Phẩm Thập Hồi Hướng 3

Kinh Hoa Nghiêm

Đại Phương Quảng Phật

giảng giải

Phẩm Thứ 25

Hòa Thượng TUYÊN HÓA
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Minh Ðịnh

— o0o —

Phẩm Thập Hồi Hướng – 3

Hồi hướng đẳng tất cả Phật thứ ba

Phật tử! vân hà vi Bồ-Tát Ma-ha-tát đẳng nhất thiết Phật hồi hướng?

Phật tử ! Thế nào là hồi hướng đẳng tất cả Phật của đại Bồ Tát ?

Giảng: Bồ Tát Kim Cang Tràng nói xong bài kệ ở trước rồi, lại gọi một tiếng các vị đệ tử của Phật ! Thế nào là đại Bồ Tát tu đẳng tất cả chư Phật tu pháp môn hồi hướng ?

 

Phật tử! thử Bồ-Tát Ma-ha-tát tùy thuận tu học khứ, lai, hiện tại chư Phật Thế tôn hồi hướng chi đạo. Như thị tu học hồi hướng đạo thời, kiến nhất thiết sắc nãi chí xúc Pháp nhược mỹ, nhược ác, bất sanh ái tăng, tâm đắc tự tại. Vô chư quá thất, quảng đại thanh tịnh. hoan hỉ duyệt lạc, ly chư ưu não. Tâm ý nhu nhuyễn, chư căn thanh lương.

Phật tử ! Đại Bồ Tát nầy tuỳ thuận tu học đạo hồi hướng của chư Phật Thế Tôn quá khứ, vị lai và hiện tại. Khi tu học đạo hồi hướng như vậy, thì thấy tất cả sắc, cho đến xúc pháp, hoặc tốt, hoặc xấu, chẳng sinh thương ghét, tâm được tự tại. Chẳng có các lỗi lầm. Rộng lớn thanh tịnh. Hoan hỉ vui thích, lìa các ưu phiền. Tâm ý nhu nhuyến, các căn mát mẻ.

Giảng: Bồ Tát Kim Cang Tràng đưa ra câu hỏi ở trên rồi, lập tức giải thích như sau, Ngài nói: Các vị đệ tử của Phật! Các vị có thể biết vị đại Bồ Tát nầy, vị đại Bồ Tát tu pháp môn hồi hướng đẳng tất cả Phật, Ngài tuỳ thuận sự chỉ dạy của chư Phật, tu học đạo hồi hướng của ba đời chư Phật tu. Tức là đạo hồi hướng quá khứ chư Phật đã tu, đạo hồi hướng chư Phật hiện tại đang tu, và đạo hồi hướng chư Phật vị lai sẽ tu. Khi Ngài tu học quá trình đạo hồi hướng nầy, thì Ngài đối với tất cả sắc, cho đến xúc pháp, bất luận là sắc tốt, hoặc sắc xấu, tiếng hay, tiếng dở, mùi thơm, mùi hôi, vị ngon, vị dở, xúc tốt, xúc dở, pháp lành, pháp ác, đều chẳng làm cho Ngài sinh ra tâm thương ghét và thích chán. Bồ Tát an trụ vào tu học đạo hồi hướng, chẳng bị cảnh giới sáu trần lay chuyển, đó tức là ý nghĩa:

“Người chuyển được cảnh giới,
Cảnh giới không chuyển được người”.

Phải làm thế nào để đến được trình độ nầy ? Phải điều phục sáu căn, khiến cho sáu căn chẳng chuyển theo sáu trần, sáu căn sáu trần không thể hợp tác với nhau, thì sẽ chẳng sinh ra tác dụng. Như thế thì thấy mà không thấy, nghe mà không nghe, như như chẳng động, thì làm sao mà lay động được vị đại Bồ Tát đó tu đạo hồi hướng đẳng tất cả Phật ! Cho nên lúc đó Ngài “Hoặc tốt hoặc xấu, chẳng sinh thương ghét, tâm được tự tại”. Nhưng nếu như chẳng điều phục sáu căn, khiến cho sáu căn sáu trần hợp tác với nhau, liền sinh ra sáu thức. Lúc đó nó sẽ làm chủ nhân ông trong tâm của bạn, tất cả đều do nó theo đuổi chi phối. Thấy sắc mê sắc, nghe tiếng mê tiếng, như thế thì cứ bôn ba vãng lai ở trong sáu trần, tâm thương ghét không thể tự giác, vô minh phiền não, thường ở bên cạnh, suốt cả đời bị cảnh giới chuyển. Có tâm thương ghét rồi, thì làm sao mà đắc được tự tại ?

Hiện tại chúng ta biết được nguyên nhân tại sao Bồ Tát tâm được tự tại? Là vì Ngài chẳng động tâm. Chẳng động tâm, thì chẳng sinh thương ghét, thì tâm sẽ được tự tại. “Tự tại”, hai chữ nầy hàm ý bao quát nhìn xuyên thủng, buông xả đặng, chẳng chấp, chẳng động tâm niệm, chẳng bị thất tình lay chuyển, chẳng bị năm dục mê hoặc. Nếu sáu căn an ổn, thì tâm luôn thanh tịnh, ý thường hoan hỉ, vui thích, thân thể nhu nhuyển thái nhiên, cử chỉ an tường hoà duyệt. Ðối người tiếp vật, khiến cho người ưa gần gũi, chẳng có tơ hào ưu sầu phiền não.

Vị đại Bồ Tát nầy tu hồi hướng đẳng tất cả Phật, vì tâm được tự tại, cho nên Ngài đã lìa các lỗi lầm, chẳng có lỗi gì có thể nói. Tâm ý của Ngài thanh tịnh rộng lớn như hư không. Niềm hoan hỉ vui thích tràn đầy thân tâm của Ngài. Tất cả sự ưu sầu khổ não, đều tiêu mất chẳng còn nữa. Vì Ngài tâm ý nhu nhuyến, các căn rất mát mẻ, chẳng có hiện tượng nhiệt não sinh khởi. Bồ Tát luôn luôn ở trong cảnh giới nầy, vĩnh viễn chẳng biến đổi. Tất cả dục niệm cũng vĩnh viễn chẳng sinh ra nữa. Chẳng giống như một số phàm phu, khi tình chẳng tự tại, thì phát điên phát cuồng, thậm chí có thể làm ra việc xấu. Bình thường thấy chẳng được bộ mặt thật, cùng nhau hiện ra, khiến cho người sợ hãi mà bỏ chạy.

Bồ Tát tu đạo, xa lìa lỗi lầm và ưu phiền, luôn ở trong tam muội thường, lạc, ngã, tịnh. Ngài chẳng nhập vào cảnh giới sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, chẳng những chẳng bị cảnh giới sáu trần lay chuyển, mà còn chuyển được cảnh giới sáu trần, đắc được sáu căn dụng tự tại với nhau. Giống như căn mắt vốn chỉ có thể nhìn sự vật, hiện tại lại có thể thấy, nghe, ngửi, nếm, giác, tri, căn mắt nầy tác dụng được năm căn khác kia. Căn tai cũng như thế, mũi, lưỡi, thân, ý, các căn, cũng đều như vậy, mỗi căn đầy đủ công năng của sáu căn. Nguồn gốc sáu căn chỉ có sáu tác dụng, hiện tại một căn mà tác dụng với nhau hết sáu căn, tăng lên đến ba mươi sáu thứ công dụng, đây chẳng phải là việc mà phàm phu tưởng tượng đến được. Cảnh giới nầy, gọi là thu nhiếp bình đẳng không hai, đối với sáu trần chẳng sinh phân biệt, chẳng có tốt xấu, thơm thối, hay dở, đủ thứ phân biệt, đây tức là chẳng nhập vào sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, tức cũng là “Nhập vào dòng Thánh nhân pháp tánh, ngược lại dòng phàm phu sáu trần”, đã đắc được tự tại vô ngại của pháp tánh. Sự diệu dụng không thể nghĩ bàn nầy, đáng tiếc chúng ta phàm phu chẳng có đắc được. Ở trong sự hồ đồ, thấy được tâm ý sáu trần của mình, lập tức sinh ra tâm thương yêu, luyến ái chẳng xả bỏ. Thấy được sáu trần chẳng hợp ý mình, thì sinh chán ghét, phiền não, hoàn toàn bị sáu trần lay chuyển. Ví dụ giống như nhiều người tụ lại ở đây với nhau, ăn vật ăn cũng vậy, sở thích mùi vị của mỗi người đều khác nhau. Cùng nhìn một sự vật, mà chỗ ưa thích của mỗi người đều khác nhau. Cùng nghe một âm thanh, mà cảm giác của mỗi người cũng khác nhau. Xem hoa thưởng trăng, tâm tình của mỗi người cũng khác nhau. Ðủ thứ loại cảnh giới đều có sự phản ứng chẳng giống nhau, mà chỉ chấp vào một mặt. Ðó chẳng phải là sáu trần có mỗi sự biến hoá, mà là chủ quan tác dụng của mỗi người, tức cũng là do có tâm thương ghét, chẳng đắc được tự tại, vì không thể đi ngược lại dòng sáu trần.

Các vị đại Bồ Tát tu pháp môn hồi hướng đẳng tất cả Phật, các Ngài chẳng bị cảnh giới sáu căn, sáu trần, sáu thức, lay chuyển, vì các Ngài chẳng sinh thương ghét, nên tâm được tự tại. Nếu chúng ta cũng muốn đắc được cảnh giới tự tại nầy, thì phải thường tu phạm hạnh, giữ giới thanh tịnh, do giới sinh định, do định sinh huệ, sau đó sẽ đạt đến cảnh giới:

“Mắt thấy hình sắc bên trong chẳng có.
Tai nghe chuyện đời tâm chẳng hay”.

Do đó: Thấy mà không thấy, nghe mà không nghe, ngửi mà không ngửi, nếm mà không nếm, xúc là không xúc, pháp mà không pháp, tất cả hết thảy, đều sống ở trong cảnh giới không thể nghĩ bàn.

 

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hoạch đắc như thị an lạc chi thời, phục cánh phát tâm hồi hướng chư Phật, tác như thị niệm. Nguyện dĩ ngã kim sở chủng thiện căn, lệnh chư Phật lạc chuyển canh tăng thắng, sở vị. bất khả tư nghị Phật sở trụ lạc, vô hữu đẳng bỉ Phật tam muội lạc, bất khả hạn lượng đại từ bi lạc, nhất thiết chư Phật giải thoát chi lạc, vô hữu biên tế đại thần thông lạc, tối cực tôn trọng Đại tự tại lạc, quảng đại cứu cánh vô lượng lực lạc, ly chư tri giác tịch tĩnh chi lạc, trụ vô ngại trụ hằng chánh định lạc, hành vô nhị hạnh bất biến dị lạc

Phật tử ! Khi đại Bồ Tát đắc được an lạc như thế, lại càng phát tâm hồi hướng chư Phật. Nghĩ như vầy: Nguyện đem căn lành nay tôi gieo trồng được, khiến cho sự vui của chư Phật càng thêm tăng trưởng thù thắng. Đó là: Sự vui của Phật trụ không thể nghĩ bàn. Sự vui tam muội của Phật chẳng có ai sánh bằng. Sự vui đại từ bi không thể hạn lượng. Sự vui giải thoát của tất cả chư Phật. Sự vui đại thần thông chẳng có bờ mé. Sự vui đại tự tại tối cực tôn trọng. Sự vui vô lượng lực rộng lớn rốt ráo. Sự vui lìa các tri giác vắng lặng. Sự vui luôn chánh định trụ nơi trụ vô ngại. Sự vui hành không hai hạnh chẳng biến đổi.

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát, tức là vị đại Bồ Tát tu pháp hồi hướng đẳng tất cả chư Phật, khi Ngài đắc được thanh tịnh tự tại như đã nói ở trên, sự vui chân thật chẳng có thương ghét, chẳng có ưu phiền, Ngài cảm giác được sự an vui của chư Phật ban cho. Vì Ngài cung kính tôn trọng chư Phật, cảm kích ân đức chư Phật, cho nên nguyện ý đem căn lành công đức của mình tu tập được, hồi hướng cho mười phương chư Phật, tăng thêm sự vui của Phật. Kỳ thật, chư Phật chẳng có vị nào mà chẳng đầy đủ phước đức, công hạnh viên mãn, đây là biểu thị tâm chí thành khẩn thiết chân thật của Bồ Tát mà thôi. Chư Phật vốn có đủ sự vui thù thắng, như nay Bồ Tát đem căn lành trồng được hồi hướng về chư Phật, khiến cho sự vui của chư Phật lại càng tăng thêm thù thắng. Do đó, Ngài phát tâm hồi hướng cho Phật mười thứ vui đắc được dưới đây:

  1. Sự vui của Phật tu, chỗ Phật trụ không thể nghĩ bàn.
  2. Sự vui tam muội vô thượng của chư Phật chứng được chẳng có ai có thể sánh bằng.
  3. Sự vui đại từ bi của Phật chẳng có hạn lượng.
  4. Sự vui giải thoát tự do an tường, vô câu vô thúc của mười phương ba đời chư Phật tu chứng được.
  5. Sự vui đại thần thông nhậm vận tự tại, rộng lớn vô biên của chư Phật do có trí huệ thanh tịnh.
  6. Sự vui đại tự tại của chư Phật đã đạt đến tột đỉnh cùng cực, mà lại thọ người tôn trọng kính ngưỡng bậc nhất.
  7. Sự vui thập lực của chư Phật, một thứ thần lực đại oai đức rộng lớn rốt ráo.
  8. Sự vui của chư Phật vắng lặng lìa khỏi các tri giác, vượt qua thấy nghe giác tri, chẳng nhập vào thanh, hương, vị, xúc, pháp.
  9. Sự vui thiền duyệt luôn ở trong chánh định, trụ ở chỗ trụ chẳng có chướng ngại.
  10. Sự vui của chư Phật tu hành công đức viên mãn, dứt hẳn hai hạnh, đó là hạnh thấy và hạnh ái, đắc được kim cang bát nhã, trụ nơi pháp môn không hai chẳng biến đổi.

Ở trên là mười thứ an vui của Phật, Bồ Tát đều hồi hướng, nguyện đem đủ thứ sự vui nầy, đều làm cho tăng thêm thù thắng vô lượng vô cùng.

 

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát dĩ chư thiện căn hồi hướng Phật dĩ, phục dĩ thử thiện căn hồi hướng Bồ Tát, sở vị. Nguyện vị mãn giả lệnh đắc viên mãn, tâm vị tịnh giả lệnh đắc thanh tịnh, chư Ba-la-mật vị mãn túc giả lệnh đắc mãn túc. an trụ Kim cương Bồ-đề chi tâm, ư nhất thiết trí đắc Bất-thoái-chuyển, bất xả đại tinh tấn, thủ hộ Bồ-đề môn nhất thiết thiện căn. Năng lệnh chúng sanh xả ly ngã mạn, phát Bồ-đề tâm, sở nguyện thành mãn. an trụ nhất thiết Bồ Tát sở trụ, hoạch đắc Bồ Tát minh lợi chư căn, tu tập thiện căn, chứng Tát bà nhã.

Phật tử ! Đại Bồ Tát đem các căn lành hồi hướng cho Phật rồi. Lại đem căn lành nầy hồi hướng cho Bồ Tát. Đó là: Nguyện người chưa viên mãn, thì khiến cho viên mãn. Người nào tâm chưa thanh tịnh, thì khiến cho được thanh tịnh. Người nào chưa đầy đủ các Ba La Mật, thì khiến cho được đầy đủ. Tâm an trụ vào kim cang bồ đề. Nơi nhất thiết trí, được không thối chuyển. Chẳng xả bỏ đại tinh tấn. Thủ hộ môn bồ đề tất cả căn lành. Hay khiến cho chúng sinh xả lìa ngã mạn, phát tâm bồ đề, sở nguyện thành tựu viên mãn. An trụ vào chỗ trụ của tất cả Bồ Tát. Đắc được căn lành minh lợi của Bồ Tát, tu tập căn lành, chứng nhất thiết trí.

Giảng: Bồ Tát Kim Cang Tràng lại gọi một tiếng các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát đem căn lành của Ngài tu hồi hướng cho chư Phật rồi, sau đó lại đem căn lành của Ngài tu, hồi hướng cho các Bồ Tát khác. Nội dụng của Ngài hồi hướng là bao quát tự lợi lợi tha. Ví như đối tượng đầu tiên Ngài hồi hướng, tức là những Bồ Tát đã phát nguyện lớn, đến hiện tại vẫn chưa viên mãn đầy đủ. Vị Bồ Tát nầy tu pháp môn hồi hướng đẳng tất cả Phật, nguyện đem căn lành của mình tu, hồi hướng cho Bồ Tát nguyện lớn chưa đầy đủ, hy vọng các Ngài đắc được lợi ích, sớm được toại tâm mãn nguyện. Sau đó tức là những vị Bồ Tát, tuy nhiên nỗ lực chẳng giải đãi, nhưng tâm của Ngài chưa đắc được cảnh giới thanh tịnh thật sự. Vậy vị Bồ Tát nầy tu hồi hướng đẳng tất cả Phật, là đem căn lành công đức của mình tu tập, hồi hướng cho vị đó, hy vọng vị đó sớm đạt được cảnh giới tâm thanh tịnh. Hơn nữa có Bồ Tát tu mười Ba La Mật, vẫn chưa rốt ráo viên mãn, Bồ Tát tu hồi hướng đẳng tất cả Phật, là đem căn lành của mình tu tập hồi hướng về vị đó, khiến cho vị đó sớm được viên mãn, lên được bờ bồ đề bên kia. Và nữa, Bồ Tát sơ phát tâm, do tâm chưa được hoàn toàn kiên cố, Bồ Tát tu hồi hướng đẳng tất cả Phật, sẽ đem căn lành công đức của mình tu tập hồi hướng cho vị đó, trợ giúp Ngài an trụ nơi tâm, giống như tâm bồ đề kim cang, vĩnh viễn chẳng thối chuyển tâm bồ đề giác đạo. Nơi nhất thiết trí huệ, nhất thiết chủng trí, cũng sẽ chẳng thối chuyển. Vì Bồ Tát đắc được lợi ích hồi tự hướng tha, không chỉ mình an trụ tâm bồ đề kim cang, chứng được bất thối chuyển. Ðại Bồ Tát tu pháp hồi hướng đẳng tất cả Phật, cảnh giới của Ngài tu hành đã đạt đến bát địa vô công dụng hạnh, còn gọi là đại tinh tấn. Tinh thần diệu dụng, nhậm vận tự như, thấu đạt tất cả các pháp, gọi là thủ hộ bồ đề môn tất cả căn lành. Bồ Tát hồi hướng như vậy, hay khiến cho chúng sinh xả lìa ngã mạn, phát tâm đại bồ đề, viên mãn thành tựu nguyện lớn đã phát. An trụ chỗ trụ của tất cả Bồ Tát. Hoạch được hết thảy căn lành minh lợi của Bồ Tát: Tín, tấn, niệm, định, huệ. Tu tập đủ thứ căn lành, khiến cho chúng sinh đều chứng nhất thiết trí, cuối cùng thành quả vị Phật.

 

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát dĩ chư thiện căn như thị hồi hướng Bồ Tát dĩ, phục dĩ hồi hướng nhất thiết chúng sanh. Nguyện nhất thiết chúng sanh sở hữu thiện căn, nãi chí cực thiểu nhất đạn chỉ khoảnh, kiến Phật văn pháp, cung kính Thánh Tăng. bỉ chư thiện căn giai ly chướng ngại, niệm Phật viên mãn, niệm Pháp phương tiện, niệm Tăng tôn trọng, bất ly kiến Phật, tâm đắc thanh tịnh, hoạch chư Phật Pháp, tập vô lượng đức, tịnh chư thần thông, xả Pháp nghi niệm, y giáo nhi trụ.

Phật tử ! Đại Bồ Tát đem các căn lành hồi hướng cho Bồ Tát như vậy rồi. Lại đem hồi hướng cho tất cả chúng sinh. Nguyện hết thảy căn lành của tất cả chúng sinh, cho đến rất nhỏ, chừng một khảy móng tay, được thấy Phật nghe pháp, cung kính Thánh Tăng. Các căn lành đó, đều lìa chướng ngại. Niệm Phật viên mãn. Niệm Pháp phương tiện. Niệm Tăng tôn trọng. Chẳng lìa thấy Phật, tâm được thanh tịnh, đắc được các Phật pháp. Tích tập vô lượng đức, thanh tịnh các thần thông, xả bỏ pháp nghi niệm, nương giáo lý mà trụ.

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát, nội dung giống như Kinh văn đã nói ở trên, hồi hướng cho tất cả Bồ Tát rồi, sau đó lại đem căn lành tu tập hồi hướng cho tất cả chúng sinh. Ngài âm thầm cầu nguyện nói: Tôi nguyện cho tất cả chúng sinh, nhờ căn lành của họ, và căn lành tôi hồi hướng cho họ, dù rất cực nhỏ, cũng có thể khiến cho họ đắc được lợi ích. Thời gian khảy móng tay, liền được thấy Phật, nghe được Phật nói pháp, đồng thời cũng thấy được nhiều đại đức hiền Thánh Tăng, cung kính lễ bái Tam Bảo. Những căn lành đó, đều khiến cho chúng sinh lìa khỏi tất cả sự chướng ngại, cho đến chúng sinh có ít căn lành, cũng lìa khỏi tất cả chướng ngại như nhau, sinh khởi tâm niệm Phật. Dùng thâm tâm niệm Phật, chẳng có giờ phút nào không niệm Phật.

Niệm Phật niệm đến cảnh giới: “Niệm mà không niệm, không niệm mà niệm, niệm đến viên mãn rốt ráo, thì không niệm mà tự niệm”, đó gọi là niệm Phật tam muội, sẽ đạt đến giai đoạn “niệm Phật viên mãn”. Phương tiện niệm pháp: Bồ Tát tại phương diện niệm Phật, đã được tam muội. Tại phương diện niệm pháp, thì tự nhiên cũng được vô lượng pháp hỷ, vì nó đã vào sâu tạng Kinh, trí huệ như biển, biết rõ tám vạn bốn ngàn pháp môn, chẳng có môn nào chẳng phải là pháp môn phương tiện, chẳng có môn nào chẳng phải là pháp môn không hai. Ngài dùng đủ thứ tất cả pháp phương tiện, chẳng có pháp nào chẳng toại tâm mãn nguyện. Niệm Tăng tôn trọng: Hiền Thánh Tăng trong mười phương, ngưỡng mộ nghĩ nhớ, cung kính tôn trọng. Ngài đầy đủ ba niệm, thành tựu công đức niệm Tam Bảo, cho nên chẳng lìa thấy Phật. Thường thường thấy được chư Phật, do đó trong tâm chẳng sinh tất cả vọng niệm. Chẳng có vọng niệm, thì tâm sẽ đắc được thanh tịnh. Do đó đắc được pháp nói, pháp hành, pháp tu, của chư Phật, đó đều là vì tâm được thanh tịnh, mới đắc được các Phật pháp. Nếu tâm chẳng thanh tịnh, thì chẳng đắc được tất cả pháp. Tích tập vô lượng đức, tịnh các thần thông; đắc được pháp vô thượng của chư Phật rồi, thì nhất định phải tu, phải trì, phải hành, mới đắc được lợi ích. Y theo pháp mà hành, thì sẽ tích tập vô lượng căn lành công đức. Tu phạm hạnh thanh tịnh, sẽ đắc được trí huệ vô thượng, cũng có thể thành tựu vô lượng thần thông. Trí huệ và thần thông, đều do sự tu thanh tịnh và niệm Phật tam muội mà chứng được. Chúng sinh thọ được lợi ích lớn của Bồ Tát hồi hướng, thì đối với sự hoài nghi về Phật pháp trong quá khứ chẳng minh bạch, hiện tại đều quét sạch, an trụ nơi lời dạy của chư Phật nói, y pháp phụng hành, vĩnh viễn chẳng thối chuyển.

 

Như vi chúng sanh như thị hồi hướng, vi Thanh văn, Bích Chi Phật hồi hướng diệc phục như thị.

Như vì chúng sinh hồi hướng như vậy. Vì Thanh Văn Bích Chi Phật hồi hướng, cũng lại như thế.

Giảng: Ðại Bồ Tát tu hồi hướng đẳng tất cả Phật, vì tất cả chúng sinh hồi hướng, như Kinh văn đã nói ở trên. Ðối với bậc Thánh hàng nhị thừa: Thanh Văn Bích Chi Phật, Ngài cũng vì các bậc ấy mà hồi hướng như thế.

 

Hựu nguyện nhất thiết chúng sanh vĩnh ly địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, Diêm la Vương đẳng nhất thiết ác xứ, tăng trưởng vô thượng Bồ-đề chi tâm, chuyên ý cần cầu nhất thiết chủng trí, vĩnh bất hủy báng chư Phật chánh pháp, đắc Phật an lạc, thân tâm thanh tịnh, chứng nhất thiết trí.

Lại nguyện tất cả chúng sinh, vĩnh viễn lìa khỏi địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, vua Diêm La, tất cả nơi ác. Tăng trưởng tâm vô thượng bồ đề. Chuyên tâm siêng cầu nhất thiết chủng trí. Vĩnh viễn chẳng huỷ báng chánh pháp của chư Phật. Được an lạc của Phật. Thân tâm thanh tịnh. Chứng được nhất thiết trí.

Giảng: Ðại Bồ Tát tu hồi hướng đẳng tất cả Phật, trước hết Ngài đem căn lành hồi hướng về chư Phật, để biểu thị báo ân Phật, sau đó hồi hướng cho các Bồ Tát phát tâm khác, lại hồi hướng cho tất cả chúng sinh, lại hồi hướng cho hàng nhị thừa. Hiện tại Ngài lại đem căn lành tu hành, hồi hướng cho chúng sinh thọ khổ trong ba đường ác. Bồ Tát tâm bi tha thiết, bình đẳng nghĩ đến chúng sinh thiện ác. Ngài nói: Nguyện đem căn lành của tôi tu, hồi hướng cho chúng sinh trong ba đường ác, hy vọng họ được lợi ích nầy, vĩnh viễn xa lìa địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh và vua Diêm Vương, tất cả nơi ác, nơi thọ tội. Ðược sinh về chốn lành, thấy Phật nghe pháp, tăng trưởng đạo tâm vô thượng bồ đề. Chuyên tâm nhất chí siêng năng tinh tấn, cầu nhất thiết chủng trí, nhất thiết đạo chủng trí. Vĩnh viễn chẳng huỷ báng chánh pháp của chư Phật, đắc được an lạc giống như Phật. Thân tâm thanh tịnh, chứng được nhất thiết trí huệ.

 

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát sở hữu thiện căn, giai dĩ đại nguyện, phát khởi, chánh phát khởi, tích tập, chánh tích tập, tăng trưởng, chánh tăng trưởng, tất lệnh quảng đại cụ túc sung mãn.

Phật tử ! Hết thảy căn lành của đại Bồ Tát, đều nhờ nguyện lớn phát khởi, chánh phát khởi. Tích tập, chánh tích tập. Tăng trưởng, chánh tăng trưởng. Đều khiến cho rộng lớn, đầy đủ sung mãn.

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát, hết thảy căn lành của Ngài đều do Ngài phát khởi nguyện lớn mà sinh ra. Nếu vốn chẳng có căn lành, sau lại phát khởi nguyện lớn, mà trợ lực hạnh. Do lực hạnh, căn lành chưa sinh sẽ khiến sinh ra. Phát khởi tức là lực hạnh. Chánh phát khởi, là lìa khỏi tất cả lỗi lầm, lực hạnh chánh đạo. Tích tập, do nơi lực hạnh chánh đạo, sẽ tích tập rất nhiều căn lành. Chánh tích tập, là nói ở trong sự hành tất cả chánh đạo, bao quát hết thảy nghiệp thiện, thành tựu giúp thành bồ đề đạo hạnh. Cũng có thể nói do nguyện lực, nhiếp căn lành nầy thành các thắng hạnh, khiến cho nó chẳng tán mất, cho nên nói tích tập, chánh tích tập. Lại vì nguyện lực, nhiếp hoá căn lành tích tập các thắng hạnh, lại sinh các thắng hạnh, thì gọi là tăng trưởng. Ở trong mỗi mỗi các thắng hạnh, bèn sinh ra tất cả các thắng hạnh, gọi là chánh tăng trưởng. Bồ Tát khiến cho những căn lành nầy đều rộng lớn, đầy đủ, sung mãn.

 

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát tại gia trạch trung dữ thê tử câu, vị tằng tạm xả Bồ-đề chi tâm, chánh niệm tư tánh Tát bà nhã cảnh, tự độ độ bỉ, lệnh đắc cứu cánh. dĩ thiện phương tiện hóa kỷ quyến thuộc, lệnh nhập Bồ Tát trí, lệnh thành thục giải thoát. Tuy dữ đồng chỉ, tâm vô sở trước, dĩ bổn đại bi xứ ư cư gia, dĩ từ tâm cố tùy thuận thê tử, ư Bồ Tát thanh tịnh đạo vô sở chướng ngại.

Phật tử ! Đại Bồ Tát ở tại gia, cùng với vợ con, chưa từng tạm xả bỏ tâm bồ đề. Chánh niệm suy gẫm cảnh nhất thiết trí. Tự độ độ tha, khiến cho được rốt ráo. Dùng phương tiện khéo léo, giáo hoá quyến thuộc của mình. Khiến cho nhập vào trí Bồ Tát. Khiến cho thành thục giải thoát. Tuy cùng ở chung với nhau, mà tâm chẳng chấp trước. Dùng gốc đại bi mà hiện ở nhà. Vì dùng tâm từ, mà tuỳ thuận vợ con. Nơi đạo thanh tịnh của Bồ Tát chẳng có chướng ngại.

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát, Ngài ở tại gia sống chung với vợ con, cũng chẳng quên đi tâm bồ đề. Bồ Tát đại thừa thường thường thị hiện người bình thường, có thê thiếp con cái tôi tớ .v.v… Như Bồ Tát Ðăng Ðịa, hay thị hiện Vua Chuyển Luân Thánh Vương và ông vua, trưởng giả giàu có. Có Bồ Tát thị hiện phàm phu, thậm chí thị hiện người ác, mục đích đều là vì giáo hoá chúng sinh, tuỳ duyên thị hiện, tuỳ nguyện thị hiện. Cho nên Bồ Tát có Bồ Tát tại gia và Bồ Tát xuất gia. Có thể phân biệt từ cách phục sức. Bồ Tát tại gia đều là thân mặc đồ hoa, đầu đội mũ, thân mang chuỗi. Bồ Tát xuất gia thì đầu tròn mặc áo Cà Sa. Cà Sa con gọi là y phước điền, chúng sinh thấy người xuất gia thì đảnh lễ, tức là thấy y phước điền, mà hướng đến cầu phước, cho nên người xuất gia phải luôn luôn đắp y. Ðắp y là hiện tướng Bồ Tát xuất gia. Trước kia Quốc Sư Thanh Lương từng nói hai câu rằng:

“Thể chẳng tổn Sa Môn chi biểu,
Tâm chẳng vi Như Lai chi chế”.

Nghĩa là “Thân chẳng làm tổn đi biểu hiện của bậc Sa Môn, và tâm chẳng trái với giới điều Như Lai chế ra. Vì thân mặc y Cà Sa, là lúc Phật còn tại thế quy định đối với người xuất gia. Khi tôi đến nước Mỹ hoằng pháp thì phát tâm nhất định muốn khôi phục lại điều Như Lai chế ra, cho nên người xuất ra ở Chùa Kim Sơn, bất luận là trời nóng đến mức độ nào, cũng nhất định là y không lìa thân, trừ lúc vào phòng rửa tay, hoặc đi tắm mới cởi y ra.

Bồ Tát ở tại gia, là chỉ Bồ Tát tại gia, tuy nhiên Ngài thị hiện một vị Bồ Tát tại gia, có vợ con tôi tớ vây quanh, nhưng Ngài chẳng bị năm dục làm ô nhiễm, cũng chưa từng tạm xả bỏ tâm bồ đề giác đạo. Chánh niệm suy gẫm: Bồ Tát có tâm đại từ bi, cho nên có thể tuỳ nhiễm mà không nhiễm. Có đại trí huệ, thì hay sống nơi con đường thanh tịnh. Suy gẫm các pháp, một lòng cầu cảnh giới nhất thiết chủng trí. Lại tu tất cả nghĩa lý, thảy đều thông đạt thành tựu trí huệ vô thượng, mà chư Phật rốt ráo viên mãn. Bồ Tát tu học bồ đề giác đạo, cầu quả Phật vô thượng, mục đích của Ngài là mình chấm dứt sinh tử, cũng độ cho kẻ khác đắc được giải thoát, đạt được cảnh giới rốt ráo. Dùng các pháp môn phương tiện khác nhau, khéo léo hoá độ lục thân quyến thuộc của mình, khiến cho họ đắc được trí huệ giống như Bồ Tát, thấu rõ lý tánh chân thật của các pháp, tín niệm thành thục, chân thật giải thoát. Tuy Bồ Tát hằng ngày cùng ở chung một nơi với vợ con lục thân quyến thuộc, nhưng tâm của Ngài chẳng chấp vào năm dục, chẳng bị thân tình ràng buộc. Ngài vẫn ôm ấp nguyện lớn đã phát trong quá khứ, tâm bi cứu độ chúng sinh, với gia tộc hoà mục với nhau. Dùng tâm đại từ tuỳ thuận vợ con, giữa đó đây cung kính lẫn nhau. Bồ Tát dùng tâm nhu nhuyến, và thái độ hài hoà, cư gia xử thế, đối với đạo nghiệp Bồ Tát thanh tịnh mà Ngài tu, chẳng có chút gì chướng ngại.

 

Bồ-Tát Ma-ha-tát tuy tại cư gia tác chư sự nghiệp, vị tằng tạm xả nhất thiết trí tâm. Sở vị. Nhược trước y thường, nhược đạm tư vị, nhược phục thang dược, táo thấu đồ ma, hồi toàn cố thị, hành trụ tọa ngọa, thân ngữ ý nghiệp, nhược thụy nhược ngụ. Như thị nhất thiết chư hữu sở tác, tâm thường hồi hướng Tát bà nhã đạo, hệ niệm tư tánh, vô thời xả ly.

Đại Bồ Tát tuy ở tại gia, làm các sự nghiệp, chưa từng tạm xả tâm nhất thiết trí. Đó là: Hoặc mặc y phục. Hoặc ăn thực phẩm. Hoặc uống thuốc thang, tắm rửa, quay nhìn, đi đứng nằm ngồi, thân lời ý nghiệp. Hoặc ngủ, hoặc thức .v.v… Tất cả các việc làm như vậy, tâm thường hồi hướng về đạo nhất thiết chủng trí, chuyên niệm suy gẫm, chẳng có lúc nào xả lìa.

Giảng: Ðại Bồ Tát tuy sinh sống ở trong gia tộc như những người bình thường, tất cả biểu hiện làm việc hành động, đâu chẳng phải là dùng trí hoá tình, dùng trí Bát Nhã lãnh đạo vạn hạnh. Ngài chưa từng xả lìa tâm nhất thiết trí. Trên biểu hiện nhìn lại, Bồ Tát là một người phàm trên thế giới nầy. Thân thể của Ngài ở nơi phàm trần, nhưng tâm của Ngài vượt khỏi phàm trần, đây giống như trồng hoa trong giếng chẳng nhiễm bụi trần, hoa sen vươn khỏi bùn lầy mà chẳng nhiễm. Sinh hoạt thường ngày của Bồ Tát, giống như lúc mặc quần áo, lúc ăn cơm, hoặc lúc uống thuốc thang, tắm rửa, lúc vận động, ăn cơm xong đi kinh hành, đi bộ dưới trăng, lúc đi nhiễu Phật ở Phật đường, cho đến quay đầu nhìn ngó, bất luận là đi, đứng, ngồi, hoặc nằm, chẳng có lúc nào mà Ngài chẳng chú ý kiểm điểm ba nghiệp thanh tịnh và oai nghi. Và nữa lúc ngủ, hoặc lúc nghỉ, mỗi ngày sinh hoạt giống như vậy, ra vào lai vãng, nói năng động tĩnh, hết thảy tất cả biểu hiện hành vi, trong tâm của Ngài đều quán chiếu Phật đạo, hồi hướng về đạo nhất thiết chủng trí. Ngài chuyên tâm hệ niệm suy gẫm đạo lý chân thật của các pháp, vĩnh viễn chẳng có lúc nào xả lìa trí tâm.

 

Vi dục nhiêu ích nhất thiết chúng sanh, an trụ Bồ-đề vô lượng đại nguyện, nhiếp thủ vô số quảng đại thiện căn. Cần tu chư thiện, phổ Cứu nhất thiết, vĩnh ly nhất thiết kiêu mạn phóng dật, quyết định thú ư nhất thiết trí địa, chung bất phát ý hướng ư dư đạo. Thường quán nhất thiết chư Phật Bồ-đề, vĩnh xả nhất thiết chư tạp nhiễm Pháp, tu hành nhất thiết Bồ Tát sở học, ư nhất thiết trí đạo vô sở chướng ngại. Trụ ư trí địa ái lạc tụng tập, dĩ vô lượng trí tập chư thiện căn, tâm bất luyến lạc nhất thiết thế gian, diệc bất nhiễm trước sở hạnh chi hành, chuyên tâm thọ trì chư Phật giáo Pháp.

Vì muốn lợi ích tất cả chúng sinh, an trụ bồ đề vô lượng đại nguyện. Nhiếp lấy vô số căn lành rộng lớn. Siêng tu các việc lành, khắp cứu tất cả. Vĩnh viễn lìa tất cả kiêu mạn phóng dật. Quyết định hướng về nhất thiết trí địa. Quyết không phát ý hướng về đạo khác, thường quán tất cả chư Phật bồ đề. Vĩnh viễn xả bỏ tất cả các pháp tạp nhiễm, tu hành tất cả sở học của Bồ Tát. Nơi đạo nhất thiết trí, chẳng có chướng ngại. Trụ nơi trí địa, ưa thích tụng tập. Dùng vô lượng trí, tập các căn lành. Tâm chẳng luyến thích tất cả thế gian, cũng chẳng nhiễm trước hạnh mà mình thực hành, chuyên tâm thọ trì giáo pháp của chư Phật.

Giảng: Bồ Tát vì muốn lợi ích tất cả chúng sinh, nên luôn luôn tinh tấn tu học bồ đề giác đạo, để hoàn thành nguyện lớn mà Ngài đã phát. An trụ, tức là chẳng thối chuyển hoặc giải đãi. Nguyện lớn Bồ Tát phát ra lấy sự lợi ích chúng sinh làm đầu, chưa từng nghĩ đến mình. Bồ Tát muốn nhiếp lấy vô số căn lành rộng lớn, cho nên Ngài siêng tu các việc lành. Các việc lành là bao quát việc lành lớn nhỏ mà nói, chẳng lựa chọn việc lành lớn nhỏ, chẳng để ý đến đối tượng của việc lành, là thân sơ chăng, mà khắp cứu tất cả chúng sinh, ôm hoài bảo tinh thần vô duyên đại từ, đồng thể đại bi, bình đẳng cứu bạt tất cả chúng sinh, khiến cho chúng sinh vĩnh viễn lìa khỏi tâm kiêu ngạo tự mãn, và thái độ cống cao ngã mạn, cùng với tà hạnh phóng dật. Phóng dật là gốc rễ của các hoặc. Kiêu là nhiễm pháp sở y. Mạn hay trầm luân lâu dài sinh tử. Nếu lìa khỏi được ba hoặc nầy, thì những nghiệp hoặc khác đều có thể lìa khỏi. Bồ Tát được tâm thanh tịnh, quyết định hướng về con đường nhất thiết trí. Không bao giờ thay đổi tâm ý, đi trên tà đạo. Ngài luôn luôn quán sát các pháp thật tướng, chánh niệm suy gẫm bồ đề giác đạo. Vĩnh viễn xả bỏ tất cả pháp tạp nhiễm chẳng thanh tịnh, pháp hữu lậu thế gian. Chuyên tâm tu hành đạo của tất cả Bồ Tát tu hành. Siêng cầu nơi tất cả trợ đạo tăng trưởng trí huệ, khai đại trí huệ, chứng được trí huệ viên dung vô ngại. Bồ Tát đã đoạn sạch tất cả phiền não, xả bỏ lý sự hai chướng ngại, mà trụ nơi trí huệ địa, pháp môn Bát Nhã. Ngài thân tâm an lạc, pháp hỷ sung mãn. Chuyên tâm ưa thích đọc tụng Kinh điển đại thừa, tu học Phật pháp thượng thừa. Dùng vô lượng trí huệ như thế, tích tập vô lượng căn lành. Trong tâm chẳng tham ái năm dục thế gian, cũng chẳng tham trước khoái lạc hư vọng của thế gian, càng không nhiễm ô hạnh của phàm phu, cũng chẳng chấp trước vào hạnh môn của mình tu. Chuyên tâm nhất chí, vào sâu tất cả giáo lý Phật pháp của chư Phật, y pháp tu hành, y giáo hành trì.

 

Bồ Tát như thị xứ tại cư gia, phổ nhiếp thiện căn, lệnh kỳ tăng trưởng, hồi hướng chư Phật vô thượng Bồ-đề.

Bồ Tát ở tại gia như vậy, khắp nhiếp căn lành khiến cho tăng trưởng, hồi hướng chư Phật vô thượng bồ đề.

Giảng: Tuy nhiên Bồ Tát ở chúng với gia tộc quyến thuộc, nhưng Ngài vẫn thủ hộ căn lành của mình, chẳng khiến cho tán mất. Khắp nhiếp thọ tất cả căn lành, khiến cho nó tăng trưởng, khiến cho nó dần dần thành tựu. Bồ Tát đem vô lượng căn lành tích tụ, hồi hướng về mười phương ba đời chư Phật vô thượng bồ đề giác quả.

 

Phật tử! Bồ Tát Nhĩ thời, nãi chí thí dữ súc sanh chi thực nhất đoàn, nhất lạp, hàm tác thị nguyện. Đương lệnh thử đẳng xả súc sanh đạo, lợi ích an lạc, cứu cánh giải thoát, vĩnh độ khổ hải, vĩnh diệt khổ thọ, vĩnh trừ khổ uẩn, vĩnh đoạn khổ giác, khổ tụ, khổ hạnh, khổ nhân, khổ bản cập chư khổ xứ. Nguyện bỉ chúng sanh giai đắc xả ly. Bồ Tát như thị chuyên tâm hệ niệm nhất thiết chúng sanh, dĩ bỉ thiện căn nhi vi thượng thủ, vi kỳ hồi hướng nhất thiết chủng trí.

Phật tử ! Bấy giờ, Bồ Tát cho đến thí cho súc sinh thức ăn một nắm, một hột, đều nguyện rằng: Sẽ khiến cho những súc sinh nầy, xả bỏ đường súc sinh, được lợi ích an lạc, rốt ráo giải thoát. Vĩnh viễn vượt khỏi biển khổ. Vĩnh viễn tiêu diệt thọ khổ. Vĩnh viễn tiêu trừ khổ uẩn. Vĩnh viễn dứt khổ giác, khổ tụ, khổ hành, khổ nhân, khổ bổn và các khổ xứ. Nguyện cho những chúng sinh đó, đều được xả lìa. Bồ Tát chuyên tâm hệ niệm tất cả chúng sinh như thế, dùng các căn lành đó làm thượng thủ, để vì họ hồi hướng nhất thiết chủng trí.

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Vị Bồ Tát đó tu pháp môn hồi hướng đẳng tất cả Phật, Ngài hành công đức bố thí, chẳng hoàn toàn dùng người làm đối tượng, khi Ngài bố thí thức ăn cho súc sinh thì, dù ít chừng một nắm, một hạt cơm, Ngài đều phát nguyện lớn như nhau, quyết chẳng vì thức ăn nhiều mà nguyện vọng phát ra khác nhau. Ngài cũng đều hy vọng súc sinh đắc được chút thức ăn, do nguyện lực của Ngài, mà xả bỏ đạo quả súc sinh, mà cứ nơi hồi hướng nguyện vọng của Ngài, đắc được lợi ích an lạc, đắc được giải thoát rốt ráo chân thật, sớm thoát khỏi biển khổ sinh tử, vĩnh viễn tiêu diệt tất cả khổ thọ. Thọ, là khổ của tự tánh, cho nên phải tiêu diệt, vĩnh viễn trừ khỏi tất cả khổ uẩn. Uẩn là khổ nương tựa, như năm ấm xí thạnh khổ. Vĩnh viễn đoạn tuyệt tất cả khổ giác. Giác là khổ tướng, cũng nhiếp oán tắng hội khổ, ái biệt ly khổ .v.v… Cho đến tất cả các khổ tụ, như sinh, già, bệnh, chết, ba thứ khổ, tám thứ khổ. Khổ hành, là các khổ do tội nghiệp làm ra. Khổ nhân, là nhân khởi của tất cả sự khổ, tức là do tâm khởi các hoặc. Khổ bổn, là gốc rễ của khổ, đều từ tham dục mà sinh. Cùng với đủ thứ nơi thọ khổ. Những nơi thọ khổ, đó là ba đường ác: Súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục, cùng với nhiều sự biển đổi sở y. Các khổ ở trên, Bồ Tát đều hy vọng chúng sinh đắc được lợi ích hồi hướng của Ngài, vĩnh viễn xả lìa những thứ khổ nạn đó. Bồ Tát tu pháp hồi hướng như vậy, tại sao ? Bồ Tát chẳng phải vì mình cầu an lạc, mà vì giải thoát tất cả chúng sinh, lìa khổ được vui, cho nên Ngài mới chuyên tâm hệ niệm tất cả chúng sinh, Bồ Tát vì lợi ích cho chúng sinh, tu tập căn lành là việc đầu tiên của Ngài. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, đều đắc được nhất thiết chủng trí, đắc được bồ đề giác quả, cho nên Ngài đem căn lành của Ngài tu, vì tất cả chúng sinh mà hồi hướng, vì nhất thiết chủng trí mà hồi hướng.

 

Bồ Tát sơ phát Bồ-đề chi tâm phổ nhiếp chúng sanh, tu chư thiện căn tất dĩ hồi hướng, dục lệnh vĩnh ly sanh tử khoáng dã, đắc chư Như Lai vô ngại khoái lạc, xuất phiền não hải, tu Phật Pháp đạo. Từ tâm biến mãn, bi lực quảng đại, phổ sử nhất thiết đắc thanh tịnh lạc. Thủ hộ thiện căn, thân cận Phật Pháp. xuất ma cảnh giới, nhập Phật cảnh giới. Đoạn thế gian chủng, thực Như Lai chủng, trụ ư tam thế bình đẳng pháp trung. Bồ-Tát Ma-ha-tát như thị sở hữu dĩ tập, đương tập, hiện tập thiện căn, tất dĩ hồi hướng.

Bồ Tát sơ phát tâm bồ đề, khắp nhiếp chúng sinh. Tu các căn lành, thảy đều hồi hướng. Muốn khiến cho họ vĩnh viễn lìa khỏi sinh tử khoáng dã. Đắc được khoái lạc vô ngại của Như Lai. Thoát khỏi biển phiền não. Tu con đường Phật pháp, tâm từ đầy khắp, sức bi rộng lớn. Khắp khiến cho tất cả đắc được an lạc thanh tịnh. Thủ hộ căn lành, gần gũi Phật pháp, thoát khỏi cảnh giới ma, nhập vào cảnh giới của Phật. Đoạn hạt giống thế gian, gieo trồng hạt giống Như Lai. Trụ ở trong pháp ba đời bình đẳng. Đại Bồ Tát đem hết thảy căn lành đã tích tập, sẽ tích tập, hiện đang tích tập, thảy đều hồi hướng.

Giảng: Vị Bồ Tát đó tu pháp hồi hướng đẳng tất cả Phật, khi Ngài lúc đương sơ phát tâm bồ đề, thì Ngài khắp nhiếp thọ hết thảy chúng sinh, tu hành đủ thứ căn lành, đem căn lành đó, thảy đều hồi hướng cho pháp giới chúng sinh. Mục đích Ngài hồi hướng là muốn khiến cho tất cả chúng sinh, vĩnh viễn thoát khỏi khoáng dã sinh tử. Nghĩa là nói những chúng sinh đó, khi sống thì chẳng chỗ nương, chết rồi cũng chẳng có quy túc, sinh tử hai con đường, chẳng có biện pháp dứt sinh tử, cho nên dùng hai chữ “khoáng dã” để hình dung. Chúng sinh có thể vĩnh viễn lìa khoáng dã sinh tử, thì tự nhiên sẽ được lợi ích của Bồ Tát giáo hoá, tin sâu chánh pháp, biết tu hành biện đạo, sẽ đắc được khoái lạc chẳng chướng ngại của mười phương chư Phật, chẳng thọ bất cứ sự vật nào nhiễu loạn chân tâm khoái lạc.

Lúc đó, phiền não vô tận của tất cả chúng sinh, giống như biên cả, vô hình sẽ đoạn diệt. Họ đều thoát khỏi biển khổ phiền não. Vì chúng sinh đều minh bạch phải tu học đạo pháp của chư Phật. Tâm từ ái của chư Phật đầy dẫy khắp pháp giới, tâm bi tha thiết của Ngài, và nguyện lực cũng đặc biệt rộng lớn, sung mãn hư không, khắp khiến cho tất cả chúng sinh, đều đắc được khoái lạc mát mẻ. Thủ hộ căn lành của mình tu, cũng thủ hộ căn lành của tất cả chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh đều biết gần gũi Phật, gần gũi pháp. Mình cũng gần gũi Phật, gần gũi pháp. Thoát khỏi tất cả cảnh giới của thiên ma ngoại đạo. Nhập vào cảnh giới chánh tri chánh kiến của Phật. Bồ Tát thường hành Bồ Tát đạo, tức là không để cho chúng sinh nhập vào cảnh giới ma. Ðoạn trừ hạt giống thế gian, hạt giống thế gian tức là tất cả pháp ô nhiễm. Bồ Tát tự mình sớm đã dứt sạch ô nhiễm, cho nên Ngài giáo hoá chúng sinh, khiến cho chúng sinh cũng dứt pháp ô nhiễm của thế gian, còn phải dứt trừ hạt giống pháp thế gian. Sau đó phải gieo trồng hạt giống Phật. Gì là hạt giống Phật ? Tức là trí huệ thù thắng. Trí huệ thì phải tu tập, cho nên phải tu học Phật đạo, giống như tài bồi hạt giống, cũng cần phải vun bồi tưới nước. Trí huệ của Như Lai, tức là hạt giống của Phật. Tu học Phật đạo, tức là vun bồi hạt giống trí huệ. Bồ Tát trụ ở trong pháp ba đời bình đẳng của chư Phật nói ra, nơi tất cả lý sự, chẳng sinh biên kiến phân biệt, ôm lòng bình đẳng đại từ. Ba đời, tức là đời quá khứ, đời hiện tại, và đời vị lai. Ðại Bồ Tát đem căn lành Ngài đã tích tập trong quá khứ, căn lành Ngài sẽ tích tập đời vị lai, căn lành Ngài đang tích tập hiện tại, tơ hào chẳng lưu giữ, hoàn toàn hồi hướng cho tất cả chúng sinh, hồi hướng về vô thượng bồ đề, hồi hướng về chân như thật tế.

 

Phục tác thị niệm. Như quá khứ chư Phật Bồ Tát sở hạnh, cung kính cúng dường nhất thiết chư Phật, độ chư chúng sanh lệnh vĩnh xuất ly, cần gia tu tập nhất thiết thiện căn, tất dĩ hồi hướng nhi vô sở trước. sở vị. bất y sắc, bất trước thọ, vô đảo tưởng, bất tác hành, bất thủ thức, xả ly lục xứ. bất trụ thế Pháp, lạc xuất thế gian.

Ngài lại nghĩ như vầy: Như chỗ tu hành của chư Phật Bồ Tát quá khứ thực hành, cung kính cúng dường tất cả chư Phật. Độ các chúng sinh, khiến cho họ vĩnh viễn thoát khỏi. Siêng năng tu tập tất cả căn lành, thảy đều hồi hướng mà chẳng chấp trước. Những là chẳng nương nơi sắc, chẳng chấp vào thọ, không tưởng điên đảo, chẳng tác ý nơi hành, chẳng thủ lấy thức. Xả lìa sáu xứ, chẳng trụ thế pháp, ưa xuất thế gian.

Giảng: Bồ Tát lại quán tưởng như vầy: Tôi phải học hạnh môn tu hành của chư Phật và Bồ Tát quá khứ, tôi nguyện ý tu hành giống như các Ngài. Giống như các Ngài cung kính tất cả chư Phật, cúng dường tất cả chư Phật, gần gũi tất cả chư Phật, lễ lạy tất cả chư Phật, khen ngợi tất cả chư Phật. Ðộ tất cả chúng sinh, thường xiển dương chánh pháp đối với họ, tiếp dẫn họ lìa khổ được vui, khiến cho họ vĩnh viễn thoát khỏi ba cõi: Cõi dục, cõi sắc, cõi vô sắc. Luôn luôn dũng mãnh tinh tấn, siêng năng tu tập tất cả căn lành. Tất cả căn lành tức là “Không làm các điều ác, chuyên làm các việc lành”, để tăng trưởng căn lành của mình. Ðem căn lành của mình tu tập, đều hồi hướng cho tất cả chúng sinh, hồi hướng về vô thượng bồ đề, hồi hướng về thật tế. Khi Bồ Tát hồi hướng như thế thì, một chút cũng chẳng chấp trước vào việc của mình làm, cũng chẳng chấp trước vào tôi đã giáo hoá tất cả chúng sinh. Như chẳng nương vào sắc, tức chẳng nương vào tất cả vật chất có hình, chẳng chấp vào nơi thọ uẩn, chẳng chấp vào nơi tưởng uẩn. Chẳng có tư tưởng điên đảo, chẳng tác ý nơi hành uẩn, cũng chẳng chấp vào nơi thức uẩn. Sắc thọ tưởng hành thức năm uẩn đều chẳng chấp vào. Xả lìa sắc thanh hương vị xúc pháp cảnh giới sáu trần. Vĩnh viễn lìa khỏi sự cám dỗ của sáu xứ nầy. Tóm lại, Bồ Tát quyết chẳng lưu luyến nơi năm dục sáu trần. Tâm niệm của Ngài xa lìa hồng trần, đắc được pháp lạc thanh tịnh, cho nên Ngài chẳng trụ pháp thế gian mà hoan hỉ tu hành, ưa thích tu Phật đạo xuất thế gian, ưa thích xuất thế gian, vì Ngài biết tất cả trên thế gian đều là hư vọng.

 

Tri nhất thiết pháp giai như hư không, vô sở tòng lai, bất sanh bất diệt, vô hữu chân thật, vô sở nhiễm trước. Viễn ly nhất thiết chư phân biệt kiến, bất động bất chuyển, bất thất bất hoại. Trụ ư thật tế, vô tướng ly tướng, duy thị nhất tướng. Như thị thâm nhập nhất thiết pháp tánh, thường lạc tập hạnh Phổ môn thiện căn, tất kiến nhất thiết chư Phật chúng hội.

Bồ Tát biết tất cả pháp như hư không. Chẳng từ đâu đến. Không sinh không diệt. Không có chân thật. Không có nhiễm trước. Xa lìa tất cả thấy phân biệt. Chẳng động chẳng chuyển, chẳng mất chẳng hoại. Trụ nơi thật tế. Không tướng lìa tướng, chỉ là một tướng. Vào sâu tất cả pháp tánh như vậy. Thường ưa tu tập phổ môn căn lành. Đều thấy tất cả chúng hội của chư Phật.

Giảng: Ðại Bồ Tát tu hồi hướng đẳng tất cả Phật, sở dĩ Ngài chẳng chấp vào đủ thứ cảnh giới năm dục sáu trần, là do Ngài đã biết tất cả pháp đều giống như hư không, chẳng có thật thể, như huyễn như hoá, nó là tùng duyên không tính, chẳng biết nó từ nơi nào đến, cũng chẳng biết nó quy về đâu. Nó chẳng sinh, cho nên mới không diệt. Tất cả pháp đều là hư vọng không thật, vậy có thể chân thật chăng ? Ðương nhiên chẳng có thể chân thật, lại có gì có thể nhiễm trước ? Bồ Tát thông đạt đạo lý pháp tánh vốn không, xa lìa được tất cả tri kiến phân biệt. Bất cứ cảnh giới gì cũng chẳng giao động được chánh kiến của Ngài, Ngài càng chẳng thuận theo cảnh giới mà lưu chuyển. Chẳng mất chẳng hoại, Bồ Tát chẳng chấp trước, tức là đắc không chỗ đắc, vậy còn có quan niệm có mất, có hoại chăng, cho nên Ngài chẳng mất, chẳng hoại. Trụ nơi thật tế, thấy thật thành quán, thấu rõ lý thể chân thật của các pháp. Thật tế tức là vô tướng, tâm cảnh vắng lặng, chẳng có bất cứ tướng gì. Lìa tướng tức là lìa tất cả tướng hư vọng, hiển tướng chân thật. Vô tướng là ở tại lý mà nói, vì các pháp vốn tự không có tướng. Lìa tướng là nương về trí mà nói. Lìa lấy tướng tức chẳng bị tướng làm chướng ngại, tức cũng là không chấp, không nương, mới sinh ra sức trí huệ. Chỉ là một tướng, câu trên nói thấu rõ không tướng lìa tướng, mười tướng đều lìa, tiếp theo nói chỉ là một tướng. Tại biểu diện của câu văn mà nhìn, thì giống như nói có một tướng, kỳ thật ý nghĩa một tướng, tức cũng là không tướng. Chữ “tướng”, khái quát có mười thứ, tức là tướng sắc, thanh, hương, vị, xúc, tướng sinh, trụ, hoại, diệt, tướng nam, tướng nữ, cộng làm mười thứ. Bồ Tát đối với đạo lý ở trên vừa nói, đều y giáo phụng hành, vào sâu tất cả pháp tánh, khế hợp với pháp tánh tuỳ tướng mà tu. Dùng một nhiếp tất cả, tâm thường ưa phát nguyện lớn, tu khắp tất cả pháp môn tận hư không khắp pháp giới, tu tập căn lành. Mười phương ba đời chư Phật Ngài cũng thường thường thấy được, mà còn thường thường tham gia pháp hội của chư Phật, nghe chư Phật giảng Kinh thuyết pháp.

 

Như bỉ quá khứ nhất thiết Như Lai thiện căn hồi hướng, ngã diệc như thị nhi vi hồi hướng. giải như thị pháp, chứng như thị pháp, y như thị pháp, phát tâm tu tập, bất vi Pháp tướng. Tri sở tu hành, như huyễn như ảnh, như thủy trung nguyệt, như kính trung tượng, nhân duyên hòa hợp chi sở hiển hiện, nãi chí Như Lai cứu cánh chi địa.

Như hồi hướng căn lành của tất cả Như Lai quá khứ. Tôi cũng hồi hướng như vậy. Hiểu pháp như vậy. Chứng pháp như vậy. Nương pháp như vậy. Phát tâm tu tập, chẳng trái với pháp tướng. Biết chỗ tu hành, như huyễn như bóng, như trăng trong nước, như hình trong gương, do duyên hoà hợp mà hiển hiện. Cho đến bậc Như Lai rốt ráo.

Giảng: Ðại Bồ Tát tu pháp hồi hướng đẳng tất cả Phật, Ngài quyết tâm muốn học hồi hướng căn lành của tất cả chư Phật quá khứ tu hành. “Tôi cũng muốn chiếu theo phương pháp của các Ngài tu mà tu hồi hướng”, đem căn lành nầy vì chúng sinh hồi hướng. Bồ Tát Ngài tự suy gẫm: Tôi đã minh bạch hết thảy tất cả các pháp. Tôi cũng chứng được diệu pháp không thể nghĩ bàn. Nghĩa là tôi y chiếu theo diệu pháp không thể nghĩ bàn nầy tu hành. Tôi đã từng phát tâm đại bồ đề, tu tập diệu pháp không thể nghĩ bàn của chư Phật nói. Tuy tôi đã biết các pháp không tướng, tu pháp không tướng, nhưng tôi chẳng trái với pháp tướng, đây là vì giáo hoá chúng sinh, giả dùng lời nói mà thôi. Tôi biết như lý tu hành, song, tôi chưa từng chấp trước vào năng tu và sở tu, vì hết thảy tất cả đều là như huyễn, như bóng, chẳng có chân thật. Lại giống như mặt trăng trong nước, như hình trong gương, đều chẳng có vật thật, là nhân duyên hoà hợp mà sinh ra. Bổn thân của tấm gương là một miếng trong sáng, vật đến thì hiện, vật đi thì không, do nhân duyên hoà hợp mới có sự hiển hiện. Tôn chiếu theo đạo lý nầy mà tu hành, thì cuối cùng sẽ đạt đến rốt ráo viên mãn, thành tựu quả vị Phật.

 

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát phục tác thị niệm. Như quá khứ chư Phật tu Bồ Tát hạnh thời, dĩ chư thiện căn như thị hồi hướng. Vị lai, hiện tại, tất diệc như thị. Ngã kim diệc ưng như bỉ chư Phật, như thị phát tâm, dĩ chư thiện căn nhi vi hồi hướng. Đệ nhất hồi hướng, thắng hồi hướng, tối thắng hồi hướng, thượng hồi hướng, vô thượng hồi hướng, vô đẳng hồi hướng, vô đẳng đẳng hồi hướng, vô bỉ hồi hướng, vô đối hồi hướng, tôn hồi hướng, diệu hồi hướng, bình đẳng hồi hướng, chánh trực hồi hướng, Đại công đức hồi hướng, quảng đại hồi hướng, thiện hồi hướng, thanh tịnh hồi hướng, ly ác hồi hướng, bất tùy ác hồi hướng.

Phật tử ! Đại Bồ Tát lại nghĩ như vầy: Như quá khứ, khi chư Phật tu hạnh bồ đề, thì đem các căn lành hồi hướng như vậy. Vị lai, hiện tại, cũng đều như vậy. Nay tôi cũng nên như các đức Phật đó, phát tâm như vậy. Đem các căn lành mà hồi hướng. Bậc nhất hồi hướng. Thắng hồi hướng. Tối thắng hồi hướng. Thượng hồi hướng. Vô thượng hồi hướng. Vô đẳng hồi hướng. Vô đẳng đẳng hồi hướng. Vô tỉ hồi hướng. Vô đối hồi hướng. Tôn hồi hướng. Diệu hồi hướng. Bình đẳng hồi hướng. Chánh trực hồi hướng. Đại công đức hồi hướng. Rộng lớn hồi hướng. Thiện hồi hướng. Thanh tịnh hồi hướng. Lìa ác hồi hướng. Chẳng tuỳ ác hồi hướng.

Giảng: Bồ Tát Kim Cang Tràng lại gọi một tiếng các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát, tức là vị Bồ Tát tu pháp hồi hướng đẳng tất cả Phật, Ngài lại quán tưởng như vầy: Tôi phải giống như chư Phật quá khứ khi tu hạnh Bồ Tát, thì tu tập đủ thứ căn lành, hồi hướng cho tất cả chúng sinh, hồi hướng về bồ đề, hồi hướng về thật tế. Chư Phật vị lai và chư Phật hiện tại, các Ngài cũng tu pháp hồi hướng, cũng đều giống nhau. Hiện tại tôi phải hướng về chư Phật ba đời học tập, phát tâm giống như các Ngài, đem căn lành của tôi tu tập, hồi hướng cho pháp giới chúng sinh, hồi hướng về vô thượng bồ đề, hồi hướng về thật tế. Bậc nhất hồi hướng: Bồ Tát tu tập đủ thứ pháp môn, dùng hồi hướng làm đầu, cho nên gọi là bậc nhất hồi hướng. Thắng hồi hướng: Bồ Tát đem căn lành của mình tu tập hồi tự hướng tha (quay lại mình hướng về người khác), tâm từ bi của Ngài lượng đồng hư không, vượt qua mục đích của phàm phu và người tiểu thừa tu hành, cầu cho chính mình, cho nên nói là thắng hồi hướng, tức là thắng hơn sự hồi hướng của bậc Thánh nhị thừa.

Tối thắng hồi hướng: Pháp hồi hướng là tối thù thắng, vượt qua nhân vị. Thượng hồi hướng: Hồi hướng tối thượng, cho nên gọi là thượng hồi hướng. Vô thượng hồi hướng: Chẳng có gì cao hơn so với pháp hồi hướng. Vô đẳng hồi hướng: Chẳng có pháp gì có thể sánh bằng với pháp hồi hướng. Vô đẳng đẳng hồi hướng: Công đức lành hồi hướng, đã đạt đến cực điểm, chẳng có gì có thể sánh bằng nó. Vô tỉ hồi hướng: Chẳng có gì có thể sánh bằng hồi hướng, tìm chẳng được cái gì có thể luận bằng nó được. Vô đối hồi hướng: Hồi hướng tuyệt đối, vô địch. Tôn hồi hướng: Hồi hướng tôn quý nhất. Diệu hồi hướng: Tâm không thể nghĩ, lời không thể luận bàn, nên gọi là diệu hồi hướng. Bình đẳng hồi hướng: Dùng tâm bình đẳng nhìn chúng sinh, đem đủ thứ căn lành bình đẳng hồi hướng cho chúng sinh, lợi ích khắp hết thảy. Chánh trực hồi hướng: Dùng tâm ngay thẳng, không nghĩ tới thù xưa, chẳng ghét kẻ ác, bình đẳng chánh trực hồi hướng cho tất cả chúng sinh. Ðại công đức hồi hướng: Bồ Tát đem đại công đức tu hành, khắp hồi hướng cho tất cả chúng sinh. Rộng lớn hồi hướng: Nguyện lớn hồi hướng khắp cùng pháp giới. Thiện hồi hướng: Làm đủ thứ nghiệp thiện hồi hướng. Thanh tịnh hồi hướng: Dùng tâm thanh tịnh nhất để hồi hướng căn lành tu được. Lìa ác hồi hướng: Lìa khỏi tất cả nghiệp ác, hồi hướng chẳng có một chút nhiễm ô. Chẳng tuỳ ác hồi hướng: Hồi hướng chẳng di chuyển theo cảnh giới ác.

 

Bồ Tát như thị dĩ chư thiện căn chánh hồi hướng dĩ, thành tựu thanh tịnh thân, ngữ, ý nghiệp, trụ Bồ-tát trụ, vô chư quá thất. Tu tập thiện nghiệp, ly thân, ngữ ác, tâm vô hà uế. Tu nhất thiết trí, trụ quảng đại tâm, tri nhất thiết pháp vô hữu sở tác. Trụ xuất thế Pháp, thế Pháp bất nhiễm. phân biệt liễu tri vô lượng chư nghiệp, thành tựu hồi hướng thiện xảo phương tiện, vĩnh bạt nhất thiết thủ trước căn bản.

Bồ Tát đem các căn lành chánh hồi hướng như thế rồi, thành tựu thanh tịnh thân lời ý nghiệp. Trụ chỗ trụ của Bồ Tát, chẳng có lỗi lầm. Tu tập nghiệp lành. Lìa điều ác nơi thân và lời nói. Tâm chẳng có vết ô uế. Tu nhất thiết trí, trụ nơi tâm rộng lớn. Biết tất cả pháp, chẳng có chỗ làm. Trụ nơi pháp xuất thế. Chẳng nhiễm pháp thế gian. Phân biệt biết rõ vô lượng các nghiệp. Thành tựu phương tiện hồi hướng khéo léo, vĩnh viễn nhổ sạch tất cả gốc rễ chấp trước.

Giảng: Vị đại Bồ Tát đó, tu pháp hồi hướng đẳng tất cả Phật, dùng đủ thứ căn lành công đức của Ngài tu tập, tâm từ bi chánh tâm thành ý, chánh trực vô tư, chánh niệm không tà, tâm thanh tịnh, hồi hướng cho pháp giới chúng sinh, hồi hướng vô thượng bồ đề, hồi hướng về thật tế rồi, thành tựu thân, lời, ý, ba nghiệp thanh tịnh. Trụ nơi quả vị của Bồ Tát trụ, diệt trừ tất cả lỗi lầm, đắc được chân chánh không nhiễm, không cấu bẩn, tu tập tất cả nghiệp thiện. Xa lìa nghiệp ác về thân: Giết hại, trộm cắp, tà dâm. Nghiệp ác về lời nói: Nói dối, nói thêu dệt, nói hai lưỡi, chưởi mắng. Tâm, tức là ý, trong tâm cũng chẳng có chút tì vết và ô nhiễm nào. Nghiệp ác về ý: Tham, sân, si. Nếu ba nghiệp nầy thanh tịnh, siêng tu các pháp, thì tự nhiên sẽ sinh ra trí huệ, vì trí huệ là từ trong sự thanh tịnh mà sinh ra. Nếu tâm có sự ô nhiễm, thì trí huệ tuyệt đối không thể sinh ra. Tu hành, là đồng như tu nhất thiết trí. Trụ tâm rộng lớn: Tâm lượng rộng lớn như hư không, bao hàm tất cả. Người hay tu hành bố thí lớn, thì tâm họ nhất định sẽ rộng lớn. Người chịu tu bố thí, thì tâm tham sân si sẽ bớt đi. Phàm là người tâm tham, tâm sân, tâm si nặng, thì tâm lượng của họ nhất định sẽ hẹp hòi, có mình, chẳng có người. Bồ Tát lại biết tất cả pháp, chẳng có một tác giả nào cả, cũng chẳng có kẻ thọ. An trụ ở trong chánh niệm của chánh pháp, tuyệt đối chẳng bị pháp thế gian làm ô nhiễm. Phân biệt biết rõ vô lượng các nghiệp, Bồ Tát đều biết rất rõ ràng đủ thứ sự khác nhau, nghiệp nhân, nghiệp duyên, nghiệp quả, chẳng có số lượng. Ðem căn lành thành tựu của mình, hồi hướng cho hết thảy chúng sinh, dùng pháp môn phương tiện khéo léo, giáo hoá chúng sinh, dẫn dắt chúng sinh, cứu chúng sinh ra khỏi từ trong sự chấp trước, khiến cho họ vĩnh viễn nhổ sạch gốc rễ chấp trước. Gốc rễ chấp trước của chúng sinh tức là ba độc tham sân si.

 

Phật tử! thị vi Bồ-Tát Ma-ha-tát đệ tam đẳng nhất thiết Phật hồi hướng.

Phật tử ! Đó là hồi hướng đẳng tất cả Phật thứ ba của đại Bồ Tát.

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Ðó tức là hồi hướng thứ ba trong mười hồi hướng, hồi hướng đẳng tất cả Phật của đại Bồ Tát tu tập.

 

Bồ-Tát Ma-ha-tát trụ thử hồi hướng, thâm nhập nhất thiết chư Như Lai nghiệp, thú hướng Như Lai thắng diệu công đức. Nhập thâm thanh tịnh trí tuệ cảnh giới, bất ly nhất thiết chư Bồ-tát nghiệp, thiện năng phân biệt xảo diệu phương tiện. Nhập thâm pháp giới, thiện tri Bồ Tát tu hành thứ đệ. Nhập Phật chủng tánh, dĩ xảo phương tiện phân biệt liễu tri vô lượng vô biên nhất thiết chư pháp. Tuy phục hiện thân ư thế trung sanh, nhi ư thế Pháp tâm vô sở trước.

Đại Bồ Tát trụ ở hồi hướng nầy, vào sâu nghiệp của tất cả Như Lai. Hướng về công đức thù thắng vi diệu của Như Lai. Vào sâu cảnh giới trí huệ thanh tịnh. Chẳng lìa nghiệp của tất cả Bồ Tát. Khéo phân biệt phương tiện khéo léo, mà vào sâu pháp giới. Khéo biết Bồ Tát tu hành thứ lớp. Vào giống tánh của Phật. Dùng phương tiện khéo, phân biệt biết rõ vô lượng vô biên tất cả các pháp. Tuy lại hiện thân sinh ra trong thế gian, mà nơi pháp thế gian tâm chẳng chấp trước.

Giảng: Vị đại Bồ Tát đó tu hồi hướng đẳng tất cả Phật, Ngài an trụ ở trong hồi hướng thứ ba, Ngài vào sâu giác đạo nghiệp Phật của chư Phật, mà tu tập nghiệp của chư Phật. Lại siêng năng tinh tấn tu học nghiệp Phật, hướng về quả đức thù thắng vi diệu của Phật. Lại vào được cảnh giới trí huệ thanh tịnh thâm sâu mà hướng về bồ đề. Luôn luôn tu học chẳng giải đãi, chưa từng lìa khỏi đạo nghiệp của các Bồ Tát tu hành. Khéo phân biệt thật tướng của các pháp, dùng pháp môn phương tiện khéo léo giáo hoá chúng sinh. Vào pháp giới thanh tịnh thâm sâu, thường chuyển bánh xe pháp. Lại biết rõ pháp môn tu hành của Bồ Tát, phải từ lục độ vạn hạnh mà hạ thủ. Tu hành biện đạo, đều có thứ tự nhất định. Nếu tu mù luyện đuôi, thì sẽ lãng phí thời gian vô ích, cho nên phải y theo lời chỉ dạy của thiện tri thức, thuận theo thứ tự, mà nhập vào đạo đưa đến sự thành Phật. Vào giống tánh của Phật: Phải khế hợp với giống tánh với Phật, chánh niệm suy gẫm, hợp với ý của Phật. Lại vận dụng pháp môn phương tiện khéo léo, phân biệt rõ ràng, minh bạch vô lượng vô biên tất cả diệu pháp, dùng những diệu pháp nầy giáo hoá chúng sinh, độ chúng sinh thoát khỏi biển khổ. Tuy nhiên Bồ Tát một lần, lại một lần đến thế giới nầy, nhưng Ngài thừa nguyện lực mà đến độ chúng sinh, chứ chẳng phải vì tham luyến hưởng thụ năm dục thế gian mà đến thọ sinh. Bồ Tát đối với pháp thế gian chẳng chấp trước, tâm càng không tham nhiễm sắc thanh hương vị xúc, hoặc tài sắc danh ăn ngủ năm dục.

 

Nhĩ thời, Kim cương Tràng Bồ-tát thừa Phật thần lực, phổ quán thập phương, tức thuyết tụng ngôn.

Bấy giờ, Bồ Tát Kim Cang Tràng, nương thần lực của đức Phật. Quán sát mười phương, liền nói kệ rằng:

 

Bỉ chư Bồ-Tát Ma-ha-tát Các Bồ Tát Ma Ha Tát đó
Tu quá khứ Phật hồi hướng Pháp Tu pháp hồi hướng Phật quá khứ
Diệc học vị lai hiện tại thế Cũng học Phật vị lai hiện tại
Nhất thiết Đạo sư chi sở hạnh. Tu hành của tất cả Đạo Sư.

Khi Bồ Tát Kim Cang Tràng giảng xong hồi hướng thứ ba, thì Ngài liền nương đại oai thần lực của mười phương chư Phật và Phật Tỳ Lô Giá Na cùng với Ðức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni, quán sát khắp căn tánh và nhân duyên của tất cả chúng sinh trong mười phương, lại dùng phương pháp kệ tụng, thuật lại Kinh văn trường hàng ở trên. Khiến cho chúng sinh đương thời, chúng sinh vị lai, dễ dàng minh bạch, dễ dàng tu hành, dễ dàng thành tựu.

Ngài nói: Vị Bồ Tát nầy tu pháp hồi hướng, là vị đại Bồ Tát trong các Bồ Tát. Ðại Bồ Tát tu pháp lớn, phát nguyện lớn, thành quả lớn, rộng độ vô lượng chúng sinh. Pháp môn tu hành của vị Bồ Tát đó, là học tập thệ nguyện lớn của chư Phật đời quá khứ, pháp môn hồi hướng. Ngài cũng học tập chư Phật vị lai, và chư Phật hiện tại đang tu pháp hồi hướng nầy, cùng với pháp môn của mười phương chư Phật tu hành, chứng quả vị mà Phật chứng, nói đủ thứ diệu pháp mà Phật nói. Ðạo sư, là một danh từ riêng gọi Phật.

 

Ư chư cảnh giới đắc an lạc, Nơi các cảnh giới được an lạc
Chư Phật Như Lai sở xưng tán, Chỗ chư Phật Như Lai khen ngợi
Quảng đại quang minh thanh Tịnh nhãn, Mắt thanh tịnh quang minh rộng lớn
Tất dĩ hồi hướng Đại thông triết. Đều đem hồi hướng đại trí huệ.

Tại sao một số người có nhiều ưu sầu phiền não ? Tại sao cảm giác chẳng vui vẻ ? Là vì mỗi người có sự chấp trước của mỗi người. Vật gì cũng khiến cho sự chấp trước phát sinh sức lực lớn, là do ba độc tham sân si, và hơn nữa là do nhân quả. Do tâm vọng tham sân si nặng, bèn sinh ra chấp trước, khởi hoặc, tạo nghiệp. Vì chấp trước, phiền não trùng trùng, nên tâm niệm trong tâm đầy dẫy ưu sầu phiền não, tham sân si càng sâu dày. Một người như thế, thì hiện tại không thể nào đắc được an lạc, về sau đời đời kiếp kiếp lại như thế nào ? Giống như người như thế, phiền não nặng, suốt ngày ưu sầu khổ não nặng, đều là do đời hiện tại nhiễm trước. Ðây cũng là do nhân duyên hạt giống và tập khí trong đời quá khứ mà ra. Tại sao Bồ Tát đối với tất cả cảnh giới đều cảm giác tự tại an lạc ? Vì Ngài chẳng có phiền não chấp trước, trong tự tâm của Ngài chẳng có ta, người, tâm từ bi bình đẳng đối đãi với tất cả chúng sinh, hộ niệm tất cả chúng sinh. Ðời đời kiếp kiếp ở trong mười phương thế giới cứu hộ chúng sinh, giáo hoá chúng sinh, dẫn dắt chúng sinh, từ nơi đen tối dẫn ra ánh sáng, lìa khổ được vui. Bồ Tát làm như vậy, chính mình an lạc, cũng được mười phương chư Phật cùng khen ngợi. Phật có trí huệ rộng lớn, Bồ Tát tu pháp hồi hướng, Ngài cũng có trí huệ quang minh rộng lớn, mắt trí huệ thanh tịnh. Bồ Tát đem căn lành của Ngài tu tập, hồi hướng đến người có trí huệ tối thượng, mười phương chư Phật.

 

Bồ Tát thân căn chủng chủng lạc Căn thân Bồ Tát đủ thứ vui
Nhãn Nhĩ tỳ thiệt diệc phục nhiên Mắt tai mũi lưỡi cũng như thế
Như thị vô lượng thượng diệu lạc Như vậy vô lượng vui thượng diệu
Tất dĩ hồi hướng chư tối thắng. Đều đem hồi hướng bậc tối thắng.

Căn thân của Bồ Tát, bao quát mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, sáu căn. Sáu căn thanh tịnh, thì tất cả đều khoái lạc. Bồ Tát do nơi ý căn đắc được thanh tịnh, thì trong con mắt thấy toàn là cảnh giới thanh tịnh, trong lỗ tai nghe đều là pháp âm vô thượng vi diệu, trong lỗ mũi ngửi hương thơm, trong miệng nếm pháp vị vô thượng, thân xúc giác thảnh thơi. Như vậy sáu căn tứ chi, chẳng có một nơi nào chẳng đầy dẫy tự tại an lạc. Bồ Tát tự thân an lạc, càng lấy sự vui của chúng sinh làm vui, Ngài chẳng tự vui, chẳng vui một mình, Ngài muốn ban cho chúng sinh cùng vui. Ngài với chúng sinh cùng vui cùng khổ, cho nên Ngài tu lục độ vạn hạnh, hộ niệm chúng sinh, xem chúng sinh là một thể, mà chẳng có phân biệt đó đây. Giống như vô lượng vui thượng diệu, Bồ Tát thảy đều hồi hướng về bồ đề giác đạo tối thắng, tối cao, hồi hướng về thật tế, hồi hướng cho chúng sinh.

 

Nhất thiết thế gian chúng thiện Pháp Tất cả các pháp lành thế gian
Cập chư Như Lai sở thành tựu, Với sự thành tựu của chư Phật
Ư bỉ tất nhiếp vô hữu dư, Nơi đó đều nhiếp chẳng dư thừa
Tận dĩ tùy hỉ ích chúng sanh. Thảy đều tuỳ hỉ lợi chúng sinh.

Mười phương thế giới hết thảy đủ thứ pháp lành, tức là tất cả chánh pháp của Phật nói, pháp hay lìa khổ được vui, chấm dứt sinh tử, thoát khỏi ba cõi, chứng giác đạo. Cùng với diệu pháp của mười phương chư Phật tu hành thành tựu, viên mãn chứng được Phật quả. Ðối với đủ thứ các pháp thượng diệu đó, đại Bồ Tát tu pháp thập hồi hướng, nơi mỗi pháp môn Ngài đều tu tập, nhiếp thọ mà siêng tu tập, chẳng bỏ qua một pháp nào. Bồ Tát Ngài tuỳ hỉ công đức, lại hồi hướng cho chín pháp giới chúng sinh, khiến cho họ đều đắc được lợi ích. Bồ Tát chưa có lúc nào quên chúng sinh, chỉ cần có sự lợi ích cho chúng sinh, thì Bồ Tát nhất định lợi ích cho chúng sinh.

 

Thế gian tùy hỉ vô lượng chủng, Thế gian tuỳ hỉ vô lượng thứ
Kim thử hồi hướng vi chúng sanh, Nay đây hồi hướng vì chúng sinh
Nhân trung sư tử sở hữu lạc Hết thảy vui của đấng Nhân Sư
Nguyện sử quần manh tất viên mãn. Nguyện khiến quần sinh đều viên mãn.

Việc có thể thành tựu tuỳ hỉ công đức trong thế gian, có nhiều loại nói không hết được. Bồ Tát tu lục độ đủ thứ căn lành, nếu hay tuỳ hỉ, thì sẽ thành tựu vô lượng công đức. Ý nghĩa tuỳ hỉ là: “Tuỳ theo họ tu thiện, vui việc họ thành tựu”. Nếu thấy người làm tất cả căn lành công đức, như bố thí .v.v… mà mình chẳng có khả năng làm đại bố thí, không thể thường dùng tài sức vật chất cúng dường Tam Bảo, thì nếu người bố thí cúng dường, cũng phải nên hoan hỉ khen ngợi. Lại như Phật ở trong Kinh Pháp Hoa, chuyên có một phẩm nói về tuỳ hỉ công đức vô lượng. Lại như đại nguyện thứ năm trong mười đại nguyện vương của Bồ Tát Phổ Hiền, cũng nói về tuỳ hỉ công đức. Ngài nói: “Chư Phật tu khổ hạnh khó hành đủ thứ căn lành, khó xả mà xả được, tôi đều hoan hỉ. Mười phương thế giới, sáu nẻo bốn loài tất cả các loại, hết thảy công đức, cho đến một hạt bụi tôi đều tuỳ hỉ. Bậc Thánh hàng nhị thừa tu tất cả công đức, tôi đều tuỳ hỉ. Các Bồ Tát tu khổ hạnh khó thực hành, công đức rộng lớn vì cầu vô thượng bồ đề, tôi đều tuỳ hỉ”. Căn lành công đức của Bồ Tát Phổ Hiền, đã nhập vào nhà Như Lai, đại Bồ Tát đồng với quả vị của chư Phật, Ngài đều coi trọng việc tu tuỳ hỉ công đức, cho đến công đức của sáu nẻo bốn loài chúng sinh, Ngài đều tuỳ hỉ, do đó có thể thấy Bồ Tát Phổ Hiền rất là từ bi, mà xem bình đẳng tất cả chúng sinh. Phàm là người biết tu tuỳ hỉ công đức, thì người đó nhất định tâm lượng rộng lớn, chẳng có tâm đố kị với người khác. Nếu cảm thấy tâm lượng của mình không đủ rộng lớn, thì xin bạn nên tận sức học tu tuỳ hỉ, dùng tâm khẩn thiết tuỳ thời khen ngợi việc lành, hạnh lành, của người khác. Tuỳ hỉ công đức, có thể diệt tội đố kị người khác tu việc lành.

Ðại Bồ Tát tu pháp thập hồi hướng, Ngài nói với chúng ta trên thế gian có thể tu pháp tuỳ hỉ, có thể do tuỳ hỉ mà thành tựu căn lành công đức, có vô lượng vô biên thứ loại. Bồ Tát nói: “Nay tôi hồi hướng vì chúng sinh”, hiện tại tôi tu pháp hồi hướng, là vì chúng sinh. Cho nên tôi phải đem căn lành tu được, công đức tích tập, cùng với pháp môn thù thắng mà tâm đắc được, hoàn toàn vì tất cả chúng sinh mà hồi hướng, hy vọng họ đắc được lợi ích hồi hướng của tôi, sớm thành đạo nghiệp. Lại có thể đắc được đấng Sư Tử trong loài người, tức là Phật, hết thảy pháp vui thượng diệu. Tôi nguyện khiến cho quần sinh, tức là chúng sinh có huyết, có hữu tình thức, đủ thứ loại khác nhau, nguyện cho họ đều đắc được viên mãn khoái lạc như Phật.

 

Nhất thiết quốc độ chư Như Lai Tất cả cõi nước các Như Lai
Phàm sở tri kiến chủng chủng lạc Phàm chỗ thấy biết đủ thứ vui
Nguyện lệnh chúng sanh giai tất đắc Nguyện khiến chúng sinh thảy đều được
Nhi vi chiếu thế Đại minh đăng. Mà làm đèn sáng chiếu thế gian.

Tất cả cõi nước, là nói cõi nước của mười phương chư Phật, và cõi nước chư Phật trụ thế trong đó. Chỗ biết của chư Phật là biết khắp, thấy là thấy bình đẳng đúng đắng, cùng với vô lượng trí huệ và đủ thứ an vui của Phật. Ðại Bồ Tát tu pháp hồi hướng nói: Tôi phát nguyện muốn khiến cho hết thảy chúng sinh đều đắc được hết thảy an lạc của Phật, như hết thảy căn lành củaPhật, như hết thảy trí huệ quang minh của Phật, mà làm ngọn đèn sáng lớn, đèn đại trí huệ, một vị đại giác ngộ, chiếu sáng mười phương thế giới. Hy vọng mỗi chúng sinh đều thành Phật, đều cùng thành Phật đạo. Ðó tức là đại nguyện của đại Bồ Tát tu thập hồi hướng phát ra, tức cũng là mục đích của Bồ Tát tu hành.

 

Bồ Tát sở đắc thắng diệu lạc Bồ Tát đắc được vui thắng diệu
Tất dĩ hồi hướng chư quần sanh, Đều đem hồi hướng các quần sinh
Tuy vi quần sanh cố hồi hướng, Chỉ vì quần sinh nên hồi hướng
Nhi ư hồi hướng vô sở trước. Mà nơi hồi hướng chẳng chấp trước.

Bồ Tát tu Phật đạo thượng thừa, Ngài chưa từng xả bỏ chúng sinh, chưa từng quên chúng sinh, vì cứu bạt chúng sinh mà tu hành, quyết chẳng vì mình mà tính toán bất cứ chuyện gì. Tuy Bồ Tát cũng có thân thể, nhưng Ngài lấy thân chúng sinh làm thân thể của Ngài. Bồ Tát đạo mà Bồ Tát tu hành, là vô duyên đại từ, đồng thể đại bi. Vô duyên là nói người đó với Ngài chẳng có nhân duyên, chẳng có quan hệ thân thuộc gì, nhưng Bồ Tát dùng mắt hiền từ nhìn đối với họ. Giống như những người chẳng tu hành, người phóng dật nhất, người chẳng giữ giới luật nhất, người thường phạm điều của Phật chế ra, Bồ Tát đối với họ chẳng nhớ điều ác xưa, cũng chẳng nhàm bỏ, vẫn dùng tâm từ hộ niệm, giáo hoá họ. Tại sao Bồ Tát phải làm như thế ? Vì Bồ Tát lấy chúng sinh làm thể, Ngài chẳng còn quan niệm ta, người, mục đích của Ngài là muốn khiến cho chúng sinh hoan hỉ an lạc, cho nên Ngài chẳng ngại gian khổ, vẫn hướng về phương hướng đó mà làm. Ðó tức là Bồ Tát, đó tức là Bồ Tát được mọi người khen ngợi tán thán, làm chỗ y chỉ. Bồ Tát Ngài ái hộ tất cả những người chẳng minh bạch đạo lý, Ngài cũng ái hộ những người điên đảo ngu si, Ngài cũng dùng tâm vô duyên đại từ và đồng thể đại bi để giáo hoá họ, hy vọng họ đều có thể cải ác hướng thiện, sửa lỗi làm mới.

Các vị ! Các bạn hãy mở mắt nhìn xem, trên thế giới nầy ai là người thật tốt, ai là người chẳng có tội lỗi, ai là người hoàn toàn lương thiện ? Tôi e rằng tìm hết khắp thế giới, cũng tìm chẳng được một người. Dù họ không có lỗi lớn, cũng có lỗi nhỏ. Chẳng có lỗi nhỏ, và trong tâm còn có lỗi chưa sinh ra. Giống như vậy, người chẳng có bệnh nặng, thì cũng tránh không khỏi bệnh nhẹ. Chẳng có bệnh nhẹ, thì cũng có những mao bệnh. Vậy đi tìm người thập toàn thập mỹ ở đâu ? Bồ Tát thương nhớ chúng sinh, chẳng màng là chúng sinh thiện hay ác, Ngài đều đối đãi bình đẳng. Cho nên chúng ta người tu đạo, giáo hoá chúng sinh, ngàn vạn đừng có thành kiến, không thể cứ lựa chọn người tốt để giáo hoá, giống như người đã rất tốt rồi, thì không cần người đi giáo hoá. Phải nên chú ý đến những người có khuyết điểm, đi trên con đường ác, hoặc người đang bồi hồi giữa thiện và ác, thì cần phải giáo hoá. Ðừng sợ phí tinh thần, người càng không tốt, thì càng phải đi giáo hoá, đừng bỏ qua, phải dùng tâm thành khẩn nhất, tâm chân thành nhất đối đãi gặp họ, khiến cho họ thọ sự cảm hoá, biết quay đầu sửa đổi lỗi lầm. Ðó tức là người tu đạo học hành vi của Bồ Tát, mới không cô phụ thân làm đệ tử của Phật, mới có thể dưỡng lớn tâm đại bi. Bồ Tát tu pháp hồi hướng ôm hoài bảo vô duyên đại từ, đồng thể đại bi hành Bồ Tát đạo, khắp hộ niệm tất cả chúng sinh, cho nên Ngài đắc được an lạc, là vui thù thắng vi diệu. Sự an vui đó không thể dùng tâm suy nghĩ, không thể dùng lời để ví dụ được. Sự an lạc đó giống như “Như người uống nước, nóng lạnh tự biết”, Bồ Tát đem niềm an vui đó, công đức đó, căn lành đó, thảy đều hồi hướng cho hết thảy chúng sinh, khiến cho những chúng sinh đó, đều phát tâm bồ đề, tu các pháp lành, hành Bồ Tát đạo, mà đắc được an vui thắng diệu giống như Bồ Tát. Tuy nhiên Bồ Tát vì chúng sinh tu pháp hồi hướng, lại đem căn lành tu được hồi hướng cho chúng sinh, nhưng Ngài đối với công đức hồi hướng, chưa từng chấp trước, cũng chẳng cảm thấy tôi đem hết thảy công đức đều hồi hướng cho chúng sinh, các bạn xem tôi đối với chúng sinh có nhiều từ bi, ban cho họ nhiều ân huệ, chỉ có tôi mới đang hành Bồ Tát đạo. Bồ Tát chẳng có nghĩ như thế. Nếu có ý niệm đó, thì có sự chấp trước, tức là chấp có cái ta, có người, có chúng sinh, có thọ mạng, bốn tướng, thì không thể gọi là Bồ Tát. Vị đại Bồ Tát nầy tu pháp hồi hướng đẳng tất cả Phật, Ngài hành chỗ vô sự, làm mà không làm, tuy hồi hướng mà chẳng chấp vào sự hồi hướng. Bồ Tát thấy tất cả pháp đều không, thấu rõ các pháp thật tướng, vào sâu cảnh giới người và pháp đều không.

 

Bồ Tát tu hành thử hồi hướng, Bồ Tát tu hành hồi hướng nầy
Hưng khởi vô lượng đại bi tâm, Phát khởi vô lượng tâm đại bi
Như Phật sở tu hồi hướng đức, Như đức hồi hướng của Phật tu
Nguyện ngã tu hành tất thành mãn. Nguyện tôi tu hành đều thành tựu.

Bồ Tát là gọi tắc, nói đủ là Bồ Ðề Tát Ðoả. Tiếng Tàu dịch là “giác hữu tình”, hoặc là “hữu tình giác”, hoặc là chúng sinh “tâm đạo lớn”. Tâm lượng của Bồ Tát rộng lớn, giống như hư không, bao quát hết thảy. Từ bi làm đầu, chẳng xả bỏ chúng sinh. Bồ Tát tu sáu độ vạn hạnh, pháp môn hồi hướng là nguyện lớn của Ngài, đem căn lành công đức tu vạn hạnh, hồi hướng cho pháp giới chúng sinh, hồi hướng về vô thượng bồ đề, hồi hướng về thật tế. Khi hồi hướng thì trong tâm phát khởi vô lượng đại bi, vì Bồ Tát thương xót chúng sinh, mê muội không có trí huệ, ở trong biển khổ, mà không biết tự cứu. Bồ Tát thấy tình huống đó, tâm bi tha thiết, phát nguyện muốn cứu vớt những chúng sinh thọ khổ đó, vì họ mà giải trừ vô lượng khổ não, khiến cho họ đắc được an ổn khoái lạc. Ðại Bồ Tát, Ngài tu công đức hồi hướng, như công đức hồi hướng của ba đời chư Phật tu. Bồ Tát phát nguyện nói: Nguyện công đức và đủ thứ căn lành của tôi tu hành, đều thành tựu, đắc được quả Phật viên mãn.

 

Như chư tối thắng sở thành tựu Như bậc Tối Thắng đã thành tựu
Nhất thiết trí thừa vi diệu lạc Nhất thiết trí thừa vui vi diệu
Cập ngã tại thế chi sở hạnh, Chỗ thực hành ở đời của tôi
Chư Bồ-tát hạnh vô lượng lạc Các hạnh Bồ Tát vô lượng vui.

Ðại Bồ Tát tu pháp hồi hướng tu căn lành công đức, giống như mười phương chư Phật, thành tựu viên mãn quả giác bồ đề tối thượng. Tối thắng, là chỉ cho Ðức Phật mà nói. Nhất thiết trí thừa, tức là Phật thừa. Chư Phật chứng được trí huệ vô thượng, đắc được vui của Phật là vi diệu không thể nghĩ bàn. Bồ Tát cũng nguyện đắc được an vui đó. Cùng với sự tu tập đủ thứ căn lành của tôi trong mười phương thế giới, đủ thứ công đức hành Bồ Tát đạo, cũng sẽ đắc được giống như các vị Bồ Tát khác tu hành đắc được vô lượng an vui.

 

Thị nhập chúng thú an ổn lạc Thị hiện vào các loài an vui
Hằng thủ chư căn tịch tĩnh lạc Luôn giữ các căn vui vắng lặng
Tất dĩ hồi hướng chư quần sanh, Thảy đều hồi hướng cho quần sinh
Phổ sử tu thành vô thượng trí. Khắp khiến tu thành vô thượng trí.

Bồ Tát tu hạnh Bồ Tát, phổ độ chúng sinh, nhìn chúng sinh nào đang ở trong khổ nạn, thì Ngài thừa nguyện thọ sinh vào đó. Có lúc thị hiện vào bốn đường ác, Ngài cũng đều cảm giác an ổn khoái lạc như nhau. Hoặc khi thị hiện vào trong loài người hoặc làm trời, Ngài cũng chẳng bị phước trời và vui năm dục ở nhân gian làm mê hoặc, vì Bồ Tát luôn luôn giữ gìn sáu căn của Ngài, lúc nào cũng đều hồi quang phản chiếu, đắc được an vui vắng lặng. Chẳng giống như sáu căn của phàm phu, suốt ngày chạy rong bên ngoài, khắp nơi tác quái. Bồ Tát tu đủ thứ căn lành, tích tập vô lượng công đức, phát tâm đại bồ đề, hoàn toàn hồi hướng cho tất cả chúng sinh, hy vọng những chúng sinh đó, thảy đều tu hành đạo vô thượng, thành tựu trí huệ vô thượng.

 

Phi thân ngữ ý tức thị nghiệp, Chẳng thân lời ý tức là nghiệp
Diệc bất ly thử nhi biệt hữu, Cũng chẳng lìa đây mà riêng có
Đãn dĩ phương tiện diệt si minh, Chỉ dùng phương tiện diệt si tối
Như thị tu thành vô thượng trí. Như vậy tu thành vô thượng trí.

Ý nghĩa chẳng thân lời ý, tức là thân lời ý đều thanh tịnh. Tức là chữ nghiệp chỉ cho nghiệp lành. Nghiệp có nghiệp lành và nghiệp ác. Nếu ba nghiệp thanh tịnh, thì đều là ba nghiệp lành, chứ chẳng phải chẳng có nghiệp, chỉ là chẳng có nghiệp ác. Ví như không giết hại, không trộm cắp, không tà dâm, không tham, không sân, không si, không nói dối, không nói hai lưỡi, không nói thêu dệt, không chưởi mắng, thì biến thành mười nghiệp lành. Chứ chẳng phải nói thân miệng ý có nghiệp ác, cũng chẳng phải nói lìa khỏi thân lời ý, riêng ngoài còn có nghiệp lành. Và lại nói băng tức là nước, nhưng nước không thể nói là băng. Có thể nói băng là nước đông lại thành, nước là do băng tan ra mà có. Lìa khỏi băng không thể có nước, lìa khỏi nước cũng không thể có băng. Cho nên nói cũng không thể lìa thân lời ý, mà riêng biệt có nghiệp. Chỉ cần dùng pháp môn phương tiện để diệt trừ tham sân si ba độc. Giống như mỗi ngày mỗi ngày tinh tấn dũng mãnh, tu học Phật đạo, thì cuối cùng nhất định sẽ thành tựu trí huệ vô thượng.

 

Bồ Tát sở tu chư hành nghiệp, Bồ Tát tu hành các hạnh nghiệp
Tích tập vô lượng thắng công đức, Tích tập vô lượng thắng công đức
Tùy thuận Như Lai sanh Phật gia, Tuỳ thuận Như Lai sinh nhà Phật
Tịch nhiên bất loạn chánh hồi hướng. Tịch nhiên chẳng loạn chánh hồi hướng.

Sự tu hành của Bồ Tát là sáu độ vạn hạnh, sự hành trì của Bồ Tát là Bồ Tát đạo. Bồ Tát tích tập vô lượng nghiệp lành. Do đó, tích tập vô lượng căn lành rồi, sẽ thành tựu vô lượng công đức thù thắng. Bồ Tát thường theo Phật tu học, y giáo phụng hành. Tuỳ thuận tâm bi của Như Lai, độ khắp chúng sinh, công đức đầy đủ, giác hạnh viên mãn rồi, sẽ sinh vào nhà Phật, chẳng lâu sẽ chứng được quả vị Phật. Bồ Tát chẳng chấp trước, chẳng nương tựa, tư tưởng hành vi luôn luôn ở trong chánh định, an ổn vắng lặng, chánh tâm thành ý tu pháp hồi hướng, thành khẩn hồi hướng cho chúng sinh.

 

Thập phương nhất thiết chư thế giới, Mười phương tất cả các thế giới
Sở hữu chúng sanh hàm nhiếp thọ, Hết thảy chúng sinh đều nhiếp thọ
Tất dĩ thiện căn hồi hướng bỉ, Đều đem căn lành hồi hướng cho
Nguyện lệnh cụ túc an ổn lạc Nguyện khiến đầy đủ vui an ổn.

Thế giới, chẳng chỉ riêng một thế giới nầy của chúng ta đang sống. Do đó: “Thế giới nầy, thế giới kia, mười phương vô lượng các thế giới. Cõi nước nầy, cõi nước nọ, mười phương vô lượng các cõi nước”. Các cõi nước trong những thế giới đó, cũng đều có vô lượng đủ thứ chúng sinh. Bồ Tát vào trong các cõi nước trong mười phương thế giới hành Bồ Tát đạo, Ngài nhìn chúng sinh đều bình đẳng, giáo hoá khắp hết thảy, tất cả các loài chúng sinh, Ngài đều nhiếp thọ, hộ niệm. Ngài đem căn lành công đức của mình tu tập, hoàn toàn hồi hướng cho chúng sinh được nhiếp thọ, nguyện những chúng sinh đó đều phát tâm bồ đề, siêng tu Phật đạo, viên mãn đầy đủ bồ đề, đắc được vui an ổn.

 

Bất vi tự thân cầu lợi ích, Chẳng vì thân mình cầu lợi ích
Dục lệnh nhất thiết tất an lạc, Muốn khiến tất cả đều an lạc
Vị tằng tạm khởi hí luận tâm, Chưa từng tạm khởi tâm hí luận
Đãn quán chư Pháp không vô ngã. Chỉ quán các pháp không vô ngã.

Bồ Tát phát tâm bồ đề, tu sáu độ vạn hạnh, tích tập tất cả căn lành công đức, Ngài chẳng phải vì lợi ích của bản thân mình mà làm, mà là muốn đem công đức tu tập, hồi hướng cho chúng sinh, lợi ích chúng sinh, khiến cho mười phương các chúng sinh đều đắc được an lạc. Suốt ngày trong tâm của Bồ Tát luôn chánh niệm, Ngài chưa từng có chút tư tưởng hành vi hý luận, và lời nói vô vị. Ngài luôn luôn giữ chánh niệm, suy gẫm quán sát các pháp, đều là vô thường, khổ, không, vô ngã, không chấp trước.

 

Thập phương vô lượng chư tối thắng, Mười phương vô lượng các tối thắng
Sở kiến nhất thiết chân Phật tử, Thấy được tất cả chân Phật tử
Tất dĩ thiện căn hồi hướng bỉ, Đều đem căn lành hồi hướng cho
Nguyện sử tốc thành vô thượng giác. Nguyện khiến sớm thành vô thượng giác.

Ðại Bồ Tát tu pháp hồi hướng, trong vô lượng cõi nước chư Phật, thấy được rất nhiều đệ tử của Phật, chân tu thật học dưới toà mười phương chư Phật. Bồ Tát đem căn lành công đức của Ngài tu tập, hoàn toàn hồi hướng cho họ, và cầu chư Phật phóng quang gia bị cho họ, khiến cho đệ tử Phật chân tu thật học, đều phát tâm đại bồ đề, tu Bồ Tát đạo, sớm được thành tựu quả vị Phật. Vô thượng giác tức là quả vị Phật.

 

Nhất thiết thế gian hàm thức loại Tất cả thế gian loại hàm thức
Đẳng tâm nhiếp thủ vô hữu dư, Bình đẳng nhiếp lấy không thừa sót
Dĩ ngã sở hạnh chư thiện nghiệp, Đem các nghiệp lành của tôi tu
Lệnh bỉ chúng sanh tốc thành Phật. Khiến chúng sinh kia sớm thành Phật.

Tất cả thế gian, bao quát thế gian mười phương ba đời, có Chánh Giác thế gian, khí thế gian, hữu tình thế gian. Hàm thức, tức là hữu tình, có thức, có khí huyết, đều gọi là hàm thức. Con người cũng gọi là hàm thức, đây là một tên khác của chúng sinh. Loại hàm thức là các loại động vật có mạng sống khác nhau, đều bao quát ở trong đó. Bồ Tát dùng tâm từ bi bình đẳng, nhiếp lấy khắp, chẳng xả bỏ, chẳng có thừa sót. Bất cứ loại chúng sinh nào, Ngài đều từ tâm giáo hoá, đều độ họ chấm dứt sinh tử, vượt khỏi ba cõi. Và đem đủ thứ căn lành tu hành được, hồi hướng cho tất cả chúng sinh, hy vọng họ sớm thành Phật đạo.

 

Vô lượng vô biên chư đại nguyện, Vô lượng vô biên các đại nguyện
Vô thượng Đạo sư sở diễn thuyết, Vô thượng Đạo Sư đã diễn nói
Nguyện chư Phật tử giai thanh tịnh, Nguyện các Phật tử đều thanh tịnh
Tùy kỳ tâm lạc tất thành mãn. Tuỳ tâm họ thích đều thành mãn.

Vô lượng vô biên nguyện lớn của chư Phật Bồ Tát phát ra, đều y cứ theo vô thượng Đạo Sư, chánh pháp của Phật diễn nói mà phát ra. Nguyện hết thảy chúng đệ tử của chư Phật, đều đắc được pháp thân thanh tịnh và trí huệ vô thượng. Tuỳ thuận tâm nguyện của chúng sinh, đều thành tựu viên mãn.

 

Phổ quán thập phương chư thế giới, Quán khắp mười phương các thế giới
Tất dĩ công đức thí ư bỉ, Đều đem công đức thí nơi đó
Nguyện lệnh giai cụ diệu trang nghiêm, Nguyện cho đều đủ diệu trang nghiêm
Bồ Tát như thị học hồi hướng. Bồ Tát học hồi hướng như vậy.

Bồ Tát quán sát khắp mười phương tất cả thế giới, đem hết thảy công đức của Ngài, bình đẳng bố thí cho chúng sinh mười phương thế giới. Nguyện cho mười phương thế giới đều đắc được thanh tịnh, đầy đủ tất cả sự trang nghiêm, mà trở thành thế giới trang nghiêm thượng diệu. Bồ Tát tu pháp hồi hướng giống như đủ thứ đạo lý đã nói ở trên, tu học tất cả pháp hồi hướng.

 

Tâm bất xưng lượng chư nhị Pháp, Tâm chẳng xưng lượng các hai pháp
Đãn hằng liễu đạt Pháp vô nhị, Chỉ luôn thấu đạt pháp không hai
Chư Pháp nhược nhị nhược bất nhị Các pháp hoặc hai hoặc chẳng hai
Ư trung tất cánh vô sở trước. Trong đó rốt ráo chẳng chấp trước.

Bồ Tát thấu rõ chân đế của các pháp, tâm chẳng có nghi hoặc, cho nên trong tâm của Ngài chưa từng xưng lượng cũng chẳng tính toán so sánh, chẳng nghĩ, cũng chẳng nói, những pháp đó là đệ nhất nghĩa đế, những pháp đó chẳng phải là đệ nhất nghĩa đế. Nếu có tư tưởng và lời nói như thế, thì rơi vào sự có hình. Bồ Tát đã thông đạt các pháp đều là pháp môn không hai, chẳng có phân biệt đệ nhất, đệ nhị. Nơi các pháp không tướng, triệt để rốt ráo thấu đạt, cho nên chẳng có chút chấp trước nào.

 

Thập phương nhất thiết chư thế gian Mười phương tất cả các thế gian
Tất thị chúng sanh tưởng phân biệt, Đều là chúng sinh tưởng phân biệt
Ư tưởng phi tưởng vô sở đắc Nơi tưởng phi tưởng chẳng chỗ được
Như thị liễu đạt ư chư tưởng. Như vậy thấu đạt nơi các tưởng.

Mười phương hết thảy mỗi thế giới nói pháp, đều căn cứ vào tư tưởng phân biệt của mỗi loài chúng sinh mà tạo thành, mới có thế gian nầy, thế gian kia nói pháp. Nếu bạn làm cho thứ tưởng nầy và phi tưởng đều không, chẳng chỗ được, tức là không chẳng chỗ được. Nếu minh bạch đạo lý nầy, thì biết tất cả tưởng đều là vọng tưởng, hư huyễn không thật, chẳng có thật thể.

 

Bỉ chư Bồ-tát thân tịnh dĩ, Các Bồ Tát đó thân tịnh rồi
Tức ý thanh tịnh vô hà uế, Tức ý thanh tịnh chẳng vết nhơ
Ngữ nghiệp dĩ tịnh vô chư qua, Lời nghiệp đã tịnh không lỗi lầm
Đương tri ý tịnh vô sở trước. Nên biết ý tịnh chẳng chấp trước.

Những vị Bồ Tát đó thân nghiệp đều thanh tịnh rồi, thì chẳng có tà hạnh giết hại trộm cắp tà dâm. Ý nghiệp của Ngài thanh tịnh rồi, thì chẳng có tư tưởng tham sân si, chẳng có chút vết nhơ và ô nhiễm nào. Tham sân si tức là tỳ vết ô nhiễm. Lời nghiệp thanh tịnh rồi, thì chẳng sinh ra tất cả lỗi lầm, và ưu sầu hoạn nạn, vì đủ thứ ưu sầu hoạn nạn lỗi lầm của con người, đều từ miệng mà ra. Do đó:

“Bệnh từ miệng vào
Hoạ từ miệng ra”.

Bạn phải biết ý nghiệp thanh tịnh rồi, thì hiển ra trí huệ quang minh sáng suốt, đối với tất cả đều chẳng chấp trước.

 

Nhất tâm chánh niệm quá khứ Phật Một lòng chánh niệm Phật quá khứ
Diệc ức vị lai chư Đạo sư, Cũng nghĩ vị lai các Đạo Sư
Cập dĩ hiện tại Thiên Nhân tôn, Cùng với hiện tại Thiên Nhân Tôn
Tất học ư kỳ sở thuyết pháp. Đều học pháp của các Ngài nói.

Bồ Tát chuyên tâm chánh niệm chư Phật đời quá khứ, cũng nghĩ tới chư Phật đời vị lai. Ðạo Sư: Tức là tên gọi riêng của Phật. Thiên Nhân Sư: Tức là Phật, bậc thầy sư biểu của trời người. Cùng với Phật tôn kính của trời người hiện tại. Ba đời chư Phật nói đủ thứ diệu pháp, vị Bồ Tát nầy tu pháp hồi hướng, Ngài đều một lòng học tập.

 

Tam thế nhất thiết chư Như Lai, Ba đời tất cả các Như Lai
Trí tuệ minh đạt tâm vô ngại, Trí huệ thấu đạt tâm vô ngại
Vi dục lợi ích chúng sanh cố, Vì muối lợi ích cho chúng sinh
Hồi hướng Bồ-đề tập chúng nghiệp. Hồi hướng bồ đề tu các nghiệp.

Ba đời: Quá khứ, hiện tại và vị lai, chư Phật ở trong ba đời, trí huệ của các Ngài đều thù thắng, thấu đạt các pháp thật tướng, tâm niệm chẳng có chút chướng ngại, tất cả đều nhậm vận tự tại. Vì muốn lợi ích cho chúng sinh, mà đem căn lành công đức tu tập, hồi hướng về pháp bồ đề, tích tập tất cả các nghiệp lành.

 

Bỉ đệ nhất tuệ quảng đại tuệ Huệ bậc nhất huệ rộng lớn kia
Bất hư vọng tuệ vô đảo tuệ, Huệ không hư vọng huệ không đảo
Bình đẳng thật tuệ thanh tịnh tuệ, Huệ bình đẳng thật huệ thanh tịnh
Tối thắng tuệ giả như thị thuyết. Bậc huệ tối thắng nói như vậy.

Trí huệ của tất cả chư Phật kia, là trí huệ bậc nhất, là trí huệ rộng lớn khắp hư không, là trí huệ chẳng hư vọng, là trí huệ chẳng có điên đảo, là trí huệ bình đẳng chân thật, là trí huệ thanh tịnh quang minh không nhiễm. Ðó là do bậc trí huệ tối thù thắng, nói như vậy, nói với chúng ta như vậy.






Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét