5. Hồi hướng không quên mất tánh, thể tánh chẳng quên đi, cũng chẳng thất lạc, giống như pháp giới.
  6. Hồi hướng không vô tánh, pháp giới tuy nhiên là không, nhưng bao la vạn hữu, giống như pháp giới.
  7. Hồi hướng tịch tĩnh tánh, lìa khỏi phiền não, lìa khỏi bờ mé, giống như pháp giới.
  8. Hồi hướng không xứ sở tánh, pháp giới vô tại vô bất tại, chẳng có một xứ sở nào, giống như pháp giới.
  9. Hồi hướng không lay động tánh, nó chẳng có biến đổi chẳng lay động, giống như pháp giới.
  10. Hồi hướng không khác biệt tánh, nó chẳng có phân biệt, chẳng có đó đây, giống như pháp giới.

 

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát phục dĩ pháp thí sở hữu tuyên thị, sở hữu khai ngộ cập nhân thử khởi nhất thiết thiện căn như thị hồi hướng, sở vị: nguyện nhất thiết chúng sanh thành Bồ Tát Pháp sư, thường vi chư Phật chi sở hộ niệm. Nguyện nhất thiết chúng sanh tác vô thượng pháp sư, phương tiện an lập nhất thiết chúng sanh ư nhất thiết trí. Nguyện nhất thiết chúng sanh tác vô khuất Pháp sư, nhất thiết vấn nan mạc năng cùng tận. Nguyện nhất thiết chúng sanh tác vô ngại Pháp sư, đắc nhất thiết pháp vô ngại quang minh. Nguyện nhất thiết chúng sanh tác Trí Tạng Pháp sư, năng thiện xảo thuyết nhất thiết Phật Pháp.

Phật tử ! Đại Bồ Tát lại đem pháp thí tuyên bày hết thảy, khai ngộ hết thảy, và nhờ đó mà khởi tất cả căn lành, hồi hướng như vầy. Đó là: Nguyện cho tất cả chúng sinh thành pháp sư Bồ Tát, thường được chư Phật hộ niệm. Nguyện cho tất cả chúng sinh làm pháp sư vô thượng, phương tiện an lập tất cả chúng sinh nơi nhất thiết trí. Nguyện cho tất cả chúng sinh làm pháp sư không khuất phục, tất cả vấn nạn, không thể cùng tận. Nguyện cho tất cả chúng sinh làm pháp sư vô ngại, được tất cả pháp vô ngại quang minh. Nguyện cho tất cả chúng sinh làm pháp sư trí tạng, hay khéo léo nói tất cả Phật pháp.

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát tu hành Bồ Tát đạo, tích tập đủ thứ các căn lành. Lại dùng pháp làm bố thí, tuyên bày hết thảy tất cả các pháp, khai ngộ hết thảy tất cả các pháp, nhờ đó mà sinh khởi tất cả căn lành, vì chúng sinh mà hồi hướng như vầy. Bồ Tát phát nguyện, khiến cho tất cả chúng sinh có tư cách làm mười hai loại pháp sư dưới đây, đó là:

  1. Nguyện cho tất cả chúng sinh, trở thành đại pháp sư Bồ Tát, thường được mười phương chư Phật hộ niệm, gia trì.
  2. Nguyện cho tất cả chúng sinh, làm đại pháp sư vô thượng, dùng pháp môn phương tiện khéo léo, khiến cho tất cả chúng sinh an lập nơi nhất thiết trí huệ.
  3. Nguyện cho tất cả chúng sinh, làm đại pháp sư không khuất phục, tất cả vấn nạn, đối đáp trôi chảy, chẳng cùng tận, chẳng có khi nào bị khuất phục.
  4. Nguyện cho tất cả chúng sinh, làm đại pháp sư vô ngại, có trí huệ biện tài vô ngại, đắc được tất cả pháp không chướng ngại trí huệ quang minh.
  5. Nguyện cho tất cả chúng sinh, làm đại pháp sư trí tạng, trí huệ bảo tạng rất phong phú, hay dùng sự khéo léo diễn nói tất cả Phật pháp.

 

Nguyện nhất thiết chúng sanh thành chư Như Lai tự tại Pháp sư, thiện năng phân biệt Như Lai trí tuệ. Nguyện nhất thiết chúng sanh tác như nhãn Pháp sư, thuyết như thật Pháp, bất do tha giáo. Nguyện nhất thiết chúng sanh tác ức trì nhất thiết Phật Pháp Pháp sư, như lý diễn thuyết, bất vi cú nghĩa. Nguyện nhất thiết chúng sanh tác tu hành vô tướng đạo Pháp sư, dĩ chư diệu tướng nhi tự trang nghiêm, phóng Vô Lượng Quang, thiện nhập chư Pháp. Nguyện nhất thiết chúng sanh tác đại thân Pháp sư, kỳ thân phổ biến nhất thiết quốc độ, hưng Đại pháp vân, vũ chư Phật Pháp.

Nguyện cho tất cả chúng sinh thành pháp sư Như Lai tự tại, khéo phân biệt được trí huệ của Như Lai. Nguyện cho tất cả chúng sinh làm pháp sư như nhãn, nói pháp như thật, không do người khác dạy. Nguyện cho tất cả chúng sinh làm pháp sư nhớ trì tất cả Phật pháp, như lý diễn nói, không trái với câu nghĩa. Nguyện cho tất cả chúng sinh làm pháp sư tu hành đạo vô tướng đạo, dùng các tướng đẹp trang nghiêm cho mình, phóng vô lượng quang, khéo vào các pháp. Nguyện cho tất cả chúng sinh làm pháp sư thân lớn, thân đó khắp cùng tất cả cõi nước, nổi mây pháp lớn, mưa các Phật pháp.

Giảng:

  1. Nguyện cho tất cả chúng sinh, thành tựu đại pháp sư Như Lai tự tại, có thần thông nhậm vận tự tại, khéo phân biệt được trí huệ của Như Lai.
  2. Nguyện cho tất cả chúng sinh, làm đại pháp sư như nhãn, có con mắt trí huệ, diễn nói pháp chân như thật tướng, không do người khác chỉ dạy.
  3. Nguyện cho tất cả chúng sinh, làm đại pháp sư nhớ trì tất cả Phật pháp, như lý chân thật, diễn nói pháp chân thật, không trái với câu nghĩa.
  4. Nguyện cho tất cả chúng sinh, làm đại pháp sư tu hành đạo vô tướng, hành sở vô sự, chẳng có sự chấp trước. Dùng các tướng tốt của Phật (Ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp), mà trang nghiêm cho chính mình, có thể phóng ra vô lượng quang minh, khéo vào các pháp, minh bạch lý thể thật tướng của các pháp, vì chúng sinh diễn nói đạo lý thật tướng (vô tướng).
  5. Nguyện cho tất cả chúng sinh, làm pháp sư thân lớn. Dùng thân đó vào khắp cùng mười phương tất cả cõi nước, nổi mây pháp lớn, mà vì tất cả chúng sinh mười phương, diễn nói tất cả diệu pháp của chư Phật, khiến cho vô lượng chúng sinh, thấu đạt nghĩa của pháp, tu trì Phật đạo.

 

Nguyện nhất thiết chúng sanh tác hộ Pháp tạng Pháp sư, kiến Vô thắng tràng, hộ chư Phật Pháp, lệnh chánh pháp hải vô sở khuyết giảm. Nguyện nhất thiết chúng sanh tác nhất thiết pháp nhật Pháp sư, đắc Phật biện tài, xảo thuyết chư Pháp. Nguyện nhất thiết chúng sanh tác Diệu-Âm phương tiện Pháp sư, thiện thuyết vô biên pháp giới chi tạng. Nguyện nhất thiết chúng sanh tác đáo Pháp bỉ ngạn Pháp sư, dĩ trí thần thông khai chánh pháp tạng. Nguyện nhất thiết chúng sanh tác an trụ chánh pháp Pháp sư, diễn thuyết Như Lai cứu cánh trí tuệ.

Nguyện cho tất cả chúng sinh làm pháp sư hộ pháp tạng, kiến lập tràng vô thắng, hộ trì các Phật pháp, khiến cho biển chánh pháp không khuyết giảm. Nguyện cho tất cả chúng sinh làm pháp sư tất cả pháp nhật, được biện tài của Phật, khéo nói các pháp. Nguyện cho tất cả chúng sinh làm pháp sư diệu âm phương tiện, khéo nói vô biên pháp giới tạng. Nguyện cho tất cả chúng sinh làm pháp sư đến bờ kia, dùng trí huệ thần thông, khai chánh pháp tạng. Nguyện cho tất cả chúng sinh làm pháp sư an trụ chánh pháp, diễn nói trí huệ rốt ráo của Như Lai.

Giảng:

  1. Nguyện cho tất cả chúng sinh, làm đại pháp sư hộ pháp tạng, đời đời thường hộ trì Phật pháp, kiến lập tràng báu vô năng thắng, giữ gìn hết thảy tất cả Phật pháp, khiến cho biển chánh pháp không thiếu thốn, cũng không giảm bớt.
  2. Nguyện cho tất cả chúng sinh, làm đại pháp sư tất cả pháp nhật, đắc được biện tài của Phật, phương tiện khéo léo diễn nói pháp của chư Phật nói.
  3. Nguyện cho tất cả chúng sinh, làm đại pháp sư diệu âm phương tiện, diễn vi diệu âm nói pháp chân thật; tuy nhiên là pháp chân thật, nhưng cũng không trái với pháp phương tiện; pháp phương tiện cũng không trái với pháp chân thật, viên dung vô ngại. Vị pháp sư nầy khéo hay diễn nói vô biên pháp giới bảo tạng.
  4. Nguyện cho tất cả chúng sinh, làm đại pháp sư đến bờ kia, dùng trí huệ thần thông khai thị bảo tạng chánh pháp.
  5. Nguyện cho tất cả chúng sinh, làm đại pháp sư an trụ chánh pháp, diễn nói trí huệ pháp tạng rốt ráo của Như Lai, khiến cho chúng sinh ngộ vào trí huệ chân thật.

 

Nguyện nhất thiết chúng sanh tác liễu đạt chư Pháp Pháp sư, năng thuyết vô lượng vô tận công đức. Nguyện nhất thiết chúng sanh tác bất cuống thế gian Pháp sư, năng dĩ phương tiện lệnh nhập thật tế. Nguyện nhất thiết chúng sanh tác phá chư ma chúng Pháp sư, thiện năng giác tri nhất thiết ma nghiệp. Nguyện nhất thiết chúng sanh tác chư Phật sở nhiếp thọ Pháp sư, ly ngã, ngã sở nhiếp thọ chi tâm. Nguyện nhất thiết chúng sanh tác an ổn nhất thiết thế gian Pháp sư, thành tựu Bồ-tát thuyết pháp nguyện lực.

Nguyện cho tất cả chúng sinh làm pháp sư thấu đạt các pháp, nói công đức vô lượng vô tận. Nguyện cho tất cả chúng sinh làm pháp sư không lừa dối thế gian, dùng phương tiện khiến cho nhập vào thật tế. Nguyện cho tất cả chúng sinh làm pháp sư phá các ma chúng, khéo giác biết tất cả ma nghiệp. Nguyện cho tất cả chúng sinh làm pháp sư được chư Phật nhiếp thọ, nhiếp thọ tâm lìa khỏi cái ta và của ta. Nguyện cho tất cả chúng sinh làm pháp sư an ổn tất cả thế gian, thành tựu nguyện lực thuyết pháp của Bồ Tát.

Giảng:

  1. Nguyện cho tất cả chúng sinh, làm đại pháp sư thấu đạt các pháp, hay diễn nói công đức vô lượng vô tận của chư Phật mười phương.
  2. Nguyện cho tất cả chúng sinh, làm đại pháp sư không lừa dối thế gian, hay dùng pháp môn phương tiện khéo léo, khiến nhập vào lý thể chân thật; tức cũng là vì giáo hoá chúng sinh, trước hết dùng quyền pháp để giáo hoá, tức là đạo lý “Vì thật thí quyền”.
  3. Nguyện cho tất cả chúng sinh, làm đại pháp sư phá các ma chúng, khéo giác biết tất cả ma nghiệp, khéo điều phục được tất cả ma chúng, khéo tiêu diệt tất cả ma quân. Tóm lại, vị đại pháp sư nầy, là khắc tinh của ma chúng.
  4. Nguyện cho tất cả chúng sinh, làm đại pháp sư được chư Phật nhiếp thọ, phải lìa khỏi sự chấp trước cái ta và của ta, mới được chư Phật nhiếp thọ.
  5. Nguyện cho tất cả chúng sinh, làm đại pháp sư an ổn tất cả thế gian, thành tựu nguyện lực thuyết pháp của Bồ Tát.

 

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát phục dĩ chư thiện căn như thị hồi hướng, sở vị: bất dĩ thủ trước nghiệp cố hồi hướng, bất dĩ thủ trước báo cố hồi hướng, bất dĩ thủ trước tâm cố hồi hướng, bất dĩ thủ trước pháp cố hồi hướng, bất dĩ thủ trước sự cố hồi hướng, bất dĩ thủ trước nhân cố hồi hướng, bất dĩ thủ trước ngữ ngôn âm thanh cố hồi hướng, bất dĩ thủ trước danh cú văn thân cố hồi hướng, bất dĩ thủ trước hồi hướng cố hồi hướng, bất dĩ thủ trước lợi ích chúng sanh cố hồi hướng.

Phật tử ! Đại Bồ Tát lại đem các căn lành hồi hướng như vầy. Đó là: Không thủ lấy chấp trước nghiệp mà hồi hướng. Không thủ lấy chấp trước báo mà hồi hướng. Không thủ lấy chấp trước tâm mà hồi hướng. Không thủ lấy chấp trước pháp mà hồi hướng. Không thủ lấy chấp trước sự mà hồi hướng. Không thủ lấy chấp trước nhân mà hồi hướng. Không thủ lấy chấp trước lời nói âm thanh mà hồi hướng. Không thủ lấy chấp trước danh câu văn thân mà hồi hướng. Không thủ lấy chấp trước hồi hướng mà hồi hướng. Không thủ lấy chấp trước lợi ích chúng sinh mà hồi hướng.

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát tu hành Bồ Tát đạo, lại đem đủ thứ căn lành của mình tu tập, mà vì chúng sinh hồi hướng như vầy. Đó là:

  1. Không thủ lấy chấp trước công đức nghiệp, mà vì chúng sinh hồi hướng.
  2. Không thủ lấy chấp trước quả báo tốt, mà vì chúng sinh hồi hướng.
  3. Không thủ lấy chấp trước tất cả tâm, mà vì chúng sinh hồi hướng.
  4. Không thủ lấy chấp trước tất cả pháp, mà vì chúng sinh hồi hướng.
  5. Không thủ lấy chấp trước tất cả sự, mà vì chúng sinh hồi hướng.
  6. Không thủ lấy chấp trước tại nhân địa làm tốt việc gì ? Tương lai sẽ đắc được quả báo tốt gì, không vì nguyên nhân đó, mà vì chúng sinh hồi hướng.
  7. Không thủ lấy chấp trước lời nói và âm thanh, mà vì chúng sinh hồi hướng.
  8. Không thủ lấy chấp trước danh câu văn thân, mà vì chúng sinh hồi hướng.
  9. Không thủ lấy chấp trước hồi hướng chúng sinh, hồi hướng bồ đề, hồi hướng thật tế, mà vì chúng sinh hồi hướng.
  10. Không thủ lấy chấp trước lợi ích chúng sinh, mà vì chúng sinh hồi hướng.

Hồi hướng tức là không chấp trước tất cả, tất cả đều hồi hướng. Chúng ta người tu hành, thời khắc quán chiếu chính mình, đừng tạo nghiệp thân, đừng tạo nghiệp miệng, đừng tạo nghiệp ý. Ba nghiệp thanh tịnh, mới đủ tư cách làm Phật giáo đồ. Thời thời hồi quang phản chiếu, khắc khắc phải quản lấy chính mình, đừng có tình hình không giữ quy cụ. Do đó: “Phạm pháp bất tác, phạm bệnh bất thực”. Thành thật làm người giữ bổn phận.

 

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát phục dĩ thiện căn như thị hồi hướng, sở vị: bất vi đam trước sắc cảnh giới cố hồi hướng, bất vi đam trước thanh, hương, vị, xúc, pháp cảnh giới cố hồi hướng, bất vi cầu sanh thiên cố hồi hướng, bất vi cầu dục lạc cố hồi hướng, bất vi trước dục cảnh giới cố hồi hướng, bất vi cầu quyến thuộc cố hồi hướng, bất vi cầu tự tại cố hồi hướng, bất vi cầu sanh tử lạc cố hồi hướng, bất vi trước sanh tử cố hồi hướng, bất vi lạc chư hữu cố hồi hướng, bất vi cầu hòa hợp lạc cố hồi hướng, bất vi cầu khả lạc trước xứ cố hồi hướng, bất vi hoài độc hại tâm cố hồi hướng, bất hoại thiện căn cố hồi hướng, bất y tam giới cố hồi hướng, bất trước chư Thiền giải thoát tam muội cố hồi hướng, bất trụ Thanh văn, Bích Chi Phật thừa cố hồi hướng.

Phật tử ! Đại Bồ Tát lại đem căn lành hồi hướng như vầy. Đó là: Không vì đam trước cảnh giới sắc mà hồi hướng. Không vì đam trước cảnh giới thanh, hương, vị, xúc, pháp, mà hồi hướng. Không vì cầu sinh cõi trời mà hồi hướng. Không vì cầu dục lạc mà hồi hướng. Không vì chấp cảnh giới dục mà hồi hướng. Không vì cầu quyến thuộc mà hồi hướng. Không vì cầu tự tại mà hồi hướng. Không vì cầu vui sinh tử mà hồi hướng. Không vì chấp sinh tử mà hồi hướng. Không vì vui thích các cõi mà hồi hướng. Không vì cầu vui hoà hợp mà hồi hướng. Không vì cầu đáng vui chấp trước nơi chốn mà hồi hướng. Không vì ôm lòng độc hại mà hồi hướng. Không hoại căn lành mà hồi hướng. Không nương ba cõi mà hồi hướng. Không chấp vào các thiền giải thoát tam muội mà hồi hướng. Không trụ vào Thanh Văn Bích Chi Phật thừa mà hồi hướng.

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát tu Bồ Tát đạo, tích tụ đủ thứ căn lành, lại đem căn lành của mình, vì chúng sinh mà hồi hướng. Đó là: Không vì đam trước tất cả cảnh giới sắc đẹp, mới tu pháp môn hồi hướng. Không vì đam trước cảnh giới thanh, hương, vị, xúc, pháp, mới tu pháp môn hồi hướng. Không vì cầu sinh về các cõi trời, mới tu pháp môn hồi hướng. Không vì cầu đủ thứ dục lạc, mới tu pháp môn hồi hướng. Không vì chấp vào cảnh giới năm dục, mới tu pháp môn hồi hướng. Không vì cầu có quyến thuộc tốt, mới tu pháp môn hồi hướng. Không vì cầu nhậm vận tự tại, mới tu pháp môn hồi hướng. Không vì chính mình chấm dứt sinh tử, lìa khổ được vui, mới tu pháp môn hồi hướng. Không vì chấp vào sinh tử, mới tu pháp môn hồi hướng. Không vì vui thích tam giới hai mươi lăm cõi, mới tu pháp môn hồi hướng. Không vì cầu gia đình hoà hợp, quyến thuộc vui vẻ, mới tu pháp môn hồi hướng. Không vì cầu cảnh giới đáng an vui, và cảnh giới đáng chấp trước, mới tu pháp môn hồi hướng. Không vì ôm lòng độc hại người, mới tu pháp môn hồi hướng. Không vì bất hoại căn lành, chấp trước căn lành, mới tu pháp môn hồi hướng. Không vì nương vào ba cõi, mới tu pháp môn hồi hướng. Không vì chấp trước vào tất cả thiền định, tất cả giải thoát, tất cả tam muội, mới tu pháp môn hồi hướng. Không vì trụ vào Thanh Văn và Duyên Giác thừa, mới tu pháp môn hồi hướng.

 

Đãn vi giáo hóa điều phục nhất thiết chúng sanh cố hồi hướng. đãn vi thành mãn nhất thiết trí trí cố hồi hướng. đãn vi đắc vô ngại trí cố hồi hướng. đãn vi đắc vô chướng ngại thanh tịnh thiện căn cố hồi hướng. đãn vi lệnh nhất thiết chúng sanh siêu xuất sanh tử chứng đại trí tuệ cố hồi hướng. đãn vi lệnh đại Bồ-đề tâm như Kim cương bất khả hoại cố hồi hướng. đãn vi thành tựu cứu cánh bất tử Pháp cố hồi hướng. đãn vi dĩ vô lượng trang nghiêm trang nghiêm Phật chủng tánh, thị Hiện-Nhất-Thiết trí tự tại cố hồi hướng. đãn vi cầu Bồ Tát nhất thiết pháp minh Đại Thần thông trí cố hồi hướng. đãn vi ư tận Pháp giới, hư không giới nhất thiết Phật sát, hành Phổ Hiền hạnh viên mãn bất thoái, bị kiên cố đại nguyện khải, lệnh nhất thiết chúng sanh trụ Phổ Hiền địa cố hồi hướng. đãn vi tận vị lai kiếp độ thoát chúng sanh thường vô hưu tức, thị hiện nhất thiết trí địa vô ngại quang minh hằng bất đoạn cố hồi hướng.

Chỉ vì giáo hoá điều phục tất cả chúng sinh mà hồi hướng. Chỉ vì thành tựu viên mãn trí nhất thiết trí mà hồi hướng. Chỉ vì được trí vô ngại mà hồi hướng. Chỉ vì được căn lành thanh tịnh không chướng ngại mà hồi hướng. Chỉ vì khiến cho tất cả chúng sinh vượt qua sinh tử chứng đại trí huệ mà hồi hướng. Chỉ vì khiến tâm đại bồ đề như kim cang không thể hoại mà hồi hướng. Chỉ vì thành tựu rốt ráo pháp bất tử mà hồi hướng. Chỉ vì dùng vô lượng trang nghiêm để trang nghiêm giống tánh Phật, thị hiện nhất thiết trí tự tại mà hồi hướng. Chỉ vì cầu tất cả pháp minh đại thần thông trí huệ của Bồ Tát mà hồi hướng. Chỉ vì tu hành hạnh Phổ Hiền, ở trong tận pháp giới hư không giới tất cả cõi Phật, viên mãn không thối chuyển, mặc giáp đại nguyện kiên cố, khiến cho tất cả chúng sinh trụ bậc Phổ Hiền mà hồi hướng. Chỉ vì hết kiếp vị lai độ thoát chúng sinh thường không ngừng nghỉ, thị hiện quang minh vô ngại của bậc nhất thiết trí luôn không dứt mà hồi hướng.

Giảng: Bồ Tát chỉ vì giáo hoá chúng sinh, vì điều phục chúng sinh, cho nên tu pháp môn hồi hướng. Chỉ vì đắc được trí huệ viên dung vô ngại, cho nên tu pháp môn hồi hướng. Chỉ vì được căn lành thanh tịnh chẳng có sự chướng ngại, cho nên tu pháp môn hồi hướng. Chỉ vì khiến cho tất cả chúng sinh, vượt khỏi sinh tử, chứng được đại trí huệ, cho nên tu pháp môn hồi hướng. Chỉ vì khiến cho tâm đại bồ đề, kiên cố như kim cang không thể hoại, cho nên tu pháp môn hồi hướng. Chỉ vì thành tựu rốt ráo pháp bất tử, cho nên tu pháp môn hồi hướng. Chỉ vì dùng vô lượng đồ trang nghiêm, để trang nghiêm giống tánh chư Phật mười phương, cho nên tu pháp môn hồi hướng. Chỉ vì cầu tất cả pháp đều đã thấu hiểu, đắc được trí huệ đại thần thông của Bồ Tát, cho nên tu pháp môn hồi hướng. Chỉ vì tu đại hạnh của Bồ Tát Phổ Hiền tu, ở trong tận cùng hư không khắp pháp giới, mười phương tất cả cõi Phật, viên mãn không thối chuyển, mặc áo giáp đại nguyện kiên cố, khiến cho tất cả chúng sinh đều trụ ở bậc Bồ Tát Phổ Hiền, cho nên tu pháp môn hồi hướng. Chỉ vì hết kiếp thuở vị lai, độ thoát tất cả chúng sinh, vĩnh viễn không ngừng nghỉ, thị hiện bậc nhất thiết trí huệ, đắc được quang minh vô ngại, thường không đoạn tuyệt, cho nên tu pháp môn hồi hướng.

 

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát dĩ bỉ thiện căn hồi hướng thời, dĩ như thị tâm hồi hướng, sở vị: dĩ ổn tánh bình đẳng tâm hồi hướng, dĩ pháp tánh bình đẳng tâm hồi hướng, dĩ nhất thiết chúng sanh vô lượng bình đẳng tâm hồi hướng, dĩ vô tránh bình đẳng tâm hồi hướng, dĩ tự tánh vô sở khởi bình đẳng tâm hồi hướng, dĩ tri chư Pháp vô loạn tâm hồi hướng, dĩ nhập tam thế bình đẳng tâm hồi hướng, dĩ xuất sanh tam thế chư Phật chủng tánh tâm hồi hướng, dĩ đắc bất thoái thất thần thông tâm hồi hướng, dĩ sanh thành nhất thiết trí hạnh tâm hồi hướng.

Phật tử ! Khi đại Bồ Tát đem căn lành đó hồi hướng, thì dùng tâm hồi hướng như vầy. Đó là: Dùng tâm bản tánh bình đẳng mà hồi hướng. Dùng tâm pháp tánh bình đẳng mà hồi hướng. Dùng tâm vô lượng tất cả chúng sinh bình đẳng mà hồi hướng. Dùng tâm không tranh bình đẳng mà hồi hướng. Dùng tâm tự tánh không chỗ khởi bình đẳng mà hồi hướng. Dùng tâm biết các pháp không tán loạn mà hồi hướng. Dùng tâm vào ba đời bình đẳng mà hồi hướng. Dùng tâm sinh ra giống tánh chư Phật ba đời mà hồi hướng. Dùng tâm được thần thông không thối thất mà hồi hướng. Dùng tâm sinh thành hạnh nhất thiết trí mà hồi hướng.

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Khi đại Bồ Tát tu hành Bồ Tát đạo, đem đủ thứ căn lành của Ngài tu tập, vì chúng sinh hồi hướng, thì dùng mười thứ tâm nầy để hồi hướng:

  1. Dùng tâm bản tánh bình đẳng, vì chúng sinh hồi hướng. Bản tánh của tất cả chư Phật và tất cả chúng sinh là bình đẳng.
  2. Dùng tâm pháp tánh bình đẳng, vì chúng sinh hồi hướng.
  3. Dùng tâm vô lượng tất cả chúng sinh bình đẳng, vì chúng sinh hồi hướng.
  4. Dùng tâm không tranh luận bình đẳng, vì chúng sinh hồi hướng.
  5. Dùng tâm tự tánh không chỗ khởi bình đẳng, vì chúng sinh hồi hướng.
  6. Dùng tâm biết tất cả các pháp không tạp loạn, vì chúng sinh hồi hướng.
  7. Dùng tâm vào ba cõi bình đẳng, vì chúng sinh hồi hướng.
  8. Dùng tâm sinh ra giống tánh chư Phật ba đời, vì chúng sinh hồi hướng.
  9. Dùng tâm được thần thông không thối thất, vì chúng sinh hồi hướng.
  10. Dùng tâm sinh thành hạnh nhất thiết trí, vì chúng sinh hồi hướng.

 

Hựu vi lệnh nhất thiết chúng sanh vĩnh ly nhất thiết địa ngục cố hồi hướng. Vi lệnh nhất thiết chúng sanh bất nhập súc sanh thú cố hồi hướng. Vi lệnh nhất thiết chúng sanh bất vãng Diêm la Vương xứ cố hồi hướng. Vi lệnh nhất thiết chúng sanh trừ diệt nhất thiết chướng đạo pháp cố hồi hướng. Vi lệnh nhất thiết chúng sanh mãn túc nhất thiết thiện căn cố hồi hướng. Vi lệnh nhất thiết chúng sanh năng ưng thời chuyển pháp luân, lệnh nhất thiết hoan hỉ cố hồi hướng. Vi lệnh nhất thiết chúng sanh nhập thập lực luân cố hồi hướng. Vi lệnh nhất thiết chúng sanh mãn túc Bồ Tát vô biên thanh tịnh Pháp nguyện cố hồi hướng. Vi lệnh nhất thiết chúng sanh tùy thuận nhất thiết thiện tri thức giáo, Bồ-đề tâm khí đắc mãn túc cố hồi hướng. Vi lệnh nhất thiết chúng sanh thọ trì tu hành thậm thâm Phật Pháp, đắc nhất thiết Phật trí quang minh cố hồi hướng.

Lại vì khiến cho tất cả chúng sinh, vĩnh viễn lìa khỏi tất cả địa ngục mà hồi hướng. Vì khiến cho tất cả chúng sinh không vào đường súc sinh mà hồi hướng. Vì khiến cho tất cả chúng sinh không đến chỗ vua Diêm La mà hồi hướng. Vì khiến cho tất cả chúng sinh diệt trừ tất cả pháp chướng đạo mà hồi hướng. Vì khiến cho tất cả chúng sinh đầy đủ tất cả căn lành mà hồi hướng. Vì khiến cho tất cả chúng sinh đúng thời chuyển bánh xe pháp, khiến cho tất cả đều hoan hỉ mà hồi hướng. Vì khiến cho tất cả chúng sinh vào bánh xe thập lực mà hồi hướng. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, đầy đủ vô biên pháp nguyện thanh tịnh của Bồ Tát mà hồi hướng. Vì khiến cho tất cả chúng sinh tuỳ thuận tất cả thiện tri thức, tâm khí bồ đề được đầy đủ mà hồi hướng. Vì khiến cho tất cả chúng sinh thọ trì tu hành Phật pháp thâm sâu, được trí huệ quang minh của tất cả chư Phật mà hồi hướng.

Giảng: Bồ Tát lại vì khiến cho tất cả chúng sinh, vĩnh viễn lìa khỏi tất cả địa ngục, cho nên tu pháp môn hồi hướng. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, vĩnh viễn không vào đường súc sinh, cho nên tu pháp môn hồi hướng. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, vĩnh viễn không đến chỗ vua Diêm La, cho nên tu pháp môn hồi hướng. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, diệt trừ tất cả pháp chướng đạo, cho nên tu pháp môn hồi hướng. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, đầy đủ tất cả căn lành, cho nên tu pháp môn hồi hướng. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, đúng thời chuyển bánh xe pháp, khiến cho tất cả đều hoan hỉ, cho nên tu pháp môn hồi hướng. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, vào được bánh xe thập lực của Phật, cho nên tu pháp môn hồi hướng. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, đầy đủ vô biên pháp nguyện thanh tịnh của Bồ Tát, cho nên tu pháp môn hồi hướng. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, tuỳ thuận tất cả thiện tri thức giáo hoá, phát tâm bồ đề pháp khí, đắc được đầy đủ, cho nên tu pháp môn hồi hướng. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, thọ trì tu hành Phật pháp thâm sâu, đắc được trí huệ quang minh của tất cả chư Phật, cho nên tu pháp môn hồi hướng.

 

Vi lệnh nhất thiết chúng sanh tu chư Bồ-tát vô chướng ngại hạnh thường hiện tiền cố hồi hướng. Vi lệnh nhất thiết chúng sanh thường kiến chư Phật hiện kỳ tiền cố hồi hướng. Vi lệnh nhất thiết chúng sanh thanh tịnh pháp quang minh thường hiện tiền cố hồi hướng. Vi lệnh nhất thiết chúng sanh vô úy đại Bồ-đề tâm thường hiện tiền cố hồi hướng. Vi lệnh nhất thiết chúng sanh Bồ Tát bất tư nghị trí thường hiện tiền cố hồi hướng. Vi lệnh nhất thiết chúng sanh phổ cứu hộ chúng sanh, lệnh thanh tịnh đại bi tâm thường hiện tiền cố hồi hướng. Vi lệnh nhất thiết chúng sanh dĩ bất khả thuyết bất khả thuyết thắng diệu trang nghiêm cụ trang nghiêm nhất thiết chư Phật sát cố hồi hướng. Vi lệnh nhất thiết chúng sanh tồi diệt nhất thiết chúng ma đấu tranh la võng nghiệp cố hồi hướng. Vi lệnh nhất thiết chúng sanh ư nhất thiết Phật sát giai vô sở y tu Bồ Tát hạnh cố hồi hướng. Vi lệnh nhất thiết chúng sanh phát nhất thiết chủng trí tâm, nhập nhất thiết Phật Pháp quảng đại môn cố hồi hướng.

Vì khiến cho tất cả chúng sinh tu hạnh không chướng ngại của các Bồ Tát, thường hiện tiền mà hồi hướng. Vì khiến cho tất cả chúng sinh thường thấy chư Phật hiện ra ở trước họ mà hồi hướng. Vì khiến cho tất cả chúng sinh được pháp quang minh thanh tịnh thường hiện tiền mà hồi hướng. Vì khiến cho tất cả chúng sinh được đại bồ đề tâm không sợ hãi thường hiện tiền mà hồi hướng. Vì khiến cho tất cả chúng sinh được trí huệ không nghĩ bàn của Bồ Tát thường hiện tiền mà hồi hướng. Vì khiến cho tất cả chúng sinh khắp cứu hộ tất cả chúng sinh, khiến cho được tâm đại bi thanh tịnh thường hiện tiền mà hồi hướng. Vì khiến cho tất cả chúng sinh dùng bất khả thuyết bất khả thuyết đồ trang nghiêm tốt đẹp thù thắng, để trang nghiêm tất cả cõi nước chư Phật mà hồi hướng. Vì khiến cho tất cả chúng sinh diệt tan tất cả các ma nghiệp la võng đấu tranh mà hồi hướng. Vì khiến cho tất cả chúng sinh nơi tất cả cõi Phật đều không chỗ nương, tu hạnh Bồ Tát mà hồi hướng. Vì khiến cho tất cả chúng sinh phát tâm nhất thiết chủng trí, vào tất cả pháp môn Phật pháp rộng lớn mà hồi hướng.

Giảng: Bồ Tát vì khiến cho tất cả chúng sinh, tu tất cả hạnh không chướng ngại của Bồ Tát tu, thường thị hiện ở trước họ, cho nên tu pháp môn hồi hướng. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, thường thấy mười phương chư Phật hiện tiền, thường nghe mười phương chư Phật nói pháp, cho nên tu pháp môn hồi hướng. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, đắc được pháp thanh tịnh, sinh trí huệ quang minh, thường hiện ở trước họ, cho nên tu pháp môn hồi hướng. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, đắc được tâm đại bồ đề không sợ hãi, thường hiện ở trước họ, cho nên tu pháp môn hồi hướng. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, đắc được trí huệ không thể nghĩ bàn của Bồ Tát, thường hiện tiền, cho nên tu pháp môn hồi hướng. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, khắp cứu hộ chúng sinh, khiến cho tâm đại bi thanh tịnh thường hiện tiền, cho nên tu pháp môn hồi hướng. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, dùng bất khả thuyết bất khả thuyết đồ trang nghiêm tốt đẹp thù thắng, để trang nghiêm tất cả cõi nước của chư Phật, cho nên tu pháp môn hồi hướng. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, diệt tan được tất cả các ma, đoạn tuyệt đấu tranh la võng, không tạo nghiệp ác, cho nên tu pháp môn hồi hướng. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, ở tại cõi nước của tất cả chư Phật, đều không chỗ nương tựa, thường tu hạnh Bồ Tát, cho nên tu pháp môn hồi hướng. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, phát tâm nhất thiết chủng trí, vào được tất cả pháp môn Phật pháp rộng lớn, cho nên tu pháp môn hồi hướng.

 

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hựu dĩ thử thiện căn, chánh niệm thanh tịnh hồi hướng. Trí tuệ quyết định hồi hướng. Tận tri nhất thiết Phật Pháp phương tiện hồi hướng. Vi thành tựu vô lượng vô ngại trí cố hồi hướng. Dục mãn túc thanh tịnh thù thắng tâm cố hồi hướng. Vi nhất thiết chúng sanh trụ đại từ cố hồi hướng. Vi nhất thiết chúng sanh trụ đại bi cố hồi hướng. Vi nhất thiết chúng sanh trụ Đại hỉ cố hồi hướng. Vi nhất thiết chúng sanh trụ đại xả cố hồi hướng. Vi vĩnh ly nhị trước trụ thắng thiện căn cố hồi hướng. Vi tư tánh quan sát phân biệt diễn thuyết nhất thiết duyên khởi pháp cố hồi hướng. Vi lập đại dũng mãnh tràng tâm cố hồi hướng. Vi lập Vô năng thắng tràng tạng cố hồi hướng.

Phật tử ! Đại Bồ Tát lại đem căn lành nầy, chánh niệm thanh tịnh hồi hướng, trí huệ quyết định hồi hướng, biết hết tất cả Phật pháp phương tiện hồi hướng, vì thành tựu vô lượng trí vô ngại mà hồi hướng. Vì muốn viên mãn tâm thanh tịnh thù thắng mà hồi hướng. Vì tất cả chúng sinh trụ đại từ mà hồi hướng. Vì tất cả chúng sinh trụ đại bi mà hồi hướng. Vì tất cả chúng sinh trụ đại hỉ mà hồi hướng. Vì tất cả chúng sinh trụ đại xả mà hồi hướng. Vì vĩnh viễn lìa khỏi hai chấp trụ căn lành thù thắng mà hồi hướng. Vì suy gẫm quán sát phân biệt diễn nói tất cả pháp duyên khởi mà hồi hướng. Vì lập tâm tràng đại dũng mãnh mà hồi hướng. Vì lập tạng tràng vô năng thắng mà hồi hướng.

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát tu hành Bồ Tát đạo, lại đem căn lành của Ngài tu tập, có hai mươi hai điều vì chúng sinh mà hồi hướng, đó là:

  1. Vì chánh niệm thanh tịnh, mà vì chúng sinh hồi hướng.
  2. Vì trí huệ quyết định, mà vì chúng sinh hồi hướng.
  3. Vì biết hết tất cả Phật pháp phương tiện, mà vì chúng sinh hồi hướng.
  4. Vì thành tựu vô lượng trí huệ vô ngại, mà vì chúng sinh hồi hướng.
  5. Vì muốn đầy đủ thanh tịnh thù thắng, mà vì chúng sinh hồi hướng.
  6. Vì tất cả chúng sinh trụ tâm đại từ, mà vì chúng sinh hồi hướng.
  7. Vì tất cả chúng sinh trụ tâm đại bi, mà vì chúng sinh hồi hướng.
  8. Vì tất cả chúng sinh trụ tâm đại hỉ, mà vì chúng sinh hồi hướng.
  9. Vì tất cả chúng sinh trụ tâm đại xả, mà vì chúng sinh hồi hướng.
  10. Vì vĩnh viễn lìa ngã pháp hai chấp, trụ nơi căn lành thù thắng, mà vì chúng sinh hồi hướng.
  11. Vì suy gẫm, quán sát, phân biệt, diễn nói, tất cả pháp duyên khởi, mà vì chúng sinh hồi hướng.
  12. Vì kiến lập tâm tràng đại dũng mãnh, mà vì chúng sinh hồi hướng.
  13. Vì kiến lập tạng vô năng thắng, mà vì chúng sinh hồi hướng.

 

Vi phá chư ma chúng cố hồi hướng. Vi đắc nhất thiết pháp thanh tịnh vô ngại tâm cố hồi hướng. Vi tu nhất thiết Bồ Tát hạnh Bất-thoái-chuyển cố hồi hướng. Vi đắc lạc cầu đệ nhất thắng Pháp tâm cố hồi hướng. Vi đắc lạc cầu chư công đức pháp tự tại thanh tịnh nhất thiết trí trí tâm cố hồi hướng. Vi mãn nhất thiết nguyện, trừ nhất thiết tránh, đắc Phật tự tại vô ngại thanh tịnh Pháp, vi nhất thiết chúng sanh chuyển bất thoái Pháp luân cố hồi hướng. Vi đắc Như Lai tối thượng thù thắng Pháp trí tuệ nhật, bách thiên quang minh chi sở trang nghiêm, phổ chiếu nhất thiết pháp giới chúng sanh cố hồi hướng. Vi dục điều phục nhất thiết chúng sanh, tùy kỳ sở lạc thường lệnh mãn túc, bất xả bổn nguyện, tận vị lai tế, thính văn chánh pháp, tu tập đại hạnh, đắc tịnh trí tuệ ly cấu quang minh, đoạn trừ nhất thiết kiêu mạn, tiêu diệt nhất thiết phiền não, liệt ái dục võng, phá ngu si ám, cụ túc vô cấu vô chướng ngại Pháp cố hồi hướng. Vi nhất thiết chúng sanh, ư a-tăng-kì kiếp thường cần tu tập nhất thiết trí hạnh vô hữu thoái chuyển, nhất nhất lệnh đắc vô ngại diệu tuệ, thị hiện chư Phật tự tại thần thông vô hữu hưu tức cố hồi hướng.

Vì phá các chúng ma mà hồi hướng. Vì được tất cả pháp thanh tịnh tâm không ngại mà hồi hướng. Vì tu tất cả hạnh Bồ Tát không thối chuyển mà hồi hướng. Vì được tâm thích cầu thắng pháp đệ nhất, mà hồi hướng. Vì được tâm thích cầu các pháp công đức, tự tại thanh tịnh, nhất thiết trí, mà hồi hướng. Vì viên mãn tất cả nguyện, trừ tất cả tranh luận, được pháp thanh tịnh tự tại vô ngại của Phật, vì tất cả chúng sinh chuyển bánh xe pháp bất thối, mà hồi hướng. Vì được pháp thù thắng tối thượng mặt trời trí huệ của Như Lai, trăm ngàn quang minh trang nghiêm, chiếu khắp tất cả chúng sinh pháp giới mà hồi hướng. Vì muốn điều phục tất cả chúng sinh, tuỳ sự ưa thích của họ, thường khiến cho đầy đủ, không xả bỏ nguyện xưa, hết thuở vị lai, nghe chánh pháp, tu tập đại hạnh, được trí huệ thanh tịnh, lìa quang minh cấu bẩn, đoạn trừ tất cả sự kiêu mạn, tiêu diệt tất cả phiền não, xé tan lưới ái dục, phá tối ngu si, đầy đủ pháp không cấu bẩn không chướng ngại mà hồi hướng. Vì tất cả chúng sinh nơi A tăng kỳ kiếp thường siêng tu tập hạnh nhất thiết trí, không có thối chuyển, mỗi mỗi đều khiến cho được trí huệ vi diệu vô ngại, thị hiện thần thông tự tại của chư Phật, không có ngừng nghỉ mà hồi hướng.

Giảng:

  1. Vì phá tan tất cả chúng ma, mà vì chúng sinh hồi hướng.
  2. Vì được tất cả pháp môn đều thành tựu thanh tịnh, tâm viên dung vô ngại, mà vì chúng sinh hồi hướng.
  3. Vì tu tất cả hạnh Bồ Tát, vĩnh viễn không thối chuyển nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, mà vì chúng sinh hồi hướng.
  4. Vì được an vui cầu pháp thù thắng đệ nhất, phát tâm đại bồ đề, mà vì chúng sinh hồi hướng.
  5. Vì tâm trí huệ được an vui cầu các pháp công đức, tự tại thanh tịnh, nhất thiết trí, mà vì chúng sinh hồi hướng.
  6. Vì đầy đủ tất cả đại nguyện, tiêu trừ tất cả tranh luận, đắc được nhậm vận tự tại của Phật pháp thanh tịnh không chướng ngại, vì tất cả chúng sinh thường chuyển bánh xe pháp không thối chuyển, mà vì chúng sinh hồi hướng.
  7. Vì được pháp thù thắng tối thượng của Phật, trí huệ như ngàn mặt trời, trăm ngàn quang minh trang nghiêm, chiếu khắp tất cả pháp giới chúng sinh, mà vì chúng sinh hồi hướng.
  8. Vì điều phục tất cả chúng sinh cang cường, Bồ Tát từ bi đối với chúng sinh, tuỳ theo sự ưa thích của chúng sinh, thường khiến cho được đầy đủ. Do đó:

“Trước dùng câu dục móc
Sau khiến vào trí Phật”.

Nếu muốn khiến cho chúng sinh minh bạch trí huệ của Phật, thì trước hết phải cho chúng sinh một cái gì đó. Họ được lợi ích thì mới chịu lắng nghe sự giáo hoá của bạn, đó là thường tình của con người. Bồ Tát không xả bỏ nguyện xưa của mình. Nguyện hết thuở vị lai, lắng nghe chánh pháp, tu tập đại hạnh đại nguyện, đắc được trí huệ thanh tịnh và lìa khỏi quang minh cấu bẩn, đoạn trừ được tất cả tâm kiêu mạn, tiêu diệt tất cả tâm phiền não. Xé nát lưới ái dục, phá tan ngu si đen tối, đầy đủ pháp thanh tịnh không có sự cấu bẩn, chẳng có tất cả sự chướng ngại, viên dung vô ngại, do nhân duyên đó, mà vì chúng sinh hồi hướng.

  1. Bồ Tát vì tất cả chúng sinh, ở trong A tăng kỳ kiếp, thường siêng tu tập hạnh nhất thiết trí, chẳng có lúc nào thối chuyển, khiến cho hết thảy chúng sinh, đều được trí huệ vi diệu vô ngại, thị hiện thần thông nhậm vận tự tại của mười phương chư Phật không khi nào ngừng nghỉ, bởi nhân duyên đó, mà vì chúng sinh hồi hướng.

 

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát dĩ chư thiện căn như thị hồi hướng thời, bất ưng tham trước tam hữu, ngũ dục cảnh giới. Hà dĩ cố? Bồ-Tát Ma-ha-tát ưng dĩ vô tham thiện căn hồi hướng, ưng dĩ vô sân thiện căn hồi hướng, ưng dĩ vô si thiện căn hồi hướng, ưng dĩ ất hại thiện căn hồi hướng, ưng dĩ ly mạn thiện căn hồi hướng, ưng dĩ bất siểm thiện căn hồi hướng, ưng dĩ chất trực thiện căn hồi hướng, ưng dĩ tinh cần thiện căn hồi hướng, ưng dĩ tu tập thiện căn hồi hướng.

Phật tử ! Khi đại Bồ Tát đem các căn lành hồi hướng như vậy, thì không tham trước cảnh giới năm dục của ba cõi. Tại sao? Vì đại Bồ Tát nên đem căn lành không tham mà hồi hướng. Nên đem căn lành không sân mà hồi hướng. Nên đem căn lành vô ngại mà hồi hướng. Nên đem căn lành không hại mà hồi hướng. Nên đem căn lành lìa kiêu mạn mà hồi hướng. Nên đem căn lành không xiểm nịnh mà hồi hướng. Nên đem căn lành chất trực mà hồi hướng. Nên đem căn lành tinh cần mà hồi hướng. Nên đem căn lành tu tập mà hồi hướng.

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Khi đại Bồ Tát tu hành Bồ Tát đạo, đem đủ thứ căn lành của mình tu tập, hồi hướng như vậy, thì không nên tham cảnh giới năm dục của ba cõi. Chúng ta phàm phu vì tham hưởng thụ năm dục, cho nên nhìn chẳng xuyên thủng, chẳng buông bỏ được. Do đó, ở trong sáu nẻo chuyển tới chuyển lui, lưu chuyển không ngừng. Do nguyên nhân gì ? Đại Bồ Tát tu đủ thứ căn lành, nên đem căn lành không chỗ tham trước, không chỗ chấp trước, để vì chúng sinh hồi hướng. Bồ Tát quét tất cả các pháp, lìa tất cả các tướng, tức là không chấp ta, lại không chấp pháp. Bồ Tát không nghĩ như vầy: “Tôi đem tất cả căn lành, hồi hướng cho chúng sinh, tôi sẽ đắc được bao nhiêu công đức?”

Bồ Tát tuyệt đối không nghĩ như thế. Bồ Tát là bậc Thánh không còn tham, nếu còn tham thì đó là phàm phu. Bồ Tát không so sánh lợi hại, hành sở vô sự. Bồ Tát nên đem căn lành không sân hận, vì chúng sinh hồi hướng. Bồ Tát nên đem căn lành không có sự ngu si, để vì chúng sinh hồi hướng. Bồ Tát nên đem căn lành không hại chúng sinh, để vì chúng sinh hồi hướng. Bồ Tát nên đem căn lành lìa khỏi ngã mạn, để vì chúng sinh hồi hướng. Bồ Tát nên đem căn lành không xiểm nịnh, để vì chúng sinh hồi hướng. Bồ Tát nên đem căn lành chánh trực không quanh co, để vì chúng sinh hồi hướng, đó gọi là “Trực tâm thị đạo tràng”. Bồ Tát nên đem căn lành tinh cần tu hành, để vì chúng sinh hồi hướng. Bồ Tát nên đem căn lành của mình tu tập, để vì chúng sinh hồi hướng, đó tức là “Đảo giá từ thuyền, phổ độ chúng sinh”. Đạt thắng đến bờ rốt ráo Niết Bàn bên kia.

Bồ Tát hành sở vô sự, không tham, không nhiễm, không chấp, không trước, tất cả vì người không vì mình. Phàm là người học Phật, nên học tập theo Bồ Tát, đừng có vì mình, có sự chấp trước. Ai đối với mình không tốt, thì mình đều đối tốt với họ, đừng có tư tưởng phân biệt. Thường phải hồi quang phản chiếu, trở về cầu nơi chính mình. Phản tỉnh như vậy, thì tự nhiên sẽ tha thứ được cho người khác. Do đó:

“Ái nhân bất thân phản thân nhân
Trị nhân bất trị phản kỳ trị
Lễ nhân bất đáp phản kỳ kính
Hành bất đắc phản cầu chư kỷ”.

Nay giải thích sơ lược: Bạn thương mến tất cả chúng sinh, nhưng chúng sinh không gần gũi bạn. Lúc đó, phải phản tỉnh tâm từ bi của mình có đủ hay không? Đối với người có tâm từ bi chăng ? Tức là đối đãi với con chim nhỏ có tâm nhân ái, chẳng có tâm giết hại, thì nó sẽ gần gũi bạn, kết làm bạn với bạn, bay đến đậu trên vai, hoặc trên tay của bạn, biểu thị sự thân thiện, mà không sợ hãi. Song, trong tâm bạn nếu có ý niệm giết, thì nó sẽ lìa xa bạn, chẳng còn gần gũi bạn nữa. Do đó, có thể biết trong sự vô hình, cảm ứng đạo giao rất hiển rõ. Bạn muốn đối lý với người khác, giáo hoá người khác, nhưng họ chẳng nghe lời bạn. Lúc đó, mình phải kiểm tra lại, phương pháp mình dùng có đúng chăng?

Nếu đúng, mà họ không nghe lời bạn, thì họ là người ngu si; nếu không đúng, thì mình phải sửa đổi, dùng phương pháp tốt khác để trị lý tất cả mọi người. Thấy người khác thì đảnh lễ, nếu họ không tiếp lễ của bạn, không đáp lễ của bạn, thì lúc đó, tự mình phải phản tỉnh lại, có thành tâm cung kính đảnh lễ người ta chăng? Hoặc làm không đúng, người ta cho rằng không hợp tình lý. Hãy tự hỏi mình, nếu đệ tử không nghe lời, thì mình phải sinh tâm hổ thẹn; vì đức hạnh của mình không đủ, không cách chi cảm hoá người. Cho nên mình phải hồi quang phản chiếu, trở lại cầu nơi chính mình.

 

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát như thị hồi hướng thời đắc tịnh tín tâm, ư Bồ Tát hạnh hoan hỉ nhẫn thọ, tu tập thanh tịnh đại Bồ-tát đạo. Cụ Phật chủng tánh, đắc Phật trí tuệ. xả nhất thiết ác, ly chúng ma nghiệp. Thân cận thiện hữu, thành kỷ đại nguyện. Thỉnh chư chúng sanh, thiết đại thí hội.

Phật tử ! Khi đại Bồ Tát hồi hướng như vậy, thì được tâm tin thanh tịnh. Nơi hạnh Bồ Tát, hoan hỉ nhẫn thọ, tu tập đại đạo Bồ Tát thanh tịnh, đầy đủ giống tánh Phật, đắc được trí huệ của Phật, xả bỏ tất cả điều ác, lìa các nghiệp ma, gần gũi bạn lành, thành tựu nguyện lớn của mình, thỉnh các chúng sinh, thiết lập đại hội bố thí.

Giảng: Các vị đệ tử của Phật! Khi đại Bồ Tát tu hành Bồ Tát đạo, tích tụ đủ thứ căn lành, hồi hướng như vậy, thì đắc được tâm tin thanh tịnh. Đối với hạnh môn của Bồ Tát tu, hoan hỉ nhẫn thọ. Tu tập đại đạo thanh tịnh của Bồ Tát, đầy đủ giống tánh của chư Phật, đắc được trí huệ của chư Phật. Xả bỏ tất cả nghiệp ác, lìa khỏi tất cả ma nghiệp. Gần gũi bạn lành, thành tựu nguyện lớn. Thỉnh tất cả chúng sinh, thiết lập đại pháp hội bố thí kết duyên vô lậu với chúng sinh.

 

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát phục dĩ thử pháp thí sở sanh thiện căn như thị hồi hướng, sở vị: lệnh nhất thiết chúng sanh, đắc tịnh diệu âm, đắc nhu nhuyễn âm, đắc thiên cổ âm, đắc vô lượng vô số bất tư nghị âm, đắc khả ái nhạc âm, đắc thanh tịnh âm, đắc châu biến nhất thiết Phật sát âm, đắc bách thiên na-do-tha bất khả thuyết công đức trang nghiêm âm, đắc cao viễn âm, đắc quảng đại âm,

Phật tử ! Đại Bồ Tát lại đem căn lành do pháp thí nầy sinh ra, hồi hướng như vầy. Đó là: Khiến cho tất cả chúng sinh được diệu âm thanh thanh tịnh, được âm thanh nhẹ nhàng, được âm thanh trống trời, được vô lượng vô biên âm thanh không thể nghĩ bàn, được âm thanh đáng ưa thích, được âm thanh thanh tịnh, được âm thanh khắp cùng tất cả cõi Phật, được âm thanh trăm ngàn Na do tha bất khả thuyết công đức trang nghiêm, được âm thanh cao xa, được âm thanh rộng lớn.

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát tu hành hạnh Bồ Tát, lại đem đủ thứ căn lành do bố thí pháp sinh ra, vì chúng sinh hồi hướng như vầy, đắc được bốn mươi lăm thứ âm thanh, đó là: Khiến cho tất cả chúng sinh đắc được diệu âm thanh thanh tịnh. Dùng âm thanh thanh nầy để giáo hoá chúng sinh, khiến cho chúng sinh, một khi lọt vào lỗ tai, thì được hạt giống đạo. Khiến cho tất cả chúng sinh, đắc được âm thanh nhẹ nhàng, làm cho chúng sinh nghe được, tâm vui vẻ thành phục. Chúng ta phàm phu nói ra âm thanh thô cứng giống như khúc gỗ, khiến cho người nghe cảm giác chẳng có nhu hoà êm tai. Khi giáo hoá chúng sinh, thì phải dùng âm thanh từ bi nhẹ nhàng, không thể dùng âm thanh mạnh bạo chát tai. Khiến cho tất cả chúng sinh đắc được âm thanh trống trời, tiếng rất là thanh thoát, khiến cho chúng sinh nghe được, rất là êm tai mà sinh tâm hoan hỉ. khiến cho tất cả chúng sinh, đắc được vô lượng vô biên âm thanh không thể nghĩ bàn, âm thanh đó khiến cho người nghe được có thể ngộ đạo. Khiến cho tất cả chúng sinh, đắc được âm thanh đáng ưa thích, đặc biệt u nhã, khiến cho người nghe vui vẻ thoải mái, giống như sự khai ngộ, khoát nhiên quán thông. Khiến cho tất cả chúng sinh, đắc được âm thanh thanh tịnh, chẳng có chút âm thanh nhiễm ô nào. Khiến cho tất cả chúng sinh, đắc được âm thanh khắp cùng tất cả cõi Phật, âm thanh đó bất cứ là ở đâu, đều nghe được rõ ràng thanh tịnh, giống như ở trước mặt. Khiến cho tất cả chúng sinh, đắc được âm thanh trăm ngàn vạn ức Na do tha bất khả thuyết công đức trang nghiêm, âm thanh đó có thể trang nghiêm tất cả thế giới, đều có âm thanh tốt đẹp. Khiến cho tất cả chúng sinh, đắc được âm thanh cao xa, âm thanh đó có thể vang xa đến ba ngàn đại thiên thế giới. Khiến cho tất cả chúng sinh, đắc được âm thanh rộng lớn, âm thanh đó tận hư không khắp pháp giới, đều có thể nghe được.

 

Đắc diệt nhất thiết tán loạn âm, đắc sung mãn Pháp giới âm, đắc nhiếp thủ nhất thiết chúng sanh ngữ ngôn âm. đắc nhất thiết chúng sanh vô biên âm thanh trí, đắc nhất thiết thanh tịnh ngữ ngôn âm thanh trí, đắc vô lượng ngữ ngôn âm thanh trí, đắc tối tự tại âm nhập nhất thiết âm thanh trí. đắc nhất thiết thanh tịnh trang nghiêm âm, đắc nhất thiết thế gian Vô yếm túc âm, đắc cứu cánh bất hệ chúc nhất thiết thế gian âm, đắc hoan hỉ âm, đắc Phật thanh tịnh ngữ ngôn âm, đắc thuyết nhất thiết Phật Pháp viễn ly si ế danh xưng phổ văn âm, đắc lệnh nhất thiết chúng sanh đắc nhất thiết pháp đà la ni trang nghiêm âm, đắc thuyết nhất thiết vô lượng chủng pháp âm

Được âm thanh diệt tất cả sự tán loạn. Được âm thanh đầy khắp pháp giới. Được âm thanh nhiếp lấy tất cả ngôn ngữ của chúng sinh. Được trí huệ biết vô biên âm thanh của tất cả chúng sinh. Được trí âm thanh tất cả ngôn ngữ thanh tịnh. Được trí âm thanh vô lượng ngôn ngữ. Được âm thanh tự tại nhất, vào tất cả trí âm thanh. Được âm thanh tất cả thanh tịnh trang nghiêm. Được âm thanh tất cả thế gian không nhàm đủ. Được âm thanh rốt ráo không ràng buộc tất cả thế gian. Được âm thanh hoan hỉ. Được âm thanh ngôn ngữ thanh tịnh của Phật. Được âm thanh nói tất cả Phật pháp xa lìa ngu si che đậy danh xưng đồn khắp. Được âm thanh khiến cho tất cả chúng sinh được tất cả pháp Đà la ni trang nghiêm. Được âm thanh nói tất cả vô lượng thứ pháp.

Giảng: Khiến cho tất cả chúng sinh, đắc được âm thanh diệt trừ tất cả sự tán loạn, làm cho người nghe liền nhập vào cảnh giới chánh định chánh thọ. Khiến cho tất cả chúng sinh, đắc được âm thanh đầy khắp pháp giới, làm cho người nghe lập tức có thể khai mở đại trí huệ. Khiến cho tất cả chúng sinh, đắc được âm thanh nhiếp lấy tất cả ngôn ngữ của chúng sinh, làm cho người nghe, phân biệt được đó là ngôn ngữ của loại chúng sinh nào, nghe được rất rõ ràng. Khiến cho tất cả chúng sinh, đắc được trí huệ biết vô biên âm thanh của tất cả chúng sinh, tức là con muỗi ca xướng, con kiến nói pháp, đều nghe hiểu được.

Khiến cho tất cả chúng sinh, đắc được trí huệ âm thanh tất cả ngôn ngữ thanh tịnh; thứ trí huệ nầy rất thanh tịnh, không có tư tưởng tạp nhiễm. Khiến cho tất cả chúng sinh, đắc được trí huệ âm thanh vô lượng ngô ngữ; thứ trí huệ nầy vô lượng vô biên, không cùng tận. Khiến cho tất cả chúng sinh, đắc được âm thanh tự tại nhất; thứ âm thanh nầy nhậm vận tự tại, viên dung vô ngại. Khiến cho tất cả chúng sinh, đắc được trí huệ âm thanh vào được tất cả âm thanh, bất cứ ngôn ngữ và âm thanh của loại chúng sinh nào, cũng đều hiểu rõ được, chẳng có khó khăn gì. Khiến cho tất cả chúng sinh, đắc được âm thanh tất cả thanh tịnh trang nghiêm; thứ âm thanh nầy rất là êm tai, làm cho người nghe có cảm giác an lạc thoải mái.

Khiến cho tất cả chúng sinh, đắc được âm thanh tất cả thế gian không nhàm đủ; thứ âm thanh nầy rất hay vô cùng, làm cho người nghe cảm giác không đầy đủ, càng nghe càng hay, không khi nào biết chán. Khiến cho tất cả chúng sinh, đắc được âm thanh rốt ráo không ràng buộc tất cả thế gian; thứ âm thanh nầy rất giải thoát, chẳng có sự ràng buộc. Khiến cho tất cả chúng sinh, đắc được âm thanh hoan hỉ; thứ âm thanh nầy đặc biệt vui vẻ, làm cho người nghe, không tự chủ được tay chân nhảy múa lên. Khiến cho tất cả chúng sinh, đắc được âm thanh ngôn ngữ thanh tịnh của Phật; thứ âm thanh nầy đặc biệt thanh tịnh, làm cho người nghe không khởi tạp niệm, chẳng có vọng tưởng.

Khiến cho tất cả chúng sinh, đắc được âm thanh nói tất cả Phật pháp, xa lìa ngu si che đậy danh xưng đồn khắp; thứ âm thanh nầy làm cho người nghe, vĩnh viễn lìa khỏi tất cả sự ngu si và màng mắt bị che đậy, sinh ra trí huệ, diễn nói Phật pháp. Khiến cho tất cả chúng sinh, đắc được âm thanh tất cả đà la ni trang nghiêm; thứ âm thanh nầy rất là trang nghiêm, làm cho người nghe có thể tổng tất cả pháp, trì vô lượng nghĩa. Khiến cho tất cả chúng sinh, đắc được âm thanh nói tất cả vô lượng thứ pháp; thứ âm thanh nầy diệu không thể tả, làm cho người nghe có thể diễn nói Kinh Hoa Nghiêm Đại Phương Quảng Phật. Kinh Hoa Nghiêm là vua trong các Kinh, Kinh nầy bao la vạn tượng, do đó:

“Vô thử bất tùng pháp giới lưu
Vô bất hoàn thử pháp giới”

Nghĩa là:
Không có gì chẳng phải phát xuất từ pháp giới
Không có gì chẳng trở về pháp giới.

 

Đắc phổ chí pháp giới vô lượng chúng hội đạo tràng âm, đắc phổ nhiếp trì bất khả tư nghị Pháp Kim cương cú âm, đắc khai thị nhất thiết pháp âm, đắc năng thuyết bất khả thuyết tự cú sái biệt Trí Tạng âm, đắc diễn thuyết nhất thiết pháp vô sở trước bất đoạn âm, đắc nhất thiết pháp quang minh chiếu diệu âm, đắc năng lệnh nhất thiết thế gian thanh tịnh cứu cánh chí ư nhất thiết trí âm, đắc phổ nhiếp nhất thiết pháp cú nghĩa âm, đắc thần lực hộ trì tự tại vô ngại âm, đắc đáo nhất thiết thế gian bỉ ngạn trí âm. Hựu dĩ thử thiện căn, lệnh nhất thiết chúng sanh, đắc bất hạ liệt âm, đắc vô bố úy âm, đắc vô nhiễm trước âm, đắc nhất thiết chúng hội đạo tràng hoan hỉ âm, đắc tùy thuận mỹ diệu âm, đắc thiện thuyết nhất thiết Phật Pháp âm, đắc đoạn nhất thiết chúng sanh nghi niệm giai lệnh giác ngộ âm, đắc cụ túc biện tài âm, đắc phổ giác ngộ nhất thiết chúng sanh trường dạ thụy miên âm.

Được âm thanh đến khắp pháp giới vô lượng chúng đạo tràng. Được âm thanh nhiếp trì khắp câu pháp kim cang không thể nghĩ bàn. Được âm thanh khai thị tất cả các pháp. Được âm thanh trí tạng có thể nói bất khả thuyết chữ câu khác nhau. Được âm thanh diễn nói tất cả pháp không chấp trước không ngừng. Được âm thanh tất cả pháp quang minh chiếu sáng. Được âm thanh hay khiến tất cả thế gian thanh tịnh rốt ráo đến nơi nhất thiết trí. Được âm thanh nhiếp khắp tất cả pháp câu nghĩa. Được âm thanh thần lực hộ trì tự tại vô ngại. Được âm thanh trí huệ đến tất cả thế gian bờ bên kia. Lại đem căn lành nầy, khiến cho tất cả chúng sinh được âm thanh không hạ liệt. Được âm thanh không sợ hãi. Được âm thanh không nhiễm trước. Được âm thanh tất cả chúng hội đạo tràng hoan hỉ. Được âm thanh hay đẹp tuỳ thuận. Được âm thanh khéo nói tất cả Phật pháp. Được âm thanh hay dứt niệm nghi hoặc của tất cả chúng sinh, đều làm cho họ giác ngộ. Được âm thanh đầy đủ biện tài. Được âm thanh giác ngộ khắp tất cả chúng sinh ngủ trong đêm dài.

Giảng: Khiến cho tất cả chúng sinh, đắc được âm thanh đến khắp pháp giới vô lượng chúng hội đạo tràng. Khiến cho tất cả chúng sinh, đắc được âm thanh khắp nhiếp trì câu pháp kim cang không thể nghĩ bàn. Khiến cho tất cả chúng sinh, đắc được âm thanh khai thị tất cả các pháp. Khiến cho tất cả chúng sinh, đắc được âm thanh trí tạng nói bất khả thuyết chữ câu khác biệt. Khiến cho tất cả chúng sinh, đắc được âm thanh diễn nói tất cả các pháp không chấp trước không ngừng. Khiến cho tất cả chúng sinh, đắc được âm thanh tất cả pháp quang minh chiếu sáng. Khiến cho tất cả chúng sinh, đắc được âm thanh có thể khiến cho thế gian thanh tịnh rốt ráo, đến nơi nhất thiết trí. Khiến cho tất cả chúng sinh, đắc được âm thanh nhiếp khắp tất cả câu nghĩa lý của pháp, nghĩa là:

“Một pháp nhiếp vô lượng pháp
Vô lượng pháp quy về một pháp”.

Khiến cho tất cả chúng sinh, đắc được âm thanh thần lực của chư Phật hộ trì tự tại vô ngại. Khiến cho tất cả chúng sinh, đắc được âm thanh trí huệ tất cả thế gian bờ bên kia. Khiến cho tất cả chúng sinh, đắc được âm thanh.

Lại đem căn lành nầy, khiến cho tất cả chúng sinh, đắc được âm thanh không hạ liệt. Khiến cho tất cả chúng sinh, đắc được âm thanh không sợ hãi. Khiến cho tất cả chúng sinh, đắc được âm thanh không nhiễm trước. Khiến cho tất cả chúng sinh, đắc được âm thanh tất cả chúng hội đạo tràng hoan hỉ. Khiến cho tất cả chúng sinh, đắc được âm thanh tuỳ thuận tốt đẹp. Khiến cho tất cả chúng sinh, đắc được âm thanh khéo nói tất cả Phật pháp. Khiến cho tất cả chúng sinh, đắc được âm thanh hay dứt niệm nghi hoặc của tất cả chúng sinh, đều khiến cho họ giác ngộ. Khiến cho tất cả chúng sinh, đắc được âm thanh đầy đủ biện tài. Khiến cho tất cả chúng sinh, đắc được âm thanh giác ngộ khắp tất cả chúng sinh ngủ trong đêm dài.

 

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát phục dĩ chư thiện căn như thị hồi hướng, sở vị: nguyện nhất thiết chúng sanh đắc ly chúng quá ác thanh tịnh Pháp thân, nguyện nhất thiết chúng sanh đắc ly chúng quá ác tịnh diệu công đức, nguyện nhất thiết chúng sanh đắc ly chúng quá ác thanh tịnh diệu tướng, nguyện nhất thiết chúng sanh đắc ly chúng quá ác thanh tịnh nghiệp quả, nguyện nhất thiết chúng sanh đắc ly chúng quá ác thanh tịnh nhất thiết trí tâm, nguyện nhất thiết chúng sanh đắc ly chúng quá ác vô lượng thanh tịnh Bồ-đề tâm, nguyện nhất thiết chúng sanh đắc ly chúng quá ác liễu tri chư căn thanh tịnh phương tiện, nguyện nhất thiết chúng sanh đắc ly chúng quá ác thanh tịnh tín giải, nguyện nhất thiết chúng sanh đắc ly chúng quá ác thanh tịnh cần tu vô ngại hạnh nguyện, nguyện nhất thiết chúng sanh đắc ly chúng quá ác thanh tịnh chánh niệm, trí tuệ biện tài.

Phật tử ! Đại Bồ Tát lại đem các căn lành hồi hướng như vầy. Đó là: Nguyện tất cả chúng sinh được pháp thân thanh tịnh lìa các lỗi ác. Nguyện tất cả chúng sinh được công đức thanh tịnh vi diệu lìa các lỗi ác. Nguyện tất cả chúng sinh được tướng tốt thanh tịnh lìa các lỗi ác. Nguyện tất cả chúng sinh được nghiệp quả thanh tịnh lìa các lỗi ác. Nguyện tất cả chúng sinh được tâm nhất thiết trí thanh tịnh lìa các lỗi ác. Nguyện tất cả chúng sinh được vô lượng tâm bồ đề thanh tịnh lìa các lỗi ác. Nguyện tất cả chúng sinh được phương tiện thanh tịnh biết rõ các căn lìa các lỗi ác. Nguyện tất cả chúng sinh được tin hiểu thanh tịnh lìa các lỗi ác. Nguyện tất cả chúng sinh được siêng tu hạnh nguyện thanh tịnh vô ngại lìa các lỗi ác. Nguyện tất cả chúng sinh được trí huệ biện tài chánh niệm thanh tịnh lìa các lỗi ác.

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát tu hành Bồ Tát đạo, lại đem đủ thứ căn lành của mình tu tập, vì chúng sinh hồi hướng, phát ra mười nguyện lớn như vầy. Đó là:

  1. Nguyện tất cả chúng sinh đắc được pháp thân thanh tịnh vi diệu, lìa khỏi tất cả lỗi ác, lìa lỗi ác tức là làm cho thân miệng ý ba nghiệp thanh tịnh.
  2. Nguyện tất cả chúng sinh đắc được công đức thanh tịnh vi diệu, lìa khỏi tất cả lỗi ác.
  3. Nguyện tất cả chúng sinh đắc được tướng tốt thanh tịnh, lìa khỏi tất cả lỗi ác.
  4. Nguyện tất cả chúng sinh đắc được nghiệp quả thanh tịnh, lìa khỏi tất cả lỗi ác.
  5. Nguyện tất cả chúng sinh đắc được tâm nhất thiết trí huệ thanh tịnh, lìa khỏi tất cả lỗi ác.
  6. Nguyện tất cả chúng sinh đắc được vô lượng tâm bồ đề thanh tịnh, lìa khỏi tất cả lỗi ác.
  7. Nguyện tất cả chúng sinh đắc được phương tiện thanh tịnh biết rõ các căn, lìa khỏi tất cả lỗi ác.
  8. Nguyện tất cả chúng sinh đắc được tin hiểu thanh tịnh, lìa khỏi tất cả lỗi ác.
  9. Nguyện tất cả chúng sinh đắc được siêng tu hạnh nguyện thanh tịnh viên dung vô ngại, lìa khỏi tất cả lỗi ác.
  10. Nguyện tất cả chúng sinh đắc được trí huệ biện tài chánh niệm thanh tịnh, lìa khỏi tất cả lỗi ác.

Các vị mọi người đều không nhận thức được Chùa Kim Sơn. Có người nói: “Tôi nhận thức được Chùa Kim Sơn có vị Thầy người Trung Quốc, truyền Phật giáo Trung Quốc, tu rất là khổ hạnh”. Song, bạn chẳng nhận thức được rõ ràng, Chùa Kim Sơn chẳng phải là Phật giáo Trung Quốc, Chùa Kim Sơn là Phật giáo đại biểu cho thế giới, Phật giáo đại biểu cho pháp giới, chứ chẳng phải Phật giáo đại biểu cho Trung Quốc. Nếu Trung Quốc có loại Phật giáo nầy, thì Phật giáo Trung Quốc sẽ không bị diệt vong. Bất cứ tại nơi nào, nếu có loại Phật giáo nầy, tức là chánh pháp trụ thế, Phật giáo sẽ không bị diệt vong.

Chùa Kim Sơn chẳng phải là Phật giáo Trung Quốc, mà là Phật giáo thế giới. Tại sao nói như vậy? Vì chùa chiền Phật giáo Trung Quốc chẳng giống như người của chùa Kim Sơn, ngày ăn một bữa, ngủ ngồi, chẳng phải toàn bộ người trong chùa. Ngày ăn một bữa cũng có khoảng mười hai người mà thôi, có ba người ăn một bữa, đã không dễ dàng chịu được. Ngồi ngủ chỉ có một người mà thôi; hoặc có hai người, không quá ba người; hoặc lúc thời kỳ đả thiền thất, mọi người phát tâm, tối ngủ ngồi, tình hình như vậy có lúc có, nhưng bình thường không phải là ngủ ngồi trường kỳ không nằm, lưng không dính đất.

Sự tu hành của chùa Kim Sơn, có thể nói khổ nhất trên thế giới, chẳng những người xuất gia ngày ăn một bữa, đêm ngủ ngồi, mà những người tại gia ở trong chùa, có người cũng ngày ăn một bữa, đêm cũng ngủ ngồi. Người xuất gia đều giữ giới luật nầy, người tại gia có thể tuỳ tiện một chút. Nhưng vì muốn chấm dứt sinh tử, không đem tinh thần tu hành chân chánh ra, cuối cùng sẽ không có sự thành tựu. Các vị mọi người phải nhận thức chùa Kim Sơn cho rõ ràng, chùa Kim Sơn là Phật giáo chánh pháp đại biểu cho tận hư không khắp pháp giới. Phật giáo của chùa Kim Sơn, nguyện kiến lập cơ sở Phật giáo chánh quyết vững chắt tại tây phương, vĩnh viễn đều là chánh pháp, chẳng có mạt pháp, đây là tông chỉ của chùa Kim Sơn.

 

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát phục dĩ chư thiện căn, vi nhất thiết chúng sanh như thị hồi hướng: nguyện đắc chủng chủng thanh tịnh diệu thân, sở vị: quang minh thân, ly trược thân, vô nhiễm thân, thanh tịnh thân, cực thanh tịnh thân, ly trần thân, cực ly trần thân, ly cấu thân, khả ái lạc thân, vô chướng ngại thân.

Phật tử ! Đại Bồ Tát lại đem các căn lành vì tất cả chúng sinh hồi hướng như vầy. Nguyện được đủ thứ thân đẹp thanh tịnh. Đó là: Thân quang minh. Thân lìa ô trược. Thân không nhiễm. Thân thanh tịnh. Thân rất thanh tịnh. Thân lìa trần cấu. Thân rất lìa trần cấu. Thân lìa cấu bẩn. Thân đáng ưa thích. Thân không chướng ngại.

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát tu hành Bồ Tát đạo, lại đem đủ thứ căn lành của Ngài tu được, vì chín pháp giới chúng sinh mà hồi hướng như vầy, nguyện được đủ thứ thân đẹp thanh tịnh. Nay dùng mười thứ thân đẹp thanh tịnh để làm đại biểu, đó là:

  1. Nguyện tất cả chúng sinh, đắc được pháp thân tốt đẹp quang minh.
  2. Nguyện tất cả chúng sinh, đắc được pháp thân tốt đẹp lìa ô trược.
  3. Nguyện tất cả chúng sinh, đắc được pháp thân tốt đẹp không nhiễm.
  4. Nguyện tất cả chúng sinh, đắc được pháp thân tốt đẹp thanh tịnh.
  5. Nguyện tất cả chúng sinh, đắc được pháp thân tốt đẹp rất thanh tịnh.
  6. Nguyện tất cả chúng sinh, đắc được pháp thân tốt đẹp lìa trần cấu (phiền não).
  7. Nguyện tất cả chúng sinh, đắc được pháp thân tốt đẹp rất lìa trần cấu (tập khí).
  8. Nguyện tất cả chúng sinh, đắc được pháp thân tốt đẹp lìa cấu bẩn (vô minh).
  9. Nguyện tất cả chúng sinh, đắc được pháp thân tốt đẹp đáng ưa thích (thanh tịnh).
  10. Nguyện tất cả chúng sinh, đắc được pháp thân tốt đẹp không chướng ngại (giải thoát).

 

Ư nhất thiết thế giới hiện chư nghiệp tượng, ư nhất thiết thế gian hiện ngôn thuyết tượng, ư nhất thiết cung điện hiện an lập tượng. Như tịnh minh kính, chủng chủng sắc tượng tự nhiên hiển hiện, thị chư chúng sanh Đại bồ-đề hạnh, thị chư chúng sanh thậm thâm diệu pháp, thị chư chúng sanh chủng chủng công đức, thị chư chúng sanh tu hành chi đạo, thị chư chúng sanh thành tựu chi hạnh, thị chư chúng sanh Bồ-tát hạnh nguyện, thị chư chúng sanh ư nhất thế giới, nhất thiết thế giới Phật hưng ư thế, thị chư chúng sanh nhất thiết chư Phật thần thông biến hóa, thị chư chúng sanh nhất thiết Bồ Tát bất khả tư nghị giải thoát uy lực, thị chư chúng sanh thành mãn Phổ Hiền Bồ Tát hạnh nguyện nhất thiết trí tánh.

Nơi tất cả thế giới hiện các nghiệp hình tượng. Nơi tất cả thế gian hiện lời nói hình tượng. Nơi tất cả cung điện hiện an lập hình tượng. Như gương sáng sạch, đủ thứ màu sắc hình tượng tự nhiên hiển hiện. Mở bày cho các chúng sinh hạnh đại bồ đề. Mở bày cho các chúng sinh diệu pháp thâm sâu. Mở bày cho các chúng sinh đủ thứ công đức. Mở bày cho các chúng sinh con đường tu hành. Mở bày cho các chúng sinh hạnh thành tựu. Mở bày cho các chúng sinh hạnh nguyện Bồ Tát. Mở bày cho các chúng sinh, nơi một thế giới, tất cả thế giới, Phật đều hiện ra đời. Mở bày cho các chúng sinh tất cả thần thông biến hoá của chư Phật. Mở bày cho các chúng sinh giải thoát oai lực của tất cả Bồ Tát không thể nghĩ bàn. Mở bày cho các chúng sinh hạnh nguyện tánh nhất thiết trí thành tựu viên mãn của Bồ Tát Phổ Hiền.

Giảng: Bồ Tát tại tất cả thế giới, tuỳ thuận nghiệp của tất cả chúng sinh, mà hiện ra tất cả nghiệp tượng. Tại tất cả thế gian, khéo nói pháp, hiện ra tất cả ngôn ngữ tượng. Tại tất cả cung điện, hiện ra tất cả an lập tượng, khiến cho cung điện an ổn, giống như tấm gương sáng sạch, đủ thứ màu sắc hình tượng, tự nhiên hiển hiện ra. Bồ Tát mở bày cho tất cả chúng sinh, tu hành hạnh đại bồ đề như thế nào? Mở bày cho tất cả chúng sinh tu hành pháp vi diệu thâm sâu như thế nào? Mở bày cho tất cả chúng sinh đủ thứ công đức như thế nào? Mở bày cho tất cả chúng sinh tu hành đạo Bồ Tát như thế nào? Mở bày cho tất cả chúng sinh thành tựu hạnh bồ đề như thế nào? Mở bày cho tất cả chúng sinh tu tập hạnh nguyện Bồ Tát như thế nào? Mở bày cho tất cả chúng sinh, chẳng những tại một thế giới có Phật thị hiện ra đời, mà trong tất cả thế giới, đều có Phật thị hiện ra đời. Mở bày cho tất cả chúng sinh mười phương chư Phật, đều có công đức thần thông biến hoá. Mở bày cho tất cả chúng sinh tất cả Bồ Tát, đều có đại oai thần lực giải thoát không thể nghĩ bàn. Mở bày cho tất cả chúng sinh đại hạnh đại nguyện, tánh nhất thiết trí thành tựu viên mãn của Bồ Tát Phổ Hiền tu.

 

Bồ-Tát Ma-ha-tát dĩ như thị đẳng vi diệu tịnh thân, phương tiện nhiếp thủ nhất thiết chúng sanh, tất lệnh thành tựu thanh tịnh công đức nhất thiết trí thân.

Đại Bồ Tát dùng thân thanh tịnh tốt đẹp như vậy, phương tiện nhiếp lấy tất cả chúng sinh, đều khiến cho thành tựu thân nhất thiết trí công đức thanh tịnh.

Giảng: Đại Bồ Tát dùng pháp thân thanh tịnh tốt đẹp đó, dùng đủ thứ pháp môn phương tiện, để nhiếp lấy giáo hoá tất cả chúng sinh, đều khiến cho thành tựu công đức thanh tịnh, đắc được diệu pháp thân nhất thiết trí huệ.

 

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát phục dĩ pháp thí sở sanh thiện căn như thị hồi hướng: nguyện thân tùy trụ nhất thiết thế giới tu Bồ Tát hạnh, chúng sanh kiến giả giai tất bất hư, phát Bồ-đề tâm vĩnh vô thoái chuyển, thuận chân thật nghĩa bất khả khuynh động. ư nhất thiết thế giới, tận vị lai kiếp, trụ Bồ Tát đạo nhi vô bì yếm. đại bi quân phổ, lượng đồng Pháp giới. Tri chúng sanh căn, ưng thời thuyết Pháp, thường bất hưu tức. ư thiện tri thức, tâm thường chánh niệm, nãi chí bất xả nhất sát-na khoảnh. Nhất thiết chư Phật thường hiện tại tiền, tâm thường chánh niệm vị tằng tạm giải, tu chư thiện căn vô hữu hư ngụy. Trí chư chúng sanh ư nhất thiết trí, lệnh Bất-thoái-chuyển. Cụ túc nhất thiết Phật pháp quang minh, trì Đại pháp vân, thọ đại pháp vũ, tu Bồ Tát hạnh.

Phật tử ! Đại Bồ Tát lại đem căn lành do bố thí pháp sinh ra hồi hướng như vầy: Nguyện thân tuỳ trụ tất cả thế giới, tu hạnh Bồ Tát, chúng sinh thấy được, thảy đều không luống qua, phát tâm bồ đề, vĩnh viễn không thối chuyển, thuận theo nghĩa chân thật, không thể lay động. Nơi tất cả thế giới, hết kiếp vị lai, trụ đạo Bồ Tát mà không nhàm mỏi. Đại bi khắp cùng lượng đồng pháp giới, biết căn tánh chúng sinh, đúng thời nói pháp, thường không ngừng nghỉ. Nơi thiện tri thức tâm thường chánh niệm, cho đến không xả bỏ dù khoảng một sát na. Tất cả chư Phật thường hiện ở trước, tâm thường chánh niệm, chưa từng tạm giải đãi. Tu các căn lành không có hư nguỵ, đặt để chúng sinh nơi nhất thiết trí, khiến cho họ không thối chuyển, đầy đủ tất cả Phật pháp quang minh, trì mây pháp lớn, thọ mưa pháp lớn, tu hạnh Bồ Tát.

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát tu hành Bồ Tát đạo, lại đem đủ thứ căn lành do bố thí pháp sinh ra, hồi hướng như vầy: Bồ Tát nguyện thân tuỳ theo ở trong tất cả thế giới, thường tu hạnh của Bồ Tát tu. Tất cả chúng sinh thấy được Bồ Tát, đều được độ, không luống qua, mất đi cơ hội. Phát tâm đại bồ đề, vĩnh viễn không thối lùi về sau. Thuận theo nghĩa lý chân thật mà tu hành, bất cứ gặp cảnh giới gì, cũng đều không lay động. Tại tất cả thế giới, hết kiếp vị lai, đều tu hạnh Bồ Tát, vĩnh viễn không nhàm mỏi, trọn không ngừng nghỉ. Bồ Tát tuyệt đối không có tư tưởng như vầy: “Tôi hành Bồ Tát đạo quá khổ ! Tôi phải nghỉ ngơi, tôi không hành Bồ Tát đạo nữa”! Tâm đại bi của Bồ Tát là bình đẳng. Do đó: “Phật quang chiếu khắp, mưa pháp nhuận khắp”. Từ bi bình đẳng đối đãi với tất cả chúng sinh, ban cho tất cả chúng sinh sự an vui, nhổ hết khổ não của tất cả chúng sinh, cho nên mới nói là “đại bi khắp cùng”.

Tâm lượng của Bồ Tát, đồng như pháp giới, vô lượng vô biên. Biết được căn tánh của tất cả chúng sinh, người nào nên dùng căn lành nào độ được, liền dùng thứ pháp đó để độ. Bồ Tát đúng thời thì nói pháp, khiến cho chúng sinh nghe pháp mà khai ngộ. Bồ Tát giáo hoá chúng sinh, chẳng có lúc nào ngừng nghỉ; cho dù tan xương nát thịt, cũng không từ nan, đó là tinh thần giáo hoá chúng sinh của Bồ Tát. Bồ Tát đối với chúng ta chúng sinh từ bi như thế, chúng ta phải báo ân Bồ Tát. Chúng sinh đối với thiện tri thức, nên gần gũi cầu giáo hoá. Tâm thường chánh niệm biết ân đức của thiện tri thức. Khi Bồ Tát hành Bồ Tát đạo, thường gần gũi thiện tri thức, thường nghĩ nhớ đến thiện tri thức, cho đến khoảng một sát na, cũng không xả bỏ thiện tri thức. Nếu được như thế thì mười phương chư Phật, thường hiện ra ở trước mặt, cho nên được quang minh của Phật chiếu khắp. Trong tâm thường chánh niệm, nguyện thực hành Bồ Tát đạo, cứu hộ chúng sinh, chấm dứt sinh tử, thoát khỏi ba cõi, chưa từng sinh tâm giải đãi dù khoảng một phút một giây.

Tu hành tất cả căn lành, chẳng có sự hư nguỵ, chân thật tu hành. Chúng ta Phật giáo đồ, bất cứ làm việc gì, phải chân thật mà làm, đừng có hành vi hư nguỵ, khẩu thị tâm phi để gạt người. Nếu có lợi thì làm, không lợi thì không làm, đó là giả mạo tác phong của Phật giáo đồ. Bồ Tát độ tất cả chúng sinh đến bờ bên kia, đắc được nhất thiết trí huệ, biết bốn đức Niết Bàn: Thường, lạc, ngã, tịnh. Khiến cho tất cả chúng sinh vĩnh viễn không thối chuyển nơi Bồ Tát đạo, đầy đủ tất cả Phật pháp quang minh. Trì mây pháp lớn, mưa pháp vũ lớn, tu hành Bồ Tát đạo, tích tập đủ thứ căn lành, vì chúng sinh hồi hướng.

 

Nhập nhất thiết chúng sanh, nhập nhất thiết Phật sát, nhập nhất thiết chư pháp, nhập nhất thiết tam thế, nhập nhất thiết chúng sanh nghiệp báo trí, nhập nhất thiết Bồ Tát thiện xảo phương tiện trí, nhập nhất thiết Bồ Tát xuất sanh trí, nhập nhất thiết Bồ Tát thanh tịnh cảnh giới trí, nhập nhất thiết Phật tự tại thần thông, nhập nhất thiết vô biên pháp giới, ư thử an trụ, tu Bồ Tát hạnh.

Vào trong tất cả chúng sinh. Vào trong tất cả cõi Phật. Vào trong tất cả các pháp. Vào trong tất cả ba đời. Vào nghiệp báo trí huệ của tất cả chúng sinh. Vào trí huệ phương tiện khéo léo của tất cả Bồ Tát. Vào trí huệ sinh ra tất cả Bồ Tát. Vào trí huệ cảnh giới thanh tịnh của tất cả Bồ Tát. Vào thần thông tự tại của tất cả chư Phật. Vào tất cả vô biên pháp giới. Nơi đó an trụ, tu hạnh Bồ Tát.

Giảng: Bồ Tát có thể vào trong tất cả chúng sinh, quán căn cơ vì người nói pháp. Tuỳ loài thị hiện giáo hoá chúng sinh. Bồ Tát có thể phân biệt được vô số, đi đến mười phương cõi nước của chư Phật, chứng được thật tướng của tất cả các pháp, thông đạt ba đời. Ba đời không lìa một niệm, một niệm đầy đủ ba đời. Có trí huệ biết rõ tất cả chúng sinh, khởi hoặc, tạo nghiệp, thọ báo. Chứng được trí huệ phương tiện khéo léo của tất cả Bồ Tát; chứng được trí huệ thị hiện sinh tử của tất cả Bồ Tát. Cảnh giới của Bồ Tát là thân tại trần lao, mà tâm lìa trần lao, không nhiễm bụi trần.

Bồ Tát có thần thông trí huệ, ở trong đời ác năm trược, có thể biến thành thế giới Cực Lạc thanh tịnh. Tại phàm phu mà nhìn, thì là thế giới ô nhiễm đời ác năm trược, tại Bồ Tát mà nhìn thế giới đời ác năm trược, thì là báu đẹp trang nghiêm, rất thanh tịnh, Bồ Tát có cảnh giới trí huệ thanh tịnh nầy. Lại có thể chứng được thần thông diệu dụng nhậm vận tự tại viên dung vô ngại của mười phương chư Phật, lại có thể vào trong cảnh giới tận hư không khắp pháp giới, an trụ tại pháp giới nầy, tu hành hạnh của Bồ Tát tu, tức là tự lợi lợi tha, tự độ độ tha, tự giác giác tha, thời khắc vì giáo hoá chúng sinh mà nỗ lực, chẳng có khi nào ngừng nghỉ.

 

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát phục dĩ pháp thí sở tu thiện căn như thị hồi hướng: nguyện nhất thiết Phật sát giai tất thanh tịnh, dĩ bất khả thuyết bất khả thuyết trang nghiêm cụ nhi trang nghiêm chi. Nhất nhất Phật sát, kỳ lượng quảng đại, đồng ư Pháp giới, thuần thiện vô ngại, thanh Tịnh Quang minh, chư Phật ư trung hiện thành chánh giác. Nhất Phật sát trung thanh tịnh cảnh giới, tất năng hiển Hiện-Nhất-Thiết Phật sát. Như nhất Phật sát, nhất thiết Phật sát diệc phục như thị.

Phật tử ! Đại Bồ Tát lại đem căn lành tu bố thí pháp hồi hướng như vầy: Nguyện tất cả cõi Phật thảy đều thanh tịnh, dùng bất khả thuyết bất khả thuyết đồ trang nghiêm để trang nghiêm. Mỗi mỗi cõi Phật, lượng rộng lớn đồng với pháp giới, thuần thiện quang minh thanh tịnh vô ngại. Chư Phật ở trong đó hiện thành Chánh Giác. Cảnh giới thanh tịnh ở trong một cõi Phật, đều hiển hiện tất cả cõi Phật. Như một cõi Phật, tất cả cõi Phật cũng lại như vậy.

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát tu hành Bồ Tát đạo, lại đem đủ thứ căn lành tu tập bố thí pháp, vì chúng sinh hồi hướng như vầy: Nguyện tất cả cõi nước chư Phật, đều thanh tịnh. Dùng bất khả thuyết bất khả thuyết đồ trang nghiêm để trang nghiêm. Mỗi cõi Phật, lượng rộng lớn vô biên đồng với pháp giới. Có nghiệp thiện thuần chánh, chẳng có mọi sự chường ngại, vừa thanh tịnh vừa sáng chói. Mười phương chư Phật ở trong cõi nước, thị hiện thành Phật, thị hiện Niết Bàn. Ở trong một cõi Phật, có cảnh giới thanh tịnh trang nghiêm, thảy đều hiển hiện tất cả cõi Phật. Giống như tấm gương, cùng chiếu sáng với nhau, cho nên một cõi Phật có thể hiện ra tất cả cõi Phật, tất cả cõi Phật trở về một cõi Phật, do đó:

“Một làm vô lượng
Vô lượng làm một”.

Một cõi Phật là như vậy, tất cả cõi Phật cũng lại như vậy.

 

Kỳ nhất nhất sát, tất dĩ đẳng Pháp giới vô lượng vô biên thanh tịnh diệu bảo trang nghiêm chi cụ nhi vi nghiêm sức.

Mỗi mỗi cõi đó, đều dùng vô lượng vô biên đồ báu đẹp, trang nghiêm thanh tịnh đồng pháp giới, để làm nghiêm sức.

Giảng: Mỗi cõi Phật, thảy đều dùng vô lượng vô biên đồ báu đẹp trang nghiêm thanh tịnh đồng pháp giới, để nghiêm sức cõi Phật đó, chẳng những một cõi Phật trang nghiêm như vậy, mà hết thảy cõi Phật, cũng đều như thế.

 

Sở vị: a-tăng-kì thanh tịnh bảo tọa, phu chúng bảo y. A-tăng-kì bảo trướng, bảo võng thùy bố. A-tăng-kì bảo cái, nhất thiết diệu bảo hỗ tương ánh triệt. A-tăng-kì Bảo Vân, phổ vũ chúng bảo. A-tăng-kì bảo hoa, chu biến thanh tịnh. A-tăng-kì chúng bảo sở thành lan, thuẫn, hiên, hạm, thanh tịnh trang nghiêm. A-tăng-kì bảo linh, thường diễn chư Phật vi diệu âm thanh, châu lưu Pháp giới. A-tăng-kì bảo liên hoa, chủng chủng bảo sắc khai phu vinh diệu. A-tăng-kì bảo thụ, châu táp hàng liệt, vô lượng diệu bảo dĩ vi hoa quả.

Đó là: A tăng kỳ toà báu thanh tịnh, trải bày các y báu. A tăng kỳ trướng báu, chung quanh có lưới báu thòng rũ xuống. A tăng kỳ lọng báu, có tất cả báu đẹp cùng nhau chiếu sáng. A tăng kỳ mây báu, đều mưa xuống các thứ báu. A tăng kỳ hoa báu, thảy đều thanh tịnh. A tăng kỳ bao lơn lan can làm bằng các thứ báu, trang nghiêm thanh tịnh. A tăng kỳ linh báu, thường vang ra âm thanh vi diệu của chư Phật, khắp cùng pháp giới. A tăng kỳ hoa sen báu, có đủ màu sắc báu, nở rộ chiếu sáng. A tăng kỳ cây báu, đều ngay hàng thẳng tắp, có hoa quả làm bằng vô lượng thứ báu đẹp.

Giảng: Có A tăng kỳ (vô lượng số) toà báu thanh tịnh, trên toà trải vô lượng y báu, để nghiêm sức. Lại có A tăng kỳ trướng báu, chung quanh đều có lưới báu thòng rũ xuống. Lại có A tăng kỳ lọng báu, trên lọng báu có vô số báu đẹp, ánh sáng chiếu nhau, do đó “Bá quang vạn đạo”, ánh sáng màu sắc làm loà cả mắt. Lại có A tăng kỳ mây báu, mưa xuống khắp tất cả báu đẹp. Lại có A tăng kỳ hoa báu, khắp cùng bốn phương rất là thanh tịnh. Lại có A tăng kỳ bao lơn lan can làm bằng các thứ báu, rất trang nghiêm thanh tịnh. Lại có A tăng kỳ linh báu, trong linh phát ra âm thanh thuyết pháp vi diệu của mười phương chư Phật, Phật có sáu mươi thứ âm thanh, các linh báu đó đều vang ra, âm thanh vang đến khắp cùng pháp giới. Lại có A tăng kỳ hoa sen báu, có đủ thứ màu sắc khác nhau, hoa nở rất tươi đẹp, toả ra ánh sáng. Lại có A tăng kỳ cây báu, ngay hàng thẳng lối, ngang nhìn cũng thành hàng, dọc nhìn cũng thành hàng, có hoa quả làm bằng vô lượng thứ báu đẹp.

 

A-tăng-kì bảo cung điện, vô lượng Bồ Tát chỉ trụ kỳ trung, a-tăng-kì bảo lâu các, quảng bác sùng lệ, duyên mậu viễn cận. A-tăng-kì bảo khước địch, đại bảo sở thành, trang nghiêm diệu hảo. A-tăng-kì bảo môn thát, diệu bảo anh lạc châu táp thùy bố. A-tăng-kì bảo song dũ, bất tư nghị bảo thanh tịnh trang nghiêm. A-tăng-kì bảo Ta-la, hình như bán nguyệt, chúng bảo tập thành. Như thị nhất thiết, tất dĩ chúng bảo nhi vi nghiêm sức, ly cấu thanh tịnh, bất khả tư nghị, vô phi Như Lai thiện căn sở khởi, cụ túc vô số Bảo Tạng trang nghiêm.

A tăng kỳ cung điện báu, có vô lượng Bồ Tát ở trong đó. A tăng kỳ lầu các báu, rộng lớn tốt đẹp, nối dài gần xa. A tăng kỳ hàng rào báu, làm bằng báu lớn, trang nghiêm tốt đẹp. A tăng kỳ cửa sổ báu, có chuỗi báu đẹp giăng bủa thòng rũ chung quanh. A tăng kỳ cửa lớn báu, trang nghiêm thanh tịnh không thể nghĩ bàn. A tăng kỳ đa la báu, hình bán nguyệt, làm bằng các thứ báu. Như vậy tất cả đều dùng các thứ báu để nghiêm sức, lìa cấu thanh tịnh, đâu chẳng phải là căn lành không thể nghĩ bàn của Như Lai sinh ra, đầy đủ vô số tạng báu trang nghiêm.

Giảng: Lại có A tăng kỳ cung điện báu, có vô số Bồ Tát ở trong đó. Lại có A tăng kỳ lầu các báu, rất rộng lớn, và mỹ lệ, từ gần cho đến xa, nối tiếp không ngừng. Lại có A tăng kỳ hàng rào báu, dùng báu lớn tạo thành, rất trang nghiêm tốt đẹp. Lại có A tăng kỳ cửa sổ báu, dùng chuỗi báu đẹp giăng bủa, thòng rũ bốn phía. Lại có A tăng kỳ cửa lớn báu, dùng báu đẹp không thể nghĩ bàn, thanh tịnh trang nghiêm đạo tràng. Lại có A tăng kỳ đa la báu hình bán nguyệt, làm bằng các thứ báu.

Đủ thứ báu ở trên vừa nói, mỗi thứ báu đều dùng các thứ báu để làm nghiêm sức, rất tốt đẹp, năm quang mười màu, sáng lạng chói mắt, rất hoành tráng, lìa khỏi tất cả bụi trần, hoàn toàn thanh tịnh. Thứ báu đẹp đó, biến hoá vô cùng, tâm không thể nghĩ, không thể luận bàn, chẳng cách chi hình dung được, thật là diệu không thể tả. Song, những báu đẹp đó, đều do căn lành của Như Lai sinh ra, do công đức của Như Lai tạo thành, đầy đủ vô số tạng báu trang nghiêm.

 

Phục hưũ a-tăng-kì bảo hà, lưu xuất nhất thiết thanh tịnh thiện Pháp. A-tăng-kì bảo hải, pháp thủy doanh mãn. A-tăng-kì bảo phân đà lợi hoa, thường xuất diệu pháp phân đà lợi thanh. A-tăng-kì bảo Tu-di sơn, trí tuệ sơn vương tú xuất thanh tịnh. A-tăng-kì bát lăng diệu bảo, bảo tuyến quán xuyên, nghiêm tịnh vô bỉ. A-tăng-kì Tịnh Quang bảo, thường phóng vô ngại Đại trí quang minh, phổ chiếu Pháp giới. A-tăng-kì bảo linh đạc, cánh tướng khấu kích, xuất diệu âm thanh.

Lại có A tăng kỳ sông báu, chảy ra tất cả pháp lành thanh tịnh. A tăng kỳ biển báu, chứa đầy nước pháp. A tăng kỳ hoa Phân đà lợi báu, thường vang ra tiếng diệu pháp Phân đà lợi. A tăng kỳ núi Tu Di báu, trí huệ sơn vương cao đẹp thanh tịnh. A tăng kỳ báu đẹp tám góc, xâu bằng dây báu trang nghiêm thanh tịnh không gì sánh bằng. A tăng kỳ quang minh báu thanh tịnh, thường phóng ra đại trí quang minh minh vô ngại, chiếu khắp pháp giới. A tăng kỳ linh và chuông báu, khua đánh lẫn nhau, vang ra tiếng rất hay.

Giảng: Lại có A tăng kỳ sông báu, chảy ra tất cả pháp lành thanh tịnh. Lại có A tăng kỳ biển báu, nước pháp trí huệ chứa đầy trong đó. Lại có A tăng kỳ hoa Phân đà lợi báu (hoa trắng nhỏ), thường vang ra vô lượng diệu pháp, có âm thanh Phân đà lợi rất êm tai. Lại có A tăng kỳ núi Tu Di báu, núi đó làm bằng bảy báu, trí huệ sơn vương tốt đẹp thanh tịnh. Lại có A tăng kỳ báu đẹp tám góc, thứ báu đó chiếu sáng lẫn nhau, giống như ánh sáng của đá kim cương, dùng dây báu xâu lại trang nghiêm không gì sánh bằng. Lại có A tăng kỳ quang minh báu thanh tịnh, phóng ra đại trí huệ quang minh không chướng ngại, chiếu khắp pháp giới. Lại có A tăng kỳ linh chuông báu, linh báu và chuông báu khua đánh lẫn nhau, vang ra âm thanh rất hay.

 

A-tăng-kì thanh tịnh bảo, chư Bồ-tát bảo cụ túc sung mãn. A-tăng-kì bảo tăng thải, xứ xứ thùy hạ, sắc tướng quang khiết. A-tăng-kì diệu bảo tràng, dĩ bảo bán nguyệt nhi vi nghiêm sức. A-tăng-kì bảo phan, tất năng phổ vũ vô lượng bảo phan. A-tăng-kì bảo đái, thùy bố không trung, trang nghiêm thù diệu. A-tăng-kì bảo phu cụ, năng sanh chủng chủng vi tế lạc xúc. A-tăng-kì diệu bảo toàn, thị hiện Bồ Tát nhất thiết trí nhãn.

A tăng kỳ báu thanh tịnh, các Bồ Tát báu đầy đủ sung mãn. A tăng kỳ lụa màu báu, sắc tướng trong sáng, thòng rũ khắp nơi. A tăng kỳ tràng báu đẹp, dùng bán nguyệt báu làm nghiêm sức. A tăng kỳ phan báu, khắp mưa xuống vô lượng phan báu. A tăng kỳ đái báu, thòng rũ khắp trong không trung, trang nghiêm tốt đẹp thù thắng. A tăng kỳ thảm báu, sinh ra đủ thứ sự cảm xúc an lạc mềm mại. A tăng kỳ vòng báu đẹp, thị hiện tất cả mắt trí huệ của Bồ Tát.

Giảng: Lại có A tăng kỳ báu thanh tịnh, tất cả Bồ Tát báu đẹp đầy đủ đầy dẫy ở trong chúng báu. Lại có A tăng kỳ lụa màu báu, màu sắc rất đẹp thòng rũ khắp nơi. Lại có A tăng kỳ tràng báu đẹp, dùng báu bán nguyệt để nghiêm sức, rất trang nghiêm. Lại có A tăng kỳ phan báu, mỗi phan báu lại mưa xuống vô lượng phan báu. Lại có A tăng kỳ đái báu, thòng rũ khắp ở trong không trung, rất trang nghiêm tốt đẹp. Lại có A tăng kỳ thảm báu, tức là toạ cụ, có thể sinh ra đủ thứ cảm xúc an lạc mềm mại. Lại có A tăng kỳ vòng báu đẹp, thị hiện tất cả mắt trí huệ của Bồ Tát.

 

A-tăng-kì bảo anh lạc, nhất nhất anh lạc bách thiên Bồ Tát thượng diệu trang nghiêm. A-tăng-kì bảo cung điện, siêu quá nhất thiết diệu tuyệt vô bỉ. A-tăng-kì bảo trang nghiêm cụ, Kim cương ma-ni dĩ vi nghiêm sức. A-tăng-kì chủng chủng diệu bảo trang nghiêm cụ, thường Hiện-Nhất-Thiết thanh tịnh diệu sắc. A-tăng-kì thanh tịnh bảo, thù hình dị thải, quang giám ánh triệt. A-tăng-kì bảo sơn, dĩ vi viên tường, châu táp vi nhiễu, thanh tịnh vô ngại. A-tăng-kì bảo hương, kỳ hương phổ huân nhất thiết thế giới. A-tăng-kì bảo hóa sự, nhất nhất hóa sự chu biến pháp giới. A-tăng-kì bảo quang minh,

A tăng kỳ chuỗi báu, mỗi mỗi chuỗi báu, có trăm ngàn Bồ Tát thượng diệu trang nghiêm. A tăng kỳ cung điện báu, vượt hơn tất cả, tuyệt diệu không gì bằng. A tăng kỳ đồ trang nghiêm báu, nghiêm sức bằng kim cang ma ni. A tăng kỳ đồ đủ thứ báu đẹp trang nghiêm, thường hiện tất cả màu sắc đẹp thanh tịnh. A tăng kỳ báu thanh tịnh, hình trạng thù thắng kỳ lạ, ánh sáng chiếu thấu. A tăng kỳ núi báu dùng làm tường vách, bao bọc khắp chung quanh thanh tịnh vô ngại. A tăng kỳ hương báu, hương báu đó xông khắp tất cả thế giới. A tăng kỳ hoá sự báu, mỗi mỗi hoá sự khắp cùng pháp giới. A tăng kỳ quang minh báu, mỗi mỗi quang minh hiện ra tất cả quang minh, nhất nhất quang minh Hiện-Nhất-Thiết quang.

Giảng: Lại có A tăng kỳ chuỗi báu, trong mỗi mỗi chuỗi báu có trăm ngàn Bồ Tát thượng diệu tràng nghiêm. Lại có A tăng kỳ cung điện báu, vượt qua tất cả cung điện, tuyệt diệu không có gì sánh bằng, thù thắng trang nghiêm thanh tịnh nhất. Lại có A tăng kỳ đồ trang nghiêm báu, dùng kim cang ma ni báu làm nghiêm sức. Lại có A tăng kỳ đồ đủ thứ báu đẹp trang nghiêm, thường hiện tất cả màu sắc đẹp thanh tịnh. Lại có A tăng kỳ báu thanh tịnh, có hình trạng thù thắng, phóng ra tia sáng kỳ dị, ánh sáng đó chiếu thấu tất cả. Lại có A tăng kỳ núi báu làm tường vách, bao bọc chung quanh thanh tịnh không có chướng ngại. Lại có A tăng kỳ hương báu, mùi hương đó xông khắp tất cả thế giới. Lại có A tăng kỳ hoá sự báu, mỗi sự vật hoá ra khắp cùng pháp giới. Lại có A tăng kỳ quang minh báu, trong mỗi quang minh, lại hiện ra tất cả quang minh, cảnh giới đó không thể nghĩ bàn.

 

Phục hưũ a-tăng-kì bảo quang minh, thanh tịnh trí quang chiếu liễu chư Pháp. phục hưũ a-tăng-kì vô ngại bảo quang minh, nhất nhất quang minh chu biến pháp giới. Hữu a-tăng-kì bảo xứ, nhất thiết chư bảo giai tất cụ túc. A-tăng-kì Bảo Tạng, khai thị nhất thiết chánh pháp tạng bảo. A-tăng-kì bảo tràng, Như Lai tràng tướng huýnh nhiên cao xuất. A-tăng-kì Bảo hiền, đại trí hiền tượng, cụ túc thanh tịnh. A-tăng-kì bảo viên, sanh chư Bồ-tát tam muội khoái lạc. A-tăng-kì bảo âm, Như Lai Diệu-Âm, phổ thị thế gian.

Lại có A tăng kỳ quang minh báu, trí quang chiếu thấu các pháp. Lại có A tăng kỳ quang minh báu vô ngại, mỗi mỗi quang minh khắp cùng pháp giới. Có A tăng kỳ xứ báu, tất cả các báu thảy đều đầy đủ. A tăng kỳ bảo tàng, khai thị tất cả tạng báu chánh pháp. A tăng kỳ tràng báu, tướng tràng Như Lai cao hơn tất cả. A tăng kỳ hiền báu, tượng hiền đại trí đầy đủ thanh tịnh. A tăng kỳ vườn báu, sinh ra tam muội khoái lạc của các Bồ Tát. A tăng kỳ âm thanh báu, âm thanh vi diệu của Như Lai khai thị khắp thế gian.

Giảng: Lại có A tăng kỳ quang minh báu, trí huệ quang minh thanh tịnh chiếu thấu các pháp, tức cũng là tám vạn bốn ngàn pháp môn. Lại có A tăng kỳ quang minh báu vô ngại, mỗi quang minh đều khắp cùng pháp giới. Lại có A tăng kỳ xứ báu, hết thảy tất cả báu thảy đều đầy đủ. Lại có A tăng kỳ tạng báu, khai thị hết thảy vô lượng vô biên tạng báu chánh pháp. Lại có A tăng kỳ tràng báu, tướng tràng của Như Lai cao hơn tất cả các tràng khác. Lại có A tăng kỳ hiền báu, tượng đại trí huệ đại Thánh hiền, đầy đủ thanh tịnh, tướng tốt trang nghiêm. Lại có A tăng kỳ vườn báu, trong mỗi vườn báu sinh ra tất cả tam muội khoái lạc của Bồ Tát. Lại có A tăng kỳ âm thanh báu, âm thanh vi diệu nói pháp của Như Lai, khai thị khắp tất cả chúng sinh thế gian, khiến cho họ phát tâm bồ đề, tu hành Bồ Tát đạo.

 

A-tăng-kì bảo hình, kỳ nhất nhất hình giai phóng vô lượng diệu pháp quang minh. A-tăng-kì Bảo-Tướng, kỳ nhất nhất tướng tất siêu chúng tướng. A-tăng-kì bảo uy nghi, kiến giả giai sanh Bồ Tát thiện lạc. A-tăng-kì bảo tụ, kiến giả giai sanh trí tuệ bảo tụ. A-tăng-kì bảo an trụ, kiến giả giai sanh thiện trụ bảo tâm. A-tăng-kì bảo y phục, kỳ hữu trước giả, sanh chư Bồ-tát vô bỉ tam muội. A-tăng-kì bảo ca sa, kỳ hữu trước giả, tài thủy phát tâm tức đắc thiện kiến đà-la-ni môn.

A tăng kỳ hình báu, mỗi mỗi hình báu đó, đều phóng ra vô lượng diệu pháp quang minh. A tăng kỳ tướng báu, mỗi mỗi tướng báu đó, đều vượt hơn các tướng khác. A tăng kỳ oai nghi báu, người thấy được đều sinh tâm vui thích của Bồ Tát. A tăng kỳ tụ báu, người thấy được đều sinh trí huệ tụ báu. A tăng kỳ an trụ báu, người thấy được đều sinh tâm báu khéo trụ. A tăng kỳ y phục báu, ai mặc vào đều sinh các tam muội vô tỉ của Bồ Tát. A tăng kỳ Cà sa báu, ai mặc vào, vừa mới phát tâm, liền được khéo thấy môn Đà la ni.

Giảng: Lại có A tăng kỳ hình báu, mỗi thứ hình báu đều phóng ra vô lượng quang minh diệu pháp, ở trong quang minh lại diễn nói diệu pháp. Lại có A tăng kỳ tướng báu, mỗi thứ tướng báu đều vượt qua tất cả các tướng khác. Lại có A tăng kỳ oai nghi báu, có uy đáng sợ, có nghi đáng kính; phàm là thấy được chúng sinh oai nghi báu nầy, đều sinh tâm vui thích của Bồ Tát. Lại có A tăng kỳ tụ báu, các tụ báu hợp lại, thấy được chúng sinh tụ báu nầy, đều sinh trí huệ tụ báu, vĩnh viễn lìa khỏi vô minh và ngu si. Lại có A tăng kỳ an trụ báu, khiến cho người thấy được, đều sinh khéo trụ nơi pháp bảo. Lại có A tăng kỳ y phục báu, chúng sinh nào mặc vào y phục báu nầy, chắc chắn sẽ đắc được tam muội không gì sánh bằng của Bồ Tát. Lại có A tăng kỳ Cà sa báu, nếu chúng sinh nào mặc vào thứ Cà sa nầy, vừa mới phát tâm bồ đề, liền khéo thấy được tất cả pháp môn tổng trì.

 

A-tăng-kì bảo tu tập, kỳ hữu kiến giả, tri nhất thiết bảo giai thị nghiệp quả, quyết định thanh tịnh. A-tăng-kì bảo vô ngại tri kiến, kỳ hữu kiến giả, đắc liễu nhất thiết thanh tịnh Pháp nhãn. A-tăng-kì Bảo quang tạng, kỳ hữu kiến giả, tức đắc thành tựu đại trí tuệ tạng.

A tăng kỳ tu tập báu, nếu ai thấy được, liền biết tất cả báu đều là nghiệp quả, quyết định thanh tịnh. A tăng kỳ tri kiến vô ngại báu, nếu ai thấy được, thì đắc được tất cả pháp nhãn thanh tịnh. A tăng kỳ tạng quang minh báu, nếu ai thấy được, liền được thành tựu tạng đại trí huệ.

Giảng: Lại có A tăng kỳ tu tập báu, nếu có chúng sinh nào thấy được pháp nầy, sẽ biết được tất cả báu đều do nghiệp quả mà thành tựu, quyết định tu nghiệp thanh tịnh, mới đắc được nghiệp quả thanh tịnh. Lại có A tăng kỳ tri kiến vô ngại báu, nếu chúng sinh nào thấy được pháp nầy, thì đắc được tất cả pháp nhãn thanh tịnh. Lại có A tăng kỳ tạng quang minh báu, nếu có chúng sinh nào thấy được tạng quang minh nầy, thì đắc được sự thành tựu tạng đại pháp bảo trí huệ.

 

A-tăng-kì bảo tọa, Phật tọa kỳ thượng Đại sư tử hống. A-tăng-kì bảo đăng, thường phóng thanh tịnh trí tuệ quang minh. A-tăng-kì bảo Ta-la thụ, thứ đệ hàng liệt, liễu dĩ bảo thằng, trang nghiêm thanh tịnh. kỳ thụ phục hưũ a-tăng-kì bảo cán, tùng thân tủng trạc, đoan trực viên khiết. A-tăng-kì bảo chi, chủng chủng chúng bảo trang nghiêm trù mật, bất tư nghị điểu tường tập kỳ trung, thường thổ Diệu-Âm tuyên dương chánh pháp. A-tăng-kì bảo diệp, phóng Đại trí quang, biến nhất thiết xứ. A-tăng-kì bảo hoa, nhất nhất hoa thượng, vô lượng Bồ Tát kết già phu tọa biến du Pháp giới. A-tăng-kì bảo quả, kiến giả đương đắc nhất thiết trí trí Bất-thoái-chuyển quả.

A tăng kỳ toà báu, có đức Phật ngự trên đó, đại sư tử hống. A tăng kỳ đèn báu, thường phóng ra ánh sáng trí huệ thanh tịnh. A tăng kỳ cây đa la báu, thẳng hàng có thứ tự, dùng dây báu bao bọc chung quanh, rất trang nghiêm thanh tịnh, cây đó lại có A tăng kỳ gốc báu, từ thân cây cao vót, có A tăng kỳ nhánh tròn sạch ngay thẳng, có đủ thứ các báu trang nghiêm la liệt, có nhiều chim không thể nghĩ bàn bay lượng trên đó, thường hót tiếng vi diệu, tuyên dương chánh pháp. A tăng kỳ lá báu, phóng ra ánh sáng trí huệ, khắp tất cả mọi nơi. A tăng kỳ hoa báu, trên mỗi mỗi hoa, có vô lượng Bồ Tát ngồi kiết già, du khắp pháp giới. A tăng kỳ quả báu, ai thấy sẽ đắc được quả trí huệ nhất thiết trí không thối chuyển.

Giảng: Có A tăng kỳ toà báu, đức Phật ngồi ở trên đó, đại sư tử hống, diễn nói diệu pháp. Lại có A tăng kỳ đèn báu, thường toả ra ánh sáng trí huệ thanh tịnh. Lại có A tăng kỳ cây đa la báu, thứ tự thẳng hàng, chẳng có tạp loạn, dùng dây báu bao bọc chung quanh, rất trang nghiêm thanh tịnh, làm cho người thấy có cảm giác thoải mái. Cây đa la báu có A tăng kỳ gốc báu, thân cây cao diệu vợi, gốc cây ngay thẳng rất tròn rất sạch sẽ, khoảng bảy tám mươi thước. Lại có A tăng kỳ nhánh cây báu, dùng đủ thứ các báu để trang nghiêm la liệt dày đặc, có nhiều chim không thể nghĩ bàn, bay lượng ở trên cây, thường hót tiếng rất hay, tuyên dương chánh pháp. Lại có A tăng kỳ lá báu, trên lá phóng ra quang minh đại trí huệ, khắp tất cả mọi nơi, lá đó có thể dùng biên chép Kinh. Lại có A tăng kỳ hoa báu, trên mỗi đoá hoa, có vô lượng Bồ Tát ngồi kiết già, không động chỗ ngồi mà có thể đến khắp mười phương pháp giới. Lại có A tăng kỳ quả báu, nếu có ai thấy được, sẽ đắc được quả Phật trí huệ nhất thiết trí không thối chuyển.

 

A-tăng-kì bảo tụ lạc, kiến giả xả ly thế tụ lạc Pháp. A-tăng-kì bảo đô ấp, vô ngại chúng sanh ư trung doanh mãn. A-tăng-kì bảo cung điện, Vương xứ kỳ trung, cụ túc Bồ Tát Na-la-diên thân, dũng mãnh kiên cố, bị Pháp giáp trụ, tâm vô thoái chuyển. A-tăng-kì bảo xá, nhập giả năng trừ luyến xá trạch tâm. A-tăng-kì bảo y, trước giả năng lệnh giải liễu Vô Trước. A-tăng-kì bảo cung điện, xuất gia Bồ-tát sung mãn kỳ trung.

A tăng kỳ tụ lạc báu, ai thấy được đều bỏ lìa pháp tụ lạc thế gian. A tăng kỳ đô ấp báu, chúng sinh vô ngại đầy dẫy trong đó. A tăng kỳ cung điện báu, ở trong chỗ vua đó đầy đủ thân Bồ Tát Na la diên, dũng mãnh kiên cố, mặc áo giáp pháp, tâm không thối chuyển. A tăng kỳ nhà báu, ai vào cũng đều diệt trừ tâm tham luyến nhà cửa. A tăng kỳ y báu, ai mặc vào cũng đều khiến cho hiểu rõ không chấp trước. A tăng kỳ cung điện báu, Bồ Tát xuất gia đầy dẫy trong đó.

Giảng: Lại có A tăng kỳ tụ lạc báu, nếu có ai thấy, cũng đều bỏ lìa pháp tụ lạc của thế gian. Lại có A tăng kỳ đô ấp báu, chúng sinh không có chướng ngại đầy dẫy ở trong ấp đó. Lại có A tăng kỳ cung điện báu, chỗ vua ở đầy đủ thân Bồ Tát Na la diên (kiên cố), dũng mãnh kiên cố, mặc áo giáp pháp, tâm vĩnh viễn không thối chuyển nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Lại có A tăng kỳ nhà báu, nếu có ai ở, sẽ diệt trừ tâm tham luyến nhà cửa, không chấp trước vào tướng ta, lìa khỏi tướng của ta. Lại có A tăng kỳ y báu, nếu ai mặc vào khiến cho hiểu rõ được, không chấp trước vào pháp. Lại có A tăng kỳ cung điện báu, có Bồ Tát xuất gia đầy dẫy ở trong cung điện đó.

 

A-tăng-kì bảo trân ngoạn, kiến giả hàm sanh vô lượng hoan hỉ. A-tăng-kì bảo luân, phóng bất tư nghị trí tuệ quang minh chuyển bất thoái luân. A-tăng-kì bảo bạt đà thọ, nhân đà la võng trang nghiêm thanh tịnh. A-tăng-kì bảo địa, bất tư nghị bảo gian thác trang nghiêm. A-tăng-kì bảo xuy, kỳ âm thanh lượng sung mãn Pháp giới. A-tăng-kì bảo cổ, Diệu-Âm khắc hài, cùng kiếp bất tuyệt.

A tăng kỳ đồ chơi báu, ai thấy cũng đều sinh vô lượng hoan hỉ. A tăng kỳ bánh xe báu, phóng ra quang minh trí huệ không nghĩ bàn, chuyển bánh xe pháp không thối chuyển. A tăng kỳ cây bạt đà, có lưới Nhân đà là trang nghiêm thanh tịnh. A tăng kỳ đất báu, có châu báu không nghĩ bàn xen lẫn trang nghiêm. A tăng kỳ tiếng thổi báu, âm thanh đó trong sáng, khắp cùng pháp giới. A tăng kỳ trống báu, tiếng hay hoà nhã cùng kiếp không dứt.

Giảng: Lại có A tăng kỳ đồ chơi báu, nếu có ai thấy, cũng đều sinh vô lượng tâm hoan hỉ. Lại có A tăng kỳ bánh xe báu, phóng ra quang minh trí huệ không thể nghĩ bàn, chuyển bánh xe pháp không thối chuyển. Lại có A tăng kỳ cây Bạt đà báu, dùng lưới Nhân đà la để trang nghiêm, khiến cho thanh tịnh. Lưới Nhân đà la là lưới nghiêm sức ở trước cung điện của trời Đế Thích, trong lỗ lưới đều có gắn bảo châu ma ni. Do đó: “Lỗ lỗ thông nhau, ánh sáng chiếu nhau”, là cảnh giới viên dung vô ngại, trùng trùng vô tận. Lại có A tăng kỳ đất báu, có châu báu không thể nghĩ bàn, trang nghiêm xen lẫn ở trên mặt đất. Lại có A tăng kỳ tiếng thổi báu, tức là những tiếng sáo tiếng tiêu .v.v…nhạc khí có lỗ để thổi, âm thanh đó trong sáng khắp cùng pháp giới. Lại có A tăng kỳ trống báu, âm thanh hay phát ra rất hoà nhã êm tai, không bao giờ dứt.

 

A-tăng-kì bảo chúng sanh, tận năng nhiếp trì vô thượng pháp bảo. A-tăng-kì bảo thân, cụ túc vô lượng công đức diệu bảo. A-tăng-kì bảo khẩu, thường diễn nhất thiết diệu pháp bảo âm. A-tăng-kì bảo tâm, cụ thanh tịnh ý đại trí nguyện bảo. A-tăng-kì bảo niệm, đoạn chư ngu hoặc, cứu cánh kiên cố nhất thiết trí bảo. A-tăng-kì bảo minh, tụng trì nhất thiết chư Phật pháp bảo. A-tăng-kì bảo tuệ, quyết liễu nhất thiết chư Phật Pháp tạng. A-tăng-kì bảo trí, đắc Đại viên mãn nhất thiết trí bảo.

A tăng kỳ chúng sinh báu, nhiếp trì được hết pháp bảo vô thượng. A tăng kỳ thân báu, đầy đủ vô lượng công đức báu đẹp. A tăng kỳ miệng báu, thường diễn nói tất cả âm thanh pháp bảo vi diệu. A tăng kỳ tâm báu, đầy đủ ý đại trí nguyện báu thanh tịnh. A tăng kỳ niệm báu, dứt trừ các ngu si mê hoặc, rốt ráo kiên cố nhất thiết trí báu. A tăng kỳ minh báu, tụng trì tất cả pháp bảo của chư Phật. A tăng kỳ huệ báu, quyết định thấu rõ tất cả tạng pháp của chư Phật. A tăng kỳ trí báu, được đại viên mãn nhất thiết trí báu.

Giảng: Lại có A tăng kỳ chúng sinh báu, nhiếp trì được hết pháp bảo vô thượng, tinh tấn tu hành, diễn nói diệu pháp. Lại có A tăng kỳ thân báu, đầy đủ vô lượng công đức báu vi diệu. Lại có A tăng kỳ miệng báu, luôn luôn diễn nói tất cả âm thanh pháp bảo vi diệu. Lại có A tăng kỳ tâm báu, đầy đủ ý đại trí đại nguyện báu thanh tịnh, thứ báu nầy khiến cho thân miệng ý ba nghiệp thanh tịnh, mà do các thứ báu thành tựu, cũng là một thứ công đức trang nghiêm. Lại có A tăng kỳ niệm báu, vì tâm thanh tịnh chẳng có nghi hoặc, cho nên dứt trừ được tất cả vô minh phiền não, rốt ráo kiên cố nhất thiết trí huệ báu. Lại có A tăng kỳ minh báu, hay tụng trì tất cả pháp bảo của chư Phật. Lại có A tăng kỳ huệ báu, quyết định hiểu rõ tất cả tạng pháp của chư Phật. Lại có A tăng kỳ trí báu, đắc được đại viên mãn nhất thiết trí huệ báu.

 

A-tăng-kì bảo nhãn, giám thập lực bảo, vô sở chướng ngại. A-tăng-kì bảo nhĩ, thính văn vô lượng, tận Pháp giới thanh, thanh tịnh vô ngại. A-tăng-kì bảo tỳ, thường khứu tùy thuận thanh tịnh bảo hương. A-tăng-kì bảo thiệt, năng thuyết vô lượng chư ngữ ngôn Pháp. A-tăng-kì bảo thân, biến du thập phương nhi vô quái ngại. A-tăng-kì bảo ý, thường cần tu tập Phổ Hiền hạnh nguyện. A-tăng-kì bảo âm, tịnh diệu âm thanh biến thập phương giới. A-tăng-kì bảo thân nghiệp, nhất thiết sở tác dĩ trí vi thủ. A-tăng-kì bảo ngữ nghiệp, thường thuyết tu hành vô ngại trí bảo. A-tăng-kì bảo ý nghiệp, đắc vô chướng ngại quảng đại trí bảo, cứu cánh viên mãn.

A tăng kỳ mắt báu, giám sát mười lực báu không có chướng ngại. A tăng kỳ tai báu, nghe vô lượng âm thanh tận cùng pháp giới, thanh tịnh vô ngại. A tăng kỳ mũi báu, thường ngửi tuỳ thuận hương thơm báu thanh tịnh. A tăng kỳ lưỡi báu, hay nói vô lượng lời nói pháp của chư Phật. A tăng kỳ thân báu, đến khắp mười phương mà không trở ngại. A tăng kỳ ý báu, thường siêng tu tập hạnh nguyện Phổ Hiền. A tăng kỳ tiếng báu, thanh tịnh tiếng hay khắp mười phương cõi nước. A tăng kỳ thân nghiệp báu, làm tất cả những gì đều lấy trí huệ làm đầu. A tăng kỳ nghiệp lời nói báu, thường nói tu hành trí báu vô ngại. A tăng kỳ ý nghiệp báu, được trí báu rộng lớn không chướng ngại, rốt ráo viên mãn.

Giảng: Lại có A tăng kỳ mắt báu, hay giám sát mười lực báu, chẳng có mọi sự chướng ngại. Lại có A tăng kỳ tai báu, nghe được vô lượng âm thanh tận cùng pháp giới. Lại có A tăng kỳ mũi báu, thường ngửi được hương thơm báu thanh tịnh tận hư không khắp pháp giới. Lại có A tăng kỳ lưỡi báu, hay diễn nói vô lượng tất cả lời nói pháp. Lại có A tăng kỳ thân báu, hay đến khắp mười phương thế giới, chẳng có mọi sự trở ngại nào. Lại có A tăng kỳ ý báu, thường hay tinh tấn tu tập đại hạnh đại nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền. Lại có A tăng kỳ tiếng báu, tiếng hay thanh tịnh nầy, vang đến khắp cùng mười phương thế giới. Lại có A tăng kỳ thân nghiệp báu, làm tất cả những việc gì đều lấy trí huệ làm đầu, cho nên chẳng có giết hại, trộm cắp, tà dâm ba điều ác. Lại có A tăng kỳ nghiệp lời nói báu, thường nói tu hành trí huệ báu thanh tịnh vô ngại, cho nên chẳng có nói dối, thêu dệt, chưởi mắng, hai lưỡi, bốn điều ác. Lại có A tăng kỳ ý nghiệp báu, đắc được trí huệ rộng lớn báu không có chướng ngại, rốt ráo đạt đến cảnh giới viên mãn, cho nên chẳng có tham dục, sân hận, ngu si, ba độc.

 

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát ư bỉ nhất thiết chư Phật sát trung, ư nhất Phật sát, nhất phương, nhất xứ, nhất mao đoan lượng, hữu vô lượng vô biên bất khả thuyết số chư đại Bồ-tát, giai tất thành tựu thanh tịnh trí tuệ, sung mãn nhi trụ. Như nhất Phật sát, nhất phương, nhất xứ, nhất mao đoan lượng, như thị tận hư không biến Pháp giới nhất nhất Phật sát, nhất nhất phương, nhất nhất xứ, nhất nhất mao đoan lượng, tất diệc như thị.

Phật tử ! Đại Bồ Tát ở trong cõi nước của tất cả chư Phật đó, nơi một cõi Phật, một phương, một xứ sở, một đầu sợi lông, đầy dẫy vô lượng vô biên bất khả thuyết số các đại Bồ Tát, thảy đều thành tựu trí huệ thanh tịnh. Như vậy tận hư không khắp pháp giới, mỗi cõi Phật, mỗi phương, mỗi xứ sở, mỗi đầu sợi lông, cũng đều như vậy.

Giảng: Bồ Tát Kim Cang Tràng lại gọi một tiếng các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát tu hành Bồ Tát đạo, ở trong tất cả cõi nước của chư Phật, hoặc ở tại một cõi Phật, hoặc tại một phương, hoặc tại một xứ sở, hoặc tại nơi đầu một sợi lông, đều có đầy dẫy vô lượng vô biên bất khả thuyết tất cả đại Bồ Tát, thảy đều thành tựu trí huệ thanh tịnh, an trụ ở trong đó. Như một cõi Phật, một phương, một xứ sở, một đầu sợi lông là như vậy. Như vậy tận hư không khắp pháp giới, hết thảy mỗi cõi Phật, mỗi phương, mỗi xứ sở, mỗi đầu sợi lông, cũng đều trang nghiêm tốt đẹp như vậy.

 

Thị vi Bồ-Tát Ma-ha-tát dĩ chư thiện căn nhi vi hồi hướng, phổ nguyện nhất thiết chư Phật quốc độ tất cụ chủng chủng diệu bảo trang nghiêm.

Đó là đại Bồ Tát đem các căn lành vì chúng sinh hồi hướng. Nguyện khắp tất cả cõi nước chư Phật, đều đầy đủ các thứ báu đẹp trang nghiêm.

Giảng: Đó tức là đại Bồ Tát, đem đủ thứ căn lành của mình tu tập, vì chín pháp giới chúng sinh mà hồi hướng. Nguyện khắp tất cả cõi nước của chư Phật, hoàn toàn đầy đủ các thứ báu đẹp trang nghiêm.

 

Như thị quảng thuyết. Như thị hương trang nghiêm, hoa trang nghiêm, man trang nghiêm, đồ hương trang nghiêm, thiêu hương trang nghiêm, mạt hương trang nghiêm, y trang nghiêm, cái trang nghiêm, tràng trang nghiêm, phan trang nghiêm, ma-ni bảo trang nghiêm, thứ đệ nãi chí qua thử bách bội giai như bảo trang nghiêm, như thị quảng thuyết.

Như báu trang nghiêm, rộng nói như vậy. Hương trang nghiêm cũng như vậy. Hoa trang nghiêm, tràng hoa trang nghiêm, hương thoa trang nghiêm, hương đốt trang nghiêm, hương bột trang nghiêm, y trang nghiêm, lọng trang nghiêm, tràng trang nghiêm, phan trang nghiêm, ma ni báu trang nghiêm, thứ lớp cho đến trăm lần hơn đây, đều rộng nói như báu trang nghiêm.

Giảng: Giống như báu trang nghiêm cõi Phật, nói rộng như vậy. Như vậy dùng tất cả hương thơm để trang nghiêm, dùng tất cả hoa để trang nghiêm, dùng tất cả tràng hoa để trang nghiêm, dùng tất cả hương thoa để trang nghiêm, dùng tất cả hương đốt để trang nghiêm, dùng tất cả y phục để trang nghiêm, dùng tất cả lọng báu để trang nghiêm, dùng tất cả tràng báu để trang nghiêm, dùng tất cả phan báu để trang nghiêm, dùng tất cả ma ni báu để trang nghiêm, thứ lớp để trang nghiêm cõi nước chư Phật, cho đến nhiều gấp trăm lần thứ báu trang nghiêm hơn đây, đều như báu trang nghiêm. Như vậy, nếu nói tỉ mỉ, thì không khi nào nói hết được.

 

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát dĩ pháp thí đẳng sở tập thiện căn, vi trưởng dưỡng nhất thiết thiện căn cố hồi hướng. Vi nghiêm tịnh nhất thiết Phật sát cố hồi hướng. Vi thành tựu nhất thiết chúng sanh cố hồi hướng. Vi lệnh nhất thiết chúng sanh giai tâm tịnh bất động cố hồi hướng. Vi lệnh nhất thiết chúng sanh giai nhập thậm thâm Phật Pháp cố hồi hướng. Vi lệnh nhất thiết chúng sanh giai đắc vô năng qua thanh tịnh công đức cố hồi hướng. Vi lệnh nhất thiết chúng sanh giai đắc bất khả hoại thanh tịnh phước lực cố hồi hướng. Vi lệnh nhất thiết chúng sanh giai đắc vô tận trí lực, độ chư chúng sanh lệnh nhập Phật Pháp cố hồi hướng.

Phật tử ! Đại Bồ Tát dùng căn lành tu tập bố thí pháp, vì dưỡng lớn tất cả căn lành mà hồi hướng. Vì nghiêm tịnh tất cả cõi Phật mà hồi hướng. Vì thành tựu tất cả chúng sinh mà hồi hướng. Vì khiến cho tất cả chúng sinh đều tịnh tâm không động mà hồi hướng. Vì khiến cho tất cả chúng sinh đều vào Phật pháp thâm sâu mà hồi hướng. Vì khiến cho tất cả chúng sinh đều được công đức thanh tịnh không ai vượt qua được mà hồi hướng. Vì khiến cho tất cả chúng sinh đều được phước lực thanh tịnh không thể hoại mà hồi hướng. Vì khiến cho tất cả chúng sinh đều được trí lực vô tận, độ các chúng sinh khiến cho họ vào Phật pháp mà hồi hướng.

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát tu hành Bồ Tát đạo, dùng đủ thứ căn lành tu tập bố thí pháp, vì dưỡng lớn tất cả căn lành, cho nên mới tu hồi hướng. Vì trang nghiêm thanh tịnh tất cả đạo tràng chúng hội của chư Phật, cho nên mới tu hồi hướng. Vì thành tựu tất cả chúng sinh, cho nên mới tu hồi hướng. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, trong tâm thanh tịnh, chẳng có ô nhiễm, gặp cảnh giới mà tâm không lay động, cho nên mới tu hồi hướng. Vì khiến cho tất cả chúng sinh đều đắc được trí huệ Bát Nhã thâm sâu, thấu hiểu tất cả Phật pháp, cho nên mới tu hồi hướng. Vì khiến cho tất cả chúng sinh đều đắc được công đức thanh tịnh không ai vượt qua được, cho nên mới tu hồi hướng. Vì khiến cho tất cả chúng sinh đắc được phước lực thanh tịnh không thể hoại, cho nên mới tu hồi hướng. Vì khiến cho tất cả chúng sinh đều đắc được sức trí huệ vô tận, rộng độ tất cả chúng sinh, khiến cho họ vào Phật pháp, chứng được trí huệ vô ngại, cho nên mới tu hồi hướng.

 

Vi lệnh nhất thiết chúng sanh giai đắc bình đẳng vô lượng thanh tịnh ngôn âm cố hồi hướng. Vi lệnh nhất thiết chúng sanh giai đắc bình đẳng vô ngại nhãn, thành tựu tận hư không biến Pháp giới đẳng trí tuệ cố hồi hướng. Vi lệnh nhất thiết chúng sanh giai đắc thanh tịnh niệm, tri tiền tế kiếp nhất thiết thế giới cố hồi hướng. Vi lệnh nhất thiết chúng sanh giai đắc vô ngại đại trí tuệ, tất năng quyết liễu nhất thiết pháp tạng cố hồi hướng. Vi lệnh nhất thiết chúng sanh giai đắc vô hạn lượng Đại bồ-đề, chu biến pháp giới vô sở chướng ngại cố hồi hướng. Vi lệnh nhất thiết chúng sanh giai đắc bình đẳng vô phần biệt đồng thể thiện căn cố hồi hướng.

Vì khiến cho tất cả chúng sinh, đều đắc được vô lượng ngôn ngữ và âm thanh thanh tịnh bình đẳng mà hồi hướng. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, đều đắc được mắt bình đẳng vô ngại, thành tựu trí huệ đồng hư không khắp pháp giới mà hồi hướng. Vì khiến cho tất cả chúng sinh đều đắc được niệm thanh tịnh, biết tiền kiếp của tất cả thế giới mà hồi hướng. Vì khiến cho tất cả chúng sinh đều đắc được đại trí huệ vô ngại, đều quyết rõ được tất cả pháp tạng mà hồi hướng. Vì khiến cho tất cả chúng sinh đều đắc được đại bồ đề không hạn lượng, khắp cùng pháp giới không chướng ngại mà hồi hướng. Vì khiến cho tất cả chúng sinh đều đắc được căn lành đồng thể bình đẳng không phân biệt mà hồi hướng.

Giảng: Vì khiến cho tất cả chúng sinh, đều đắc được ngôn ngữ và âm thanh thanh tịnh bình đẳng, cho nên mới tu hồi hướng. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, đều đắc được mắt trí huệ bình đẳng không có chướng ngại, thành tựu trí huệ đồng tận cõi hư không khắp pháp giới, cho nên mới tu hồi hướng. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, đều đắc được niệm thanh tịnh, nơi một niệm biết tất cả hết thảy thế giới trong quá khứ, vị Phật nào xuất hiện ra đời, giáo hoá chúng sinh, cho nên mới tu hồi hướng. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, đều đắc được đại trí huệ viên dung vô ngại, đối với hết thảy Phật pháp đều quyết định thấu hiểu rõ ràng, cho nên mới tu hồi hướng. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, đều đắc được đại bồ đề không có hạn lượng, khắp cùng pháp giới mà không chướng ngại, cho nên mới tu hồi hướng. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, đều đắc được căn lành đồng thể bình đẳng không có phân biệt. Do đó: “Tâm đồng thể đại bi”, căn lành của mình tu hành và căn lành của chúng sinh tu hành đều giống nhau, cho nên mới tu hồi hướng.

 

Vi lệnh nhất thiết chúng sanh giai đắc nhất thiết công đức cụ túc trang nghiêm thanh tịnh thân, ngữ, ý nghiệp cố hồi hướng. Vi lệnh nhất thiết chúng sanh giai đắc đồng ư Phổ Hiền hạnh cố hồi hướng. Vi lệnh nhất thiết chúng sanh giai đắc nhập nhất thiết đồng thể thanh tịnh Phật sát cố hồi hướng. Vi lệnh nhất thiết chúng sanh tất quan sát nhất thiết trí, giai thú nhập viên mãn cố hồi hướng. Vi lệnh nhất thiết chúng sanh giai đắc viễn ly bất bình đẳng thiện căn cố hồi hướng. Vi lệnh nhất thiết chúng sanh giai đắc bình đẳng vô dị tướng, thâm tâm thứ đệ viên mãn nhất thiết trí cố hồi hướng. Vi lệnh nhất thiết chúng sanh giai đắc an trụ nhất thiết bạch pháp cố hồi hướng. Vi lệnh nhất thiết chúng sanh giai ư nhất niệm trung chứng nhất thiết trí đắc cứu cánh cố hồi hướng. Vi lệnh nhất thiết chúng sanh giai thành mãn thanh tịnh nhất thiết trí đạo cố hồi hướng.

Vì khiến cho tất cả chúng sinh, đều đắc được tất cả công đức của thân lời ý nghiệp, đầy đủ trang nghiêm thanh tịnh mà hồi hướng. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, đều đắc được hạnh đồng với Bồ Tát Phổ Hiền mà hồi hướng. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, đều được vào tất cả cõi Phật đồng thể thanh tịnh mà hồi hướng. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, đều quán sát nhất thiết trí, đều hướng về nhập vào viên mãn mà hồi hướng. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, đều xa lìa căn lành không bình đẳng mà hồi hướng. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, đều đắc được thâm tâm bình đẳng không tướng khác, thứ lớp viên mãn nhất thiết trí mà hồi hướng. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, đều được an trụ tất cả pháp trắng tịnh mà hồi hướng. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, nơi một niệm chứng được nhất thiết trí rốt ráo mà hồi hướng. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, đều được thành tựu viên mãn đạo nhất thiết trí thanh tịnh mà hồi hướng. Vì khiến cho tất cả chúng sinh đều đắc được mà hồi hướng.

Giảng: Vì khiến cho tất cả chúng sinh, đều đắc được tất cả công đức ba nghiệp thân miệng ý, đầy đủ trang nghiêm thanh tịnh, cho nên mới tu hồi hướng. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, đều đắc được hạnh nguyện giống như Bồ Tát Phổ Hiền tu, cho nên mới tu hồi hướng. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, đều được vào tất cả cõi Phật đồng thể thanh tịnh, cho nên mới tu hồi hướng. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, đều có thể quán sát nhất thiết trí huệ, đều hướng về nhập vào trí huệ viên mãn, cho nên mới tu hồi hướng. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, đều được xa lìa căn lành không bình đẳng, cho nên mới tu hồi hướng. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, đều được an trụ tất cả pháp trắng tịnh, cho nên mới tu hồi hướng. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, đều ở trong một niệm chứng được nhất thiết trí huệ rốt ráo, cho nên mới tu hồi hướng. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, đều được thành tựu viên mãn đạo nhất thiết trí thanh tịnh, cho nên mới tu hồi hướng.

 

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát dĩ chư thiện căn phổ vi nhất thiết chúng sanh như thị hồi hướng dĩ, phục dĩ thử thiện căn, dục phổ viên mãn diễn thuyết nhất thiết thanh tịnh hạnh pháp lực cố hồi hướng. Dục thành tựu thanh tịnh hạnh uy lực, đắc bất khả thuyết bất khả thuyết Pháp hải cố hồi hướng. Dục ư nhất nhất pháp hải, cụ túc vô lượng đẳng Pháp giới thanh tịnh trí quang minh cố hồi hướng. Dục khai thị diễn thuyết nhất thiết pháp sái biệt cú nghĩa cố hồi hướng. Dục thành tựu vô biên quảng đại nhất thiết pháp quang minh tam muội cố hồi hướng. Dục tùy thuận tam thế chư Phật biện tài cố hồi hướng.

Phật tử ! Đại Bồ Tát đem các căn lành, khắp vì tất cả chúng sinh hồi hướng như vậy rồi. Lại đem căn lành nầy, khắp muốn diễn nói viên mãn tất cả hạnh pháp lực thanh tịnh mà hồi hướng. Muốn thành tựu hạnh oai lực thanh tịnh, được biển pháp bất khả thuyết bất khả thuyết mà hồi hướng. Muốn tại mỗi biển pháp, đầy đủ vô lượng trí quang minh thanh tịnh đồng pháp giới mà hồi hướng. Muốn khai thị diễn nói tất cả câu nghĩa của pháp khác biệt mà hồi hướng. Muốn thành tựu tất cả pháp quang minh tam muội rộng lớn vô biên mà hồi hướng. Muốn tuỳ thuận biện tài của chư Phật ba đời mà hồi hướng.

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát tu hành Bồ Tát đạo, tích tụ đủ thứ căn lành, đem tất cả căn lành của mình tu được, khắp vì tất cả chúng sinh hồi hướng như vậy rồi. Bồ Tát lại đem căn lành nầy, nguyện khắp diễn nói viên mãn tất cả hạnh pháp lực thanh tịnh, mà vì chúng sinh hồi hướng. Nguyện thành tựu hạnh oai lực thanh tịnh, đắc được biển pháp bất khả thuyết bất khả thuyết, mà vì chúng sinh hồi hướng. Nguyện ở trong mỗi biển pháp, đầy đủ vô lượng trí huệ quang minh thanh tịnh đồng pháp giới, mà vì chúng sinh hồi hướng. Nguyện khai thị diễn nói tất cả pháp, phân biệt nghĩa lý của câu chữ, mà vì chúng sinh hồi hướng. Nguyện thành tựu tất cả pháp quang minh tam muội rộng lớn vô biên, mà vì chúng sinh hồi hướng. Nguyện tuỳ thuận biện tài vô ngại của chư Phật ba đời, mà vì chúng sinh hồi hướng.

 

Dục thành tựu khứ, lai, hiện tại nhất thiết Phật tự tại thân cố hồi hướng. Vi tôn trọng nhất thiết Phật khả ái lạc vô chướng ngại Pháp cố hồi hướng. Vi mãn túc đại bi tâm, cứu hộ nhất thiết chúng sanh thường vô thoái chuyển cố hồi hướng. Dục thành tựu bất tư nghị sái biệt pháp, vô chướng ngại trí tâm, vô cấu nhiễm chư căn thanh tịnh, phổ nhập nhất thiết chúng hội đạo tràng cố hồi hướng. Dục ư nhất thiết nhược phước nhược ngưỡng, nhược thô nhược tế, nhược quảng nhược hiệp, tiểu Đại nhiễm tịnh, như thị đẳng chư Phật quốc độ, thường chuyển bình đẳng bất thoái Pháp luân cố hồi hướng.

Muốn thành tựu thân tự tại của tất cả chư Phật quá khứ vị lai và hiện tại mà hồi hướng. Vì tôn trọng tất cả pháp không chướng ngại đáng ưa thích của Phật mà hồi hướng. Vì đầy đủ tâm đại bi, cứu hộ tất cả chúng sinh thường không thối chuyển mà hồi hướng. Muốn thành tựu pháp khác biệt không nghĩ bàn, trí không chướng ngại, tâm không cấu nhiễm, các căn thanh tịnh, vào khắp tất cả chúng hội đạo tràng mà hồi hướng. Muốn ở nơi tất cả cõi nước chư Phật, hoặc ngửa, hoặc úp, hoặc thô, hoặc tế, hoặc rộng, hoặc hẹp, lớn nhỏ nhiễm tịnh như vậy, thường chuyển bánh xe pháp bình đẳng bất thối.

Giảng: Nguyện thành tựu thân nhậm vận tự tại của tất cả chư Phật mười phương ba đời: Quá khứ, vị lai, hiện tại, mà vì chúng sinh hồi hướng. Nguyện vì tôn trọng tất cả pháp đáng ưa thích, không chướng ngại của Phật, mà vì chúng sinh hồi hướng. Nguyện vì viên mãn tâm đại bi, cứu hộ tất cả chúng sinh, thường không thối chuyển nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, mà vì chúng sinh hồi hướng. Nguyện thành tựu pháp khác biệt không thể bàn. Do đó:

“Đường ngôn ngữ đã dứt
Nơi tâm hành đã diệt”

Nghĩa là con đường lời nói đã dứt hẳn, cho đến chỗ tâm suy nghĩ cũng chẳng còn, tức là ý nghĩa không thể nghĩ bàn. Thành tựu trí huệ không chướng ngại, niệm tưởng ở trong tâm đều là thanh tịnh, chẳng còn tư tưởng trần cấu ô nhiễm, tức là sáu căn rất thanh tịnh: Căn mắt thanh tịnh, không thấy sắc trần nhiễm ô; căn tai thanh tịnh, không nghe thanh trần nhiễm ô; căn mũi thanh tịnh, không ngửi hương trần nhiễm ô; căn lưỡi thanh tịnh, không nếm vị trần nhiễm ô; căn thân thanh tịnh, không giác xúc trần nhiễm ô; căn ý thanh tịnh, không biết pháp trần nhiễm ô. Các căn thanh tịnh rồi, mới có thể vào khắp tất cả chúng hội đạo tràng, mà vì chúng sinh hồi hướng.

Bồ Tát nguyện ở tại tất cả thế giới, hoặc là thế giới ngửa, hoặc thế giới úp, hoặc thế giới thô, hoặc thế giới tế, hoặc thế giới rộng, hoặc thế giới hẹp, hoặc thế giới lớn, hoặc thế giới nhỏ, hoặc thế giới nhiễm, hoặc thế giới tịnh. Các cõi nước chư Phật như vậy, thường chuyển bánh xe pháp bình đẳng không thối chuyển. Bánh xe pháp bình đẳng, Phật tánh cũng bình đẳng, pháp tánh cũng bình đẳng, người nào tu người đó có phần, thành tựu quả vị cũng bình đẳng. Dù đại thiện nhân, nếu không tu hành thì cũng không thể thành Phật. Nếu đại ác nhân, lập tức cải ác hướng thiện, phát tâm bồ đề, thì tội nghiệp sẽ tiêu sạch, thành tựu đạo quả bồ đề. Do đó mới gọi là bình đẳng. Ý nghĩa không thối chuyển có ba:

  1. Vị bất thối: Tức là không thối lùi về hàng nhị thừa.
  2. Hạnh bất hối: Tức là không thối lùi sự tu hành hạnh nguyện của Bồ Tát.
  3. Niệm bất thối: Tức là không thối lùi chánh niệm, thời khắc phát tâm đại bồ đề, mà vì chúng sinh hồi hướng.

 

Dục ư niệm niệm trung đắc vô sở úy, vô hữu cùng tận chủng chủng biện tài diệu pháp quang minh khai thị diễn thuyết cố hồi hướng. Vi lạc cầu chúng thiện, phát tâm tu tập, chư căn chuyển thắng, hoạch nhất thiết pháp đại thần thông trí, tận năng liễu tri nhất thiết chư pháp cố hồi hướng. Dục ư nhất thiết chúng hội đạo tràng thân cận cúng dường, vi nhất thiết chúng sanh diễn nhất thiết pháp hàm lệnh hoan hỉ cố hồi hướng.

Muốn ở trong niệm niệm được không sợ hãi, có đủ thứ biện tài không cùng tận, diệu pháp quang minh, khai thị diễn nói mà hồi hướng. Vì thích cầu các điều thiện, phát tâm tu tập, các căn chuyển thành thù thắng, đắc được tất cả pháp đại thần thông trí huệ, biết rõ hết tất cả các pháp mà hồi hướng. Muốn ở nơi tất cả chúng hội đạo tràng, gần gũi cúng dường, vì tất cả chúng sinh diễn nói tất cả các pháp, đều khiến cho họ hoan hỉ mà hồi hướng.

Giảng: Bồ Tát phát nguyện, ở trong niệm niệm, đắc được bốn điều không sợ hãi:

  1. Tổng trì không sợ hãi.
  2. Biết căn không sợ hãi.
  3. Quyết nghi không sợ hãi.
  4. Đáp nạn không sợ hãi.

Tất cả đều không sợ hãi. Có đủ thứ biện tài không cùng tận. Biện tài có bốn:

  1. Từ vô ngại biện.
  2. Pháp vô ngại biện.
  3. Nghĩa vô ngại biện.
  4. Lạc thuyết vô ngại biện.

Đắc được diệu pháp quang minh, khai quyền hiển thật, nói diệu nghĩa của pháp chân thật, mà vì chúng sinh hồi hướng. Vì thích cầu tất cả các điều thiện, phát tâm tu hành học tập, khiến các căn (sáu căn) chuyển thành thù thắng, đắc được tất cả các pháp, đắc được trí huệ đại thần thông, biết rõ hết tất cả các pháp, mà vì chúng sinh hồi hướng. Nguyện ở trong tất cả chúng hội đạo tràng, gần gũi Tam Bảo, cúng dường Tam Bảo. Vì tất cả chúng sinh, diễn nói tất cả diệu pháp, khiến cho tất cả chúng sinh đều đại hoan hỉ, mà vì chúng sinh hồi hướng.

 

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hựu dĩ thử thiện căn như thị hồi hướng, sở vị: dĩ trụ pháp giới vô lượng trụ hồi hướng, dĩ trụ pháp giới vô lượng thân nghiệp hồi hướng, dĩ trụ pháp giới vô lượng ngữ nghiệp hồi hướng, dĩ trụ pháp giới vô lượng ý nghiệp hồi hướng, dĩ trụ pháp giới vô lượng sắc bình đẳng hồi hướng, dĩ trụ pháp giới vô lượng thọ, tưởng, hành, thức bình đẳng hồi hướng, dĩ trụ pháp giới vô lượng uẩn bình đẳng hồi hướng, dĩ trụ pháp giới vô lượng giới bình đẳng hồi hướng, dĩ trụ pháp giới vô lượng xứ bình đẳng hồi hướng, dĩ trụ pháp giới vô lượng nội bình đẳng hồi hướng, dĩ trụ pháp giới vô lượng ngoại bình đẳng hồi hướng

Phật tử ! Đại Bồ Tát lại đem căn lành nầy hồi hướng như vầy. Đó là: Hồi hướng để trụ nơi pháp giới vô lượng trụ. Hồi hướng để trụ nơi pháp giới vô lượng thân nghiệp. Hồi hướng để trụ nơi pháp giới vô lượng nghiệp lời nói. Hồi hướng để trụ nơi pháp giới vô lượng ý nghiệp. Hồi hướng để trụ nơi pháp giới vô lượng sắc bình đẳng. Hồi hướng để trụ nơi pháp giới vô lượng thọ tưởng hành thức bình đẳng. Hồi hướng để trụ nơi pháp giới vô lượng uẩn bình đẳng. Hồi hướng để trụ nơi pháp giới vô lượng giới bình đẳng. Hồi hướng để trụ nơi pháp giới vô lượng xứ bình đẳng. Hồi hướng để trụ nơi pháp giới vô lượng bên trong bình đẳng. Hồi hướng để trụ nơi pháp giới vô lượng bên ngoài bình đẳng.

Giảng: Bồ Tát Kim Cang Tràng lại gọi một tiếng các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát tu hành Bồ Tát đạo, tích tập đủ thứ căn lành. Lại đem căn lành nầy, vì chúng sinh mà hồi hướng như vầy. Đó là: Dùng chúng sinh trụ nơi pháp giới, có vô lượng thứ trụ, mà vì chúng sinh hồi hướng. Dùng chúng sinh trụ nơi pháp giới, có vô lượng nghiệp thân thanh tịnh, mà vì chúng sinh hồi hướng. Dùng chúng sinh trụ nơi pháp giới, có vô lượng nghiệp lời nói thanh tịnh, mà vì chúng sinh hồi hướng. Dùng chúng sinh trụ nơi pháp giới, có vô lượng nghiệp ý thanh tịnh, mà vì chúng sinh hồi hướng. Thân miệng ý ba nghiệp của Bồ Tát rất thanh tịnh, chẳng có nghiệp ác nào. Nguyện cho tất cả chúng sinh cũng đắc được thân miệng ý ba nghiệp thanh tịnh, chẳng có nghiệp ác nào, đó là tâm từ bi của Bồ Tát. Dùng chúng sinh trụ nơi pháp giới, có vô lượng sắc bình đẳng, mà vì chúng sinh hồi hướng. Dùng chúng sinh trụ nơi pháp giới, có vô lượng thọ tưởng hành thức bình đẳng, mà vì chúng sinh hồi hướng. Dùng chúng sinh trụ nơi pháp giới, có vô lượng năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) bình đẳng, mà vì chúng sinh hồi hướng, khiến cho sớm chiếu thấy năm uẩn đều không, độ tất cả khổ ách. Dùng chúng sinh trụ nơi pháp giới, có vô lượng mười tám giới (sáu căn, sáu trần, sáu thức) bình đẳng, mà vì chúng sinh hồi hướng. Dùng chúng sinh trụ nơi pháp giới, có vô lượng mười hai xứ (sáu căn và sáu trần) bình đẳng, mà vì chúng sinh hồi hướng. Dùng chúng sinh trụ nơi pháp giới, có vô lượng tâm pháp bên trong, được bình đẳng, mà vì chúng sinh hồi hướng. Dùng chúng sinh trụ nơi pháp giới, có vô lượng thân pháp bên ngoài, được bình đẳng, mà vì chúng sinh hồi hướng, khiến cho chúng sinh đắc được bình đẳng thanh tịnh, chẳng có pháp nhiễm ô.

 

Dĩ trụ pháp giới vô lượng phát khởi bình đẳng hồi hướng, dĩ trụ pháp giới vô lượng thâm tâm bình đẳng hồi hướng, dĩ trụ pháp giới vô lượng phương tiện bình đẳng hồi hướng, dĩ trụ pháp giới vô lượng tín giải bình đẳng hồi hướng, dĩ trụ pháp giới vô lượng chư căn bình đẳng hồi hướng, dĩ trụ pháp giới vô lượng sơ, trung, hậu tế bình đẳng hồi hướng, dĩ trụ pháp giới vô lượng nghiệp báo bình đẳng hồi hướng, dĩ trụ pháp giới vô lượng nhiễm tịnh bình đẳng hồi hướng, dĩ trụ pháp giới vô lượng chúng sanh bình đẳng hồi hướng, dĩ trụ pháp giới vô lượng Phật sát bình đẳng hồi hướng, dĩ trụ pháp giới vô lượng pháp bình đẳng hồi hướng

Hồi hướng để trụ nơi pháp giới vô lượng phát khởi bình đẳng. Hồi hướng để trụ nơi pháp giới vô lượng thâm tâm bình đẳng. Hồi hướng để trụ nơi pháp giới vô lượng phương tiện bình đẳng. Hồi hướng để trụ nơi pháp giới vô lượng tin hiểu bình đẳng. Hồi hướng để trụ nơi pháp giới vô lượng các căn bình đẳng. Hồi hướng để trụ nơi pháp giới vô lượng ban đầu giữa sau bình đẳng. Hồi hướng để trụ nơi pháp giới vô lượng nghiệp báo bình đẳng. Hồi hướng để trụ nơi pháp giới vô lượng nhiễm tịnh bình đẳng. Hồi hướng để trụ nơi pháp giới vô lượng chúng sinh bình đẳng. Hồi hướng để trụ nơi pháp giới vô lượng cõi Phật bình đẳng hồi. Hồi hướng để trụ nơi pháp giới vô lượng pháp bình đẳng.

Giảng: Dùng chúng sinh trụ nơi pháp giới, có vô lượng phát khởi bình đẳng, mà vì chúng sinh hồi hướng. Dùng chúng sinh trụ nơi pháp giới, có vô lượng thâm tâm bình đẳng, mà vì chúng sinh hồi hướng. Dùng chúng sinh trụ nơi pháp giới, có vô lượng phương tiện bình đẳng, mà vì chúng sinh hồi hướng. Dùng chúng sinh trụ nơi pháp giới, có vô lượng tin hiểu bình đẳng, mà vì chúng sinh hồi hướng. Dùng chúng sinh trụ nơi pháp giới, có vô lượng các căn bình đẳng, mà vì chúng sinh hồi hướng. Dùng chúng sinh trụ nơi pháp giới, có vô lượng ban đầu giữa sau bình đẳng, mà vì chúng sinh hồi hướng. Dùng chúng sinh trụ nơi pháp giới, có vô lượng nghiệp báo bình đẳng, mà vì chúng sinh hồi hướng. Dùng chúng sinh trụ nơi pháp giới, có vô lượng pháp nhiễm và pháp tịnh bình đẳng, mà vì chúng sinh hồi hướng. Dùng chúng sinh trụ nơi pháp giới, có vô lượng chúng sinh bình đẳng, mà vì chúng sinh hồi hướng. Dùng chúng sinh trụ nơi pháp giới, có vô lượng cõi Phật bình đẳng, mà vì chúng sinh hồi hướng. Dùng chúng sinh trụ nơi pháp giới, có vô lượng pháp bình đẳng, mà vì chúng sinh hồi hướng.

 

Dĩ trụ pháp giới vô lượng thế gian quang minh bình đẳng hồi hướng, dĩ trụ pháp giới vô lượng chư Phật Bồ-tát bình đẳng hồi hướng, dĩ trụ pháp giới vô lượng Bồ-tát hạnh nguyện bình đẳng hồi hướng, dĩ trụ pháp giới vô lượng Bồ Tát xuất ly bình đẳng hồi hướng, dĩ trụ pháp giới vô lượng Bồ Tát giáo hóa điều phục bình đẳng hồi hướng, dĩ trụ pháp giới vô lượng Pháp giới vô nhị bình đẳng hồi hướng, dĩ trụ pháp giới vô lượng Như Lai chúng hội đạo tràng bình đẳng hồi hướng.

Hồi hướng để trụ nơi pháp giới vô lượng thế gian quang minh bình đẳng. Hồi hướng để trụ nơi pháp giới vô lượng chư Phật Bồ Tát bình đẳng. Hồi hướng để trụ nơi pháp giới vô lượng hạnh nguyện Bồ Tát bình đẳng. Hồi hướng để trụ nơi pháp giới vô lượng Bồ Tát thoát khỏi ba cõi bình đẳng. Hồi hướng để trụ nơi pháp giới vô lượng Bồ Tát giáo hoá điều phục bình đẳng. Hồi hướng để trụ nơi pháp giới vô lượng pháp giới không hai bình đẳng. Hồi hướng để trụ nơi pháp giới vô lượng chúng hội đạo tràng Như Lai bình đẳng.

Giảng: Dùng chúng sinh trụ nơi pháp giới, có vô lượng thế gian quang minh bình đẳng, mà vì chúng sinh hồi hướng. Dùng chúng sinh trụ nơi pháp giới, có vô lượng chư Phật Bồ Tát bình đẳng, mà vì chúng sinh hồi hướng. Dùng chúng sinh trụ nơi pháp giới, có vô lượng hạnh nguyện Bồ Tát bình đẳng, mà vì chúng sinh hồi hướng. Dùng chúng sinh trụ nơi pháp giới, có vô lượng Bồ Tát thoát khỏi ba cõi bình đẳng, mà vì chúng sinh hồi hướng. Dùng chúng sinh trụ nơi pháp giới, có vô lượng Bồ Tát giáo hoá chúng sinh, điều phục chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh được trí huệ thanh tịnh bình đẳng, mà vì chúng sinh hồi hướng. Dùng chúng sinh trụ nơi pháp giới, có vô lượng pháp giới không hai bình đẳng, mà vì chúng sinh hồi hướng. Dùng chúng sinh trụ nơi pháp giới, có vô lượng Như Lai chúng hội đạo tràng bình đẳng, mà vì chúng sinh hồi hướng.

 

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát như thị hồi hướng thời, an trụ pháp giới vô lượng bình đẳng thanh tịnh thân, an trụ pháp giới vô lượng bình đẳng thanh tịnh ngữ, an trụ pháp giới vô lượng bình đẳng thanh tịnh tâm, an trụ pháp giới vô lượng bình đẳng chư Bồ-tát thanh tịnh hạnh nguyện, an trụ pháp giới vô lượng bình đẳng thanh tịnh chúng hội đạo tràng, an trụ pháp giới vô lượng bình đẳng vi nhất thiết Bồ Tát quảng thuyết chư Pháp thanh tịnh trí, an trụ pháp giới vô lượng bình đẳng năng nhập tận Pháp giới nhất thiết thế giới thân, an trụ pháp giới vô lượng bình đẳng nhất thiết pháp quang minh thanh tịnh vô úy. Năng dĩ nhất âm tận đoạn nhất thiết chúng sanh nghi võng, tùy kỳ căn dục giai lệnh hoan hỉ, trụ ư vô thượng nhất thiết chủng trí, lực, vô sở úy, tự tại thần thông, quảng đại công đức, xuất ly Pháp trung.

Phật tử ! Khi đại Bồ Tát hồi hướng như vậy, thì an trụ pháp giới vô lượng thân thanh tịnh bình đẳng. An trụ pháp giới vô lượng lời thanh tịnh bình đẳng. An trụ pháp giới vô lượng tâm thanh tịnh bình đẳng. An trụ pháp giới vô lượng hạnh nguyện của các Bồ Tát thanh tịnh bình đẳng. An trụ pháp giới vô lượng chúng hội đạo tràng thanh tịnh bình đẳng. An trụ pháp giới vô lượng bình đẳng vì tất cả Bồ Tát rộng nói pháp trí thanh tịnh. An trụ pháp giới vô lượng bình đẳng thân vào được hết pháp giới tất cả thế giới. An trụ pháp giới vô lượng bình đẳng tất cả pháp quang minh thanh tịnh không sợ hãi, có thể dùng một tiếng dứt hết lưới nghi của tất cả chúng sinh, tuỳ theo căn dục của họ, đều khiến cho hoan hỉ. Trụ nơi vô thượng nhất thiết chủng trí, lực không sợ hãi, thần thông tự tại công đức rộng lớn thoát khỏi ba cõi.

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Khi đại Bồ Tát tu hành Bồ Tát đạo, đem đủ thứ căn lành của Ngài tu tập, hồi hướng như vậy, thì an trụ nơi pháp giới, có vô lượng thân nghiệp thanh tịnh bình đẳng. An trụ nơi pháp giới, có vô lượng ý nghiệp thanh tịnh bình đẳng, khiến cho thân miệng ý ba nghiệp của chúng sinh đều được thanh tịnh. An trụ nơi pháp giới, có vô lượng hạnh nguyện thanh tịnh bình đẳng của các Bồ Tát tu. An trụ nơi pháp giới, có vô lượng chúng hội đạo tràng thanh tịnh bình đẳng. An trụ nơi pháp giới, có vô lượng bình đẳng, hay vì tất cả Bồ Tát rộng nói tất cả các pháp trí huệ thanh tịnh. An trụ nơi pháp giới, có vô lượng phân thân thanh tịnh bình đẳng, vào được hết pháp giới tất cả thế giới. An trụ nơi pháp giới, có vô lượng tất cả pháp quang minh trí huệ thanh tịnh bình đẳng không sợ hãi, có thể dùng một tiếng dứt hết lưới nghi hoặc của tất cả chúng sinh, khiến cho chúng sinh đều được giải thoát, tuỳ thuận căn dục của chúng sinh, đều khiến cho họ được hoan hỉ. An trụ nơi vô thượng nhất thiết chủng trí huệ, đắc được mười lực và bốn điều không sợ hãi, đắc được đại thần thông nhậm vận tự tại, đắc được đại công đức rộng lớn không gì bằng, thoát được khỏi ba cõi.

 

Phật tử! thị vi Bồ-Tát Ma-ha-tát đệ thập trụ đẳng pháp giới vô lượng hồi hướng.

Phật tử ! Đó là hồi hướng trụ đẳng pháp giới vô lượng thứ mười của đại Bồ Tát.

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đủ thứ đạo lý đã nói ở trên, là hồi hướng thứ mười của đại Bồ Tát tu, tên là pháp môn hồi hướng đẳng trụ pháp giới vô lượng.

 

Bồ-Tát Ma-ha-tát dĩ pháp thí đẳng nhất thiết thiện căn như thị hồi hướng thời, thành mãn Phổ Hiền vô lượng vô biên Bồ-tát hạnh nguyện, tất năng nghiêm tịnh tận hư không đẳng Pháp giới nhất thiết Phật sát, lệnh nhất thiết chúng sanh diệc đắc như thị, cụ túc thành tựu vô biên trí tuệ, liễu nhất thiết pháp, ư niệm niệm trung kiến nhất thiết Phật xuất hưng ư thế, ư niệm niệm trung kiến nhất thiết Phật vô lượng vô biên tự tại lực

Khi đại Bồ Tát đem tất cả căn lành bố thí pháp hồi hướng như vậy, thì thành tựu viên mãn vô lượng vô biên hạnh nguyện Bồ Tát của Bồ Tát Phổ Hiền, đều nghiêm tịnh tận hư không đồng pháp giới tất cả cõi Phật. Khiến cho tất cả chúng sinh cũng được thành tựu đầy đủ vô biên trí huệ như vậy, thấu rõ tất cả pháp. Ở trong niệm niệm thấy tất cả chư Phật xuất hiện ra đời. Ở trong niệm niệm thấy vô lượng vô biên sức tự tại của tất cả chư Phật.

Giảng: Khi đại Bồ Tát tu hành Bồ Tát đạo tích tụ đủ thứ căn lành, đem tất cả hết thảy căn lành bố thí pháp, hồi hướng như vậy thì: Thành tựu viên mãn vô lượng vô biên hạnh nguyện Bồ Tát của Bồ Tát Phổ Hiền đã phát ra, thảy đều trang nghiêm thanh tịnh tận hư không khắp pháp giới tất cả cõi nước chư Phật, khiến cho tất cả chúng sinh cũng được thành tựu đầy đủ vô biên trí huệ như vậy, thấu rõ tất cả pháp của chư Phật đã nói. Ở trong niệm niệm, thấy được tất cả chư Phật xuất hiện ra đời. Ở trong niệm niệm, thấy được tất cả chư Phật có vô lượng vô biên sức tự tại.

 

Sở vị: quảng đại tự tại lực, Vô Trước tự tại lực, vô ngại tự tại lực, bất tư nghị tự tại lực, tịnh nhất thiết chúng sanh tự tại lực, lập nhất thiết thế giới tự tại lực, hiện bất khả thuyết ngữ ngôn tự tại lực, tùy thời ưng hiện tự tại lực, trụ Bất-thoái-chuyển Thần thông trí tự tại lực, diễn thuyết nhất thiết vô biên pháp giới tỉ vô hữu dư tự tại lực

Đó là: Sức tự tại rộng lớn. Sức tự tại không chấp trước. Sức tự tại vô ngại. Sức tự tại không nghĩ bàn. Sức tự tại tịnh tất cả chúng sinh. Sức tự tại lập tất cả thế giới. Sức tự tại hiện bất khả thuyết lời nói. Sức tự tại tuỳ thời ứng hiện. Sức tự tại thần thông trí huệ trụ bất thối chuyển. Sức tự tại diễn nói tất cả vô biên pháp giới không sót thừa.

Giảng: Đó là: Sức nhậm vận tự tại rất rộng lớn. Sức nhậm vận tự tại không chấp trước. Sức nhậm vận tự tại không chướng ngại. Sức nhậm vận tự tại không nghĩ bàn. Sức nhậm vận tự tại thanh tịnh tất cả chúng sinh. Sức nhậm vận tự tại kiến lập tất cả thế giới. Sức nhậm vận tự tại hay thị hiện bất khả thuyết nời nói. Sức nhậm vận tự tại tuỳ thời ứng hiện vì chúng sinh thuyết pháp. Sức nhậm vận tự tại thần thông trí huệ trụ nơi không thối chuyển. Sức nhậm vận tự tại diễn nói tất cả vô biên pháp giới không có sót thừa.

 

Xuất sanh Phổ Hiền Bồ Tát vô biên tế nhãn tự tại lực, dĩ vô ngại nhĩ thức văn trì vô lượng chư Phật chánh pháp tự tại lực, nhất thân kết già phu tọa chu biến thập phương vô lượng Pháp giới ư chư chúng sanh vô sở bách ải tự tại lực, dĩ viên mãn trí phổ nhập tam thế vô lượng Pháp tự tại lực.

Sức tự tại sinh ra mắt của Bồ Tát Phổ Hiền không có bờ mé. Sức tự tại dùng nhĩ thức vô ngại, nghe thọ trì vô lượng chánh pháp của chư Phật. Sức tự tại một thân ngồi kiết già, khắp cùng mười phương vô lượng pháp giới, nơi các chúng sinh không chật hẹp. Sức tự tại dùng trí huệ viên mãn, vào khắp vô lượng pháp ba đời.

Giảng: Sức tự tại nầy sinh ra mắt của Bồ Tát Phổ Hiền không có bờ mé. Sức tự tại nầy hay dùng nhĩ thức chẳng có chướng ngại, nghe thọ trì vô lượng chánh pháp của chư Phật diễn nói. Sức tự tại một thân ngồi kiết già, khắp cùng mười phương vô lượng pháp giới, đối với tất cả chúng sinh chẳng có sự chật hẹp. Sức tự tại dùng trí huệ viên mãn, vào khắp vô lượng pháp ba đời.

 

Hựu đắc vô lượng thanh tịnh, sở vị: nhất thiết chúng sanh thanh tịnh, nhất thiết Phật sát thanh tịnh, nhất thiết pháp thanh tịnh, nhất thiết xứ biến tri trí thanh tịnh, biến hư không giới vô biên trí thanh tịnh, đắc nhất thiết sái biệt ngôn âm trí dĩ chủng chủng ngôn âm phổ ưng chúng sanh thanh tịnh, phóng vô lượng viên mãn quang phổ chiếu nhất thiết vô biên thế giới thanh tịnh, xuất sanh nhất thiết tam thế Bồ Tát hạnh trí thanh tịnh, nhất niệm trung phổ nhập tam thế nhất thiết chư Phật chúng hội đạo tràng trí thanh tịnh, nhập vô biên nhất thiết thế gian lệnh nhất thiết chúng sanh giai tác sở ưng tác thanh tịnh.

Lại được vô lượng thanh tịnh. Đó là: Tất cả chúng sinh thanh tịnh. Tất cả cõi Phật thanh tịnh. Tất cả pháp thanh tịnh. Tất cả xứ trí biết khắp thanh tịnh. Khắp cõi hư không trí vô biên thanh tịnh. Được nhất thiết trí lời nói âm thanh khác biệt, dùng đủ thứ lời nói âm thanh ứng khắp chúng sinh thanh tịnh. Phóng ra vô lượng quang minh viên mãn, chiếu khắp tất cả vô biên thế giới thanh tịnh. Sinh ra tất cả Bồ Tát trí hạnh thanh tịnh ba đời. Ở trong một niệm trí thanh tịnh vào khắp chúng hội đạo tràng của tất cả chư Phật ba đời. Vào vô biên tất cả thế gian, khiến cho tất cả chúng sinh đều làm việc thanh tịnh đáng làm.

Giảng: Lại đắc được vô lượng thanh tịnh, tức là tận hư không khắp pháp giới đều thanh tịnh. Chẳng có tất cả mọi vật, chẳng có tất cả mọi việc, gì cũng chẳng có, mới là thanh tịnh, tức là:

  1. Tất cả chúng sinh thanh tịnh, chẳng có nhiễm ô.
  2. Tất cả cõi Phật thanh tịnh, chẳng có nhiễm ô.
  3. Tất cả pháp thanh tịnh, chẳng có nhiễm ô.
  4. Tất cả xứ sở và chánh biến tri thanh tịnh, chẳng có nhiễm ô.
  5. Vô biên trí huệ thanh tịnh đầy khắp cõi hư không, chẳng có nhiễm ô.
  6. Đắc được nhất thiết trí huệ lời lẽ âm thanh, dùng đủ thứ lời lẽ và âm thanh, ứng khắp chúng sinh thanh tịnh, chẳng có nhiễm ô.
  7. Phóng ra vô lượng quang minh viên mãn, chiếu khắp tất cả vô biên thế giới thanh tịnh, chẳng có nhiễm ô.
  8. Sinh ra tất cả Bồ Tát trí hạnh thanh tịnh ba đời, chẳng có nhiễm ô.
  9. Ở trong một niệm, trí huệ thanh tịnh vào khắp chúng hội đạo tràng của tất cả chư Phật ba đời, chẳng có nhiễm ô.
  10. Vào vô biên tất cả thế gian, khiến cho tất cả chúng sinh, đều làm việc thanh tịnh đáng làm, không có nhiễm ô.

 

Như thị đẳng giai đắc cụ túc, giai đắc thành tựu, giai dĩ tu trì, giai đắc bình đẳng, giai tất hiện tiền, giai tất tri kiến, giai tất ngộ nhập, giai dĩ quan sát, giai đắc thanh tịnh, đáo ư bỉ ngạn.

Như vậy đều được đầy đủ, đều được thành tựu, đều đã tu trị, đều được bình đẳng, thảy đều hiện tiền, thảy đều thấy biết, thảy đều ngộ nhập, đều đã quán sát, đều được thanh tịnh, đến bờ bên kia.

Giảng: Thanh tịnh giống như vậy, đều được đủ, đều được thành tựu, đều đã tu trị pháp môn đó, đều được bình đẳng. Nhất thiết trí huệ thảy đều hiện tiền, thảy đều thấy biết, thảy đều ngộ nhập, đều đã quán sát, đều được thanh tịnh, mà đến bờ Niết Bàn bên kia.

 

Nhĩ thời, Phật thần lực cố, thập phương các bách vạn Phật sát vi trần số thế giới lục chủng chấn động, sở vị: động, biến động, đẳng biến động, khởi, biến khởi, đẳng biến khởi, dũng, biến dũng, đẳng biến dũng, chấn, biến chấn, đẳng biến chấn, hống, biến hống, đẳng biến hống, kích, biến kích, đẳng biến kích. Phật thần lực cố, Pháp như thị cố, vũ chúng thiên hoa, Thiên man, Thiên mạt hương, Thiên chư tạp hương, Thiên y phục, Thiên trân bảo, Thiên trang nghiêm cụ, Thiên ma-ni bảo, Thiên trầm thủy hương, Thiên chiên đàn hương, Thiên thượng diệu cái, Thiên chủng chủng tràng, Thiên tạp sắc phan

Bấy giờ, do thần lực của đức Phật, mỗi phương trong mười phương trăm vạn cõi Phật nhiều như số hạt bụi thế giới, đều có sáu thứ chấn động. Đó là: Động, biến động, đẳng biến động. Khởi, biến khởi, đẳng biến khởi. Dũng, biến dũng, đẳng biến dũng. Chấn, biến chấn, đẳng biến chấn. Hống, biến hống, đẳng biến hống. Kích, biến kích, đẳng biến kích. Do thần lực của Phật, do pháp như vậy, mưa xuống các hoa trời, tràng hoa trời, hương bột trời, các tạp hương trời, y phục trời, trân bảo trời, đồ trang nghiêm trời, ma ni báu trời, hương trầm thuỷ trời, hương chiên đàn trời, lọng thượng diệu trời, đủ thứ tràng trời, phan tạp sắc trời.

Giảng: Lúc đó, do đại oai thần lực của đức Phật Thích Ca Mâu Ni và mười phương chư Phật. Mỗi phương trong mười phương có trăm vạn cõi Phật nhiều như số hạt bụi thế giới. Hiện tại khoa học gia chỉ biết trong ngân hà có vô lượng thái dương hệ. Căn cứ nói trong vũ trụ, lại có rất nhiều ngân hà, nhưng không cách gì chứng minh. Ba ngàn năm về trước, đức Phật Thích Ca Mâu Ni dùng Phật nhãn, biết có vô lượng cõi Phật nhiều như số hạt bụi thế giới. Chúng ta mắt thấy, tai nghe mới tin là sự thật, nếu không thấy, không nghe, thì cho rằng là hư vọng không thật, đây là tư tưởng ngu si của phàm phu. Nếu nhận chân dụng công tu hành, thì sẽ đắc được cảnh giới ngũ nhãn lục thông, quán sát được ba ngàn đại thiên thế giới, thật là diệu không thể tả. Khoa học gia tuy nhiên phát hiện trong vũ trụ có vô lượng tinh cầu, nếu so sánh với trăm vạn cõi Phật nhiều như số hạt bụi thế giới, thì cách xa lắm, họ vĩnh viễn không theo đuổi đến được chỗ rốt ráo.

Hết thảy thế giới, đều có sáu thứ chấn động. Đó là: “Động dũng khởi, chấn hống kích”, ở trước thuộc về hình, ở sau thuộc về thanh. Khi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sắp muốn diễn nói Kinh Hoa Nghiêm Đại Phương Quảng Phật, thì có sáu thứ chấn động, biểu thị điềm cát tường. Trong mỗi thứ chấn động lại chia ra làm ba thứ, cộng lại có mười tám thứ hiện tượng phát sinh. Tức là: Động, biến động, đẳng biến động. Khởi, biến khởi, đẳng biến khởi. Dũng, biến dũng, đẳng biến dũng. Chấn, biến chấn, đẳng biến chấn. Hống, biến hống, đẳng biến hống. Kích, biến kích, đẳng biến kích.

Động là bộ phận thế giới giao động, biến động là toàn thế giới giao động, đẳng biến động là hết thảy thế giới giao động. Tình hình năm thứ kia cũng giống như vậy. Đó là do thần lực của Phật, khi đức Phật nói pháp, nhất định có cảnh giới nầy.

Đồng thời, trên trời mưa xuống đủ thứ hoa trời, tràng hoa trời, hương bột trời, tạp hương trời, y phục trời, trân báu trời, đồ trang nghiêm trời, ma ni báu trời, hương trầm thuỷ trời, hương chiên đàn trời, lọng thượng diệu trời, đủ thứ tràng trời, phan tạp sắc trời .v.v… để trang nghiêm đạo tràng, thanh tịnh pháp hội.

 

A-tăng-kì chư Thiên thân. Vô lượng bách thiên ức bất khả thuyết Thiên diệu pháp âm, bất khả tư nghị Thiên tán Phật âm, a tăng kì Thiên hoan hỉ âm, hàm xưng Thiện tai. Vô lượng a-tăng-kì bách thiên na-do-tha chư Thiên cung kính lễ bái. Vô số Thiên Tử thường niệm chư Phật, hy cầu Như Lai vô lượng công đức, tâm bất xả ly. Vô số Thiên Tử tác chúng kĩ lạc, ca vịnh tán thán cúng dường Như Lai. bách thiên a-tăng-kì chư Thiên phóng đại quang minh, phổ chiếu tận hư không biến Pháp giới nhất thiết Phật sát, hiện vô lượng a-tăng-kì chư Phật cảnh giới. Như Lai hóa thân xuất qua chư Thiên

A tăng kỳ thân trời, vô lượng trăm ngàn ức bất khả thuyết pháp âm trời, không thể nghĩ bàn tiếng trời khen ngợi Phật. A tăng kỳ tiếng trời hoan hỉ, đều xưng lành thay ! Vô lượng A tăng kỳ trăm ngàn Na do tha vị trời cung kính lễ bái. Vô số Thiên tử, thường niệm chư Phật, mong cầu vô lượng công đức của Như Lai, tâm không xả lìa. Vô số Thiên tử tấu các kỹ nhạc, ca ngâm tán thán, cúng dường Như Lai. Trăm ngàn A tăng kỳ các vị trời, phóng đại quang minh, chiếu khắp tận hư không biến pháp giới tất cả cõi Phật, hiện ra vô lượng A tăng kỳ cảnh giới của chư Phật, hoá thân của Như Lai, vượt hơn các vị trời.

Giảng: Có A tăng kỳ thân các vi trời, có vô lượng trăm ngàn ức bất khả thuyết pháp âm của các vị trời, có tiếng của các vị trời nhiều không thể nghĩ bàn khen ngợi Phật, có A tăng kỳ tiếng các vị trời hoan hỉ, đều xưng lành thay ! Có vô lượng A tăng kỳ trăm ngàn Na do tha các vị trời, cung kính lễ bái đức Phật. Có vô số thiên tử, thường niệm mười phương chư Phật, mong cầu được vô lượng công đức của Phật, cho nên tâm không xả lìa Phật. Vô số Thiên tử, tấu lên đủ thứ âm nhạc, ca ngâm Phật, tán thán Phật, cúng dường Phật. Có trăm ngàn A tăng kỳ các vị trời, phóng đại quang minh, chiếu khắp tận hư không biến pháp giới tất cả cõi Phật, hiện ra vô lượng A tăng kỳ cảnh giới chư Phật. Hoá thân của Phật, vượt hơn số các vị trời, vì Phật có trăm ngàn ức hoá thân.

 

Như ư thử thế giới Đâu-Xuất-Đà Thiên cung thuyết như thị pháp, chu biến thập phương nhất thiết thế giới Đâu suất thiên cung tất diệc như thị.

Như ở tại cung trời Đâu Suất thế giới nầy là như vậy. Các cung trời Đâu Suất khắp cùng mười phương trong tất cả thế giới cũng đều như vậy.

Giảng: Giống như ở tại cung trời Đâu Suất thế giới Ta Bà nầy, nói pháp thập hồi hướng Kinh Hoa Nghiêm. Khắp cùng mười phương cung trời Đâu Suất trong tất cả thế giới, cũng đều diễn nói pháp thập hồi hướng Kinh Hoa Nghiêm. Cảnh giới như vậy, chỉ có ở trong đại pháp hội Hoa Nghiêm, mới xuất hiện.

 

Nhĩ thời, phục dĩ Phật thần lực cố, thập phương các qua bách vạn Phật sát vi trần số thế giới ngoại, các hữu bách vạn Phật sát vi trần số chư Bồ-tát nhi lai tập hội, chu biến thập phương, hàm tác thị ngôn: Thiện tai thiện tai! Phật tử! nãi năng thuyết thử chư Đại hồi hướng.

Phật tử! ngã đẳng giai đồng nhất hiệu, danh: Kim cương tràng, tất tùng Kim cương quang thế giới Kim cương tràng Phật sở lai nghệ thử độ. bỉ chư thế giới tất dĩ Phật thần lực cố nhi thuyết thị pháp, chúng hội quyến thuộc, văn từ cú nghĩa, giai diệc như thị, bất tăng bất giảm. Ngã đẳng giai thừa Phật thần lực, tòng bỉ độ lai vi nhữ tác chứng. Như ngã lai thử chúng hội vi nhữ tác chứng, thập phương sở hữu nhất thiết thế giới Đâu suất thiên cung bảo trang nghiêm điện chư Bồ-tát chúng lai vi tác chứng

Bấy giờ, lại do thần lực của đức Phật, mỗi phương trong mười phương qua khỏi trăm vạn cõi Phật các thế giới nhiều như số hạt bụi, đều có trăm vạn cõi Phật các Bồ Tát nhiều như số hạt bụi đến tụ hội, đều nói rằng: Lành thay, lành thay ! Phật tử ! Có thể nói các đại hồi hướng nầy.

Phật tử ! Chúng tôi đều đồng một hiệu là Kim Cang Tràng, đều từ thế giới Kim Cang Quang, chỗ đức Phật Kim Cang Tràng mà đến cõi nầy. Các thế giới đó, đều do thần lực của Phật, mà nói pháp nầy. Chúng hội quyến thuộc, văn từ câu nghĩa, cũng đều như vậy, không tăng không giảm. Chúng tôi đều nương thần lực của Phật, từ cõi đó mà đến đây, vì Ngài mà làm chứng. Như chúng tôi đến hội nầy vì Ngài mà làm chứng, mười phương hết thảy tất cả thế giới cung trời Đâu Suất Điện Bảo Trang Nghiêm các Bồ Tát đến làm chứng, cũng lại như vậy.

Giảng: Lúc đó, lại do đại oai thần lực của Phật, mỗi phương trong mười phương trải qua trăm vạn cõi Phật các thế giới nhiều như số hạt bụi, đều có trăm vạn cõi Phật các Bồ Tát nhiều như số hạt bụi, tụ hội đến Hoa Nghiêm đạo tràng, Bồ Tát khắp cùng mười phương đều nói: “Lành thay, lành thay ! Phật tử ! Hiện tại Ngài đang nói pháp môn đại hồi hướng.

Phật tử ! Chúng tôi đều đồng một danh hiệu, gọi là Kim Cang Tràng. Chúng tôi đều từ thế giới Kim Cang Quang, chỗ của đức Phật Kim Cang Tràng đến cung trời Đâu Suất của thế giới Ta Bà. Mười phương hết thảy tất cả thế giới, đều hoàn toàn như vậy, cũng không tăng một chữ, cũng không giảm một câu. Chúng tôi nương oai lực của Phật, từ thế giới Kim Cang Quang đến cung trời Đâu Suất của thế giới Ta Bà, để vì Ngài làm chứng, giống như chúng tôi đến pháp hội nầy làm chứng. Mười phương hết thảy tất cả thế giới, cung trời Đâu Suất điện Bảo Trang Nghiêm, cũng có tất cả Bồ Tát đến làm chứng, cũng tình hình như vậy”.

 

Nhĩ thời, Kim cương Tràng Bồ-tát thừa Phật thần lực, quan sát thập phương nhất thiết chúng hội kiêm vu Pháp giới dĩ, thiện tri văn nghĩa, tăng quảng đại tâm, đại bi phổ phước nhất thiết chúng sanh, hệ tâm an trụ tam thế Phật chủng, thiện nhập nhất thiết Phật công đức Pháp, thành tựu chư Phật tự tại chi thân, quán chư chúng sanh tâm chi sở lạc, cập kỳ sở chủng nhất thiết thiện căn tất phân biệt tri, tùy thuận Pháp thân, vi hiện thanh tịnh diệu sắc chi thân, tức ư thị thời nhi thuyết tụng viết:

Bấy giờ, Bồ Tát Kim Cang Tràng nương thần lực của đức Phật, quán sát tất cả chúng hội, khắp mười phương pháp giới, khéo biết văn nghĩa, tăng trưởng tâm rộng lớn, đại bi che khắp tất cả chúng sinh, hệ tâm an trụ giống Phật ba đời, khéo vào tất cả pháp công đức của Phật, thành tựu thân tự tại của chư Phật. Quán tâm ưa thích của các chúng sinh, và sự gieo trồng tất cả căn lành của họ, đều phân biệt biết, tuỳ thuận pháp thân, mà thị hiện thân sắc đẹp thanh tịnh, liền lúc đó nói kệ rằng.

Giảng: Lúc đó, Bồ Tát Kim Cang Tràng nương đại oai thần lực gia trì của đức Phật Thích Ca Mâu Ni, quán sát khắp tất cả chúng hội và pháp giới rồi, khéo biết nghĩa lý Kinh văn, tăng trưởng tâm rộng lớn, tâm đại bi che khắp tất cả chúng sinh. Hệ tâm an trụ giống Phật ba đời, khéo vào tất cả pháp công đức của chư Phật, thành tựu thân tự tại của tất cả chư Phật, quán sát sự ưa thích trong tâm của tất cả chúng sinh, cùng với sự gieo trồng căn lành của tất cả chúng sinh, biết rõ tỉ mỉ là sâu hay cạn. Tuỳ thuận pháp thân thanh tịnh, mà thị hiện báo thân sắc đẹp thanh tịnh, liền lúc đó nói ra bốn mươi bảy bài kệ dưới đây.

 

Bồ Tát thành tựu pháp trí tuệ Bồ Tát thành tựu pháp trí huệ
Ngộ giải vô biên chánh Pháp môn, Ngộ hiểu vô biên môn chánh pháp
Vi pháp quang minh điều ngự sư Là pháp quang minh Điều Ngự Sư
Liễu tri vô ngại chân thật Pháp. Biết rõ pháp chân thật vô ngại.

Bồ Tát tu pháp thập hồi hướng, thành tựu tất cả diệu pháp trí huệ, ngộ hiểu vô lượng vô biên chánh pháp nhãn tạng. Bồ Tát là Điều Ngự Sư của pháp quang minh, biết rõ pháp chân thật chẳng có chướng ngại.

 

Bồ Tát vi Pháp đại đạo sư, Bồ Tát là pháp đại đạo sư
Khai thị thậm thâm nan đắc Pháp, Khai thị pháp thâm sâu khó được
Dẫn đạo thập phương vô lượng chúng Dẫn đạo mười phương vô lượng chúng
Tất lệnh an trụ chánh pháp trung. Đều khiến an trụ trong chánh pháp.

Bồ Tát vì hoằng dương Phật pháp, làm đại đạo sư của chúng sinh, khai thị diệu pháp vô thượng thâm sâu nhiệm mầu khó được, dẫn đạo mười phương vô lượng vô biên chúng sinh, đều an trụ ở trong chánh pháp.

 

Bồ Tát dĩ ẩm Phật Pháp hải, Bồ Tát đã uống biển Phật pháp
Pháp vân phổ vũ thập phương giới, Mây pháp mưa khắp mười phương cõi
Pháp nhật xuất hiện ư thế gian Mặt trời pháp xuất hiện thế gian
Xiển dương diệu pháp lợi quần sanh. Xiển dương diệu pháp lợi quần sinh.

Bồ Tát đã uống hết nước biển cả Phật pháp, có thể làm mây pháp lớn, mưa pháp vũ lớn, giáo hoá tất cả chúng sinh trong mười phương, giống như mặt trời pháp xuất hiện nơi thế gian, khắp nơi xiển dương diệu pháp, làm lợi ích tất cả chúng sinh.

 

Thường vi nan ngộ Pháp thí chủ Thường làm pháp thí chủ khó gặp
Liễu tri nhập Pháp xảo phương tiện, Biết rõ vào pháp phương tiện khéo
Pháp quang thanh tịnh chiếu kỳ tâm Pháp quang thanh tịnh chiếu tâm họ
Ư thế thuyết Pháp hằng vô úy. Nơi đời nói pháp luôn không sợ.

Bồ Tát chẳng dễ gì gặp được, Bồ Tát thường dùng pháp để bố thí, cho nên gọi là pháp thí chủ. Bồ Tát biết phương tiện khéo léo làm thế nào để vào pháp, dùng quang của pháp, thanh tịnh chiếu khắp tâm chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh đắc được đại trí huệ, đại biện tài, đại thọ dụng, đại an lạc. Bồ Tát ở trong cõi nước chư Phật mười phương, diễn nói tất cả diệu pháp, giáo hoá tất cả chúng sinh, thường không sợ hãi.

 

Thiện tu ư pháp tự tại tâm Khéo tu các pháp tâm tự tại
Tất năng ngộ nhập chư Pháp môn, Đều được ngộ vào các pháp môn
Thành tựu thậm thâm diệu pháp hải, Thành tựu biển diệu pháp thâm sâu
Phổ vi chúng sanh kích pháp cổ. Khắp vì chúng sinh đánh trống pháp.

Bồ Tát khéo tu pháp môn lục độ, đắc được tâm nhậm vận tự tại, tức cũng là sức thần thông. Vì tu lục độ, nên được ngộ vào tất cả pháp môn, thành tựu tám vạn bốn ngàn pháp môn. Bồ Tát có thể thành tựu biển pháp thâm sâu vi diệu, khắp vì chúng sinh đánh trống pháp, khiến cho tất cả mê mộng liền thức tỉnh.

 

Tuyên thuyết thậm thâm hy hữu Pháp Tuyên nói pháp thâm sâu hi hữu
Dĩ pháp trưởng dưỡng chư công đức, Dùng pháp nuôi lớn các công đức
Cụ túc thanh tịnh Pháp hỉ tâm, Đầy đủ tâm pháp hỉ thanh tịnh
Thị hiện thế gian Phật pháp tạng. Thị hiện thế gian tạng Phật pháp.

Bồ Tát tuyên nói diệu pháp thâm sâu hi hữu, khiến cho chúng sinh đều thấu hiểu thông đạt tất cả pháp lý. Như có thể y theo pháp tu hành, thì sẽ chứng được quả vị bồ đề. Bồ Tát vì chúng sinh nói pháp, dùng pháp để nuôi lớn tất cả căn lành công đức, khiến cho tăng trưởng thành thục. Phàm là chúng sinh nghe được pháp, thì sáu căn đầy đủ thanh tịnh, pháp hỉ sung mãn, tâm sinh hoan hỉ. Bồ Tát thế Phật giáo hoá chúng sinh, cho nên hay khai thị thế gian bảo tạng Phật pháp, do đó: “Vào sâu tạng Kinh, trí huệ như biển”.

 

Chư Phật Pháp Vương sở quán đảnh Được chư Phật Pháp Vương quán đảnh
Thành tựu pháp tánh Trí Tạng thân, Thành tựu thân pháp tánh trí tạng
Tất năng giải liễu Pháp thật tướng, Đều hiểu rõ được pháp thật tướng
An trụ nhất thiết chúng thiện Pháp An trụ tất cả các pháp lành.

Bồ Tát làm đại Pháp Vương của mười phương chư Phật, tương lai sẽ thành Phật, cho nên được chư Phật đến quán đảnh, thành tựu thân pháp tánh trí huệ bảo tạng, đều hiểu rõ được lý thể các pháp thật tướng, luôn luôn an trụ ở trong tất cả các pháp lành.

 

Bồ Tát tu hành đệ nhất thí, Bồ Tát tu hành thí bậc nhất
Nhất thiết Như Lai sở tán hỉ, Được tất cả Như Lai mừng khen
Sở tác giai mông Phật nhẫn khả, Chỗ làm đều được Phật nhẫn khả
Dĩ thử thành tựu nhân trung tôn. Nhờ đó thành tựu Nhân Trung Tôn.

Bồ Tát thường tu hành bố thí bậc nhất, tức là bố thí Ba La Mật. Hết thảy tất cả chư Phật, đều khen ngợi hoan hỉ. Bồ Tát làm tất cả các pháp, đều được Phật nhẫn khả mà ấn chứng, nhờ đó mà thành tựu Nhân Trung Tôn, tức là bậc trên hết.

 

Bồ Tát thành tựu diệu Pháp thân, Bồ Tát thành tựu thân diệu pháp
Thân tùng chư Phật Pháp hóa sanh, Đều từ pháp chư Phật hoá sinh
Vi lợi chúng sanh tác pháp đăng, Vì lợi chúng sinh làm đèn pháp
Diễn thuyết vô lượng tối thắng Pháp. Diễn nói vô lượng pháp tối thắng.

Bồ Tát tu hành tất cả pháp môn, cho nên thành tựu pháp thân vi diệu không thể nghĩ bàn. Thân tự ở chỗ chư Phật, đắc được pháp của chư Phật, từ pháp mà hoá sinh. Vì lợi ích tất cả chúng sinh mà làm đèn báu pháp, chiếu sáng mười phương thế giới, vì chúng sinh diễn nói vô lượng pháp thù thắng.

 

Tùy sở tu hành diệu pháp thí, Tuỳ sự tu hành bố thí pháp
Tức diệc quan sát bỉ thiện căn, Tức cũng quán sát căn lành đó
Sở tác chúng thiện vi chúng sanh Vì chúng sinh làm các việc thiện
Tất dĩ trí tuệ nhi hồi hướng. Đều dùng trí huệ mà hồi hướng.

Bồ Tát tuỳ thời tuỳ lúc tu hành pháp thí trong pháp môn bố thí, để giáo hoá tất cả chúng sinh. Thời thường quán sát căn lành của chúng sinh, thành thục rồi, hoặc chưa thành thục ? Do đó: “Vì người nói pháp, theo bệnh cho thuốc”. Bồ Tát làm tất cả Phật sự, gieo trồng tất cả căn lành, đều vì chúng sinh mà tu hành. Đều dùng trí huệ diệu quán sát trí, để vì chúng sinh hồi hướng.

 

Sở hữu thành Phật công đức Pháp, Hết thảy pháp công đức thành Phật
Tất dĩ hồi thí chư quần sanh, Đều đem hồi hướng các quần sinh
Nguyện lệnh nhất thiết giai thanh tịnh Nguyện cho tất cả đều thanh tịnh
Đáo Phật trang nghiêm chi bỉ ngạn. Đến bờ bên kia Phật trang nghiêm.

Pháp môn của Bồ Tát tu hành, tích tụ pháp công đức thành Phật, hoàn toàn hồi hướng bố thí cho tất cả chúng sinh, nguyện cho tất cả chúng sinh, đều đắc được trí huệ thanh tịnh, có thể trở về cội nguồn, cải tà quy chánh, đắc được pháp thân thanh tịnh vốn có, đến được bờ bên kia sự trang nghiêm của mười phương chư Phật.

 

Thập phương Phật sát vô hữu lượng, Mười phương cõi Phật vô lượng biên
Tất cụ vô lượng đại trang nghiêm, Đều đủ vô lượng đại trang nghiêm
Như thị trang nghiêm bất khả tư, Như vậy trang nghiêm không nghĩ bàn
Tận dĩ trang nghiêm nhất quốc độ. Dùng hết trang nghiêm một cõi nước.

Cõi nước của mười phương chư Phật nhiều khó tính biết được, thảy đều đầy đủ vô lượng vô biên đại trang nghiêm, sự trang nghiêm đó không thể nghĩ bàn. Dùng hết tất cả sự trang nghiêm đó, để trang nghiêm một cõi Phật. Cõi nước của mười phương chư Phật, cũng tình hình như vậy.

 

Như Lai sở hữu thanh tịnh trí, Hết thảy trí thanh tịnh của Phật
Nguyện lệnh chúng sanh giai cụ túc Nguyện khiến chúng sinh đều đầy đủ
Do như Phổ Hiền chân Phật tử, Giống như Phổ Hiền chân Phật tử
Nhất thiết công đức tự trang nghiêm. Tất cả công đức tự trang nghiêm

Hết thảy trí huệ thanh tịnh của mười phương chư Phật, nguyện cho tất cả chúng sinh đều được đầy đủ. Giống như Bồ Tát Phổ Hiền vị đệ tử chân chánh của Phật, tất cả công đức lành, đều đầy đủ tự trang nghiêm.

 

Thành tựu quảng đại thần thông lực, Thành tựu sức thần thông rộng lớn
Vãng nghệ thế giới tất chu biến, Đi đến thế giới đều khắp cùng
Nhất thiết chúng sanh vô hữu dư, Tất cả chúng sinh không thừa sót
Giai sử tu hành Bồ Tát đạo. Đều khiến tu hành Bồ Tát đạo.

Bồ Tát thành tựu sức thần thông rộng lớn, có thể đến khắp cùng mười phương tất cả thế giới, giáo hoá tất cả chúng sinh, chẳng có thừa sót. Tóm lại, hết thảy chúng sinh, đều được Bồ Tát giáo hoá, đều có thể tu hành đạo của Bồ Tát tu.

 

Chư Phật Như Lai sở khai ngộ, Chỗ chư Phật Như Lai khai ngộ
Thập phương vô lượng chư chúng sanh, Mười phương vô lượng các chúng sinh
Nhất thiết giai lệnh như Phổ Hiền, Tất cả đều khiến như Phổ Hiền
Cụ túc tu hành tối thượng hạnh Tu hành đầy đủ hạnh tối thượng.

Thần thông diệu dụng của mười phương chư Phật, dùng quang minh gia bị mười phương vô lượng chúng sinh, khiến cho họ khai ngộ, khiến cho tất cả chúng sinh, đều giống Bồ Tát Phổ Hiền, tu hành đầy đủ hạnh Bồ Tát tối thượng.

 

Chư Phật Bồ-tát sở thành tựu, Chư Phật Bồ Tát đã thành tựu
Chủng chủng sái biệt chư công đức, Đủ thứ các công đức khác nhau
Như thị công đức vô hữu biên, Công đức như vậy vô lượng biên
Nguyện sử chúng sanh tất viên mãn. Nguyện khiến chúng sinh đều viên mãn.

Chư Phật và Bồ Tát thành tựu vô lượng vô biên đủ thứ các công đức khác nhau như vậy. Nguyện khiến cho tất cả chúng sinh, đều có thể đắc được viên mãn đủ thứ công đức.

Bồ Tát cụ túc tự tại lực, Bồ Tát đầy đủ sức tự tại
Sở ưng học xứ giai vãng học, Chỗ đáng học đều đi đến học
Thị Hiện-Nhất-Thiết đại thần thông, Thị hiện tất cả đại thần thông
Phổ nghệ thập phương vô lượng độ. Đến khắp mười phương vô lượng cõi.

Bồ Tát đầy đủ sức nhậm vận tự tại, đáng đến chỗ vị Phật nào học tập Phật pháp, thì đến chỗ vị đó học tập Phật pháp. Bồ Tát thường thị hiện hết thảy đại thần thông, đến khắp mười phương vô lượng cõi nước của chư Phật, để giáo hoá chúng sinh.

 

Bồ Tát năng ư nhất niệm khoảnh, Bồ Tát có thể trong một niệm
Cận đẳng chúng sanh vô số Phật, Thấy vô số Phật đồng chúng sinh
Hựu phục ư nhất mao đoan trung, Lại ở trong một lỗ chân lông
Tận nhiếp chư Pháp giai minh kiến. Nhiếp hết các pháp đều thấy rõ.

Bồ Tát có thể ở trong một niệm, có thể thấy vô số các đức Phật đồng chúng sinh. Lại có thể ở trong một lỗ chân lông, nhiếp hết tất cả các pháp, khiến cho tất cả chúng sinh, đều hiển rõ nhìn thấy cảnh giới đó.

 

Thế gian chúng sanh vô hữu lượng, Chúng sinh thế gian vô lượng biên
Bồ Tát tất năng phân biệt tri, Bồ Tát đều phân biệt biết được
Chư Phật vô lượng đẳng chúng sanh Chư Phật vô lượng đồng chúng sinh
Đại tâm cúng dường hàm lệnh tận. Đại tâm cúng dường đều khắp hết.

Chúng sinh thế gian khó mà tính đếm được, nhưng Bồ Tát đều phân biệt được rõ ràng, còn biết có bao nhiêu chúng sinh. Mười phương chư Phật số lượng nhiều đồng với chúng sinh. Bồ Tát phát tâm đại bồ đề, cúng dường hết thảy mười phương chư Phật. Tóm lại, chẳng có một vị Phật nào không cúng dường.

 

Chủng chủng danh hương thượng diệu hoa, Đủ thứ hương thơm hoa tốt đẹp
Chúng bảo y thường cập phan cái, Châu báu xiêm y và phan lọng
Phân bố Pháp giới hàm sung mãn, Phân bố pháp giới đều đầy dẫy
Phát tâm phổ cúng thập phương Phật. Phát tâm cúng khắp mười phương Phật.

Bồ Tát dùng đủ thứ hương thơm quý và hoa tốt đẹp, tất cả các châu báu, tất cả xiêm y, tất cả phan báu, tất cả lọng báu, những đồ trang nghiêm đó, phân bố nơi pháp giới, đầy dẫy tất cả mọi nơi. Bồ Tát phát tâm đại bồ đề, cúng dường khắp mười phương chư Phật.

 

Nhất mao khổng trung tất minh kiến, Trong một lỗ lông đều thấy rõ
Bất tư nghị số vô lượng Phật, Số vô lượng Phật không nghĩ bàn
Nhất thiết mao khổng giai như thị, Tất cả lỗ lông đều như vậy
Phổ lễ nhất thiết thế gian đăng. Lễ khắp tất cả Đèn Thế Gian

Bồ Tát có thể ở trong một lỗ chân lông, đều thấy rõ tất cả chư Phật. Có vô lượng chư Phật nhiều không thể nghĩ bàn, nhìn được rất rõ ràng. Ở trong tất cả lỗ chân lông, cũng đều như vậy. Đảnh lễ khắp tất cả Đèn Thế Gian, tức cũng là Phật.

 

Cử thân thứ đệ cung kính lễ, Dùng thân thứ tự cung kính lạy
Như thị vô biên chư tối thắng, Như vậy vô biên Phật tối thắng
Diệc dĩ ngôn từ phổ xưng tán, Cũng dùng lời lẽ khen ngợi khắp
Cùng tận vị lai nhất thiết kiếp. Hết thuở vị lai tất cả kiếp.

Bồ Tát năm thể sát đất thứ tự để cung kính lễ lạy chư Phật, vô biên Phật tối thù thắng, lại dùng lời lẽ để khen ngợi, dù hết kiếp thuở vị lai tất cả kiếp, cũng khen ngợi như vậy.

 

Nhất Như Lai sở cúng dường cụ, Một chỗ Như Lai cúng dường đủ
Kỳ số vô lượng đẳng chúng sanh, Số đó vô lượng đồng chúng sinh
Như thị cúng dường nhất Như Lai, Như vậy cúng dường một Như Lai
Nhất thiết Như Lai diệc phục nhiên. Tất cả Như Lai cũng như thế.

Ở tại chỗ của một vị Phật cúng dường đồ trang nghiêm, số mục đó vô lượng, đồng với số của chúng sinh, như vậy cúng dường một vị Phật. Tất cả vị Phật, cũng tình hình như vậy.

 

Cúng dường tán thán chư Như Lai, Cúng dường khen ngợi các Như Lai
Tận bỉ thế gian nhất thiết kiếp Hết tất cả kiếp thế gian đó
Thế gian kiếp số khả chung tận, Thế gian kiếp số có thể hết
Bồ Tát cúng dường vô hưu giải. Bồ Tát cùng dường không ngừng nghỉ.

Phàm là người tu hành Bồ Tát đạo, phải cúng dường Tam Bảo, khen ngợi Tam Bảo, lễ bái Tam Bảo, phải hết tất cả kiếp thế gian. Kiếp số thế gian tuy nhiên có lúc sẽ hết, nhưng Bồ Tát cúng dường mười phương chư Phật, chẳng có lúc nào ngừng nghỉ giải đãi.

 

Nhất thiết thế gian chủng chủng kiếp, Tất cả thế gian đủ thứ kiếp
Ư nhĩ sở kiếp tu chư hạnh, Trong những kiếp đó tu các hạnh
Cung kính cúng dường nhất Như Lai Cung kính cúng dường một Như Lai
Tận nhất thiết kiếp Vô yếm túc. Hết tất cả kiếp không nhàm đủ.

Tất cả thế gian có đủ thứ kiếp, ở trong tất cả kiếp tu tập tất cả các hạnh-hạnh Bồ Tát. Cung kính cúng dường một vị Phật, dù trải qua hết tất cả kiếp, cũng không khi nào cảm thấy nhàm mỏi.

 

Như vô lượng kiếp cung nhất Phật, Như vô lượng kiếp cúng một Phật
Cung nhất thiết Phật giai như thị, Cúng tất cả Phật đều như vậy
Diệc bất phân biệt thị kiếp số Cũng không phân biệt kiếp số đó
Ư sở cúng dường sanh bì yếm. Với sự cúng dường không nhàm mỏi.

Như ở trong vô lượng kiếp cúng dường một vị Phật, cúng dường tất cả vị Phật cũng như vậy. Cũng không phân biệt có bao nhiêu kiếp số, chẳng vì kiếp số quá nhiều, thời gian lâu dài mà đối với sự cúng dường sinh ra tâm nhàm mỏi. Bất cứ lúc nào vẫn cung kính kiền thành cúng dường mười phương chư Phật.

 

Pháp giới quảng đại vô biên tế, Pháp giới rộng lớn không bờ mé
Bồ Tát quan sát tất minh liễu, Bồ Tát quán sát đều thấu rõ
Dĩ đại liên hoa biến bố trung, Dùng hoa sen lớn rải khắp nơi
Thí đẳng chúng sanh vô lượng Phật. Thí vô lượng Phật đồng chúng sinh.

Pháp giới rộng lớn nhất mà chẳng có bờ mé. Bồ Tát dùng năm nhãn (Thiên nhãn, nhục nhãn, pháp nhãn, huệ nhãn, Phật nhãn) để quán sát, hoàn toàn thấu rõ hiểu được, biết bờ mé rốt ráo. Dùng hoa sen lớn đầy khắp trong đó, bố thí cho vô lượng đức Phật nhiều đồng với số chúng sinh.

 

Bảo hoa hương sắc giai viên mãn, Hoa báu hương sắc đều viên mãn
Thanh tịnh trang nghiêm thậm vi diệu, Thanh tịnh trang nghiêm rất vi diệu
Nhất thiết thế gian vô khả dụ, Tất cả thế gian không thể dụ
Trì dĩ cúng dường nhân trung tôn. Cầm đem cúng dường Nhân Trung Tôn.

Mùi hương và nhan sắc của hoa sen báu đều viên mãn, không những thanh tịnh trang nghiêm, mà còn rất vi diệu. Cảnh giới hoa sen đó, tất cả thế gian đều không thể sánh bằng. Bồ Tát tay cầm hoa sen đến cúng dường đấng Nhân Trung Tôn-Phật.

 

Chúng sanh số đẳng vô lượng sát, Chúng sinh số đồng vô lượng cõi
Chư diệu bảo cái mãn kỳ trung, Các lọng báu đẹp đầy trong đó
Tất dĩ cúng dường nhất Như Lai, Đều đem cúng dường một Như Lai
Cung nhất thiết Phật giai như thị. Cúng tất cả Phật đều như vậy.

Phàm là vật có mạng sống, đều là chúng sinh. Chúng duyên giả hợp mà sinh, gọi là chúng sinh. Chúng duyên tức là đất nước gió lửa bốn đại, thêm vào “thức”, thì thành chúng sinh. Phàm là chúng sinh có khí huyết, là hữu tình chúng sinh (động vật); chúng sinh chẳng có khí huyết là vô tình chúng sinh (thực vật). Số lượng chúng sinh rất nhiều, chẳng cách chi thống kê ra được rốt ráo có bao nhiêu. Có chúng sinh số đồng với cõi Phật, đều dùng các lọng báu đẹp đầy dẫy ở trong mỗi cõi Phật, đem tất cả lọng báu đẹp đó để cúng dường một vị Phật. Chẳng những cúng dường một vị Phật là như vậy, mà còn cúng dường tất cả chư Phật, cũng đều như vậy.

Chúng ta là người học Phật pháp, phải đạp trên mặt đất mà tu hành, thành thật dụng công, đừng tham đồ hư danh. Nếu thích giả danh, thì chẳng có ích gì đối với việc tu đạo. Chúng ta phải làm đến việc hữu thật vô danh, đừng có tham cầu việc hữu danh không thật. Hữu danh không thật là tốt giả, có thật tại sự tướng biểu hiện ra, đây gọi là hữu thật vô danh, đừng tham cầu giả danh, cử chỉ hành động, lời nói việc làm, đều phải chân thật mà làm. Làm nhiều điều chân thật, đó mới là bản sắc của Phật giáo đồ. Nhất định phải ở trong nội tâm sung thực đạo đức, có học vấn, có trí huệ, đó mới là có bản lãnh. Đừng tham danh của thế gian, thích cái tốt của thế gian, đó là nở hoa dại mà chẳng kết quả thật. Điểm nầy rất quan trọng, hy vọng các vị chú ý.

 

Đồ hương vô bỉ tối thù thắng, Hương thoa thù thắng không gì sánh
Nhất thiết thế gian vị tằng hữu, Tất cả thế gian chưa từng có
Dĩ thử cúng dường Thiên Nhân Sư Đem đến cúng dường Thầy Trời Người
Cùng tận chúng sanh số đẳng kiếp. Cùng tận chúng sinh đồng số kiếp.

Dùng hương thoa tối thượng đặc biệt thù thắng, không cách chi so sánh được, ở trên thế gian chưa từng có thứ hương nầy. Dùng thứ hướng thoa nầy, cúng dường Thầy Trời Người — Phật. Cùng tận chúng sinh đồng với số kiếp, cúng dường chư Phật không ngừng nghỉ.

 

Mạt hương thiêu hương thượng diệu hoa, Hương bột hương đốt hoa thượng diệu
Chúng bảo y phục trang nghiêm cụ, Châu báu y phục đồ trang nghiêm
Như thị cúng dường chư tối thắng Như vậy cúng dường các đức Phật
Hoan hỉ phụng sự Vô yếm túc. Hoan hỉ phụng sự không nhàm đủ.

Dùng hương bột và hương đốt để trang nghiêm, dùng hoa đẹp thượng hạng để trang nghiêm, dùng tất cả châu báu để trang nghiêm, dùng tất cả y báu để trang nghiêm. Đem đủ thứ đồ trang nghiêm, để cúng dường chư Phật, tâm sinh hoan hỉ phụng sự đức Phật, chẳng có lúc nào nhàm chán và biết đủ.

 

Đẳng chúng sanh số chiếu thế đăng Số Chiếu Thế Đăng đồng chúng sinh
Niệm niệm thành tựu Đại bồ-đề, Niệm niệm thành tựu đại bồ đề
Diệc dĩ vô biên kệ xưng thuật, Cũng dùng vô biên kệ tán thán
Cúng dường nhân trung điều ngự giả. Cúng dường đấng Điều Ngự trong đời.

Đấng Chiếu Thế Đăng — Phật, nhiều đồng với số chúng sinh. Ở trong niệm niệm, thành tựu đại bồ đề, dùng vô lượng vô biên bài kệ, để tán thán khen ngợi công đức của chư Phật, cúng dường đấng Điều Ngự — Phật trong đời.

 

Như chúng sanh số Phật Thế tôn Số Phật Thế Tôn như chúng sinh
Giai tu vô thượng diệu cúng dường, Đều tu diệu cúng dường vô thượng
Như chúng sanh số vô lượng kiếp Số vô lượng kiếp như chúng sinh
Như thị tán thán vô cùng tận. Như vậy khen ngợi không cùng tận.

Phật Thế Tôn nhiều giống như chúng sinh, trong quá khứ đều tu diệu cúng dường vô thượng. Vô lượng kiếp nhiều giống như số chúng sinh, như vậy tán thán khen ngợi Phật, khen ngợi Pháp, khen ngợi Tăng, vĩnh viễn cũng khen ngợi không xong, chẳng khi nào hết được.

 

Như thị cúng dường chư Phật thời, Khi cúng dường chư Phật như vậy
Dĩ Phật thần lực giai chu biến, Nhờ Phật thần lực đều khắp cùng
Tất kiến thập phương vô lượng Phật Đều thấy mười phương vô lượng Phật
An trụ Phổ Hiền Bồ Tát hạnh An trụ hạnh Bồ Tát Phổ Hiền.

Khi rộng tu cúng dường chư Phật như vậy, nhờ đại oai thần lực của mười phương chư Phật, tận hư không khắp pháp giới, khắp nơi đều đầy dẫy sự cúng dường như vậy. Khi tu pháp môn cúng dường như vậy, Bồ Tát đều thấy vô lượng chư Phật trong mười phương ba đời, an trụ trong đại hạnh của Bồ Tát Phổ Hiền tu.

 

Quá khứ vị lai cập hiện tại, Quá khứ vị lai và hiện tại
Sở hữu nhất thiết chư thiện căn, Hết thảy tất cả các căn lành
Lệnh ngã thường tu Phổ Hiền hạnh Khiến tôi thường tu hạnh Phổ Hiền
Tốc đắc an trụ Phổ Hiền địa. Sớm được an trụ bậc Phổ Hiền.

Hết thảy tất cả các căn lành trong quá khứ, hiện tại, vị lai, khiến cho tôi (Bồ Tát Kim Cang Tràng) thường tu đại hạnh đại nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền tu, sớm được an trụ ở địa vị của Bồ Tát Phổ Hiền.

 

Nhất thiết Như Lai sở tri kiến, Thấy biết của tất cả Như Lai
Thế gian vô lượng chư chúng sanh Thế gian vô lượng các chúng sinh
Tất nguyện cụ túc như Phổ Hiền Đều nguyện đầy đủ như Phổ Hiền
Vi thông tuệ giả sở xưng tán. Là bậc thông huệ được khen ngợi.

Mười phương ba đời tất cả chư Phật, thấy biết thế gian vô lượng chúng sinh, hoàn toàn đầy đủ đại hạnh đại nguyện giống như Bồ Tát Phổ Hiền tu, là bậc thông minh trí huệ, được tán thán khen ngợi.

 

Thử thị thập phương chư đại sĩ, Đó là mười phương các Đại Sĩ
Cọng sở tu trì hồi hướng hạnh Cùng nhau tu trị hạnh hồi hướng
Chư Phật Như Lai vi ngã thuyết Chư Phật Như Lai vì tôi nói
Thử hồi hướng hạnh tối vô thượng. Hạnh hồi hướng nầy vô thượng nhất.

Pháp môn hồi hướng nầy, mười phương các Đại Sĩ (Bồ Tát) cùng nhau tu hạnh hồi hướng. Mười phương chư Phật vì tôi (Bồ Tát Kim Cang Tràng) nói pháp môn nầy. Hạnh hồi hướng nầy là pháp môn vô thượng nhất.

 

Thập phương thế giới vô hữu dư, Mười phương thế giới không thừa sót
Kỳ trung nhất thiết chư chúng sanh Tất cả các chúng sinh trong đó
Mạc bất hàm lệnh đắc khai giác, Đâu chẳng khiến họ được khai ngộ
Tất sử thường như Phổ Hiền hạnh Đều khiến thường như hạnh Phổ Hiền.

Trong mười phương thế giới, hết thảy tất cả các chúng sinh, không thừa sót một chúng sinh nào, đều khiến cho họ đều được khai ngộ, khiến cho tất cả chúng sinh, thường tu giống như đại hạnh của Bồ Tát Phổ Hiền.

 

Như kỳ hồi hướng hạnh bố thí, Bồ Tát hồi hướng hạnh bố thí
Diệc phục kiên trì ư cấm giới, Cũng lại bền giữ các giới cấm
Tinh tấn trường thời vô thoái khiếp Tinh tấn lâu dài không khiếp lùi
Nhẫn nhục nhu hòa tâm bất động, Nhẫn nhục nhu hoà tâm không động.

Bồ Tát là tự giác giác tha, tự độ độ tha, tự lợi lợi tha, cho nên tư tưởng của Bồ Tát và tư tưởng của phàm phu trái ngược nhau. Phàm phu chỉ muốn lợi mình mà thôi, chẳng muốn lợi ích cho người khác. Bồ Tát thì quên lợi ích cho chính mình, mà luôn luôn có tâm lợi ích cho người khác. Do đó: “Đồng thể đại bi”, Bồ Tát và chúng sinh đồng một thể, cho nên mình đắc được lợi ích, cũng muốn cho chúng sinh được lợi ích. Bồ Tát đã thoát khỏi ba cõi, chấm dứt sinh tử, cũng muốn khiến cho tất cả chúng sinh, thoát khỏi ba cõi, chấm dứt sinh tử. Bồ Tát muốn tự mình đắc được trí huệ chân chánh, cũng muốn cho tất cả chúng sinh đắc được trí huệ chân chánh. Do đó mà Bồ Tát tu pháp môn hồi hướng, đem đủ thứ căn lành của mình tu tập được, hồi hướng cho chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh, cũng đắc được căn lành giống như mình.

Bồ Tát tu hạnh bố thí hồi hướng như vậy, lại bền giữ các giới cấm. Bồ Tát chẳng những không giết hại, mà cho đến tâm niệm giết hại cũng không sinh ra; chẳng những không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu, mà cho đến tâm niệm cũng không sinh ra.

Thời gian Bồ Tát rất lâu dài, chẳng những bố thí, trì giới, mà còn tinh tấn, chẳng sinh tâm thối chuyển, chẳng giống như chúng ta giữ giới chưa đến hai ngày rưỡi, thì tà tri tà kiến, tà niệm tà dục sinh ra. Tinh tấn chẳng chân thật, một nóng mười lạnh, đó còn là tinh tấn chăng ! Bồ Tát vĩnh viễn tinh tấn, vĩnh viễn nhẫn nhục, nhẫn điều mà người khác không nhẫn được, nhường điều mà người khác không nhường được, tâm lay động, rất nhu hoà, chẳng có tâm sân hận. Trong tâm thanh tịnh thì tự nhiên chẳng có phiền não. Bất cứ phiền não gì, cũng đều nhận thọ nơi tâm.

 

Thiền định trì tâm thường nhất duyên Thiền định giữ tâm thường một duyên
Trí tuệ liễu cảnh đồng tam muội, Trí huệ rõ cảnh đồng tam muội
Khứ lai hiện tại giai thông đạt Khứ lai hiện tại đều thông đạt
Thế gian vô hữu đắc kỳ biên. Thế gian không ai biết bờ mé.

Bồ Tát tu thiền định, nhiếp lấy tâm mình, khiến cho tâm không tán loạn, chuyên nhất tu định, chẳng có mọi vọng tưởng. Trí huệ Bát Nhã thấu rõ tất cả cảnh giới, giống như chánh định chánh thọ. Bồ Tát đối với đời quá khứ, hiện tại và vị lai ba đời, thảy đều thông đạt vô ngại. Chúng sinh thế gian, chẳng biết được bờ mé căn lành của Bồ Tát.

 

Bồ Tát thân tâm cập ngữ nghiệp Bồ Tát thân tâm và nghiệp lời
Như thị sở tác giai thanh tịnh, Chỗ làm như vậy đều thanh tịnh
Nhất thiết tu hành vô hữu dư, Tu hành tất cả không thừa sót
Tất dữ Phổ Hiền Bồ Tát đẳng. Đều đồng với Bồ Tát Phổ Hiền.

Thân nghiệp, lời nghiệp, ý nghiệp của Bồ Tát đều thanh tịnh. Thân nghiệp thanh tịnh, thì không: Giết hại, trộm cắp, dâm dục; lời nghiệp thanh tịnh, thì không: Nói dối, nói thêu dệt, hai lưỡi, chưởi mắng; ý nghiệp thanh tịnh, thì không có: Tham, sân, si. Chỗ làm đều đã thanh tịnh, tất cả pháp môn đều tu hành đến cảnh giới viên mãn, chẳng có pháp môn nào thừa sót không tu hành, hoàn toàn đồng với Bồ Tát Phổ Hiền.

 

Thí như Pháp giới vô phân biệt, Ví như pháp giới không phân biệt
Hí luận nhiễm trước giai vĩnh tận, Hí luận nhiễm trước đều hết sạch
Diệc như Niết-Bàn vô chướng ngại, Cũng như Niết Bàn không chướng ngại
Tâm thường như thị ly chư thủ. Tâm thường như vậy lìa chấp lấy.

Ví như pháp giới chẳng có sự phân biệt, chẳng có hí luận, chẳng có nhiễm ô, chẳng có chấp trước, những tập khí mao bệnh nầy, đều đã diệt hết sạch vĩnh viễn. Giống như Niết Bàn, thường lạc ngã tịnh, chẳng có mọi sự chướng ngại. Tâm của Bồ Tát, lìa khỏi mọi sự vọng tưởng chấp lấy.

 

Trí giả sở hữu hồi hướng Pháp, Pháp tu hồi hướng của bậc trí
Chư Phật Như Lai dĩ khai thị, Chư Phật Như Lai đã khai thị
Chủng chủng thiện căn tất hồi hướng, Đủ thứ căn lành đều hồi hướng
Thị cố năng thành Bồ Tát đạo. Cho nên thành tựu Bồ Tát đạo.

Người có trí huệ, tu pháp môn hồi hướng, đã được mười phương chư Phật khai thị, và còn tu tập đủ thứ căn lành, thảy đều hồi hướng cho chúng sinh, do đó mới thành tựu Bồ Tát đạo.

 

Phật tử thiện học thử hồi hướng, Phật tử khéo học hồi hướng nầy
Vô lượng hạnh nguyện tất thành mãn, Vô lượng hạnh nguyện đều thành mãn
Nhiếp thủ Pháp giới tận vô dư, Nhiếp lấy pháp giới hết không thừa
Thị cố năng thành Thiện-Thệ lực. Cho nên thành tựu sức Thiện Thệ.

Phật tử khéo học pháp môn hồi hướng nầy. Vô lượng hạnh nguyện, thảy đều thành tựu và viên mãn. Nhiếp lấy hết thảy chúng sinh pháp giới, chẳng thừa sót một chúng sinh nào, do đó mới thành tựu sức của đấng Thiện Thế, tức cũng là đức Phật.

Bồ Tát trước khi thành Bồ Tát, cũng là chúng sinh, cũng là phàm phu tục tử giống như chúng ta, chẳng có điểm gì khác biệt. Bất quá, Ngài phát tâm bồ đề, giác ngộ khổ sinh tử, chẳng có lúc nào chấm dứt, cho nên mới tu đạo. Tu đạo gì ? Tu Bồ Tát đạo; đem căn lành của mình tu tập được, hồi hướng hết cho chúng sinh, hồi hướng về bồ đề, hồi hướng về thật tế, chẳng giữ lại cho mình.

Trong lúc Bồ Tát tu đạo, dũng mãnh tinh tấn, tuyệt đối không giải đãi. Tu hành đến trình độ tương đương thì khai ngộ, khai mở trí huệ, không còn mê hoặc nữa, không còn vô minh, không còn tâm tham, tâm sân, tâm si. Tất cả đều giác ngộ là vô thường, khổ, không, vô ngã, cho nên gọi là Bồ Tát.

Bồ Tát vốn gọi là Bồ đề tát đoả, vì gọi tắc cho nên gọi là Bồ Tát. Bồ đề dịch là “giác”, tát đoả dịch là “hữu tình”, tức là giác hữu tình. Ngài muốn giác ngộ tất cả hữu tình (chúng sinh), lại có thể nói là hữu tình giác, tức là một vị giác ngộ ở trong chúng sinh. Ngài đem đạo lý của mình đã giác ngộ, để giác ngộ tất cả chúng sinh, cho nên gọi là hữu tình giác, đó là ý nghĩa đại khái về Bồ Tát.

Pháp môn Bồ Tát tu tập, là lục độ vạn hạnh. Lục độ tức là: Bố thí (đối trị san tham), trì giới (đối trị huỷ phạm), nhẫn nhục (đối trị sân hận), tinh tấn (đối trị giải đãi), thiền định (đối trị tán loạn), trí huệ (đối trị ngu si). Người ban đầu phát tâm ở trong lục độ nầy, lấy nhẫn nhục Ba La Mật làm trọng. Thế nào là nhẫn nhục ? Nói đơn giản là bạn không có lỗi lầm, mà có người phê bình bạn không đúng. Bạn chẳng có chỗ nào sai, mà có người cố ý nói bạn sai. Cảnh giới nầy đến, bạn nhẫn nhục được thì tự nhiên vô sự, hoá hung thành cát. Bạn chẳng có phạm giới, mà người khác nói bạn phạm giới, bạn phải nhẫn. Tất cả mọi việc không danh dự, xảy đến với bạn, bạn phải nhẫn. Tóm lại, tất cả nghịch cảnh đến, phải nhẫn ! nhẫn !! nhẫn !!! đó mới là hành vi của Bồ Tát. Do đó:

“Hãy nhận là mình sai
Đừng nói lỗi người khác
Lỗi người tức lỗi mình
Đồng thể gọi đại bi”.

Có hoài bảo như vậy, tức là Bồ Tát.

 

Nhược dục thành tựu Phật sở thuyết, Nếu muốn thành tựu lời Phật nói
Bồ Tát quảng đại thù thắng hạnh Bồ Tát hạnh rộng lớn thù thắng
Nghi ưng thiện trụ thử hồi hướng, Nên khéo an trụ hồi hướng nầy
Thị chư Phật tử hiệu Phổ Hiền. Các Phật tử đó hiệu Phổ Hiền.

Nếu muốn thành tựu pháp môn của mười phương chư Phật nói ra, Bồ Tát phải tu hạnh rộng lớn thù thắng, phải thường tu pháp môn hồi hướng nầy, đây gọi là đại hạnh đại nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền.

 

Nhất thiết chúng sanh do khả số Tất cả chúng sinh tính đếm được
Tam thế tâm lượng diệc khả tri, Tâm lượng ba đời có thể biết
Như thị Phổ Hiền chư Phật tử Như vậy Phổ Hiền các Phật tử
Công đức biên tế vô năng trắc Công đức bờ mé không dò được.

Hết thảy tất cả số mục chúng sinh, có thể tính đếm được, tâm lượng của chư Phật và chúng sinh ba đời, cũng có thể biết được rõ ràng, nhưng bờ mé hết thảy công đức của Bồ Tát Phổ Hiền và tất cả đệ tử Phật, không cách chi trắc lượng được!

 

Nhất mao độ không khả đắc biên Lông lường hư không biết bờ mé
Chúng sát vi trần khả tri số, Các cõi hạt bụi biết được số
Như thị đại tiên chư Phật tử Như vậy chư Phật các Phật tử
Sở trụ hạnh nguyện vô năng lượng. Trụ nơi hạnh nguyện không lường được.

Dùng một sợi lông để trắc lường hư không lớn bao nhiêu ? Có thể biết được bờ mé, tức cũng là lường được hư không. Cõi nước của mười phương chư Phật đập nát thành bụi, cũng có thể biết được có bao nhiêu hạt bụi ! Nhưng công đức hạnh nguyện của chư Phật và tất cả đệ tử Phật tu thập hồi hướng, không cách chi đo lường được có bao nhiêu !






Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét