Phẩm Ly Thế Gian – 4

Kinh Hoa Nghiêm

Đại Phương Quảng Phật

giảng giải

Phẩm Thứ 38

Hòa Thượng TUYÊN HÓA
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Minh Ðịnh

— o0o —

PHẨM LY THẾ GIAN

Phần 4

===============

TRẢ LỜI PHÁP QUẢ DỤNG VIÊN MÃN (BẬC DIỆU GIÁC)

— o0o —

Thập Chủng Sở Tác Nghiệp

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát trụ Đâu suất thiên, hữu thập chủng sở tác nghiệp. Hà đẳng vi thập? sở vị:

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát ở Ðâu Suất thiên cung có mười công việc. Những gì là mười ? Đó là :

Giảng: Bồ Tát Phổ Hiền lại gọi một tiếng Phật tử ! Đại Bồ Tát trụ ở cõi trời Đâu Suất, có mười thứ việc làm. Những gì là mười ? Đó là :

 

Vi dục giới chư Thiên Tử thuyết yếm ly Pháp ngôn: nhất thiết tự tại giai thị vô thường, nhất thiết khoái lạc tất đương suy tạ. khuyến bỉ chư Thiên phát Bồ-đề tâm. Thị vi đệ nhất sở tác nghiệp.

Vì chư Thiên Tử cõi Dục mà nói pháp nhàm lìa. Bảo rằng tất cả tự tại đều là vô thường, tất cả khoái lạc đều sẽ suy mất, khuyên chư Thiên Tử phát tâm Bồ đề. Ðây là công việc thứ nhứt.

Giảng: 1. Vì các Thiên tử cõi dục giới, diễn nói pháp nhàm lìa, rằng tất cả tự tại, đều là vô thường, chẳng vĩnh viễn. Tất cả khoái lạc, đều sẽ tàn tạ, chẳng tồn tại lâu dài. Khuyên chư Thiên cõi dục đó phát bồ đề tâm, trên cầu Phật đạo, dưới độ chúng sinh. Đó là việc làm thứ nhất của Bồ Tát.

 

Vi sắc giới chư Thiên thuyết nhập xuất chư Thiền giải thoát tam muội, nhược ư kỳ trung nhi sanh ái trước, nhân ái phục khởi thân kiến, tà kiến, vô minh đẳng giả, tức vi kỳ thuyết như thật trí tuệ; nhược ư nhất thiết sắc, phi sắc Pháp khởi điên đảo tưởng, dĩ vi thanh tịnh, vi thuyết bất tịnh giai thị vô thường, khuyến kỳ lệnh phát Bồ-đề chi tâm. Thị vi đệ nhị sở tác nghiệp.

Vì chư Thiên cõi Sắc mà nói nhập xuất các thiền tam muội giải thoát. Nếu ở trong đây mà sanh lòng ái trước thời nhơn nơi ái lại phát khởi thân kiến, tà kiến, vô minh v. v… Vì họ mà nói trí huệ như thiệt. Nếu họ đối với những pháp sắc, phi sắc phát khởi tưởng điên đảo cho là thanh tịnh, thời vì họ mà nói bất tịnh đều là vô thường. Khuyên họ phát tâm Bồ đề. Ðây là công việc thứ hai.

Giảng: 2. Vì chư Thiên cõi sắc giới, diễn nói đạo lý nhập xuất các thiền giải thoát tam muội. Nếu ở trong đó mà sinh ái trước, thì do ái trước lại khởi thân kiến, tà kiến, vô minh v.v… liền vì họ nói trí huệ như thật. Nếu đối với tất cả pháp sắc chẳng phải sắc, sinh khởi tưởng điên đảo, lấy phải làm quấy, lấy quấy làm phải, lấy trắng làm đen, lấy đen làm trắng, cho rằng là pháp thanh tịnh, thì vì họ nói pháp chẳng thanh tịnh, tất cả đều là vô thường, khuyên nói họ khiến cho họ phát bồ đề tâm, đó là việc làm thứ hai của Bồ Tát.

&nbnbsp;

Bồ-Tát Ma-ha-tát trụ Đâu suất thiên, nhập tam muội, danh: quang minh trang nghiêm, thân phóng quang minh, biến chiếu tam thiên đại thiên thế giới, tùy chúng sanh tâm, dĩ chủng chủng âm nhi vi thuyết Pháp; chúng sanh văn dĩ, tín tâm thanh tịnh, mạng chung sanh ư Đâu suất thiên trung, khuyến kỳ lệnh phát Bồ-đề chi tâm. Thị vi đệ tam sở tác nghiệp.

Ðại Bồ Tát ở Ðâu Suất Thiên cung nhập tam muội tên là quang minh trang nghiêm. Thân phóng quang minh chiếu khắp Ðại Thiên thế giới. Tùy tâm chúng sanh mà dùng các thứ âm thanh để thuyết pháp. Chúng sanh nghe pháp xong, tín tâm thanh tịnh, sau khi chết sanh về cung trời Ðâu Suất. Bồ Tát lại khuyên họ phát tâm Bồ đề. Ðây là công việc thứ ba.

Giảng: 3. Đại Bồ Tát trụ ở cõi trời Đâu Suất, nhập tam muội tên là Quang minh trang nghiêm. Thân phóng đại quang minh, chiếu khắp ba ngàn đại thiên thế giới. Tuỳ thuận tâm ý của tất cả chúng sinh, dùng đủ thứ âm thanh, để vì họ nói pháp. Do đó có câu:

“ Phật dùng một âm diễn nói pháp
Chúng sinh tuỳ loài đều hiểu được”.

Chúng sinh nghe pháp rồi, tâm tin tăng thêm thanh tịnh. Sau khi mạng chung, liền sinh về cõi trời Đâu Suất. Khuyên họ khiến cho họ phát bồ đề tâm, đó là việc làm thứ ba của Bồ Tát.

 

Bồ-Tát Ma-ha-tát tại Đâu suất thiên, dĩ vô chướng ngại nhãn phổ kiến thập phương Đâu suất thiên trung nhất thiết Bồ Tát, bỉ chư Bồ-tát giai diệc kiến thử; hỗ tương kiến dĩ, luận thuyết diệu pháp, vị: hàng thần mẫu thai, sơ sanh, xuất gia, vãng nghệ đạo tràng, cụ đại trang nghiêm; nhi phục thị hiện vãng tích dĩ lai sở hạnh chi hành, dĩ bỉ hạnh cố thành thử đại trí; sở hữu công đức bất ly bổn xứ, nhi năng thị hiện như thị đẳng sự. Thị vi đệ tứ sở tác nghiệp.

Ðại Bồ Tát ở Ðâu Suất Thiên cung dùng vô ngại nhãn thấy khắp tất cả Bồ Tát trong cung trời Ðâu Suất ở mười phương. Chư Bồ Tát kia cũng đều thấy đây. Ðã thấy nhau, chư Bồ Tát cùng luận nói diệu pháp: những là giáng thần, nhập thai, sơ sanh, xuất gia, qua đến đạo tràng, đủ đại trang nghiêm. Và lại thị hiện những công hạnh đã làm từ xưa đến nay. Do công hạnh đó mà thành đại trí này và tất cả công đức. Chẳng rời bổn xứ mà có thể thị hiện những sự như vậy. Ðây là công việc thứ tư.

Giảng: 4. Đại Bồ Tát trụ ở nội viện cõi trời Đâu Suất, dùng mắt pháp vô ngại, thấy khắp tất cả Bồ Tát cõi trời Đâu Suất trong mười phương. Các Bồ Tát đó cũng đều thấy vị Bồ Tát nầy, thấy nhau rồi, luận nói diệu pháp là: Hàng sinh, nhập thai mẹ, sơ sinh, xuất gia, đi đến đạo tràng (ngồi dưới cội bồ đề), đầy đủ đại trang nghiêm, lại còn thị hiện Bồ Tát hạnh tu hành từ thuở xưa đến nay. Do nhờ Bồ Tát hạnh mà thành tựu đại trí huệ nầy, cùng hết thảy công đức, Bồ Tát chẳng lìa khỏi chỗ ngồi, mà có thể thị hiện những cảnh giới như vậy, đó là việc làm thứ tư của Bồ Tát.

 

Bồ-Tát Ma-ha-tát trụ Đâu suất thiên, thập phương nhất thiết Đâu suất thiên cung chư Bồ-tát chúng, giai tất lai tập, cung kính vi nhiễu; Nhĩ thời, Bồ-Tát Ma-ha-tát dục lệnh bỉ chư Bồ-tát giai mãn kỳ nguyện sanh hoan hỉ cố, tùy bỉ Bồ Tát sở ưng tứ trụ địa, sở hạnh sở đoạn, sở tu sở chứng, diễn thuyết Pháp môn; bỉ chư Bồ-tát văn thuyết Pháp dĩ, giai đại hoan hỉ, đắc vị tằng hữu, các hoàn bản độ sở trụ cung điện. Thị vi đệ ngũ sở tác nghiệp.

Ðại Bồ Tát ở Ðâu Suất Thiên cung, chúng Bồ Tát ở tất cả cung trời Ðâu Suất mười phương đều vân tập đến vây quanh cung kính. Bấy giờ Ðại Bồ Tát muốn cho chư Bồ Tát đó đều được thỏa mãn tâm nguyện sanh lòng hoan hỷ, nên tùy theo chư Bồ Tát đáng ở bực nào, tùy theo sở hành, sở đoạn, sở tu, sở chứng mà diễn thuyết pháp môn. Chư Bồ Tát đó nghe pháp xong đều rất hoan hỷ được chưa từng có đều trở về bổn độ. Ðây là công việc thứ năm.

Giảng: 5. Khi đại Bồ Tát trụ ở cõi trời Đâu Suất, thì tất cả các chúng Bồ Tát cõi trời Đâu Suất trong mười phương, đều đến tụ tập ở nội viện cung trời Đâu Suất thế giới Ta Bà, cung kính vị Bồ Tát đó, vây quanh vị Bồ Tát đó. Bấy giờ, đại Bồ Tát vì muốn khiến cho tất cả các Bồ Tát vân tập đến, đều viên mãn nguyện của họ, đều khiến cho họ sinh tâm đại hoan hỉ. Tuỳ theo hết thảy Bồ Tát đó, đáng trụ bậc nào, sự tu hành, sự đoạn tuyệt phiền não, sở tu Bồ Tát đạo, sở chứng được đạo quả, mà vị họ diễn nói tất cả diệu pháp môn. Tất cả các Bồ Tát đó nghe thuyết pháp rồi, đều đại hoan hỉ, đắc được pháp chưa từng có. Các vị Bồ Tát đó đều trở về cung điện chỗ ở của mình. Đó là việc làm thứ năm của Bồ Tát.

 

Bồ-Tát Ma-ha-tát trụ Đâu suất thiên thời, dục giới chủ thiên ma ba tuần, vi dục hoại loạn Bồ Tát nghiệp cố, quyến thuộc vi nhiễu nghệ Bồ Tát sở; Nhĩ thời, Bồ Tát vi tồi phục ma quân cố, trụ Kim cương đạo sở nhiếp Bát-nhã Ba-la-mật phương tiện thiện xảo trí tuệ môn, dĩ nhu nhuyễn, thô quánh nhị chủng ngữ nhi vi thuyết Pháp, lệnh Ma ba tuần bất đắc kỳ tiện; ma kiến Bồ Tát tự tại uy lực, giai phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm. Thị vi đệ lục sở tác nghiệp.

Ðại Bồ Tát ở Ðâu Suất Thiên cung. Bấy giờ chúa cõi Dục, Thiên ma Ba Tuần vì muốn phá hoại công nghiệp của Bồ Tát nên cùng quyến thuộc đến chỗ Bồ Tát. Bồ Tát vì hàng phục ma quân nên trụ kim cang đạo nhiếp Bát nhã Ba la mật phương tiện thiện xảo trí huệ môn, dùng hai lời nói nhu nhuyến và thô bạo mà thuyết pháp cho họ, làm cho Ma Vương Ba Tuần không hại được. Ma quân thấy oai lực tự tại của Bồ Tát nên đều phát tâm Bồ đề Vô thượng. Ðây là công việc thứ sáu.

Giảng: 6. Khi đại Bồ Tát trụ ở nội viện cõi trời Đâu Suất, thì có vị chủ cõi trời dục giới Thiên ma Ba Tuần, vì muốn phá hoại Bồ Tát tu hành, nên phái quyến thuộc của ma, đến để nhiễu loạn tâm Bồ Tát, khiến cho Bồ Tát mất đi bồ đề tâm, lại sai ma nữ đến vây quanh Bồ Tát, đến chỗ Bồ Tát ở. Bấy giờ, Bồ Tát vì hàng phục ma quân, nên trụ vào pháp môn Kim cang đạo sở nhiếp Bát Nhã Ba La Mật trí huệ phương tiện thiện xảo, dùng hai pháp môn triết nhiếp để hàng phục ma quân, dùng lời nhu nhuyến để nhiếp thọ ma quân, dùng lời thô bạo triết phục ma quân. Dùng hai thứ lời đó, để vì ma thuyết pháp, khiến cho ma Ba Tuần không được tuỳ tiện. Bất cứ dùng phương pháp gì để phá hoại cũng không hiệu dụng, cũng không thành công. Ma thấy oai lực tự tại của Bồ Tát mà được cảm hoá, đều phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề (Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác). Đó là việc làm thứ sáu của Bồ Tát.

 

Bồ-Tát Ma-ha-tát trụ Đâu suất thiên, tri dục giới chư Thiên Tử bất lạc văn Pháp; nhĩ thời, Bồ Tát xuất Đại âm thanh, biến cáo chi ngôn: kim nhật Bồ Tát đương ư cung trung hiện hy hữu sự, nhược dục kiến giả nghi tốc vãng nghệ. Thời, chư Thiên Tử văn thị ngữ dĩ, vô lượng bách thiên ức na-do-tha giai lai tập hội; nhĩ thời, Bồ Tát kiến chư Thiên Chúng giai lai tập dĩ, vi hiện cung trung chư hy hữu sự; bỉ chư Thiên Tử tằng vị kiến văn, ký đắc kiến dĩ, giai đại hoan hỉ, kỳ tâm túy một; hựu ư lạc trung xuất thanh cáo ngôn: chư nhân giả! nhất thiết chư hạnh giai tất vô thường, nhất thiết chư hạnh giai tất thị khổ, nhất thiết chư pháp giai tất vô ngã, Niết-Bàn tịch diệt. hựu phục cáo ngôn: nhữ đẳng giai ưng tu Bồ Tát hạnh, giai đương viên mãn nhất thiết trí trí. Bỉ chư Thiên Tử văn thử pháp âm, ưu thán ti ta nhi sanh yếm ly, mị bất giai phát Bồ-đề chi tâm. Thị vi đệ thất sở tác nghiệp.

Ðại Bồ Tát ở Ðâu Suất Thiên cung biết chư Thiên Tử cõi Dục chẳng thích nghe pháp. Bây giờ Bồ Tát phát tiếng to bảo họ rằng: ngày nay Bồ Tát ở trong Thiên cung sẽ hiện sự hy hữu, nếu muốn được thấy thời phải mau đến. Chư Thiên Tử nghe lời này xong đều vân tập đến cung Ðâu Suất. Bồ Tát vì họ mà hiện sự hy hữu. Chư Thiên Tử được thấy nghe đều rất hoan hỷ say sưa. Trong âm nhạc lại có tiếng bảo rằng: này các Ngài ! Tất cả hành pháp đều vô thường, đều là khổ. Tất cả pháp đều vô ngã, là Niết bàn tịch diệt. Rồi lại bảo rằng: các Ngài đều phải tu hạnh Bồ Tát, đều phải viên mãn nhứt thiết chủng trí. Chư Thiên Tử nghe xong, lo buồn than thở đều sanh lòng yểm ly, tất cả đều phát tâm Vô thượng Bồ đề. Ðây là công việc thứ bảy.

Giảng: 7. Khi đại Bồ Tát trụ ở cõi trời Đâu Suất, biết các Thiên tử cõi dục giới thích hưởng thụ khoái lạc tự tại, không thích nghe Phật pháp. Bấy giờ, Bồ Tát phát ra tiếng lớn, khắp bảo các Thiên tử rằng: Hôm nay Bồ Tát sẽ ở trong cung điện thị hiện cảnh giới hi hữu, không thể nghĩ bàn. Nếu ai muốn nhìn thấy, thì hãy mau đi đến chỗ Bồ Tát. Lúc đó, các Thiên tử nghe lời đó rồi, thì vô lượng trăm ngàn ức Na Do Tha Thiên chúng, đều tụ hội đến chỗ Bồ Tát. Bấy giờ, Bồ Tát thấy các Thiên chúng đều đã tụ hội đến rồi, bèn hiện các việc hi hữu ở trong cung điện, mà các Thiên tử đó chưa từng thấy qua những cảnh giới đó, chưa từng nghe qua những cảnh giới đó.

Khi được thấy rồi, thì đều sinh tâm đại hoan hỉ say sưa ở trong những cảnh giới đó. Lại ở trong sự vui thích vang ra tiếng bảo các vị Thiên tử rằng: Này các vị ! Tất cả các hành, đều vô thường! Tất cả các hành, đều là khổ! Tất cả các pháp, đều là không, Niết Bàn là tịch tĩnh, có: Thường, lạc, ngã, tịnh bốn đức, đó mới là khoái lạc thật sự, khoái lạc vĩnh viễn. Lại bảo các Thiên tử rằng: Các vị đều nên tu Bồ Tát hạnh, các vị đều sẽ viên mãn trí nhất thiết trí. Các vị Thiên tử đó nghe pháp âm rồi, đại chúng đều vui buồn, chúng ta phải làm sao đây? Mọi người đều than thở với nhau, mà sinh ra tâm nhàm lìa sự khoái lạc ở cõi trời, thảy đều phát bồ đề tâm. Đó là việc làm thứ bảy của Bồ Tát.

 

Bồ-Tát Ma-ha-tát trụ Đâu Suất cung, bất xả bổn xứ, tất năng vãng nghệ thập phương vô lượng nhất thiết Phật sở, kiến chư Như Lai thân cận lễ bái cung kính thính pháp; Nhĩ thời, chư Phật dục lệnh Bồ Tát hoạch đắc tối thượng quán đảnh Pháp cố, vi thuyết Bồ Tát địa, danh: nhất thiết thần thông, dĩ nhất niệm tướng ứng tuệ, cụ túc nhất thiết tối thắng công đức, nhập nhất thiết trí trí vị. Thị vi đệ bát sở tác nghiệp.

Ðại Bồ Tát ở Ðâu Suất Thiên cung, chẳng rời bỏ bổn xứ mà đều có thể qua đến mười phương vô lượng tất cả chỗ chư Phật, thấy chư Như Lai thân cận lễ bái cung kính nghe pháp. Bấy giờ chư Phật muốn cho Bồ Tát được pháp tối thượng quán đảnh nên nói Bồ Tát địa tên là nhứt thiết thần thông, dùng một niệm tương ưng huệ đầy đủ tất cả công đức tối thắng nhập vị nhứt thiết chủng trí. Ðây là công việc thứ tám.

Giảng: 8. Khi đại Bồ Tát trụ ở cõi trời Đâu Suất, chẳng rời chỗ ở của mình, ở trong định mà đi đến mười phương vô lượng đạo tràng của tất cả chư Phật, gặp các Như Lai, gần gũi lễ bái, cung kính nghe Phật thuyết pháp. Bấy giờ, chư Phật vì muốn khiến cho Bồ Tát đắc được pháp quán đảnh thọ ký tối thượng, nên nói Bồ Tát địa tên là Nhất thiết thần thông. Dùng một niệm trí huệ tương ưng, đầy đủ tất cả công đức tối thắng, nhập vào bậc trí huệ nhất thiết trí. Đó là việc làm thứ tám của Bồ Tát.

 

Bồ-Tát Ma-ha-tát trụ Đâu Suất cung, vi dục cúng dường chư Như Lai cố, dĩ đại thần lực hưng khởi chủng chủng chư cúng dường cụ, danh: thù thắng khả lạc, biến Pháp giới, hư không giới, nhất thiết thế giới cúng dường chư Phật; bỉ thế giới trung vô lượng chúng sanh kiến thử cúng dường, giai phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm. Thị vi đệ cửu sở tác nghiệp.

Ðại Bồ Tát ở Ðâu Suất Thiên cung vì muốn cúng dường chư Phật Như Lai nên dùng đại thần lực hiện khởi những đồ cúng dường tên là thù thắng khả lạc, khắp tất cả thế giới trong pháp giới hư không giới để cúng dường chư Phật. Trong các thế giới ấy, vô lượng chúng sanh thấy sự cúng dường này đều phát tâm vô thượng Bồ đề. Ðây là công việc thứ chín.

Giảng: 9. Khi đại Bồ Tát trụ ở nội viện cõi trời Đâu Suất, vì muốn cúng dường mười phương tất cả chư Phật, nên dùng đại thần thông lực, hiện ra đủ thứ các đồ cúng dường, tên là Thù thắng khả lạc, đầy khắp pháp giới, hư không giới, tất cả thế giới, cúng dường chư Phật. Vô lượng chúng sinh trong những thế giới của chư Phật đó, thấy sự cúng dường như vậy, đều phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Đó là việc làm thứ chín của Bồ Tát.

 

Bồ-Tát Ma-ha-tát trụ Đâu suất thiên, xuất vô lượng vô biên như huyễn như ảnh Pháp môn, chu biến thập phương nhất thiết thế giới, thị hiện chủng chủng sắc, chủng chủng tướng, chủng chủng hình thể, chủng chủng uy nghi, chủng chủng sự nghiệp, chủng chủng phương tiện, chủng chủng thí dụ, chủng chủng ngôn thuyết, tùy chúng sanh tâm giai lệnh hoan hỉ. Thị vi đệ thập sở tác nghiệp.

Ðại Bồ Tát ở Ðâu Suất Thiên cung xuất sanh vô lượng vô biên như huyễn như ảnh pháp môn cùng khắp mười phương tất cả thế giới, thị hiện những sắc, những tướng, những hình thể, những oai nghi, những sự nghiệp, những phương tiện, những ví dụ, những ngôn thuyết, tùy tâm chúng sanh đều làm cho họ hoan hỷ. Ðây là công việc thứ mười.

Giảng: 10. Đại Bồ Tát trụ ở cõi trời Đâu Suất, vang ra vô lượng vô biên pháp môn như huyễn, như bóng, khắp cùng mười phương tất cả thế giới. Thị hiện đủ thứ sắc, đủ thứ tướng, đủ thứ hình thể, đủ thứ oai nghi, đủ thứ sự nghiệp, đủ thứ phương tiện, đủ thứ ví dụ, đủ thứ lời nói. Tuỳ tâm chúng sinh, đều khiến cho hoan hỉ. Đó là việc làm thứ mười của Bồ Tát.

 

Phật tử! thị vi Bồ-Tát Ma-ha-tát trụ Đâu suất thiên thập chủng sở tác nghiệp. Nhược chư Bồ-tát thành tựu thử pháp, tức năng ư hậu hạ sanh nhân gian.

Chư Phật tử! Nếu chư Bồ Tát thành tựu pháp này thời có thể sau này sanh xuống thế gian.

Giảng: Các vị đệ tử của Phật! Đó là mười thứ việc làm của đại Bồ Tát khi trụ ở nội viện cõi trời Đâu Suất. Nếu các Bồ Tát thành tựu pháp nầy, thì sau này sẽ hạ sinh xuống nhân gian, còn có mười thứ việc làm.

===========================================

Thập Chủng Sự

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát ư Đâu suất thiên tướng hạ sanh thời, hiện thập chủng sự. Hà đẳng vi thập?

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát ở Ðâu Suất Thiên cung lúc sắp giáng sanh hiện ra mười sự. Những gì là mười ? Đó là :

Giảng: Các vị đệ tử của Phật! Khi đại Bồ Tát từ cõi trời Đâu Suất sắp hạ sinh xuống nhân gian, thì có mười thứ việc. Những gì là mười ? Đó là :

 

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát ư Đâu suất thiên hạ sanh chi thời, tùng ư túc hạ phóng đại quang minh, danh: an lạc trang nghiêm, phổ chiếu tam thiên đại thiên thế giới nhất thiết ác thú chư nạn chúng sanh; xúc tư quang giả, mạc bất giai đắc ly khổ an lạc; đắc an lạc dĩ, tất tri tướng hữu kì đặc đại nhân xuất hưng vu thế. Thị vi đệ nhất sở thị hiện sự.

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát từ trời Ðâu Suất giáng sanh, từ dưới chân phóng đại quang minh tên là an lạc trang nghiêm, chiếu khắp cõi Ðại Thiên thế giới, tất cả ác đạo, những chúng sanh hoạn nạn được quang minh chạm nhầm mình thời đều khỏi khổ được an lạc. Ðược an lạc rồi biết sắp có bực đại nhơn kỳ đặc xuất hiện thế gian. Ðây là sự thị hiện thứ nhứt.

Giảng: 1. Phật tử! Khi đại Bồ Tát từ cõi trời Đâu Suất sắp hạ sinh, thì dưới chân phải, phóng đại quang minh, tên là An Lạc Trang Nghiêm. Chiếu khắp ba ngàn đại thiên thế giới. Trong bốn đường ác, có tất cả chúng sinh khổ nạn, nếu xúc chạm được quang minh đó, thì thảy đều được lìa khổ được vui. Đắc được an lạc rồi, đều biết sẽ có đại nhân kỳ đặc sắp xuất hiện ra đời. Đó là việc thị hiện thứ nhất của Bồ Tát.

 

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát ư Đâu suất thiên hạ sanh chi thời, tùng ư my gian bạch hào tướng trung phóng đại quang minh, danh viết: giác ngộ, phổ chiếu tam thiên đại thiên thế giới, chiếu bỉ tú thế nhất thiết đồng hành chư Bồ-tát thân; bỉ chư Bồ-tát mông quang chiếu dĩ, hàm tri Bồ Tát tướng dục hạ sanh, các các xuất hưng vô lượng cung cụ, nghệ Bồ Tát sở nhi vi cúng dường. Thị vi đệ nhị sở thị hiện sự.

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát ở trời Ðâu Suất lúc giáng sanh, từ trong tướng bạch hào giữa chặng mày phóng đại quang minh tên là giác ngộ chiếu khắp Ðại Thiên thế giới, soi đến thân của chư Bồ Tát đồng hành với mình từ đời trước chư Bồ Tát đó được quang minh chiếu đến, biết đại Bồ Tát sắp giáng sanh, liền đem vô lượng đồ cúng dường đến chỗ Ðại Bồ Tát để cúng dường. Ðây là sự thị hiện thứ hai.

Giảng: 2. Phật tử! Khi đại Bồ Tát từ cõi trời Đâu Suất sắp hạ sinh thì, từ tướng bạch hào giữa chân mày, phóng đại quang minh, tên là Giác ngộ. Chiếu khắp ba ngàn đại thiên thế giới, chiếu đến tất cả các thân Bồ Tát đồng hành đời quá khứ. Các Bồ Tát đó được quang minh chiếu rồi, đều biết Bồ Tát sắp muốn hạ sinh xuống nhân gian thành Phật. Ai nấy đều hiện ra vô lượng đồ cúng dường, đi đến chỗ vị Bồ Tát đó để cúng dường. Đó là việc thị hiện thứ hai của Bồ Tát.

 

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát ư Đâu suất thiên tướng hạ sanh thời, ư hữu chưởng trung phóng đại quang minh, danh: thanh tịnh cảnh giới, tất năng nghiêm tịnh nhất thiết tam thiên đại thiên thế giới, kỳ trung nhược hữu dĩ đắc vô lậu chư Bích Chi Phật giác tư quang giả, tức xả thọ mạng; nhược bất giác giả, quang minh lực cố, tỉ trí tha phương; dư thế giới trung nhất thiết chư ma cập chư ngoại đạo, hữu kiến chúng sanh, giai diệc tỉ trí tha phương thế giới, duy trừ chư Phật thần lực sở trì ưng hóa chúng sanh. Thị vi đệ tam sở thị hiện sự.

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát ở trời Ðâu Suất lúc sắp giáng sanh, ở trong bàn tay hữu phóng đại quang minh tên là thanh tịnh cảnh giới đều có thể trang nghiêm thanh tịnh tất cả Ðại Thiên thế giới. Trong đây nếu có hàng Bích Chi Phật chứng được vô lậu, thấy biết quang minh này thời liền xả thọ mạng. Nếu những vị không hay biết thời oai lực của quang minh dời họ đến trong những thế giới phương khác. Tất cả những ma và các ngoại đạo, hàng chúng sanh có kiến chấp đều cũng dời đến thế giới phương khác, chỉ trừ những chúng sanh đáng được hoá độ do thần lực của Phật nhiếp trì. Ðây là sự thị hiện thứ ba.

Giảng: 3. Phật tử! Khi đại Bồ Tát từ cõi trời Đâu Suất sắp hạ sinh thì, trong lòng bàn tay phải, phóng ra đại quang minh, tên là Thanh tịnh cảnh giới. Đều có thể nghiêm tịnh tất cả ba ngàn đại thiên thế giới. Trong đó nếu có vị đã đắc được vô lậu Bích Chi Phật, giác xúc được quang minh đó, thì liền xả bỏ thọ mạng. Nếu vị nào không giác xúc được, thì do sức quang minh, dời họ đến trong những thế giới khác. Tất cả các ma và các ngoại đạo chúng sinh có kiến chấp, cũng đều dời đến thế giới phương khác. Chỉ trừ chúng sinh đáng được chư Phật thần lực gia trì hoá độ. Đó là việc thị hiện thứ ba của Bồ Tát.

 

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát ư Đâu suất thiên tướng hạ sanh thời, tùng kỳ lượng tất phóng đại quang minh, danh: thanh tịnh trang nghiêm, phổ chiếu nhất thiết chư Thiên cung điện, hạ tùng hộ thế, thượng chí tịnh cư, mị bất chu biến; bỉ chư Thiên đẳng, hàm tri Bồ Tát ư Đâu suất thiên tướng dục hạ sanh, câu hoài luyến mộ, bi thán ưu não, các trì chủng chủng hoa man, y phục, đồ hương, mạt hương, phan cái, kĩ lạc, nghệ Bồ Tát sở cung kính cúng dường, tùy trục hạ sanh nãi chí Niết-Bàn. Thị vi đệ tứ sở thị hiện sự.

Ðại Bồ Tát ở trời Ðâu Suất lúc sắp giáng sanh từ đầu gối phóng đại quang minh tên là Thanh tịnh trang nghiêm chiếu khắp cung điện của chư Thiên, dưới chiếu đến trời Hộ Thế Tứ Thiên Vương, trên chiếu suốt trời Tịnh Cư. Chư Thiên trong tất cả cõi trời đều biết đại Bồ Tát ở cung Ðâu Suất sắp giáng sanh, tất cả đồng có lòng luyến mộ buồn than lo rầu, cùng nhau đem những tràng hoa, y phục, hương bột, hương thoa, phan lọng, kỹ nhạc đến chỗ Bồ Tát để cung kính cúng dường, theo Bồ Tát hạ sanh nhẫn đến nhập Niết bàn. Ðây là sự thị hiện thứ tư.

Giảng: 4. Phật tử! Khi đại Bồ Tát từ cõi trời Đâu Suất sắp hạ sinh, thì từ hai đầu gối, phóng đại quang minh, tên là Thanh tịnh trang nghiêm. Chiếu khắp tất cả cung điện chư Thiên. Dưới từ cõi trời Hộ Thế Tứ Thiên Vương, trên đến cõi trời Tịnh Cư, đó là cõi trời Ngũ Bất Hoàn, đều khắp cùng. Chư Thiên sáu cõi trời dục giới, và hai mươi tám cõi trời sắc giới, đều biết Bồ Tát ở cõi trời Đâu Suất sắp muốn hạ sinh xuống nhân gian. Thảy đều ôm lòng ái mộ, buồn than lo sầu. Ai nấy đều mang đủ thứ hoa, tràng hoa, y phục, hương đốt, hương bột, phan báu và lọng báu, kỹ nhạc, đi đến chỗ Bồ Tát, cung kính cúng dường. Theo Bồ Tát hạ sinh, cho đến vào Niết Bàn. Đó là việc thị hiện thứ tư của Bồ Tát.

 

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát tại Đâu suất thiên tướng hạ sanh thời, ư vạn tự Kim cương trang nghiêm tâm tạng trung phóng đại quang minh, danh: Vô năng thắng tràng, phổ chiếu thập phương nhất thiết thế giới Kim Cương lực sĩ; thời, hữu bách ức Kim Cương lực sĩ giai tất lai tập, tùy trục thị vệ, thủy ư hạ sanh, nãi chí Niết-Bàn. Thị vi đệ ngũ sở thị hiện sự.

Ðại Bồ Tát ở trời Ðâu Suất lúc sắp giáng sanh, trong tâm trạng kim cang trang nghiêm nơi tướng chữ “vạn” phóng đại quang minh tên là Vô năng thắng tràng, chiếu khắp tất cả thế giới mười phương đến thân của tất cả Kim Cang lực sĩ. Bấy giờ có trăm ức Kim Cang lực sĩ đều vân tập theo hầu hạ đại Bồ Tát từ lúc giáng sanh nhẫn đến lúc nhập Niết bàn. Ðây là sự thị hiện thứ năm.

Giảng: 5. Phật tử! Khi đại Bồ Tát từ cõi trời Đâu Suất sắp hạ sinh, thì trong tâm tạng chữ vạn kim cang trang nghiêm, phóng đại quang minh, tên là Vô năng thắng tràng. Chiếu khắp Kim Cang Lực Sĩ (hộ pháp thiện thần) mười phương tất cả thế giới. Lúc đó, có trăm ức Kim Cang Lực Sĩ, thảy đều tụ tập đến, đi theo Bồ Tát để bảo vệ, lúc mới sinh ra, cho đến vào Niết Bàn. Đó là việc thị hiện thứ năm của Bồ Tát.

 

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát ư Đâu suất thiên tướng hạ sanh thời, tùng kỳ thân thượng nhất thiết mao khổng phóng đại quang minh, danh: phân biệt chúng sanh, phổ chiếu nhất thiết Đại Thiên thế giới, biến xúc nhất thiết chư Bồ-tát thân, phục xúc nhất thiết chư Thiên thế nhân; chư Bồ-tát đẳng hàm tác thị niệm: ngã ưng trụ thử, cúng dường Như Lai, giáo hóa chúng sanh. Thị vi đệ lục sở thị hiện sự.

Ðại Bồ Tát ở trời Ðâu Suất lúc sắp giáng sanh, từ tất cả lỗ lông trên thân phóng đại quang minh tên là phân biệt chúng sanh, chiếu khắp Ðại Thiên thế giới, chạm đến thân của tất cả Bồ Tát, lại chạm đến tất cả chư Thiên và người đời. Chư Bồ Tát đó đồng nghĩ rằng tôi phải ở lại đây để cúng dường đức Như Lai giáo hóa chúng sanh. Ðây là sự thị hiện thứ sáu.

Giảng: 6. Phật tử! Khi đại Bồ Tát từ cõi trời Đâu Suất sắp hạ sinh, thì trong tất cả lỗ chân lông trên thân của Ngài, phóng đại quang minh, tên là Phân biệt chúng sinh. Chiếu khắp tất cả đại thiên thế giới, chiếu đến khắp tất cả thân của các Bồ Tát, lại chiếu đến khắp tất cả chư Thiên và người đời. Các Bồ Tát đều nghĩ rằng: Tôi nên ở nơi đây để cúng dường Như Lai, giáo hoá chúng sinh. Đó là việc thị hiện thứ sáu của Bồ Tát.

 

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát ư Đâu suất thiên tướng hạ sanh thời, tùng đại ma ni bảo tạng điện trung phóng đại quang minh, danh: thiện trụ quan sát, chiếu thử Bồ Tát đương sanh chi xứ sở thác vương cung; kỳ quang chiếu dĩ, chư dư Bồ Tát giai cộng tùy trục hạ Diêm-phù-đề, nhược ư kỳ gia, nhược kỳ tụ lạc, nhược kỳ thành ấp nhi hiện thọ sanh, vi dục giáo hóa chư chúng sanh cố. Thị vi đệ thất sở thị hiện sự.

Ðại Bồ Tát ở trời Ðâu Suất lúc sắp giáng sanh từ trong điện đại ma ni bửu tạng phóng đại quang minh tên là Thiện trụ quán sát chiếu đến chỗ của Bồ Tát này sẽ sanh. Quang minh này đã chiếu xong, những Bồ Tát khác đều theo dõi xuống Diêm Phù Ðề, hoặc ở nơi nhà, hoặc ở tụ lạc, hoặc ở thành ấp mà hiện thọ sanh, vì muốn giáo hoá các chúng sanh. Ðây là sự thị hiện thứ bảy.

Giảng: 7. Phật tử! Khi đại Bồ Tát từ cõi trời Đâu Suất sắp hạ sinh, thì từ trong Điện Đại Ma Ni Bảo Tạng, phóng đại quang minh, tên là Thiện trụ quán sát. Chiếu chỗ sắp sinh của Bồ Tát, tức là chỗ cung vua ở. Quang minh đó chiếu rồi, thì các Bồ Tát khác đều cùng đi theo, hạ sinh xuống cõi Diêm Phù Đề. Hoặc ở nơi nhà, hoặc ở tụ lạc, hoặc ở thành ấp, mà thị hiện thọ sinh, vì muốn giáo hoá các chúng sinh. Đó là việc thị hiện thứ bảy của Bồ Tát.

 

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát ư Đâu suất thiên lâm hạ sanh thời, tùng Thiên cung điện cập Đại lâu các chư trang nghiêm trung phóng đại quang minh, danh: nhất thiết cung điện thanh tịnh trang nghiêm, chiếu sở sanh mẫu phước; quang minh chiếu dĩ, lệnh Bồ Tát mẫu an ổn khoái lạc, cụ túc thành tựu nhất thiết công đức, kỳ mẫu phước trung tự nhiên nhi hữu quảng đại lâu các đại ma ni bảo nhi vi trang nghiêm, vi dục an xứ Bồ Tát thân cố. Thị vi đệ bát sở thị hiện sự.

Ðại Bồ Tát ở trời Ðâu Suất lúc sắp giáng sanh từ cung điện cõi trời và trong những đồ trang nghiêm nơi đại lâu các phóng đại quang minh tên là Nhứt thiết cung điện thanh tịnh trang nghiêm chiếu đến bụng của mẹ sẽ thác sanh. Quang minh chiếu xong, làm cho Thánh Mẫu an ổn vui vẻ, thành tựu đầy đủ tất cả công đức. Trong bụng Thánh Mẫu tự nhiên có lâu các quảng đại trang nghiêm với đại ma ni bửu, nơi đây là chỗ sẽ ở của thân đại Bồ Tát. Ðây là sự thị hiện thứ tám.

Giảng: 8. Phật tử! Khi đại Bồ Tát từ cõi trời Đâu Suất sắp hạ sinh thì, từ trong cung điện trời và đại lầu các tất cả trang nghiêm, phóng đại quang minh, tên là Nhất thiết cung điện thanh tịnh trang nghiêm. Chiếu đến bụng của người mẹ. Quang minh đó chiếu rồi, khiến cho mẹ của Bồ Tát an ổn vui vẻ, chẳng có cảm giác không thoải mái, thành tựu đầy đủ tất cả công đức. Ở trong thai mẹ, tự nhiên có lầu các rộng lớn, trang nghiêm bằng đại ma ni báu, vì muốn thân Bồ Tát được an ổn. Đó là việc thị hiện thứ tám của Bồ Tát.

 

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát ư Đâu suất thiên lâm hạ sanh thời, tùng lưỡng túc hạ phóng đại quang minh, danh vi: thiện trụ; nhược chư Thiên Tử cập chư phạm thiên kỳ mạng tướng chung, mông quang chiếu xúc giai đắc trụ thọ, cúng dường Bồ Tát tòng sơ hạ sanh nãi chí Niết-Bàn. Thị vi đệ cửu sở thị hiện sự.

Ðại Bồ Tát ở trời Ðâu Suất lúc sắp giáng sanh, từ dưới hai chân phóng đại quang minh tên là Thiện Trụ. Nếu chư Thiên Tử và các Phạm Thiên sắp lâm chung được quang minh chạm đến thân thời đều được trụ thọ mạng cúng dường đại Bồ Tát từ lúc mới hạ sanh nhẫn đến nhập Niết bàn. Ðây là sự thị hiện thứ chín.

Giảng: 9. Phật tử! Khi đại Bồ Tát từ cõi trời Đâu Suất sắp hạ sinh, thì từ dưới hai bàn chân, phóng đại quang minh, tên là Thiện trụ. Nếu có các Thiên tử và các Phạm Thiên, thọ mạng sắp hết, được quang minh đó chiếu đến, thì đều được sống lâu thêm. Cúng dường Bồ Tát, từ lúc hạ sinh, cho đến vào Niết Bàn. Đó là việc thị hiện thứ chín của Bồ Tát.

 

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát ư Đâu suất thiên lâm hạ sanh thời, tùng tùy hảo trung phóng đại quang minh, danh viết: nhãn trang nghiêm, thị hiện Bồ Tát chủng chủng chư nghiệp; thời, chư nhân, Thiên hoặc kiến Bồ-tát trụ Đâu suất thiên, hoặc kiến nhập thai, hoặc kiến sơ sanh, hoặc kiến xuất gia, hoặc kiến thành đạo, hoặc kiến hàng ma, hoặc kiến chuyển pháp luân, hoặc kiến nhập Niết Bàn. Thị vi đệ thập sở thị hiện sự.

Ðại Bồ Tát ở trời Ðâu Suất lúc sắp giáng sanh từ trong tùy hình hảo phóng đại quang minh tên là Nhựt nguyệt trang nghiêm, thị hiện những công nghiệp củ Bồ Tát. Bấy giờ người và trời hoặc thấy Bồ Tát ở cung Ðâu Suất, hoặc thấy nhập thai, hoặc thấy sơ sanh, hoặc thấy xuất gia, hoặc thấy Thành đạo hoặc thấy hàng ma, hoặc thấy chuyển Pháp luân, hoặc thấy nhập Niết bàn. Ðây là sự thị hiện thứ muời.

Giảng: 10. Phật tử! Khi đại Bồ Tát từ cõi trời Đâu Suất sắp hạ sinh, thì từ trong tướng tám mươi vẻ đẹp, phóng đại quang minh, tên là Nhãn trang nghiêm. Thị hiện đủ thứ các nghiệp của Bồ Tát. Lúc đó những người ở nhân gian và chư Thiên trên trời, hoặc thấy Bồ Tát ở cõi trời Đâu Suất, hoặc thấy Bồ Tát nhập thai, hoặc thấy Bồ Tát sơ sinh, hoặc thấy Bồ Tát xuất gia, hoặc thấy Bồ Tát thành đạo, hoặc thấy Bồ Tát hàng ma, hoặc thấy Bồ Tát chuyển pháp luân, hoặc thấy Bồ Tát vào Niết Bàn. Đây là cảnh giới tám tướng thành đạo của Bồ Tát. Đó là việc thị hiện thứ mười của Bồ Tát.

 

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát ư thân, ư tọa, ư cung điện, ư lâu các trung, phóng như thị đẳng bách vạn a-tăng-kì quang minh, tất hiện chủng chủng chư Bồ-tát nghiệp; hiện thị nghiệp dĩ, cụ túc nhất thiết công đức Pháp cố, tòng đâu suất thiên hạ sanh nhân gian.

Ðại Bồ Tát nơi thân, nơi tòa, nơi cung điện, trong lâu các phóng trăm muôn vô số đại quang minh như vậy đều hiển hiện những sự nghiệp của đại Bồ Tát. Thị hiện sự nghiệp này rồi, vì đầy đủ tất cả công đức nên từ cung trời Ðâu Suất sanh xuống nhơn gian.

Giảng: Các vị đệ tử của Phật! Nơi thân, nơi toà ngồi, nơi cung điện, ở trong lầu các của đại Bồ Tát, phóng ra trăm vạn A tăng kỳ (vô lượng số) quang minh như vậy, đều hiện đủ thứ các nghiệp Bồ Tát. Hiện ra các nghiệp đó rồi, vì đầy đủ tất cả pháp công đức, nên từ cõi trời Đâu Suất hạ sinh xuống nhân gian để làm Phật.

 

===========================================

Thập Chủng Sự

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát thị hiện xứ thai, hữu thập chủng sự. Hà đẳng vi thập?

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát thị hiện ở thai mẹ có mười sự:

Giảng: Các vị đệ tử của Phật! Khi đại Bồ Tát thị hiện nơi thai mẹ có mười việc. Những gì là mười?

 

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát vi dục thành tựu tiểu tâm liệt giải chư chúng sanh cố, bất dục lệnh bỉ khởi như thị niệm: kim thử Bồ Tát tự nhiên hóa sanh, trí tuệ thiện căn bất tùng tu đắc. Thị cố Bồ Tát thị hiện xứ thai. Thị vi đệ nhất sự.

Ðại Bồ Tát vì muốn thành tựu những chúng sanh tâm nhỏ hiểu kém, chẳng muốn cho họ nghĩ rằng: Nay đức Bồ Tát này tự nhiên hóa sanh trí huệ thiện căn đều tự được chẳng từ công phu tu tập. Vì cớ đây nên Bồ Tát thị hiện ở thai mẹ. Ðây là sự thứ nhứt.

Giảng: 1. Phật tử! Đại Bồ Tát vì muốn thành tựu các chúng sinh tâm thấp kém, căn lành hạ liệt, sự hiểu biết không đủ. Vì chúng sinh nầy, cho nên chẳng muốn khiến cho họ khởi nghĩ như vầy: Nay Bồ Tát này tự nhiên hoá sinh, trí huệ căn lành chẳng do tu mà được, bởi vậy cho nên Bồ Tát thị hiện cảnh giới ở thai mẹ. Đó là việc thứ nhất.

 

Bồ-Tát Ma-ha-tát vi thành thục phụ mẫu cập chư quyến chúc, tú thế đồng hành chúng sanh thiện căn, thị hiện xứ thai. Hà dĩ cố? bỉ giai ưng dĩ kiến ư xứ thai thành thục sở hữu chư thiện căn cố. Thị vi đệ nhị sự.

Ðại Bồ Tát vì thành thục phụ mẫu và các quyến thuộc, những chúng sanh đồng tu thiện căn từ đời trước nên thị hiện ở thai mẹ. Tại sao vậy?Vì những người này cần phải thấy Bồ Tát ở thai mẹ mới thành thục những thiện căn mà họ đã có. Ðây là sự thứ hai.

Giảng: 2. Đại Bồ Tát vì thành thục cha mẹ và lục thân quyến thuộc đời nầy và chúng sinh đồng hành căn lành tu hành đời trước, mà thị hiện ở thai mẹ. Tại sao? Vì họ đều đáng được thấy nơi thai mẹ, có thể thành thục hết thảy các căn lành của họ đã tu trong quá khứ. Đó là việc thứ hai.

 

Bồ-Tát Ma-ha-tát nhập mẫu thai thời, chánh niệm chánh tri, vô hữu mê hoặc; trụ mẫu thai dĩ, tâm hằng chánh niệm, diệc vô thác loạn. Thị vi đệ tam sự.

Ðại Bồ Tát lúc vào thai mẹ, luôn chánh niệm chánh tri không mê lầm. Ðã ở thai mẹ, tâm Bồ Tát hằng chánh niệm cũng không lầm loạn. Ðây là sự thứ ba.

Giảng: 3. Đại Bồ Tát lúc nhập thai mẹ, thì chánh niệm hiện tiền, chánh tri hiện tiền, không có mê hoặc. Chẳng giống như một số người và tất cả Bồ Tát, khi trụ thai thì quên hết sự việc trước kia. Vị Bồ Tát hậu bổ Phật vị, tuy ở trong thai mẹ nhưng không có hôn mê. Cho nên trụ trong thai mẹ rồi, tâm luôn luôn chánh niệm, tâm cũng chẳng tán loạn. Đó là việc thứ ba.

 

Bồ-Tát Ma-ha-tát tại mẫu thai trung thường diễn thuyết Pháp, thập phương thế giới chư đại Bồ-tát, thích, phạm, tứ vương giai lai tập hội, tất lệnh hoạch đắc vô lượng thần lực, vô biên trí tuệ, Bồ Tát xứ thai thành tựu như thị biện tài, thắng dụng. Thị vi đệ tứ sự.

Ðại Bồ Tát ở trong thai mẹ thường diễn thuyết pháp. Chư đại Bồ Tát ở thập phương thế giới cùng Ðế Thích, Phạm Thiên, Hộ Thế Tứ Thiên Vương đều đến tập hội, đều làm cho được vô lượng thần lực, vô biên trí huệ. Lúc ở trong thai mẹ, đại Bồ Tát thành tựu biện tài công dụng thù thắng như vậy. Ðây là sự thứ tư.

Giảng: 4. Đại Bồ Tát ở trong thai mẹ, thường diễn nói diệu pháp, giáo hoá chúng sinh. Các đại Bồ Tát mười phương thế giới, Thích Đề Hoàn Nhân, Đại Phạm Thiên Vương, Hộ Thế Tứ Thiên Vương, các quỷ thần, đều tụ tập đến, đều khiến cho họ đắc được vô lượng thần lực, và vô biên trí huệ. Bồ Tát ở thai mẹ thành tựu biện tài thù thắng diệu dụng như vậy. Đó là việc thứ tư.

 

Bồ-Tát Ma-ha-tát tại mẫu thai trung tập Đại chúng hội, dĩ ản nguyện lực giáo hóa nhất thiết chư Bồ-tát chúng. Thị vi đệ ngũ sự.

Ðại Bồ Tát ở trong thai mẹ nhóm họp đại hội, dùng sức bổn nguyện giáo hoá tất cả chúng Bồ Tát. Ðây là sự thứ năm.

Giảng: 5. Đại Bồ Tát ở trong thai mẹ, có thể tập đại chúng hội mười phương. Dùng nguyện lực thuở xưa, giáo hoá tất cả các chúng Bồ Tát. Đó là việc thứ năm.

 

Bồ-Tát Ma-ha-tát ư nhân trung thành Phật, ưng cụ nhân gian tối thắng thọ sanh, dĩ thử thị hiện xứ ư mẫu thai. Thị vi đệ lục sự.

Ðại Bồ Tát thành Phật ở trong loài người thời phải đủ sự thọ sanh tối thắng. Do cớ này nên thị hiện ở thai mẹ. Ðây là sự thứ sáu.

Giảng: 6. Đại Bồ Tát thành Phật ở trong nhân gian, phải đầy đủ tối thắng thọ sinh nhân gian, nhờ đó mà Bồ Tát thị hiện ở nơi thai mẹ. Đó là việc thứ sáu.

 

Bồ-Tát Ma-ha-tát tại mẫu thai trung, tam thiên đại thiên thế giới chúng sanh tất kiến Bồ Tát, như minh kính trung kiến kỳ diện tượng; Nhĩ thời, Đại tâm Thiên, long, dạ xoa, Càn thát bà, A-tu-la, Ca Lâu La, khẩn-na-la, Ma hầu la già, nhân, phi nhân đẳng, giai nghệ Bồ Tát, cung kính cúng dường. Thị vi đệ thất sự.

Ðại Bồ Tát ở trong thai mẹ, chúng sanh trong Ðại Thiên thế giới đều thấy Bồ Tát như thấy bóng mình hiện rõ trong gương. Bấy giờ chư Thiên, Long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, Nhơn, Phi nhơn v.v…những hàng có đại tâm, đều đến chỗ Bồ Tát để cung kính cúng dường. Ðây là sự thứ bảy.

Giảng: 7. Đại Bồ Tát ở trong thai mẹ, thì chúng sinh ba ngàn đại thiên thế giới, đều nhìn thấy Bồ Tát, như thấy hình bóng Ngài ở trong gương sáng. Lúc đó, trời Tứ Thiên Vương, Rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, người và chẳng phải người. Thiên long bát bộ nầy, đều đến chỗ Bồ Tát, cung kính cúng dường. Đó là việc thứ bảy.

 

Bồ-Tát Ma-ha-tát tại mẫu thai trung, tha phương thế giới nhất thiết tối hậu sanh Bồ Tát tại mẫu thai giả, giai lai cọng hội, thuyết đại tập Pháp môn, danh: quảng đại trí tuệ tạng. Thị vi đệ bát sự

Ðại Bồ Tát ở trong thai mẹ, tất cả tối hậu sanh Bồ Tát ở thai mẹ trong mười phương đều đến cùng hội họp diễn thuyết pháp môn đại tập tên là quảng đại trí huệ tạng. Ðây là sự thứ tám.

Giảng: 8. Lúc đại Bồ Tát ở trong thai mẹ, thì tất cả tối hậu sanh Bồ Tát ở thai mẹ trong mười phương thế giới phương khác, đều cùng đến tụ hội, nói pháp môn đại tập, tên là Quảng đại trí huệ tạng. Đó là việc thứ tám.

 

Bồ-Tát Ma-ha-tát tại mẫu thai thời, nhập ly cấu tạng tam muội, dĩ tam muội lực, ư mẫu thai trung hiện Đại cung điện, chủng chủng nghiêm sức tất giai diệu hảo, Đâu suất thiên cung bất khả vi bỉ, nhi lệnh mẫu thân an ẩn vô hoạn. Thị vi đệ cửu sự.

Ðại Bồ Tát ở trong lúc thai me nhập ly cấu tạng tam muội. Dùng sức tam muội ở trong thai mẹ hiện cung điện lớn trang nghiêm tốt đẹp. Thiên cung Ðâu Suất không sánh kịp. Nhưng thân mẹ vẫn an ổn vô sự. Ðây là sự thứ chín.

Giảng: 9. Lúc đại Bồ Tát ở trong thai mẹ, thì nhập tam muội Ly Cấu Tạng. Nhờ sức tam muội, mà ở trong thai mẹ hiện ra cung điện lớn, đủ thứ sự nghiêm sức, thảy đều tốt đẹp. Cung trời Đâu Suất không thể sánh bằng, mà khiến cho thân người mẹ an ổn vô sự. Đó là việc thứ chín.

 

Bồ-Tát Ma-ha-tát trụ mẫu thai thời, dĩ đại uy lực hưng cúng dường cụ, danh: khai Đại phước đức ly cấu tạng, phổ biến thập phương nhất thiết thế giới, cúng dường nhất thiết chư Phật Như Lai, bỉ chư Như Lai hàm vi diễn thuyết vô biên Bồ-tát trụ xứ pháp giới tạng. Thị vi đệ thập sự.

Ðại Bồ Tát lúc ở thai mẹ dùng oai lực sắm đồ cúng dường tên là khai đại phước đức ly cấu tạng khắp đến tất cả thế giới mười phương để cúng dường tất cả chư Phật Như Lai. Chư Như Lai đó đều vì đại Bồ Tát mà diễn nói vô biên Bồ Tát ở pháp giới tạng. Ðây là sự thứ mười.

Giảng: 10. Lúc đại Bồ Tát ở trong thai mẹ, dùng đại oai thần lực, hiện ra đủ thứ đồ cúng dường, tên là Khai đại phước đức ly cấu tạng. Cúng dường tất cả chư Phật Như Lai, khắp cùng mười phương tất cả thế giới. Các Như Lai đó, đều vì Bồ Tát diễn nói vô biên Bồ Tát trụ xứ pháp giới tạng. Đó là việc thứ mười.

 

Phật tử! thị vi Bồ-Tát Ma-ha-tát thị hiện xứ thai thập chủng sự. nhược chư Bồ-tát liễu đạt thử pháp, tức năng thị hiện thậm vi tế thú.

Nếu chư Bồ Tát rõ thấu mười sự thị hiện ở thai mẹ này, thời có thể thị hiện sự qua đến thậm thâm vi tế.

Giảng: Các vị đệ tử của Phật! Đó là mười việc thị hiện ở trong thai mẹ của đại Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát thấu đạt pháp nầy, thì có thể thị hiện cõi thâm sâu vi tế.

 

=======================================

Thập Chủng Thậm Vi Tế Thú

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng thậm vi tế thú. Hà đẳng vi thập? sở vị:

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười sự qua đến thậm thâm vi tế. Những gì là mười ? Đó là:

Giảng: Các vị đệ tử của Phật! Đại Bồ Tát có mười cõi thâm sâu vi tế. Những gì là mười? Đó là:

 

Tại mẫu thai trung, thị hiện sơ phát Bồ-đề tâm, nãi chí quán đảnh địa

Ở trong thai mẹ, đại Bồ Tát thị hiện sơ phát tâm Bồ đề nhẫn đến bực quán đảnh.

Giảng: 1. Ở trong thai mẹ thị hiện cảnh giới ban đầu phát bồ đề tâm, cho đến bậc quán đảnh.

 

Tại mẫu thai trung, thị hiện trụ Đâu suất thiên;

Ở trong thai mẹ thị hiện ở Ðâu Suất Thiên cung.

Giảng: 2. Ở trong thai mẹ thị hiện cảnh giới trụ ở cõi trời Đâu Suất.

 

Tại mẫu thai trung, thị hiện sơ sanh

Ở trong thai mẹ thị hiện sơ sanh.

Giảng: 3. Ở trong thai mẹ thị hiện cảnh giới sơ sinh.

 

Tại mẫu thai trung, thị hiện đồng tử địa;

Ở trong thai mẹ thị hiện đồng tử.

Giảng: 4. Ở trong thai mẹ thị hiện cảnh giới bậc đồng tử.

 

Tại mẫu thai trung, thị hiện xứ vương cung

Ở trong thai mẹ thị hiện ở vương cung.

Giảng: 5. Ở trong thai mẹ thị hiện cảnh giới nơi cung vua.

 

Tại mẫu thai trung, thị hiện xuất gia

Ở trong thai mẹ thị hiện xuất gia.

Giảng: 6. Ở trong thai mẹ thị hiện cảnh giới xuất gia.

 

Tại mẫu thai trung, thị hiện khổ hạnh, vãng nghệ đạo tràng, thành đẳng chánh giác

Ở trong thai mẹ thị hiện khổ hạnh đến ngồi đạo tràng thành bực Ðẳng Chánh Giác.

Giảng: 7. Ở trong thai mẹ thị hiện cảnh giới khổ hạnh, đi đến đạo tràng, thành Đẳng Chánh Giác.

 

Tại mẫu thai trung, thị hiện chuyển pháp luân

Ở trong thai mẹ thị hiện Chuyển pháp luân.

Giảng: 8. Ở trong thai mẹ thị hiện cảnh giới chuyển pháp luân.

 

Tại mẫu thai trung, thị hiện Bát Niết Bàn

Ở trong thai mẹ thị hiện nhập Niết bàn.

Giảng: 9. Ở trong thai mẹ thị hiện cảnh giới vào Niết Bàn.

 

Tại mẫu thai trung, thị hiện Đại vi tế, vị: nhất thiết Bồ Tát hạnh nhất thiết Như Lai tự tại thần lực vô lượng sái biệt môn.

Ở trong thai mẹ thị hiện đại vi tế: những là tất cả Bồ Tát hạnh, tất cả Như Lai tự tại thần lực vô lượng môn sai biệt.

Giảng: 10. Ở trong thai mẹ thị hiện cảnh giới đại vi tế, đó là: Tất cả Bồ Tát hạnh, tất cả Như Lai tự tại thần lực, vô lượng môn khác nhau, Bồ Tát đều biết được.

 

Phật tử! thị vi Bồ-Tát Ma-ha-tát tại mẫu thai trung thập chủng vi tế thú. Nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức đắc Như Lai vô thượng đại trí tuệ vi tế thú.

Nếu chư Bồ Tát an trụ trong mười môn qua đến thậm thâm vi tế này thời được đại trí huệ thâm thâm vi tế vô thượng của đức Như Lai.

Giảng: Các Phật tử! Đó là mười thứ cõi vi tế ở trong thai mẹ của đại Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ pháp nầy, thì sẽ đắc được đại trí huệ cõi vi tế vô thượng của Như Lai.

 

=======================================

Thập Chủng Sanh

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng sanh. Hà đẳng vi thập? sở vị:

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười điều sanh. Những gì là mười ? Đó là:

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ sinh. Những gì là mười ? Đó là :

 

Viễn ly ngu si chánh niệm chánh tri sanh

Xa lìa ngu si, chánh niệm chánh tri mà sanh.

Giảng: 1. Bồ Tát xa lìa ngu si, ở trong chánh niệm chánh tri mà sinh ra.

 

Phóng đại quang minh võng phổ chiếu tam thiên đại thiên thế giới sanh

Phóng lưới đại quang minh chiếu khắp Ðại Thiên thế giới mà sanh.

Giảng: 2. Bồ Tát phóng lưới đại quang minh, chiếu khắp ba ngàn đại thiên thế giới mà sinh ra.

 

Trụ tối hậu hữu cánh bất thọ hậu thân sanh

Trụ tối hậu hữu chẳng còn thọ thân sau mà sanh.

Giảng: 3. Bồ Tát trụ thân thể cõi cuối cùng, càng không thọ thân sau mà sinh ra, nghĩa là không còn sinh tử nữa.

 

Bất sanh bất khởi sanh

Bất sanh bất khởi mà sanh.

Giảng: 4. Bồ Tát chẳng sinh, cũng chẳng khởi mà sinh ra.

 

Tri tam giới như huyễn sanh

Biết tam giới như huyễn mà sanh.

Giảng: 5. Bồ Tát biết ba cõi như huyễn mà sinh ra.

 

Ư thập phương thế giới phổ hiện thân sanh

Khắp hiện thân nơi thập phương thế giới mà sanh.

Giảng: 6. Bồ Tát ở trong mười phương thế giới, khắp hiện thân mà sinh ra.

 

Chứng nhất thiết trí trí thân sanh

Chứng thân nhứt thiết chủng trí mà sanh.

Giảng: 7. Bồ Tát chứng được trí nhất thiết trí thân mà sinh ra.

 

Phóng nhất thiết Phật quang minh phổ giác ngộ nhất thiết chúng sanh thân sanh

Phóng tất cả Phật quang minh khắp giác ngộ tất cả chúng sanh mà sanh.

Giảng: 8. Bồ Tát phóng ra tất cả Phật quang minh, khắp giác ngộ tất cả thân chúng sinh mà sinh ra.

 

Nhập đại trí quan sát tam muội thân sanh

Nhập đại trí quán sát tam muội mà sanh.

Giảng: 9. Bồ Tát nhập đại trí huệ, quán sát tam muội thân mà sinh ra.

 

Phật tử! Bồ Tát sanh thời, chấn động nhất thiết Phật sát, giải thoát nhất thiết chúng sanh, trừ diệt nhất thiết ác đạo, ánh tế nhất thiết chư ma, vô lượng Bồ Tát giai lai tập hội.

Bồ Tát lúc sanh, chấn động tất cả cõi Phật, giải thoát tất cả chúng sanh, trừ diệt tất cả ác đạo che chói tất cả các ma, vô lượng Bồ Tát đều đến nhóm họp.

Giảng: 10. Phật tử ! Khi Bồ Tát sinh thì chấn động tất cả cõi Phật, giải thoát tất cả chúng sinh, diệt trừ tất cả đường ác, che lấp tất cả các ma, vô lượng Bồ Tát đều đến tụ hội.

 

Phật tử! thị vi Bồ-Tát Ma-ha-tát thập chủng sanh, vi điều phục chúng sanh cố, như thị thị hiện.

Chư Phật tử! Ðây là mười điều sanh của đại Bồ Tát, vì điều phục chúng sanh mà thị hiện như vậy.

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đó là mười thứ sinh của Đại Bồ Tát, vì điều phục tất cả chúng sinh, mà thị hiện như vậy, khiến cho tất cả chúng sinh thấy được cảnh giới đó mà giác ngộ.

 

=================================

Thập Sự Cố

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát dĩ thập sự cố, thị hiện vi tiếu tâm tự thệ. Hà đẳng vi thập? sở vị:

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát do mười sự mà thị hiện vi tiếu tâm tự thệ. Những gì là mười ? Đó là:

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát do mười việc, mà thị hiện mỉm cười tâm tự thệ. Những gì là mười ? Đó là :

 

Bồ-Tát Ma-ha-tát niệm ngôn: nhất thiết thế gian một tại dục nê, trừ ngã nhất nhân vô năng miễn tế. Như thị tri dĩ, hoan hỷ vi tiếu tâm tự thệ.

Ðại Bồ Tát nghĩ rằng: Tất cả thế gian chìm tại vũng bùn ái dục, trừ một tôi ra không ai có thể cố gắng cứu tế được. Nghĩ biết như vậy rồi, Bồ Tát vui vẻ vi tiếu tâm tự thệ.

Giảng: 1. Đại Bồ Tát nghĩ rằng : Hết thảy chúng sinh tất cả thế gian chìm đắm trong vũng bùn ái dục, trừ một mình ta ra, mới có thể cứu giúp họ thoát khỏi vũng vùn ái dục, những người khác không thể nào cứu độ họ được. Biết như vậy rồi, vui vẻ mỉm cười tâm tự thệ. Phát nguyện nhất định sẽ phải độ thoát họ.

 

Phục niệm ngôn: nhất thiết thế gian phiền não sở manh, duy ngã kim giả cụ túc trí tuệ. Như thị tri dĩ, hoan hỷ vi tiếu tâm tự thệ

Lại nghĩ rằng: Tất cả thế gian bị phiền não làm mù, duy có tôi nay là người đầy đủ trí huệ. Bồ Tát nghĩ biết như vậy vui vẻ vi tiếu tâm tự thệ.

Giảng: 2. Bồ Tát lại nghĩ rằng : Hết thảy chúng sinh tất cả thế gian bị phiền não làm mù loà, giống như người mù, chỉ có mình ta đầy đủ đại trí huệ, mới có thể cứu độ họ, người khác không thể nào làm được. Biết như vậy rồi, vui vẻ mỉm cười tâm tự thệ. Phát nguyện nhất định sẽ độ thoát họ.

 

Hựu niệm ngôn: ngã kim nhân thử giả danh thân cố, đương đắc Như Lai sung mãn tam thế vô thượng pháp thân. Như thị tri dĩ, hoan hỷ vi tiếu tâm tự thệ.

Lại nghĩ rằng: Nay tôi do thân giả danh này sẽ được pháp thân vô thượng sanh mãn tam thế của đức Như Lai. Nghĩ biết như vậy, Bồ Tát vui vẻ vi tiếu tâm tự thệ.

Giảng: 3. Bồ Tát lại nghĩ rằng : Nay ta vì thân giả danh nầy, nên sẽ chứng đắc được pháp thân vô thượng Như Lai đầy khắp ba đời. Biết như vậy rồi, vui vẻ mỉm cười tâm tự thệ.

 

Bồ Tát nhĩ thời, dĩ vô chướng ngại nhãn, biến quán thập phương sở hữu phạm thiên, nãi chí nhất thiết đại tự tại thiên, tác thị niệm ngôn: thử đẳng chúng sanh, giai tự vị vi hữu Đại trí lực. Như thị tri dĩ, hoan hỷ vi tiếu tâm tự thệ.

Bấy giờ Bồ Tát dùng mắt vô chướng ngại quan sát tất cả Phạm Thiên nhẫn đến tất cả Ðại Tự Tại Thiên trong mười phương mà tự nghĩ rằng: những chúng sanh này đều tự cho rằng mình có đại trí lực. Bồ Tát nghĩ biết như vậy vui vẻ vi tiếu tâm tự thệ.

Giảng: 4. Bồ Tát lúc đó dùng thiên nhãn không chướng ngại, quán khắp mười phương hết thảy cõi trời Đại Phạm Thiên, cho đến tất cả trời Đại Tự Tại, bèn nghĩ như vầy : Những chúng sinh nầy, đều tự cho rằng là có đại trí lực. Tuy họ có trí huệ lực, nhưng chẳng rốt ráo. Biết như vậy rồi, vui vẻ mỉm cười tâm tự thệ. Phát nguyện nhất định sẽ độ thoát họ.

 

Bồ Tát nhĩ thời quán chư chúng sanh, cửu chủng thiện căn, kim giai thoái một; như thị tri dĩ, hoan hỷ vi tiếu tâm tự thệ.

Bấy giờ Bồ Tát quán sát các chúng sanh từ lâu gieo trồng căn lành, nay đều thối mất. Nghĩ biết như vậy, Bồ Tát vui vẻ vi tiếu tâm tự thệ.

Giảng: 5. Lúc đó đại Bồ Tát quán các chúng sinh, từ kiếp xa xưa đến nay, đã gieo trồng rất nhiều căn lành, nhưng hiện tại đều đã thối lùi mai một, không cầu pháp thanh tịnh xuất thế, mà cầu pháp nhiễm trước đời ác năm trược. Nếu ta không cứu họ, thì tương lai sẽ bị đoạ vào ba đường ác. Biết như vậy rồi, vui vẻ mỉm cười tâm tự thệ. Phát nguyện nhất định sẽ độ thoát họ.

 

Bồ Tát quán kiến thế gian chủng tử, sở chủng tuy thiểu, hoạch quả thậm đa; như thị tri dĩ, hoan hỷ vi tiếu tâm tự thệ.

Bồ Tát quán sát thấy thế gian chủng tử gieo trồng dầu ít mà được quả rất nhiều. Nghĩ biết như vậy vui vẻ vi tiếu tâm tự thệ.

Giảng: 6. Bồ Tát quán sát nhìn thấy hạt giống nhiễm ô của thế gian, gieo trồng tuy rất ít, mà đắc được quả rất nhiều. Do đó không dễ gì phát bồ đề tâm, Bồ Tát rất thương xót họ, khiến cho họ đừng bỏ giác hợp trần, đừng bỏ gốc tìm ngọn. Biết như vậy rồi, vui vẻ mỉm cười tâm tự thệ. Phát nguyện nhất định sẽ độ thoát họ.

 

Bồ Tát quán kiến nhất thiết chúng sanh, mông Phật sở giáo, tất đắc lợi ích; như thị tri dĩ, hoan hỷ vi tiếu tâm tự thệ.

Bồ Tát quán sát thấy tất cả chúng sanh được Phật giáo hoá quyết định được lợi ích. Nghĩ biết như vậy, Bồ Tát vui vẻ vi tiếu tâm tự thệ.

Giảng: 7. Bồ Tát quán thấy tất cả chúng sinh, được Phật giáo hoá, tất sẽ được lợi ích. Biết như vậy rồi, vui vẻ mỉm cười tâm tự thệ. Phát nguyện nhất định sẽ độ thoát họ.

 

Bồ Tát quán kiến quá khứ thế trung đồng hành Bồ Tát, nhiễm trước dư sự, bất đắc Phật Pháp quảng đại công đức; như thị tri dĩ, hoan hỷ vi tiếu tâm tự thệ.

Bồ Tát quán sát thấy trong đời quá khứ chư Bồ Tát đồng hành nhiễm trước việc khác nên chẳng được công đức quảng đại của Phật pháp. Nghĩ biết như vậy, Bồ Tát vui vẻ vi tiếu tâm tự thệ.

Giảng: 8. Bồ Tát quán thấy Bồ Tát cùng tu hành với nhau trong đời quá khứ, họ nhiễm trước những việc khác, chẳng đắc được Phật pháp công đức rộng lớn. Biết như vậy rồi, vui vẻ mỉm cười tâm tự thệ. Phát nguyện nhất định sẽ độ thoát họ.

 

Bồ Tát quán kiến quá khứ thế trung đồng cộng tập hội chư Thiên Nhân đẳng, chí kim do tại phàm phu chi địa, bất năng xả ly, diệc bất bì yếm; như thị tri dĩ, hoan hỷ vi tiếu tâm tự thệ.

Bồ Tát quán sát thấy trong đời quá khứ, hàng nhơn thiên cùng mình tập hội nay còn ở bực phàm phu, không xả ly được, cũng chẳng nhàm mỏi. Nghĩ biết như vậy, Bồ Tát vui vẻ vi tiếu tâm tự thệ.

Giảng: 9. Bồ Tát quán sát những người cùng nhau tụ hội trong đời quá khứ, chư Thiên và loài người, đến nay do ở tại địa vị phàm phu, không có tiến bộ, không chịu xả lìa, cũng không nhàm mỏi, ở trong sáu nẻo luân hồi, sinh rồi lại chết, chết rồi lại sinh, chuyển tới chuyển lui, không biết đang làm gì ? Bồ Tát biết như vậy rồi, vui vẻ mỉm cười tâm tự thệ. Phát nguyện nhất định sẽ độ thoát họ, khiến cho họ sớm thành Phật đạo

 

Bồ Tát nhĩ thời, vi nhất thiết Như Lai quang minh sở xúc, bội gia hân úy, hoan hỷ vi tiếu tâm tự thệ.

Bấy giờ Bồ Tát được quang minh của tất cả Như Lai chiếu đến càng thêm hân hoan, vui vẻ vi tiếu tâm tự thệ.

Giảng: 10. Lúc đó Bồ Tát được quang minh của tất cả Như Lai chiếu đến, càng thêm hân hoan, càng thêm vui vẻ mỉm cười tâm tự thệ.

 

Thị vi thập. Phật tử! Bồ Tát vi điều phục chúng sanh cố, như thị thị hiện

Đó là mười. Ðại Bồ Tát vì điều phục chúng sanh nên thị hiện như vậy.

Giảng: Ở trên là mười pháp vui vẻ tâm tự thệ của Bồ Tát.

Các vị đệ tử của Phật ! Bồ Tát vì điều phục tất cả chúng sinh, mà thị hiện đủ thứ cảnh giới như vậy.

 

====================================

Thập Sự Cố – Thị Hành Thất Bộ

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát dĩ thập sự cố, thị hành thất bộ. Hà đẳng vi thập? sở vị:

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười sự mà thị hiện đi bảy bước. Những gì là mười ? Đó là:

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát do mười việc, mà thị hiện đi bảy bước. Một tay chỉ trời, một tay chỉ đất, nói rằng : Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn. Đó là thị hiện cảnh giới lúc Bồ Tát sơ sinh. Những gì là mười ? Đó là :

 

Hiện Bồ Tát lực cố, thị hành thất bộ

Vì hiện Bồ Tát lực mà thị hiện đi bảy bước.

Giảng: 1. Vì hiện sức lực của Bồ Tát, mà thị hiện đi bảy bước.

 

Hiện thí thất tài cố, thị hành thất bộ

Vì hiện xả thí bảy Thánh tài mà thị hiện đi bảy bước.

Giảng: 2. Vì hiện bố thí bảy Thánh tài, mà thị hiện đi bảy bước.

Bảy Thánh tài là : a. Tín tài. b. Tấn tài. c. Giới tài. d. Tàm tài. e. Văn tài. f. Xả tài. g. Định tài.

 

Mãn địa thần nguyện cố, thị hành thất bộ

Vì cho địa thần thỏa nguyện nên thị hiện đi bảy bước.

Giảng: 3. Vì viên mãn nguyện của địa thần, mà thị hiện đi bảy bước.

 

Hiện siêu tam giới tướng cố, thị hành thất bộ

Vì hiện tướng siêu tam giới nên thị hiện đi bảy bước.

Giảng: 4. Vì hiện vượt khỏi cõi dục, cõi sắc, cõi vô sắc, ba cõi, mà thị hiện đi bảy bước.

 

Hiện Bồ Tát tối thắng hành siêu quá Tượng Vương, ngưu vương, Sư tử Vương hành cố, thị hành thất bộ

Vì hiện bước đi tối thắng của Bồ Tát hơn hẳn bước đi của tượng vương, ngưu vương, sư tử vương mà thị hiện đi bảy bước.

Giảng: 5. Vì hiện hạnh tối thù thắng của Bồ Tát, vượt qua hạnh voi chúa, trâu chúa, sư tử chúa, mà thị hiện đi bảy bước.

 

Hiện Kim cương địa tướng cố, thị hành thất bộ;

Vì hiện tướng Kim cang địa mà thị hiện đi bảy bước.

Giảng: 6. Vì hiện tướng bậc kim cang, mà thị hiện đi bảy bước.

 

Hiện dục dữ chúng sanh dũng mãnh lực cố, thị hành thất bộ

Vì hiện muốn ban cho chúng sanh sức dũng mãnh mà thị hiện đi bảy bước.

Giảng: 7. Vì hiện muốn ban cho chúng sinh sức dũng mãnh, mà thị hiện đi bảy bước.

 

Hiện tu hành thất giác bảo cố, thị hành thất bộ

Vì hiện tu hành thất giác bửu mà thị hiện đi bảy bước.

Giảng: 8. Vì hiện tu hành đạo bảy giác bảo, mà thị hiện đi bảy bước.

 

Hiện sở đắc Pháp bất do tha giáo cố, thị hành thất bộ

Vì hiện pháp đã được chẳng do người khác dạy nên thị hiện đi bảy bước.

Giảng: 9. Vì hiện đắc pháp không do người khác dạy, mà thị hiện đi bảy bước.

 

Hiện ư thế gian tối thắng vô bỉ cố, thị hành thất bộ.

Vì hiện là tối thắng vô tỷ ở thế gian nên thị hiện đi bảy bước.

Giảng: 10. Vì hiện nơi thế gian tối thắng không ai sánh bằng, mà thị hiện đi bảy bước.

 

Thị vi thập. Phật tử! Bồ Tát vi điều phục chúng sanh cố, như thị thị hiện.

Đó là mười. Ðại Bồ Tát vì điều phục chúng sanh nên thị hiện đi bảy bước như vậy.

Giảng: Đó là mười pháp đi bảy bước của Bồ Tát.

Các vị Phật tử ! Bồ Tát vì điều phục tất cả chúng sinh, nên mới thị hiện cảnh giới đi bảy bước như vậy.

 

=======================================

Thập Sự Cố, Hiện Xứ Đồng Tử Địa

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát dĩ thập sự cố, hiện xứ đồng tử địa. Hà đẳng vi thập? sở vị:

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát do mười sự mà hiện ở thân đồng tử. Những gì là mười ? Đó là:

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát do mười việc mà hiện thân đồng tử. Những gì là mười ? Đó là :

 

Vi hiện thông đạt nhất thiết thế gian văn tự, toán kế, đồ thư, ấn tỉ chủng chủng nghiệp cố, xứ đồng tử địa

Vì hiện thông đạt tất cả văn tự, toán số, đồ thơ, ấn tỷ, những nghề nghiệp thế gian, mà thị hiện ở thân đồng tử.

Giảng: 1. Vì hiện thông đạt tất cả văn tự, toán số, vẽ hoạ, thư ấn tỉ, v.v… đủ thứ nghề nghiệp thế gian, mà hiện thân đồng tử.

 

Vi hiện thông đạt nhất thiết thế gian tượng mã, xa thừa, hồ thỉ, kiếm kích chủng chủng nghiệp cố, xứ đồng tử địa

Vì hiện thông đạt tất cả những nghề nghiệp vũ thuật binh trận thế gian, mà thị hiện ở thân đồng tử.

Giảng: 2. Vì hiện thông đạt các thứ nghệ thuật, cỡi voi, cỡi ngựa, đánh xe, bắn cung, kiếm kích, mười tám thứ binh khí, đủ thứ võ thuật nghề nghiệp thế gian, mà hiện thân đồng tử.

 

Vi hiện thông đạt nhất thiết thế gian văn bút, đàm luận, bác dịch, hi hí chủng chủng sự cố, xứ đồng tử địa

Vì hiện thông đạt tất cả những văn bút, đàm luận, cờ nhạc thế gian, mà thị hiện ở thân đồng tử.

Giảng: 3. Vì hiện thông đạt tất cả văn bút, đàm luận, cờ nhạc, đủ thứ những việc thế gian, mà hiện thân đồng tử. Khi Phật còn lúc thân đồng tử, đầy đủ đại trí huệ và đại thần lực, văn võ song toàn, chẳng có gì mà không thông đạt, chẳng có gì mà không biết. Đối với các thứ nghệ thuật, nhất là võ thuật, không ai hơn Ngài được. Bắn cung thì đứng xa hàng trăm thước, bách phát bách trúng. Tóm lại, bất luận là văn hay võ, học một biết mười, hoặc không có thầy dạy mà tự thông, đó là bậc Thánh khi sinh ra đã biết.

 

Vi hiện viễn ly thân, ngữ, ý nghiệp chư quá thất cố, xứ đồng tử địa

Vì hiện xa lìa những lỗi lầm của ba nghiệp thân ngữ ý, mà thị hiện ở thân đồng tử.

Giảng: 4. Vì hiện xa lìa các lỗi lầm thân lời ý nghiệp, mà hiện thân đồng tử.

 

Vi hiện nhập định trụ Niết Bàn môn, chu biến thập phương vô lượng thế giới cố, xứ đồng tử địa

Vì hiện môn nhập định trụ Niết bàn khắp cùng mười phương vô lượng thế giới, mà thị hiện ở thân đồng tử.

Giảng: 5. Vì hiện nhập môn thiền định trụ Niết Bàn, khắp cùng mười phương vô lượng thế giới, mà hiện thân đồng tử.

 

Vi hiện kỳ lực siêu quá nhất thiết Thiên, long, dạ xoa, Càn thát bà, a tu La, Ca Lâu La, khẩn-na-la, Ma hầu la già, thích, phạm, hộ thế, nhân, phi nhân đẳng cố, xứ đồng tử địa

Vì hiện sức mạnh siêu quá tất cả Thiên, Long, Bát Boa, Ðế Thích, Phạm Vương, Hộ Thế, Nhơn, Phi Nhơn v.v… mà thị hiện ở thân đồng tử.

Giảng: 6. Vì hiện sức lực của mình hơn hẳn tất cả chư Thiên, Long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, Thích Đề Hoàn Nhơn, Đại Phạm Thiên Vương, Hộ Thế Tứ Thiên Vương, người, chẳng phải người, mà hiện thân đồng tử.

 

Vi hiện Bồ Tát sắc tướng uy quang siêu quá nhất thiết thích, phạm, hộ thế cố, xứ đồng tử địa

Vì hiện sắc tướng oai quang của Bồ Tát siêu quá tất cả Ðế Thích, Phạm Vương, Hộ Thế, mà thị hiện ở thân đồng tử.

Giảng: 7. Vì hiện Bồ Tát sắc tướng oai quang, hơn hẳn tất cả Thích Đề Hoàn Nhơn, Đại Phạm Thiên Vương, Hộ Thế Tứ Thiên Vương, mà hiện thân đồng tử.

 

Vi lệnh đam trước dục lạc chúng sanh hoan thiện lạc Pháp cố, xứ đồng tử địa

Vì làm cho những chúng sanh tham đắm nơi dục lạc mến thích pháp lạ, mà thị hiện ở thân đồng tử.

Giảng: 8. Vì khiến cho chúng sinh tham đắm dục lạc, đổi thành hoan hỉ pháp lạc, mà hiện thân đồng tử.

 

Vi tôn trọng chánh pháp, cần cúng dường Phật, chu biến thập phương nhất thiết thế giới cố, xứ đồng tử địa

Vì tôn trọng chánh pháp siêng cúng dường Phật cùng khắp tất cả thế giới mười phương, mà hiện ở thân đồng tử.

Giảng: 9. Vì tôn trọng chánh pháp, siêng cúng dường tất cả chư Phật, khắp cùng mười phương tất cả thế giới, mà hiện thân đồng tử.

 

Vi hiện đắc Phật gia bị mông pháp quang minh cố, xứ đồng tử địa.

Vì hiện được đức Phật gia bị, được pháp quang minh mà thị hiện ở thân đồng tử.

Giảng: 10. Vì hiện được Phật gia bị, được pháp quang minh chiếu khắp, mà hiện thân đồng tử.

 

Thị vi thập.

Đó là mười

Giảng: Đó là mười cảnh giới hiện thân đồng tử của Bồ Tát.

 

=======================================

Thập Sự Cố Hiện Xứ Vương Cung

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hiện đồng tử địa dĩ, dĩ thập sự cố hiện xứ vương cung. Hà đẳng vi thập? sở vị:

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát thị hiện ở thân đồng tử rồi, do mười sự mà thị hiện ở Vương cung. Những gì là mười ? Đó là:

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Khi đại Bồ Tát hiện thân đồng tử rồi, do mười việc mà hiện ở cung vua. Những gì là mười ? Đó là :

 

Vi lệnh tú thế đồng hành chúng sanh thiện căn thành thục cố, hiện xứ vương cung

Vì làm cho những chúng sanh đồng tu hành từ đời trước được thiện căn thành thục mà thị hiện ở Vương cung.

Giảng: 1. Vì khiến cho căn lành của chúng sinh cùng tu hành với mình trong đời quá khứ thành thục, mà hiện ở cung vua.

 

Vi hiển thị Bồ Tát thiện căn lực cố, hiện xứ vương cung

Vì hiển thị sức thiện căn của Bồ Tát, mà thị hiện ở Vương cung.

Giảng: 2. Vì hiển bày sức căn lành của Bồ Tát, mà hiện ở cung vua.

 

Vi chư nhân, Thiên đam trước lạc cụ, thị hiện Bồ Tát đại uy đức lạc cụ cố, hiện xứ vương cung;

Vì những người, trời tham đắm nơi đồ vui thích, nên hiển hiện đồ vui thích đại oai đức của Bồ Tát, mà thị hiện ở Vương cung.

Giảng: 3. Vì chư Thiên và người ở nhân gian, tham đắm đồ vui thích, chẳng biết tu hành, mới thị hiện đồ vui thích đại oai đức của Bồ Tát, mà hiện ở cung vua.

 

Vi thuận ngũ trược thế chúng sanh tâm cố, hiện xứ vương cung

Vì thuận tâm chúng sanh đời ngũ trược mà thị hiện ở Vương cung.

Giảng: 4. Vì thuận theo tâm của tất cả chúng sinh đời năm trược (Kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sinh trược, mạng trược) mà hiện ở cung vua.

 

Vi hiện Bồ Tát đại uy đức lực năng ư thâm cung nhập tam muội cố, hiện xứ vương cung

Vì hiện sức đại oai đức của Bồ Tát có thể ở thâm cung nhập tam muội, mà thị hiện ở Vương cung.

Giảng: 5. Vì hiện sức đại oai đức của Bồ Tát, có thể nơi thâm cung nhập tam muội, mà hiện ở cung vua.

 

Vi lệnh tú thế đồng nguyện chúng sanh mãn kỳ ý cố, hiện xứ vương cung

Vì làm cho chúng sanh đồng nguyện ở đời trước thỏa mãn ý niệm, mà thị hiện ở Vương cung.

Giảng: 6. Vì khiến cho chúng sinh đồng phát nguyện đời trước, viên mãn ý nguyện của họ, mà hiện ở cung vua.

 

Dục lệnh phụ mẫu, thân thích, quyến thuộc mãn sở nguyện cố, hiện xứ vương cung

Vì muốn khiến cho cha mẹ thân bằng quyến thuộc viên mãn sở nguyện, mà hiện ở cung vua.

Giảng: 7. Vì muốn khiến cho cha mẹ và thân bằng quyến thuộc, viên mãn sở nguyện của họ, mà hiện ở cung vua.

 

Dục dĩ kĩ nhạc xuất diệu pháp âm cúng dường nhất thiết chư Như Lai cố, hiện xứ vương cung

Vì muốn dùng kỹ nhạc phát ra tiếng diệu pháp cúng dường tất cả chư Phật Như Lai, mà thị hiện ở Vương cung.

Giảng: 8. Vì muốn dùng đủ thứ kỹ nhạc, vang ra diệu âm thanh, cúng dường tất cả các Như Lai, mà hiện ở cung vua.

 

Dục ư cung nội trụ vi diệu tam muội, thủy tòng thành Phật nãi chí Niết-Bàn giai thị hiện cố, hiện xứ vương cung

Vì muốn ở tại trong cung trụ tam muội vi diệu, ban đầu từ thành Phật nhẫn đến Niết bàn đều hiển bày mà thị hiện ở Vương cung.

Giảng: 9. Vì muốn ở nội cung trụ tam muội vi diệu, ban đầu từ thành Phật, cho đến Niết Bàn, đều thị hiện cảnh giới đó, mà hiện ở cung vua.

 

Vi tùy thuận thủ hộ chư Phật Pháp cố, hiện xứ vương cung.

Vì tùy thuận thủ hộ Phật pháp mà thị hiện ở Vương Cung.

Giảng: 10. Vì tuỳ thuận giữ gìn pháp của chư Phật nói, mà hiện ở cung vua.

 

Thị vi thập. Tối hậu thân Bồ Tát như thị thị hiện xứ vương cung dĩ, nhiên hậu xuất gia.

Đó là mười. Tối hậu thân Bồ Tát thị hiện ở Vương Cung như vậy rồi, sau đó mới xuất gia.

Giảng: Đó là mười cảnh giới thị hiện ở cung vua của Bồ Tát. Thân Bồ Tát cuối cùng thị hiện ở cung vua như vậy rồi, sau đó thị hiện cảnh giới xuất gia.

 

=======================================

Thập Sự Cố, Thị Hiện Xuất Gia

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát dĩ thập sự cố, thị hiện xuất gia. Hà đẳng vi thập? sở vị:

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát do mười sự mà thị hiện xuất gia. Những gì là mười ? Đó là:

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát do mười việc, mà thị hiện xuất gia. Những gì là mười ? Đó là :

 

Vi yếm cư gia cố, thị hiện xuất gia

Vì nhàm ở tại gia, mà thị hiện xuất gia.

Giảng: 1. Vì chán ở nhà, mà thị hiện xuất gia.

 

Vi trước gia chúng sanh lệnh xả ly cố, thị hiện xuất gia

Vì chúng sanh tham đắm tại gia, mà thị hiện xuất gia.

Giảng: 2. Vì chúng sinh chấp trước nhà, khiến cho họ xả lìa nhà sinh tử, nhà phiền não, nhà ba cõi, mà thị hiện xuất gia.

 

Vi tùy thuận tín lạc Thánh nhân đạo cố, thị hiện xuất gia

Vì tùy thuận tin mến đạo Thánh nhơn, mà thị hiện xuất gia.

Giảng: 3. Vì tuỳ thuận tin ưa đạo Thánh nhân, mà thị hiện xuất gia.

 

Vi tuyên dương tán thán xuất gia công đức cố, thị hiện xuất gia

Vì tuyên dương tán thán công đức xuất gia, mà thị hiện xuất gia.

Giảng: 4. Vì tuyên dương tán thán công đức xuất gia vô lượng, mà thị hiện xuất gia.

 

Vi hiển vĩnh ly nhị biên kiến cố, thị hiện xuất gia

Vì hiển bày lìa hẳn kiến chấp nhị biên, mà thị hiện xuất gia.

Giảng: 5. Vì hiển bày vĩnh viễn lìa cái thấy hai bên có, không, mà thị hiện xuất gia.

 

Vi lệnh chúng sanh ly dục lạc, ngã lạc cố, thị hiện xuất gia

Vì làm cho chúng sanh lìa dục lạc và ngã lạc, mà thị hiện xuất gia.

Giảng: 6. Vì khiến cho tất cả chúng sinh lìa dục lạc và ngã lạc, mà thị hiện xuất gia.

 

Vi tiên hiện xuất tam giới tướng cố, thị hiện xuất gia

Vì trước hiện tướng xuất tam giới, mà thị hiện xuất gia.

Giảng: 7. Vì trước hiện tướng thoát khỏi ba cõi, mà thị hiện xuất gia.

 

Vi hiện tự tại bất chúc tha cố, thị hiện xuất gia

Vì hiện tự tại chẳng hệ thuộc người khác, mà thị hiện xuất gia.

Giảng: 8. Vì hiện tự tại chẳng lệ thuộc người khác, mà thị hiện xuất gia.

 

Vi hiển đương đắc Như Lai thập lực, vô úy Pháp cố, thị hiện xuất gia

Vì hiển bày sẽ được Thập lực vô úy của đức Như Lai, mà thị hiện xuất gia.

Giảng: 9. Vì hiển bày sẽ đắc được pháp mười lực và bốn vô uý của Như Lai, mà thị hiện xuất gia.

 

Tối hậu Bồ Tát Pháp ưng nhĩ cố, thị hiện xuất gia.

Vì tối hậu thân Bồ Tát pháp phải như vậy, mà thị hiện xuất gia.

Giảng: 10. Vì thân cuối cùng của Bồ Tát pháp phải như vậy, mà thị hiện xuất gia

 

Thị vi thập. Bồ Tát dĩ thử điều phục chúng sanh.

Đó là mười. Ðại Bồ Tát dùng pháp xuất gia này mà điều phục chúng sanh.

Giảng: Đó là mười cảnh giới thị hiện xuất gian. Bồ Tát dùng mười thứ cảnh giới nầy, mà điều phục tất cả chúng sinh.

 

=======================================

Thập Chủng Sự Cố, Thị Hành Khổ Hạnh

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát vi thập chủng sự cố, thị hành khổ hạnh. Hà đẳng vi thập? sở vị:

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát vì mười sự mà thị hiện khổ hạnh. Những gì là mười ? Đó là:

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát do mười việc, mà thị hiện tu khổ hạnh. Những gì là mười ? Đó là :

 

Vi thành tựu liệt giải chúng sanh cố, thị hành khổ hạnh

Vì thành tựu những chúng sanh có trình độ hiểu biết kém ít, mà thị hiện khổ hạnh.

Giảng: 1. Vì thành tựu chúng sinh kém hiểu biết, mà thị hiện tu khổ hạnh.

 

Vi bạt tà kiến chúng sanh cố, thị hành khổ hạnh

Vì trừ tà kiến của chúng sanh, mà thị hiện khổ hạnh.

Giảng: 2. Vì diệt trừ chúng sinh tà kiến, mà thị hiện tu khổ hạnh.

 

Vi ất tín nghiệp báo chúng sanh lệnh kiến nghiệp báo cố, thị hành khổ hạnh

Vì những chúng sanh chẳng tin nghiệp báo làm cho họ thấy nghiệp báo, mà thị hiện khổ hạnh.

Giảng: 3. Vì chúng sinh chẳng tin nghiệp báo, khiến cho họ thấy được cảnh giới nghiệp báo, mà thị hiện tu khổ hạnh.

 

Vi tùy thuận tạp nhiễm thế giới Pháp ưng nhĩ cố, thị hành khổ hạnh

Vì tùy thuận pháp phải có của thế giới tạp nhiễm, mà thị hiện khổ hạnh.

Giảng: 4. Vì tuỳ thuận thế giới tạp nhiễm, pháp phải như vậy, mà thị hiện tu khổ hạnh.

 

Thị năng nhẫn Cồ lao cần tu đạo cố, thị hành khổ hạnh

Vì hiện có thể nhẫn chịu khổ nhọc để siêng tu đạo pháp; mà thị hiện khổ hạnh.

Giảng: 5. Vì thị hiện nhẫn chịu được mọi khổ nhọc, siêng tu tất cả Thánh đạo, mà thị hiện tu khổ hạnh.

 

Vi lệnh chúng sanh lạc cầu Pháp cố, thị hành khổ hạnh

Vì làm cho chúng sanh thích cầu pháp, mà thị hiện khổ hạnh.

Giảng: 6. Vì khiến cho tất cả chúng sinh thích cầu pháp, mà thị hiện tu khổ hạnh.

 

Vi trước dục lạc, ngã lạc chúng sanh cố, thị hành khổ hạnh

Vì những chúng sanh say đắm dục lạc ngã lạc, mà thị hiện khổ hạnh.

Giảng: 7. Vì chúng sinh tham đắm năm dục lạc và ngã lạc, mà thị hiện tu khổ hạnh.

 

Vi hiển Bồ Tát khởi hạnh thù thắng, nãi chí tối hậu sanh do bất xả cần tinh tấn cố, thị hành khổ hạnh

Vì hiển bày Bồ Tát khởi hạnh thù thắng, nhẫn đến đời tối hậu còn chẳng bỏ siêng năng tinh tấn mà thị hiện khổ hạnh.

Giảng: 8. Vì hiển bày Bồ Tát khởi hạnh thù thắng, cho đến đời cuối cùng, vẫn không bỏ sự siêng năng tinh tấn, mà thị hiện tu khổ hạnh.

 

Vi lệnh chúng sanh lạc tịch tĩnh pháp, tăng trưởng thiện căn cố, thị hành khổ hạnh

Vì làm cho chúng sanh thích pháp tịch tịnh tăng trưởng thiện căn, mà thị hiện khổ hạnh.

Giảng: 9. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, ưa thích pháp tịch tĩnh, tăng trưởng tất cả căn lành, mà thị hiện tu khổ hạnh.

 

Vi chư Thiên, thế nhân chư căn vị thục, đãi thời thành thục cố, thị hành khổ hạnh.

Vì chư Thiên và thế nhơn căn tánh chưa thành thục chờ thời gian để được thành thục, mà thị hiện khổ hạnh.

Giảng: 10. Vì chư Thiên và người đời các căn chưa thành thục, đợi lúc thành thục, mà thị hiện tu khổ hạnh.

 

Thị vi thập. Bồ Tát dĩ thử phương tiện điều phục nhất thiết chúng sanh.

Ðại Bồ Tát dùng phương tiện khổ hạnh này để điều phục chúng sanh.

Giảng: Đó là mười cảnh giới thị hiện tu khổ hạnh. Bồ Tát dùng mười pháp phương tiện tu khổ hạnh nầy, để điều phục tất cả chúng sinh.

Bí quyết của người tu hành là ăn ít. Tại sao vậy ? Vì ăn ít thì sinh dục niệm ít. Ít dục thì biết đủ, biết đủ thì thường an lạc, thường an lạc thì chẳng có phiền não. Chẳng có phiền não thì sinh bồ đề, sinh bồ đề thì đắc được giải thoát, đắc được giải thoát thì nhậm vận tự tại. Sinh tử tự tại, thì trí huệ tự tại. Tóm lại, tất cả đều tự tại, đó là con đường người tu hành phải đi qua.

Người tu hành phải nhẫn nại, bất cứ cảnh giới gì đến khảo nghiệm, đều phải dùng tâm nhẫn nại để chịu đựng, để vượt qua gian nan thử thách, hết gió thì sóng lặng, tự nhiên được an bình. Lúc làm việc, dù không muốn làm cũng nhẫn nại đi làm. Lâu dần, tập quán thành tự nhiên. Tóm lại, bất cứ làm việc gì, đều phải tâm an lý đắc mà làm, đừng có tâm lý lười biếng, hoặc trốn tránh công việc. Nếu có tư tưởng Một ngày làm hoà thượng, một ngày đánh chuông, thì đó là trái ngược lại với đạo. Nói thẳng ra là nương Phật mặc y, dựa vào Phật kiếm cơm ăn.

Tôi một đời dùng hai chữ Nhẫn nại làm kim châm tu hành, bất cứ gặp hoàn cảnh nào, cũng tuyệt đối không đầu hàng, tất cả đều nhẫn thọ nơi thân tâm. Khi tôi còn ở tại Đông Bắc Trung Quốc, có thể chịu đựng nóng lạnh. Vào những tháng mùa đông lạnh nhất, tôi không mang tất, đi chân không đi trên băng tuyết, chân lạnh cấn rất đau buốt, tôi cũng chịu đựng, khi chịu đựng thì không còn đau nữa.

Còn vào mùa nóng nực, thì nóng nực không thể tả, làm cho con người xây xẩm mặt mày, mắt hoa lên. Khi đi đường thì chịu không thấu, trước mặt toàn là màu đen. Nếu người bình thường, thì bị nóng thiêu đốt khó mà chịu được, nhưng tôi nhận rằng không có gì hết, ngồi xuống để nghỉ ngơi một chút là khoẻ lại. Tôi dùng hai chữ nhẫn nại làm pháp bảo, để khắc phục tất cả mọi khó khăn, chịu nóng chịu lạnh, chịu gió chịu mưa, chịu đói chịu khát, tất cả đều nhẫn chịu được, tuyệt đối không giơ cờ trắng đầu hàng.

Khi tôi xuất gia rồi, chuyên tu pháp môn nhẫn nhục, nếu có ai chửi tôi, thì tôi nghe như không nghe, hoặc tôi coi như nghe ca hát, tự nhiên bình an vô sự. Nếu có ai đánh tôi, thì tôi tuyệt đối không đánh lại, dùng thái độ tâm bình khí hoà để tiếp nhận. Còn phải nhẫn thọ lễ công phu sáng, lúc sáng sớm tinh mơ, chưa có tiếng động gì, thì lập tức thức dậy, rửa mặt súc miệng, lên chánh điện trước đứng chờ. Mỗi lần như vậy đều đến sớm mười lăm phút, chẳng có lần nào đến trễ.

Từ khi tôi xuất gia cho đến bây giờ, đều dùng nhẫn nại để hành sự. Khi tôi ra bên ngoài tham học, bất cứ khoá lễ sáng tối, hoặc giảng kinh thuyết pháp, hoặc nghe kinh nghe pháp, lên chánh điện, hay quá đường, không khi nào trễ một phút, đều đến trước giờ. Đó là tình hình quá khứ của tôi, hôm nay nói cho mọi người biết, đó là tôi hiện thân thuyết pháp vậy.

Muốn chân thật tu hành, thì không thể nào lười biếng, làm việc thì phải đi trước. Không thể không có tâm nhẫn nại, phải nhẫn nại chịu đựng được tất cả mọi việc, đó là kim chỉ nam của người tu hành. Nhất là thời kỳ học tập, càng phải chịu đựng. Nhất là lúc không thể chịu đựng được, cũng phải chịu đựng. Do đó có câu :

Nhẫn một chút sóng yên gió lặng

Lùi một bước biển rộng trời xanh.

Không thể tuỳ tiện nổi nóng, phải biết rằng lửa vô minh có thể thiêu đốt rừng công đức. Đó là danh ngôn chí lý, cũng là nói về kinh nghiệm, nên nhớ ! Nên nhớ ! Hãy cẩn thận đừng có động lửa trong gan.

Các vị ! Không thể tuỳ tiện nổi nóng, cảm thấy như vầy là không đúng, như thế kia cũng không đúng, nhìn cái gì cũng không vừa mắt, sự việc trên thế gian đều không như ý của mình, nhưng hãy lùi một bước nghĩ, nhẫn, nhẫn, một nhẫn vạn sự đều xong, phiền não gì cũng không có.

Chúng ta người tu hành, tất cả đều phải tu cách chân thật, không thể giải đãi, không thể phóng dật, phải giữ gìn quy cụ của đạo tràng. Chẳng phải nói ngày ngày đến nghe kinh đều đều, còn đối với những việc khác thì lơ là, tư tưởng như thế cũng không được. Hoặc là giờ cúng ngọ, khoá lễ sáng, hoặc pháp hội, đều phải đến chánh điện trước đứng chờ. Tương lai đắc được quả báo mới được viên mãn. Bằng không, đến trễ như thế, thì tương lai sẽ mật đi cơ hội khai ngộ. Phàm là làm việc gì, đều đến trễ một bước, thì công đức đắc được, cũng sẽ không được viên mãn.

Chúng ta người tu hành, đừng tự mình giảng đạo lý cho chính mình, tự mình làm luật sư biện hộ cho chính mình. Do đó có câu : Nhân nào thì quả đó. Trồng nhân lành thì được quả lành, trồng nhân ác thì được quả ác, đó là định luật thiên kinh địa nghĩa. Nếu trồng nhân viên mãn, thì sẽ kết quả viên mãn, trồng nhân một nửa, thì kết quả một nửa. Điểm nầy, phải thật sự hiểu rõ, không thể để gió thoảng qua tai.

=======================================

Thập Chủng Sự – Vãng Nghệ Đạo Tràng

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát vãng nghệ đạo tràng hữu thập chủng sự. Hà đẳng vi thập? sở vị:

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát đi đến Bồ đề đạo tràng có mười sự. Những gì là mười ? Đó là:

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát đi đến Đạo Tràng có mười việc. Những gì là mười ? Đó là :

 

Nghệ đạo tràng thời, chiếu diệu nhất thiết thế giới

Lúc đến đạo tràng, chiếu sáng tất cả thế giới mười phương.

Giảng: 1. Khi đi đến Đạo Tràng, thì phóng quang chiếu sáng khắp tất cả thế giới.

 

Nghệ đạo tràng thời, chấn động nhất thiết thế giới

Lúc đến đạo tràng, chấn động tất cả thế giới mười phương.

Giảng: 2. Khi đi đến Đạo Tràng, thì chấn động tất cả thế giới, có mười tám hiện tượng chấn động.

 

Nghệ đạo tràng thời, ư nhất thiết thế giới phổ hiện kỳ thân

Lúc đến đạo tràng, hiện thân khắp tất cả thế giới mười phương.

Giảng: 3. Khi đi đến Đạo Tràng, thì trong tất cả thế giới đều khắp hiện thân Ngài.

 

Nghệ đạo tràng thời, giác ngộ nhất thiết Bồ Tát cập nhất thiết tú thế đồng hành chúng sanh

Lúc đến đạo tràng, giác ngộ tất cả Bồ Tát và tất cả chúng sanh đồng hành ở đời trước.

Giảng: 4. Khi đến Đạo Tràng, thì giác ngộ tất cả Bồ Tát và tất cả chúng sinh đồng hành trong quá khứ.

 

Nghệ đạo tràng thời, thị hiện đạo tràng nhất thiết trang nghiêm

Lúc đến đạo tràng, thị hiện tất cả sự trang nghiêm nơi đạo tràng.

Giảng: 5. Khi đi đến Đạo Tràng, thì thị hiện Đạo Tràng tất cả đều trang nghiêm.

 

Nghệ đạo tràng thời, tùy chư chúng sanh tâm chi sở dục, nhi vi hiện thân chủng chủng uy nghi, cập Bồ-đề thụ nhất thiết trang nghiêm

Lúc đến đạo tràng, tùy tâm sở thích của các chúng sanh mà vì họ hiện những oai nghi nơi thân và tất cả sự trang nghiêm nơi cây Bồ đề.

Giảng: 6. Khi đến Đạo Tràng, thì tuỳ sở thích của chúng sinh mà vì họ hiện thân thuyết pháp, có đủ thứ oai nghi, và cây bồ đề tất cả đều trang nghiêm.

 

Nghệ đạo tràng thời, hiện kiến thập phương nhất thiết Như Lai

Lúc đến đạo tràng, thị hiện thấy tất cả Như Lai mười phương.

Giảng: 7. Khi đi đến Đạo Tràng, thì hiện thấy mười phương tất cả Như Lai.

 

Nghệ đạo tràng thời, cử túc, hạ túc thường nhập tam muội, niệm niệm thành Phật vô hữu siêu cách

Lúc đến đạo tràng, cất chân hạ chân thường nhập tam muội, niệm niệm thành Phật không có vượt cách.

Giảng: 8. Khi đi đến Đạo Tràng, thì dở chân hạ chân, thường nhập tam muội, niệm niệm thành Phật đạo, không có vượt cách.

 

Nghệ đạo tràng thời, nhất thiết Thiên, long, dạ xoa, Càn thát bà, A-tu-la, Ca Lâu La, khẩn-na-la, Ma hầu la già, thích, phạm, hộ thế nhất thiết chư Vương các bất tướng tri, nhi hưng chủng chủng thượng diệu cúng dường

Lúc đến đạo tràng, tất cả Thiên, Long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, Ðế Thích, Phạm Vương, Hộ Thế Tứ Thiên Vương, đều sắm dưng những đồ cúng dường thượng diệu lên đại Bồ Tát mà chẳng biết nhau.

Giảng: 9. Khi đến Đạo Tràng, thì tất cả chư Thiên, Long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, Thích Đề Hoàn Nhân, Đại Phạm Thiên Vương, Hộ Thế Tứ Thiên Vương, tất cả các vị vua, họ đều không biết nhau, mà đều dâng lên đủ thứ đồ cúng dường thượng diệu cúng dường Phật.

 

Nghệ đạo tràng thời, dĩ vô ngại trí, phổ quán nhất thiết chư Phật Như Lai ư nhất thiết thế giới tu Bồ Tát hạnh nhi thành chánh giác.

Lúc đến đạo tràng, dùng trí vô ngại quán sát khắp tất cả chư Phật Như Lai, nơi tất cả thế giới tu hạnh Bồ Tát mà thành Ðẳng Chánh Gíac.

Giảng: 10. Khi đến Đạo Tràng, thì dùng mắt trí huệ vô ngại, quán khắp tất cả các Như Lai, trong tất cả thế giới tu Bồ Tát hạnh mà thành Chánh Giác.

 

Thị vi thập. Bồ Tát dĩ thử giáo hóa chúng sanh.

Ðại Bồ Tát dùng mười sự đến đạo tràng này để giáo hóa chúng sanh.

Giảng: Đó là mười cảnh giới Bồ Tát đi đến Đạo Tràng. Bồ Tát dùng những cảnh giới nầy, để giáo hoá tất cả chúng sinh.

 

=======================================

Thập Chủng Sự – Tọa Đạo Tràng

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát tọa đạo tràng hữu thập chủng sự. Hà đẳng vi thập? sở vị:

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát ngồi đạo tràng có mười sự. Những gì là mười ? Đó là:

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát ngồi đạo tràng, có mười việc. Những gì là mười ? Đó là :

 

Tọa đạo tràng thời, chủng chủng chấn động nhất thiết thế giới

Lúc ngồi đạo tràng, chấn động tất cả thế giới mười phương.

Giảng: 1. Khi ngồi đạo tràng, thì có đủ thứ sự chấn động tất cả thế giới.

 

Tọa đạo tràng thời, bình đẳng chiếu diệu nhất thiết thế giới

Lúc ngồi đạo tràng, bình đẳng chiếu sánh tất cả thế giới mười phương.

Giảng: 2. Khi ngồi đạo tràng, thì phóng đại quang minh, bình đẳng chiếu sáng tất cả thế giới.

 

Tọa đạo tràng thời, trừ diệt nhất thiết chư ác thú khổ

Lúc ngồi đạo tràng, trừ diệt tất cả khổ các ác đạo.

Giảng: 3. Khi ngồi đạo tràng, thì diệt trừ khổ tất cả cõi ác.

 

Tọa đạo tràng thời, lệnh nhất thiết thế giới Kim cương sở thành

Lúc ngồi đạo tràng, làm cho tất cả thế giới kim cang hiệp thành.

Giảng: 4. Khi ngồi đạo tràng, thì khiến cho tất cả thế giới kim cang sở thành.

 

Tọa đạo tràng thời, phổ quán nhất thiết chư Phật Như Lai sư tử chi tọa

Lúc ngồi đạo tràng, hiện khắp tất cả tòa sư tử của chư Phật Như Lai.

Giảng: 5. Khi ngồi đạo tràng, thì quán khắp toà sư tử của tất cả chư Phật Như Lai.

 

Tọa đạo tràng thời, tâm như hư không, vô sở phân biệt

Lúc ngồi đạo tràng, tâm vô phân biệt như hư không.

Giảng: 6. Khi ngồi đạo tràng, thì tâm như hư không chẳng có sự phân biệt.

 

Tọa đạo tràng thời, tùy kỳ sở ưng, hiện thân uy nghi

Lúc ngồi đạo tràng, tùy theo sở nghi mà hiện oai nghi nơi thân.

Giảng: 7. Khi ngồi đạo tràng, thì tuỳ theo chúng sinh, đáng hiện thân đủ thứ oai nghi.

 

Tọa đạo tràng thời, tùy thuận an trụ Kim Cương tam muội

Lúc ngồi đạo tràng, tùy thuận an trụ Kim cang tam muội.

Giảng: 8. Khi ngồi đạo tràng, thì tuỳ thuận an trụ trong kim cang tam muội.

 

Tọa đạo tràng thời, thọ nhất thiết Như Lai thần lực sở trì thanh tịnh diệu xứ

Lúc ngồi đạo tràng, thọ diệu xứ thanh tịnh của tất cả Như Lai thần lực gia trì.

Giảng: 9. Khi ngồi đạo tràng, thì thọ thần lực gia trì thanh tịnh diệu xứ của tất cả Như Lai.

 

Tọa đạo tràng thời, tự thiện căn lực tất năng gia bị nhất thiết chúng sanh.

Lúc ngồi đạo tràng, sức thiện căn của mình có thể gia bị tất cả chúng sanh.

Giảng: 10. Khi ngồi đạo tràng, thì Phật dùng sức căn lành của mình đều gia bị cho tất cả chúng sinh.

 

Thị vi thập.

Đó là mười

Giảng: Đó là mười cảnh giới ngồi đạo tràng của Bồ Tát.

=======================================

 

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát tọa đạo tràng thời, hữu thập chủng kì đặc vị tằng hữu sự. Hà đẳng vi thập?

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười sự kỳ đặc vị tằng hữu. Những gì là mười ?

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát khi ngồi đạo tràng, thì có mười việc kỳ đặc chưa từng có. Những gì là mười ?

 

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát tọa đạo tràng thời, thập phương thế giới nhất thiết Như Lai giai hiện kỳ tiền, hàm cử hữu thủ nhi xưng tán ngôn: Thiện tai thiện tai! vô thượng Đạo sư! Thị vi đệ nhất vị tằng hữu sự.

Ðại Bồ Tát lúc ngồi đạo tràng, tất cả đức Như Lai trong mười phương thế giới đều hiện ra trước đồng giơ tay khen ngợi rằng: Lành thay ! Lành thay ! Ðấng vô thượng Ðạo Sư. Ðây là sự kỳ đặc vị tằng hữu thứ nhứt.

Giảng: 1. Phật tử ! Đại Bồ Tát khi ngồi đạo tràng, thì tất cả Như Lai mười phương thế giới, đều hiện ra ở trước. Đều cùng dơ tay phải mà khen ngợi rằng : Lành thay ! Lành thay ! Vô thượng Đạo sư. Đó là việc chưa từng có thứ nhất.

 

Bồ-Tát Ma-ha-tát tọa đạo tràng thời, nhất thiết Như Lai giai tất hộ niệm, dữ kỳ uy lực, Thị vi đệ nhị vị tằng hữu sự.

Ðại Bồ Tát lúc ngồi đạo tràng, tất cả đức Như Lai thảy đều hộ niệm ban cho oai lực. Ðây là sự kỳ đặc vị tằng hữu thứ hai.

Giảng: 2. Đại Bồ Tát khi ngồi đạo tràng, thì tất cả Như Lai mười phương đều đến hộ niệm, ban cho Bồ Tát đại oai thần lực. Đó là việc chưa từng có thứ hai.

 

Bồ-Tát Ma-ha-tát tọa đạo tràng thời, tú thế đồng hành chư Bồ-tát chúng tất lai vi nhiễu, dĩ chủng chủng trang nghiêm cụ cung kính cúng dường, thị vi đệ tam vị tằng hữu sự.

Ðại Bồ Tát lúc ngồi đạo tràng, chúng Bồ Tát đồng hành đời trước đều đến vây quanh cung kính cúng dường những vật trang nghiêm. Ðây là sự kỳ đặc vị tằng hữu thứ ba.

Giảng: 3. Đại Bồ Tát khi ngồi đạo tràng, thì các chúng Bồ Tát đồng tu đời quá khứ, đều đến vây quanh, đem đủ thứ đồ trang nghiêm, cung kính cúng dường. Đó là việc chưa từng có thứ ba.

 

Bồ-Tát Ma-ha-tát tọa đạo tràng thời, nhất thiết thế giới thảo mộc, tùng lâm chư vô tình vật, giai khúc thân đê ảnh, quy hướng đạo tràng, thị vi đệ tứ vị tằng hữu sự.

Ðại Bồ Tát lúc ngồi đạo tràng, những loài vô tình như cỏ cây rừng lùm trong tất cả thế giới đều cong thân thấp bóng nghiêng hướng về phía đạo tràng. Ðây là sự kỳ đặc vị tằng hữu thứ tư.

Giảng: 4. Đại Bồ Tát khi ngồi đạo tràng, thì cỏ cây lùm rừng trong tất cả thế giới, các vật vô tình, đều khom mình thấp bóng, hướng về đạo tràng. Đó là việc chưa từng có thứ tư.

 

Bồ-Tát Ma-ha-tát tọa đạo tràng thời, nhập tam muội, danh: quan sát Pháp giới, thử tam muội lực năng lệnh Bồ Tát nhất thiết chư hạnh tất đắc viên mãn, thị vi đệ ngũ vị tằng hữu sự.

Ðại Bồ Tát lúc ngồi đạo tràng, nhập tam muội tên quán sát pháp giới. Sức tam muội này có thể làm cho Bồ Tát tất cả công hạnh đều được viên mãn. Ðây là sự kỳ đặc vị tằng hữu thứ năm.

Giảng: 5. Đại Bồ Tát khi ngồi đạo tràng, thì nhập tam muội tên là Quán sát pháp giới. Sức tam muội đó, hay khiến cho tất cả các hạnh của Bồ Tát tu, đều được viên mãn. Đó là việc chưa từng có thứ năm.

 

Bồ-Tát Ma-ha-tát tọa đạo tràng thời, đắc Đà-la-ni, danh: tối thượng ly cấu diệu quang hải tạng, năng thọ nhất thiết chư Phật Như Lai đại vân Pháp vũ, thị vi đệ lục vị tằng hữu sự.

Ðại Bồ Tát lúc ngồi đạo tràng, được đà la ni tên là tối thượng ly cấu diệu quang hải tạng, có thể lãnh thọ đại vân pháp vũ của tất cả chư Phật Như Lai. Ðây là sự kỳ đặc vị tằng hữu thứ sáu.

Giảng: 6. Đại Bồ Tát khi ngồi đạo tràng, thì đắc được pháp Đà La Ni, tên là Tối thượng ly cấu diệu quang hải tạng, hay thọ trì mây lớn mưa pháp của tất cả chư Phật Như Lai. Đó là việc chưa từng có thứ sáu.

 

Bồ-Tát Ma-ha-tát tọa đạo tràng thời, dĩ uy đức lực hưng thượng diệu cung cụ, biến nhất thiết thế giới cúng dường chư Phật, thị vi đệ thất vị tằng hữu sự.

Ðại Bồ Tát lúc ngồi đạo tràng, dùng sức oai đức hiện đồ cúng thượng diệu đến khắp tất cả thế giới cúng dường chư Phật. Ðây là sự kỳ đặc vị tằng hữu thứ bảy.

Giảng: 7. Đại Bồ Tát khi ngồi đạo tràng, thì dùng sức đại oai đức, hiện ra đồ cúng dường thượng diệu, cúng dường khắp chư Phật trong tất cả thế giới. Đó là việc chưa từng có thứ bảy.

 

Bồ-Tát Ma-ha-tát tọa đạo tràng thời, trụ tối thắng trí, tất hiện liễu tri nhất thiết chúng sanh chư căn ý hành, thị vi đệ bát vị tằng hữu sự.

Ðại Bồ Tát lúc ngồi đạo tràng, an trụ trí tối thắng, đều hiện biết rõ những căn ý hành của tất cả chúng sanh. Ðây là sự kỳ đặc vị tằng hữu thứ tám.

Giảng: 8. Đại Bồ Tát khi ngồi đạo tràng, thì trụ trong trí huệ tối thù thắng, đều hiện rõ biết các căn ý hành của tất cả chúng sinh, tức cũng là sự việc suy nghĩ trong tâm của chúng sinh, Bồ Tát đều biết, đều thấy. Đó là việc chưa từng có thứ tám.

 

Bồ-Tát Ma-ha-tát tọa đạo tràng thời, nhập tam muội, danh: thiện giác, thử tam muội lực năng lệnh kỳ thân sung mãn tam thế tận hư không giới nhất thiết thế giới, thị vi đệ cửu vị tằng hữu sự.

Ðại Bồ Tát lúc ngồi đạo tràng, nhập tam muội tên là Thiện giác. Sức tam muội này có thể làm cho thân Bồ Tát đầy khắp tất cả thế giới trong thập phương tam thế. Ðây là sự kỳ đặc vị tằng hữu thứ chín.

Giảng: 9. Đại Bồ Tát khi ngồi đạo tràng, thì nhập tam muội tên là Thiện giác. Sức tam muội đó, hay khiến cho thân của Bồ Tát đầy khắp ba đời, tận cõi hư không tất cả thế giới. Đó là việc chưa từng có thứ chín.

 

Bồ-Tát Ma-ha-tát tọa đạo tràng thời, đắc ly cấu quang minh vô ngại đại trí, lệnh kỳ thân nghiệp phổ nhập tam thế, thị vi đệ thập vị tằng hữu sự.

Ðại Bồ Tát lúc ngồi đạo tràng, được ly cấu quang minh vô ngại đại trí làm cho thân nghiệp của mình vào khắp tam thế. Ðây là sự kỳ đặc vị tằng hữu thứ mười.

Giảng: 10. Đại Bồ Tát khi ngồi đạo tràng, thì đắc được đại trí vô ngại ly cấu quang minh, khiến cho thân nghiệp của Bồ Tát vào khắp ba đời. Đó là việc chưa từng có thứ mười.

 

Phật tử! thị vi Bồ-Tát Ma-ha-tát tọa đạo tràng thời, thập chủng kì đặc vị tằng hữu sự.

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát lúc ngồi đạo tràng vì mười kỳ đặc hữu sự

Giảng: Phật tử ! Đó là mười việc kỳ đặc chưa từng có của Bồ Tát khi ngồi đạo tràng.

 

=======================================

Thập Chủng Nghĩa Cố, Thị Hiện Hàng Ma

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát tọa đạo tràng thời, quán thập chủng nghĩa cố, thị hiện hàng ma. Hà đẳng vi thập? sở vị:

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát lúc ngồi đạo tràng vì quán sát mười nghĩa mà thị hiện hàng ma. Những gì là mười ? Đó là:

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát khi ngồi đạo tràng, thì do quán mười thứ nghĩa, mà thị hiện hàng ma. Những gì là mười ? Đó là :

 

Vi trược thế chúng sanh lạc ư đấu chiến, dục hiển Bồ Tát uy đức lực cố, thị hiện hàng ma

Vì chúng sanh đời ngũ trược thích chiến đấu, muốn hiển bày sức oai đức của Bồ Tát, mà thị hiện hàng ma.

Giảng: 1. Vì chúng sinh đời ác năm trược thích đấu tranh, vì muốn hiển bày sức oai đức của Bồ Tát, mà thị hiện tướng hàng ma.

 

Vi chư Thiên, thế nhân hữu hoài nghi giả, đoạn bỉ nghi cố, thị hiện hàng ma

Vì trong hàng chư Thiên thế nhơn có những kẻ hoài nghi, muốn dứt trừ lòng nghi ngờ cho họ, mà thị hiện hàng ma.

Giảng: 2. Vì chư Thiên và người đời có kẻ hoài nghi, vì dứt trừ nghi hoặc của họ, mà thị hiện tướng hàng ma.

 

Vi giáo hóa điều phục chư ma quân cố, thị hiện hàng ma

Vì giáo hóa điều phục các ma quân, mà thị hiện hàng ma.

Giảng: 3. Vì giáo hoá điều phục các ma quân, mà thị hiện tướng hàng ma.

 

Vi dục lệnh chư Thiên, thế nhân lạc quân trận giả, hàm lai tụ quán, tâm điều phục cố, thị hiện hàng ma

Vì muốn cho hàng chư Thiên, thế nhơn, những kẻ thích quân trận đều nhóm đến xem, để tâm họ được điều phục, nên thị hiện hàng ma.

Giảng: 4. Vì muốn khiến cho chư Thiên và người đời kẻ thích quân trận chiến đấu, khiến cho họ đều tụ đến xem, tâm được điều phục, chẳng còn tư tưởng đấu tranh, mà thị hiện tướng hàng ma.

 

Vi hiển thị Bồ Tát sở hữu uy lực thế vô năng địch cố, thị hiện hàng ma

Vì hiển bày oai lực của Bồ Tát trong đời không ai địch nổi, nên thị hiện hàng ma.

Giảng: 5. Vì hiển bày oai lực của Bồ Tát, trên thế gian không ai địch nổi, mà thị hiện tướng hàng ma.

 

Vi dục phát khởi nhất thiết chúng sanh dũng mãnh lực cố, thị hiện hàng ma

Vì muốn phát khởi sức dũng mãnh của tất cả chúng sanh, nên thị hiện hàng ma.

Giảng: 6. Vì muốn phát khởi sức dũng mãnh của tất cả chúng sinh, tinh tấn tiến về trước, học tập Phật đạo, mà thị hiện tướng hàng ma.

 

Vi ai mẩn mạt thế chư chúng sanh cố, thị hiện hàng ma

Vì thương xót chúng sanh đời mạt thế, nên thị hiện hàng ma.

Giảng: 7. Vì thương xót các chúng sinh đời vị lai, trong đó bao quát bạn, tôi và họ. Hiện tại chúng ta đều là chúng sinh đời vị lai, chúng ta rất đáng thương sót, cử chỉ hành động đều điên đảo, rõ ràng biết không đúng mà vẫn đi làm. Biết rõ tu hành phải giữ giới luật, nhưng ở trong sự bất tri bất giác lại phạm giới. Phật thương xót chúng ta chúng sinh ngu si, cho nên mới thị hiện tướng hàng ma.

 

Vi dục hiển thị nãi chí đạo tràng do hữu ma quân nhi lai xúc não, thử hậu nãi đắc siêu ma cảnh giới cố, thị hiện hàng ma

Vì muốn hiển bày nhẫn đến chốn đạo tràng mà còn quân ma tới quấy nhiễu, từ đây về sau mớ siêu cảnh giới ma, nên thị hiện hàng ma.

Giảng: 8. Vì muốn hiển bày cho đến đạo tràng, vẫn còn có ma vương Ba Tuần phái quân ma và ma nữ đến nhiễu loạn, do có quân ma đến xúc não, sau đó mới vượt qua được cảnh giới ma, hàng phục được ma, mà thị hiện tướng hàng ma.

 

Vi hiển phiền não nghiệp dụng luy liệt, đại từ thiện căn thế lực cường thịnh cố, thị hiện hàng ma

Vì hiển bày nghiệp dụng của phiền não kém yếu, đại từ thiện căn thế lực mạnh mẽ, nên thị hiện hàng ma.

Giảng: 9. Vì hiển bày phiền não nghiệp dụng yếu kém, đại từ căn lành thế lực rất mạnh mẽ, mà thị hiện tướng hàng ma.

 

Vi dục tùy thuận trược ác thế giới sở hạnh Pháp cố, thị hiện hàng ma.

Vì muốn tùy thuận pháp hành của thế giới trược ác, nên thị hiện hàng ma.

Giảng: 10. Vì muốn tuỳ thuận pháp chúng sinh hành đời ác năm trược, luôn thuận chúng sinh để giáo hoá, mà thị hiện tướng hàng ma.

 

Thị vi thập.

Đó là mười

Giảng: Đó là mười tướng thị hiện hàng ma.

 

Ở trong Phật giáo, Phật và ma như một. Hàng phục quân ma, điều trị ngoại đạo, đó đều là thần thông của Phật, do đó có câu : Phật, ma như một. Sau khi Phật thành Phật rồi, kế thừa Phật vị, sau đó khi về hưu Phật vị, hoặc thị hiện chư Thiên, hoặc thị hiện ông vua, hoặc thị hiện quan lớn, hoặc thị hiện ma vương, đều không nhất định. Hiện tại đang nói về hàng ma, đây là một sự nhân duyên, do đó có câu :

Pháp do nhân duyên sinh
Ta nói tức là không
Cũng gọi là giả danh
Cũng gọi nghĩa trung đạo.

Do đó, từ bốn câu nầy xem ra, thì hết thảy tất cả đều như huyễn, như hoá, chẳng có gì chân thật, cũng chẳng có gì để chấp trước.

 

=======================================

Thập Chủng Thành Như Lai Lực

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng thành Như Lai lực. Hà đẳng vi thập? sở vị:

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười điều thành Như Lai lực. Những gì là mười ? Đó là:

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ thành Như Lai lực. Những gì là mười ? Đó là :

 

Siêu quá nhất thiết chúng ma phiền não nghiệp cố, thành Như Lai lực

Vì siêu quá tất cả những ma phiền não nghiệp, nên thành Như Lai lực.

Giảng: 1. Vì vượt qua tất cả các ma phiền não nghiệp không nhiễm ô, nên thành tựu Như Lai lực.

 

Cụ túc nhất thiết Bồ Tát hạnh, du hí nhất thiết Bồ Tát tam muội môn cố, thành Như Lai lực

Vì đầy đủ tất cả Bồ Tát hạnh, vì du hý tất cả Bồ Tát tam muội môn, nên thành Như Lai lực.

Giảng: 2. Vì đầy đủ tất cả Bồ Tát hạnh, du hí tất cả môn tam muội của Bồ Tát chứng đắc, nên thành Như Lai lực.

 

Cụ túc nhất thiết Bồ Tát quảng đại Thiền định cố, thành Như Lai lực

Vì đầy đủ tất cả Bồ Tát quảng đại thiền định, nên thành Như Lai lực.

Giảng: 3. Vì đầy đủ tất cả thiền định rộng lớn của Bồ Tát, nên thành Như Lai lực.

 

Viên mãn nhất thiết bạch tịnh trợ đạo Pháp cố, thành Như Lai lực

Vì viên mãn tất cả pháp trợ đạo bạch tịnh, nên thành Như Lai lực.

Giảng: 4. Vì viên mãn tất cả pháp môn trắng tịnh trợ đạo, nên thành Như Lai lực.

 

Đắc nhất thiết pháp trí tuệ quang minh, thiện tư duy phân biệt cố, thành Như Lai lực

Vì được tất cả pháp trí huệ quang minh khéo tư duy phân biệt, nên thành Như Lai lực.

Giảng: 5. Vì chứng được tất cả pháp trí huệ quang minh, khéo tư duy phân biệt, nên thành Như Lai lực.

 

Kỳ thân châu biến nhất thiết thế giới cố, thành Như Lai lực

Vì thân cùng khắp tất cả thế giới, nên thành Như Lai lực.

Giảng: 6. Vì pháp thân Phật khắp cùng tất cả mọi nơi, trong tất cả thế giới, chỗ nào cũng đều có pháp thân Phật, chẳng có chỗ nào mà chẳng có, nên thành Như Lai lực.

 

Sở xuất ngôn âm tất dữ nhất thiết chúng sanh tâm đẳng cố, thành Như Lai lực

Vì ngôn âm phát ra đều đồng với tâm của tất cả chúng sanh, nên thành Như Lai lực.

Giảng: 7. Vì bất cứ chỗ nào vang ra lời nói âm thanh, đều đồng với tất cả tâm chúng sinh, nên thành Như Lai lực.

 

Năng dĩ thần lực gia trì nhất thiết cố, thành Như Lai lực

Vì có thể dùng thần lực gia trì tất cả, nên thành Như Lai lực.

Giảng: 8. Vì hay dùng tất cả thần thông lực để gia trì tất cả chúng sinh, nên thành Như Lai lực.

 

Dữ tam thế chư Phật thân, ngữ, ý nghiệp đẳng vô hữu dị, ư nhất niệm trung liễu tam thế Pháp cố, thành Như Lai lực

Vì ba nghiệp thân, ngữ, ý đồng với tất cả tam thế chư Phật, trong một niệm biết rõ những pháp trong tam thế, nên thành Như Lai lực.

Giảng: 9. Vì thân miệng ý nghiệp đồng với chư Phật ba đời không có sự khác biệt, ở trong một niệm thấu rõ pháp ba đời, nên thành Như Lai lực.

 

Đắc thiện giác trí tam muội, cụ Như Lai thập lực, sở vị: thị xứ phi xứ trí lực nãi chí lậu tận trí lực cố, thành Như Lai lực.

Vì được thiện giác trí tam muội đủ Như Lai thập lực: những là thị xứ, phi xứ, trí lực nhẫn đến lậu tận trí lực, nên thành Như Lai lực.

Giảng: 10. Vì chứng được thiện giác trí tam muội, đầy đủ mười lực của Như Lai, đó là : Xứ phi xứ trí lực, cho đến lậu tận trí lực, nên thành Như Lai lực.

 

Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát cụ thử thập lực, tức danh: Như Lai, ưng, chánh đẳng giác.

Đó là mười. Nếu chư Bồ Tát đủ mười Như Lai lực này thời gọi là Như Lai Chánh Ðẳng Giác.

Giảng: Đó là mười pháp thành tựu mười lực của Như Lai. Nếu các Bồ Tát đủ mười lực nầy, thì gọi là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác.

 

=======================================

Thập Chủng Sự – Chuyển Đại Pháp Luân

Phật tử! Như Lai, ưng, chánh đẳng giác chuyển Đại Pháp luân hữu thập chủng sự. Hà đẳng vi thập?

Chư Phật tử ! Ðức Như Lai Chánh Ðẳng Giác chuyển đại pháp luân có mười sự. Những gì là mười ? Đó là:

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Khi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chuyển đại pháp luân, thì có mười việc. Những gì là mười ?

 

Nhất giả, cụ túc thanh tịnh tứ vô úy trí

Một là thanh tịnh đầy đủ bốn trí vô úy.

Giảng: 1. Đầy đủ trí huệ thanh tịnh bốn vô uý. Tức là :

a. Nhất thiết trí vô uý.
b. Lậu tận vô uý.
c. Nói chướng đạo vô uý.
d. Nói đạo hết khổ vô uý.

 

Nhị giả, xuất sanh tứ biện tùy thuận âm thanh

Hai là xuất sanh bốn biện tài tùy thuận âm thanh.

Giảng: 2. Sinh ra bốn vô ngại biện, tức là :

a. Pháp vô ngại biện.
b. Nghĩa vô ngại biện.
c. Từ vô ngại biện.
d. Lạc thuyết vô ngại biện.

Tuỳ thuận âm thanh đó mà làm Phật sự.

 

Tam giả, thiện năng khai xiển tứ chân đế tướng

Ba là khéo có thể khai xiển tướng của bốn chơn đế.

Giảng: 3. Ba là khéo hay khai xiểng diễn nói tướng bốn chân đế, tức là :

a. Khổ chân đế.
b. Tập chân đế.
c. Diệt chân đế.
d. Đạo chân đế.

Do đó : Biết khổ, dứt tập, mộ diệt, chứng đạo.

 

Tứ giả, tùy thuận chư Phật vô ngại giải thoát

Bốn là tùy thuận chư Phật vô ngại giải thoát.

Giảng: 4. Tuỳ thuận vô ngại giải thoát của tất cả chư Phật. Giải thoát là giải sự ràng buộc hoặc nghiệp, thoát quả khổ ba cõi. Giải thoát phân ra gồm có hữu vi giải thoát và vô vi giải thoát. Hữu vi giải thoát là A la hán trí huệ vô lậu chân chánh; vô vi giải thoát tức là Niết Bàn. Lại phân ra là : Không giải thoát, vô tướng giải thoát, vô nguyện giải thoát, đây là thiền định giải thoát.

 

Ngũ giả, năng lệnh chúng sanh tâm giai tịnh tín

Năm là có thể làm cho chúng sanh phát tâm tin thanh tịnh.

Giảng: 5. Hay khiến tâm của tất cả chúng sinh đều tin thanh tịnh, y pháp tu hành.

 

Lục giả, sở hữu ngôn thuyết giai bất đường quyên, năng bạt chúng sanh chư khổ độc tiễn

Sáu là những lời nói ra đều không luống công, đều có thể nhổ trừ tên độc đau khổ cho tất cả chúng sanh.

Giảng: 6. Hết thảy lời nói đều chẳng tổn hại, nghĩa là không luống qua, không lãng phí, khiến cho chúng sinh nhớ mãi lời nói, vĩnh viễn không quên, hay nhổ mũi tên độc các khổ của tất cả chúng sinh.

 

Thất giả, đại bi nguyện lực chi sở gia trì

Bảy là đại bi nguyện lực gia trì.

Giảng: 7. Dùng đại bi nguyện lực gia trì tất cả chúng sinh.

 

Bát giả, tùy xuất âm thanh phổ biến thập phương nhất thiết thế giới

Tám là khi phát âm thanh đều khắp cùng tất cả thế giới mười phương.

Giảng: 8. Tuỳ thuận vang ra âm thanh, khắp cùng mười phương tất cả thế giới.

 

Cửu giả, ư a-tăng-kì kiếp thuyết Pháp bất đoạn

Chín là trong số kiếp chẳng ngớt thuyết pháp.

Giảng: 9. Trong A tăng kỳ kiếp, nói pháp không dứt.

 

Thập giả, tùy sở thuyết pháp giai năng sanh khởi căn, lực, giác đạo, Thiền định, giải thoát, tam muội đẳng Pháp.

Mười là tùy thuyết pháp nào cũng đều có thể phát khởi những pháp căn, lực, giác. đạo, thiền định giải thoát tam muội.

Giảng: 10. Tuỳ chỗ nói pháp, đều hay sinh khởi năm căn, năm lực và bảy giác phần, tám chánh đạo, thiền định giải thoát, và tam muội các pháp.

 

Phật tử! chư Phật Như Lai chuyển ư Pháp luân, hữu như thị đẳng vô lượng chủng sự.

Chư Phật Như Lai lúc chuyển đại pháp luân có vô lượng sự như vậy.

Giảng: Phật tử ! Chư Phật Như Lai chuyển bánh xe pháp, có vô lượng việc như vậy.

 

=======================================

Thập Sự Cố – Chủng Bạch Tịnh Pháp

Phật tử! Như Lai, ưng, chánh đẳng giác chuyển pháp luân thời, dĩ thập sự cố, ư chúng sanh tâm trung chủng bạch tịnh Pháp, vô không quá giả. Hà đẳng vi thập? sở vị:

Chư Phật tử ! Ðức Như Lai Chánh Ðẳng Giác lúc chuyển đại pháp luân, do mười sự nên ở trong tâm chúng sanh gieo pháp bạch tịnh không hề luống công. Những gì là mười ? Đó là:

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Khi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chuyển bánh xe pháp, do mười việc, nên ở trong tâm chúng sinh gieo trồng pháp trắng tịnh, không luống qua, nghĩa là chẳng có một chúng sinh nào mà không đắc được pháp thanh tịnh nầy. Những gì là mười ? Đó là :

 

Quá khứ nguyện lực cố Vì quá khứ nguyện lực.

Giảng: 1. Vì nguyện lực đã phát ra trong quá khứ, khiến cho tất cả chúng sinh gieo trồng hạt giống pháp trắng tịnh.

 

Đại bi sở trì cố Vì đại bi nhiếp trì.

Giảng: 2. Vì nhờ sức đại bi để nhiếp trì tất cả chúng sinh, khiến cho họ gieo trồng pháp trắng tịnh.

 

Bất xả chúng sanh cố Vì chẳng bỏ chúng sanh.

Giảng: 3. Vì không bỏ tất cả chúng sinh, khiến cho họ gieo trồng pháp trắng tịnh.

 

Trí tuệ tự tại, tùy kỳ sở lạc vi thuyết Pháp cố

Vì trí huệ tự tại tùy sở thích của họ mà thuyết pháp cho họ.

Giảng: 4. Vì trí huệ tự tại, tuỳ sự ưa thích của tất cả chúng sinh, mà vì họ thuyết pháp, khiến cho họ gieo trồng pháp trắng tịnh.

 

Tất ưng kỳ thời, vị tằng thất cố Vì tất đúng thời tiết chưa từng lỗi thời.

Giảng: 5. Vì rất đúng thời vì chúng sinh thuyết pháp, chưa từng khi nào thất thời, khiến cho họ gieo trồng pháp trắng tịnh.

 

Tùy kỳ sở nghi, vô vọng thuyết cố Vì tùy theo sở thích sở nghi không vọng thuyết.

Giảng: 6. Vì tuỳ sự thích nghi mà vì chúng sinh thuyết pháp, chưa từng nói pháp không đúng cơ.

 

Tri tam thế trí, thiện liễu tri cố Vì trí biết tam thế khéo biết rõ tất cả.

Giảng: 7. Vì trí huệ biết ba đời, khéo biết rõ pháp ba đời.

 

Kỳ thân tối thắng, vô dữ đẳng cố Vì thân Phật tối thắng không ai sánh kịp.

Giảng: 8. Vì thân tối thù thắng, không ai sánh bằng.

 

Ngôn từ tự tại, vô năng trắc cố Vì ngôn từ tự tại không ai có thể lường được.

Giảng: 9. Vì lời lẽ rất tự tại, không cách chi có thể dò được.

 

Trí tuệ tự tại, tùy sở phát ngôn tất khai ngộ cố.

Vì trí tuệ tự tại tùy chỗ phát ngôn thảy đều được khai ngô.

Giảng: 10. Vì trí huệ rất tự tại, tuỳ sự nói ra, đều khiến cho tất cả chúng sinh khai ngộ.

 

Thị vi thập.

Đó là mười

Giảng: Đó là mười pháp trắng tịnh, khi Bồ Tát chuyển bánh xe pháp.

 

=======================================

Thập Chủng Nghĩa Cố – Thị Bát Niết Bàn

Phật tử! Như Lai, ưng, chánh đẳng giác tác Phật sự dĩ, quán thập chủng nghĩa cố, thị Bát Niết Bàn. Hà đẳng vi thập? sở vị:

Chư Phật tử ! Ðức Như Lai Ðẳng Chánh Giác đã thật hành Phật sự xong, vì quán sát mười nghĩa nên thị hiện nhập Niết bàn. Những gì là mười ? Đó là:

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác làm Phật sự rồi, do quán mười nghĩa, mà thị hiện Niết Bàn. Những gì là mười ? Đó là :

 

Thị nhất thiết hành thật vô thường cố

Vì chỉ bày tất cả hành pháp thiệt là vô thường.

Giảng: 1. Vì thị hiện tất cả hành, thật là vô thường. Do đó : Các hành vô thường, phàm là do nhân duyên mà thành, thì đều là vô thường.

 

Thị nhất thiết hữu vi phi an ổn cố

Vì chỉ bày tất cả pháp hữu vi chẳng phải là pháp an ổn.

Giảng: 2. Vì thị hiện tất cả pháp hữu vi, chẳng phải là pháp môn an ổn. Pháp thế gian là pháp hữu vi, pháp xuất thế gian là pháp vô vi.

 

Thị đại Niết Bàn thị an ẩn xứ, vô bố úy cố

Vì chỉ bày đại Niết bàn là chỗ an ổn không tất cả sự bố uý.

Giảng: 3. Vì thị hiện đại Niết Bàn, là nơi an ổn, không có sự sợ hãi uy hiếp.

 

Dĩ chư nhân, Thiên nhạc trước sắc thân, vi hiện sắc thân thị vô thường Pháp, lệnh kỳ nguyện trụ tịnh Pháp thân cố

Vì hàng Thiên, Nhơn tham đắm sắc thân, nên vì họ mà thị hiện sắc thân là pháp vô thường, khiến họ phát nguyện trụ pháp thân thanh tịnh.

Giảng: 4. Vì các trời người ưa chấp sắc thân, hưởng thọ sự vui năm dục, cho nên Bồ Tát vì họ hiện sắc thân là pháp vô thường, khiến cho họ nguyện trụ pháp thân thanh tịnh.

 

Thị vô thường lực bất khả chuyển cố;

Vì chỉ bày sức vô thường chẳng thể chuyển được.

Giảng: 5. Vì thị hiện lực vô thường không thể chuyển động.

 

Thị nhất thiết hữu vi bất tùy tâm trụ, bất tự tại cố

Vì chỉ bày tất cả pháp hữu vi chẳng tự tại chẳng trụ theo tâm.

Giảng: 6. Vì thị hiện tất cả hữu vi chẳng tuỳ tâm trụ, pháp nầy chẳng tự tại.

 

Thị nhất thiết tam hữu giai như huyễn hóa, bất kiên lao cố

Vì chỉ bày tất cả ba cõi đều như huyễn hóa chẳng bền chắc.

Giảng: 7. Vì thị hiện tất cả ba cõi (cõi dục, cõi sắc, cõi vô sắc), đều như huyễn hoá, chẳng kiên cố.

 

Thị Niết-Bàn tánh cứu cánh kiên lao, bất khả hoại cố

Vì chỉ bày tánh Niết bàn rốt ráo bền chắc chẳng thể hư hoại.

Giảng: 8. Vì thị hiện tánh Niết Bàn, rốt ráo kiên cố, không thể hoại.

 

Thị nhất thiết pháp vô sanh vô khởi nhi hữu tụ tập, tán hoại tướng cố

Vì chỉ bày tất cả pháp vô sanh vô khởi mà có tướng tụ họp và tán hoại.

Giảng: 9. Vì thị hiện tất cả pháp không sinh, cũng không khởi, chỉ có tướng tụ tập và tán hoại.

 

Phật tử! chư Phật Thế tôn tác Phật sự dĩ, sở nguyện mãn dĩ, chuyển pháp luân dĩ, ưng hóa độ giả giai hóa độ dĩ, hữu chư Bồ-tát ưng thọ tôn hiệu thành kí biệt dĩ, Pháp ưng như thị nhập ư bất biến Đại bát Niết Bàn.

Chư Phật tử ! Như Lai Thế Tôn thật hành Phật sự rồi, bổn nguyện đã mãn, chuyển pháp luân đã xong người đáng được hoá độ đều đã hóa độ xong, có chư Bồ Tát đáng thọ tôn hiệu sự thọ ký đã thành, theo pháp phải như vậy nhập nơi bất biến đại Niết bàn.

Giảng: 10. Phật tử ! Chư Phật Thế Tôn làm Phật sự rồi, sở nguyện viên mãn rồi, chuyển bánh xe pháp rồi, người đáng hoá độ, đều hoá độ xong rồi. Có các Bồ Tát đáng thọ tôn hiệu, thọ ký biệt hiệu xong rồi. Pháp phải như vậy, vào nơi đại Niết Bàn không biến đổi.

 

Phật tử! thị vi Như Lai, ưng, chánh đẳng giác quán thập nghĩa cố, thị Bát Niết Bàn.

Chư Phật tử! Ðây là đức Như Lai Ðẳng Chánh Giác vì quán sát mười nghĩa nên thị hiện nhập Niết bàn.

Giảng: Các vị Phật tử ! Đó là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác quán mười nghĩa lý, thị hiện vào Niết Bàn.

 

Ở trên là Bồ Tát Phổ Hiền trả lời mười chín câu hỏi về nhân viên quả hạnh, tức cũng có nghĩa là đạo lý nhân viên hạnh viên mãn. Đây là diệu giác Bồ Tát trụ, vì hỏi một đáp mười, nên trả lời thành một trăm chín mươi câu trả lời.

— o0o —

 

Phật tử! thử pháp môn danh: Bồ Tát quảng đại thanh tịnh hạnh. Vô lượng chư Phật sở cọng tuyên thuyết, năng lệnh trí giả liễu vô lượng nghĩa giai sanh hoan hỉ, lệnh nhất thiết Bồ Tát đại nguyện, đại hạnh giai đắc tướng tục.

Chư Phật tử ! Pháp môn này gọi là hạnh quảng đại thanh tịnh của Bồ Tát. Vô lượng chư Phật đồng tuyên thuyết như vậy. Có thể làm cho người trí tỏ thấu vô lượng nghĩa, đều rất hoan hỷ. Làm cho tất cả Bồ Tát đại nguyện đại hạnh đều được tiếp nối.

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Pháp môn nầy tên là Bồ Tát quảng đại thanh tịnh hạnh. Vô lượng chư Phật đều cùng tuyên nói, khiến cho bậc có trí huệ thấu rõ vô lượng nghĩa lý, đều sinh tâm đại hoan hỉ, khiến cho tất cả Bồ Tát đại nguyện và đại hạnh đều được tiếp tục không gián đoạn.

 

Phật tử! nhược hữu chúng sanh đắc văn thử pháp, văn dĩ tín giải, giải dĩ tu hành, tất đắc tật thành A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề.

Chư Phật tử ! Nếu có chúng sanh được nghe pháp này, nghe xong tin hiểu, hiểu rồi tu hành. Người này quyết định mau được quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Giảng: Phật tử ! Nếu có chúng sinh nghe được pháp nầy, nghe rồi tin hiểu, tin hiểu rồi y pháp tu hành, thì sớm sẽ được thành tựu A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Do đó : Tin, hiểu, hành, chứng, là bốn giai đoạn của sự tu đạo, theo thứ tự thì mới có hiệu quả. Nếu nói mà không tu hành, thì chẳng có ích lợi gì, giống như cái bánh vẽ, không thể ăn được.

 

Hà dĩ cố? dĩ như thuyết tu hành cố.

Tại sao vậy ?Vì người này đúng như lời mà tu hành.

Giảng: Tại sao vậy ? Vì như lời nói mà tu hành.

 

Phật tử! nhược chư Bồ-tát bất như thuyết hành, đương tri thị nhân ư Phật Bồ-đề tức vi vĩnh ly, thị cố Bồ Tát ưng như thuyết hành.

Chư Phật tử ! Nếu Bồ Tát chẳng thật hành đúng như lời, phải biết người này lìa hẳn Phật Bồ đề. Do cớ đây nên Bồ Tát phải thật hành đúng như lời.

Giảng: Phật tử ! Nếu có các Bồ Tát chẳng như lời nói mà tu hành, thì nên biết những người đó sẽ vĩnh viễn xa lìa Phật bồ đề. Cho nên Bồ Tát nên như lời nói mà tu hành.

 

Phật tử! thử nhất thiết Bồ Tát công đức hành xử quyết định nghĩa hoa, phổ nhập nhất thiết pháp, phổ sanh nhất thiết trí, siêu chư thế gian, ly nhị thừa đạo, bất dữ nhất thiết chư chúng sanh cọng, tất năng chiếu liễu nhất thiết pháp môn, tăng trưởng chúng sanh xuất thế thiện căn, ly thế gian pháp môn phẩm, ưng tôn trọng, ưng thính thọ, ưng tụng trì, ưng tư tánh, ưng nguyện lạc, ưng tu hành; nhược năng như thị, đương tri thị nhân tật đắc A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề.

Chư Phật tử ! Chỗ sở hành công đức nghĩa hoa quyết định của tất cả Bồ Tát đây vào khắp tất cả pháp, sanh khắp tất cả trí, siêu thế gian, lìa Nhị thừa, chẳng đồng chung với tất cả chúng sanh, đều có thể soi rõ tất cả pháp môn, thêm lớn thiện căn xuất thế của chúng sanh, là pháp môn phẩm lìa thế gian, phải tôn trọng, phải tin thọ, phải phụng trì, phải tư duy, phải mong mến, phải tu hành. Nếu được như vậy, nên biết người này mau được quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Tất cả Bồ Tát đó, nơi công đức hành, quyết định nghĩa hoa, khắp vào tất cả pháp, khắp sinh ra nhất thiết trí, vượt qua các thế gian, lìa khỏi đạo nhị thừa, chẳng cùng ở với tất cả chúng sinh, nghĩa là phàm phu tục tử không thể cùng minh bạch pháp nầy, kinh nầy đều chiếu rõ tất cả pháp môn, tăng trưởng căn lành xuất thế của tất cả chúng sinh, lìa khỏi pháp môn phẩm thế gian. Đáng tôn trọng, đáng nghe thọ, đáng tụng trì, đáng tư duy, đáng nguyện ưa thích, đáng tu hành. Nếu được như vậy, thì nên biết người đó sớm sẽ chứng được A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, tức cũng là Phật vị Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

 

Thuyết thử phẩm thời, Phật thần lực cố, cập thử pháp môn Pháp như thị cố, thập phương vô lượng vô biên a-tăng-kì thế giới giai Đại chấn động, đại quang phổ chiếu.

Lúc Phổ Hiền Bồ Tát nói phẩm này, vì Phật thần lực, va vì pháp tất nhiên của pháp môn này nên vô lượng vô biên vô số thế giới đều đại chấn động đại quang chiếu khắp mười phương.

Giảng: Khi Bồ Tát Phổ Hiền nói Phẩm Lìa Thế Gian nầy, thì nhờ đại oai thần lực của chư Phật và pháp môn nầy pháp như vậy, nên mười phương vô lượng vô biên A tăng kỳ thế giới, đều đại chấn động, đại quang minh chiếu khắp tất cả thế giới.

 

Nhĩ thời, thập phương chư Phật giai hiện Phổ Hiền Bồ Tát tiền, tán ngôn:

Bấy giờ thập phương chư Phật đều hiện ra trước Phổ Hiền Bồ Tát mà đồng thanh khen rằng:

Giảng: Lúc đó, mười phương chư Phật đều hiện ra ở trước Bồ Tát Phổ Hiền, khen ngợi Ngài nói rằng :

 

Thiện tai thiện tai! Phật tử! nãi năng thuyết thử chư Bồ-Tát Ma-ha-tát công đức hành xử quyết định nghĩa hoa phổ nhập nhất thiết Phật Pháp xuất thế gian pháp môn phẩm.

Lành thay ! Lành thay ! Phật tử bèn có thể diễn thuyết pháp môn phẩm xuất thế gian vào khắp tất cả Phật pháp, nghĩa hoa quyết định, hành xứ công đức của tất cả đại Bồ Tát này.

Giảng: Lành thay ! Lành thay ! Phật tử ! Ông mới có thể nói công đức hành xứ và quyết định nghĩa hoa của các đại Bồ Tát đó, vào khắp tất cả Phật pháp, pháp môn phẩm xuất thế gian.

 

Phật tử! nhữ dĩ thiện học thử pháp, thiện thuyết thử pháp.

Phật tử đã khéo học pháp này, khéo nói pháp này.

Giảng: Phật tử ! Ông đã khéo học pháp nầy, khéo diễn nói pháp nầy.

 

Nhữ dĩ uy lực hộ trì thử pháp, ngã đẳng chư Phật tất giai tùy hỉ

Phật tử dùng oai lực hộ trì pháp này. Chư Phật chúng ta thảy đều tùy hỷ.

Giảng: Ông dùng đại oai lực để hộ trì pháp nầy. Chúng ta chư Phật thảy đều tuỳ hỉ.

 

Như ngã đẳng chư Phật tùy hỉ ư nhữ, nhất thiết chư Phật tất diệc như thị.

Như chư Phật chúng ta tùy hỷ cho Phật tử, tất cả chư Phật cũng đều tùy hỷ như vậy.

Giảng: Như chúng ta chư Phật tuỳ hỉ nơi ông, tất cả chư Phật cũng đều tuỳ hỉ nơi ông như thế.

 

Phật tử! ngã đẳng chư Phật tất cộng đồng tâm hộ trì thử Kinh, lệnh hiện tại, vị lai chư Bồ-tát chúng vị tằng văn giả giai đương đắc văn.

Phật tử ! Chư Phật chúng ta đều cùng đồng tâm hộ trì kinh này, làm cho hiện tại vị lai các chúng Bồ Tát, những người chưa từng nghe đều sẽ được nghe.

Giảng: Phật tử ! Chúng ta chư Phật, đều cùng đồng phát tâm, hộ trì kinh Hoa Nghiêm Đại Phương Quảng Phật nầy, khiến cho các chúng Bồ Tát hiện tại và vị lai, ai chưa từng nghe, đều sẽ được nghe Kinh Hoa Nghiêm nầy.

 

Nhĩ thời, Phổ Hiền Bồ-Tát Ma-ha-tát thừa Phật thần lực, quan sát thập phương nhất thiết Đại chúng kịp vu Pháp giới nhi thuyết tụng ngôn:

Bấy giờ Phổ Hiền đại Bồ Tát thừa thần lực của Phật, quán sát tất cả đại chúng mười phương, khắp đến pháp giới, rồi nói kệ rằng:

Giảng: Lúc đó, đại Bồ Tát Phổ Hiền nương đại oai thần lực của mười phương chư Phật, quán sát mười phương tất cả đại chúng, cho đến khắp cùng pháp giới, mà nói ra hai trăm mười lăm bài kệ, tường thuật lại nghĩa lý ở trên :

 

Ư vô lượng kiếp tu khổ hạnh Trong vô lượng kiếp tu khổ hạnh
Tùng vô lượng Phật chánh pháp sanh Từ vô lượng Phật chánh pháp sanh.
Lệnh vô lượng chúng trụ Bồ-đề Khiến vô lượng chúng trụ Bồ đề
Bỉ vô đẳng hạnh thính ngã thuyết Hạnh vô đẳng kia nghe tôi nói.

Giảng: Đức Phật ở trong ba đại A tăng kỳ kiếp, tu phước tu huệ, phước huệ đều đầy đủ, sau đó mới thành Phật. Tu phước tức là bố thí. Tu huệ tức là siêng học Bát Nhã, do đó có câu :

Tu phước chẳng tu huệ, thân voi mang anh lạc
Tu huệ chẳng tu phước, La Hán ôm bát không.

Cho nên phải phước huệ song tu, thì công đức mới viên mãn, hợp với trung đạo. Chúng ta hết thảy chúng sinh, nên biết ở trong ba đại A tăng kỳ kiếp, phải tu phước tu huệ. Khi tu phước thì chớ cho rằng việc thiện nhỏ mà không làm; khi tu huệ thì đừng có cho rằng trí nhỏ mà không tu. Do đó có câu :

Tam kỳ tu phước huệ
Trăm kiếp chủng tướng hảo.

Đức Phật ở trong vô lượng kiếp tu khổ hạnh, nghĩa là nhẫn những điều người khác không thể nhẫn, chịu đựng những gì mà người khác không thể chịu đựng được, ăn những gì mà người khác chê không ăn, mặc những gì mà người khác chê không mặc. Do đó có câu :

Thọ khổ thì hết khổ
Hưởng phước thì hết phước.

Một số người sợ rằng mình thiệt thòi, nên đến đâu cũng nghĩ muốn chiếm tiện nghi, cho nên chịu khổ không được. Đức Phật ban lợi ích cho chúng sinh, còn chính mình thì chịu khổ. Phật cam tâm tình nguyện vì tất cả chúng sinh thọ tất cả sự khổ, cho nên mới tu khổ hạnh. Phật sinh ra từ chánh pháp của vô lượng Phật nói. Phật khiến cho tất cả chúng sinh, trụ nơi bồ đề giác đạo. Các vị đại chúng phải chú ý lắng nghe, tôi (Bồ Tát Phổ Hiền) hiện tại vì các vị nói hạnh vô đẳng (không gì bằng). Bồ Tát tu hạnh vô đẳng, thành Phật rồi, là vô đẳng đẳng hạnh.

 

Cúng vô lượng Phật nhi xả trước Cúng vô lượng Phật mà xả chấp
Quảng độ quần sanh bất tác tưởng, Rộng độ quần sanh chẳng nghĩ tưởng
Cầu Phật công đức tâm vô y Cầu Phật công đức tâm vô y
Bỉ thắng diệu hạnh ngã kim thuyết. Hạnh thắng diệu kia nay tôi nói.

Giảng: Thuở xưa khi Phật làm Bồ Tát, tu Bồ Tát đạo, thì cúng dường vô lượng chư Phật, xả bỏ hết mọi sự chấp trước. Tại sao chúng ta không thể thành Phật ? Vì có sự chấp trước, cho nên đến bây giờ vẫn là phàm phu tục tử. Nghĩ muốn thành Phật, thì nhất định phải xả bỏ chấp trước. Tuy Phật rộng độ tất cả chúng sinh, nhưng chẳng có một chúng sinh nào là mình độ. Tại sao nói như thế ? Vì Phật không có ý tưởng độ chúng sinh, cho đến ý tưởng đều không nghĩ đến, nghĩa là chẳng có sự chấp trước độ chúng sinh. Cầu công đức của Phật, thì tâm đừng có ỷ lại, nghĩa là đừng có mọi sự chấp trước. Diệu hạnh tối thù thắng của Phật và diệu hạnh tối thù thắng của Bồ Tát, bây giờ tôi nói với đại chúng, xin hãy lắng nghe cho kỹ.
Ly tam giới ma phiền não nghiệp Lìa ma ba cõi nghiệp phiền não
Cụ Thánh công đức tối thắng hạnh Ðủ thánh công đức hạnh tối thắng
Diệt chư si hoặc tâm tịch nhiên Diệt những mê lầm lòng tịch tịnh
Ngã kim thuyết bỉ sở hạnh đạo Nay tôi nói đạo của kia làm.

Giảng: Lìa khỏi ma của ba cõi, lìa khỏi nghiệp phiền não, thì sẽ đầy đủ công đức của bậc Thánh nhân, viên mãn hạnh môn tối thù thắng. Xin các vị tụ tinh hội thần để nghe ! Đừng để bỏ lỡ cơ hội rất tốt này.

 

Vĩnh ly thế gian chư cuống huyễn Lìa hẳng thế gian những huyễn đối
Chủng chủng biến hóa thị chúng sanh Những thứ biến hoá dạy chúng sanh
Tâm sanh trụ diệt hiện chúng sự Tâm sanh trụ diệt các sự
Thuyết bỉ sở năng lệnh chúng hỉ Nói sở năng kia cho chúng mừng.

Giảng: Tất cả hết thảy trên thế gian đều là hư vọng, chẳng chân thật. Nếu thật sự minh bạch đạo lý này, thì vĩnh viễn lìa khỏi tất cả sự hư huyễn giả dối. Giống như Diễn Nhã Đạt Đa, là người quá ngu si. Một ngày nọ, ngẫu nhiên nhìn vào trong gương, phát hiện có đầu người, anh ta phát hiện mình không có đầu, đó là phát cuồng, bị điên, bèn chạy đi tìm đầu, gặp ai cũng hỏi : Anh có thấy đầu của tôi không ? Đầu của tôi đâu mất rồi ? Người bị hỏi cảm thấy thật là lạ lùng, không biết hỏi gì nữa, do đó Đầu lại thêm đầu.

Người thế gian hổ tương hư nguỵ, lường gạt với nhau, đó gọi là giả dối. huyễn là giả. Tất cả thế gian đều ở trong sự biến hoá, Phật dùng đủ thứ sự biến hoá, thị hiện chúng sinh, khiến cho chúng sinh minh bạch đạo lý vô thường. Do đó có câu :

Tâm sinh đủ thứ pháp sinh
Tâm diệt đủ thứ pháp diệt.

Nếu ai minh bạch tất cả tâm, thì sẽ minh bạch tất cả pháp, tâm pháp không hai. Nhưng tâm nầy có sinh trụ dị diệt, hiện ra đủ thứ sự tướng. Nếu bạn minh bạch được, thì sẽ làm được việc nầy. Nếu không minh bạch, thì sẽ không làm được việc. Tóm lại, nếu minh bạch, thì chuyển được cảnh giới, nếu không minh bạch, thì bị cảnh giới chuyển. Bồ Tát Phổ Hiền nói Phật tu hành pháp sự, hay khiến cho đại chúng sinh hoan hỉ.

Các vị thiện tri thức ! Đang ngồi ở đây nghe kinh, là một việc tốt. Kỳ thật muốn nghe kinh, không nhất định phải đến Vạn Phật Thành nghe kinh, vì khắp hang cùng ngõ hẻm trên thế giới, đều đang giảng kinh thuyết pháp. Vạn sự vạn vật đều đang thuyết pháp. Bạn nghe hiểu rõ được, tức là giác; nghe mà chẳng minh bạch, tức là mê. Giác tức là Phật, mê là chúng sinh. Vạn vật đang thuyết pháp, mỗi thứ đang nói pháp của nó. Phi tiềm động thực đang thuyết pháp, noãn thai thấp hoá đang thuyết pháp, hữu tình chúng sinh nói pháp hữu tình, vô tình chúng sinh nói pháp vô tình. Nói tất cả pháp, đều khiến chúng sinh minh bạch, đắc được trí huệ giác ngộ chân chánh. Đáng tiếc chúng ta bỏ lỡ cơ hội. Vạn vật đang thuyết pháp, có ai nghe được chăng ? Ai có thể minh bạch được pháp của vạn vật nói ? Do đó, có câu :

Tất cả pháp đều là Phật pháp

Đều không thể đắc được.
Lục Tổ Huệ Năng có nói :

Bổn lai vô nhất vật
Hà xứ nhạ trần ai.

Nghĩa là :
Xưa nay không một vật
Chỗ nào dính bụi bặm.

Đó là không thể đắc được. Lại rằng : Quét tất cả pháp, lìa tất cả tướng. Đó là không thể đắc được. Bạn minh bạch pháp của vạn sự vạn vật nói, thì đó là Pháp môn không hai, tức là Đệ nhất nghĩa đế, đó là lìa khỏi giả huyễn của thế gian.

 

Kiến chư chúng sanh sanh lão tử Thấy các chúng sanh: sanh, già, chết
Phiền não ưu hoạnh sở triền bách Phiền não lo khổ luôn bức ngặt
Dục lệnh giải thoát giáo phát tâm Muốn họ giải thoát dạy phát tâm
Bỉ công đức hạnh ưng thính thọ Hạnh công đức kia phải thính thọ.

Giảng: Phật thấy tất cả chúng sinh có sinh, già, bệnh, chết, bốn khổ lớn, cho nên mới phát tâm xuất gia tu hành, nghiên cứu giải quyết bốn vấn đề khổ lớn nầy. Chúng ta ở trong sự bất tri bất giác, thì hiện ra phiền não. Có lúc hiện nơi sắc, có lúc ẩn trong tâm. Có lúc khi vô minh động, thì cái gì cũng chẳng biết. Khi vô minh tác quái, thì hồ đồ, cho nên phiền não là nhân duyên chướng đạo, là đá cột chân sự tu đạo. Vừa mới nói lúc nãy, không thể không có phiền não.

Tại sao ? Vì Phiền não tức bồ đề, nếu dùng được, thì phiền não tức là bồ đề; nếu dùng không được thì phiền não biến thành bồ đề, ví như bồ đề là nước, phiền não là nước đá, nước tức là nước đá, nước đá tức là nước, nước và nước đá đồng một thể. Khi lạnh thì nước đông lại thành nước đá, khi nóng thì nước đá chảy thành nước. Nói tóm lại, khi có phiền não, thì nước đông thành nước đá, khi không có phiền não thì nước đá chảy thành nước. Đạo lý này rất dễ hiểu. Hơn nữa, có phiền não thì có phiền não nước đá – vô minh, không có phiền não tức là có bồ đề nước – trí huệ. Điểm nầy, các vị nên nhớ, nên nhớ ! Chúng ta tu đạo, không cần tu đến tám vạn đại kiếp, phiền não nầy vẫn tồn tại. Mỗi ngày ăn phiền não để sống, nếu không ăn phiền não thì phải chết đói, đó thật là đáng thương !

 

Thí giới nhẫn tấn thiền trí tuệ Thí giới, nhẫn, tấn, thiền, trí huệ.
Phương tiện từ bi hỉ xả đẳng Phương tiện, từ, bi, hỷ, xả thảy
Bách thiên vạn kiếp thường tu hành Trăm ngàn muôn kiếp thường tu hành
Bỉ nhân công đức nhân ưng thính Các Ngài nên nghe công đức đó.

Giảng: Học Phật pháp phải học pháp môn của Bồ Tát. Gì là pháp môn tu hành của Bồ Tát ? Tức là : Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, Bát Nhã, phương tiện, nguyện, lực, trí, đó là mười pháp Ba La Mật. Còn có : Từ, bi, hỉ, xả, bốn tâm vô lượng. Cùng với : Bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự, bốn pháp nhiếp. Đó là những pháp môn tu hành cần thiết nhất. Trong trăm ngàn vạn kiếp, phải luôn luôn tu hành, phải luôn luôn tinh tấn, đừng có giải đãi. Công đức của Phật vô cùng vô tận, xin các vị hãy lắng nghe, học tập theo công đức của Phật.

 

Thiên vạn ức kiếp cầu Bồ-đề, Ngàn muôn ức kiếp cầu Bồ đề
Sở hữu thân mạng giai vô lận Bao nhiêu thân mạng đều không tiếc
Nguyện ích quần sanh bất vi kỷ Nguyện lợi quần sanh chẳng vì mình
Bỉ từ mẫn hạnh ngã kim thuyết Hạnh từ mẫn kia nay tôi nói.

Giảng: Ở trong ngàn vạn đại kiếp, siêng cầu bồ đề giác đạo. Phật vì nửa bài kệ mà hy sinh tánh mạng của mình. Đã từng xả thân cứu hổ đói, lóc thịt cho chim ưng, đó là biểu hiện tu Bồ Tát hạnh, vì pháp quên mình. Phật vì cầu đạo bồ đề, xả bỏ được thân mạng của chính mình, tơ hào không có tâm sẻn tiếc. Phật muốn lợi ích tất cả chúng sinh, mà quên mất chính mình. Hành vi từ bi thương xót chúng sinh của Phật, hiện tại tôi sẽ vì các vị nói.

 

Vô lượng ức kiếp diễn kỳ đức Vô lượng ức kiếp nói công đức
Như hải nhất tích vị vi thiểu Như biển một giọt còn chưa ít
Công đức vô bỉ bất khả dụ, Công đức vô tỉ chẳng thể dụ
Dĩ Phật uy thần kim lược thuyết Do Phật oai thần nay lược nói.

Giảng: Ở trong vô lượng kiếp, diễn nói công đức của Phật, giống như một giọt nước trong biển mà thôi. Thậm chí còn ít hơn so với một giọt nước. Công đức của Phật, không thể ví dụ được, không cách chi nói cho hết được, do đó có câu:

Sát trần tâm niệm khả sổ tri
Đại hải trung thuỷ khả ẩm tận
Hư không khả lượng phong khả khế
Vô năng thuyết tận Phật công đức”.

Nghĩa là:
Bụi cõi tâm niệm đếm biết được
Nước trong biển uống hết được
Hư không lường được gió buộc được
Không thể nói hết công đức Phật.

Tôi nương đại oai thần lực gia trì của đức Phật, hiện tại vì các vị lược nói chút ít mà thôi.

 

Kỳ tâm vô cao hạ, Tâm kia chẳng cao hạ
Cầu đạo vô yếm quyện Cầu đạo không nhàm mỏi
Phổ sử chư chúng sanh Khiến khắp các chúng sanh
Trụ thiện tăng tịnh Pháp Ở lành thêm pháp sạch.

Giảng: Tâm của Bồ Tát là bình đẳng, chẳng có phân biệt cao thấp. Vì cầu vô thượng đạo, bất cứ trong hoàn cảnh nào, cũng chẳng khi nào nhàm mỏi. Khắp khiến cho tất cả chúng sinh, trụ ở trong cảnh giới thiện, tăng trưởng pháp trắng tịnh, tức cũng là pháp thanh tịnh, sớm sẽ thành tựu quả bồ đề.

 

Trí tuệ phổ nhiêu ích, Trí huệ lợi ích khắp
Như thọ như hà tuyền Như cây, như sông suối
Diệc như ư Đại địa Cũng như nơi đại địa
Nhất thiết sở y xứ. Chỗ sở y tất cả.

Giảng: Bồ Tát dùng đại trí huệ, lợi ích khắp tất cả chúng sinh. Giống như cây đại thụ, che mát tất cả chúng sinh. Lại giống như con song, con suối, giải trừ được sự khao khát của tất cả chúng sinh. Lại giống như đại địa, làm nơi nương tựa của tất cả chúng sinh. Tất cả chúng sinh đều nương đất mà sinh tồn, nếu không có đất, thì chúng sinh không thể nương hư không mà sinh tồn, cho nên trời che đất chở, để nuôi dưỡng tất cả vạn vật.

 

Bồ Tát như liên hoa Bồ Tát như liên hoa
Từ căn an ổn hành Gốc lành, cọng an ổn,
Trí tuệ vi chúng nhị Trí huệ à hương nhũy
Giới phẩm vi hương khiết Giới phẩm là sạch thơm.

Giảng: Bồ Tát giống như hoa sen. Hoa sen có bốn đức:

1. Hương thơm.
2. Thanh tịnh.
3. Mềm mại.
4. Khả ái.

Tuy hoa sen sinh trưởng ở trong bùn, nhưng hoa sen trong sạch không bị ô nhiễm. Hơn nữa, hoa nhuỵ đồng thời đều có, có nhân có quả. Cho nên hoa sen đại biểu cho hoa của Phật giáo. Bồ Tát dùng từ bi làm gốc rễ của hoa sen. Dùng sự an ổn làm cộng hoa sen. Dùng trí huệ làm nhuỵ hoa sen. Dùng giới phẩm làm hương thơm tinh khiết của hoa sen. Vì Bồ Tát giữ gìn giới luật, cho nên giới phẩm rất trang nghiêm.

 

Phật phóng pháp quang minh Phật phóng pháp quang minh
Lệnh bỉ đắc khai phu, Cho hoa được xòe nở
Bất trước hữu vi thủy Chẳng dính nước hữu vi
Kiến giả giai hân lạc Ai thấy cũng hoan hỷ.

Giảng: Phật phóng pháp đại quang minh, khiến cho hoa sen Bồ Tát sớm nở, chẳng nhiễm trước nước hữu vi, tức cũng là chẳng nương tựa sự thấm nhuần nước pháp hữu vi. Phàm là ai thấy được, đều rất vui mừng, chẳng ai mà chẳng sinh tâm hoan hỉ.

 

Bồ Tát diệu pháp thụ, Bồ Tát cây diệu pháp
Sanh ư trực tâm địa Sanh trên dất trực tâm
Tín chủng từ bi căn Giống: tin, gốc: từ bi
Trí tuệ dĩ vi thân, Trí huệ dùng làm thân,

Giảng: Bồ Tát cây diệu pháp, sinh nơi đất tâm thẳng, do đó có câu: “Tâm thẳng là đạo tràng”. Dùng niềm tin làm hạt giống, dùng từ bi làm gốc rễ, dùng trí huệ làm thân cây.

 

Phương tiện vi chi cán Phương tiện làm cành nhánh
Ngũ độ vi phồn mật Ngũ độ làm tàn rậm
Định diệp thần thông hoa Lá định, bông thần thông
Nhất thiết trí vi quả. Nhứt Thiết trí làm trái,

Tối thượng lực vi điểu Cây to: tối thượng lực
Thùy uẩn phước tam giới. Che mát trùm tam giới.

Giảng: Bồ Tát cây diệu pháp, dùng phương tiện làm cành, dùng lục độ làm nhuỵ, dùng chánh định làm lá cây, dùng thần thông làm hoa, dùng nhất thiết trí làm quả, dùng lực tối thượng làm chim trên cây, cây diệu pháp phủ xuống che khắp tất cả chúng sinh ba cõi, đều được mát mẻ.

 

Bồ Tát Sư tử Vương Bồ Tát: sư tử vương
Bạch tịnh Pháp vi thân. Pháp bạch tịnh làm thân
Tứ đế vi kỳ túc, Tứ đế dùng làm thân
Chánh niệm dĩ vi cảnh Chánh niệm dùng làm cổ

Giảng: Bồ Tát như sư tử chúa, dùng pháp trắng tịnh làm thân sư tử, dùng pháp bốn đế làm chân sư tử chúa, dùng chánh niệm làm cổ sư tử chúa. Sư tử là chúa của loài thú. Trong Chứng Đạo Ca của Vĩnh Gia đại sư có nói: “Sư tử hống, vô uý thuyết. Bách thú văn chi giai não liệt. Hương tượng bôn ba thất cước uy. Đại long tịch thính sinh hân duyệt”. Nghĩa là: Sư tử hống, nói không sợ hãi. Loài thú nghe được đều kinh hãi, voi lớn bỏ chạy mất oai nghi. Trời rồng nghe được sinh vui mừng”.

 

Từ nhãn trí tuệ thủ, Mắt: từ đầu: trí huệ.
Đảnh hệ giải thoát tăng Ðảnh vấn lụa giải thoát
Thắng nghĩa không cốc trung Trong hang: thắng nghĩa không
Hống Pháp phố chúng ma Rống: pháp, bố chúng ma.

Giảng: Dùng từ bi làm con mắt của sư tử, dùng trí huệ làm đầu của sư tử. Trên đỉnh đầu của sư tử quấn lụa giải thoát. Sư tử chúa ở trong hang núi thắng nghĩa không, rống pháp hay khiến cho tất cả chúng ma kinh sợ, điều phục được tất cả chúng ma, tiêu diệt được tất cả chúng ma.

 

Bồ Tát vi thương chủ Bồ Tát là thượng chủ
Phổ kiến chư quần sanh Thấy khắp các quần sanh
Tại sanh tử khoáng dã Ở đồng hoang sanh tử
Phiền não hiểm ác xứ Xứ hiểm ác phiền não

Giảng: Bồ Tát ví như đại thương chủ, thấy khắp tất cả chúng sinh, ở trong đại hoang dã sinh tử, tìm chẳng được bờ mé thoát ra. Ở nơi phiền não hiểm ác, vạn phần nguy cấp.

 

Ma tặc chi sở nhiếp Bị giặc ma bắt cầm
Si manh thất chánh đạo Mê mù mất chánh đạo,
Thị kỳ chánh trực lộ, Chỉ cho đường chánh trực
Lệnh nhập vô úy thành Khiến vào vô úy thành.

Giảng: Ở nơi hiểm ác, đều là nơi bị ma tặc nhiếp lấy, giống như người ngu si và người mù, đã bị mê mất đi con đường chân chánh. Bồ Tát chỉ thị người si mù, đi trên con đường chánh ngay thẳng, thẳng vào thành vô uý, tức cũng là sáu điều không sợ hãi : 1. Thiện vô uý. 2. Thân vô uý. 3. Vô ngã vô uý. 4. Pháp vô uý. 5. Pháp vô ngã vô uý. 6. Bình đẳng vô uý.

 

Bồ Tát kiến chúng sanh Bồ Tát thấy chúng sanh
Tam độc phiền não bệnh Bịnh phiền não ba độc
Chủng chủng chư khổ não Chịu các thứ khổ não.
Trường dạ sở tiên bách Lâu dài bị đốt nấu,

Giảng: Bồ Tát thấy chúng sinh ba cõi, đều mắc bệnh phiền não tham, sân, si, ba độc. Có đủ thứ tất cả sự khổ não, bị bức bách thiêu đốt lâu dài.

Theo lý mà nói thì người xuất gia tu đạo, không nên có phiền não, nhưng cũng có đủ thứ phiền não. Tại sao vậy ? Vì tâm chẳng thanh tịnh, cái nầy không tốt ! Cái kia không đúng ! Người nầy lại có sai lầm gì, người kia có tật xấu gì. Tóm lại, có rất nhiều phiền não ràng buộc, khiến cho thân tâm chẳng được tự tại. Các vị hãy nghĩ xem, mỗi người có phiền não của mỗi người, từ tổng thống cho đến kẻ ăn mày, đều có phiền não của họ. Các vị nguyên thủ các nước trên thế giới, hôm nay lo cho đất nước, ngày mai lo cho dân chúng, có rất nhiều việc tâm phải lo lắng, phiền não. Kẻ ăn xin thì đi xin tiền, người ta không bố thí, thì họ cũng nóng giận, sinh phiền não. Nếu muốn không có phiền não thì, chỉ có một cách duy nhất, đó là siêng tu giới định huệ, diệt trừ tham sân si. Tu hành đến nhà, thì tự nhiên chẳng sinh phiền não nữa.

 

Vi phát đại bi tâm, Vì họ, phát đại bi
Quảng thuyết đối trì môn Rộng nói môn đối trị
Bát vạn tứ thiên chủng Có tám mươi bốn ngàn
Diệt trừ chúng khổ hoạn. Diệt trừ những khổ hoạn.

Giảng: Bồ Tát phát tâm đại bi, vì chúng sinh có ba độc tham sân si, rộng nói phương pháp đối trị. Phật nói tám vạn bốn ngàn pháp môn, là để đối trị tám vạn bốn ngàn phiền não của chúng sinh. Tám vạn bốn ngàn thứ toa thuốc nầy, diệt trừ được tất cả các bệnh khổ. Nghiên cứu toa thuốc mà không uống thì chẳng có ích lợi gì. Cho nên học Phật pháp, phải có công phu : Tin, hiểu, hành, chứng, mới thành tựu được.

 

Bồ Tát vi pháp vương Bồ Tát làm Pháp Vương
Chánh đạo hóa chúng sanh Chánh đạo dạy chúng sanh
Lệnh viễn ác tu thiện, Bảo xa ác, tu thiện
Chuyên cầu Phật công đức; Chuyên cầu Phật công đức,

Giảng: Bồ Tát là vua trong các pháp, dùng Bát Chánh Đạo để giáo hoá chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh, xa lìa mười điều ác, tịnh tu mười điều lành, chuyên cầu công đức của chư Phật. Công đức của chư Phật là tận hư không khắp pháp giới, chẳng có bờ mé.

 

Nhất thiết chư Phật sở Ờ chỗ chư Như Lai
Quán đảnh thọ tôn kí Quán đảnh thọ Phật ký
Quảng thí chúng Thánh tài Rộng ban những Thánh tài
Bồ-đề phần trân bảo Bồ đề phần: trân bửu

Giảng: Bồ Tát ở trong đạo tràng của tất cả chư Phật, tiếp thọ lễ thọ ký quán đảnh tôn quý. Phật nói : Ông ở đời vị lai sẽ thành Phật, danh hiệu gì, ở thế giới nào đó thành Phật, thọ mạng bao nhiêu kiếp. Rộng thí tất cả Thánh tài, bảy Bồ đề phần và Bát Chánh Đạo, đó là những trân bảo quý giá.

 

Bồ Tát chuyển pháp luân Bồ Tát chuyển pháp luân
Như Phật chi sở chuyển, Như chư Phật đã chuyển
Giới cốc tam muội võng Giới: trục, định: gọng xe
Trí trang tuệ vi kiếm Trí: trang nghiêm, gươm: huệ

Giảng: Bồ Tát đại chuyển pháp luân, giáo hoá chúng sinh. Như Phật Thích Ca Mâu Ni chuyển bánh xe pháp. Dùng giới làm trục xe, dùng tam muội làm gọng xe. Dùng trí làm trang nghiêm, dùng huệ làm bảo kiếm, chặt đầu tặc phiền não, mới có thể không còn vọng tưởng nữa.

 

Ký phá phiền não tặc Ðã phá giặc phiền não
Diệc điễn chúng ma oán Cũng dẹp những ma oán,
Nhất thiết chư ngoại đạo Tất cả các ngoại đạo.
Kiến chi vô bất tán Vừa thấy liền ta rã.

Giảng: Bồ Tát đã phá trừ được tặc phiền não, cũng diệt sạch hết tất cả chúng ma oán. Tất cả hết thảy ngoại đạo, thấy được kiếm trí huệ rồi, thì kinh hãi khiếp vía, bỏ chạy lập tức tan rã.

 

Bồ Tát trí tuệ hải Bồ Tát biển trí huệ
Thâm quảng vô nhai tế Sâu rộng không ngằn mé
Chánh pháp vị doanh hiệp Vị chánh pháp đầy tràn
Giác phần bảo sung mãn Báu giác phần sung mãn,

Giảng: Trí huệ của Bồ Tát như biển cả, sâu không thể dò được, rộng không thể lường được, đều không có bờ mé. Vị chánh pháp tràn đầy và dung hợp, báu Bồ đề phần đầy dẫy trong đó.

 

Đại tâm vô biên ngạn Ðại tâm không bờ mé
Nhất thiết trí vi triều Nhứt Thiết trí: nước triều
Chúng sanh mạc năng trắc Chúng sanh chẳng thể lường
Thuyết chi bất khả tận Nói đó không hết được.

Giảng: Tâm đại bi không có bờ mé, nhất thiết trí huệ làm thuỷ triều. Tất cả chúng sinh không cách gì dò lường được, bất cứ nói như thế nào, cũng không thể diễn nói hết được cảnh giới nầy.

 

Bồ Tát Tu-di sơn Bồ Tát núi Tu Di
Siêu xuất ư thế gian Vượt hơn cả thế gian
Thần thông tam muội phong, Ðảnh thần thông tam muội
Đại tâm an bất động Ðại tâm an bất động.

Giảng: Bồ Tát cao lớn như núi Tu Di, vượt qua tất cả núi lớn của thế gian. Dùng thần thông tam muội làm đỉnh núi, tâm đại định an trụ không lay động.

 

Nhược hữu thân cận giả Nếu có ai gần gũi
Đồng kỳ trí tuệ sắc Ðồng một màu trí huệ
Hơn tuyệt chúng cảnh giới, Hơn hẳn các cảnh giới
Nhất thiết vô bất đổ. Tất cả đều xem thấy.

Giảng: Nếu có ai gần gũi Bồ Tát, đều đồng trí huệ màu sắc với Bồ Tát. Tất cả cảnh giới khác không bằng được, chẳng có tất cả cảnh giới. Tuy nhiên chẳng có tất cả cảnh giới, nhưng tất cả đều là cảnh giới, tất cả chúng sinh không ai mà chẳng thấy được cảnh giới nầy.

 

Bồ Tát như Kim cương, Bồ Tát như kim cang
Chí cầu nhất thiết trí, Chí cầu Nhứt Thiết trí
Tín tâm cập khổ hạnh, Tín tâm cùng khổ hạnh
Kiên cố bất khả động Kiên cố chẳng động được.

Giảng: Bồ Tát kiên cố như kim cang, chí nguyện cầu nhất thiết trí, tín tâm và khổ hạnh rất là kiên cường, không thể lay động. Do đó có câu:

“Tin là nguồn đạo mẹ công đức, Dưỡng lớn tất cả các căn lành”.

Tín tâm là điều kiện cần có trước nhất của người tu đạo. Có tín tâm rồi, thì mới có thể tu mười hai hạnh đầu đà. Thế nào là mười hai hạnh đầu đà? Đó là:

1. Ở chỗ A lan nhã (nơi vắng vẻ).
2. Thường đi khất thực.
3. Khất thực có thứ tự.
4. Ngày ăn một bữa.

5. Ăn có tiết lượng.
6. Quá ngọ không ăn.
7. Mặc y phấn tảo.
8. Chỉ có ba y.

9. Ở ngoài nghĩa địa.
10. Ở dưới gốc cây.
11. Ngồi ngoài đất trống.
12. Chỉ ngồi không nằm (ngủ ngồi).

 

Kỳ tâm vô sở úy, Tâm Ngài không e sợ
Nhiêu ích chư quần sanh Lợi ích mọi quần sanh
Chúng ma dữ phiền não Chúng ma và phiền não
Nhất thiết tất tồi diệt Tất cả đều trừ diệt.

Giảng: Tâm Bồ Tát chẳng có sợ hãi, gì cũng không sợ, cho nên Bồ Tát có bốn vô sở uý (bốn điều không sợ hãi), khác với bốn vô sở uý của Phật.

1. Tổng trì vô uý.
2. Tri căn vô uý.
3. Đáp nạn vô uý.
4. Quyết nghi vô uý.

Bồ Tát làm gì cũng chỉ vì lợi ích tất cả chúng sinh. Tất cả chúng ma và tất cả phiền não, Bồ Tát dùng kiếm trí huệ tiêu diệt sạch.

 

Bồ Tát đại từ bi Bồ Tát đại từ bi
Thí như trọng mật vân, Ví như mây đầy kín
Tam minh phát điện quang Tam minh phát điển quang
Thần túc chấn lôi âm Thần túc chấn lôi âm,

Giảng: Bồ Tát có tâm đại từ bi, ví như mây dày kín. Ba minh tức là thiên nhãn minh, túc mạng minh, lậu tận minh, phát ra ánh chớp, thần túc thông phát ra tiếng sấm lớn, mưa xuống mưa pháp lớn. Khiến cho chúng sinh thọ được sự thấm nhuần của mưa pháp, sinh trưởng đủ thứ căn lành.

 

Phổ dĩ tứ biện tài Khắp dùng tứ biện tài
Vũ bát công đức thủy Mưa nước bát công đức
Nhuận hiệp ư nhất thiết Ướt nhuần tất cả chỗ
Lệnh trừ phiền não nhiệt Khiến hết nóng phiền não.

Giảng: Bồ Tát dùng bốn biện tài vô ngại :

1. Pháp vô ngại biện.
2. Nghĩa vô ngại biện.
3. Từ vô ngại biện.
4. Lạc thuyết vô ngại biện.

Để giáo hoá tất cả chúng sinh. Mưa xuống nước tám công đức :
1. Lắng trong.
2. Tươi mát.
3. Ngon ngọt.
4. Nhẹ nhàng.
5. Thấm nhuần.
6. An hoà.
7. Trừ bệnh.
8. Tăng ích.
Để thấm nhuần tất cả chúng sinh, giải trừ những phiền não nóng bức của tất cả chúng sinh.

 

Bồ Tát chánh pháp thành Bồ Tát: thành chánh pháp
Bát-nhã dĩ vi tường Bát nhã dùng làm vách
Tàm quý vi thâm tiệm Tàm qúy làm hào sâu
Trí tuệ vi khước địch Trí huệ làm khí giới

Giảng: Bồ Tát thường trụ ở trong thành chánh pháp, dùng Bát Nhã làm làm tường vách, dùng hổ thẹn (tàm quý) làm hào sâu (sông hộ thành ở ngoài thành), dùng trí huệ để ngăn địch.

 

Quảng khai giải thoát môn Mở rộng cửa giải thoát
Chánh niệm hằng phòng thủ Chánh niệm hằng phòng thủ
Tứ đế thản Vương đạo, Tứ đế: đường bằng thẳng
Lục thông tập binh trượng, Lục thông: nhóm quân đội,

Giảng: Rộng mở cửa thành giải thoát, dùng chánh niệm làm quân đội, luôn luôn phòng thủ. Dùng khổ tập diệt đạo bốn đế làm con đường bằng phẳng, sáu thần thông làm gậy tập binh.

 

Phục kiến Đại Pháp-Tràng Lại sựng tràng đại pháp
Châu hồi biến kỳ hạ Bao quanh khắp dưới thành
Tam hữu chư ma chúng Những ma quân ba cõi
Nhất thiết vô năng nhập. Tất cả không vào được.

Giảng: Lại kiến lập một pháp tràng lớn, bao quanh khắp phía dưới thành, tất cả chúng ma ba cõi, không thể vào trong pháp thành được, để nhiễu loạn tâm thanh tịnh của người tu đạo. Người tu đạo nhất định phải phát bồ đề tâm, bằng không, ma sẽ tìm cách mà vào, để nhiễu loạn, khiến cho bạn mất đi tâm tu đạo.

 

Bồ Tát Ca Lâu La, Bồ Tát: Kim Diểu Vương
Như ý vi kiên túc Như ý L làm chân cứng
Phương tiện dũng mãnh sí Phương tiện: cánh mạnh khỏe
Từ bi minh Tịnh nhãn Từ bi: cặp mắt sáng

Giảng: Bồ Tát giống như chim đại bàng cánh vàng, dùng như ý làm chân cứng chắc, dùng phương tiện làm cánh dũng mãnh, dùng từ bi làm con mắt thanh tịnh. Mắt của chim đại bàng cánh vàng từ trên mặt biển có thể nhìn xuống tận đáy biển, chẳng có gì chướng ngại.

 

Trụ nhất thiết trí thụ Ðâu cây: Nhứt Thiết trí
Quán tam hữu đại hải, Xem biển cả: tam giới
Bác toát Thiên Nhân long, Chụp bắt rồng: nhơn, thiên
An trí Niết-Bàn ngạn. Ðể trên bờ tịch diệt.

Giảng: Chim đại bàng cánh vàng, trụ ở trên cây nhất thiết trí núi kim cang, quán sát hết thảy biển cả trong ba cõi. Chuyên bắt rồng ở nhân gian và rồng ở trên trời, đặt để ở bờ Niết Bàn. Phàm là rồng số mạng sắp hết, thì sẽ gặp chim cánh vàng nầy, chẳng còn thần thông, chẳng còn sức chống cự, bị chim cánh vàng nầy bắt ăn. Nhưng khi chim cánh vàng số mạng sắp hết, thì không còn sức lực bắt rồng ăn, tới lui mấy lần, cũng không được thức ăn, bị lửa sân thiêu đốt, chỉ còn lại quả tim không cháy, trở thành dạ minh châu, tức cũng là hạt bảo châu như ý.

 

Bồ Tát chánh pháp nhật Bồ Tát: chánh pháp nhựt
Xuất hiện ư thế gian, Xuất hiện ở thế gian
Giới phẩm viên mãn luân Giới phẩm: vầng nhựt tròn
Thần túc tốc tật hành Thần túc: xoay đi mau

Giảng: Bồ Tát như mặt trời chánh pháp, xuất hiện ở thế gian. Dùng giới phẩm làm vầng mặt trời viên mãn. Thần túc đi mau lẹ, đi nhanh giống như mặt trời.

 

Chiếu dĩ trí tuệ quang Chiếu sáng: trí huệ quang
Trưởng chư căn lực dược, Lớn cây thuốc: căn, lực
Diệt trừ phiền não ám Diệt trừ tối phiền não
Tiêu kiệt ái dục hải Tiêu cạn biển ái dục.

Giảng: Trí huệ quang minh của Bồ Tát, hay làm tăng trưởng thuốc năm căn : Tín căn, tấn căn, niệm căn, định căn, huệ căn. Và năm lực : Tín lực, tấn lực, niệm lực, định lực, huệ lực. Thứ thuốc nầy hay diệt trừ tất cả đen tối phiền não. Lại hay cạn sạch biển ái dục của con người. Ái dục của con người như biển cả, có ánh sáng trí huệ mặt trời, mới có thể làm khô cạn được, thì sẽ không còn mọi phiền não nữa.

 

Bồ Tát trí quang nguyệt, Bồ Tát: trí quang nguyệt
Pháp giới dĩ vi luân, Pháp giới làm vầng trăng
Du ư tất cánh không Ði nơi tất cánh không
Thế gian vô bất kiến Thế gian đều xem thấy.

Giảng: Trí huệ quang của Bồ Tát như ánh sáng mặt trăng, dùng pháp giới làm vầng trăng. Thường du hành ở trên bầu trời, tất cả chúng sinh thế gian, chẳng có ai mà chẳng thấy. Cho nên nói Bồ Tát mặt trăng mát mẻ, lơ lửng trên bầu trời, ánh sáng chiếu ba cõi, tâm tịnh đều hiện ra.

 

Tam giới thức tâm nội Trong tam giới thức tâm
Tùy thời hữu tăng giảm Tùy thời có tăng giảm
Nhị thừa tinh tú trung, Trong tinh tú Nhị thừa
Nhất thiết vô trù thất. Tất cả không sánh kịp.

Giảng: Tâm thức chúng sinh trong ba cõi, tuỳ thời tuỳ lúc có tăng có giảm. Người nhị thừa như ánh sáng của trăng sao, không thể sánh được với ánh sáng mặt trăng mát mẻ của Bồ Tát.

 

Bồ Tát đại pháp vương Bồ Tát: Ðại pháp vương
Công đức trang nghiêm thân Công đức trang nghiêm thân
Tướng hảo giai cụ túc Tướng hảo đều đầy đủ
Nhân thiên tất chiêm ngưỡng, Người, Trời đều chiêm ngưỡng

Giảng: Bồ Tát là đại Pháp Vương, đầy đủ tất cả công đức, trang nghiêm thân. Ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp, đều đã đầy đủ. Người nhân gian và chư Thiên, đều chiêm ngưỡng Bồ Tát.

 

Phương tiện thanh tịnh mục, Phương tiện: mắt thanh tịnh
Trí tuệ Kim Cương xử Trí huệ: chày kim cang
Ư Pháp đắc tự tại Nơi pháp được tự tại
Dĩ đạo hóa quần sanh Ðem đạo dạy quần sanh.

Giảng: Bồ Tát dùng phương tiện mắt thanh tịnh, trí huệ chày kim cang, đối với pháp đắc được tự tại, dùng chánh đạo giáo hoá chúng sinh, khiến cho chúng sinh trước học bát chánh đạo, sau tu pháp sáu độ.

 

Bồ Tát Đại Phạm Vương Bồ Tát: Ðại Phạm Vương
Tự tại siêu tam hữu Tự tại siêu ba cõi
Nghiệp hoặc tất giai đoạn Nghiệp hoặc thảy đều dứt
Từ xả mị bất cụ, Từ, xả đều đủ cả,

Giảng: Bồ Tát như Đại Phạm Vương, sức tự tại vượt qua tam giới hai mươi lăm cõi. Ác nghiệp và mê hoặc, hoàn toàn dứt hẳn. Từ bi hỉ xả bốn tâm vô lượng đều đầy đủ.

 

Xứ xứ thị hiện thân, Xư xứ thị hiện thân
Khai ngộ dĩ pháp âm Khai ngộ dùng pháp âm
Ư bỉ tam giới trung, Ở trong ba cõi kia
Bạt chư tà kiến căn. Nhổ những gốc tà kiến.

Giảng: Bồ Tát vì giáo hoá chúng sinh, các nơi thị hiện hoá thân, dùng tiếng thanh tịnh để khiến cho chúng sinh khai ngộ. Nhổ sạch gốc rễ tà tri tà kiến của chúng sinh trong cõi dục, cõi sắc, cõi vô sắc. Bằng không, khi gặp nhân duyên thì sẽ sinh trở lại.

 

Bồ Tát Tự tại Thiên, Bồ Tát: Tự Tại Thiên
Siêu quá sanh tử địa, Siêu quá cõi sanh tử
Cảnh giới thường thanh tịnh Cảnh giới thường thanh tịnh
Trí tuệ vô thoái chuyển Trí huệ không thối chuyển

Giảng: Bồ Tát như vua Trời Đại Tự Tại, đã vượt qua khỏi sinh tử, cảnh giới thường thanh tịnh, trí huệ vĩnh viễn không thối chuyển A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Trí huệ của vua Trời Đại Tự Tại, biết được rõ ràng số giọt mưa xuống trong ba ngàn đại thiên thế giới.

 

Tuyệt bỉ hạ thừa đạo, Tuyệt những đạo hạ thừa
Thọ chư quán đảnh Pháp Thọ những pháp quản đảnh
Công đức trí tuệ cụ Ðủ công đức trí huệ
Danh xưng mị bất văn. Tiếng tăm ai cũng nghe.

Giảng: Bồ Tát tuyệt đối không tu pháp tiểu thừa, đã thọ pháp quán đảnh của chư Phật. Hết thảy Bồ Tát khi sắp thành Phật, trước hết thọ Phật quán đảnh, mới có thể vào bậc Pháp Vương. Công đức trí huệ của Bồ Tát đều đã đầy đủ. Danh hiệu của Bồ Tát không đâu mà không biết, không đâu mà không nghe.

 

Bồ Tát trí tuệ tâm Bồ Tát: trí huệ tâm
Thanh tịnh như hư không Thanh tịnh như hư không
Vô tánh vô y xứ Không tánh, không sở y
Nhất thiết bất khả đắc Tất cả bất khả đắc,

Giảng: Trí huệ tâm của Bồ Tát thanh tịnh như hư không, chẳng còn tánh chấp trước, chẳng còn chỗ chấp trước nào, tất cả bất khả đắc. Tại sao? Vì thanh tịnh như hư không.

 

Hữu Đại tự tại lực Có sức đại tự tại
Năng thành thế gian sự Hay nên việc thế gian
Tự cụ thanh tịnh hạnh Tự đủ hạnh thanh tịnh
Lệnh chúng sanh diệc nhiên. Khiến chúng sanh cũng vậy.

Giảng: Bồ Tát có sức lực đại tự tại, hay thành tựu tất cả sự việc thế gian. Bồ Tát đã đầy đủ hạnh thanh tịnh, khiến cho tất cả chúng sinh cũng đầy đủ hạnh thanh tịnh.

 

Bồ Tát phương tiện địa, Bồ Tát: đất phương tiện
Nhiêu ích chư chúng sanh Lợi ích các quần sanh,
Bồ Tát từ bi thủy Bồ Tát: nước từ bi
Cán địch chư phiền não Rửa sạch những phiền não

Giảng: Bồ Tát như đất phương tiện, hay lợi ích hết thảy chúng sinh. Nước từ bi của Bồ Tát, hay rửa sạch tất cả phiền não của chúng sinh. Tóm lại, Bồ Tát nơi nơi đều vì chúng sinh làm lợi ích, chẳng có việc gì mà tính toán cho riêng mình.

 

Bồ Tát trí tuệ hỏa Bồ Tát: lửa trí huệ
Thiêu chư hoặc tập tân Ðốt những củi hoặc tập.
Bồ Tát vô trụ phong Bồ Tát: gió không dừng
Du hành tam hữu không Du hành ba cõi trống.

Giảng: Lửa trí huệ của Bồ Tát hay thiêu đốt tất cả mê hoặc và tất cả tập khí của chúng sinh. Những thứ đó giống như củi khô, bị lửa trí huệ thiêu đốt. Gió vô trụ của Bồ Tát, hay du hành trong hư không ba cõi, chẳng có sự chướng ngại.

 

Bồ Tát như trân bảo Bồ Tát: những trân bửu
Năng tế bần cùng ách Hay giúp nạn nghèo cùng.
Bồ Tát như Kim cương, Bồ Tát: như kim cang
Năng tồi điên đảo kiến Hay dẹp điên đảo kiến.

Giảng: Bồ Tát như trân bảo, hay cứu giúp sự khổ ách bần cùng. Bồ Tát như kim cang, hay phá tan thấy điên đảo của chúng sinh. Nghĩa là khổ mà cho là vui, vui cho là khổ, vô thường cho là thường, thường cho là vô thường, vô ngã cho là ngã, ngã cho là vô ngã, chẳng tịnh cho là tịnh, tịnh cho là chẳng tịnh. Tóm lại, đó là tà tri tà kiến.

 

Bồ Tát như anh lạc Bồ Tát: như anh lạc
Trang nghiêm tam hữu thân Trang nghiêm thân ba cõi.
Bồ Tát như ma-ni, Bồ Tát: như ma ni
Tăng trưởng nhất thiết hành. Tăng trưởng tất cả hạnh

Giảng: Bồ Tát như anh lạc, hay trang nghiêm sắc thân ba cõi. Bồ Tát như châu ma ni như ý, hay tăng trưởng sáu độ vạn hạnh. Châu như ý hay sinh ra đủ thứ đồ vật theo sự mong cầu, đều làm cho vừa ý.

 

Bồ Tát đức như hoa, Bồ Tát: đức như hoa
Thường phát Bồ-đề phần Thường phát Bồ đề phần.
Bồ Tát nguyện như man Bồ Tát: nguyện như tràng.
Hằng hệ chúng sanh thủ Hằng trùm đầu chúng sanh.

Giảng: Đức tánh của Bồ Tát giống như hoa, thường toả ra vị hương bồ đề phần. Thệ nguyện của Bồ Tát như tràng hoa, luôn cài trên đầu chúng sinh.

 

Bồ Tát tịnh giới hương Bồ Tát: tịnh giới hương
Kiên trì vô khuyết phạm Bền giữ không hủy phạm.
Bồ Tát trí đồ hương Bồ Tát: trí hương thoa
Phổ huân ư tam giới. Huân khắp cả ba cõi.

Giảng: Bồ Tát tu giới luật thanh tịnh, mới có giới hương, định hương, huệ hương, giải thoát hương, giải thoát tri kiến hương. Kiên trì giới luật, tuyệt đối không khuyết phạm. Trí huệ của Bồ Tát như hương đốt, có thể xông khắp tất cả chúng sinh trong ba cõi, khiến cho ai ngửi được, thân tâm thanh tịnh, chẳng còn nóng phiền não.

 

Bồ Tát lực như trướng Bồ Tát: lực như trướng
Năng già phiền não trần Hay ngăn bụi phiền não.
Bồ Tát trí như tràng Bồ Tát: trí như tràng
Năng tồi ngã mạn địch Hay dẹp giặc ngã mạn.

Giảng: Sức lực của Bồ Tát, giống như trướng báu, hay ngăn bụi phiền não. Trí huệ của Bồ Tát như tràng báu, hay phá tan kẻ địch ngã mạn. Người học Phật pháp đố kị nhất là có tâm cống cao ngã mạn, nó hay chướng ngại tiến bộ của sự tu đạo.

 

Diệu hạnh vi tăng thải, Diệu hạnh làm gấm thêu
Trang nghiêm ư trí tuệ, Trang nghiêm nơi trí huệ.
Tàm quý tác y phục, Tàm quý là y phục
Phổ phước chư quần sanh Trùm khắp các quần sanh.

Giảng: Bồ Tát dùng diệu hạnh để làm gấm thêu, trang nghiêm nơi trí huệ. Bồ Tát dùng tàm quý (hổ thẹn) làm y phục, khắp che tất cả chúng sinh. Bồ Tát có tâm từ bi đối đãi chúng sinh, chẳng có gì không làm được.

 

Bồ Tát vô ngại thừa Bồ Tát: xe vô ngại
Cân chi xuất tam giới; Ngồi đó ra ba cõi.
Bồ Tát Đại lực tượng Bồ Tát: tượng đại lực
Kỳ tâm thiện điều phục; Tâm tánh khéo điều phục.

Giảng: Bồ Tát dùng pháp đại thừa không có chướng ngại, giáo hoá tất cả chúng sinh, khiến cho họ thoát khỏi ba cõi. Trong tam giới có phần đoạn sinh tử, ngoài tam giới có biến dịch sinh tử. Bồ Tát như voi sức lớn, tâm nhu hoà, khéo điều phục. Voi có linh tánh, hay biết được ý người.

 

Bồ Tát thần túc mã Bồ Tát: ngựa thần túc
Đằng bộ siêu chư hữu Bay chạy vượt các cõi.
Bồ-tát thuyết Pháp long Bồ Tát: tồng thuyết pháp
Phổ vũ chúng sanh tâm Mưa khắp tâm chúng sanh.

Giảng: Thần túc của Bồ Tát như ngựa báu, hay bay đi vượt qua các cõi trong tam giới. Bồ Tát nói pháp giống như rồng thần, biến hoá khó dò. Hay mưa khắp trong tâm chúng sinh.

 

Bồ Tát ưu-đàm hoa Bồ Tát: hoa ưu đàm
Thế gian nan trực ngộ Thế gian khó gặp gỡ
Bồ Tát đại dũng tướng Bồ Tát: tướng khỏe mạnh
Chúng ma tất hàng phục Chúng ma đều hàng phục,

Giảng: Bồ Tát như hoa ưu đàm, dịch là đoan ứng. Theo căn cứ nói thì ba ngàn năm hoa mới nở một lần. Khi Phật ra đời thì đã từng nở hoa, trên thế gian khó gặp được cảnh giới hoa này nở. Bồ Tát còn là một vị tướng quân đại dũng mãnh, hay hàng phục được tất cả chúng ma, không còn nhiễu loạn tâm thanh tịnh của người tu đạo.

 

Bồ Tát chuyển pháp luân Bồ Tát: chuyển pháp luân
Như Phật chi sở chuyển Như chư Phật đã chuyển.
Bồ Tát đăng phá ám Bồ Tát: đèn phá tối
Chúng sanh kiến chánh đạo Chúng sanh thấy chánh đạo.

Giảng: Khi Bồ Tát chuyển bánh xe pháp, thì tình hình giống như Phật chuyển bánh xe pháp. Đèn trí huệ của Bồ Tát hay phá trừ tất cả đen tối. Có quang minh rồi, thì tất cả chúng sinh sẽ thấy được chánh đạo.

 

Bồ Tát công đức hà Bồ Tát: sông công đức
Hằng thuận chánh đạo lưu Hằng thuận dòng chánh đạo.
Bồ Tát tinh tấn kiều Bồ Tát: cầu tinh tấn
Quảng độ chư quần phẩm Rộng độ các quần sanh.

Giảng: Công đức của Bồ Tát giống như con sông lớn, luôn chảy thuận theo chánh đạo. Sự tinh tấn của Bồ Tát giống như cây cầu lớn, rộng độ tất cả chúng sinh, từ bờ sinh tử bên này, qua dòng phiền não, đạt đến bờ Niết Bàn bên kia.

 

Đại trí dữ hoằng thệ Ðại trí cùng hoằng thệ
Cọng tác kiên lao thuyền Ðồng làm thuyền bền chắc
Dẫn tiếp chư chúng sanh Tiếp dẫn các chúng sanh
An trí Bồ-đề ngạn. Ðặt ở bờ Bồ đề.

Giảng: Đại trí huệ và đại hoằng thệ nguyện của Bồ Tát, cùng làm chiếc thuyền vững chắc, tiếp dẫn tất cả chúng sinh, bình an đến được bờ bồ đề.

 

Bồ Tát du hí viên Bồ Tát: vườn du hý
Chân thật lạc chúng sanh Chơn thiệt vui chúng sanh.
Bồ Tát giải thoát hoa, Bồ Tát: giải thoát hoa
Trang nghiêm trí cung điện Trang nghiêm cung điện trí.

Giảng: Vườn du hí của Bồ Tát, ban cho tất cả chúng sinh vui chơi, đắc được sự an vui chân thật. Hoa giải thoát của Bồ Tát, trang nghiêm cung điện trí huệ. Cung điện đó chẳng những trang nghiêm, mà còn thanh tịnh nữa. Cung điện đó có thể phước huệ song tu, tự nhiên thành tựu đấng Lưỡng Túc.

 

Bồ Tát như diệu dược Bồ Tát: như diệu dược
Diệt trừ phiền não bệnh Diệt trừ bịnh phiền não.
Bồ Tát như tuyết sơn Bồ Tát: như núi Tuyết
Xuất sanh trí tuệ dược Xuất sanh thuốc trí huệ.

Giảng: Bồ Tát như thuốc hay thượng hạng, hay diệt trừ tất cả bệnh phiền não. Bồ Tát như núi tuyết, hay sinh ra thuốc trí huệ, chuyên chữa trị bệnh ngu si.

 

Bồ Tát đẳng ư Phật Bồ Tát: đồng với Phật
Giác ngộ chư quần sanh Giác ngộ các quần sanh,
Phật tâm khởi hữu tha, Tâm Phật đâu có khác
Chánh giác giác thế gian Chanh giác giác thế gian.

Giảng: Bồ Tát tương đồng với Phật, hay giác ngộ tất cả chúng sinh. Trong tâm Phật chẳng có việc gì khác, chỉ có dùng chánh giác để giác ngộ tất cả chúng sinh thế gian. Phật nói: “Tất cả chúng sinh, đều có Phật tánh, đều có thể làm Phật”.

 

Như Phật chi sở lai, Như chỗ đến của Phật
Bồ Tát như thị lai; Bồ Tát: đến như vậy.
Diệc như nhất thiết trí, Cũng như nhứt Thiết trí
Dĩ trí nhập Phổ môn. Dùng trí nhập phổ môn.

Giảng: Sở cầu của Phật, Bồ Tát cũng như thế, cũng đồng với nhất thiết trí, dùng trí huệ vào hết thảy phổ môn của chúng sinh.

 

Bồ Tát thiện khai đạo Bồ Tát: khéo khai đạo
Nhất thiết chư quần sanh Tất cả các quần sanh.
Bồ Tát tự nhiên giác Bồ Tát: tự nhiên giác
Nhất thiết trí cảnh giới. Cảnh giới nhứt Thiết trí.

Giảng: Bồ Tát khéo khai đạo tất cả chúng sinh, khéo giáo hoá tất cả chúng sinh, khéo độ thoát tất cả chúng sinh. Bồ Tát thông đạt trí vô sư, tức là trí tự nhiên. Cho nên khi tu hành, có những cảnh giới không do người khác dạy mà tự mình khai ngộ. Cảnh giới nhất thiết trí, Bồ Tát tự nhiên thông đạt vô ngại.

 

Bồ Tát vô lượng lực, Bồ Tát: vô lượng lực
Thế gian mạc năng hoại; Thế gian chẳng hoại được.
Bồ Tát vô úy trí, Bồ Tát: trí vô úy
Tri chúng sanh cập Pháp. Biết chúng sanh và pháp

Giảng: Bồ Tát có vô lượng sức thần thông, thiên ma ngoại đạo của thế gian, không cách gì phá hoại được. Bồ Tát lại có trí huệ đại vô uý, biết được căn tánh của chúng sinh, lại biết rõ tất cả pháp môn phương tiện, dùng pháp môn gì để độ thoát chúng sinh nào.

 

Nhất thiết chư thế gian Tất cả các thế gian
Sắc tướng các sái biệt, Sắc tướng đều sai khác.
Âm thanh cập danh tự, Âm thanh và danh tự
Tất năng phân biệt tri Ðều hay phân biệt biết.

Giảng: Hết thảy tất cả chúng sinh thế gian, sắc tướng đều khác nhau, do đó có câu: “Ngàn sai vạn biệt”. Nhưng âm thanh và danh từ của chúng sinh, Bồ Tát đều phân biệt được rất rõ ràng, chẳng có sự sai lầm.

 

Tuy ly ư danh sắc, Dầu rời nơi danh sắc
Nhi hiện chủng chủng tướng Mà hiện các thứ tướng
Nhất thiết chư chúng sanh Tất cả các chúng sanh
Mạc năng trắc kỳ đạo Chẳng lường được đạo đó.

Giảng: Tuy Bồ Tát lìa khỏi tất cả danh tướng và tất cả sắc tướng, nhưng vẫn hay thị hiện đủ thứ tướng. Tất cả chúng sinh, chẳng cách gì có thể dò biết được đạo tu hành của Bồ Tát. Chẳng những không biết được đạo tu hành của Bồ Tát, dù những gì bậc có trí huệ làm, người ngu si cũng không hiểu biết được.

 

Như thị đẳng công đức, Những công đức như vậy
Bồ Tát tất thành tựu Bồ Tát đều thành tựu.
Liễu tánh giai vô tánh Biết tánh đều vô tánh
Hữu vô vô sở trước. Hữu vô, không chấp trước.

Giảng: Công đức nhiều như vậy, Bồ Tát hoàn toàn thành tựu được. Thấu rõ tánh của tất cả pháp hữu vi, đều là vô tánh. Bất luận pháp hữu vi và pháp vô vi, đều không chấp trước.

 

Như thị nhất thiết trí, Nhứt Thiết trí như vậy
Vô tận vô sở y Vô tận vô sở y
Ngã kim đương diễn thuyết Nay tôi sẽ diễn thuyết
Lệnh chúng sanh hoan hỉ. Khiến chúng sanh hoan hỷ.

Giảng: Nhất thiết trí huệ như vậy, vô tận không chỗ nương, nó là lìa tất cả tướng, phá tất cả chấp trước. Bồ Tát Phổ Hiền nói: “Ở trước đã nói Bồ Tát có đủ thứ trí huệ, đủ thứ thần thông, đủ thứ biến hoá, đủ thứ tự tại. Hiện tại tôi sẽ vì quý vị nói rõ ràng, khiến cho tất cả chúng sinh đều sinh tâm hoan hỉ.

 

Tuy tri chư Pháp tướng, Dầu biết các pháp tướng
Như huyễn tất không tịch Như huyễn đều không tịch
Nhi dĩ bi nguyện tâm, Mà dùng tâm bi nguyện
Cập Phật uy thần lực Và Phật oai thần lực

Giảng: Tuy biết tướng của các pháp, như huyễn như hoá, chẳng có thật thể, đều là không tịch. Nhưng dùng tâm đại bi và tâm đại nguyện, cùng với sức đại oai đức của Phật.

 

Hiện thần thông biến hóa Hiện thần thông biến hóa
Chủng chủng vô lượng sự Vô biên vô lượng sự.
Như thị chư công đức Những công đức như vậy
Nhữ đẳng ưng thính thọ. Các Ngài phải nghe thọ.

Giảng: Thị hiện thần thông biến hoá, có đủ thứ cảnh giới vô lượng việc. Tất cả công đức như vậy, các vị đệ tử của Phật! Nên chuyên tâm để lắng nghe thọ nhận.

 

Nhất thân năng thị hiện Một thân hay thị hiện
Vô lượng sái biệt thân, Vô lượng thân sai biệt,
Vô tâm vô cảnh giới, Không tâm không cảnh giới
Phổ ưng nhất thiết chúng. Khắp ứng tất cả chúng.

Giảng: Ở trong một thân, có thể thị hiện vô lượng thân khác nhau, đó chẳng phải tác ý mà là thị hiện, đó là vô tâm mà thị hiện, cũng chẳng có một cảnh giới nào. Nhưng hay ứng khắp tâm của tất cả chúng sinh, mà thị hiện cảnh giới đó.

 

Nhất âm trung cụ diễn Trong một âm diễn đủ
Nhất thiết chư ngôn âm Tất cả các ngôn âm
Chúng sanh ngữ ngôn Pháp Ngôn ngữ của chúng sanh
Tùy loại giai năng tác. Tùy loại đều nói được.

Giảng: Ở trong một âm thanh, có thể diễn nói đầy đủ tất cả các thứ tiếng. Do đó có câu:

“Phật dùng một âm diễn nói pháp
Chúng sinh theo loài đều hiểu rõ”.

Tất cả các ngôn ngữ lời nói của chúng sinh, Bồ Tát có thể tuỳ loại chúng sinh, đều làm được việc nầy.

 

Vĩnh ly phiền não thân Lìa hẳn thân phiền não
Nhi hiện tự tại thân, Mà hiện thân tự tại
Tri Pháp bất khả thuyết Biết pháp bất khả thuyết
Nhi tác chủng chủng thuyết Mà diễn thuyết các pháp.

Giảng: Vĩnh viễn lìa khỏi tất cả sắc thân phiền não, mà thị hiện pháp thân tự tại. Bồ Tát biết pháp không thể nói, nhưng vẫn dùng đủ thứ phương tiện để nói pháp.

 

Kỳ tâm thường tịch diệt, Tâm Ngài thường tịch diệt
Thanh tịnh như hư không, Thanh tịnh như hư không
Nhi phổ trang nghiêm sát Trang nghiêm khắp các cõi
Thị Hiện-Nhất-Thiết chúng Thị hiện tất cả chúng,

Giảng: Tâm của Bồ Tát thường là tịch diệt. Thanh tịnh như hư không, khắp trang nghiêm tất cả cõi Phật, thị hiện tất cả, khiến cho chúng sinh đều thường thấy được.

 

Ư thân vô sở trước, Nơi thân không chấp trước
Nhi năng thị hiện thân Mà hay thị hiện thân,
Nhất thiết thế gian trung Trong tất cả thế gian
Tùy ưng nhi thọ sanh Tùy nghi mà thọ sanh,

Giảng: Bồ Tát đối với thân thể chẳng chấp trước, mà hay thị hiện thân đó, ở trong tất cả thế gian, tuỳ căn cơ ứng chúng sinh, mà thọ sinh làm người, dùng bốn pháp nhiếp để hoá độ chúng sinh.

 

Tuy sanh nhất thiết xứ Dầu sanh tất cả xứ
Diệc bất trụ thọ sanh Cũng chẳng trụ thọ sanh.
Tri thân như hư không Biết thân như hư không
Chủng chủng tùy tâm hiện Nhiều loại tùy tâm hiện,

Giảng: Tuy Bồ Tát thọ sinh ở tất cả mọi nơi, cũng chẳng trụ pháp thọ sinh. Tại sao? Vì biết thân thể như hư không, đủ thứ đều tuỳ tâm ý mà hiện.

 

Bồ Tát thân vô biên, Bồ Tát thân vô biên
Phổ hiện nhất thiết xứ Hiện khắp tất cả xứ,
Thường cung kính cúng dường Thường cung kính cúng dường
Tối thắng lượng túc tôn Tối thắng Lưỡng Túc Tôn.

Giảng: Pháp thân của Bồ Tát vô lượng vô biên, hay hiện khắp tất cả mọi nơi. Thường thường cung kính cúng dường đấng Tối Thắng Lưỡng Túc, tức cũng là Phật, vì Phật ở trong quá khứ, phước huệ song tu, đầy đủ rồi, mới chứng được Phật vị Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

 

Hương hoa chúng kĩ lạc Hương hoa những kỹ nhạc
Tràng phan cập bảo cái Tràng phan và Bảo cái
Hằng dĩ thâm tịnh tâm Hằng dùng tâm thâm tịnh
Cúng dường ư chư Phật Cúng dường lên chư Phật.

Giảng: Bồ Tát dùng hương và hoa cùng với tất cả kỹ nhạc. Tràng báu và phan báu, cùng với lọng báu, luôn thường dùng tâm tin thanh tịnh, cúng dường mười phương ba đời tất cả chư Phật.

 

Bất ly nhất Phật hội Chẳng rời một Phật hội
Phổ tại chư Phật sở, Ở khắp chỗ chư Phật,
Ư bỉ Đại chúng trung Tại trong đại chúng kia
Vấn nan thính thọ Pháp. Vấn nạn nghe thọ pháp,

Giảng: Bồ Tát chẳng lìa khỏi một pháp hội của Phật, khắp ở trong đạo tràng của tất cả chư Phật. Ở trong pháp hội của chư Phật đó, hổ tương thỉnh vấn các vấn đề khó khăn, lắng nghe rồi, tin thọ nơi pháp, y pháp phụng hành.

 

Văn Pháp nhập tam muội Nghe pháp nhập tam muội
Nhất nhất vô lượng môn Mỗi mỗi vô lượng môn,
Khởi định diệc phục nhiên Khởi định cũng như vậy
Thị hiện vô cùng tận Thị hiện không cùng tận.

Giảng: Bồ Tát lắng nghe Phật pháp rồi, liền nhập tam muội. Mỗi mỗi vô lượng môn tam muội, xuất định cũng như thế. Thần thông biến hoá đó, thị hiện không cùng tận.

 

Trí tuệ xảo phương tiện Trí huệ xảo phương tiện
Liễu thế giai như huyễn Rõ thế đều như huyễn
Nhi năng hiện thế gian Mà hay hiện thế gian
Vô biên chư huyễn pháp Vô biên chư huyễn pháp

Giảng: Trí huệ của Bồ Tát và thiện xảo phương tiện, thấu rõ pháp thế gian, đều như huyễn hoá, hư vọng chẳng thật. Tuy là hư vọng, nhưng hay thị hiện nơi thế gian, du hí thần thông, vô biên các pháp huyễn.

 

Thị hiện chủng chủng sắc Vô biên nhiều loại sắc
Diệc hiện tâm cập ngữ, Cùng hiện tâm và lời
Nhập chư tưởng võng trung Vào trong lưới các tưởng
Nhi hằng vô sở trước Mà hằng không chấp trước.

Giảng: Bồ Tát thị hiện đủ thứ sắc tướng, cũng hiện tâm và lời pháp. Vào trong tất cả lưới tưởng, mà luôn luôn chẳng có sự chấp trước.

 

Hoặc hiện sơ phát tâm Hoặc hiện sơ phát tâm
Lợi ích ư thế gian Lợi ích nơi thế gian,
Hoặc hiện cửu tu hành Hoặc hiện lâu tu hành
Quảng đại vô biên tế, Rộng lớn vô biên tế,

Giảng: Hoặc thị hiện ban đầu phát bồ đề tâm, lợi ích hết thảy chúng sinh thế gian. Hoặc thị hiện dáng lão tu hành. Rộng tu ba đại A tăng kỳ kiếp, chẳng có bờ mé. Một A tăng kỳ kiếp là vô lượng số, ba A tăng kỳ kiếp là số mục bất khả thuyết bất khả thuyết.

 

Thí giới nhẫn tinh tấn, Thí, giới, nhẫn, tinh tấn
Thiền định cập trí tuệ Thiền định và trí huệ
Tứ phạm tứ nhiếp đẳng Tứ phạm, tứ nhiếp thảy
Nhất thiết tối thắng Pháp Tất cả pháp tối thắng.

Giảng: Pháp môn tu lục độ, tức là : Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ. Pháp môn tu bốn phạm hạnh, tức là: Từ, bi, hỉ, xả. Pháp môn tu bốn pháp nhiếp là: Bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự. Đó là pháp tối thù thắng trong tất cả pháp. Người tu Bồ Tát đạo, nhất định phải tu sáu độ vạn hạnh, và hành bốn pháp nhiếp, phối hợp với bốn tâm vô lượng, mới có thể thành tựu. Bằng không, mất đi tinh thần của Bồ Tát.

 

Hoặc hiện hành thành mãn Hoặc hiện hạnh thành mãn
Đắc nhẫn vô phân biệt Ðắc nhẫn vô phân biệt,
Hoặc hiện nhất sanh hệ Hoặc hiện còn một đời
Chư Phật dữ quán đảnh Chư Phật quán đảnh cho,

Giảng: Hoặc thị hiện công đức tu hành, đến cảnh giới thành tựu viên mãn, đắc được vô sanh pháp nhẫn, không phân biệt. Hoặc thị hiện một đời nhất sinh bổ xứ, được chư Phật thọ ký biệt hiệu, thọ pháp quán đảnh.

 

Hoặc hiện Thanh văn tướng Hoặc hiện tướng Thanh Văn
Hoặc phục hiện duyên giác Hoặc lại hiện Duyên Giác
Xứ xứ Bát Niết Bàn Xứ xứ nhập Niết Bàn
Bất xả Bồ-đề hạnh Chẳng bỏ hạnh Bồ đề.

Giảng: Hoặc thị hiện tướng Thanh Văn, hoặc thị hiện tướng Duyên Giác. Nơi nơi thị hiện vào Niết Bàn, bất cứ cảnh giới gì, đều tu hạnh bồ đề, chẳng khi nào xả bỏ.

 

Hoặc hiện vi Đế Thích Hoặc hiện làm Ðế Thích
Hoặc hiện vi Phạm Vương Hoặc hiện làm Phạm Vương
Hoặc Thiên nữ vi nhiễu Hoặc Thiên nữ vây quanh
Hoặc thời độc yến mặc. Hoặc lại ngồi yên lặng.

Giảng: Hoặc thị hiện trời Đế Thích, hoặc thị hiện Đại Phạm Thiên, hoặc thị hiện Thiên nữ đến vây quanh, hoặc thị hiện một người, ngồi yên lặng một mình, chẳng nói gì hết.

 

Hoặc hiện vi Tỳ-kheo Hoặc hiện làm Tỳ Kheo
Tịch tĩnh điều kỳ tâm Tịch tịnh điều tâm mình.
Hoặc hiện Tự tại Vương Hoặc hiện Tự Tại Vương
Thống lý thế gian pháp Thống lý pháp thế gian,

Giảng: Hoặc hiện làm tướng Tỳ Kheo, tịch tĩnh điều phục tâm mình, chẳng khiến cho sinh dục niệm, chẳng khiến cho khởi vô minh. Hoặc thị hiện làm Đại Tự Tại Thiên Vương, hoặc thị hiện làm Chuyển Luân Thánh Vương, thống lý tất cả pháp thế gian.

 

Hoặc hiện xảo thuật nữ Hoặc hiện gái xảo thuật,
Hoặc hiện tu khổ hạnh, Hoặc hiện tu hạnh lành,
Hoặc hiện thọ ngũ dục, Hoặc hiện thọ ngũ dục,
Hoặc hiện nhập chư Thiền. Hoặc hiện nhập thiền định,

Giảng: Hoặc thị hiện làm người nữ xảo thuật, hoặc thị hiện Tỳ Kheo tu khổ hạnh, hoặc thị hiện phàm phu thọ năm dục, hoặc thị hiện người tu hành nhập các thiền định.

 

Hoặc hiện sơ thủy sanh, Hoặc hiện sơ thỉ sanh
Hoặc thiểu hoặc lão tử. Hoặc trẻ, hoặc già chết,
Nhược hữu tư nghị giả Nếu ai muốn nghĩa bàn
Tâm nghi phát cuồng loạn Tâm nghi phát cuồng loạn.

Giảng: Bồ Tát hoặc thị hiện sơ sinh, hoặc thị hiện thiếu niên, hoặc thị hiện người già, hoặc thị hiện chết đi. Nếu như có người muốn nghĩ bàn cảnh giới nầy, tâm sẽ sinh hoài nghi, sẽ phát sinh cuồng loạn, tại sao? Vì cảnh giới nầy là không thể nghĩ bàn.

 

Hoặc hiện tại Thiên cung, Hoặc hiện ở Thiên cung
Hoặc hiện thủy hàng thần Hoặc hiện mới giáng thần
Hoặc nhập hoặc trụ thai, Hoặc nhập hoặc trụ thai
Thành Phật chuyển pháp luân Thành Phật chuyển pháp luân,

Giảng: Hoặc thị hiện trụ ở cung trời, hoặc thị hiện hàng thần xuống nhân gian, hoặc thị hiện vào thai mẹ, hoặc thị hiện thành Phật, hoặc thị hiện chuyển bánh xe pháp.

 

Hoặc sanh hoặc Niết-Bàn Hoặc sanh hoặc Niết Bàn
Hoặc hiện nhập học đường Hoặc hiện nhập học đường
Hoặc tại thải nữ trung Hoặc tại trong thể nữ
Hoặc ly tục tu Thiền Hoặc ly tục tu thiền,

Giảng: Hoặc thị hiện hàng sinh, hoặc thị hiện vào Niết Bàn. Hoặc thị hiện đi học, hoặc thị hiện ở trong tất cả thể nữ. Hoặc thị hiện xuất gia, hoặc thị hiện tu thiền định.

 

Hoặc tọa Bồ-đề thụ, Hoặc ngồi cây Bồ đề
Tự nhiên thành chánh giác Tự nhiên thành Chánh giác,
Hoặc hiện chuyển pháp luân Hoặc hiện chuyển Pháp luân
Hoặc hiện thủy cầu đạo. Hoặc hiện mới cầu đạo,

Giảng: Hoặc thị hiện ngồi dưới cội bồ đề, tự nhiên thành Chánh Giác. Hoặc thị hiện chuyển bánh xe pháp. Hoặc thị hiện xuất gia tu đạo, đó đều là tám tướng thành đạo.

 

Hoặc hiện vi Phật thân, Hoặc hiện làm thân Phật
Yến tọa vô lượng sát Ngồi yên vô lượng cõi,
Hoặc tu bất thoái đạo Hoặc tu đạo bất thối
Tích tập Bồ-đề cụ Tích tập hạnh Bồ đề,

Giảng: Hoặc thị hiện thân thành Phật, hoặc thị hiện ngồi yên vô lượng kiếp. Hoặc thị hiện tu hành đạo chẳng thối chuyển. Hoặc thị hiện tích tập đủ bồ đề.

 

Thâm nhập vô số kiếp Thâm nhập vô số kiếp
Giai tất đáo bỉ ngạn Thảy đều đến bĩ ngạn.
Vô lượng kiếp nhất niệm Vô lượng kiếp một niệm
Nhất niệm vô lượng kiếp. Một niệm vô lượng kiếp,

Giảng: Có thể vào sâu vô lượng vô biên kiếp, đều là đến bờ kia. Có thể thu vô lượng kiếp làm một niệm, lại có thể kéo dài một niệm làm vô lượng kiếp. Có thần thông biến hoá như vậy.

 

Nhất thiết kiếp phi kiếp Tất cả kiếp phi kiếp
Vi thế thị hiện kiếp Vì thế, thị hiện kiếp,
Vô lai vô tích tập Không lai, không tích tập.
Thành tựu chư kiếp sự Thành tựu những kiếp sự

Giảng: Tất cả kiếp vốn chẳng có kiếp, vì người thế gian mới thị hiện kiếp dài, kiếp ngắn. Vốn chẳng có đến, chẳng có tích tập, thành tựu tất cả kiếp sự.

 

Ư nhất vi trần trung, Ở trong một vi trần
Phổ kiến nhất thiết Phật Thấy khắp tất cả Phật.
Thập phương nhất thiết xứ Thập phương tất cả xứ
Vô xứ nhi bất hữu Không xứ nào chẳng có

Giảng: Ở trong một hạt bụi, thấy khắp tất cả chư Phật, tất cả đạo tràng mười phương, chẳng có một đạo tràng nào, mà chẳng có sự hiện thân của Bồ Tát.

 

Quốc độ chúng sanh pháp Quốc độ, pháp chúng sanh
Thứ đệ tất giai kiến Thứ đệ thảy đều thấy.
Kinh vô lượng kiếp số Trải vô lượng kiếp số
Cứu cánh bất khả tận Rốt ráo bất khả tận.

Giảng: Cõi nước và pháp chúng sinh, rất có thứ lớp, hoàn toàn thấy được rõ ràng. Trải qua vô lượng số kiếp, rốt ráo cũng chẳng cùng tận. Tóm lại, bất cứ đến lúc nào, cảnh giới đó không thể không có.

Quy cụ trong đạo tràng, khi có việc thì mọi người cùng làm. Khi ăn cơm thì cùng nhau ăn, làm việc thì cùng nhau làm. Nhưng vẫn có trường hợp ngoại lệ, ví như người nào chân chánh dụng công ngồi thiền, ngồi thiền mỗi ngày thì những việc khác có thể làm ít một chút. Tại sao? Vì họ đã đang tu hành! Hoặc niệm Phật, hoặc lạy Phật, đã đang dụng công tu hành. Nếu có những tình hình đặc biệt như vậy, thì không cần bàn đến. Bằng không, tuyệt đối không thể lười biếng, đều phải giữ quy cụ của chùa.

Bạn không thường ngồi thiền, cũng không thường lạy Phật, nhưng khi khoá lễ sáng thì không có thời giờ, nói chuyện thị phi thì có thời giờ. Hoặc khi khoá lễ sáng thì kéo dài thời gian. Bạn đến trễ, tôi đến trễ, người khác cũng đến trễ, như vậy khoá lễ sáng do ai làm? Người tu hành không tham gia khoá lễ sáng thì làm gì? Ở trong Chùa làm khoá lễ sáng là công việc của Thường Trụ, bất cứ người nào cũng không thể trốn tránh được. Không làm khoá lễ sáng tối, tức là coi thường đạo tràng, coi thường đạo tràng, tức là coi thường Phật, coi thường Phật cũng giống như coi thường vị trụ trì. Nếu coi thường vị trụ trì, thì không thể ở chung được, tức cũng không thể ở cùng với đại chúng tu hành được.

Ngoài thời gian làm khoá lễ sáng tối, thời gian còn lại tuỳ ý mình làm gì thì làm. Ai muốn tụng Kinh thì tụng, ai muốn dịch Kinh điển thì dịch, ai muốn đọc kinh sách thì đọc, ai muốn nói chuyện thị phi thì nói, ai muốn nghe chuyện thị phi thì nghe, chẳng có ai ngăn cản quý vị, cũng chẳng có ai hạn chế quý vị. Nhưng đến thời làm khoá lễ sáng tối, thì phải tham gia, vì khoá lễ sáng tối là pháp môn phải tu trong đạo tràng.

Người tu đạo phải hộ trì đạo tràng, phải tôn trọng đạo tràng, phải giữ gìn quy cụ của đạo tràng. Nghe đến tiếng chuông trống, thì lập tức buông việc xuống, chuẩn bị lên chánh điện, không nên đến trễ, phải có tinh thần đến sớm. Nếu đối với việc khoá lễ sáng tối làm không đàng hoàng, hoặc coi là việc phô diễn, thì tôi nói thẳng ra ở trong đạo tràng mà chẳng khác nào ở dưới địa ngục, do đó có câu:

“Địa ngục môn tiền Tăng Đạo đa”,

Nghĩa là:
Ở dưới địa ngục ông Tăng ông Đạo rất nhiều”.

Bất cứ là người xuất gia, hay là người tại gia, ở trong đạo tràng phải cung kính, cúng dường, không thể phá hoại quy cụ của đạo tràng. Tình hình nầy, tôi xem trong con mắt của tôi, thương tại trong tâm của tôi, tại sao? Vì tôi sợ rằng tương lai các vị đoạ địa ngục.

 

Bồ Tát tri chúng sanh, Bồ Tát biết chúng sanh
Quảng đại vô hữu biên Rộng lớn không có biên,
Bỉ nhất chúng sanh thân Một thân chúng sanh kia
Vô lượng nhân duyên khởi. Vô lượng nhơn duyên sanh.

Giảng: Bồ Tát biết chủng loại chúng sinh, rộng lớn không bờ mé. Ở trong mỗi loài chúng sinh, có đủ thứ sự khác biệt. Thân của một chúng sinh và vô lượng chúng sinh, đều có quan hệ nhân duyên. Giữa chúng sinh với chúng sinh, từ vô lượng kiếp đến nay, hổ tương làm cha con, làm mẹ con, làm anh em, làm chị em, làm vợ chồng, làm bạn bè với nhau, lục thân quyến thuộc, đều có vô lượng quan hệ sở sinh nhân duyên, cho nên đối với tất cả chúng sinh, phải có tâm từ bi thương xót, đối với tất cả chúng sinh phải coi như người thân của mình, cho nên Phật giáo đề xướng tư tưởng “Vô duyên đại từ, đồng thể đại bi”.

 

Như tri nhất vô lượng Như biết một vô lượng
Nhất thiết tất diệc nhiên; Tất cả đều cũng vậy.
Tùy kỳ sở thông đạt Theo minh đã thông đạt
Giáo chư vị học giả Dạy những người chưa học

Giảng: Như biết một vô lượng, như vậy tất cả vô lượng cũng như thế. Biết một chúng sinh và chúng ta có nhiều nhân duyên, tất cả chúng sinh cũng như thế. Tuỳ theo việc chúng sinh minh bạch, đến giáo hoá họ, chỗ Phật pháp họ chưa học qua, hoặc dạy họ tất cả những kiến thức họ chưa từng học qua.

 

Tất tri chúng sanh căn Ðều biết căn chúng sanh
Thượng trung hạ bất đồng Thượng trung hạ chẳng đồng,
Diệc tri căn chuyển di, Cũng biết căn chuyển dời
Ưng hóa bất ưng hóa Nên độ, chẳng nên độ.

Giảng: Bồ Tát đều biết căn tánh chúng sinh, phân làm thượng trung hạ ba bậc khác nhau. Mỗi người đều có trí huệ của họ, có người rất thông minh, có người rất ngu si. Cũng biết căn tánh chúng sinh, có khả năng thay đổi, đáng được giáo hoá, hoặc chẳng đáng được giáo hoá, đều biết được.

 

Nhất căn nhất thiết căn, Một căn tất cả căn
Triển chuyển nhân duyên lực Triển chuyển sức nhơn duyên,
Vi tế các sái biệt Vi tế đều sai khác
Thứ đệ vô thác loạn Thứ đệ không lầm loạn.

Giảng: Một chúng sinh có một căn tánh, tất cả chúng sinh có tất cả căn tánh, đều biết được. Hổ tưởng triển chuyển luân hồi trong sáu nẻo, lưới nghiệp thứ lớp giao thức, sức nhân duyên đó, có sự khác biệt rất vi tế, đều không giống nhau, không tán loạn.

 

Hựu tri kỳ dục giải Lại biết dục giải kia
Nhất thiết phiền não tập Tất cả tập phiền não
Diệc tri khứ lai kim, Cũng biết khứ, lai, kim
Sở hữu chư tâm hành Bao nhiêu những tâm hạnh.

Giảng: Bồ Tát lại biết sự ham muốn và hiểu biết của chúng sinh, cùng với tất cả phiền não và tập khí. Cũng biết quá khứ (hôm qua), vị lai (ngày mai), hiện tại (hôm nay), hết thảy tất cả tâm ý và hành vi. Bồ Tát đều biết đều thấy, chẳng có luống qua.

 

Liễu đạt nhất thiết hành, Thấu rõ tất cả hạnh
Vô lai diệc vô khứ Không lai cũng không khứ,
Ký tri kỳ hạnh dĩ Ðã biết hạnh kia rồi
Vi thuyết vô thượng pháp Vì nói pháp vô thượng.

Giảng: Bồ Tát thấu rõ thông đạt hạnh của tất cả chúng sinh, cũng chẳng đến, cũng chẳng đi. Tức nhiên biết hành vi chúng sinh rồi, nên vì chúng sinh nói diệu pháp vô thượng.

 

Tạp nhiễm thanh tịnh hạnh Hạnh tạp nhiễm thanh tịnh
Chủng chủng tất liễu tri Tất cả đều biết rõ,
Nhất niệm đắc Bồ-đề Một niệm được Bồ đề
Thành tựu nhất thiết trí Thành tựu Nhứt Thiết trí.

Giảng: Có hạnh tạp nhiễm, có hạnh thanh tịnh, đủ thứ hạnh, Bồ Tát đều biết. Trong khoảng một niệm, liền đến được bồ đề. Căn lành thành thục rồi, một niệm liền có thể khai ngộ, thành tựu nhất thiết trí.

 

Trụ Phật bất tư nghị Trụ Phật bất tư nghì
Cứu cánh trí tuệ tâm, Rốt ráo tâm trí huệ
Nhất niệm tất năng tri, Một niệm đều biết được
Nhất thiết chúng sanh hạnh Tất cả hạnh chúng sanh

Giảng: Trụ nơi cảnh giới của Phật, đó là không thể nghĩ bàn, có tâm trí huệ rốt ráo. Trong khoảng một niệm, biết được tất cả, tất cả không ngoài một niệm. Cho nên hành vi của tất cả chúng sinh, ở trong một niệm đều biết được.

 

Bồ Tát thần thông trí Bồ Tát trí thần thông
Công lực dĩ tự tại, Công lực đã tự tại,
Năng ư nhất niệm trung Có thể trong một niệm
Vãng nghệ vô biên sát Qua đến vô biên cõi.

Giảng: Bồ Tát có đại thần thông trí huệ, công lực đã rất tự tại, đến được cảnh giới nhậm vận tự tại, tuỳ ý muốn của tâm. Ở trong một niệm, liền đến đi vô biên cõi Phật, hiện thân vì chúng sinh thuyết pháp.

 

Như thị tốc tật vãng Qua mau chóng như vậy
Tận ư vô số kiếp, Tột đến vô số kiếp
Vô xứ nhi bất châu Không xứ nào chẳng khắp
Mạc động hào đoan phần Chẳng động phần đầu lông.

Giảng: Đến đi mau như vậy, tận cùng vô số kiếp. Tuy đi chẳng ra ngoài hư không, nhưng chẳng có một nơi nào chẳng đến. Bồ Tát hay đi đến tất cả cõi nước chư Phật, nhưng chẳng lìa chỗ mình ở. Cho nên nói chẳng động phần sợi lông.

 

Thí như công huyễn sư Ví như nà huyễn thuật
Thị hiện chủng chủng sắc Hóa hiện những hình sắc.
Ư bỉ huyễn trung cầu Tìm trong hình huyễn đó
Vô sắc vô phi sắc Không sắc, không phi sắc.

Giảng: Ví như nhà huyễn thuật, hay thị hiện đủ thứ màu sắc. Ở trong tượng vẽ huyễn đó tìm cầu, vốn chẳng có màu sắc gì, cũng chẳng có gì chẳng phải màu sắc.

 

Bồ Tát diệc như thị Bồ Tát cũng như vậy
Dĩ phương tiện trí huyễn Dùng phương tiện trí huyễn
Chủng chủng giai thị hiện Mọi thứ đều thị hiện
Sung mãn ư thế gian Ðầy khắp nơi thế gian.

Giảng: Bồ Tát cũng như vậy, dùng trí huệ phương tiện để hiện huyễn. Hoặc thị hiện làm trâu ngựa. Hoặc thị hiện làm mèo chó. Tóm lại, đủ thứ đều có thể hiện huyễn.

 

Thí như tịnh nhật nguyệt Ví như tịnh nhựt nguyệt
Kiểu kính tại hư không, Gương sáng tại hư không
Ảnh hiện ư chúng thủy Bóng hiện ở trong nước
Bất vi thủy sở tạp Chẳng bị nước làm tạp.

Giảng: Ví như mặt trời thanh tịnh và mặt trăng thanh tịnh. Ánh sáng mặt trời mặt trăng như gương sang, lơ lửng ở trong hư không. Bóng mặt trời mặt trăng, hay hiện ở trong tất cả nước, nhưng bổn thể của mặt trời mặt trăng, chẳng bị nước làm tạp nhiễm.

 

Bồ Tát tịnh Pháp luân Bồ Tát tịnh pháp luân
Đương tri diệc như thị Phải biết cũng như vậy
Hiện thế gian tâm thủy Hiện trong tâm thế gian
Bất vi thế sở tạp Chẳng bị thế gian tạp.

Bồ Tát hay chuyển bánh xe pháp thanh tịnh, nên biết cũng như vậy. Hiện tại ở trong tâm nước chúng sinh thế gian, chẳng bị pháp thế gian làm tạp nhiễm. Giống như hoa sen mọc lên ở trong bùn nhơ, nhưng hương thơm của hoa sen rất thanh khiết, do đó có câu: “Mọc trong bùn mà chẳng nhiễm bùn”.

 

Như nhân thụy mộng trung Như người ngủ nằm mộng.
Tạo tác chủng chủng sự, Tạo tác nhiều công việc
Tuy Kinh ức thiên tuế Dầu trải ức ngàn năm
Nhất dạ vị chung tận Nhưng một đêm chưa hết.

Giảng: Giống như có người ở trong mộng, hay làm đủ thứ sự nghiệp. Tuy ngủ ở trong mộng trải qua ức ngàn năm, nhưng thời gian một đêm, cũng chẳng hết được.

 

Bồ-tát trụ pháp tánh Bồ Tát trụ pháp tánh
Thị hiện nhất thiết sự Thị hiện tất cả sự
Vô lượng kiếp khả cực Vô lượng kiếp khả tận
Nhất niệm trí vô tận Một niệm trí vô tận.

Giảng: Bồ Tát trụ ở trong pháp tánh, hay thị hiện ra tất cả việc. Ở trong vô lượng kiếp có thể đắc được rốt ráo. Nhưng ở trong một niệm trí huệ, vô cùng vô tận, không cách gì tính lường được.

 

Thí như sơn cốc trung Ví như trong sơn cốc
Cập dĩ cung điện gian, Và cùng trong cung diện
Chủng chủng giai hưởng ưng Theo tiếng đều hưởng ứng
Nhi thật vô phân biệt. Mà thiệt vô phân biệt

Giảng: Ví như ở trong hang núi cao cùng cốc, và ở trong cung điện, đủ thứ đều ứng vang, có vang thì có ứng. Nhưng hang cốc và cung điện, chẳng có sự phân biệt.

 

Bồ-tát trụ pháp tánh Bồ Tát trụ pháp tánh
Năng dĩ tự tại trí Hay dùng trí tự tại
Quảng xuất tùy loại âm Rộng phát âm tùy loại
Diệc phục vô phân biệt. Cũng vẫn vô phân biệt.

Giảng: Bồ Tát trụ ở trong pháp tánh hư không, ở trong trí huệ tự tại, rộng vang ra tiếng tuỳ loại chúng sinh, cũng chẳng có sự phân biệt. Mỗi loài chúng sinh đều hiểu được.

 

Như hữu kiến dương diệm Như có thấy dương diệm
Tưởng chi dĩ vi thủy, Tưởng đó cho là nước
Trì trục bất đắc ẩm Trì trục bất đắc ẩm
Triển chuyển cánh tăng khát. Triển chuyển cánh tăng khát.

Giảng: Giống như có người thấy dương diệm, cho rằng ở đó có nhiều nước, muốn đi đến uống nước. Nhưng khi đến đó xem thì chẳng có nước để uống. Triển chuyển bôn ba, càng làm cho thêm khát.

 

Chúng sanh phiền não tâm, Tâm chúng sanh phiền não
Ứng tri diệc như thị Nên biết cũng như vậy
Bồ Tát khởi từ mẫn Bồ Tát khởi từ mẫn
Cứu chi lệnh xuất ly. Cứu cho họ xuất ly

Giảng: Tâm phiền não của chúng sinh, có vô lượng vô biên, cũng nên biết giống như dương diệm. Bồ Tát thấy chúng ta chúng sinh điên đảo, lấy thẳng làm cong, lấy cong làm thẳng; lấy đen làm trắng, lấy trắng làm đen; lấy ác làm thiện, lấy thiện làm ác; bất cứ giáo hoá như thế nào, tập khí của họ cũng không thay đổi, chướng ngại trùng trùng. Nếu nói ra tật xấu của họ, thì họ chẳng vui, mà còn tìm cách bảo hộ lỗi lầm của mình, chẳng chịu cải lỗi hướng thiện, thậm chí còn phát đại vô minh, sinh ra đại phiền não. Bồ Tát đối với loại chúng sinh nầy, sinh khởi tâm từ bi thương xót, dạy chúng sinh đừng nói thị phi, đừng sinh phiền não. Nếu chẳng nổi nóng, chẳng đố kị chướng ngại, thì sẽ lìa khỏi biển khổ. Thân người tất cả là giả, đừng coi túi da hôi thối nầy là bảo bối, lúc nào cũng bảo hộ nó, sợ nó chịu khổ, làm cho nó hạnh phúc. Nhưng nó lúc nào cũng gây phiền não cho bạn.

 

Quán sắc như tụ mạt Quán sắc như bọt nước,
Thọ như thủy thượng phao Thọ như bóng trên nước,
Tưởng như nhiệt thời diệm, Tưởng như ánh nắng gắt,
Chư hạnh như ba tiêu. Những hành như cây chuối

Giảng: Quán sát sắc uẩn, giống như bọt nước, chuyển nháy mắt liền tiêu tan. Thọ uẩn giống như bong bóng trên nước, chốc lát chẳng còn nữa. Tưởng uẩn lại giống như ánh nắng gắt, thấy có mà thật không. Hành uẩn giống như cây chuối, cũng là không. Năm uẩn vốn chẳng có một tánh chân thật, chẳng có một thật thể, đều là hư vọng, đừng có chấp trước.

 

Tâm thức do như huyễn Tâm thức dường như huyễn,
Thị hiện chủng chủng sự; Thị hiện đủ mọi sự.
Như thị tri chư uẩn Biết năm uẩn như vậy
Trí giả vô sở trước Trí giả không chấp trước,

Giảng: Thức uẩn cũng là hư huyễn không thật, giống như huyễn hoá mà thị hiện đủ thứ việc. Biết được năm uẩn như vậy, người có trí huệ sẽ không chấp trước vào túi da hôi thối.

Tại sao bị người ta mắng một câu thì chịu không được? Bị người ta đánh một cái nhịn không xong? Thậm chí phát cuồng. Là vì chấp trước vào sắc thân năm uẩn. Vì sắc thân nầy, mà tạo ra chẳng biết bao nhiêu là tội nghiệt. Vẫn không biết cải hối, vẫn chạy theo nó, cuối cùng thì chạy vào địa ngục.

 

Chư xứ tất không tịch Các xứ đều không tịch
Như ky quan động chuyển Như cơ quan động chuyển,
Chư giới tánh vĩnh ly Các giới tánh lìa hẳn
Vọng hiện ư thế gian. Vọng hiện ở thế gian

Giảng: Mười hai xứ (trong sáu căn và ngoài sáu thức) cũng là không tịch, chẳng thật có. Giống như sự chuyển động của máy móc. Tuy nó chuyển động, nhưng chẳng có thể tánh thật tại. Mười tám giới (Sáu căn, sáu trần và sáu thức), cũng chẳng có thể tánh chân thật, hư vọng không thật hiện nơi thế gian.

 

Bồ-tát trụ chân thật Bồ Tát trụ chơn thiệt
Tịch diệt đệ nhất nghĩa, Tịch diệt đệ nhứt nghĩa
Chủng chủng quảng tuyên sướng Rộng tuyên xướng các pháp
Nhi tâm vô sở y Mà tâm không sở y.

Giảng: Bồ Tát trụ nơi chân thật, chẳng trụ nơi hư vọng. Tịch diệt đệ nhất nghĩa, gì cũng chẳng có, do đó có câu:

“Quét tất cả pháp, lìa tất cả tướng”.

Chẳng có vật gì có thể chấp trước. Bồ Tát dùng đủ thứ pháp phương tiện, rộng tuyên dương tất cả Phật pháp. Tâm của Bồ Tát chẳng có chút chấp trước nào, cũng chẳng nương tựa vào chỗ nào hết.

 

Vô lai diệc vô khứ Không lai cũng không khứ
Diệc phục vô hữu trụ, Cũng lại không có trụ,
Phiền não nghiệp khổ nhân Phiền não nghiệp khổ nhơn,
Tam chủng hằng lưu chuyển Ba thứ hằng lưu chuyển.

Giảng: Bồ Tát cũng chẳng đến, cũng chẳng đi, cũng chẳng trụ, do đó có câu:
“Ưng vô sở trụ, nhi sinh kỳ tâm”.

Nghĩa là:
Không trụ vào đâu, mà sinh tâm.

Phiền não là nhân khổ của nghiệp, nghiệp chướng, báo chướng, phiền não chướng ba thứ nầy thường lưu chuyển.

 

Duyên khởi phi hữu vô, Duyên khởi cũng không có
Phi thật diệc phi hư Chẳng thiệt cũng chẳng hư
Như thị nhập trung đạo Như vậy vào trung đạo
Thuyết chi vô sở trước. Thuyết pháp không chấp trước,

Giảng: Các pháp từ duyên sinh, các pháp từ duyên diệt, chẳng có tánh rốt ráo, cho nên nói chẳng có không. Cũng chẳng phải thật, cũng chẳng phải hư, được như thế thì vào trung đạo liễu nghĩa, khi nói thì chẳng có sự chấp trước.

 

Năng ư nhất niệm trung Hay ở trong một niệm
Phổ hiện tam thế tâm, Khắp hiện tâm tam thế
Dục sắc vô sắc giới Dục, sắc, vô sắc giới
Nhất thiết chủng chủng sự Tất cả mọi sự vật,

Giảng: Bồ Tát có thể ở trong một niệm, khắp hiện trong tâm Phật ba đời, và đến dục giới, sắc giới, vô sắc giới, tất cả đủ thứ sự việc.

 

Tùy thuận tam luật nghi Tuỳ thuận ba luật nghi
Diễn thuyết tam giải thoát, Diễn thuyết ba giải thoát
Kiến lập tam thừa đạo Kiến lập đạo tam thừa
Thành tựu nhất thiết trí. Thành tựu nhứt thiết trí,

Giảng: Tuỳ thuận ba luật nghi, tức là:
1. Biệt giải thoát luật nghi.
2. Tĩnh lự sinh luật nghi.
3. Vô lậu luật nghi.

 

Để diễn nói đạo lý ba giải thoát. Ba giải thoát tức là:
1. Không giải thoát.
2. Vô tướng giải thoát.
3. Vô nguyện giải thoát.

Kiến lập ba thừa đạo, tức là:
1. Thanh Văn thừa.
2. Duyên Giác thừa.
3. Bồ Tát thừa.

Thành tựu nhất thiết trí.

 

Liễu đạt xứ phi xứ Thấu rõ xứ phi xứ
Chư nghiệp cập chư căn Các nghiệp và các căn
Giới giải dữ Thiền định Giới, giải, cũng thiền định
Nhất thiết chí xứ đạo. Tất cả đạo chi xứ.

Giảng: Bồ Tát thấu rõ thông đạt thị xứ phi xứ trí lực, tất cả nghiệp và tất cả căn. Trí lực của Bồ Tát lại thấu hiểu thông đạt tất cả giới và tất cả giải, cùng với tất cả thiền định, lại biết tất cả chí xứ đạo.

 

Tú mạng niệm thiên nhãn Túc mạng niện thiên nhãn
Diệt trừ nhất thiết hoặc Diệt trừ tất cả hoặc
Tri Phật thập chủng lực Biết thập lực của phật
Nhi vị năng thành tựu. Mà chưa thành tựu được,

Giảng: Trí lực của Bồ Tát lại thấu rõ thông đạt túc mạng và thiên nhãn vô ngại, trí lực diệt trừ tất cả tập khí. Biết mười thứ trí lực nầy của Phật, nhưng vẫn chưa thành tựu.

 

Liễu đạt chư pháp không Thấu rõ các pháp không
Nhi thường cầu diệu pháp Mà thường cầu diệu pháp
Bất dữ phiền não hợp Chẳng cùng phiền não hiệp
Nhi diệc bất tận lậu. Mà cũng chẳng tận lậu.

Giảng: Bồ Tát thấu đạt các pháp đều là không, nhưng thường cầu tất cả diệu pháp, chẳng hợp với phiền não. Nếu chúng ta sinh phiền não là ngu si, khi chẳng có phiền não thì trí huệ sẽ hiện tiền; nếu sinh phiền não, thì vô minh sẽ đến, cũng chẳng rõ lý, thì sẽ chẳng có lý trí, sẽ chuyển theo cảnh giới phiền não, lúc đó sẽ tác hợp với phiền não. Tuy Bồ Tát chẳng hợp với phiền não, nhưng cũng chẳng muốn lập tức chứng lậu tận thông.

 

Quảng tri xuất ly đạo Rộng biết đạo xuất ly
Nhi dĩ độ chúng sanh Mà dùng độ chúng sanh
Ư thử đắc vô úy Nơi đây được vô úy
Bất xả tu chư hạnh. Chẳng bỏ tu các hạnh.

Giảng: Bồ Tát biết đạo thoát khỏi ba cõi, nhưng vẫn ở trong tam giới độ hoá chúng sinh. Tại tam giới chứng được bốn vô uý, vẫn không bỏ tu hành tất cả hạnh môn, tức là lục độ vạn hạnh.

 

Vô mậu vô vi đạo, Không lầm không trái đạo
Diệc bất thất chánh niệm Cũng chẳng mất chánh niệm
Tinh tấn dục tam muội, Tinh tấn, dục, tam muội
Quán tuệ vô tổn giảm. Quán huệ không tổn giảm.

Bồ Tát cũng chẳng sai lầm và chẳng trái với mười đạo nầy, cũng chẳng mất đi chánh niệm. Bất cứ lúc nào cũng chẳng nói thị nói phi, cũng chẳng nghe thị nghe phi. Tinh tấn muốn đắc được tam muội, quán sát trí huệ, không có sự tổn giảm.

 

Tam tụ giai thanh tịnh Tam tụ đều thanh tịnh
Tam thế tất minh đạt Tam thế đều không sáng
Đại từ mẫn chúng sanh Ðạt từ mẫn chúng sanh
Nhất thiết vô chướng ngại. Tất cả không chướng ngại.

Giảng: Ba tụ giới (nhiếp luật nghi giới, nhiếp thiện pháp giới, nhiếp chúng sinh giới) đều thanh tịnh. Ba đời (đời quá khứ, hiện tại, và vị lai) hoàn toàn thấu rõ thông đạt. Có tâm đại từ bi, thương xót tất cả chúng sinh, tất cả đều chẳng có sự chướng ngại nào.

 

Do nhập thử pháp môn Do nhập pháp môn này
Đắc thành như thị hạnh Ðược thành hạnh như vậy
Ngã thuyết kỳ thiểu phần Tôi giải nói phần ít,
Công đức trang nghiêm nghĩa Nghĩa công đức trang nghiêm

Giảng: Do pháp không chướng ngại vào pháp môn nầy, mà được thành tựu hạnh môn nầy. Tôi (Bồ Tát Phổ Hiền) hiện tại chỉ nói ít phần công đức và nghĩa lý trang nghiêm.

 

Cùng ư vô số kiếp Tột ở vô số kiếp
Thuyết bỉ hạnh vô tận, Nói kia hạnh vô tận,
Ngã kim thuyết thiểu phần Nay tôi nói ít phần
Như đại địa nhất trần. Như hạt bụi trên đất.

Giảng: Nếu như tôi muốn nói rõ cặn kẽ, thì dù trải qua vô lượng kiếp, cũng nói không hết được. Hạnh môn của Bồ Tát tu, hiện tại tôi chỉ nói chút ít mà thôi, ít giống như một hạt bụi trong đại địa.

 

Y ư Phật trí trụ Nương ở phật trí trụ
Khởi ư kì đặc tưởng Phát tưởng là kỳ đặc
Tu hành tối thắng hạnh Tu hành hạnh tối thắng
Cụ túc đại từ bi. Ðầy đủ đại bi

Giảng: Bồ Tát thì nương nơi trí huệ của Phật mà sinh, khởi nơi tưởng kỳ đặc, tu hành hạnh tối thù thắng, đầy đủ từ bi rộng lớn.

 

Tinh cần tự an ổn Tinh cần tự an ổn
Giáo hóa chư hàm thức Giáo hoá các hàm thức,
An trụ tịnh giới trung An trụ trong tịnh giới
Cụ chư thọ kí hạnh. Ðủ những hạnh thọ ký

Giảng: Bồ Tát tinh tấn tu hành, tự được an ổn, giáo hoá tất cả hàm thức (chúng sinh), an ổn trụ ở trong giới thanh tịnh, đầy đủ hạnh thọ ký của Phật.

 

Năng nhập Phật công đức Hay nhập phật công đức
Chúng sanh hạnh cập sát Hạnh chúng sanh và cõi
Kiếp thế tất diệc tri Kiếp thế đều cũng biết
Vô hữu bì yếm tưởng Không có tướng mỏi nhàm,

Giảng: Bồ Tát hay vào công đức của Phật, hay đến cõi chúng sinh và cõi chư Phật. Việc đại kiếp thế giới hoàn toàn biết được, chẳng có ý tưởng nhàm mỏi.

 

Sái biệt trí tổng trì Sai biệt trí tổng trì
Thông đạt chân thật nghĩa Thông đạt nghĩa chơn thiệt
Tư tánh thuyết vô bỉ, Tư duy nói vô tỷ
Tịch tĩnh đẳng chánh giác. Tịch tịnh đẳng chánh giác

Giảng: Môn tổng trì sai biệt trí, hay thông đạt nghĩa lý chân thật. Tư duy nói pháp không gì sánh bằng, thường ở nơi tịch tĩnh, chứng được quả Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

 

Phát ư Phổ Hiền tâm Phát tâm của Phổ Hiền
Cập tu kỳ hạnh nguyện, Sức từ bi nhơn duyên
Từ bi nhân duyên lực Từ bi nhân duyên lực
Thú đạo ý thanh tịnh Ðến đạo ý thanh tịnh

Giảng: Phát tâm của Bồ Tát Phổ Hiền, tu hạnh nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền, sức nhân duyên từ bi, tâm hướng về đạo, đặc biệt thanh tịnh.

 

Tu hành Ba-la-mật Tu hành ba la mật
Cứu cánh tùy giác trí, Rốt ráo trí tuỳ giác
Chứng tri lực tự tại Sức chứng trí tự tại
Thành vô thượng Bồ-đề. Thành Bồ đề vô thượng .

Giảng: Bồ Tát tu hành tất cả pháp môn Ba La Mật, rốt ráo tuỳ trí huệ giác ngộ, chứng được trí lực tự tại, thành tựu bồ đề giác đạo vô thượng.

 

Thành tựu bình đẳng trí Thành tựu trí bình đẳng
Diễn thuyết tối thắng Pháp, Diễn thuyết pháp tối thắng
Năng trì cụ diệu biện Hay trì đủ diệu biện
Đãi đắc pháp vương xứ Ðến được bực pháp vương .

Giảng: Thành tựu trí huệ bình đẳng, hay diễn nói diệu pháp tối thắng, hay thọ trì đầy đủ bốn biện tài vô ngại, và được an trụ nơi ngôi báu Pháp Vương.

 

Viễn ly ư chư trứ Xa lìa nơi chấp trước
Diễn thuyết tâm bình đẳng Diễn thuyết tâm bình đẳng
Xuất sanh ư trí tuệ, Xuất sanh ra trí huệ
Biến hóa đắc Bồ-đề. Biến hoá được Bồ đề .

Giảng: Hay xa lìa tất cả sự chấp trước, diễn nói pháp môn tâm bình đẳng, sinh ra nhất thiết trí, biến hoá được quả giác bồ đề.

 

Trụ trì nhất thiết kiếp Trụ trì tất cả kiếp
Trí giả Đại hân úy, Trí giả rất hoan hỷ,
Thâm nhập cập y chỉ Thâm nhập và y chỉ
Vô úy vô nghi hoặc. Không sợ không nghi hoặc

Giảng: Hay nhập định trong tất cả kiếp, bậc trí huệ (Phật) sinh đại hoan hỉ vị Bồ Tát đó. Thâm nhập nơi Phật, nương tựa nơi Phật, chẳng có việc gì tâm sợ hãi và đố kị, đã đến được cảnh giới dứt hoặc, chứng chân.

 

Liễu đạt bất tư nghị Rõ thấu bất tư nghì
Xảo mật thiện phân biệt, Xảo mật khéo phân biệt
Thiện nhập chư tam muội, Khéo vào các tam muội
Phổ kiến trí cảnh giới. Thấy khắp cảnh giới trí.

Giảng: Đã thấu đạt pháp môn không thể nghĩ bàn, thiện xảo phương tiện để nói pháp môn phân biệt bí mật. Khéo nhập tất cả tam muội, thấy khắp được cảnh giới trí huệ.

 

Cứu cánh chư giải thoát Rốt ráo những giải thoát
Du hí chư thông minh Du hý thần thông, minh.
Triền phược tất vĩnh ly, Ðều lìa hẳn triền phược
Viên lâm tứ du xứ. Viên lâm tha bồ đạo.

Giảng: Lại đến được rốt ráo các giải thoát. Thế nào là giải thoát ? Không ràng buộc là giải, tự tại là thoát. Và nữa thiền định là lối gọi khác. Có phân ra hai giải thoát, ba giải thoát, tám giải thoát. Du hí tất cả thông minh, hoàn toàn vĩnh viễn xa lìa sự ràng buộc quái ngại, tuỳ tiện dạo chơi trong vườn rừng (Phật pháp).

 

Bạch pháp vi cung điện Bạch pháp làm cung điện
Chư hạnh khả hân lạc Chư hạnh đẳng ưa thích
Hiện vô lượng trang nghiêm Hiện vô lượng trang nghiêm
Ư thế tâm vô động. Ư thế tâm vô động.

Giảng: Dùng pháp trắng tịnh làm cung điện, tất cả pháp môn tu hành, đáng vui thích nhất. Hiện ra vô lượng sự trang nghiêm, đối với pháp thế gian, tâm chẳng lay động. Tóm lại, chẳng bị cảnh giới lay động, mà chuyển được cảnh giới.

 

Thâm tâm thiện quan sát Tại thế tâm khéo quán sát
Diệu biện năng khai diễn Diệu biện hay khai diễn
Thanh tịnh Bồ-đề ấn Thanh tịnh Bồ đề ấn
Trí quang chiếu nhất thiết. Trí quang chiếu tất cả .

Giảng: Thâm tâm khéo quán sát tất cả cảnh giới, có diệu biện tài, hay khai diễn tất cả diệu pháp. Đắc được pháp ấn bồ đề thanh tịnh, trí huệ quang minh chiếu khắp tất cả thế giới.

 

Sở trụ vô đẳng bỉ Sở trụ không gì sánh
Kỳ tâm bất hạ liệt, Tâm đó chẳng hạ liệt
Lập chí như Đại sơn Lập chí như núi to
Chủng đức nhược thâm hải. Gieo đức đường biển thẳm.

Giảng: Bậc của Bồ Tát trụ, không ai có thể sánh bằng được, tâm của Ngài chẳng hoan hỉ pháp tiểu thừa, mà hoan hỉ pháp đại thừa. Bồ Tát lập chí nguyện, cao lớn như núi Tu Di. Sự gieo trồng công đức lành, sâu giống như biển Hương Thuỷ. Chúng ta chúng sinh, cũng nên lập chí nguyện lớn như thế. Nếu không lập chí nguyện, thì giống như chiếc thuyền chạy giữa biển không có địa bàn chỉ mục tiêu.

 

Như bảo an trụ pháp Như bửu, an trụ pháp
Bị giáp thệ nguyện tâm Mặc giáp, tâm thệ nguyện
Phát khởi ư đại sự Phát khởi những đại sự
Cứu cánh vô năng hoại. Rốt ráo không thể hoại.

Giảng: Giống như bảo bối an trụ nơi pháp, mặc áo giáp vào, phát tâm đại hoằng thệ nguyện, phát khởi việc lớn liễu sinh thoát tử. Chí nguyện kim cang kiên cố như thế, rốt ráo đạt đến cảnh giới viên mãn, chẳng bị thiên ma ngoại đạo phá hoại.

 

Đắc thọ Bồ-đề kí Ðược thọ ký Bồ đề
An trụ quảng đại tâm An trụ tâm quảng đại
Bí tạng vô cùng tận Bí tạng vô cùng vô tận
Giác ngộ nhất thiết pháp Giác ngộ tất cả pháp

Giảng: Bồ Tát được chư Phật thọ ký bồ đề biệt hiệu. Nói tương lai khi nào sẽ thành Phật? Phật danh hiệu gì? Trụ ở thế giới nào? Tên thế giới là gì? Trụ bao nhiêu số kiếp? Thọ ký rồi, Bồ Tát an trụ tâm hoằng thệ nguyện rộng lớn. Tu pháp tạng bí mật, chẳng khi nào cùng tận, hay giác ngộ tất cả pháp thế gian và pháp xuất thế gian.

 

Thế trí giai tự tại, Thế trí đều tự tại
Diệu dụng vô chướng ngại, Diệu dụng không chướng ngại
Chúng sanh nhất thiết sát Chúng sanh tất cả cõi
Cập dĩ chủng chủng Pháp. Và cùng các loại pháp.

Giảng: Trí huệ thế gian và trí huệ xuất thế gian, đều được nhậm vận tự tại. Sự diệu dụng đó, chẳng có chướng ngại. Hết thảy chúng sinh, hết thảy cõi nước, cùng với đủ thứ pháp môn.

 

Thân nguyện dữ cảnh giới Thân nguyện cùng cảnh giới
Trí tuệ thần thông đẳng Trí huệ thần thông thảy
Thị hiện ư thế gian Thị hiện ở thế gian
Vô lượng bách thiên ức. Vô lượng trăm ngàn ức.

Giảng: Thân phát nguyện và tất cả cảnh giới, trí huệ và thần thông v.v… đều thị hiện tại thế gian, có vô lượng vô biên trăm ngàn ức hoá thân.

Du hí cập cảnh giới Du hý và cảnh giới
Tự tại vô năng chế, Tự tại không chướng ngại
Lực vô úy bất cộng Lực, vô úy, bất cộng,
Nhất thiết nghiệp trang nghiêm. Tất cả nghiệp trang nghiêm,

Giảng: Du hí và cảnh giới rất tự tại, bất cứ người nào cũng không cách chi khống chế được. Mười lực của Phật, Bồ Tát cũng đầy đủ. Bốn vô sở uý của Phật, Bồ Tát cũng đắc được. Mười tám pháp bất cộng của Phật, Bồ Tát cũng viên mãn, tất cả nghiệp cũng trang nghiêm thanh tịnh.

Chư thân cập thân nghiệp Những thân và thân nghiệp
Ngữ cập tịnh tu ngữ, Nhữ và tu ngữ nghiệp
Dĩ đắc thủ hộ cố Vì để được thủ hộ
Thành biện thập chủng sự Thành xong mười sự việc,

Giảng: Thân và thân nghiệp của Bồ Tát, rất thanh tịnh, chẳng tạo nghiệp: Giết, trộm, dâm. Lời và lời nghiệp của Bồ Tát, rất thanh tịnh, chẳng tạo: Nói dối, nói hai lưỡi, nói thêu dệt, chửi mắng. Ý và ý nghiệp của Bồ Tát, rất thanh tịnh, chẳng tạo nghiệp: Tham, sân, si. Do giữ gìn ba nghiệp không phạm, nên thành tựu mười việc lành.

 

Bồ Tát tâm phát tâm Bồ Tát tâm sơ phát
Cập dĩ tâm chu biến, Và cùng tâm châu biến
Chư căn vô tán động Các căn không tán động
Hoạch đắc tối thắng căn Chứng được căn tối thắng

Giảng: Lúc ban đầu Bồ Tát phát tâm, thì phát bồ đề tâm. Tâm của Bồ Tát rộng lớn, khắp pháp giới. Các căn của Bồ Tát, đều ở trong định, chẳng tán động. Vì Bồ Tát có định lực, cho nên đắc được căn tối thù thắng.

 

Thâm tâm tăng thắng tâm Thâm tâm, tăng thắng tâm
Viễn ly ư siểm cuống Xa lìa tâm phỉnh đối
Chủng chủng quyết định giải Quyết định hiểu các pháp
Phổ nhập ư thế gian Vào khắp ở thế gian,

Giảng: Tâm bồ đề sâu rộng, hay tăng trưởng tâm bồ đề thù thắng, hay xa lìa tất cả sự dối trá. Bồ Tát chẳng thấy người có tiền tài, có thế lực, lại đi dối trá người khác, nói những lời ngon ngọt. Thấy người không có tiền tài, không có thế lực, thì sinh tâm kiêu ngạo, nói lời dối trá, Bồ Tát chẳng có những hành vi đó. Đủ thứ kiến giải của Bồ Tát, đều là tánh quyết định, vì có đại trí huệ, cho nên vào khắp thế gian để độ chúng sinh.

 

Xả bỉ phiền não tập Bỏ phiền não tập kia
Thủ tư tối thắng đạo, Khéo tu tối thắng này
Xảo tu sử viên mãn Khéo tu cho viên mãn
Đãi thành nhất thiết trí. Ðến thành nhứt thiết trí.

Giảng: Bồ Tát xả bỏ phiền não và tập khí, do đó có câu: “Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn”. Bình thường chúng ta cảm thấy chẳng có phiền não, nhưng khi cảnh giới đến rồi, thì trong sự bất tri bất giác, hiện ra phiền não. Tuy hiện ra phiền não, nhưng mình vẫn không biết, đó là tình hình của người phàm phu tục tử. Bồ Tát giữ gìn đạo tối thù thắng nầy để tu hành, dùng đủ thứ phương tiện khéo léo để tu tập đạo thù thắng, đắc được sự viên mãn, và thành tựu nhất thiết trí.

 

Ly thoái nhập chánh vị, Tiến tu nhập chánh vị
Quyết định chứng tịch diệt Quyết định chứng tịch diệt
Xuất sanh Phật Pháp đạo Xuất sanh phật pháp đạo
Thành tựu công đức hiệu. Thành tựu hiệu công đức.

Giảng: Lìa khỏi tâm thối chuyển, chứng nhập chánh vị. Quyết định chứng được vui tịch diệt, sinh ra pháp của Phật nói, đạo của Bồ Tát tu hành, thành tựu mười danh hiệu của Phật. Đó là: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Điệu Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.

 

Đạo cập vô lượng đạo Ðạo và vô lượng đạo
Nãi chí trang nghiêm đạo, Nhẫn đến đạo tràng nghiêm
Thứ đệ thiện an trụ Thứ đệ khéo an trụ
Tất giai vô sở trước. Thảy đều không chấp trước

Giảng: Đạo của Bồ Tát tu và vô lượng đạo, cho đến trang nghiêm đạo, lần lược tu hành. Khéo an trụ nơi đạo, hoàn toàn chẳng có sự chấp trước.

 

Thủ túc cập phước tạng Tay, chân và phúc tạng
Kim cương dĩ vi tâm Kim cang dùng làm tâm
Bị dĩ từ ai giáp, Mặc áo giáp từ bi
Cụ túc chúng khí trượng. Ðầy đủ những khí giới.

Giảng: Tay chân và bụng tạng của Bồ Tát, dùng kim cang làm tâm tu đạo, mặc lên áo giáp từ bi thương xót, đầy đủ tất cả binh khí gậy, tức cũng là tích trượng, binh khí dùng hộ vệ.

 

Trí thủ minh đạt nhãn Ðầu: trí, mắt: mình đạt
Bồ-đề hạnh vi nhĩ, Hạnh Bồ đề làm tai
Thanh tịnh giới vi tỳ Giới thanh tịnh làm mũi
Diệt ám vô chướng ngại. Diệt ám không chướng ngại.

Giảng: Dùng trí huệ làm đầu, sáng suốt làm mắt, hạnh bồ đề làm tai, giới thanh tịnh làm mũi, hay diệt trừ tất cả đen tối, chẳng có tất cả chướng ngại.

 

Biện tài dĩ vi thiệt Biện tài dùng làm lưỡi
Vô xứ bất chí thân Thân đến khắp mọi nơi
Tối thắng trí vi tâm, Trí tối thắng làm tâm
Hành trụ tu chư nghiệp. Ði đứng tu công hạnh .

Đạo tràng sư tử tọa Ðạo tràng: toà sư tử
Phạm ngọa không vi trụ Tịnh: nằm, chơn không: ở

Giảng: Dùng bốn biện tài vô ngại làm lưỡi, đến khắp mọi nơi làm thân, trí huệ tối thù thắng làm tâm, đi đứng nằm ngồi làm tu thân lời ý ba nghiệp, khiến cho thanh tịnh. Toà sư tử trong đạo tràng thanh tịnh làm chỗ nằm, hư không làm chỗ ở.
Chúng ta nghe đoạn kinh văn nầy, nên hồi quang phản chiếu, xem mình có nói những lời vô ích không, có tạo những tội nghiệp không. Do đó có câu: “Thiện ác xen tạp”. Chúng ta không để ý, trong sự bất tri bất giác, làm những việc sai lầm. Có lúc muốn làm việc thiện, nhưng trong thiện biến thành ác, đó tức là thiện ác xen tạp. Phân biệt chẳng rõ ràng, ở trong sự vô ý, bèn sai nhân quả, chính mình còn không biết. Cho nên phải học tập Bồ Tát, giữ gìn thân lời ý ba nghiệp của chính mình, khiến cho thanh tịnh, đừng để sinh phiền não.

 

Sở hạnh cập quan sát, Chỗ đi và quán sát
Phổ chiếu Như Lai cảnh Phổ chiếu Như Lai cảnh
Biến quán chúng sanh hạnh Biến quán chúng sanh hạnh
Phấn tấn cập hao hống Vùng vẫy và gẩm rống .

Giảng: Hạnh môn tu hành và trí huệ quán sát, hay chiếu khắp cảnh giới Như Lai, hay quán khắp hành vi của chúng sinh, nhập tam muội sư tử phấn tấn, làm sư tử hống, tức cũng là thuyết pháp.

 

Ly tham hành tịnh thí Rời tham, hằng bố thí
Xả mạn trì tịnh giới, Bỏ mạn, gìn tịnh giới
Bất sân thường nhẫn nhục, Chẳng sân, thương nhẫn nhục
Bất giải hằng tinh tấn, Chẳng lười, hằng tinh tấn.

Giảng: Lìa khỏi tâm tham, hành bố thí thanh tịnh, đừng có tâm xí đồ, hiện tại chúng ta tu hành pháp môn bố thí, tương lai sẽ đắc được công đức gì ? Nếu có tư tưởng như thế để bố thí, thì chẳng thanh tịnh, đã hàm chứa có tư tưởng tham nhiễm. Nếu không có sự mong cầu, thì mới là thật bố thí. Phải xả bỏ hành vi cống cao ngã mạn, được như vậy thì đó là tu trì giới thanh tịnh. Chẳng sinh tâm sân hận, thường tu hạnh nhẫn nhục, đừng có giải đãi, phải thường tinh tấn. Trong Kinh văn lúc nào cũng nhắc nhở chúng ta, khuyên nhủ chúng ta, đừng có nổi giận, đừng có lười biếng. Bằng không, hai điều nầy sẽ là chướng ngại lớn đối với sự tu hành. Nhưng đến lúc nào đó thì quên mất tiêu, lại nổi giận lên, đó là vì công phu nhẫn nhục chưa đến hoả hầu. Vẫn còn giải đãi, đó là vì công phu tinh tấn chưa tu đến sự thành công, mới có biểu hiện như thế.

 

Thiền định đắc tự tại Thiền định được tự tại
Trí tuệ vô sở hành Trí huệ không sở hành
Từ tế bi vô quyện Từ tế, bi không mỏi
Hỉ Pháp xả phiền não Hỷ pháp, xả phiền não.

Giảng: Tu thiền định sẽ đắc được cảnh giới nhậm vận tự tại, người có trí huệ, thì chẳng có hành vi chấp trước. Người có hành động từ bi và cứu tế chúng sinh, thì bất cứ lúc nào, cũng chẳng có sự nhàm mỏi. Lúc nào cũng hoan hỉ học tập pháp, xả lìa tất cả phiền não.

 

Ư chư cảnh giới trung Ở trong các cảnh giới
Tri nghĩa diệc tri Pháp. Biết nghĩa cũng biết pháp
Phước đức tất thành mãn Phước đức đều thành mãn
Trí tuệ như lợi kiếm Trí huệ như gươm bén,

Giảng: Ở trong tất cả cảnh giới, biết nghĩa lý và phương pháp của nó. Tất cả phước đức, đều đã thành tựu viên mãn, trí huệ sáng suốt, như thanh kiếm báu nhờ kiếm trí huệ mà chặt đứt được ma phiền não. Ma hay giết pháp thân, hại huệ mạng, não loạn tâm thanh tịnh của người tu hành.

 

Phổ chiếu lạc đa văn Chiếu khắp thích đa văn
Minh liễu thú hướng Pháp. Minh liễu xu hướng pháp
Tri ma cập ma đạo Biết ma và ma đạo
Thệ nguyện hàm xả ly Thệ nguyện đều bỏ lìa.

Giảng: Chiếu khắp tất cả chúng sinh, khiến cho họ ưa thích đa văn, thấu rõ hướng về tất cả Phật pháp. Biết Phật như thế nào ? Ma ra sao ? Lại biết sự tu đạo của ma, mà phát thệ nguyện bỏ ma nghiệp và lìa khỏi ma đạo.

 

Kiến Phật dữ Phật nghiệp Thấy phật cùng phật nghiệp
Phát tâm giai nhiếp thủ, Phát tâm đều nhiếp lấy
Ly mạn tu trí tuệ Rời mạn, tu trí huệ
Bất vi ma lực trì Chẳng bi ma nhiếp trì

Giảng: Thường thấy Phật và thường thấy Phật nghiệp, phát tâm đại thệ nguyện, thảy đều nhiếp lấy, do đó có câu : Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành. Lìa khỏi tâm ngã mạn, phải tu hành trí huệ. Có trí huệ rồi, sẽ chẳng bị ma lực nhiếp trì. Đố kị của ma vương quá nặng, là sợ rằng người tu hành thành Phật.

 

Vi Phật sở nhiếp trì Mà được phật nhiếp trì
Diệc vi Pháp sở trì. Cũng được pháp nhiếp trì.
Hiện trụ Đâu suất thiên Hiện ở cung đâu suất
Hựu hiện bỉ mạng chung Và hiện ẩn thiên cung

Giảng: Được Phật lực nhiếp trì, thì cũng được Phật pháp nhiếp trì. Bồ Tát thị hiện trụ ở nội viện cung trời Đâu Suất, lại thị hiện cảnh giới mạng chung. Hiện tại Bồ Tát Di Lặc trụ tại nội viện cung trời Đâu Suất, hậu bổ Phật vị, xưng là Đương Lai Hạ Sinh Di Lặc Tôn Phật.

 

Thị hiện trụ mẫu thai, Thị hiện ở thai mẹ
Diệc hiện vi tế thú. Cũng hiện vi tế thú
Hiện sanh cập vi tiếu, Hiện sanh và vi tiếu
Diệc hiện hành thất bộ Cũng hiện đi bảy bước,

Giảng: Bồ Tát thị hiện trụ ở thai mẹ, cũng thị hiện cảnh giới mỉm cười. Lại thị hiện bốn hướng đi bay bước, chân bước trên hoa sen, nói rằng:
“Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn”.

Nói xong, liền khôi phục lại thân hài nhi.

 

Thị tu chúng kĩ thuật Hiện tu những kỷ thuật
Diệc thị xứ thâm cung. Cũng hiện ở thâm cung
Xuất gia tu khổ hạnh Xuất gia tu khổ hạnh
Vãng nghệ ư đạo tràng, Qua đến nơi đạo tràng

Giảng: Lại thị hiện tu học tất cả kỹ thuật, cũng thị hiện ở nơi cung vua, lại thị hiện xuất gia, tu khổ hạnh, khi ở tại núi Tuyết, mỗi ngày chỉ ăn một hạt mè và một hạt gạo, cuối cùng đi đến Bồ đề đạo tràng.

 

Đoan tọa phóng quang minh, Ðoan tọa phóng quang minh
Giác ngộ chư quần sanh, Giác ngộ các quần sanh
Hàng ma thành chánh giác, Hàng ma thành chánh giác
Chuyển vô thượng pháp luân, Chuyển pháp luân vô thượng

Sở hiện tất dĩ chung, Thị hiện đều đã trọn
Nhập ư đại Niết Bàn. Hiện nhập đại Niết Bàn

Giảng: Thị hiện tướng ngồi ngay thẳng, phóng đại quang minh, giác ngộ tất cả chúng sinh. Hàng phục tất cả ma nhiễu loạn, mà thành Chánh Giác. Chuyển bánh xe diệu pháp vô thượng, giáo hoá tất cả chúng sinh. Sau khi thị hiện tám tướng thành đạo rồi, mới vào đại Niết Bàn.

 

Bỉ chư Bồ-tát hạnh Những hạnh Bồ Tát kia
Vô lượng kiếp tu tập, Vô lượng kiếp tu tập
Quảng đại vô hữu biên Quảng đại không ngần mé
Ngã kim thuyết thiểu phần. Nay tôi nói phần ít.

Giảng: Đó là tất cả hạnh của Bồ Tát tu hành, từ vô lượng kiếp đến nay, đều tu hành học tập như thế, rộng lớn chẳng có bờ mé. Bồ Tát Phổ Hiền nói : “Nay tôi chỉ nói ít phần mà thôi, nếu nói tỉ mỉ, thì dù trải qua vô lượng kiếp, cũng nói không hết được”.

 

Tuy lệnh vô lượng chúng, Dầu khiến vô lượng chúng
An trụ Phật công đức An trụ phật công đức
Chúng sanh cập Pháp trung Chúng sanh và trong pháp
Tất cánh vô sở thủ. Rốt ráo không chấp lấy,

Giảng: Tuy nhiên hay khiến vô lượng chúng sinh, an ổn trụ tại công đức của Phật. Ở trong chúng sinh và pháp, rốt ráo chẳng có sự chấp trước.

 

Cụ túc như thị hạnh Ðầy đủ hạnh như vậy
Du hí chư thần thông: Du hý những thần thông
Mao đoan trí chúng sát Ðầu lông để những cõi
Kinh ư ức thiên kiếp; Trải qua ức ngàn kiếp,

Giảng: Đầy đủ hạnh môn của Bồ Tát tu hành như vậy, du hí tất cả thần thông, có thể ở nơi đầu của một chân lông, đặt để tất cả cõi Phật, trải qua ngàn ức đại kiếp, vẫn không lay động.

 

Chưởng trì vô lượng sát Tay cầm vô lượng cõi
Biến vãng thân vô quyện, Qua khắp thân không mỏi
Hoàn lai trí bổn xứ Ðem về để bổn xứ
Chúng sanh bất tri giác. Chúng sanh chẳng hay biết .

Giảng: Trong lòng bàn tay cầm vô lượng cõi nước chư Phật, đi đến khắp vô lượng cõi nước, mà thân thể không cảm thấy mệt mỏi. Lại đem về chỗ cũ, mà chúng sinh vẫn không hề hay biết chỗ trụ của thế giới, đã bị Bồ Tát dùng thần lực, đem đi đến thế giới khác, lại có thể dời thế giới khác, đem đến thế giới nầy, hổ tương dời đổi, nhưng phàm phu ngu si, vẫn không hay, không biết.

 

Bồ Tát dĩ nhất thiết, Bồ Tát dùng tất cả
Chủng chủng trang nghiêm sát, Trang nghiêm nhiều quốc độ
Trí ư nhất mao khổng Ðể ỡ một lỗ lông
Chân thật tất lệnh kiến. Chơn thiệt đều cho thấy.

Giảng: Bồ Tát dùng tất cả đủ thứ đồ trang nghiêm, để trang nghiêm đủ thứ cõi nước. Đem hết thảy cõi nước để vào trong một lỗ chân lông, sự việc chân thật, hay khiến cho tất cả chúng sinh đều thấy được cảnh giới nầy, mà trong lỗ lông chẳng có sự chật hẹp. Cảnh giới nầy, là hoàn toàn sự thật một trăm phần trăm, nhục nhãn phàm phu chúng ta nhìn chẳng thấy được, nhưng bậc Thánh nhân có ngũ nhãn lục thông, nhìn thấy được rất rõ ràng, tuyệt đối không nói dối. Đức Phật là bậc Thánh nhân nói lời chân thật, tuyệt đối không nói lời giả dối.

 

Phục dĩ nhất mao khổng Lại dùng một lỗ lông
Phổ nạp nhất thiết hải Nạp khắp tất cả biển
Đại hải vô tăng giảm, Biển lớn không tăng giảm
Chúng sanh bất nhiêu hại. Chúng sanh chẳng nhiểu hại.

Giảng: Ở trong một lỗ chân lông, khắp dung nạp tất cả biển lớn. Nghĩa là đem tất cả biển lớn, để ở trong một lỗ chân lông, nhưng tất cả biển lớn cũng không giảm bớt, lỗ chân lông cũng không tăng thêm. Đó là cảnh giới diệu không thể tả. Đối với tất cả chúng sinh chẳng có nhiễu hại. Chẳng phải nói đem tất cả biển lớn để vào trong một lỗ chân lông, thì chúng sinh bị chết hết, chẳng phải, vì đó là Bồ Tát biểu diện du hí thần thông.

 

Vô lượng Thiết vi sơn Vô lượng núi thiết vi
Thủ chấp toái vi trần, Tay bóp nát thành bụi
Nhất trần hạ nhất sát, Một bụi nơi một cõi
Tận thử chư trần số Hết số vi trần này.

Giảng: Vô lượng núi Thiết Vi, dùng tay đập nát thành bụi. Mỗi hạt bụi làm thành một cõi Phật, hết những số hạt bụi đó thì ngừng. Những cõi Phật đó, không cách chi tính đếm được.

 

Dĩ thử chư trần sát Ðem những cõi trần đây
Phục cánh mạt vi trần Lại nghiệm nát thành bụi
Như thị trần khả tri Bụi này biết đươc số
Bồ Tát trí nan lượng. Khó lường trí Bồ Tát

Giảng: Đem những hạt bụi đó, làm thành nhiều cõi nước Phật, rồi nghiền nát hết những cõi đó ra thành bụi. Những hạt bụi đó, có thể biết được số lượng bao nhiêu hạt bụi, nhưng trí huệ của Bồ Tát, không cách chi dò lường được, chẳng có người nào biết được rốt ráo có bao nhiêu?

 

Ư nhất mao khổng trung Ở trong một lỗ lông
Phóng vô lượng quang minh Phóng vô lượng quang minh,
Nhật nguyệt tinh tú quang Sáng nhựt nguyệt tinh tú
Ma ni châu hỏa quang Sáng ma ni, sáng lửa,

Giảng: Ở trong một lỗ chân lông, phóng ra vô lượng quang minh. Quang minh đó, vượt qua ánh sáng của mặt trời, mặt trăng, các vì sao, cũng hơn hẳn ánh sáng của châu báu ma ni. Tóm lại, hơn hẳn tất cả ánh sáng.

 

Cập dĩ chư thiên quang Nhẫn đến sáng chư thiên
Nhất thiết giai ánh tế Tất cả đều bị khuất.
Diệt chư ác đạo khổ Diệt những khổ ác đạo
Vi thuyết vô thượng pháp. Vì nói pháp vô thượng

Giảng: Lại che khuất hết ánh sáng của chư Thiên, vốn không thể nào sánh được. Ánh sáng đó hay diệt trừ khổ trong ba đường ác, vì tất cả chúng sinh diễn nói diệu pháp vô thượng.

 

Nhất thiết chư thế gian, Tất cả các thế gian
Chủng chủng sái biệt âm Nhiều thứ tiếng sai biệt,
Bồ Tát dĩ nhất âm, Bồ Tát một âm thanh
Nhất thiết giai năng diễn. Hay diển nói tất cả,

Giảng: Vì tất cả chúng sinh thế gian, diễn nói đủ thứ âm thanh khác nhau. Bồ Tát dùng một âm thanh, có thể nói ra vô lượng ngôn ngữ khác nhau.

 

Quyết định phân biệt thuyết, Quyết định phân biệt nói
Nhất thiết chư Phật Pháp Tất cả những Phật pháp
Phổ sử chư quần sanh Khiến khắp các quần sanh
Văn chi đại hoan hỉ. Nghe đó rất hoan hỷ

Giảng: Bồ Tát hay quyết định các thứ ngôn ngữ, phân biệt vì chúng sinh nói pháp, diễn nói pháp của tất cả chư Phật nói, khắp khiến cho tất cả chúng sinh nghe rồi, đều sinh tâm đại hoan hỉ.

 

Quá khứ nhất thiết kiếp Quá khứ tất cả kiếp
An trí vị lai kim An trí nay, vị lai
Vị lai hiện tại kiếp Vị lai hiện tại kiếp
Hồi trí quá khứ thế. Xoay để kiếp quá khứ,

Giảng: Đem tất cả kiếp quá khứ, để ở trong kiếp vị lai, lại có thể để ở trong kiếp hiện tại. Lại có thể đem kiếp vị lai và kiếp hiện tại, về để ở trong kiếp quá khứ, hổ tương dời đổi với nhau, mà chẳng có chướng ngại.

 

Thị hiện vô lượng sát Thị hiện vô lượng cõi
Thiêu nhiên cập thành trụ Cháy tan và thành, trụ
Nhất thiết chư thế gian Tất cả các thế gian
Tất tại nhất mao khổng. Ðều tại một lỗ lông

Giảng: Lại có thể thị hiện vô lượng cõi Phật, khi kiếp lửa thiêu đốt và thành trụ, tất cả hết thảy thế gian, hoàn toàn ở trong một lỗ chân lông

 

Vị lai cập hiện tại Khứ, lai cùng hiện tại
Nhất thiết thập phương Phật, Tất cả phật mười phương
Mị bất ư thân trung Ðều ở tại trong thân
Phân minh nhi hiển hiện. Phân minh mà hiển hiện

Giảng: Đời quá khứ, đời vị lai, đời hiện tại, tất cả mười phương chư Phật, thảy đều ở trong thân, phân minh hiển hiện thấy được rõ ràng.

 

Thâm tri biến hóa pháp Biết sân khá biến hoá
Thiện ưng chúng sanh tâm, Khéo ưng tâm chúng sanh
Thị hiện chủng chủng thân Thị hiện các loại thần
Nhi giai vô sở trước. Mà đều vô sở trước

Giảng: Bồ Tát biết sâu pháp biến hoá, khắp ứng tâm của tất cả chúng sinh, do đó có câu: “Quán cơ thí giáo, vì người cho thuốc”. Đáng dùng thân gì độ được, thì Bồ Tát thị hiện thân đó mà vì họ nói pháp. Tuy thị hiện đủ thứ thân, nhưng đều không có sự chấp trước.

 

Hoặc hiện ư lục thú Hoặc hiện ở sáu loài
Nhất thiết chúng sanh thân Tất cả thân chúng sanh
Phạm Thích hộ thế thân Thân thích, phạm hộ thê
Chư Thiên Nhân chúng thân Thân chư thiên, thân người

Giảng: Hoặc hiện ở trong sáu nẻo luân hồi, thị hiện thân tất cả chúng sinh, hoặc hiện thân Thích Đề Hoàn Nhân, hoặc hiện thân Đại Phạm Thiên Vương, hoặc hiện thân Hộ Thế Tứ Thiên Vương, hoặc hiện thân chư Thiên, hoặc thân người, hoặc thân A tu la v.v…

 

Thanh văn Duyên giác thân, Thân thanh văn , duyên giác,
Chư Phật Như Lai thân Thân Chư Phật Như Lai,
Hoặc hiện Bồ Tát thân Hoặv hiện thân Bồ Tát
Tu hành nhất thiết trí. Tu hành nhứt thiết trí

Giảng: Hoặc hiện thân Thanh Văn, hoặc hiện thân Duyên Giác, hoặc hiện thân chư Phật, hoặc hiện thân Bồ Tát, tu hành nhất thiết trí huệ.

 

Thiện nhập nhuyễn trung thượng Khéo nhập hạ, trung, thượng
Chúng sanh chư tưởng võng Lưới tưởng của chúng sanh
Thị hiện thành Bồ-đề Thị hiện thành Bồ đề
Cập dĩ chư Phật sát. Nhẫn đến những cõi phật

Giảng: Khéo vào trong chúng sinh thượng trung hạ, tại tất cả lưới tưởng chúng sinh, thị hiện thành tựu bồ đề giác đạo, kiến lập tất cả cõi nước chư Phật.

 

Liễu tri chư tưởng võng Biết rõ những lưới tướng
Ư tưởng đắc tự tại Nơi tưởng được tự tại,
Thị tu Bồ Tát hạnh Hiện tu hạnh Bồ Tát.
Nhất thiết phương tiện sự Tất cả sự phương tiện

Giảng: Thấu rõ lưới tưởng của tất cả chúng sinh (vọng tưởng giống như lưới), đối với tưởng đắc được tự tại, không còn bị ràng buộc lưới tưởng nữa, thị hiện hạnh môn tu hành của Bồ Tát, cùng với tất cả việc phương tiện.

 

Thị hiện như thị đẳng Thị hiện như vậy thảy
Quảng đại chư thần biến Những thần biến quãng đại
Như thị chư cảnh giới Những cảnh giới như vậy
Cử thế mạc năng tri. Thế gian chẳng biết được

Giảng: Đủ thứ sự tướng thị hiện ở trước đã nói, đều là thần thông biến hoá rộng lớn. Tất cả cảnh giới như vậy, chúng sinh thế gian chẳng cách chi biết được.

 

Tuy hiện vô sở hiện Dầu hiện mà không hiện
Cứu cánh chuyển tăng thượng, Rốt ráo càng tăng thượng
Tùy thuận chúng sanh tâm Tuỳ thuận tâm chúng sanh
Lệnh hành chân thật đạo Khiến được đạo chơn thiệt

Thân ngữ cập dữ tâm Thân, ngữ và cùng tâm
Bình đẳng như hư không Bình đẳng như hư không .

Giảng: Tuy Bồ Tát thị hiện đủ thứ cảnh giới, nhưng chẳng có sở hiện, vì Bồ Tát chẳng chấp trước. Rốt ráo đạo quả ngày càng tăng tiến hướng thượng, tuỳ thuận tâm của tất cả chúng sinh, khiến cho họ tu hành đạo chân thật. Thân lời ý ba nghiệp thanh tịnh, không có tạp nhiễm, bình đẳng như hư không.

 

Tịnh giới vi đồ hương, Tịnh giới lắm hương thoa
Chúng hạnh vi y phục Các hạnh làm y phục
Pháp tăng nghiêm tịnh kế Gấm pháp trùm búi tóc
Nhất thiết trí ma-ni Ma ni: nhứt thiết trí,

Giảng: Giới thanh tịnh làm hương thoa, lục độ vạn hạnh làm y phục. Lụa pháp làm búi tóc trang nghiêm thanh tịnh. Nhất thiết trí huệ làm bảo châu ma ni.

 

Công đức mị bất châu, Công đức đều cùng khắp
Quán đảnh thăng Vương vị. Quán đảnh lên vương vị
Ba-la-mật vi luân Ba la mật làm xe,
Chư thông dĩ vi tượng, Thần thông dùng làm tượng ,

Giảng: Công đức đó khắp cùng mười phương cõi Phật, quán đảnh thọ ký, giống như lên vương vị. Dùng pháp mười độ Ba La Mật, làm bánh xe đại thừa. Sáu thần thông làm voi trắng lớn.

 

Thần túc dĩ vi mã Thần túc đúng như ngựa,
Trí tuệ vi minh châu. Trí huệ làm minh châu,
Diệu hạnh vi thải nữ Diệu hạnh làm thể nử
Tứ nhiếp chủ tạng Thần Tứ nhiếp: chủ tạng thần

Giảng: Thần túc thông làm ngựa, trí huệ làm minh châu, sở tu diệu hạnh làm thể nữ, bốn pháp nhiếp làm chủ tạng thần báu. Chuyển Luân Thánh Vương có bảy thứ bảo bối :

1. Luân báu.
2. Châu báu.
3. Voi báu.
4. Ngựa báu.
5. Binh báu.
6. Chủ tạng thần báu.
7. Nữ báu.

 

Phương tiện vi chủ binh Phương tiện làm chủ binh ,
Bồ Tát Chuyển luân Vương. Bồ Tát chuyển luân vương
Tam muội vi thành khuếch Tam muội làm thành quách,
Không tịch vi cung điện Không tịch làm cung điện,

Giảng: Phương tiện thiện xảo làm chủ binh báu, Bồ Tát ví như Chuyển Luân Thánh Vương. Tam muội làm thành quách. Nội thành là thành, ngoại thành là quách. Không tịch làm cung điện. Cung là chỗ ở của hoàng đế, điện là chỗ làm việc xử lý quốc gia của hoàng đế.

 

Từ giáp trí tuệ kiếm Từ giáp trí tuệ kiếm
Niệm cung minh lợi tiến Cung: niệm, tên: minh lợi,
Cao trương thần lực cái Giăng cao lọng thần lực,
Huýnh kiến trí tuệ tràng, Lại dựng tràng trí huệ

Giảng: Từ bi làm áo giáp, trí huệ làm bảo kiếm, chánh niệm làm cung báu, minh lợi làm mũi tên. Giăng cao lọng báu thần lực, lại dựng tràng báu trí huệ.

 

Nhẫn lực bất động dao Nhẫn lực chẳng lay động
Trực phá ma Vương quân. Thẳng phá quân ma vương
Tổng trì vi bình địa Tổng trì làm đất bằng,
Chúng hạnh vi hà thủy Những hạnh làm nước sông,

Giảng: Sức nhẫn nhục chẳng lay động, hay đánh thẳng vào quân ma vương. Pháp môn tổng trì làm đất bằng, tất cả hạnh môn làm sông nước, hai thứ nhân duyên nầy hay sinh ra diệu pháp.

 

Tịnh trí vi dũng tuyền Tịnh trí làm suối chảy
Diệu tuệ tác thụ lâm. Diệu huệ làm rừng cây,
Không vi trừng tịnh trì Chơn không: ao đứng sạch,
Giác phần hạm đạm hoa Giác phần làm hoa sen,

Giảng: Trí thanh tịnh làm suối vọt, huệ vi diệu làm rừng cây. Thế nào gọi là trí? Thông sự tướng hữu vi là trí. Thế nào là huệ? Đạt nơi định lý vô vi là huệ. Cũng có thể nói thông hiểu các pháp là trí, dứt hoặc chứng lý là huệ. Hư không làm hồ báu lắng trong, giác phần làm hoa sen.

 

Thần lực tự trang nghiêm Thần lực tự trang nghiêm
Tam muội thường ngu lạc. Tam muội thường đùa vui.
Tư tánh vi thải nữ Tư duy làm thể nữ,
Cam lồ vi mỹ thực Cam lộ làm mỹ thực.

Giải thoát vị vi tương Giải thoát vị: nước uống,
Du hí ư tam thừa. Du hý nơi tam thừa,

Giảng: Thần thông lực tự trang nghiêm. Tam muội làm vui đùa. Tư duy làm thể nữ, cam lồ làm thức ăn ngon, vị giải thoát làm nước uống, du hí nơi Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, ba thừa.

 

Thử chư Bồ-tát hạnh Những hạnh Bồ Tát này
Vi diệu chuyển tăng thượng Vi diệu thêm tăng thượng
Vô lượng kiếp tu hành Vô lượng kiếp tu hành
Kỳ tâm bất yếm túc. Tâm ngài không nhàm đủ.

Giảng: Ở trên là tất cả hạnh môn tu hành của Bồ Tát, càng tu hành thì càng có những cảnh giới vi diệu không thể nghĩ bàn, ngày càng tăng trưởng hướng thượng, ở trong vô lượng kiếp tu hành, tâm đó chẳng khi nào nhàm mỏi biết đủ.

 

Cúng dường nhất thiết Phật Cúng dường tất cả phật
Nghiêm tịnh nhất thiết sát, Nghiêm tịnh tất cả cõi
Phổ lệnh nhất thiết chúng Khiến khắp tất cả chúng
An trụ nhất thiết trí. An trụ nhứt thiết trí,

Giảng: Cúng dường mười phương tất cả chư Phật, trang nghiêm thanh tịnh tất cả cõi nước chư Phật. Khắp khiến cho tất cả chúng sinh, an trụ ở trong nhất thiết trí.

 

Nhất thiết sát vi trần Tất cả cõi vi trần
Tất khả tri kỳ số Ðều biết được số đó,
Nhất thiết hư không giới Tất cả hư không giới
Nhất sa khả so lường; Hột cát đo lường được,

Giảng: Tất cả cõi Phật nhiều như số hạt bụi, hoàn toàn biết được số lượng. Tất cả cõi hư không, số cát sông Hằng, đều có thể độ lượng được có bao nhiêu !

 

Nhất thiết chúng sanh tâm Tất cả tâm chúng sanh
Niệm niệm khả số tri Niệm niệm đếm biết được,
Phật tử chư công đức Phật tử các công đức
Thuyết chi bất khả tận. Nói đó không hết được.

Giảng: Tâm của tất cả chúng sinh, ở trong niệm niệm, cũng có thể biết được số mục. Nhưng Phật tử làm các công đức rất nhiều, nói cũng không hết được.

 

Dục cụ thử công đức Muốn đủ công đức này
Cập chư thượng diệu Pháp Và những pháp thượng diệu,
Cục sử chư chúng sanh, Muốn cho những chúng sanh
Ly khổ thường an lạc Lìa khổ thường an lạc,

Giảng: Nghĩ muốn đầy đủ công đức nầy, thì phải có tất cả diệu pháp vô thượng, mới có thể khiến cho tất cả chúng sinh, lìa khổ được an lạc.

 

Dục lệnh thân ngữ ý Muốn cho thân, ngữ, ý
Tất dữ chư Phật đẳng Ðều đồng như chư phật,
Ưng phát Kim cương tâm Phải phát kim cang nguyện.
Học thử công đức hạnh Học hạnh công đức này.

Giảng: Bồ Tát muốn khiến cho thân lời ý ba nghiệp, hoàn toàn đồng với tất cả chư Phật. Phải phát tâm bồ đề kim cang, tinh tấn học tập hạnh của công đức đó. Chúng ta nghe đoạn kinh nầy rồi, cũng nên phát tâm kim cang của Bồ Tát!






Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét