Kinh Hoa Nghiêm
Đại Phương Quảng Phật
giảng giải
Phẩm Thứ 25
Hòa Thượng TUYÊN HÓA
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Minh Ðịnh
— o0o —
Phẩm Thập Hồi Hướng – 6.1
Hồi hướng tuỳ thuận kiên cố tất cả căn lành
Phật tử! vân hà vi Bồ-Tát Ma-ha-tát tùy thuận kiên cố nhất thiết thiện căn hồi hướng?
Phật tử ! Thế nào là hồi hướng tuỳ thuận kiên cố tất cả căn lành của đại Bồ Tát ?
Giảng: Bồ Tát Kim Cang Tràng nói xong hồi hướng thứ năm, Ngài lại tiếp tục đề ra hồi hướng thứ sáu, hướng về các vị đại Bồ Tát ở trong pháp hội, Ngài nói: Các vị đệ tử của Phật ! Các Ngài có biết thế nào gọi là hồi hướng tuỳ thuận kiên cố tất cả căn lành của đại Bồ Tát chăng ?
Phật tử! thử Bồ-Tát Ma-ha-tát hoặc vi đế Vương lâm ngự Đại quốc, uy đức quảng bị, danh chấn thiên hạ, phàm chư oán địch mị bất quy thuận, phát hiệu thí lệnh tất y chánh Pháp, chấp trì nhất cái phổ ấm vạn phương, châu hàng suất độ sở hướng vô ngại, dĩ ly cấu tăng nhi hệ kỳ đảnh, ư pháp tự tại, kiến giả hàm phục, bất hình bất phạt, cảm đức tùng hóa. dĩ tứ nhiếp Pháp nhiếp chư chúng sanh, vi Chuyển luân Vương, nhất thiết châu cấp.
Phật tử ! Đại Bồ Tát nầy, hoặc làm đế vương, ngự trị nước lớn, có oai đức rộng lớn, danh chấn thiên hạ. Phàm là các oán địch, thảy đều quy thuận. Hiệu lịnh phát ra đều y theo chánh pháp. Cầm một cây lọng, che khắp vạn phương. Đi khắp cõi nước, không bị trở ngại. Dùng lụa lìa cấu, quấn trên đỉnh đầu. Nơi pháp tự tại, người thấy được đều điều phục. Không có hình phạt, dùng đức cảm hoá. Dùng bốn pháp nhiếp, để nhiếp các chúng sinh. Làm Chuyển Luân Vương, chu cấp tất cả.
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Vị đại Bồ Tát nầy tu pháp môn hồi hướng, hoặc Ngài thị hiện một vị hoàng đế, thống trị thiên hạ. Dùng thân phận hoàng đế thống lãnh vạn phương, quản trị nhân dân. Ý nghĩa ngự trị bao quát giáo hoá nhân dân, trị lý quốc chánh. Nước lớn tức là biểu thị nhân dân đông, đất đai rộng lớn, vật tài sản phong phú. Bồ Tát thị hiện hoàng đế là ông vua của nước lớn, nước giàu dân mạnh, chính trị thanh minh. Oai đức rộng lớn, sở dĩ ông vua nầy ngự trị nước lớn, chẳng những ông ta có võ công giỏi, mà còn có đức hạnh hiền minh, do đức mà lập oai, khiến cho nhân dân xa gần và nước lân cận đều cảm thọ đức hạnh của Ngài, cho nên danh chấn thiên hạ, mọi người thấy đều quy hàng. “Phàm là các oán địch, thảy đều quy thuận”, phàm là trong quá khứ đã từng kết oán cừu với ông ta, cùng với sự đối địch xưa kia, của những nước lân cận xa gần lớn nhỏ, hiện tại vì cảm thọ được đức hạnh của ông ta cảm hoá, mọi người đều buông bỏ oán cừa đối địch trong quá khứ, tâm hoan hỉ thuần phục đến quy thuận với ông ta, thần phục ông ta. Khi ông ta muốn tuyên bố phương châm, hoặc phát ra hiệu lệnh cho nhân dân toàn quốc, thì chẳng có một sự kiện nào chẳng phải là y theo chánh pháp mà hành sự, tất cả đều hợp tình hợp lý, ví như ông ta kêu toàn thể nhân dân đều thọ trì năm giới, thường tu mười điều lành, đó đều là biểu hiện dùng chánh pháp để giáo hoá nhân dân.
“Cầm một cây lọng”, “cây lọng” giảng theo lối mật tông, tức là chỉ cây lọng trắng lớn trong Chú Lăng Nghiêm. Trong Chú Lăng Nghiêm có tâm Chú: “Tất Ðát Ða, Bát Ðát La” tức là sáu chữ nầy. Nếu một lòng chuyên chú, tâm chẳng có tạp niệm, thành tâm tụng niệm, thì ở trong hư không sẽ hiện ra một cái lọng trắng lớn, cái lọng đó có oai thần lực “che khắp vạn phương”. Phàm là chỗ nào được che mát, thì chẳng có đao binh nổi dậy, bệnh ôn dịch chẳng sinh ra, chẳng xảy ra nạn nước lửa, đạo tặc, chỉ có cát tường như ý, mưa thuận gió hoà, nhân dân an lạc, chẳng có bất cứ tai nạn gì. Nếu án chiếu theo pháp mà nói, thì chữ “lọng” nầy tức là thật tướng diệu pháp. Thật tướng vô tướng, nhưng vô sở bất tướng. Do thật tướng mà sinh ra tất cả các pháp, dùng tất cả các pháp để giáo hoá chúng sinh trong chín pháp giới. Ðó tức là đạo lý một gốc tán làm vạn thù, vạn thù lại quy về một gốc. “Một” nầy ở trong tâm mắt của chúng ta tu đạo, là mục đích của sự tu, do đó được “Một” thì vạn sự đều xong. Lão Tử có nói:
“Trời được một thì thanh.
Ðất được một thì ninh.
Thần được một thì linh”.
Trời chẳng có “một” thì không thể thanh. Ðất chẳng có “một” thì không thể ninh. Thần chẳng có “một” thì không thể linh nơi con người, không thể trở thành chánh thần. Chữ “một” nầy là bắt đầu của số mục. Cuối cùng thì số “một” nầy từ đâu ra ? Từ số “0” mà ra. Ðập vỡ số “0” thì biến thành số “1”. Nếu làm cho nó hợp lại, thì sẽ thành số “0”. Số “0” nầy tức là chân không. Chân không chẳng không, nó có thể sinh ra diệu hữu. Diệu hữu chẳng hữu, cho nên lại gọi là chân không. Trên thật tế chân không tức là diệu hữu, diệu hữu tức cũng là chân không. “Hữu” nầy, nó do không mà sinh ra, trong không hàm có diệu hữu, vì chân không diệu hữu, diệu hữu chân không nầy, mới có trời, đất, con người, và vạn vật. Tất cả đều do số “0” sinh ra, số “0” có thể sinh ra trời, sinh ra đất, sinh ra con người, sinh ra vạn vật, sinh ra Phật, sinh ra tiên, sinh ra Thánh nhân. Tất cả hết thảy đều từ số “0” sinh ra. Vậy số “0” nầy lại từ đâu sinh ra ? Nó từ hư không sinh ra, cho nên gọi là chân không diệu hữu. Ðạo lý nầy vô cùng vô tận, không thuỷ chung, không trong ngoài, không lớn nhỏ. Cho nên nói nó lớn mà không ở ngoài, nhỏ mà không ở trong. Nói nó lớn chăng ? Ðầy dẫy cả hư không pháp giới. Nó nhỏ chăng ? Còn nhỏ hơn so với hạt bụi. Lớn mà không ở ngoài, nhỏ mà không ở trong, tức là hình dung số “0” nầy. Sao lại nói nó vô thuỷ vô chung ? Bạn nhìn số “0” nầy có sự bắt đầu và kết thúc chăng ? Nếu nói nó có sự bắt đầu và kết thúc, thì tức là nó vỡ mà làm “một”. Cho nên nói số “0” với số “một” là bao hàm tất cả thật tướng diệu pháp, đây tức là cầm một cây lọng, cũng có thể nói cầm một pháp, pháp nói ở đây, đã đến được số “0” tức lại là một pháp bất lập, vạn pháp đều không. Tuy nhiên một pháp bất lập, mà lại đầy đủ tất cả các pháp. Tuy nhiên vạn pháp đều không, mà tại vạn pháp đều ở trong không lại hay sinh ra tất cả các pháp. Tại chỗ cuối cùng nầy là sự khác biệt giữa mê và ngộ của con người. Người mê thì trôi nổi ở trong sinh tử, người ngộ thì thành tựu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, tức là một pháp nầy, mà có thể che khắp vạn phương.
“Ði khắp cõi nước”: Làm thủ trưởng của nhân dân, đừng nói đến quản lý việc lớn nhỏ, mà còn phải thường gần gũi dân chúng, thường đi đến các nơi quan sát, phải đi sâu vào nhân gian, mới hiểu được tình hình sinh sống thật tế của dân gian. Bất quá ngàn vạn không thể quán sát thấy hết dân tình, mà đi quấy nhiễu dân, thì đó chẳng phải là thủ trưởng thương dân. Phàm là lãnh thổ thuộc về một đất nước, do một vị nguyên thủ thống trị lãnh đạo, nhân dân ở trong tất cả những đất đai đó, đều chịu sự giáo hoá của vị nguyên thủ và phục tùng lệnh của ông ta. “Không bị trở ngại”: Trong cõi nước của vị nguyên thủ thống trị, phát ra hiệu lệnh, giáo hoá nhân dân, tất cả đều phải nghe theo, chẳng có một người nào phản đối, chẳng bị chút trở ngại nào. Dù những nước lân cận, cũng không đối nghịch với ông ta. Vì ông vua nầy làm cho nhân dân an cư lạc nghiệp, cho nên mới không có trở ngại nào. “Dùng lụa lìa cấu mà quấn trên đỉnh đầu”: Dùng tơ lụa sạch sẽ thanh tịnh làm cái mũ để vua đội trên đầu – câu nầy có hàm ý tướng vô kiến đỉnh của Phật. “Nơi pháp tự tại”: Phật là đấng Pháp Vương, cho nên nơi pháp tự tại. Bồ Tát thị hiện làm ông vua, nương theo chánh pháp trị nước, dùng tâm từ bi thương dân, cho nên Ngài đối với pháp cũng nhậm vận tự tại. “Người thấy được đều điều phục”: Vị vua nầy nhân từ thương dân, nhân đức lập oai, mắt từ bi nhìn người, cho nên phàm là người thấy được Ngài, đều rất cung kính đối với Ngài. Vị vua nầy chuyên dạy nhân dân tu năm giới, làm mười điều lành, không dùng hình phạt giết hại người, cũng không dùng phương pháp nặng trừng trị người, Ngài hoàn toàn dùng đức để cảm hoá người, nhân dân tự nhiên tâm vui thành phục, cảm kính Ngài, phục tùng Ngài. Bồ Tát giáo hoá thần dân của Ngài, dùng đủ thứ pháp lành để cảm hoá họ, trong đó dùng bốn pháp nhiếp. Thứ nhất là bố thí: Bố thí có bố thí tài, bố thí pháp, bố thí vô uý.
- Bố thí tài: Bao quát nội tài và ngoại tài. Nội tài là tứ chi, đầu mắt, tuỷ não, máu thịt của mình .v.v… Ngoại tài là tất cả đồ vật ngoài thân, như đất nước, thành quách, ngôi vua, sơn hà đại địa, nhà cửa phòng xá, ruộng vườn châu báu, vợ con tôi tớ .v.v…
- Bố thí pháp: Tức là giảng Kinh thuyết pháp, làm tín đồ giải thích nghĩa Kinh và nghi nan trong Phật pháp, thậm chí giảng giải một chữ, một câu, một bài kệ, đều là bố thí pháp.
- Bố thí vô uý: Tức là dùng đạo lý Phật pháp giải trừ ách nạn trong thân tâm của họ, khiến cho họ hết sự sợ hãi lo âu.
Bố thí là chi ra, chẳng mong cầu người khác báo đáp. Bố thí là điều khó xả mà xả được cho người cần, chẳng phải đem vật mà mình không muốn bố thí cho họ, đó chẳng gọi là bố thí. Một người chân tâm học Phật tu đạo, nếu tu pháp môn bố thí nầy thànnh tựu, thì trở thành một vị đại Bồ Tát. Phật nói học Bồ Tát đạo, thì phải tu lục độ vạn hạnh, đầu tiên trong lục độ là bố thí. Người thật tâm bố thí, thì nhất định không tham xẻn. Ðối với chúng sinh nhất định có tâm từ bi, hay nhẫn nhục nhường nhịn được. Thân miệng ý nhất định cố gắng làm cho được thanh tịnh, nhất định giữ gìn giới thanh tịnh. Nhất định tin sâu lời dạy của Phật, y theo giáo pháp tu hành. Hành giả chân chánh hiểu rõ pháp môn bố thí, thì họ sẽ nhất định sẽ ít phiền não, định tâm kiên thật và trí huệ thanh tịnh. Hành giả làm được những điều kiện nầy, thì chẳng phải là một vị Bồ Tát chăng ? Nhiếp thọ chúng sinh thứ nhất là dùng pháp bố thí, là đối trị tâm lý của chúng sinh, Phật nói:
“Muốn khiến vào Phật trí,
Trước dùng câu dục móc”.
– Pháp bố thí chiếm vị trí thứ nhất của bốn pháp nhiếp, sẽ có tác dụng nầy.
– Pháp nhiếp thứ hai là ái ngữ: Con người cùng với động vật có linh tánh, đều thích nghe lời tốt, thích nghe người khen, chẳng muốn nhìn người khác mặt mày xấu ác, chẳng muốn nghe họ nói lời ác, lời không hay, cho nên Bồ Tát dùng ái ngữ để đối đãi chúng sinh, kiến lập quan hệ hữu hảo, sau đó dùng chánh pháp giáo hoá họ, thì họ sẽ tiếp thọ thuần phục Ngài mau hơn.
– Thứ ba là lợi hành: Tức là làm đủ thứ việc có lợi cho chúng sinh, chúng sinh thọ được lợi ích thì thân tâm an lạc, pháp hỉ sung mãn, đều trở thành nhân dân thiện lương.
– Thứ tư là đồng sự: Nếu bạn muốn độ chúng sinh đó, tốt nhất là thân phận cùng giống với họ, thì dễ hiểu họ hơn, gần gũi họ hơn, giáo hoá họ. Phương pháp thứ tư nầy, đều là pháp môn phương tiện khéo léo độ chúng sinh giáo hoá chúng sinh. Khi Bồ Tát làm ông vua thì dùng bốn phương pháp nầy để nhiếp thọ các chúng sinh, giáo hoá chúng sinh. “Làm Vua Chuyển Luân, chu cấp tất cả”: Vị Bồ Tát nầy tu pháp môn hồi hướng, Ngài thị hiện làm ông vua nước lớn, chẳng phải là ông vua bình thường, mà là một vị vua Chuyển Luân Thánh Vương, đầy đủ oai đức, dũng mãnh, đầy đủ bảy báu. Thuở xưa Ngài tích tụ đủ thứ căn lành công đức, cho nên khi làm vua thì châu báu tài sản đầy dẫy, vô cùng vô tận. Nhưng Ngài chẳng chiếm làm của riêng mình, mà chu cấp khắp cho tất cả nhân dân, khắp khiến cho nhân dân cơm no áo ấm, an cư lạc nghiệp, về già có chỗ nương, còn nhỏ có chỗ nuôi dưỡng, chẳng có thiên tai, cũng chẳng có nhân hoạ, đây là cõi Cực Lạc tại nhân gian, cũng là cõi Tịnh Ðộ tại nhân gian. Bồ Tát thị hiện làm vua, đất nước mà Ngài thống lãnh, toàn quốc trên dưới đều phụng hành năm giới và mười điều lành, chánh pháp che khắp, mới có cảnh giới thái bình thịnh vượng như thế.
Bồ-Tát Ma-ha-tát an trụ như thị tự tại công đức, hữu Đại quyến thuộc, bất khả tự hoại, ly chúng quá thất, kiến giả vô yếm, phước đức trang nghiêm, tướng hảo viên mãn, hình thể chi phần quân điều cụ túc. Hoạch Na-la-diên kiên cố chi thân, Đại lực thành tựu, vô năng khuất phục. đắc thanh tịnh nghiệp, ly chư nghiệp chướng.
Đại Bồ Tát an trụ công đức tự tại như vậy. Có quyến thuộc lớn. Không ai có thể trở ngại phá hoại được. Đều lìa khỏi các lỗi lầm. Người thấy không nhàm chán. Phước đức trang nghiêm, tướng tốt viên mãn. Thân hình tráng kiện, đồng đều đầy đủ. Được thân Na La Diên kiên cố, sức mạnh thành tựu, không ai khuất phục được. Đắc được nghiệp thanh tịnh, lìa các nghiệp chướng.
Giảng: Ðại Bồ Tát tu pháp môn hồi hướng, Ngài an trụ trong công đức vô ngại nầy, có vô lượng vô số quyến thuộc thần dân chung quanh Ngài, ủng hộ Ngài. Những quyến thuộc đó đều là đệ tử Phật chánh tri chánh kiến, chánh tín chánh niệm, phụng hành chánh pháp, cho nên gọi là quyến thuộc lớn. Tự thân của Bồ Tát và pháp thống của Ngài, cùng với hết thảy quyến thuộc của Ngài, đều có thân kiên cố, tâm niệm trác tuyệt, cho nên tuyệt đối chẳng thọ lời lẽ dụ hoặc của ngoại đạo, thế lực nào có thể phá hoại được. Ba nghiệp của Bồ Tát sớm đã được thanh tịnh, chuyên làm các việc thiện, không làm các việc ác, chẳng có bất cứ lỗi lầm gì, có thân tâm thanh tịnh thuần khiết như thế.
Khí chất và phong độ của Ngài đã đạt đến cực điểm, do đó, phàm là người nào thấy được Ngài, đều mong muốn được gần gũi Ngài, không sinh tâm nhàm chán. Bồ Tát có y, chánh, hai báo như vậy, đều là do nhiều đời nhiều kiếp tại nhân địa hành Bồ Tát đạo, tích tụ phước đức trí huệ, mới có được tướng tốt viên mãn, cõi nước trang nghiêm như ngày hôm nay. Phật trong ba A Tăng Kỳ tu phước huệ, trăm kiếp vun trồng tướng tốt. Chuyển Luân Thánh Vương cũng có ba mười hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, giống như Phật, bất quá quang minh của Ngài chẳng viên mãn như quang minh của Phật, cũng không thể chiếu khắp đại thiên thế giới. Thân hình của Ngài tráng kiện, tứ chi tương xứng, ngũ quan phối hợp đồng đều. Từ đầu đến chân, chẳng có một chỗ nào mà chẳng đồng đều đầy đủ mà viên mãn. Ðược thân Na La Diên kiên cố:
Na La Diên là biệt danh của Phạm Thiên Vương, nghĩa là đoan chánh khoẻ mạnh kiên cố, mượn đây để ví dụ Bồ Tát thị hiện làm ông vua nước lớn, có thân Na La Diên kiên cố tráng kiện như thế, chẳng dễ gì bị sức lực bên ngoài làm tổn thương được. Vì Bồ Tát tu pháp môn hồi hướng, nơi nơi đều xả mình vì người, mọi việc đều muốn thay thế chúng sinh thọ khổ, cho nên đắc được thân kim cang kiên cố như thế. Sức mạnh thành tựu, không ai khuất phục được: Thuở xưa Bồ Tát phát nguyện lớn, Ngài dùng thâm tâm kiên cường, nguyện lớn lực lớn của Ngài, mỗi mỗi đều viên mãn thành tựu. Trong quá trình Ngài tu Bồ Tát đạo, đã từng gặp những chướng ngại khốn khổ hoạn nạn, Ngài cũng đều khắc phục được hết. Vì Ngài có ý chí kiên định không thay đổi, cho nên chẳng có ai và việc gì khuất phục được, do đó Ngài đắc được quả nghiệp thanh tịnh, lìa khỏi tất cả nghiệp chướng ô nhiễm, sớm thành tựu Phật đạo.
Cụ túc tu hành nhất thiết bố thí, hoặc thí ẩm thực cập chư thượng vị, hoặc thí xa thừa, hoặc thí y phục, hoặc thí hoa man, tạp hương, đồ hương, sàng tọa, phòng xá cập sở trụ xứ, thượng diệu đăng chúc, bệnh duyên thang dược, bảo khí, bảo xa, điều lương tượng mã, tất giai nghiêm sức, hoan hỉ bố thí.
Tu hành đầy đủ tất cả bố thí, hoặc bố thí ẩm thực và các thượng vị, hoặc bố thí xe cộ, hoặc bố thí y phục, hoặc bố thí tràng hoa, tạp hương, hương thoa, giường toà phòng xá và chỗ ở. Đèn đuốc thượng diệu, đồ đạc châu báu xe báu. Thuốc thang, voi tốt ngựa giỏi, thảy đều nghiêm sức, hoan hỉ bố thí.
Giảng: Khi Bồ Tát tu pháp môn bố thí thì, Ngài chẳng tiếc đồ trân quý, hết mình bố thí tất cả vật chất tốt đẹp, như đủ thứ ẩm thực mỹ vị ngon nhất, hoặc bố thí các thứ công cụ giao thông như máy bay, tàu thuyền, xe lửa, xe hơi, cùng với các thứ xe cộ lớn nhỏ. Hoặc bố thí các thứ y phục tốt đẹp. Hoặc bố thí tràng hoa dùng các thứ hoa quý tươi tốt kết thành. Hoặc bố thí đủ thứ hương thơm, hương đốt, hương thoa, hương bột .v.v… Hoặc bố thí giường toà. Toà, như là trường kỷ, bàn ghế .v.v… Hoặc xây nhiều phòng xá, bố thí cho những người không có nhà ở, để che nắng che mưa. Hoặc dùng châu báu làm đèn, đuốc, để cúng dường Phật. Hoặc đem thuốc men bố thí cho người già, và người bệnh nghèo khổ cô độc. Hoặc đem đồ vật trân quý, xe báu và voi tốt ngựa giỏi, thảy đều nghiêm sức đẹp đẽ mỹ lệ đầy đủ. Bồ Tát đem những thứ vật chất khó được đó, hoan hỉ bố thí cho tất cả mọi người.
Hoặc hữu lai khất Vương sở xứ tọa, nhược cái, nhược tản, tràng phan bảo vật, chư trang nghiêm cụ, đảnh thượng bảo quán, kế trung minh châu, nãi chí Vương vị, giai vô sở lận.
Hoặc có người đến xin toà của vua ngồi, hoặc lọng, hoặc dù, tràng phan báu vật, các thứ đồ trang nghiêm. Mão báu trên đầu, hạt minh châu trong búi tóc, cho đến ngôi vua, đều không xẻn tiếc.
Giảng: Hoặc có người đến xin ông vua cái toà ngồi của vua. Hoặc có người đến xin lọng báu, dù báu, tràng báu, phan báu của vua thường dùng và các thứ báu vật khác, đủ thứ đồ dùng quý trọng của vua. Thậm chí có người đến xin cái mũ làm bằng bảy báu mà vua thường đội trên đầu. Hạt minh châu ban đêm phóng quang, vua thường cài trong búi tóc, cho đến ngôi vua quý báu, bất cứ ai đến xin, vua đều hoan hỉ bố thí cho họ, tơ hào không xẻn tiếc.
Nhược kiến chúng sanh tại lao ngục trung, xả chư tài bảo, thê tử, quyến thuộc, nãi chí dĩ thân cứu bỉ lệnh thoát. Nhược kiến ngục tù tướng dục bị lục, tức xả kỳ thân dĩ đại bỉ mạng.
Nếu vua thấy chúng sinh ở trong lao ngục, thì xả thí các tài sản châu báu, vợ con quyến thuộc, cho đến thân mạng, để cứu họ thoát khỏi. Nếu thấy tử tù sắp bị giết, thì vua liền xả bỏ mạng sống của mình, để thế mạng cho họ.
Giảng: Vị đại Bồ Tát nầy thị hiện ông vua nước lớn, nếu thấy chúng sinh thọ khổ ở trong lao ngục, thì Ngài chẳng tiếc tất cả tài sản châu báu, hoặc đem vợ đẹp con xinh của mình, hoặc đem quyến thuộc, thậm chí đem thân thể của mình, ra bố thí để cứu chúng sinh thọ khổ ở trong lao ngục, khiến cho họ được thoát khỏi tội lao ngục, được tự do. Hoặc thấy tù nhân ở trong ngục, đã phán tội tử hình, tức là sắp bị giết, thì Ngài lập tức muốn xả bỏ mạng sống của mình, để thay thế cho tử tù đó, tiếp thọ hình phạt chém giết.
Hoặc kiến lai khất liên phu đảnh phát, hoan hỉ thí dữ diệc vô sở lận. Nhãn, nhĩ, tỳ, thiệt, cập dĩ nha xỉ, đầu đính, thủ túc, huyết nhục, cốt tủy, tâm thận, can phế, Đại tràng, tiểu tràng, hậu bì, bạc bì, thủ túc chư chỉ, liên nhục trảo giáp, dĩ hoan hỉ tâm tận giai thí dữ.
Hoặc thấy có người đến xin đầu tóc liền da, Ngài hoan hỉ thí cho, cũng chẳng xẻn tiếc. Mắt tai mũi lưỡi và răng, đỉnh đầu chân tay, máu thịt xương tuỷ, tim thận gan phổi, ruột già ruột non, da dày da mỏng, tay chân các ngón .v.v… đều hoan hỉ bố thí cho hết.
Giảng: Bồ Tát phát tâm hành bố thí, Ngài ôm hoài bảo có người không có ta, xả mình lợi người, cứu độ chúng sinh, giáo hoá chúng sinh, Ngài đã diệt trừ thấy cái ta, tướng ta, chấp cái ta. Bố thí bao quát tài thí – nội tài, ngoại tài, pháp thí, vô uý thí, chẳng có môn nào mà chẳng tu hành triệt để, đạt đến giai đoạn viên mãn rốt ráo. Ðoạn Kinh văn ở trước, là nói Bồ Tát bố thí ngoại tài – đất nước vợ con. Ðoạn Kinh văn nầy là biểu dương Bồ Tát bố thí nội tài khó xả mà xả được – đầu mắt tuỷ não, nội tạng và máu thịt .v.v…
Hoặc có người đến hướng về Ngài xin đầu tóc liền da, Bồ Tát tơ hào chẳng do dự, một chút cũng không xẻn tiếc, hoan hỉ bố thí cho người xin. Chẳng những như thế, dù có người đến xin con mắt, lỗ tai, lỗ mũi, cái lưỡi, và răng, cái đầu, da thịt, tay chân, cũng vậy. Máu, xương đầu, cốt tuỷ, thậm chí Ngài bố thí tim, thận, gan, phổi, ruột già, ruột non, da dày, da mỏng, tay chân các ngón .v.v..phàm là trong thân thể con người, tứ chi, ngũ quan, nội tạng, máu, thịt, xương tuỷ, chỉ cần chúng sinh cần, thì Ngài chẳng có gì mà không hoan hỉ bố thí, khiến cho người xin đều được mãn nguyện, hết thảy đều bố thí cho họ.
Hoặc vi cầu thỉnh vị tằng hữu Pháp, đầu thân nhi hạ thâm đại hỏa khanh. Hoặc vi hộ trì Như Lai chánh pháp, dĩ thân nhẫn thọ nhất thiết khổ độc. Hoặc vi cầu Pháp nãi chí nhất tự, tất năng biến xả tứ hải chi nội nhất thiết sở hữu. Hằng dĩ chánh pháp hóa đạo quần sanh, lệnh tu thiện hạnh, xả ly chư ác.
Hoặc là vì cầu thỉnh pháp chưa từng có, mà gieo mình vào hầm lửa sâu lớn. Hoặc vì hộ trì chánh pháp của Như Lai, mà dùng thân nhẫn thọ tất cả khổ nạn độc hại. Hoặc vì cầu pháp, cho đến một chữ, đều xả thí tất cả hết thảy trong bốn biển. Luôn dùng chánh pháp giáo hoá quần sinh, khiến cho họ tu pháp lành, xả lìa các điều ác.
Giảng: Ðoạn Kinh văn nầy nói tinh thần vĩ đại của Bồ Tát vì pháp mà quên mình, thà xả bỏ hết thảy tất cả trong bốn biển, mà đổi lấy một chữ nửa bài kệ. Bồ Tát hy sinh chính mình như vậy, Ngài vì giáo hoá chúng sinh, khiến cho họ tu pháp lành, xả bỏ các điều ác.
Bồ Tát hoặc vì cầu thỉnh chánh pháp chưa từng nghe qua, dù có gieo mình vào trong hầm lửa sâu lớn, cũng chẳng tiếc thân mạng. Hoặc vì hộ trì chánh pháp, hộ trì đạo tràng, Ngài có thể thọ khổ mà người khác không thọ được, nhẫn điều mà người khác không thể nhẫn được, nhường sự tổn thất mà người khác không nhường được, ăn những thứ mà người khác không ăn được. Tóm lại, chỉ cần hộ trì chánh pháp, Ngài có thể thọ tất cả khổ nạn độc hại. Hoặc vì cầu một chữ của chánh pháp, Ngài có thể xả bỏ tất cả hết thảy trong bốn biển. Bồ Tát như thế, Ngài là vì giáo hoá chúng sinh, hy vọng chúng sinh đều y theo chánh pháp tu hành, tu tập mười điều lành, xả lìa tất cả nghiệp ác, thành tựu các hạnh lành.
Trước kia Ðức Phật Thích Ca tại nhân địa tu hành, thì một ngày nọ có một con quỷ La Sát đến, ở trước mặt Ngài tự nói như vầy:
“Các hành vô thường,
Là pháp sinh diệt. . . . . . .”
Nói đến đây bèn ngừng lại, chẳng nói phần dưới. Lão tu hành đợi một lúc, nhẫn chẳng được bèn hỏi:
– “Ông vừa đọc ra một bài kệ của Phật, tại sao ông không tiếp tục đọc cho hết đi ?”
– Quỷ La Sát nói: “Ðúng ! Vì tôi đói quá, chẳng còn sức để đọc nữa”.
– Lão tu hành nói: “Ông muốn ăn cái gì ? Ðọc xong tôi sẽ cho ông ăn”.
– Quỷ La Sát nói: “Tôi muốn ăn thịt người sống.”
– Lão tu hành nói: “Ðược ! Ông đọc nửa bài kệ còn lại cho tôi nghe đi, tôi sẽ đem thân mạng của tôi cúng dường cho ông”.
– Quỷ La Sát nói: “Tốt ! Quân từ nhất ngôn, ông đừng có thất hứa !” Do đó, ông ta đọc:
“Sinh diệt diệt rồi,
Tịch diệt là vui”.
Lão tu hành nghe rồi, rất vui mừng vô cùng, đó là pháp vi diệu mà Ngài chưa từng nghe qua. Ý nghĩa của bài kệ nầy là nói: Tất cả sự việc trên thế gian, đều chẳng thường tồn, sinh rồi lại diệt, diệt rồi lại sinh, chỉ có tịch diệt mới là an vui chân thật. Vì tịch diệt vô tướng, tất cả đều chẳng chấp trước. Lão tu hành vì muốn cho lời pháp nầy lưu truyền lại, cho nên khắc vào trong đá, để truyền lại cho chúng sinh đời sau y theo pháp tu hành, dù hy sinh chính mình, cũng có giá trị. Lão tu hành khắc bài kệ xong rồi, thì thỉnh mời quỷ La Sát đến ăn thịt Ngài, ai biết Ngài nhắm mắt đợi một hồi, cũng chẳng thấy quỷ La Sát đến ăn thịt, do đó Ngài mở mắt ra nhìn, thì chẳng thấy dấu vết của quỷ La Sát đâu cả, bèn ngước lên nhìn trên không trung, thì chỉ thấy một vị trời trang nghiêm, đừng ở trên không nói với Ngài: “Lành thay, lành thay ! Ngài thật là bậc chân tu hành, có thể vì nửa bài kệ mà vì chúng sinh đời sau, mà xả bỏ thân mạng.” Ông vua Bồ Tát đó cũng có mỹ đức như Phật, vì pháp mà xả bỏ thân mạng.
Nhược kiến chúng sanh tổn bại tha hình, từ tâm cứu chi, lệnh xả tội nghiệp.
Nếu thấy chúng sinh giết hại, thì dùng tâm từ cứu họ, khiến cho họ xả bỏ tội nghiệp.
Giảng: Ðoạn Kinh văn nầy nói Bồ Tát hành vô uý thí. Lại giáo hoá chúng sinh xả bỏ tội nghiệp tàn sát giết hại người, cũng bao quát pháp thí. Trong xã hội có một nghề nghiệp, tức là chuyên môn tổn hại tha hình. Vào thời đại chuyên chế ở trong cung vua có dùng kẻ hầu người nam, gọi là thái giám, thì phải chặt bỏ nam căn, mới có thể vào cung phục vụ cho vua, hoàng hậu, cung phi. Hiện tại, việc vô nhân đạo nầy chẳng còn nữa. Bồ Tát nếu thấy được chúng sinh làm việc tổn hại tha hình nầy, thì Ngài phát tâm từ bi, đi cứu kẻ bị hại đó, khiến cho họ thoát khỏi nguy hiểm về mạng sống. Riêng một phương diện khác Ngài còn phải khuyên kẻ làm tổn hại đó, xả bỏ hành vi tạo tội nghiệp đó, cải ác hướng thiện.
Chúng ta nghe được Kinh văn nói Bồ Tát có tâm từ bi bình đẳng khắp như vậy, thì phải học lòng nhân từ của Bồ Tát, tài bồi lòng từ bi của chính mình, xả mình vì người, một lòng tu nghiệp lành, thay đổi tất cả tập khí mao bệnh, tâm cống cao ngã mạn không tốt của mình, như thế mới không cô phụ tâm nghe Phật pháp, học Phật pháp. Bằng không, chỉ nghe mà không y pháp tu hành, thì chỉ no lỗ tai phúc mà thôi.
Nhược kiến Như Lai thành tối chánh giác, xưng dương tán thán, phổ sử văn tri. Hoặc thí ư địa, tạo lập tăng phường, phòng xá, điện đường, dĩ vi trụ xứ. Cập thí đồng bộc, cúng thừa tác dịch. Hoặc dĩ tự thân thí lai khất giả, hoặc thí ư Phật. vi cầu Pháp cố, hoan hỉ dũng dược. vi chúng sanh cố, thừa sự cúng dường.
Nếu thấy Như Lai, thành tối Chánh Giác, thì tán thán khen ngợi, khiến cho khắp tất cả đều nghe biết. Hoặc bố thí đất đai, để tạo lập nhà Tăng, phòng xá, chánh điện, giảng đường, dùng làm chỗ ở. Và bố thí tôi tớ, để giúp việc cho đạo tràng. Hoặc dùng thân mình, bố thí cho người đến xin. Hoặc bố thí cho đức Phật, vì cầu pháp. Hoan hỉ nhảy nhót, vì chúng sinh. Thừa sự cúng dường.
Giảng: Hoặc khi Bồ Tát thấy có đại Bồ Tát công đức viên mãn đầy đủ, thành tựu tối Chánh Đẳng Chánh Giác, thì Ngài trong thâm tâm hoan hỉ khen ngợi, đi khắp nơi tán thán công đức viên mãn của Phật, khiến cho chư Phật Bồ Tát khắp mười phương thế giới, tất cả chúng sinh đều biết. Hoặc Bồ Tát sẽ bố thí một miếng đất, dùng để xây dựng một nhà Tăng thật lớn – một ngôi Chùa, để làm đạo tràng cúng cho Phật tu đạo. Ngoài ra còn kiến lập nhiều phòng xá, cung cấp cho người tu hành ở tu. Và còn kiến lập một giảng đường, để cho các Thầy giảng Kinh thuyết pháp độ sinh. Và còn xây dựng một đại hùng bảo điện, cúng dường tượng Phật, để làm nơi cho chúng sinh chiêm ngưỡng lễ bái. Có lối kiến trúc chu đáo như thế, khiến cho tứ chúng đệ tử Phật đều có chỗ ở an tâm tu học. Còn bố thí nhiều tôi tớ trung thành, để giúp việc phục vụ cho đạo tràng. Thậm chí Bồ Tát cũng chẳng tiếc thân mạng dùng thân của mình bố thí cho người đến xin. Hoặc xả thân ở trước Phật làm đủ thứ sự bố thí. Tóm lại, Bồ Tát vì cầu Phật pháp vô thượng, vì độ tất cả chúng sinh, cho nên Ngài hoan hỉ nhảy nhót, chân tâm làm đủ thứ sự bố thí, thành tâm thừa sự cúng dường chư Phật.
Hoặc xả Vương vị, thành ấp, tụ lạc, cung điện, viên lâm, thê tử, quyến thuộc, tùy sở khất cầu, tất mãn kỳ nguyện. Hoặc xả nhất thiết tư sanh chi vật, phổ thiết vô già Đại thí chi hội.
Hoặc xả bỏ ngôi vua, thành ấp tụ lạc, cung điện vườn rừng, vợ con quyến thuộc. Tuỳ theo chỗ người xin, đều làm cho họ mãn nguyện. Hoặc xả bỏ tất cả đồ vật tư sanh. Thiết lập hội bố thí lớn khắp nơi.
Giảng: Bồ Tát một lòng hành bố thí, chẳng phân biệt, khó xả mà xả được, tức khiến cho có người đến hướng về Ngài xin ngôi vua tôn quý nhất, Ngài cũng chẳng do dự bố thí cho họ. Cho đến thành ấp, thôn xóm tụ lạc, cung điện vườn rừng của mình ở, cùng với vợ đẹp khó xả nhất, con cái và quyến thuộc .v.v…bất cứ họ đến xin thứ gì, Ngài quyết định đều khiến cho họ toại tâm mãn nguyện. Hoặc bố thí các đồ vật tư sinh như tiền bạc và các thứ phẩm vật khác. Ngoài ra còn thiết lập hội bố thí lớn ở khắp nơi, chất đầy đủ thứ phẩm vật cần thiết trong đời sống, khiến cho hết thảy chúng sinh đến lấy những đồ mình cần, không có hạn chế, để cho họ đều được đầy đủ.
Kỳ trung chúng sanh chủng chủng phước điền, hoặc tùng viễn lai, hoặc tùng cận lai, hoặc hiền hoặc ngu, hoặc hảo hoặc xú, nhược nam nhược nữ, nhân dữ phi nhân, tâm hành bất đồng, sở cầu các dị, đẳng giai thí dữ, tất lệnh mãn túc.
Trong đó chúng sinh đủ thứ phước điền. Hoặc từ xa đến, hoặc từ gần lại, hoặc hiền hoặc ngu, hoặc tốt hoặc xấu, hoặc nam hoặc nữ. Người chẳng phải người. Tâm hành khác nhau. Chỗ cầu đều khác nhau. Thảy đều bố thí cho, đều khiến cho họ đầy đủ.
Giảng: Những chúng sinh đó đến cầu xin bố thí, có kẻ đến trồng phước điền, có kẻ đến xin phước điền. Hoặc họ đến từ nơi xa xôi, hoặc đến từ nơi lân cận. Trong đó hoặc có người hiền có trí huệ, hoặc là kẻ ngu si. Có người tướng mạo xinh đẹp, hoặc có kẻ tướng mạo xấu xí. Nam nữ đều có, chẳng những loài người, mà chẳng phải người cũng có – loại chúng sinh khác, như vậy đủ thứ hình sắc chúng sinh, trong tâm họ mong cầu cũng đều khác nhau, căn tánh hành vi cũng khác nhau. Mục đích cầu xin cũng hoàn toàn khác nhau, tuy nhiên như vậy, song, Bồ Tát vẫn dùng tâm bình đẳng, tâm hoan hỉ, chẳng lựa hiền ngu, tốt xấu, khắp bố thí cho chúng sinh cầu xin, khiến cho họ thảy đều đầy đủ mãn nguyện, toại tâm như ý.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát như thị thí thời, phát thiện nhiếp tâm, tất dĩ hồi hướng. Sở vị: thiện nhiếp sắc, tùy thuận kiên cố nhất thiết thiện căn. Thiện nhiếp thọ, tưởng, hành, thức, tùy thuận kiên cố nhất thiết thiện căn. Thiện nhiếp Vương vị, tùy thuận kiên cố nhất thiết thiện căn. Thiện nhiếp quyến thuộc, tùy thuận kiên cố nhất thiết thiện căn. Thiện nhiếp tư cụ, tùy thuận kiên cố nhất thiết thiện căn.
Phật tử ! Khi đại Bồ Tát bố thí như thế, thì phát tâm khéo nhiếp thọ, đều đem hồi hướng. Đó là: Khéo nhiếp sắc, tuỳ thuận kiên cố tất cả căn lành. Khéo nhiếp thọ tưởng hành thức, tuỳ thuận kiến cố tất cả căn lành. Khéo nhiếp ngôi vua, tuỳ thuận kiên cố tất cả căn lành. Khéo nhiếp quyến thuộc, tuỳ thuận kiến cố tất cả căn lành. Khéo nhiếp đồ tư sanh, tuỳ thuận kiến cố tất cả căn lành. Khéo nhiếp huệ thí, tuỳ thuận kiến cố tất cả căn lành.
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Vị đại Bồ Tát nầy tu pháp môn hồi hướng, khi Ngài hành bố thí thì, Ngài phát tâm nhất định phải nhiếp thọ hết thảy tất cả chúng sinh. Khi Ngài hành công đức căn lành bố thí, thì hoàn toàn hồi hướng về bồ đề, hồi hướng về thật tế, hồi hướng cho tất cả chúng sinh. Bồ Tát Ngài khéo biết nhiếp pháp sắc uẩn, một trong năm uẩn như thế nào. Công phu tu hành của Bồ Tát, thâm nhập vào Bát Nhã thù thắng, cho nên Ngài chiếu thấy năm uẩn đều không, nhiếp sắc pháp là tuỳ thuận kiên cố tất cả căn lành. Ngài lại khéo nhiếp chân thật nghĩa lý của thọ, tưởng, hành, thức bốn uẩn đều không, tuỳ thuận kiên cố tất cả căn lành, và kiên cố căn lành của mình.
Khiến cho căn lành của chúng sinh tăng trưởng, đồng thời khiến cho đạo bồ đề của mình tu ngày càng rộng lớn. Lại khéo nhiếp ngôi vua, Bồ Tát biết sự trọng yếu của ngôi vua, nhưng Ngài chẳng xem trọng ngôi vua ở trên cao mà không xả bỏ, mà Ngài hiểu rõ ngôi vua quan hệ đến lợi ích của toàn dân, Ngài tuỳ thời có thể nhường cho người hiền năng, Ngài tuyệt đối chẳng chấp trước. Lại khéo nhiếp thọ quyến thuộc của Ngài, tuỳ thuận chân lý, tuỳ thuận tâm từ bình đẳng giáo hoá, tuỳ thuận công đức, kiên cố tự lợi lợi tha tất cả căn lành. Lại khéo nhiếp tất cả đồ vật tư sanh, tuỳ thuận bố thí, kiên cố tất cả căn lành đã tu được. Lại khéo nhiếp thọ huệ thí, bố thí khắp cho tất cả chúng sinh, tuỳ thuận kiên cố tất cả căn lành đã tu được.
Thiện nhiếp huệ thí, tùy thuận kiên cố nhất thiết thiện căn. Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát tùy sở thí vật vô lượng vô biên, dĩ bỉ thiện căn như thị hồi hướng, sở vị: dĩ thượng diệu thực thí chúng sanh thời, kỳ tâm thanh tịnh, ư sở thí vật vô tham, vô trước, vô sở cố lận, cụ túc hạnh thí.
Phật tử ! Đại Bồ Tát tuỳ thời đồ vật bố thí, đều vô lượng vô biên. Ðem căn lành đó hồi hướng như vậy. Đó là: Khi đem thức ăn thượng hạng bố thí cho chúng sinh, thì tâm của Ngài thanh tịnh. Về vật bố thí, Ngài chẳng tham, chẳng chấp trước, không có tâm xẻn tiếc. Đầy đủ hạnh bố thí.
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Vị đại Bồ Tát nầy tu pháp môn hồi hướng, Ngài tuỳ thời tuỳ lúc bố thí đồ vật, đều nhiều vô lượng vô biên. Ðem căn lành bố thí tích tụ, giống như phương pháp ở trên vừa nói, thảy đều hồi hướng cho chúng sinh, hồi hướng về bồ đề, về thật tế. Bồ Tát bố thí thứ nhất là thức ăn, vì thức ăn nuôi dưỡng mạng sống. Cho nên Bồ Tát đem thức ăn thượng hạng bố thí khắp cho chúng sinh. Khi Ngài bố thí thức ăn, thì tâm của Ngài rất hoan hỉ và thanh tịnh, một chút cũng chẳng nghĩ đến bố thí như thế, sẽ đắc được công đức gì, cũng chẳng so sánh phẩm vật bố thí nhiều ít, hoặc là sang hèn, cũng chẳng màng đến bố thí để tham đồ háo danh, cũng chẳng bố thí rồi lại sinh tâm hối tiếc, cảm thấy rằng bố thí cho người khác, thì mình chẳng còn nữa. “Xẻn tiếc”: Tức là càng nghĩ càng xả bỏ chẳng được, có tâm tham xẻn. Bồ Tát chẳng như thế, vì Ngài hoàn toàn thấu đạt nghĩa lý chân thật của sự bố thí.
Chân chánh bố thí, thì chẳng thấy có người bố thí, cũng chẳng thấy vật thí, càng chẳng thấy có người nhận, đó gọi là ba thứ đều không (tam luân thể không).
Ăn có chín thứ, trong đó có bốn thứ là ăn theo lối thế gian.
- Ðoạn thực: Tức là ăn từng phần từng đoạn, ai nấy đều có một phần, đây là sự ăn của nhân gian.
- Xúc thực: Là quỷ thần ăn, chỉ cần tiếp xúc vào là đủ.
- Tư thực: Là người trời ăn, trong tâm nghĩ gì, thì có cái đó hiện tiền, vừa đủ.
- Thức thực: Dùng thức để phân biệt mùi vị thì no, chúng sinh cõi trời Vô Sắc dùng lối ăn nầy.
Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc trí tuệ thực, tâm vô chướng ngại, liễu tri thực tánh, vô sở tham trước, đãn lạc pháp hỉ xuất ly chi thực. Trí tuệ sung mãn, dĩ pháp kiên trụ, nhiếp thủ thiện căn, Pháp thân, trí thân thanh tịnh du hành. ai mẩn chúng sanh, vi tác phước điền, hiện thọ đoàn thực. thị vi Bồ-Tát Ma-ha-tát bố thí thực thời thiện căn hồi hướng.
Nguyện tất cả chúng sinh được thức ăn trí huệ, tâm chẳng chướng ngại. Biết rõ tánh ăn, chẳng có tham trước. Chỉ ưa thức ăn pháp hỉ thoát khỏi ba cõi. Trí huệ sung mãn. Dùng pháp trụ vững chắc, nhiếp lấy căn lành. Pháp thân trí thân, thanh tịnh du hành. Thương xót chúng sinh, mà làm ruộng phước, thị hiện thọ đoạn thực. Đó là khi đại Bồ Tát bố thí thức ăn đem căn lành hồi hướng.
Giảng: Khi Bồ Tát bố thí thức ăn thì hồi hướng, Ngài nói: Tôi nguyện cho tất cả chúng sinh, đều đắc được thức ăn tăng trưởng trí huệ, từ đó tâm chẳng có chướng ngại, vĩnh viễn chẳng ngu si. Bồ Tát thấu đạt tánh ăn là không, bất luận ăn gì, mục đích là vì nuôi lớn pháp thân khiến cho thành tựu đạo nghiệp, hơn nữa cũng là vì trị tất cả bệnh tật, Ngài tuyệt đối chẳng tham ăn ngon. Bồ Tát hoan hỉ nhất là “Thiền duyệt vi thực, pháp hỉ sung mãn”, dùng pháp làm thức ăn. Vì thức ăn pháp vị thì thoát khỏi ba cõi, chấm dứt sinh tử, tăng trưởng trí huệ.
Thiền duyệt vi thực, tức thành tựu định lực chẳng động, chẳng tán loạn, dùng pháp vị trụ vững chắc nơi pháp, sinh ra công đức, diệt trừ phiền não, nhiếp lấy căn lành xuất thế. Pháp thân của Phật khắp tất cả mọi nơi, trí huệ thân cũng khắp tất cả mọi nơi, Bồ Tát cũng đắc được pháp thân, trí thân như Phật, thanh tịnh không nhiễm du hành khắp mười phương cõi nước. Thương xót tất cả chúng sinh trôi nổi trong biển khổ, phát tâm cứu họ, giáo hoá họ, làm ruộng phước tốt của tất cả chúng sinh, đến nhân gian thị hiện làm ông vua, thọ đoạn thực của nhân gian. Ðó tức là đại Bồ Tát khi bố thí thức ăn đem căn lành hồi hướng.
Ðoạn Kinh văn ở trước đã nói về Bồ Tát bố thí bốn thứ ăn của thế gian. Ðoạn Kinh văn nầy nói về Bồ Tát bố thí năm thứ ăn xuất thế gian, hy vọng chúng sinh thọ được thức ăn pháp vị (pháp thực) xuất thế:
- Thiền duyệt thực: Người tu hành đắc được vui thiền định hay nuôi dưỡng các căn.
- Pháp hỉ thực: Người tu pháp nghe pháp sinh hoan hỉ, nuôi dưỡng thân tâm huệ mạng.
- Nguyện thực: Người tu hành phát thệ nguyện mà trì thân, tu vạn hạnh.
- Niệm thực: Người tu hành thường nhớ niệm căn lành xuất thế, mà chẳng quên nuôi dưỡng lợi ích huệ mạng.
- Giải thoát thực: Người tu hành cuối cùng chứng được vui Niết Bàn, mà nuôi lớn thân tâm.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát nhược thí ẩm thời, dĩ thử thiện căn như thị hồi hướng, sở vị: nguyện nhất thiết chúng sanh ẩm pháp vị thủy, tinh cần tu tập, cụ Bồ Tát đạo. đoạn thế khát ái, thường cầu Phật trí. ly dục cảnh giới, đắc pháp thiện lạc. Tùng thanh tịnh Pháp nhi sanh kỳ thân, thường dĩ tam muội điều nhiếp kỳ tâm. Nhập trí tuệ hải, hưng Đại pháp vân, xối đại pháp vũ. thị vi Bồ-Tát Ma-ha-tát bố thí ẩm thời thiện căn hồi hướng.
Phật tử ! Khi đại Bồ Tát bố thí thức uống, thì đem căn lành nầy hồi hướng như vầy: Nguyện tất cả chúng sinh uống nước pháp vị. Tinh tấn chuyên cần tu tập. Đủ đạo Bồ Tát. Dứt trừ khát ái thế gian, thường cầu trí huệ của Phật. Lìa cảnh giới dục. Được pháp hỉ lạc. Từ pháp thanh tịnh mà sinh ra thân thanh tịnh. Thường dùng tam muội, mà điều nhiếp tâm. Vào biển trí huệ, nổi mây pháp lớn, xối mưa pháp lớn. Đó là khi đại Bồ Tát bố thí thức uống, đem căn lành hồi hướng.
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Vị đại Bồ Tát nầy tu pháp môn hồi hướng, ở trước Ngài bố thí thức ăn rồi, hiện tại lại tiếp tục bố thí thức uống cho chúng sinh. Con người có thể nhịn ăn năm ba ngày, nhưng không thể nhịn uống nước được, uống nước rất là quan trọng hơn là thức ăn. Bồ Tát bố thí thức uống, chẳng phải như thức uống bình thường, mà là thức uống pháp vị. Khi Ngài bố thí thức uống, thì Ngài đem công đức căn lành bố thí thành tựu, hồi hướng cho tất cả chúng sinh như sau, Ngài nói:
“Nguyện cho tất cả chúng sinh, đều uống được nước pháp vị sung mãn, sau đó dũng mãnh tinh tấn tu tập tất cả Phật pháp, đầy đủ Phật đạo của Bồ Tát tu, dứt trừ tất cả dục vọng của thế gian – tình dục, ái dục, tài sắc dục, mà luôn luôn tồn tại tâm nguyện trên cầu Phật đạo, dưới độ chúng sinh. Lìa khỏi cảnh giới năm dục, đắc được vui pháp hỉ chân thật. Ðắc được niềm vui của pháp rồi, thì sẽ từ trong niềm vui thanh tịnh của pháp sinh ra thân tâm thanh tịnh, điều gọi là thoát thai đổi cốt, biến hoá khí chất, tức là nhờ sự công hiệu ăn thức ăn của pháp, uống nước pháp vị. Và còn phải tuỳ thời dùng định lực để điều nhiếp tâm, khiến cho thường trụ chánh niệm, chẳng khởi chút vọng tưởng nào. Như vậy vào trong biển đại trí huệ, nổi lên mây pháp rộng lớn, khắp mưa xuống mưa pháp lớn, khiến cho chúng sinh cùng thấm nhuần. Ðó tức là khi đại Bồ Tát bố thí thức ăn đem căn lành hồi hướng.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát bố thí chủng chủng thanh tịnh thượng vị. Sở vị: tân, toan, hàm, đạm, cập dĩ cam, khổ. Chủng chủng chư vị nhuận trạch cụ túc, năng lệnh tứ đại an ổn điều hoà, cơ thể doanh mãn, khí lực cường tráng, kỳ tâm thanh tịnh thường đắc hoan hỉ. yết trớ chi thời, bất khái bất nghịch. Chư căn minh lợi, nội tạng sung thật. độc bất năng xâm, bệnh bất năng thương. Thủy chung vô hoạn, vĩnh đắc an lạc.
Phật tử ! Đại Bồ Tát bố thí đủ thứ thượng vị thanh tịnh. Đó là: Cay chua mặn lạc, cùng với ngọt đắng, đủ thứ các vị. Đượm nhuần đầy đủ, hay khiến cho tứ đại an ổn điều hoà. Cơ thể đầy đủ, khí lực cường tráng, thân tâm thanh tịnh, thường được hoan hỉ. Các căn sáng suốt lanh lợi. Nội tạng khoẻ tốt, chất độc không xâm nhập được. Bệnh không thương hại. Không có hoạn nạn, vĩnh viễn được an lạc.
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Vị đại Bồ Tát nầy tu pháp môn hồi hướng, hiện tại Ngài lại bố thí cho chúng sinh đủ thứ pháp vị thượng diệu thanh tịnh, như vị cay, vị chua, vị mặn, năm vị đều là những vị lạc, và vị ngọt, vị đắng. Những mùi vị như thế đều giúp cho thực vật đượm nhuần thân thể, có công năng nuôi lớn da thịt. Cũng khiến cho tứ đại con người – đất, nước, gió, lửa, được an ổn và điều hoà, chẳng phát sinh cảm giác khó chịu. Cơ thể nhờ đó mà được đầy đủ, khí lực được cường tráng, tâm thần phóng khoáng, thanh tịnh quang minh, chưa từng sinh vọng tưởng, cho nên trong tâm thường thường hoan hỉ, chẳng có chút buồn rầu phiền não nào.
Các căn: Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, tứ chi, đều rất sáng suốt lanh lợi. Nội tạng: Tim, gan, tì, phổi, thận, dạ dày, mật, tam tiêu, ruột già, ruột non, bàng quang, những ngũ tạng lục phủ đó, đều rất tráng kiện. Nhờ ăn đủ thứ diệu vị, mà tất cả vật độc không thể xâm nhập vào trong cơ thể, dù không cẩn thận mà trúng độc, nó cũng tự nhiên hoá giải. Bệnh tật gì cũng không sinh ra, chẳng có hoạn nạn gì, thời khắc đều hiển hiện ra sự bình an tự tại.
Dĩ thử thiện căn như thị hồi hướng, sở vị: nguyện nhất thiết chúng sanh đắc tối thượng vị, cam lồ sung mãn. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc Pháp trí vị, liễu tri nhất thiết chư vị nghiệp dụng. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc vô lượng pháp vị, liễu đạt Pháp giới, an trụ thật tế Đại pháp thành trung. Nguyện nhất thiết chúng sanh tác Đại pháp vân, chu biến pháp giới phổ vũ Pháp vũ, giáo hóa điều phục nhất thiết chúng sanh. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc thắng trí vị, vô thượng pháp hỉ sung mãn thân tâm. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc vô tham trước nhất thiết thượng vị, bất nhiễm thế gian nhất thiết chư vị, thường cần tu tập nhất thiết Phật Pháp.
Bồ Tát đem căn lành đó hồi hướng như vầy: Nguyện cho tất cả chúng sinh được vị tối thượng, cam lồ sung mãn. Nguyện cho tất cả chúng sinh được vị pháp trí, biết rõ tất cả các nghiệp dụng. Nguyện cho tất cả chúng sinh được vô lượng pháp vị, thấu đạt pháp giới, an trụ ở trong thành pháp lớn thật tế. Nguyện cho tất cả chúng sinh làm mây pháp lớn, khắp cùng pháp giới, khắp mưa pháp vũ, giáo hoá điều phục tất cả chúng sinh. Nguyện cho tất cả chúng sinh được vị thắng trí, thân tâm sung mãn pháp hỉ vô thượng. Nguyện cho tất cả chúng sinh được tất cả thượng vị không tham trước, chẳng nhiễm tất cả các vị thế gian, thường siêng tu tập tất cả Phật pháp.
Giảng: Bồ Tát bố thí thượng vị, thì đem căn lành công đức hồi hướng như vầy: Ngài khắp nguyện cho mỗi chúng sinh đều đắc được pháp vị tối thượng vi diệu, trong đó có cam lồ sung mãn. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh đắc được vị chánh pháp trí huệ, nhờ đó mà biết được công dụng của mỗi thứ vị, ăn vào thì đắc được lợi ích gì. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh đắc được pháp vị vô lượng vô biên, có thể biết rõ ràng thật tướng của mười pháp giới, khiến cho chúng sinh đều trụ ở trong pháp thành lớn an ổn, tức cũng là an trụ nơi lý thể thật tướng. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh có thể làm mây pháp lớn, che khắp bốn phương, khắp cùng pháp giới.
Ðồng thời khắp mưa xuống mưa pháp, đượm nhuần khắp tất cả, giáo hoá điều phục chúng sinh chín pháp giới. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh đắc được vị trí huệ thù thắng, khiến cho họ đều pháp hỉ sung mãn, vừa tự tại vừa hoan hỉ, thân tâm thư thái. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh đắc được vị chẳng sinh tâm tham, lại chẳng chấp trước vào thượng vị của pháp, mỗi thứ thượng vị đều chẳng nhiễm tục vị, trược vị, của thế gian, đều là pháp vị thanh tịnh, khiến cho mỗi người sau khi nếm pháp vị rồi, đều sinh tâm dũng mãnh tinh tấn, siêng tu Phật pháp, chẳng giải đãi chẳng thối chuyển. Tất cả Phật pháp, bao quát pháp ba đời của chư Phật nói, mỗi người đều siêng năng tu tập, cầu được viên mãn thông đạt.
Cam lồ còn gọi là rượu trời, vị ngọt như mật. Là thuốc bất tử của người trời. Uống vào thì sống lâu thân an, sức lực khoẻ mạnh. Răng cùng của Phật có suối cam lồ, thức ăn vào miệng đều biến thành cam lồ. Và còn dùng ví dụ Phật pháp vô biên, phổ độ khắp chúng sinh, khiến cho họ được an ổn. Và còn dùng Niết Bàn làm cam lồ, vĩnh viễn dứt sinh tử, thuốc chân thật bất tử.
Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc nhất pháp vị, liễu chư Phật Pháp tất vô sái biệt. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc tối thắng vị, thừa nhất thiết trí chung vô thoái chuyển. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc nhập chư Phật vô dị pháp vị, tất năng phân biệt nhất thiết chư căn. Nguyện nhất thiết chúng sanh pháp vị tăng ích, thường đắc mãn túc vô ngại Phật Pháp. Thị vi Bồ-Tát Ma-ha-tát bố thí vị thời thiện căn hồi hướng. vi lệnh nhất thiết chúng sanh cần tu phước đức, giai tất cụ túc vô ngại trí thân cố.
Nguyện cho tất cả chúng sinh đắc được một pháp vị, thấu rõ các Phật pháp, đều chẳng có khác biệt. Nguyện cho tất cả chúng sinh đắc được vị tối thắng, nơi nhất thiết trí, trọn chẳng thối chuyển. Nguyện cho tất cả chúng sinh được vào pháp vị không khác với chư Phật, đều phân biệt được tất cả các căn. Nguyện cho tất cả chúng sinh pháp vị tăng trưởng lợi ích, thường được Phật pháp đầy đủ vô ngại. Đó là hồi hướng của đại Bồ Tát khi bố thí vị. Đem căn lành hồi hướng, vì khiến cho tất cả chúng sinh, siêng tu phước đức, thảy đều đầy đủ vô ngại trí thân.
Giảng: Lại nguyện cho tất cả chúng sinh nếu đắc được một thứ pháp vị, thì đồng thời minh bạch vô lượng diệu pháp của chư Phật nói, chẳng có gì khác biệt. Biết một tức tất cả, tất cả tức một. Diệu lý một nhiều vô ngại, một nhiều dung với nhau. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh đắc được pháp vị tối thù thắng, nơi nhất thiết trí, tức là vì đắc được đủ thứ trí huệ, cho nên vĩnh viễn chẳng thối chuyển tín tâm. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh vào sâu được pháp của chư Phật nói, thông đạt Phật Phật đạo đồng, pháp của mỗi vị Phật nói, đều cùng một tông chỉ.
Tại sao chư Phật phải nói tám vạn bốn ngàn pháp, là vì chúng sinh có tám vạn bốn ngàn tâm. Bồ Tát đối với căn tánh của tất cả chúng sinh, Ngài đều biết rất rõ ràng, cho nên Ngài vì người mà nói pháp. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh pháp vị ngày càng tăng trưởng, luôn luôn đắc được lợi ích của pháp, đắc được Phật pháp viên mãn đầy đủ chẳng có chướng ngại, đầy đủ tín tâm cầu pháp của họ. Ðó là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát khi Ngài bố thí thượng vị thanh tịnh. Mục đích Bồ Tát hồi hướng như vậy, là vì hy vọng tất cả chúng sinh, đều siêng tu phước đức, tích tụ căn lành, phước huệ đầy đủ, thành tựu viên mãn thân trí huệ, thanh tịnh không nhiễm, chẳng có gì chướng ngại được.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát thí xa thừa thời, dĩ chư thiện căn như thị hồi hướng, sở vị: nguyện nhất thiết chúng sanh giai đắc cụ túc nhất thiết trí thừa, thừa ư Đại-Thừa, bất khả hoại thừa, tối thắng thừa, tối thượng thừa, tốc tật thừa, Đại lực thừa, phước đức cụ túc thừa, xuất thế gian thừa, xuất sanh vô lượng chư bồ tát thừa. Thị vi Bồ-Tát Ma-ha-tát thí xa thừa thời thiện căn hồi hướng.
Phật tử ! Khi đại Bồ Tát bố thí xe cộ, thì đem các căn lành hồi hướng như vầy: Nguyện cho tất cả chúng sinh đều được đầy đủ xe nhất thiết trí. Ngồi xe đại thừa. Xe bất hoại. Xe tối thắng. Xe tối thượng. Xe mau chóng. Xe đại lực. Xe phước đức đầy đủ. Xe xuất thế gian. Xe sinh ra vô lượng các Bồ Tát. Đó là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát khi bố thí xe cộ.
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát tu pháp môn hồi hướng, khi Ngài bố thí các thứ xe ngựa và các thứ xe khác, thì Ngài đem căn lành bố thí thành tựu, hồi hướng cho tất cả chúng sinh, Ngài nói: Tôi nguyện cho hết thảy chúng sinh, đều đắc được xe nhất thiết trí. Nhất thiết trí nầy giống như chiếc xe nhất thiết trí, có thể chuyên chở chúng sinh hành vô lượng nghiệp lành, cho nên nói là xe đầy đủ nhất thiết trí. Phải có trí huệ lớn, mới có thể chấm dứt sinh tử, thoát khỏi luân hồi. Xe nầy là xe trí huệ lớn, từ bờ sinh tử bên nầy, qua dòng sông phiền não, đạt đến bờ Niết Bàn bên kia.
Xe cộ: Tức là công cụ giao thông. Phân ra nói: Tức là các thứ xe ngựa, xe bò, xe voi, xe lôi, xe kéo bằng sức người, hiện tại có xe dùng bằng điện, bằng xăng dầu, xe hơi, xe bus, xe hàng .v.v… Tóm lại, Phàm là dùng công cụ để chuyên chở, đều gọi là xe cộ. Bồ Tát bố thí ngồi xe đại thừa: Tức là một cỗ xe lớn, chuyên chở tất cả chúng sinh đến đất Phật. Xe không thể hoại: Chiếc xe nầy giống như kim cang, rất là kiên cố, thiên ma ngoại đạo đều không thể phá hoại được nó. Xe tối thắng: Là một chiếc xe đặc biệt, tốt nhất, vượt hơn các xe khác. Xe tối thượng: Là chiếc xe đầy đủ viên mãn vô thượng nhất. Xe mau chóng: Chiếc xe mau chóng nầy chạy rất nhanh, chạy như bay. Xe đại lực: Xe có pháp lực lớn. Xe phước đức đầy đủ: Xe phước đức trí huệ đều đầy đủ. Xe xuất thế gian:
Chiếc xe nầy có thể thoát khỏi ba cõi, sớm thành đạo nghiệp. Xe sinh ra vô lượng các Bồ Tát: Chiếc xe nầy giống như Phật pháp đại thừa, phàm là ai ngồi xe nầy, thì tương lai nhất định sẽ thành tựu Bồ Tát đại thừa, phổ độ chúng sinh. Ðó là mười thứ xe cộ, tuy nói sơ lược như thế, nhưng đều bao hàm nhân quả, thể tánh, lý trí trong Phật pháp. Bồ Tát đối với chúng sinh, tất cả đều dẫn dụ chúng sinh vào sâu trong trí huệ của Phật, thấu đạt chân lý và sự tướng thật tế của các pháp. Ở trên là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát khi bố thí xe cộ.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát bố thí y thời, dĩ chư thiện căn như thị hồi hướng, sở vị: nguyện nhất thiết chúng sanh đắc tàm quý y dĩ phước kỳ thân, xả ly tà đạo lộ hình ác pháp, nhan sắc nhuận trạch, bì phu tế nhuyễn, thành tựu chư Phật đệ nhất chi lạc, đắc tối thanh tịnh nhất thiết chủng trí. Thị vi Bồ-Tát Ma-ha-tát bố thí y thời thiện căn hồi hướng.
Phật tử ! Khi đại Bồ Tát bố thí y phục, thì đem các căn lành hồi hướng như vầy: Nguyện cho tất cả chúng sinh được y phục hổ thẹn, dùng để che thân. Xả bỏ tà đạo lộ hình pháp ác. Nhan sắc đượm nhuần. Làn da mịn màng nhu nhuyến. Thành tựu an vui bậc nhất của chư Phật. Đắc được nhất thiết chủng trí thanh tịnh. Đó là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát khi bố thí y phục.
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát tu pháp hồi hướng, hiện tại Ngài lại bố thí y phục cho chúng sinh. Thức ăn, y phục, chỗ ở, bất cứ người nào cũng không thể thiếu được. Khi Ngài bố thí y phục, thì Ngài đem đủ thứ căn lành bố thí đắc được, hồi hướng cho tất cả chúng sinh. Ngài phát nguyện hy vọng tất cả chúng sinh, ai ai cũng đều đắc được y phục sinh tâm hổ thẹn. Biết hổ thẹn là tâm thiện. Nếu có lỗi lầm mà che giấu, tức là không biết hổ thẹn, tương lại sẽ được quả ác. Nhất là người tu hành, không thể không có tâm hổ thẹn, sự việc làm sai, thì nhất định phải sinh tâm hổ thẹn, phát tâm sám hối. Cổ nhân có nói:
“Con người chẳng phải Thánh hiền
Ai mà chẳng có lỗi.
Biết lỗi mà sửa đổi
Chẳng điều thiện nào lớn bằng”.
Ngàn vạn đừng che đậy lỗi lầm.
“Việc thiện mà muốn người biết,
Chẳng phải là chân thiện.
Việc ác mà sợ người biết,
Đó là đại ác”.
Đây tức là không biết hổ thẹn. Cho nên phải dùng hổ thẹn là y phục, che lên thân, để cảnh tỉnh không đạp lên dấu vết cũ nữa. Xả bỏ tà đạo lộ hình pháp ác: Có một thứ ngoại đạo loã thể, không mặc y phục, ngủ trên giường đinh, hoặc ngủ trên tro, thứ người đó gọi là lộ hình ngoại đạo. Tà đạo tu chẳng hợp lý, tức là pháp ác. Bồ Tát bố thí y phục cho chúng sinh, hy vọng họ đừng có tin thứ ngoại đạo đó, phải xả lìa thứ ngoại đạo đó mà tu chánh pháp. Tu tập chánh pháp thì có thể có dung nhan sáng suốt đượm nhuần, làn da cũng tự nhiên mịn màng nhu nhuyến, thành tựu tự tại an tường, chân chánh an vui vô thượng bậc nhất giống như chư Phật. Ðắc được nhất thiết chủng trí thanh tịnh nhất, thù thắng nhất. Ðó tức là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát khi Ngài bố thí y phục cho chúng sinh.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát thường dĩ chủng chủng danh hoa bố thí, sở vị: vi diệu hương hoa, chủng chủng sắc hoa, vô lượng kì diệu hoa, thiện kiến hoa, khả thiện lạc hoa, nhất thiết thời hoa, thiên hoa, nhân hoa, thế sở trân ái hoa, thậm phân phức duyệt ý hoa. dĩ như thị đẳng vô lượng hương khí, cúng dường nhất thiết hiện tại chư Phật, cập Phật diệt hậu sở hữu tháp miếu, hoặc dĩ cúng dường thuyết Pháp chi nhân, hoặc dĩ cúng dường Tỳ-kheo tăng bảo, nhất thiết Bồ Tát, chư thiện tri thức, Thanh văn, độc giác, phụ mẫu, tông thân, hạ chí tự thân cập dư nhất thiết bần cùng, cô lộ.
Phật tử ! Đại Bồ Tát thường đem đủ thứ hoa quý bố thí. Đó là: Hoa thơm vi diệu. Hoa đủ màu sắc. Vô lượng hoa kỳ diệu. Hoa thấy lành. Hoa đáng vui thích. Hoa tất cả thời. Hoa trời. Hoa nhân gian. Hoa trên đời trân quý ưa thích. Hoa rất thơm tho vừa ý. Dùng vô lượng hoa đẹp như vậy, cúng dường tất cả chư Phật hiện tại, và hết thảy tháp miếu sau khi chư Phật diệt độ. Hoặc đem cúng dường người thuyết pháp. Hoặc đem cúng dường Tỳ Kheo Tăng Bảo. Tất cả Bồ Tát. Các thiện tri thức. Thanh Văn, Duyên Giác. Cha mẹ tôn thân. Dưới đến thân mình. Cùng với tất cả kẻ bần cùng côi cút.
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát tu pháp hồi hướng, Ngài lại thường thường đem đủ thứ hoa thơm quý giá bố thí, như những hoa dưới đây: Hoa thơm vi diệu không thể nghĩ bàn. Hoa đủ thứ màu sắc tươi tốt. Vô lượng hoa thơm kỳ diệu không tính đếm được. Hoa ai ai thấy rồi thì sinh thấy lành niệm lành. Phàm là người thấy được thứ hoa đáng vui thích nầy, đều sinh tâm hoan hỉ khoái lạc. Hoa đúng hợp với tất cả mọi thời đều nở rộ. Hoa Mạn Ðà La trên trời. Đủ thứ hoa quý đẹp nhất ở nhân gian.
Hoa làm cho người thế gian trân quý và ưa thích, hương thơm rất thơm tho, màu sắc cũng tươi thắm chói mắt, khiến cho ai thấy được tâm ý đều vừa ý. Bồ Tát đem vô lượng những thứ hoa quý đẹp đó, cúng dường mười phương chư Phật hiện tại, cũng cúng dường tháp miếu thờ xá lợi Phật sau khi Phật nhập diệt, hoặc cúng dường các pháp sư giảng Kinh thuyết pháp, hoặc cúng dường các Tỳ Kheo Tăng Bảo xuất gia. Mục đích cúng dường Tam Bảo, là vì gieo trồng ruộng phước trước Tam Bảo, cầu tăng trưởng trí huệ, hoặc cúng dường các Bồ Tát và thiện tri thức trong mười phương, hoặc cúng dường các bậc Thánh hàng nhị thừa Thanh Văn, Duyên Giác, hoặc cúng dường cha mẹ và tôn thân quyến thuộc, hoặc cúng dường tất cả kẻ bần cùng cô nhi côi cút, cuối cùng cũng cúng dường đến thân mình.
Bố thí chi thời, dĩ chư thiện căn như thị hồi hướng, sở vị: nguyện nhất thiết chúng sanh giai đắc chư Phật tam muội chi hoa, tất năng khai phu nhất thiết chư pháp. Nguyện nhất thiết chúng sanh giai đắc như Phật, kiến giả hoan hỉ, tâm Vô yếm túc. Nguyện nhất thiết chúng sanh sở kiến thuận khiếp, tâm vô động loạn. Nguyện nhất thiết chúng sanh cụ hạnh quảng đại thanh tịnh chi nghiệp. Nguyện nhất thiết chúng sanh thường niệm thiện hữu, tâm vô biến dị.
Khi bố thí, Bồ Tát đem các căn lành hồi hướng như vầy: Nguyện cho tất cả chúng sinh đều được hoa tam muội của chư Phật, thảy đều nở rộ tất cả các pháp. Nguyện cho tất cả chúng sinh đều được như Phật, người thấy được đều hoan hỉ, tâm chẳng nhàm đủ. Nguyện cho tất cả chúng sinh chỗ thấy đều thuận hợp, tâm không động loạn. Nguyện cho tất cả chúng sinh đủ hạnh nghiệp thanh tịnh rộng lớn. Nguyện cho tất cả chúng sinh thường nghĩ nhớ bạn lành, tâm không biến đổi.
Giảng: Khi Bồ Tát bố thí đủ thứ hoa quý, thì Ngài đem các căn lành tích tụ được, vì tất cả chúng sinh mà hồi hướng như vầy: Tôi nguyện cho tất cả chúng sinh đều đắc được hoa thiền định như chư Phật tu, do trong thiền định đó mà nở ra hoa trí huệ, vì chúng sinh diễn nói thật tướng của các pháp. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh đều được như chư Phật, sớm thành Phật đạo, khiến cho chúng sinh thấy được đều sinh tâm hoan hỉ, vĩnh viễn chẳng có lúc nào nhàm đủ. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, phàm là thấy được sự vật, thảy đều thuận tâm vừa ý, chẳng bị mê hoặc, mà sinh tâm giao động khởi phiền não. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh tu hành Phật pháp rộng lớn đầy đủ, đắc được nghiệp quả thanh tịnh. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, thường thường nghĩ nhớ đến bạn lành đã từng làm ảnh hưởng đến họ sinh khởi căn lành, do đó mà chẳng bị hoàn cảnh làm biến đổi, sinh tâm thay đổi.
Nguyện nhất thiết chúng sanh như A-già-đà dược, năng trừ nhất thiết phiền não chúng độc. Nguyện nhất thiết chúng sanh thành mãn đại nguyện, giai tất đắc vi vô thượng trí Vương. Nguyện nhất thiết chúng sanh trí tuệ nhật quang phá ngu si ám. Nguyện nhất thiết chúng sanh Bồ-đề tịnh nguyệt tăng trưởng mãn túc. Nguyện nhất thiết chúng sanh nhập đại bảo châu kiến thiện tri thức, cụ túc thành tựu nhất thiết thiện căn. Thị vi Bồ-Tát Ma-ha-tát bố thí hoa thời thiện căn hồi hướng, vi lệnh chúng sanh giai đắc thanh tịnh vô ngại trí cố.
Nguyện cho tất cả chúng sinh như thuốc A Già Đà, trừ được tất cả phiền não các độc. Nguyện cho tất cả chúng sinh thành tựu viên mãn nguyện lớn, thảy đều đắc được trí vương vô thượng. Nguyện cho tất cả chúng sinh trí huệ như ánh sáng mặt trời, phá trừ được tối ngu si. Nguyện cho tất cả chúng sinh bồ đề tịnh nguyệt, tăng trưởng đầy đủ. Nguyện cho tất cả chúng sinh vào đại bảo châu, thấy thiện tri thức, thành tựu đầy đủ tất cả căn lành. Đó là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát, khi bố thí hoa. Vì khiến cho chúng sinh đều được trí thanh tịnh vô ngại.
Giảng: Bồ Tát lại nguyện cho tất cả chúng sinh, giống như thuốc A Già Ðà trường sinh bất lão, giải trừ được đủ thứ phiền não và các chất độc khác – tham, sân, si v.v… Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, thảy đều thành tựu viên mãn các nguyện lớn đã phát ra, đồng thời đều đắc được trí huệ vô thượng, trở thành vua của trí huệ. Lại nguyện cho trí huệ của tất cả chúng sinh, giống như ánh sáng mặt trời, hay phá trừ tất cả ngu si và đen tối.
Lại nguyện cho tất cả chúng sinh đạo bồ đề tu được, giống như ánh sáng mặt trăng thanh tịnh, ngày càng tăng trưởng, viên mãn đầy đủ. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh đến được châu báu lớn, thấy được các thiện tri thức, học tập tất cả Phật pháp, thành tựu đầy đủ tất cả căn lành. Ở trên là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát khi Ngài bố thí hoa quý thượng diệu. Mục đích Bồ Tát hồi hướng như vậy, là vì muốn cho mỗi chúng sinh đều đắc được trí huệ thanh tịnh, viên dung vô ngại.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát bố thí man thời, dĩ chư thiện căn như thị hồi hướng, sở vị: nguyện nhất thiết chúng sanh nhân sở lạc kiến, kiến giả khâm thán, kiến giả thân thiện, kiến giả ái lạc, kiến giả khát ngưỡng, kiến giả Trừ ưu, kiến giả sanh hỉ, kiến giả ly ác, kiến giả thường đắc thân cận ư Phật, kiến giả thanh tịnh hoạch nhất thiết trí. thị vi Bồ-Tát Ma-ha-tát bố thí man thời thiện căn hồi hướng.
Phật tử ! Khi đại Bồ Tát bố thí tràng hoa, thì Ngài đem các căn lành hồi hướng như vầy: Nguyện cho tất cả chúng sinh được người thích thấy. Người thấy được đều khâm kính khen ngợi. Người thấy được đều thân thiện. Người thấy được đều ưa thích. Người thấy được đều khát ngưỡng. Người thấy được đều hết sầu lo. Người thấy được đều sinh tâm hoan hỉ. Người thấy được đều lìa các điều ác. Người thấy được thường được gần gũi Phật. Người thấy được đều được thanh tịnh, đắc được nhất thiết trí. Đó là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát khi Ngài bố thí tràng hoa.
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát tu pháp môn hồi hướng, Ngài lại vì chúng sinh bố thí tràng hoa. Khi Ngài bố thí tràng hoa, thì Ngài đem căn lành thành tựu được, hồi hướng như vầy: Ngài nguyện cho tất cả chúng sinh, đều được mọi người hoan hỉ thấy họ. Lại nguyện cho bất cứ người nào thấy được họ, đều sinh tâm khâm kính khen ngợi. Lại nguyện cho phàm là người thấy được họ, đều phát sinh tình cảm thân thiết. Lại nguyện cho người thấy được họ, thì trong tâm có cảm giác ưa thích vui vẻ.
Lại nguyện cho người thấy được họ, thì lập tức sinh tâm ngưỡng mộ. Lại nguyện cho người thấy được họ, lập tức tiêu trừ ưu sầu phiền não. Lại nguyện cho người thấy được họ, đều sinh tâm hoan hỉ. Lại nguyện cho người thấy được họ, dù họ có tánh ác, cũng lập tức cải ác hướng thiện. Lại nguyện cho phàm là người thấy được họ, cũng được luôn luôn gần gũi chư Phật. Lại nguyện cho người thấy được họ, thân tâm thanh tịnh, nhờ đó mà đắc được nhất thiết trí huệ. Ðó tức là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát, khi Ngài bố thí tràng hoa.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát bố thí hương thời, dĩ chư thiện căn như thị hồi hướng: nguyện nhất thiết chúng sanh cụ túc giới hương, đắc bất khuyết giới, bất tạp giới, bất ô giới, vô hối giới, ly triền giới, vô nhiệt giới, vô phạm giới, vô biên giới, xuất thế giới, bồ tát Ba-la-mật giới. Nguyện nhất thiết chúng sanh dĩ thị giới cố, giai đắc thành tựu chư Phật giới thân. Thị vi Bồ-Tát Ma-ha-tát bố thí hương thời thiện căn hồi hướng, vi lệnh chúng sanh tất đắc viên mãn vô ngại giới uẩn cố.
Phật tử ! Khi đại Bồ Tát bố thí hương, thì Ngài đem các căn lành hồi hướng như vầy: Nguyện cho tất cả chúng sinh đầy đủ hương của giới. Đắc được giới không thiếu khuyết. Giới không tạp. Giới không ô nhiễm. Giới không hối hận. Giới lìa ràng buộc. Giới không nhiệt não. Giới không huỷ phạm. Giới vô biên. Giới xuất thế. Giới Bồ Tát Ba La Mật. Nguyện cho tất cả chúng sinh nhờ những giới đó, mà đều được thành tựu giới thân của chư Phật. Đó là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát khi Ngài bố thí hương, vì khiến cho chúng sinh đều đắc được viên mãn giới uẩn vô ngại.
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát tu pháp hồi hướng, hiện tại Ngài lại bố thí hương quý cho tất cả chúng sinh. Khi Ngài bố thí hương, thì Ngài đem căn lành tích tụ được, hồi hướng như vầy: Tôi nguyện cho tất cả chúng sinh đều được thọ trì ba giới tụ thanh tịnh, đắc được hương giới đầy đủ.
Ba giới tụ thanh tịnh:
- Giới nhiếp luật nghi.
- Giới nhiếp thiện pháp.
- Giới nhiêu ích hữu tình.
Giới: Người tu đạo luôn giữ giới thanh tịnh, thì sẽ thành tựu giới đức khắp cùng bốn phương, dùng hương dụ cho đức, gọi là giới hương. Hơn nữa có những người trên thân toả ra mùi hôi, tức là do trong đời quá khứ chẳng giữ giới thanh tịnh. Nếu người giữ giới viên mãn, thì đời nầy trên thân đều có một mùi vị thơm, đây cũng là hiện tượng của giới hương.
Hành giả giữ giới thanh tịnh, thì nhất định đức cao vọng trọng. Bồ Tát lại nguyện cho tất cả chúng sinh đắc được giới không thiếu khuyết: Giữ được giới viên mãn, chẳng có tơ hào huỷ phạm, thì chẳng có thiếu khuyết. Ðược giới không tạp: Kiên cố giữ gìn chánh giới, chẳng xen tạp với giới bò, giới chó, của ngoại đạo. Ðược giới không ô nhiễm: Luôn giữ giới thanh tịnh, chẳng sinh chút tâm nhiễm ô nào. Ðược giới không hối hận: Suốt đời giữ giới đại thừa thanh tịnh, chẳng thọ mê hoặc của ngoại đạo mà sinh hối hận, cũng chẳng phạm giới trọng, cũng chẳng sinh tâm hậu hối. Ðược giới lìa ràng buộc: Lìa khỏi sự ràng buộc của ái dục, giữ gìn giới thanh tịnh, như chẳng cẩn thận lỡ phạm, mà sinh tâm hổ thẹn, thành khẩn sám hối, thì sẽ không bị ái dục ràng buộc. Ðược giới không nhiệt não: Nhiệt não tức là phiền não.
Hay giữ giới thì sẽ có định, giới định liên quan với nhau, thường ở trong sự mát mẻ, phiền não sẽ chẳng sinh ra, thì tự nhiên sẽ chẳng có nhiệt não. Ðược giới không phạm: Thấu đạt được đạo lý giới thể, giới pháp, giới tướng, thì vĩnh viễn sẽ chẳng phát sinh việc huỷ phạm giới luật. Ðược giới vô biên: Hy vọng chúng sinh đều có thể trước sau như một, giữ gìn giới thanh tịnh, tu đầy đủ giới định huệ, thành tựu vô lượng vô biên công đức căn lành. Ðược giới xuất thế: Hy vọng tất cả chúng sinh đều tu giới thanh tịnh xuất thế, vĩnh viễn lìa sinh tử, thoát khỏi ba cõi. Ðược giới Bồ Tát Ba La Mật: Nguyện tất cả chúng sinh đều thành tựu được thập độ vạn hạnh, xa lìa nhị thừa, viên mãn luật nghi của Bồ Tát, sớm lên bờ kia. Nguyện chín pháp giới chúng sinh, nhờ nghiêm trì giới thanh tịnh, thảy đều thành tựu giới thân viên mãn giống như chư Phật. Ðó là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát khi Ngài bố thí hương. Vì muốn cho tất cả chúng sinh, đều đắc được viên mãn vô lượng công đức giới uẩn vô ngại.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát thí đồ hương thời, dĩ chư thiện căn như thị hồi hướng, sở vị: nguyện nhất thiết chúng sanh thí hương phổ huân, tất năng huệ xả nhất thiết sở hữu. Nguyện nhất thiết chúng sanh giới hương phổ huân, đắc ư Như Lai cứu cánh tịnh giới. Nguyện nhất thiết chúng sanh nhẫn hương phổ huân, ly ư nhất thiết hiểm hại chi tâm. Nguyện nhất thiết chúng sanh tinh tấn hương phổ huân, thường phục Đại-Thừa tinh tấn giáp trụ. Nguyện nhất thiết chúng sanh định hương phổ huân, an trụ chư Phật hiện tiền tam muội.
Phật tử ! Khi đại Bồ Tát bố thí hương thoa, thì Ngài đem các căn lành hồi hướng như vầy: Nguyện cho tất cả chúng sinh được hương thí xông khắp, đều được huệ thí tất cả hết thảy. Nguyện cho tất cả chúng sinh được hương giới xông khắp, đều được giới thanh tịnh rốt ráo của Như Lai. Nguyện cho tất cả chúng sinh được hương nhẫn xông khắp, đều lìa khỏi tất cả tâm hiểm hại. Nguyện cho tất cả chúng sinh được hương tinh tấn xông khắp, thường mặc áo giáp tinh tấn đại thừa. Nguyện cho tất cả chúng sinh được hương định xông khắp, an trụ nơi tam muội hiện tiền của chư Phật.
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát tu pháp môn hồi hướng, khi Ngài bố thí hương thoa, thì Ngài đem đủ thứ căn lành tích tụ, hồi hướng như vầy: Nguyện cho tất cả chúng sinh thọ được hương thí xông khắp, thì đều rất phấn khởi, muốn đem hết thảy tất cả bố thí cho tất cả chúng sinh. Lại nguyện cho hết thảy chúng sinh trong chín pháp giới, đều thọ được hương giới xông khắp. Giới, tức là ngừa ác phòng quấy. Có giới luật của đệ tử tại gia phải giữ, có giới luật của người xuất gia phải giữ. Người tu đạo, tuyệt đối phải nghiêm trì giới luật, mới có thể cảm ứng đạo giao, mới đắc được hương thơm của giới. Ðắc được hương thơm của giới rồi, mới có thể xông khắp tất cả chúng sinh, cho đến đạt được cảnh giới của Như Lai.
Cảnh giới của Như Lai, tức là giới thể viên mãn thanh tịnh. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh thọ được hương nhẫn xông khắp, đều thành tựu được nhẫn Ba La Mật. Nhẫn, tức là nhẫn nhục. Tu hạnh nhẫn nhục, thì được hương thơm toả ra, tu bố thí, trì giới và các Ba La Mật khác, thì đều toả ra hương thơm. Vì lục độ vạn hạnh, đều nuôi lớn tâm bồ đề, mà còn có thể diệt trừ tất cả sự chướng ngại, cho nên đều gọi là hương. Sức lực của sự nhẫn nhục không thể nghĩ bàn, tu hạnh nhẫn nhục, thì sẽ toả ra hương thơm, có thể khắp kết nhân duyên, khiến cho mọi người khi thấy được bạn, thì sẽ có chút cảm tình thân thiết, đó là quả báo của sự tu hạnh nhẫn nhục.
Chúng sinh thọ được hương nhẫn xông khắp, thì sẽ diệt trừ được nơi vô hình tâm nguy hại hiểm trá trong tập tánh. Cho nên nói hương nhẫn lìa khỏi tất cả tâm hiểm hại, tức cũng là sức lực của hương nhẫn không thể nghĩ bàn. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh thọ được hương tinh tấn xông khắp, thì khiến cho mỗi người tu đạo đều tinh tấn không ngừng nghỉ. Giống như dũng sĩ ở ngoài chiến trường, thường thường mặc áo giáp tinh tấn đại thừa. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh thọ được hương thiền định xông khắp, an trụ ở trong cảnh giới đại định hiện tiền của chư Phật, chẳng sinh chút tâm tán loạn nào.
Nguyện nhất thiết chúng sanh tuệ hương phổ huân, nhất niệm đắc thành vô thượng trí Vương. Nguyện nhất thiết chúng sanh pháp hương phổ huân, ư vô thượng pháp đắc vô sở úy. Nguyện nhất thiết chúng sanh đức hương phổ huân, thành tựu nhất thiết Đại công đức trí. Nguyện nhất thiết chúng sanh Bồ-đề hương phổ huân, đắc Phật thập lực đáo ư bỉ ngạn. Nguyện nhất thiết chúng sanh thanh tịnh bạch pháp diệu hương phổ huân, vĩnh diệt nhất thiết bất thiện chi Pháp. Thị vi Bồ-Tát Ma-ha-tát thí đồ hương thời thiện căn hồi hướng.
Nguyện cho tất cả chúng sinh được hương huệ xông khắp, một niệm được thành tựu vua trí huệ vô thượng. Nguyện cho tất cả chúng sinh được hương pháp xông khắp, thì nơi pháp vô thượng được không sợ hãi. Nguyện cho tất cả chúng sinh được hương đức xông khắp, thì thành tựu nhất thiết trí đại công đức. Nguyện cho tất cả chúng sinh được hương bồ đề xông khắp, thì được mười lực của Phật đến bờ bên kia. Nguyện cho tất cả chúng sinh được diệu hương pháp trắng thanh tịnh xông khắp, thì vĩnh viễn diệt trừ tất cả pháp bất thiện. Đó là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát, khi Ngài bố thí hương thoa.
Giảng: Bồ Tát lại nguyện cho tất cả chúng sinh, thọ được hương trí huệ xông khắp, thì ở trong một niệm đắc được vô lượng trí huệ thù thắng, trở thành vua trí huệ – chứng được quả Phật, chẳng có ai bằng được. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh thọ được hương pháp xông khắp, thì đắc được lý thể chân thật của diệu pháp thâm sâu vô thượng, đối với tất cả các pháp chẳng có sợ hãi, cũng chẳng có nghi hoặc. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh thọ được hương đức xông khắp, thì thành tựu trí huệ thù thắng, viên mãn tất cả đại công đức. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh thọ được hương bồ đề xông khắp, thì thành tựu bồ đề giác đạo, đắc được mười thứ thần lực không thể nghĩ bàn của Phật, đến được bờ Niết Bàn bên kia. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh thọ được diệu hương pháp trắng thanh tịnh xông khắp, thì sẽ vĩnh viễn diệt trừ tất cả pháp thế tục bất thiện. Ðó tức là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát, khi Ngài bố thí hương thoa.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát thí sàng tọa thời, dĩ chư thiện căn như thị hồi hướng, sở vị: nguyện nhất thiết chúng sanh đắc chư Thiên sàng tọa, chứng đại trí tuệ. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc hiền thánh sàng tọa, xả phàm phu ý, trụ Bồ-đề tâm. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc an lạc sàng tọa, vĩnh ly nhất thiết sanh tử khổ não. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc cứu cánh sàng tọa, đắc kiến chư Phật tự tại thần thông. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc bình đẳng sàng tọa, hằng phổ huân tu nhất thiết thiện pháp.
Phật tử ! Khi đại Bồ Tát bố thí giường toà, thì Ngài đem các căn lành hồi hướng như vầy: Nguyện cho tất cả chúng sinh được các giường toà trời, chứng được đại trí huệ. Nguyện cho tất cả chúng sinh được giường toà hiền Thánh, xả bỏ ý phàm phu, trụ tâm bồ đề. Nguyện cho tất cả chúng sinh được giường toà an lạc, vĩnh viễn lìa tất cả sinh tử khổ não. Nguyện cho tất cả chúng sinh được giường toà rốt ráo, được thấy thần thông tự tại của chư Phật. Nguyện cho tất cả chúng sinh được giường toà bình đẳng, luôn huân tu khắp tất cả pháp lành.
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát tu pháp môn hồi hướng, Ngài lại bố thí giường toà cho tất cả chúng sinh, khi Ngài bố thí giường toà, thì Ngài đem đủ thứ căn lành tu tập được, hồi hướng như vầy: Nguyện cho tất cả chúng sinh, được giường toà giống như chư thiên dùng. Thứ giường toà đó rất đẹp, mà còn có nhiều công dụng kỳ diệu, nếu nằm ngủ trên gường toà đó, hoặc ngồi trên giường toà đó, thì sẽ chứng được trí huệ viên mãn rộng lớn.
Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đắc được giường toà như bậc Thánh Hiền dùng, có thể khiến cho phàm phu xả bỏ đi tất cả tư tưởng tập khí thế tục, chuyển phàm phu nhập vào dòng Thánh nhân, luôn luôn an trụ ở trong bồ đề giác đạo. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh đắc được giường toà rất an ổn thoải mái, vĩnh viễn thoát khỏi khổ sinh tử. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh đắc được giường toà rốt ráo nhất, thấy được thần thông tự tại của chư Phật, cũng minh bạch được sức thần thông diệu dụng của chư Phật. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đắc được giường toà bình đẳng, luôn luôn thọ được sự huân tu khắp tất cả thiện pháp trắng thanh tịnh.
Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc tối thắng sàng tọa, cụ thanh tịnh nghiệp, thế vô dữ đẳng. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc an ổn sàng tọa, chứng chân thật Pháp, cụ túc cứu cánh. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc thanh tịnh sàng tọa, tu tập Như Lai tịnh trí cảnh giới. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc an trụ sàng tọa, đắc thiện tri thức thường tùy phước hộ. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc sư tử sàng tọa, thường như Như Lai hữu hiếp nhi ngọa. Thị vi Bồ-Tát Ma-ha-tát thí sàng tọa thời thiện căn hồi hướng, vi lệnh chúng sanh tu tập chánh niệm, thiện hộ chư căn cố.
Nguyện cho tất cả chúng sinh được giường toà tối thắng, đầy đủ nghiệp thanh tịnh, thế gian không bằng được. Nguyện cho tất cả chúng sinh được giường toà an ổn, chứng được pháp chân thật, đầy đủ rốt ráo. Nguyện cho tất cả chúng sinh được giường toà thanh tịnh, tu tập cảnh giới trí huệ thanh tịnh của Như Lai. Nguyện cho tất cả chúng sinh được giường toà an trụ, được thiện tri thức, luôn theo che chở gia hộ. Nguyện cho tất cả chúng sinh được giường toà sư tử, thường nằm bên hông phải, giống như Như Lai. Đó là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát, khi Ngài bố thí giường toà. Vì khiến cho chúng sinh tu tập chánh niệm, khéo hộ trì các căn.
Giảng: Lại nguyện cho tất cả chúng sinh được giường toà thù thắng nhất, đầy đủ viên mãn nghiệp trí huệ thanh tịnh, trên thế gian chẳng có ai so sánh bằng. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh được giường toà an ổn, chứng được lý thể chân thật của các pháp, đạt đến cảnh giới thật tế rốt ráo viên mãn. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh được giường toà thanh tịnh không ô nhiễm, tu tập pháp vi diệu thâm sâu của chư Phật nói, đắc được trí huệ thanh tịnh và cảnh giới giống như Phật.
Lại nguyện cho tất cả chúng sinh được giường toà an ổn không động, thường được gần gũi các vị thiện tri thức, cũng luôn luôn được các vị thiện tri thức đi theo che chở gia hộ. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh được giường toà sư tử, cũng học tập được giống như Phật thường nằm nghiêng về hông bên phải, đó gọi là tư thế nằm cát tường, tập dần sẽ quen, tránh được ác mộng. Ðó là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát, khi Ngài bố thí giường toà. Cũng hy vọng chúng sinh, mọi người đều tu tập chánh niệm chánh tư duy về chánh pháp, khéo biết hộ trì các căn của mình, đừng khiến cho nó phóng dật, luôn luôn siêng tu Phật đạo.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát thí phòng xá thời, dĩ chư thiện căn như thị hồi hướng, sở vị: nguyện nhất thiết chúng sanh giai đắc an trụ thanh tịnh Phật sát, tinh cần tu tập nhất thiết công đức. an trụ thậm thâm tam muội cảnh giới, xả ly nhất thiết trụ xứ chấp trước. liễu chư trụ xứ giai vô sở hữu, ly chư thế gian trụ nhất thiết trí. Nhiếp thủ nhất thiết chư Phật sở trụ, trụ cứu cánh đạo an lạc trụ xứ. Hằng trụ đệ nhất thanh tịnh thiện căn, chung bất xả ly Phật vô thượng trụ. thị vi Bồ-Tát Ma-ha-tát thí phòng xá thời thiện căn hồi hướng. vi dục lợi ích nhất thiết chúng sanh, tùy kỳ sở ưng, tư tánh cứu hộ cố.
Phật tử ! Khi đại Bồ Tát bố thí phòng xá, thì Ngài đem các căn lành hồi hướng như vầy: Nguyện cho tất cả chúng sinh đều được an trụ cõi Phật thanh tịnh, tinh tấn siêng tu tập tất cả công đức: An trụ vào cảnh giới tam muội thâm sâu. Xả lìa tất cả trụ xứ chấp trước. Thấu rõ các trụ xứ đều chẳng chỗ có. Lìa các thế gian trụ nơi nhất thiết trí. Nhiếp lấy tất cả chỗ trụ của chư Phật. Trụ nơi trụ xứ đạo an lạc rốt ráo. Luôn trụ nơi căn lành thanh tịnh bậc nhất. Trọn chẳng xả lìa trụ xứ vô thượng của Phật. Đó là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát, khi Ngài bố thí phòng xá. Vì muốn lợi ích cho tất cả chúng sinh. Tuỳ chỗ đáng được độ, mà tư duy cứu hộ.
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát tu pháp môn hồi hướng, khi Ngài bố thí phòng xá cho tất cả chúng sinh, thì Ngài đem đủ thứ căn lành tu tập, hồi hướng như vầy: Nguyện cho tất cả chúng sinh, đều an trụ ở trong cõi Phật, dũng mãnh tinh tấn siêng tu tất cả căn lành công đức, an trụ ở trong cảnh giới chánh định chánh thọ thâm sâu. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh xả bỏ sự trụ chấp trước, đừng trụ vào sự dục vọng, thấu rõ trụ xứ cũng là hư vọng như huyễn như hoá. Vượt khỏi các thứ vật chất hưởng thụ của thế gian, mà trụ vào nơi nhất thiết trí huệ. Nhiếp lấy tất cả trụ xứ của chư Phật trụ, tu hành đạo quả rốt ráo, đắc được chỗ trụ an ổn rốt ráo chân thật. Luôn luôn trụ nơi căn lành thanh tịnh bậc nhất, vĩnh viễn không xả lìa trụ xứ vô thượng của chư Phật trụ. Ðó là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát, khi Ngài bố thí phòng xá. Vì lợi ích cho tất cả chúng sinh, cho nên tuỳ theo cơ duyên của chúng sinh, mà tư duy làm thế nào để cứu hộ họ.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát thí trụ xứ thời, dĩ chư thiện căn như thị hồi hướng, sở vị: nguyện nhất thiết chúng sanh thường hoạch thiện lợi, kỳ tâm an lạc. Nguyện nhất thiết chúng sanh y Như Lai trụ, y đại trí trụ, y thiện tri thức trụ, y tôn thắng trụ, y thiện hạnh trụ, y đại từ trụ, y đại bi trụ, y lục Ba la mật trụ, y đại Bồ-đề tâm trụ, y nhất thiết Bồ Tát đạo trụ. thị vi Bồ-Tát Ma-ha-tát thí trụ xứ thời thiện căn hồi hướng
Phật tử ! Khi đại Bồ Tát bố thí chỗ ở, thì Ngài đem các căn lành hồi hướng như vầy: Nguyện cho tất cả chúng sinh thường được lợi lành, tâm được an lạc. Nguyện cho tất cả chúng sinh nương Như Lai mà trụ. Nương đại trí huệ mà trụ. Nương thiện tri thức mà trụ. Nương tôn thắng mà trụ. Nương thiện hạnh mà trụ. Nương đại từ mà trụ. Nương đại bi mà trụ. Nương sáu Ba La Mật mà trụ. Nương tâm đại bồ đề mà trụ. Nương tất cả Bồ Tát đạo mà trụ. Đó là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát, khi Ngài bố thí chỗ ở.
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát tu pháp môn hồi hướng, khi Ngài bố thí chổ ở, thì Ngài đem đủ thứ căn lành tu tập, hồi hướng như vầy: Nguyện cho tất cả chúng sinh thường được lợi lành, do đó mà trong tâm sung mãn an ổn khoái lạc, chẳng có phiền não. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh đều nương tựa Phật mà trụ, theo Phật xuất gia tu đạo. Nương tựa đại trí huệ mà trụ, chuyển ngu si thành trí huệ. Nương tựa thiện tri thức mà trụ, sẽ tăng tấn đạo nghiệp. Nương tựa thiện hạnh mà trụ, tu đủ thứ hạnh lành, thành công đức lớn. Nương đại từ mà trụ, thương xót chúng sinh, ban cho họ an vui. Nương đại bi mà trụ, cứu vớt đủ thứ khổ nạn của tất cả chúng sinh. Nương sáu Ba La Mật mà trụ, giáo hoá chúng sinh siêng tu sáu độ đến bờ bên kia. Nương tâm đại bồ đề mà trụ, sớm chứng được bồ đề giác đạo. Nương tất cả Bồ Tát đạo mà trụ, tu học Phật đạo của Bồ Tát tu. Ðó là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát, khi Ngài bố thí chỗ ở.
Vi lệnh nhất thiết phước đức thanh tịnh cố, cứu cánh thanh tịnh cố, trí thanh tịnh cố, đạo thanh tịnh cố, Pháp thanh tịnh cố, giới thanh tịnh cố, chí lạc thanh tịnh cố, tín giải thanh tịnh cố, nguyện thanh tịnh cố, nhất thiết thần thông công đức thanh tịnh cố.
Vì khiến cho tất cả phước đức thanh tịnh. Vì rốt ráo thanh tịnh. Vì trí thanh tịnh. Vì đạo thanh tịnh. Vì pháp thanh tịnh. Vì giới thanh tịnh. Vì chí nguyện thanh tịnh. Vì tin hiểu thanh tịnh. Vì nguyện thanh tịnh. Vì tất cả thần thông công đức thanh tịnh.
Giảng: Mục đích Bồ Tát hồi hướng đủ thứ, là vì khiến cho phước đức của tất cả chúng sinh được thanh tịnh. Vì rốt ráo viên mãn thanh tịnh. Vì trí huệ thù thắng cũng thanh tịnh. Vì tu Phật đạo được thanh tịnh. Vì tu học pháp của chư Phật nói cũng thanh tịnh. Vì nghiêm trì giới luật thanh tịnh. Vì chí nguyện đã phát đều thanh tịnh viên mãn. Vì tin sâu các pháp, lý giải chánh quyết thanh tịnh. Vì nguyện lực cũng thanh tịnh. Vì đủ thứ thần thông công đức đều rất thanh tịnh. Cho nên Bồ Tát tuỳ thời thảy đều hồi hướng cho tất cả chúng sinh những căn lành công đức tu tập được, trợ giúp họ đắc được quả báo thanh tịnh.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát thí chư đăng minh, sở vị: tô đăng, du đăng, bảo đăng, ma-ni đăng, tất đăng, hỏa đăng, trầm thủy đăng, chiên đàn đăng, nhất thiết hương đăng, vô lượng sắc quang đăng. Thí như thị đẳng vô lượng đăng thời, vi dục lợi ích nhất thiết chúng sanh, vi dục nhiếp thọ nhất thiết chúng sanh
Phật tử ! Đại Bồ Tát bố thí các đèn sáng. Đó là: Đèn tô, đèn dầu, đèn báu, đèn ma ni, đèn tất, đèn lửa, đèn trầm thuỷ, đèn chiên đàn, đèn tất cả hương thơm, đèn vô lượng màu sắc ánh sáng. Khi bố thí vô lượng đèn như thế, vì muốn lợi ích cho tất cả chúng sinh. Vì muốn nhiếp thọ tất cả chúng sinh.
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát tu pháp môn hồi hướng, Ngài lại bố thí đủ thứ đèn, ánh sáng chiếu khắp mười phương thế giới. Ngài bố thí những thứ đèn, nói một cách đại khái là: Ðèn tô, đèn dầu, đèn báu – trên đèn có nạm rất nhiều châu báu, dùng châu ma ni làm đèn dạ quang, đèn tất, đèn lửa, đèn hương gỗ trầm thuỷ, đèn hương gỗ chiên đàn, đèn các thứ hương thơm, đèn nhiều loại ánh sáng màu sắc. Khi Bồ Tát bố thí nhiều thứ đèn như thế, Ngài phát nguyện đem công đức bố thí đèn, làm lợi ích cho tất cả chúng sinh, cũng vì muốn nhiếp thọ tất cả chúng sinh.
Dĩ thử thiện căn như thị hồi hướng, sở vị: nguyện nhất thiết chúng sanh đắc Vô Lượng Quang, phổ chiếu nhất thiết chư Phật chánh pháp. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc thanh Tịnh Quang, chiếu kiến thế gian cực vi tế sắc. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc ly ế quang, liễu chúng sanh giới không vô sở hữu. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc vô biên quang, thân xuất diệu quang phổ chiếu nhất thiết. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc phổ chiếu quang, ư chư Phật Pháp tâm vô thoái chuyển. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc Phật Tịnh Quang, nhất thiết sát trung tất giai hiển hiện. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc vô ngại quang, nhất quang biến chiếu nhất thiết pháp giới. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc vô đoạn quang, chiếu chư Phật sát quang minh bất đoạn. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc trí tràng quang, phổ chiếu thế gian. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc vô lượng sắc quang, chiếu nhất thiết sát thị hiện thần lực.
Bồ Tát đem căn lành đó hồi hướng như vầy: Nguyện cho tất cả chúng sinh được vô lượng quang minh, chiếu khắp tất cả chánh pháp của chư Phật. Nguyện cho tất cả chúng sinh được quang minh thanh tịnh, chiếu thấy màu sắc rất vi tế của thế gian. Nguyện cho tất cả chúng sinh được quang minh lìa màng mắt, thấu rõ cõi chúng sinh đều không chẳng chỗ có. Nguyện cho tất cả chúng sinh được quang minh vô biên, thân phóng ra diệu quang chiếu khắp tất cả. Nguyện cho tất cả chúng sinh được quang minh chiếu khắp, nơi các Phật pháp tâm chẳng thối chuyển. Nguyện cho tất cả chúng sinh được quang minh thanh tịnh của Phật, ở trong tất cả cõi thảy đều hiển hiện. Nguyện cho tất cả chúng sinh được quang minh vô ngại, một quang minh chiếu khắp tất cả pháp giới. Nguyện cho tất cả chúng sinh được quang minh không đoạn diệt, chiếu các cõi Phật, mà quang minh không đoạn diệt. Nguyện cho tất cả chúng sinh được quang minh trí tràng, chiếu khắp thế gian. Nguyện cho tất cả chúng sinh được quang minh vô lượng màu sắc, chiếu tất cả cõi, thị hiện thần lực.
Giảng: Khi Bồ Tát bố thí đủ thứ ánh sáng cho tất cả chúng sinh, thì Ngài đem căn lành của Ngài tu tập, hồi hướng như vầy: Nguyện cho tất cả chúng sinh đều đắc được vô lượng quang minh, quang minh đó có thể chiếu khắp chánh pháp của chư Phật, trụ tại thế gian lâu dài. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh đắc được quang minh thanh tịnh, quang minh đó chiếu thấy sắc trần vi tế nhất của thế gian. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh đắc được quang minh lìa màng mắt, màng mắt là một thứ bệnh mắt, trong con mắt sinh ra một thứ màng che đậy con mắt, nhìn sự vật chẳng rõ ràng. Bồ Tát hy vọng phàm là chúng sinh có bệnh mắt sinh ra màng, thọ được quang minh thanh tịnh nầy chiếu đến, thì màng trong con mắt chẳng còn nữa.
Nếu muốn con mắt sáng suốt chẳng sinh bệnh mắt, thì phải thường cúng dường đèn sáng ở trước Phật, thì đời đời kiếp kiếp con mắt sáng suốt chẳng sinh bệnh mắt. Chúng sinh lìa khỏi bệnh màng mắt, thì cũng minh bạch cõi chúng sinh là không chẳng chỗ có. Chúng sinh vốn là do các duyên hợp lại mà sinh, mới có thân thể bốn đại hoà hợp. Một khi bốn đại phân ly, thì đều trả về cho bốn đại, thì đó còn có chúng sinh chăng? Cho nên nói không chẳng chỗ có, đừng chấp trước. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh đắc được quang minh chẳng có bờ mé, khiến cho trên thân đồng thời phóng ra một thứ quang minh kỳ diệu, trong quang minh đó nói pháp giáo hoá chúng sinh, mà quang minh kỳ diệu đó, đồng thời cũng chiếu khắp tất cả.
Lại nguyện cho tất cả chúng sinh đắc được quang minh của Phật chiếu khắp, đối với pháp của chư Phật nói, có tâm dũng mãnh tinh tấn tu học, vĩnh viễn chẳng sinh tâm giải đãi thối chuyển. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh đắc được quang minh thanh tịnh của Phật, trong cõi nước của mười phương chư Phật, đều hiển hiện quang minh thanh tịnh của Phật. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh đắc được quang minh không có chướng ngại, dù chỉ một quang minh, cũng có thể chiếu khắp tất cả pháp giới, khiến cho tất cả pháp giới đều phóng đại quang minh.
Lại nguyện cho tất cả chúng sinh đắc được quang minh vĩnh viễn chẳng đoạn diệt, quang minh đó chiếu đến cõi nước chư Phật, cũng vĩnh viễn chẳng đoạn diệt. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh đắc được quang minh trí huệ, quang minh đó giống như tràng báu, chiếu khắp tất cả thế gian. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh đắc được quang minh vô lượng màu sắc, quang minh đó chiếu đến cõi nước của chư Phật trong mười phương, thấy được thần lực vi diệu của chư Phật thị hiện.
Bồ Tát như thị thí đăng minh thời, vi dục lợi ích nhất thiết chúng sanh, an lạc nhất thiết chúng sanh cố, dĩ thử thiện căn tùy trục chúng sanh, dĩ thử thiện căn nhiếp thọ chúng sanh, dĩ thử thiện căn phân bố chúng sanh, dĩ thử thiện căn từ mẫn chúng sanh, dĩ thử thiện căn phước dục chúng sanh, dĩ thử thiện căn cứu hộ chúng sanh, dĩ thử thiện căn sung mãn chúng sanh, dĩ thử thiện căn duyên niệm chúng sanh, dĩ thử thiện căn đẳng ích chúng sanh, dĩ thử thiện căn quan sát chúng sanh. Thị vi Bồ-Tát Ma-ha-tát thí đăng minh thời thiện căn hồi hướng, như thị hồi hướng vô hữu chướng ngại, phổ lệnh chúng sanh trụ thiện căn trung.
Khi Bồ Tát bố thí đèn sáng như vậy, vì muốn lợi ích tất cả chúng sinh, an lạc tất cả chúng sinh. Đem căn lành đó theo đuổi chúng sinh. Đem căn lành đó nhiếp thọ chúng sinh. Đem căn lành đó phân bố cho chúng sinh. Đem căn lành đó từ mẫn chúng sinh. Đem căn lành đó che chở nuôi dưỡng chúng sinh. Đem căn lành đó cứu hộ chúng sinh. Đem căn lành đó sung mãn chúng sinh. Đem căn lành đó duyên niệm chúng sinh. Đem căn lành đó bình đẳng lợi ích chúng sinh. Đem căn lành đó quán sát chúng sinh. Đó là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát, khi Ngài bố thí đèn sáng. Hồi hướng như vậy chẳng có chướng ngại. Khắp khiến cho chúng sinh trụ trong căn lành.
Giảng: Mục đích của Bồ Tát bố thí các thứ đèn báu như vậy, là vì muốn lợi ích tất cả chúng sinh, cũng hy vọng có thể an lạc tất cả chúng sinh, cho nên đem căn lành của Ngài bố thí đèn sáng, theo đuổi chúng sinh, vĩnh viễn chẳng xả lìa tất cả chúng sinh thọ khổ. Lại đem căn lành bố thí đèn sáng, để nhiếp thọ tất cả chúng sinh có duyên. Lại đem căn lành bố thí đèn sáng, phân bố cho hết thảy chúng sinh, khiến cho những chúng sinh đó đều thọ được lợi ích của sự bố thí đèn sáng. Lại đem căn lành bố thí đèn sáng, từ mẫn tất cả chúng sinh, tuỳ thời ủng hộ họ. Lại đem căn lành bố thí đèn sáng, che chở tất cả chúng sinh, nuôi dưỡng tất cả chúng sinh. Lại đem căn lành bố thí đèn sáng, cứu hộ tất cả chúng sinh.
Nếu chúng sinh có tai nạn khốn khổ và thọ sự bức hại, thì Bồ Tát dùng quang minh chiếu sáng của Ngài, để cứu hộ dẫn dắt chúng sinh thọ nạn, thoát khỏi tai nạn, được sự an toàn. Lại đem căn lành bố thí đèn sáng, khiến cho tất cả chúng sinh cũng được sung mãn căn lành, và sung mãn trí huệ quang minh. Lại đem căn lành bố thí đèn sáng, thường thường duyên niệm tất cả chúng sinh, tìm cách khiến cho họ thoát khỏi biển khổ, được sự an lạc. Lại đem căn lành bố thí đèn sáng, khắp bình đẳng lợi ích chín pháp giới chúng sinh. Lại đem căn lành bố thí đèn sáng, để quán sát nhân duyên của tất cả chúng sinh, thấu đạt sự thọ báo khác nhau của họ. Ðó là đại Bồ Tát hồi hướng căn lành khi Ngài bố thí đèn sáng. Hồi hướng như vậy rồi, thì tất cả hết thảy chỗ làm đều vô ngại. Khắp khiến cho tất cả chúng sinh, đều an trụ trong căn lành công đức của sự bố thí đèn sáng.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát thí thang dược thời, dĩ chư thiện căn như thị hồi hướng, sở vị: nguyện nhất thiết chúng sanh ư chư cái triền, cứu cánh đắc xuất. Nguyện nhất thiết chúng sanh vĩnh ly bệnh thân, đắc Như Lai thân. Nguyện nhất thiết chúng sanh tác Đại lương dược, diệt trừ nhất thiết bất thiện chi bệnh. Nguyện nhất thiết chúng sanh thành A-già-đà dược, an trụ Bồ Tát bất thoái chuyển địa. Nguyện nhất thiết chúng sanh thành Như Lai dược, năng bạt nhất thiết phiền não độc tiễn. Nguyện nhất thiết chúng sanh thân cận hiền thánh, diệt chư phiền não, tu thanh tịnh hạnh. Nguyện nhất thiết chúng sanh tác Đại Dược-Vương, vĩnh trừ chúng bệnh, bất lệnh trọng phát. Nguyện nhất thiết chúng sanh tác bất hoại dược thụ, tất năng cứu liệu nhất thiết chúng sanh. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc nhất thiết trí quang, xuất chúng bệnh tiến. Nguyện nhất thiết chúng sanh thiện giải thế gian phương dược chi Pháp, sở hữu tật bệnh vi kỳ cứu liệu.
Phật tử ! Khi đại Bồ Tát bố thí thuốc thang, Ngài đem các căn lành hồi hướng như vầy: Nguyện cho tất cả chúng sinh nơi các triền cái, rốt ráo được thoát khỏi. Nguyện cho tất cả chúng sinh vĩnh viễn lìa thân bệnh, đắc được thân của Như Lai. Nguyện cho tất cả chúng sinh làm thuốc hay, diệt trừ tất cả bệnh bất thiện. Nguyện cho tất cả chúng sinh thành thuốc A Già Đà, an trụ nơi bậc Bồ Tát không thối chuyển. Nguyện cho tất cả chúng sinh thành thuốc Như Lai, cứu bạt tất cả tên độc phiền não. Nguyện cho tất cả chúng sinh gần gũi hiền Thánh, diệt trừ phiền não, tu hạnh thanh tịnh. Nguyện cho tất cả chúng sinh làm vua thầy thuốc, vĩnh viễn diệt trừ các bệnh, chẳng khiến cho tái phát. Nguyện cho tất cả chúng sinh làm cây thuốc bất hoại, đều chữa lành cho tất cả chúng sinh. Nguyện cho tất cả chúng sinh được quang minh nhất thiết trí, nhổ trừ các mũi tên bệnh. Nguyện cho tất cả chúng sinh khéo hiểu phương thuốc thế gian, hết thảy tật bệnh của chúng sinh đều chữa khỏi.
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát tu pháp môn hồi hướng, lại bố thí thuốc thang trị bệnh cho chúng sinh. Khi Ngài bố thí thuốc thang, thì đem đủ thứ căn lành tu tập được, hồi hướng như vầy: Nguyện cho tất cả chúng sinh đắc được lợi ích thuốc thang của tôi bố thí, thì đều chân chánh thoát khỏi triền cái-triền (trói), tức là vọng hoặc, trói chúng sinh không thoát khỏi được sinh tử, chẳng chứng được Niết Bàn.
Có mười thứ triền hoặc:
- Không hổ.
- Không thẹn.
- Nghi.
- Xẻn.
- Hối (làm việc thiện rồi ngược lại sinh tâm truy hối).
- Thuỳ miên.
- Trạo cử.
- Hôn trầm.
- Sân phẫn.
- Che giấu.
Cái, ý nghĩa là phú cái (che đậy), che đậy tâm tánh không thể sinh pháp lành.
Có năm thứ cái:
- Tham dục cái.
- Sân khuể cái.
- Thuỳ miên cái.
- Trạo hối cái.
- Nghi pháp cái.
Con người đều có mười triền, năm cái, cho nên tạo thành nhân hữu lậu, sáu căn sáu trần vọng làm vô biên tội lỗi. Do đó, Bồ Tát hy vọng chúng sinh thoát khỏi được mười triền, năm cái. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh vĩnh viễn thoát khỏi thân có tật bệnh, được thân kim cang bất hoại giống như Phật. Bồ Tát phát nguyện như thế, hy vọng chúng sinh vĩnh viễn lìa thân bệnh, nhưng phải làm thế nào mới có thể vĩnh viễn lìa thân bệnh ? Thì phải nương vào chính mình mà tu hành, chỉ có thiết thực tu hành mới vĩnh viễn lìa khỏi được thân bệnh, chẳng tu hành, chẳng tu nghiệp lành, thì thân bệnh không thể nào lìa khỏi được.
Vì chẳng tu hành, thì trong tâm thường có vọng niệm và phiền não, sẽ trở thành thân hữu lậu, không thể nào đắc được thân Phật. Mục đích và thành tựu của sự tu hành, mới phá trừ được vô minh, chuyển phiền não thành bồ đề, thành tựu làm người vô lậu, thì tất cả tập khí tự nhiên sẽ tiêu diệt trong vô hình, như vậy mới đắc được thân kim cang bất hoại giống như Phật. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, làm thuốc hay nhất của tất cả chúng sinh khác, tiêu trừ hết sạch bệnh ô nhiễm không thanh tịnh của tất cả chúng sinh.
Lại nguyện cho tất cả chúng sinh thành thuốc A Già Ðà-thuốc bất tử, có thể giải trừ được phiền não trong tâm và tật bệnh trong thân, để an trụ nơi địa vị Bồ Tát không thoái chuyển. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh đều thành thuốc Như Lai, thuốc Như Lai tức là thuốc chấm dứt sinh tử, nhờ đó mà đắc được nhất thiết trí huệ, nhổ trừ được tất cả tên độc phiền não. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh thường thường gần gũi thiện tri thức và Thánh hiền Tăng, đắc được pháp ích diệt trừ phiền não thân tâm, một lòng tu học phạm hạnh thanh tịnh. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, có thể làm vua thầy thuốc, chữa lành tất cả bệnh của thế gian, vĩnh viễn chẳng làm cho nó tái phát nữa.
Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, làm cây thuốc bất hoại, thứ cây thuốc đó, hay chữa lành các thứ bệnh tật của tất cả chúng sinh, khiến cho chúng sinh đều đắc được khoẻ mạnh. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh đắc được quang minh nhất thiết trí huệ, được quang minh nầy chiếu đến, thì nhổ hết sạch mũi tên bệnh độc. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, khéo thấu hiểu phương pháp chữa bệnh và tính năng đủ thứ cỏ thuốc của thế gian, biết bệnh gì, dùng thuốc gì. Hiểu được bệnh tật của chúng sinh, thì sẽ chữa lành bệnh của chúng sinh, thuốc đến liền hết bệnh.
Bồ-Tát Ma-ha-tát thí thang dược thời, vi lệnh nhất thiết chúng sanh vĩnh ly chúng bệnh cố, cứu cánh an ổn cố, cứu cánh thanh tịnh cố, như Phật vô bệnh cố, bạt trừ nhất thiết bệnh tiến cố, đắc vô tận kiên cố thân cố, đắc Kim cương vi sơn sở bất hoại thân cố, đắc kiên cố mãn túc lực cố, đắc viên mãn bất khả đoạt Phật lạc cố, đắc nhất thiết Phật tự tại kiên cố thân cố, dĩ chư thiện căn như thị hồi hướng.
Khi đại Bồ Tát bố thí thuốc thang, vì khiến cho tất cả chúng sinh vĩnh viễn lìa khỏi các bệnh. Vì rốt ráo được an ổn. Vì rốt ráo được thanh tịnh. Vì giống như Phật không bệnh. Vì nhổ trừ tất cả mũi tên bệnh. Vì được thân vô tận kiên cố. Vì được thân kim cang núi Thiết Vi bất hoại. Vì được sức lực kiên cố đầy đủ. Vì được viên mãn an vui của Phật không ai đoạt lấy được. Vì được thân kiên cố tự tại của tất cả chư Phật. Bồ Tát đem các căn lành hồi hướng như vậy.
Giảng: Khi đại Bồ Tát bố thí thuốc thang, mục đích của Ngài phát nguyện hồi hướng, là hy vọng khiến cho tất cả chúng sinh, đắc được lợi ích hồi hướng của Ngài, vĩnh viễn lìa khỏi các thứ bệnh tật. Chúng ta thường nghe họ nói: Hành thiện là gieo trồng ruộng phước, ruộng phước có rất nhiều thứ, khám cho bệnh nhân là ruộng phước bậc nhất. Trong các sự cúng dường, cúng dường pháp là trên hơn hết. Các thứ bố thí, thì công đức bố thí thuốc thang là lớn nhất, vì thuốc thang chữa lành bệnh của con người, làm cho họ sống lại. Dược phẩm của Trung Quốc về thực vật phần nhiều gồm các loại: Rễ, cộng, lá, hoa, quả, hạt .v.v… về động vật thì có: Xương, da, xác và khoáng vật .v.v… Nhưng tính chất của chúng đều có sự phân biệt: Hàn, nhiệt, ôn, bình. Hàn là tánh mát của thuốc, hay trị bệnh nhiệt. Nhiệt là tánh nóng của thuốc, hay chữa bệnh hàn. Ôn là tính chất ôn hoà, tức chẳng hàn cũng chẳng nhiệt. Bình là tính rất bình ổn, đều có tác dụng đối trị. Công năng của chúng, dùng quân, thần, tá, sử, bốn chữ có thể biểu thị. Quân thì tựa giống như hoàng đế. Thần tức giống như tể tướng và quan sử, trong đó cam thảo thì có thể gọi là tể tướng, xuyên khung (cỏ dùng làm thuốc) có hiệu là tướng quân. Tá là phụ tá, nghĩa là trợ giúp. Sử là ngự sử, ra lệnh cho nó đi làm tất cả mọi việc. Ở trên là nói đại khái về tính năng phẩm dược của Trung Quốc. Bồ Tát bố thí thuốc thang cho chúng sinh, hy vọng chúng sinh đều đắc được rốt ráo, triệt để, chân chánh viên mãn đời sống an ổn khoái lạc, chẳng có tâm tư tán loạn sợ hãi. Rốt ráo thanh tịnh, tại người có bệnh mà nói, thì không thể nào nói là thanh tịnh được. Nếu thân tâm trong ngoài thoải mái, thì chẳng có tạp niệm vọng tưởng, đó mới là rốt ráo thanh tịnh. Cũng vì hy vọng chúng sinh giống như Phật, không bệnh, không đau, không phiền não. Lại vì hy vọng chúng sinh nhổ trừ được mũi tên độc bệnh tật, để tránh khỏi mất mạng. Lại vì hy vọng tất cả chúng sinh, được thân kiên cố bất hoại vô cùng tận, vĩnh viễn chẳng có bệnh khổ. Lại đắc được thân như kim cang núi Thiết Vi không thể nào huỷ hoại được. Lại đắc được sức lực kiên cố viên mãn đầy đủ thần thông. Lại đắc được viên mãn sự an vui giống như chư Phật, không ai có thể đoạt lấy được. Lại đắc được thân kiên cố tự tại giống như chư Phật. Có đủ thứ nhân duyên như ở trên vừa nói, cho nên Bồ Tát đem đủ thứ căn lành của Ngài tu tập, vì tất cả chúng sinh mà hồi hướng.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát tất năng huệ thí nhất thiết khí vật. Sở vị: hoàng kim khí thịnh mãn tạp bảo, bạch ngân khí thịnh chúng diệu bảo, lưu ly khí thịnh chủng chủng bảo, pha lê khí thịnh mãn vô lượng bảo trang nghiêm cụ, xa cừ khí thịnh xích trân châu, mã não khí thịnh mãn san hô ma ni châu bảo, bạch ngọc khí thịnh chúng mỹ thực, chiên đàn khí thịnh Thiên y phục, Kim cương khí thịnh chúng diệu hương. vô lượng vô số chủng chủng bảo khí, thịnh vô lượng vô số chủng chủng chúng bảo
Phật tử ! Đại Bồ Tát đều có thể huệ thí tất cả đồ vật. Đó là: Đồ đựng bằng vàng ròng đầy các thứ tạp báu. Đồ đựng bằng bạc trắng đầy các báu đẹp. Đồ đựng bằng lưu ly đầy đủ các thứ báu. Đồ đựng bằng pha lê đầy vô lượng đồ báu trang nghiêm. Đồ đựng bằng xa cừ đầy xích chân châu. Đồ đựng bằng mã não đầy xan hô, ma ni châu báu. Đồ đựng bằng ngọc trắng đựng các thức ăn ngon. Đồ đựng bằng chiên đàn đựng các thứ y trời. Đồ đựng bằng kim cang đựng các hương thơm. Vô lượng vô số đủ thứ các đồ bằng châu báu, đựng vô lượng vô số đủ thứ các châu báu.
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát tu pháp môn hồi hướng, sau khi Ngài bố thí thuốc thang rồi, Ngài lại tiếp tục bố thí các thứ đồ đựng trân quý, chẳng phải Ngài bố thí cho một số ít người, hoặc là quyến thuộc chí thân ưa thích, Ngài thảy đều huệ thí bình đẳng, tất cả đồ vật chẳng có tâm thương ghét. Bồ Tát thấu đạt công đức của sự bố thí, chân chánh làm đến được ba thứ đều không (không thấy mình bố thí, không thấy kẻ nhận, và không thấy vật bố thí), hoàn toàn nhìn thấu, buông bỏ đặng mà đắc được tự tại, vận dụng tự như, không cần tác ý, không có suy nghĩ. Hiện tại Ngài lại bố thí đồ vật danh quý cho tất cả chúng sinh, như đã nói: Ðồ đựng bằng vàng ròng, trong đó chứa đựng đầy các thứ châu báu, đá quý đủ màu. Lại bố thí đồ đựng bằng bạc trắng, trong đó đựng đầy các thứ báu vật tốt đẹp không thể nghĩ bàn. Lại bố thí đồ đựng bằng pha lê trong suốt, trong đó cũng đựng đầy các thứ đá quý. Lại bố thí đồ đựng bằng lưu ly, trong đó cũng đựng đầy các thứ đồ cúng châu báu trang nghiêm, nhiều không thể tính đếm được.
Như hôm nay khoa học tiến bộ, lưu ly chẳng cho rằng là danh quý, thời xưa khoa học không phát đạt, chẳng dễ gì tìm được một miếng lưu ly, cho nên lưu ly cũng cho rằng đồ quý báu. Lại bố thí đồ đựng bằng xa cừ, trong đó cũng đựng đầy trân châu màu đỏ. Lại bố thí đồ đựng bằng mã não, trong đó đựng đầy cây san hô và châu báu ma ni dạ quang. Mã não là một thứ ngọc màu sắc rất đẹp, bên trong có hoa văn màu đỏ, giống như máu tuỳ não của ngựa. Còn bố thí chén, bát, mâm, ly, bằng ngọc trắng, đựng đầy thức ăn ngon. Lại bố thí đồ đựng bằng chiên đàn, trong đó đựng đầy các thứ y phục của người trời. Vì thứ gỗ đó rất thơm, bên trong đựng y phục để ướp hương thơm. Lại bố thí đồ đựng bằng đá kim cương, trong đó đựng đầy các thứ hương quý. Bồ Tát bố thí đồ vật châu báu trân quý nhiều không cách chi tính đếm được.
Hoặc thí chư Phật, tín Phật phước điền bất tư nghị cố. Hoặc thí Bồ Tát, tri thiện tri thức nan trực ngộ cố. Hoặc thí Thánh Tăng, vi lệnh Phật Pháp cửu trụ thế cố. Hoặc thí Thanh văn cập Bích Chi Phật, ư chư Thánh nhân sanh tịnh tín cố. Hoặc thí phụ mẫu, vi tôn trọng cố. Hoặc thí sư trưởng, vi hằng dụ hối, lệnh y Thánh giáo tu công đức cố. Hoặc thí hạ liệt, bần cùng, cô lộ, đại từ, đại bi ái nhãn đẳng thị chư chúng sanh cố. Chuyên ý mãn túc khứ, lai, kim thế nhất thiết Bồ Tát đàn ba-la-mật cố. dĩ nhất thiết vật phổ thí nhất thiết, chung bất yếm xả chư chúng sanh cố.
Hoặc bố thí cho chư Phật, vì tin ruộng phước của Phật không thể nghĩ bàn. Hoặc bố thí cho Bồ Tát, vì biết thiện tri thức khó gặp được. Hoặc bố thí cho Thánh Tăng, vì khiến cho Phật pháp trụ lâu ở đời. Hoặc bố thí cho Thanh Văn và Bích Chi Phật, vì nơi các bậc Thánh nhân, sinh niềm tin thanh tịnh. Hoặc bố thí cho cha mẹ, vì tôn trọng. Hoặc bố thí cho sư trưởng, vì luôn dạy bảo, khiến cho y theo Thánh giáo mà tu công đức. Hoặc bố thí cho kẻ hạ liệt nghèo khổ cô nhi, vì đại từ đại bi thương xót bình đẳng nhìn các chúng sinh. Vì chuyên tâm đầy đủ bố thí Ba La Mật của tất cả Bồ Tát đời quá khứ vị lai hiện tại. Đem tất cả đồ vật, bố thí khắp tất cả, vì trọn không nhàm xả bỏ các chúng sinh.
Giảng: Bồ Tát bố thí vô lượng vô số đồ vật, cùng với đựng đầy các thứ báu lạ trân quý cho chúng sinh, Ngài cũng đem những đồ đạc châu báu đó cúng dường mười phương chư Phật, vì tin tưởng chư Phật là ruộng phước tốt nhất của chúng sinh, mà công đức đó cũng không thể nghĩ bàn. Hoặc bố thí cho mười phương Bồ Tát, vì Ngài biết bậc thiện tri thức chân chánh, trăm ngàn vạn kiếp khó gặp được một vị. Hoặc bố thí cho mười phương các hiền Thánh Tăng, tại sao phải bố thí cho hiền Thánh Tăng ? Vì pháp là nhờ Tăng truyền. Nếu bạn muốn học Phật, muốn thành Phật đạo, thì nhất định trước hết phải nghe pháp, tu học Phật pháp. Nghe pháp, học pháp, thì phải gần gũi chư Tăng, chư Tăng là những người thay thế Phật hoằng dương Phật pháp, cho nên Phật Pháp Tăng Tam Bảo, thì Tăng là một trong Tam Bảo. Dụng ý của Bồ Tát bố thí cho hiền Thánh Tăng, là vì trợ giúp Tăng Bảo hoằng pháp lợi sinh, khiến cho Phật pháp trụ lâu dài tại thế gian.
Hoặc bố thí cho các vị Thanh Văn, Bích Chi Phật hàng nhị thừa, Bồ Tát thì tu đại thừa Phật đạo, nhưng Ngài đối với các vị Thánh tơ hào chẳng có tâm cống cao ngã mạn, vẫn giữ tâm thanh tịnh khiêm hoà, cung kính các bậc đó. Thanh Văn là bậc nghe âm thanh của Phật mà ngộ đạo, tu tập khổ tập diệt đạo bốn diệu đế, chứng được quả A la hán. Bích Chi Phật còn gọi là Bích Chi Ca La, có hai nhân duyên khiến cho khai ngộ chứng quả. Một là, lúc Phật còn ở đời, nghe Phật chỉ dạy tu pháp mười hai nhân duyên mà chứng quả, gọi là Duyên Giác. Hai là, lúc không có Phật ở đời, tự mình ở trong thâm sơn cùng cốc tu đạo, quán sát sự biến hoá của bốn mùa, hoa nở lá rụng mà ngộ đạo, gọi là Ðộc Giác. Tuy là hàng nhị thừa, nhưng đều đã nhập vào dòng Thánh nhân. Hoặc bố thí cho cha mẹ của mình, vì đó là biểu thị tôn trọng cha mẹ, báo đáp phần nào công ơn dưỡng dục. Hoặc bố thí cho bậc sư trưởng, sư là vị thầy dạy dỗ chúng ta, trưởng là trưởng bối. Cha mẹ là bậc sinh ra nuôi dưỡng chúng ta, sư trưởng là bậc dạy dỗ chúng ta, khiến cho chúng ta biết:
“Lựa thiện mà theo,
Không thiện thì đổi.
Phải đạo thì tiến,
Trái đạo thì lùi”.
Biết y theo Thánh giáo mà tu hành, tu tập đủ thứ căn lành công đức. Ở trên là Bồ Tát bố thí báo bốn ân nặng chỉ cho Phật, Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác, cha mẹ, sư trưởng, Ngài cũng không quên cứu tế hết thảy những kẻ đáng thương xót, như những kẻ bần cùng hạ liệt cô nhi quả phụ, Bồ Tát dùng tâm đại từ đại bi, dùng con mắt bình đẳng nhìn, đối đãi với họ, đồng thời bố thí cho họ vô lượng đồ vật. Bồ Tát chuyên tâm nhất chí hành bố thí công đức, vì muốn viên mãn đầy đủ hạnh bố thí Ba La Mật, mà các Bồ Tát trong ba đời quá khứ, vị lai, hiện tại phải tu, để đạt đến bờ Niết Bàn bên kia. Bồ Tát đem vô lượng vô số đủ thứ báu vật trân quý kỳ lạ hiếm có trên đời, bố thí khắp cho tất cả chúng sinh, chưa từng tự mãn, chưa từng gián đoạn, không bao giờ sinh tư tưởng nhàm chán xả bỏ chúng sinh. Vì Bồ Tát xem chúng sinh như chính mình, xem an nguy bi khổ của chúng sinh cũng giống như chính thân mình thọ.
Như thị thí thời, ư kỳ thí vật cập dĩ thọ giả, giai vô sở trước.
Khi bồ thí các đồ vật như vậy, cùng với người thọ nhận, đều không chấp trước.
Giảng: Khi Bồ Tát hành bố thí như Kinh văn đã nói ở trước, Ngài đối với đủ thứ đồ vật và châu báu bố thí, giá trị của nó là quý hay tiện, cùng với bất cứ những người thọ nhận đồ vật và châu báu, Ngài chẳng để tâm đến, cũng chẳng tính toán, càng chẳng chấp trước vào, hoặc hy vọng đắc được sự báo đáp như thế nào. Ðó mới là chân chánh bố thí, gọi là ba thứ đều không (tam luân thể không), cũng gọi là đắc được công đức vô lậu.
Bồ-Tát Ma-ha-tát dĩ như thị đẳng chủng chủng bảo khí thịnh vô lượng bảo nhi bố thí thời, dĩ chư thiện căn như thị hồi hướng, sở vị: nguyện nhất thiết chúng sanh thành đẳng hư không vô biên tạng khí, niệm lực quảng đại, tất năng thọ trì thế, xuất thế gian nhất thiết Kinh thư, vô hữu vong thất. Nguyện nhất thiết chúng sanh thành thanh tịnh khí, năng ngộ chư Phật thậm thâm chánh pháp. Nguyện nhất thiết chúng sanh thành vô thượng bảo khí, tất năng thọ trì tam thế Phật Pháp. Nguyện nhất thiết chúng sanh thành tựu Như Lai quảng đại Pháp khí, dĩ ất hoại tín nhiếp thọ tam thế Phật Bồ-đề Pháp. Nguyện nhất thiết chúng sanh thành tựu tối thắng bảo trang nghiêm khí, trụ đại uy đức Bồ-đề chi tâm.
Khi đại Bồ Tát đem đủ thứ đồ đạc châu báu như vậy, đựng vô lượng châu báu bố thí, thì Ngài đem căn lành hồi hướng như vầy: Nguyện cho tất cả chúng sinh, thành tựu tạng khí vô biên đồng hư không, niệm lực rộng lớn, đều có thể thọ trì tất cả kinh thư thế gian xuất thế gian, chẳng có quên mất. Nguyện cho tất cả chúng sinh thành tựu thanh tịnh khí, ngộ được chánh pháp thâm sâu của chư Phật. Nguyện cho tất cả chúng sinh thành tựu bảo khí vô thượng, đều thọ trì được Phật pháp ba đời. Nguyện cho tất cả chúng sinh thành tựu pháp khí rộng lớn của Như Lai, dùng niềm tin bất hoại, nhiếp thọ pháp bồ đề của chư Phật ba đời. Nguyện cho tất cả chúng sinh thành tựu bảo trang nghiêm khí tối thắng, trụ tâm bồ đề đại oai đức.
Giảng: Ðại Bồ Tát tu pháp môn hồi hướng, như Kinh văn ở trước nói, khi dùng vô lượng đủ thứ đồ đạc châu báu, đựng đầy vô lượng báu vật hành bố thí, thì đem đủ thứ căn lành công đức của Ngài tu tập, hồi hướng như Kinh văn nói dưới đây: Ngài nguyện cho tất cả chúng sinh, đắc được sự lợi ích hồi hướng, thành tựu tạng khí báu chẳng có bờ mé giống như hư không, tâm lượng rộng lớn, sức nhớ tăng trưởng, có thể thọ trì đủ thứ kinh thư của thế gian và xuất thế gian, mà không có quên mất.
Lại nguyện cho tất cả chúng sinh trở thành pháp khí thanh tịnh, có thể ngộ được chánh pháp vi diệu thâm sâu của chư Phật. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh trở thành pháp bảo khí vô thượng, tâm lãnh thọ được, nghiêm trì tu học pháp của chư Phật ba đời nói. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh thành tựu pháp khí rộng lớn của Như Lai, dùng căn tin vĩnh viễn không thể phá hoại được, nhiếp thọ diệu pháp bồ đề của chư Phật ba đời nói. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh trở thành diệu bảo trang nghiêm khí tối thù thắng, trụ tâm bồ đề giác đạo đại oai đức.
Nguyện nhất thiết chúng sanh thành tựu công đức sở y xứ khí, ư chư Như Lai vô lượng trí tuệ sanh tịnh tín giải. Nguyện nhất thiết chúng sanh thành tựu thú nhập nhất thiết trí khí, cứu cánh Như Lai vô ngại giải thoát. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc tận vị lai kiếp Bồ Tát hạnh khí, năng lệnh chúng sanh phổ giai an trụ nhất thiết trí lực. Nguyện nhất thiết chúng sanh thành tựu tam thế chư Phật chủng tánh thắng công đức khí, nhất thiết chư Phật Diệu-Âm sở thuyết tất năng thọ trì. Nguyện nhất thiết chúng sanh thành tựu dung nạp tận Pháp giới, hư không giới, nhất thiết thế giới nhất thiết Như Lai chúng hội đạo tràng khí, vi đại trượng phu tán thuyết chi thủ, khuyến thỉnh chư Phật chuyển chánh Pháp luân. Thị vi Bồ-Tát Ma-ha-tát bố thí khí thời thiện căn hồi hướng, vi dục phổ lệnh nhất thiết chúng sanh giai đắc viên mãn Phổ Hiền Bồ Tát hạnh nguyện khí cố.
Nguyện cho tất cả chúng sinh thành tựu khí cụ chỗ nương tựa của công đức, sinh tin hiểu thanh tịnh, nơi vô lượng trí huệ của các Như Lai. Nguyện cho tất cả chúng sinh thành tựu khí cụ hướng về nhất thiết trí, rốt ráo vô ngại giải thoát của Như Lai. Nguyện cho tất cả chúng sinh được khí cụ hạnh Bồ Tát suốt thuở kiếp vị lai, hay khiến cho chúng sinh thảy đều an trụ nơi nhất thiết trí lực. Nguyện cho tất cả chúng sinh thành tựu khí cụ giống tánh công đức thù thắng của chư Phật ba đời, diệu âm của tất cả chư Phật nói, đều thọ trì được. Nguyện cho tất cả chúng sinh thành tựu khí cụ dung nạp tận pháp giới, hư không giới, tất cả thế giới, tất cả chúng hội đạo tràng của Như Lai. Làm đại trượng phu thượng thủ khen ngợi diễn nói, khuyến thỉnh chư Phật chuyển bánh xe chánh pháp. Đó là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát, khi bố thí khí cụ. Vì muốn khiến cho khắp tất cả chúng sinh, đều được viên mãn khí cụ hạnh nguyện Bồ Tát Phổ Hiền.
Giảng: Bồ Tát lại nguyện cho tất cả chúng sinh thành tựu khí cụ chỗ nương tựa của công đức, sinh ra sự tin hiểu thanh tịnh nhất, đối với vô lượng trí huệ của chư Phật Như Lai. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh thành tựu pháp khí hướng về nhất thiết trí huệ, chân thật đắc được giải thoát tự tại vô ngại của Như Lai. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh đắc được khí cụ suốt thuở kiếp vị lai, tu Bồ Tát hạnh đủ thứ hạnh môn, có thể khiến cho khắp tất cả chúng sinh, đều an trụ nhất thiết trí huệ thần thông lực. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh thành tự khí cụ công đức thù thắng giống tánh của chư Phật ba đời, hết thảy chánh pháp của mười phương chư Phật nói ra, đều lãnh thọ được mà y giáo tu trì. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh thành tựu khí cụ dung nạp được tận cùng pháp giới, tận hư không giới, tất cả thế giới và đạo tràng chúng hội của mười phương Như Lai, làm thủ toà trong đạo tràng, có phẩm đức của bậc đại trượng phu, oai nghi khí chất, tán thán chư Phật, luôn luôn làm đệ tử đại biểu đương thời và đời sau, khuyến thỉnh chư Phật chuyển bánh xe chánh pháp. Những gì vừa nói ở trên là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát, khi Ngài bố thí khí cụ. Mục đích là vì khắp khiến cho tất cả chúng sinh, đều được viên mãn khí cụ mười điều nguyện vương của Bồ Tát Phổ Hiền.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát dĩ chủng chủng xa, chúng bảo nghiêm sức, phụng thí chư Phật cập chư Bồ-tát, sư trưởng, thiện hữu, Thanh văn, duyên giác, như thị vô lượng chủng chủng phước điền, nãi chí bần cùng, cô lộ chi giả.
Phật tử ! Đại Bồ Tát đem đủ thứ xe, nghiêm sức các thứ báu, cúng dường bố thí cho chư Phật, và các Bồ Tát, sư trưởng bạn lành, Thanh Văn Duyên Giác. Vô lượng đủ thứ phước điền như vậy, cho đến những người bần cùng côi cút.
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát, lại đem đủ thứ xe cộ, đều dùng các thứ đá quý, vàng bạc .v.v… nghiêm sức đẹp đẽ tuyệt vời. Bồ Tát đem các thứ xe nghiêm sức đó, cúng dường đến các Ðức Phật, và mười phương Bồ Tát, thầy tổ và trưởng bối, bạn lành đồng đạo tu hành, cũng bố thí cho các bậc nhị thừa Thanh Văn Duyên Giác. Bồ Tát làm như vậy là vì Ngài minh bạch công đức của sự bố thí, gieo trồng nhiều ruộng phước như vậy. Ngài cũng bố thí cho những kẻ bần cùng nghèo khổ, những kẻ côi cút không chỗ nương tựa.
Kinh văn ở trước đã có nói qua bố thí xe, nhưng khác với sự bố thí xe ở đây, Kinh văn ở trước là chỉ cho xe voi xe ngựa làm đại biểu, ở đây là chuyên chỉ về các thứ xe cộ.
Thử chư nhân chúng, hoặc tùng viễn lai, hoặc tùng cận lai, hoặc thừa Bồ Tát danh văn cố lai, hoặc thị Bồ Tát nhân duyên cố lai, hoặc văn Bồ Tát vãng tích sở phát thí nguyện cố lai, hoặc thị Bồ Tát tâm nguyện thỉnh lai.
Những người đó: Hoặc từ xa đến. Hoặc từ gần lại. Hoặc nghe danh của Bồ Tát mà đến. Hoặc là có nhân duyên với Bồ Tát mà đến. Hoặc nghe Bồ Tát thuở xưa phát nguyện bố thí mà đến. Hoặc là từ tâm nguyện của Bồ Tát thỉnh đến.
Giảng: Những người đó tiếp thọ Bồ Tát bố thí, đều có nhân duyên khác nhau. Có người từ nơi rất xa đến. Có người từ nơi gần đến. Có người nghe danh của Bồ Tát mà đến. Có người có nhân duyên đặc thù với Bồ Tát mà đến. Có người đã nghe thuở xưa Bồ Tát phát tâm nguyện đại bố thí mà đến. Có người từ tâm nguyện của Bồ Tát thỉnh đến.
Bồ Tát Thị thời, hoặc thí bảo xa, hoặc thí kim xa, tất diệu trang nghiêm, linh võng phước thượng, bảo đái thùy hạ. Hoặc thí thượng diệu lưu ly chi xa, vô lượng trân kì dĩ vi nghiêm sức. Hoặc phục thí dữ bạch ngân chi xa, phước dĩ kim võng, giá dĩ tuấn mã. Hoặc phục thí dữ vô lượng tạp bảo sở trang nghiêm xa, phước dĩ ảo võng, giá dĩ hương tượng. Hoặc phục thí dữ chiên đàn chi xa, diệu bảo vi luân, tạp bảo vi cái, bảo sư tử tọa phu trí nghiêm hảo, bách thiên thải nữ liệt tọa kỳ thượng, thập vạn trượng phu khiên ngự nhi hàng. Hoặc phục thí dữ pha lê bảo xa, chúng tạp diệu bảo dĩ vi nghiêm sức, đoan chánh nữ nhân sung mãn kỳ trung, bảo trướng phước thượng, tràng phan thị trắc.
Bấy giờ, Bồ Tát hoặc bố thí xe báu. Hoặc bố thí xe bằng vàng, đều trang nghiêm tốt đẹp, lưới linh che phủ ở trên, có châu báu rũ xuống.
Hoặc bố thí xe bằng lưu ly thượng diệu, có vô lượng đồ trân quý kỳ lạ nghiêm sức.
Hoặc lại bố thí xe bằng vàng trắng, có lưới bằng vàng che phủ ở trên, dùng tuấn mã kéo xe.
Hoặc lại bố thí xe trang nghiêm vô lượng các thứ báu, có lưới báu che phủ, dùng voi kéo xe.
Hoặc bố thí xe bằng chiên đàn, dùng báu đẹp làm bánh xe, tạp báu làm lọng, có toà sư tử báu, chưng bày nghiêm đẹp. Có trăm ngàn thể nữ ngồi la liệt ở trên, dùng mười vạn người thanh niên kéo đi.
Hoặc lại bố thí xe bằng pha lê, nghiêm sức các tạp báu đẹp, đầy dẫy người nữ xinh đẹp ngồi ở trong đó. Có trướng báu giăng che phía trên, tràng phan treo hai bên.
Giảng: Khi những người đó đến, thì Bồ Tát bố thí xe cho họ, hoặc bố thí xe báu, hoặc bố thí xe làm bằng vàng, trên mỗi chiếc xe đều nghiêm sức rất trang nghiêm, có lưới linh bằng vàng giăng che ở phía trên xe, bốn bên đều có châu báu thòng rũ xuống. Hoặc bố thí xe làm bằng lưu ly, phía trên dùng các thứ trân quý kỳ lạ nghiêm sức. Hoặc lại bố thí xe làm bằng bạc trắng, phía trên dùng lưới làm bằng vàng giăng che, dùng tuấn mã cao lớn kéo xe. Hoặc lại bố thí xe làm bằng vô số các tạp báu trang nghiêm, phía trên có lưới báu giăng che, dùng voi trắng lớn kéo xe. Hoặc lại bố thí xe làm bằng gỗ chiên đàn, bánh xe làm bằng châu báu, phía trên lọng xe cũng có rất nhiều châu báu đủ màu, trong xe có toà ngồi, cũng dùng châu báu nghiêm sức, còn có trăm ngàn thể nữ ngồi ở trong xe, để làm mọi việc. Dùng mười vạn thanh niên khoẻ mạnh kéo xe mà đi. Hoặc lại bố thí xe làm bằng pha lê, dùng châu báu tạp sắc để nghiêm sức, cũng có rất nhiều người nữ xinh đẹp ngồi đầy ở trong xe. Bốn bên xe đều dùng trướng báu giăng che, tràng báu phan báu treo ở hai bên.
Hoặc phục thí dữ mã não tạng xa, sức dĩ chúng bảo, huân chư tạp hương, chủng chủng hương khí tán bố trang nghiêm, bách thiên thải nữ trì bảo anh lạc, giá ngự quân điều, thiệp hiểm năng an. Hoặc phục thí dữ kiên cố hương xa, chúng bảo vi luân, trang nghiêm cự lệ, bảo trướng phước thượng, bảo võng thùy hạ, chủng chủng bảo y phu bố kỳ trung, thanh tịnh hảo hương lưu phân ngoại triệt, kỳ hương mỹ diệu xưng duyệt nhân tâm, vô lượng chư Thiên dực tòng nhi hàng, tái dĩ chúng bảo tùy thời cấp thí. Hoặc phục thí dữ quang minh bảo xa, chủng chủng chư bảo diệu sắc ánh triệt, chúng diệu bảo võng La phước kỳ thượng, tạp bảo anh lạc châu táp thùy hạ, tán dĩ mạt hương nội ngoại phân khiết, sở ái nam nữ tất tái kỳ thượng.
Hoặc lại bố thí xe tạng báu mã não, dùng các thứ báu nghiêm sức, xông các thứ tạp hương, đủ thứ hoa đẹp bày bố trang nghiêm. Có trăm ngàn thể nữ tay cầm chuỗi báu, điều khiển xe đi êm đềm, được an ổn.
Hoặc lại bố thí xe hương kiên cố, các thứ báu làm bánh xe, có trướng báu che phủ ở phía trên, lưới báu rũ xuống, đủ thứ y báu giăng bày ở bên trong, thanh tịnh tốt đẹp thơm phức, toả ra bên ngoài. Hương thơm phức đó làm vui đẹp lòng người. Vô lượng chư Thiên hộ theo mà đi, chở theo các châu báu, tuỳ thời mà bố thí.
Hoặc lại bố thí xe báu quang minh, đủ thứ các báu, màu sắc sáng chói, các lưới báu đẹp giăng che phía trên, các chuỗi tạp báu tròng rũ khắp bốn phía. Dùng hương bột rải, trong ngoài đều thơm phức.
Giảng: Bồ Tát hoặc lại bố thí xe tạng báu làm bằng mã não, phía trên nghiêm sức các thứ báu, xông các thứ hương. Lại dùng đủ thứ hoa tươi danh quý rải ở trên xe, để trang nghiêm xe báu. Ngàn thể nữ tay cầm chuỗi trân châu, điều khiển chiếc xe, khiến cho xe đi không nhanh, không chậm, êm đềm bình yên, nếu gặp chỗ nguy hiểm thì cũng không hề gì. Hoặc lại bố thí xe làm bằng gỗ hương thơm kiên cố, dùng rất nhiều thứ báu làm bánh xe, trang nghiêm rất đẹp. Phía trên có trướng báu giăng che, bốn bên thòng rũ những lưới báu, lại dùng các thứ y báu giăng bày ở trong xe.
Ðốt lên hương thơm thanh tịnh, mùi thơm toả khắp, theo không khí mà toả ra ngoài. Hương thơm phức đó, chẳng giống như những thứ hương thơm thông thường, khiến cho người ngửi được tâm ý vui đẹp, khai mở trí huệ, sinh tâm hoan hỉ. Vô số các vị trời đều hộ theo xe mà đi. Trên xe có chở vô số châu báu vật chất quý giá, chuẩn bị tuỳ thời bố thí cho những người cần dùng. Hoặc lại bố thí xe báu quang minh, trên xe nghiêm sức đủ thứ trân báu, phóng ra đủ thứ ánh sáng chiếu soi đẹp mắt, có lưới làm bằng các thứ báu, giăng che phía trên xe, dùng các thứ báu đủ màu làm chuỗi, treo thòng rũ bốn bên, lại toả ra hương thơm thanh khiết ở trong và ngoài xe.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát dĩ như thị đẳng chúng diệu bảo xa phụng thí Phật thời, dĩ thử thiện căn như thị hồi hướng, sở vị: nguyện nhất thiết chúng sanh tất giải cúng dường tối thượng phước điền, thâm tín thí Phật, đắc vô lượng báo. Nguyện nhất thiết chúng sanh nhất tâm hướng Phật, thường ngộ vô lượng thanh tịnh phước điền. Nguyện nhất thiết chúng sanh ư chư Như Lai vô sở lận tích, cụ túc thành tựu đại xả chi tâm. Nguyện nhất thiết chúng sanh ư chư Phật sở tu hành thí hạnh, ly nhị thừa nguyện, đãi đắc Như Lai vô ngại giải thoát nhất thiết trí trí. Nguyện nhất thiết chúng sanh ư chư Phật sở hạnh vô tận thí, nhập Phật vô lượng công đức trí tuệ.
Phật tử ! Khi đại Bồ Tát đem các xe báu tốt đẹp như vậy, bố thí cúng dường cho Phật, thì Ngài đem căn lành đó hồi hướng như vầy: Nguyện cho tất cả chúng sinh đều hiểu về cúng dường ruộng phước vô thượng, tin sâu bố thí cho Phật được vô lượng phước báu. Nguyện cho tất cả chúng sinh một lòng hướng về Phật, thường gặp vô lượng ruộng phước thanh tịnh. Nguyện cho tất cả chúng sinh nơi các đức Như Lai, không có tâm sẻn tiếc, thành tựu đầy đủ tâm đại bố thí. Nguyện cho tất cả chúng sinh ở chỗ chư Phật, tu hành hạnh bố thí, lìa khỏi nguyện của hàng nhị thừa, sớm đắc được trí huệ nhất thiết trí giải thoát vô ngại của Như Lai. Nguyện cho tất cả chúng sinh ở chỗ chư Phật, thực hành bố thí vô tận, vào trong vô lượng công đức trí huệ của Phật.
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát tu pháp môn hồi hướng, khi Ngài đem đủ thứ xe tốt đẹp như Kinh văn đã nói ở trên, cúng dường các Ðức Phật, thì Ngài hồi hướng căn lành công đức cho tất cả chúng sinh. Bồ Tát Ngài kiền thành phát nguyện như vầy: Nguyện cho tất cả chúng sinh, đều thấu hiểu ruộng phước cúng dường chư Phật tối thượng, phải tin sâu sự cúng dường chư Phật, sẽ đắc được vô lượng phước báo. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, chuyên tâm quy y Phật, chẳng sinh hai tâm, chẳng bị ngoại đạo tà giáo dẫn dụ, được như vậy thì thường gặp các bậc thiện tri thức thanh tịnh, gieo trồng vô lượng ruộng phước thanh tịnh.
Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đối với sự cúng dường ở trước Phật, đừng sinh tâm tham sẻn, phàm là muốn cúng dường đồ vật đến Phật, đều phải tốt đẹp tận thiện tận mỹ, như thế mới viên mãn thành tựu đầy đủ tư tưởng đại xả. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, tại đạo tràng của chư Phật, tu hành pháp môn bố thí, lìa khỏi lời nguyện của hàng nhị thừa Thanh Văn Duyên Giác, đắc được trí huệ nhất thiết trí giải thoát vô ngại của Phật. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, ở tại đạo tràng của chư Phật, tận hết khả năng bố thí chẳng cùng tận, vào sâu được trong công đức trí huệ của Phật chẳng có hạn lượng.
Nguyện nhất thiết chúng sanh nhập Phật thắng trí, đắc thành thanh tịnh vô thượng trí Vương. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc Phật biến chí vô ngại thần thông, tùy sở dục vãng, mị bất tự tại. Nguyện nhất thiết chúng sanh thâm nhập Đại-Thừa, hoạch vô lượng trí, an trụ bất động. Nguyện nhất thiết chúng sanh giai năng xuất sanh nhất thiết trí Pháp, vi chư Thiên Nhân tối thượng phước điền. Nguyện nhất thiết chúng sanh ư chư Phật sở vô hiềm hận tâm, cần chủng thiện căn, lạc cầu Phật trí.
Nguyện cho tất cả chúng sinh, vào trí huệ thù thắng của Phật, được thành tựu vua trí huệ vô thượng thanh tịnh. Nguyện cho tất cả chúng sinh, được thần thông đến khắp vô ngại của Phật, tuỳ chỗ muốn đến, đều được tự tại. Nguyện cho tất cả chúng sinh, vào sâu đại thừa, đắc được vô lượng trí huệ, an trụ chẳng động. Nguyện cho tất cả chúng sinh, đều có thể sinh ra pháp nhất thiết trí. Làm ruộng phước tối thượng của các trời người. Nguyện cho tất cả chúng sinh, ở chỗ chư Phật, không có tâm hiềm hận, siêng trồng căn lành, thích cầu trí huệ của Phật.
Giảng: Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, vào sâu được trong trí huệ thù thắng của Phật, thành tựu được vua trí huệ vô thượng thanh tịnh. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đắc được thần thông đến khắp tất cả mọi nơi chẳng bị chướng ngại, tuỳ chỗ tâm muốn đến, đều được như ý. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đều vào sâu được Phật pháp đại thừa, đắc được trí huệ vô lượng, siêng tu tập pháp đại thừa, hành Bồ Tát đạo, chẳng xả bỏ chúng sinh, an trụ trong cảnh giới đại thừa, người và pháp cả hai đều không. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, chẳng có tâm ngu si, có thể sinh ra pháp nhất thiết trí huệ, làm ruộng phước thanh tịnh vô thượng của các trời người. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, ở tại đạo tràng của Phật, siêng tu nghiệp thiện, tích tụ căn lành. Một lòng tu đạo, thích cầu trí huệ của Phật, xả bỏ tất cả tâm hiềm kỵ và sân hận.
Nguyện nhất thiết chúng sanh nhâm vận năng vãng nhất thiết Phật sát, nhất sát-na trung phổ châu Pháp giới nhi vô giải quyện. Nguyện nhất thiết chúng sanh đãi đắc Bồ Tát tự tại thần thông, phần thân biến mãn đẳng hư không giới nhất thiết Phật sở thân cận cúng dường. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc vô bỉ thân, biến vãng thập phương nhi vô yếm quyện. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc quảng đại thân, phi hành tấn tật, tùy ý sở vãng, chung vô giải thoái. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc Phật cứu cánh tự tại uy lực, nhất sát-na trung tận hư không giới, tất hiện chư Phật thần thông biến hóa. Nguyện nhất thiết chúng sanh tu an lạc hạnh, tùy thuận nhất thiết chư Bồ-tát đạo.
Nguyện cho tất cả chúng sinh, nhậm vận đến được tất cả cõi Phật. Trong một sát na đi khắp pháp giới, mà không mỏi mệt. Nguyện cho tất cả chúng sinh, sớm được tự tại thần thông của Bồ Tát, phân thân đầy khắp đồng cõi hư không. Chỗ tất cả chư Phật, đều gần gũi cúng dường. Nguyện cho tất cả chúng sinh, được thân vô tỉ, đến khắp mười phương mà không nhàm mỏi. Nguyện cho tất cả chúng sinh, được thân rộng lớn, bay đi mau chóng, tuỳ ý chỗ đến, trọn không giải đãi thối lùi. Nguyện cho tất cả chúng sinh, được tự tại oai lực rốt ráo của Phật. Trong một sát na, đều hiện thần thông biến hoá của chư Phật, tận cõi hư không. Nguyện cho tất cả chúng sinh, tu hạnh an lạc, tuỳ thuận tất cả Bồ Tát đạo.
Giảng: Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, được nhậm vận tự tại chẳng thêm tạo tác, mà đến được cõi nước của chư Phật trong mười phương, trong một sát na có thể đến khắp tất cả pháp giới mà thân tâm không có mệt mỏi. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đắc được thần thông tự tại của Bồ Tát, phân thân của Ngài đầy khắp cõi hư không, đến tất cả đạo tràng của chư Phật, để gần gũi chư Phật, cúng dường chư Phật. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đắc được thân không gì sánh bằng, thường đến đạo tràng của chư Phật trong mười phương thế giới, thân thể trọn không nhàm mỏi. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đắc được thân rộng lớn, bay đi rất nhanh. Tuỳ theo ý niệm, thân thể có thể đến được, chưa từng giải đãi và thối chuyển. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đắc được thần lực tự tại rốt ráo của Phật, trong một sát na, trong tận hư không, đều hiển hiện ra sức thần thông biến hoá của chư Phật. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đều tu hạnh an lạc trong Kinh Pháp Hoa, thường tuỳ thuận Bồ Tát đạo của các Bồ Tát thực hành.
Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc tốc tật hạnh, cứu cánh thập lực trí tuệ thần thông. Nguyện nhất thiết chúng sanh phổ nhập Pháp giới thập phương quốc độ, tất tận biên tế đẳng vô sái biệt. Nguyện nhất thiết chúng sanh hành Phổ Hiền hạnh vô hữu thoái chuyển, đáo ư bỉ ngạn thành nhất thiết trí. Nguyện nhất thiết chúng sanh thăng ư vô bỉ trí tuệ chi thừa, tùy thuận pháp tánh kiến như thật lý. Thị vi Bồ-Tát Ma-ha-tát dĩ chúng bảo xa phụng thí hiện tại nhất thiết chư Phật cập Phật diệt hậu sở hữu tháp miếu thiện căn hồi hướng, vi lệnh chúng sanh đắc ư Như Lai cứu cánh xuất ly vô ngại thừa cố.
Nguyện cho tất cả chúng sinh, đắc được hạnh nhanh chóng. Mười lực trí huệ thần thông rốt ráo. Nguyện cho tất cả chúng sinh, vào khắp pháp giới. Mười phương cõi nước, đều tận cùng bờ mé, bình đẳng chẳng có khác biệt. Nguyện cho tất cả chúng sinh, thực hành hạnh Phổ Hiền, chẳng có thối chuyển, đến nơi bờ kia, thành tựu nhất thiết trí. Nguyện cho tất cả chúng sinh, thăng lên thừa trí huệ chẳng gì bằng, tuỳ thuận pháp tánh, thấy lý như thật. Đó là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát, khi Ngài đem xe báu bố thí cúng dường cho tất cả chư Phật hiện tại và hết thảy tháp miếu sau khi chư Phật diệt độ. Vì khiến cho chúng sinh đắc được thừa vô ngại thoát khỏi rốt ráo của Như Lai.
Giảng: Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đắc được pháp môn tu hành sớm thành Phật, cũng đắc được mười lực rốt ráo của Phật, và thần thông trí huệ của Phật. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đến khắp mười phương cõi nước trong pháp giới, mà còn vào sâu mỗi cõi nước không có bờ mé. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đều tu hành hạnh môn của Bồ Tát Phổ Hiền, hành mười điều nguyện vương của Bồ Tát Phổ Hiền, chẳng sinh tâm thối chuyển sợ khó, thì sẽ đạt đến bờ Niết Bàn bên kia, thành tựu nhất thiết trí huệ. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đều có thể thăng lên thừa trí huệ không gì bằng, tuỳ thuận tự tánh của các pháp, thấy rõ chân lý như thật. Ðó là hai mươi đại nguyện hồi hướng căn lành cho tất cả chúng sinh, khi Ngài đem đủ thứ xe báu bố thí cúng dường cho chư Phật hiện tại, và hết thảy tháp miếu thờ xá lợi sau khi Phật diệt độ, vì khiến cho tất cả chúng sinh, đắc được Phật thừa viên dung vô ngại, rốt ráo thoát khỏi ba cõi của chư Phật.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát dĩ chúng bảo xa thí Bồ Tát đẳng thiện tri thức thời, dĩ chư thiện căn như thị hồi hướng, sở vị: nguyện nhất thiết chúng sanh tâm thường ức trì thiện tri thức giáo, chuyên cần thủ hộ, lệnh bất vong thất. Nguyện nhất thiết chúng sanh dữ thiện tri thức đồng nhất nghĩa lợi, phổ nhiếp nhất thiết dữ cọng thiện căn. Nguyện nhất thiết chúng sanh cận thiện tri thức, tôn trọng cúng dường, tất xả sở hữu, thuận khả kỳ tâm. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc thiện chí dục, tùy trục thiện hữu, vi tằng xả ly. Nguyện nhất thiết chúng sanh thường đắc trực ngộ chư thiện tri thức, chuyên ý thừa phụng, bất vi kỳ giáo.
Phật tử ! Khi đại Bồ Tát đem các xe báu bố thí cho các Bồ Tát thiện tri thức, thì Ngài đem các căn lành hồi hướng như vầy: Nguyện cho tất cả chúng sinh, tâm thường nghi nhớ thọ trì lời dạy của bậc thiện tri thức. Chuyên cần giữ gìn, khiến cho không quên mất. Nguyện cho tất cả chúng sinh, đồng một nghĩa lợi với thiện tri thức, cùng với căn lành, nhiếp khắp tất cả. Nhiếp khắp tất cả, gần gũi thiện tri thức, tôn trọng cúng dường, đều xả bỏ hết thảy, thuận theo tâm của thiện tri thức. Nhiếp khắp tất cả, được thiện chí mong muốn, tuỳ theo bạn lành, chưa từng xả lìa. Nhiếp khắp tất cả, thường được gặp các bậc thiện tri thức, chuyên tâm phụng sự, chẳng trái lời dạy.
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát tu pháp môn hồi hướng, Kinh văn ở trước đem các xe báu bố thí cúng dường cho chư Phật, hiện tại Ngài lại đem các xe báu bố thí cho Bồ Tát, bố thí cho Thánh Tăng, A la hán và thiện tri thức. Khi Ngài bố thí, thì đem căn lành bố thí tích tụ, đối với chúng sinh hồi hướng như vầy: Nguyện cho tất cả chúng sinh, trong tâm thường không quên lời dạy của thiện tri thức, thường siêng tu pháp của thiện tri thức truyền thọ, chuyên tâm nhất chí, tinh tấn tu tập, giữ gìn sáu căn đừng để quên mất lời dạy của thiện tri thức. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đối với nghĩa lý Phật pháp có cùng một kiến giải, hết thảy lợi ích, cùng nhau hưởng thọ. Khắp nhiếp thọ tất cả cùng đồng căn lành, cùng phân hưởng với chúng sinh. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, thường thường gần gũi, tôn trọng, cung kính, cúng dường thiện tri thức, đem hết thảy vật chất danh quý của mình bố thí cho thiện tri thức, mọi việc đều thuận tâm ý của thiện tri thức. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, được phát chí nguyện lành, sinh ra niềm hy vọng cao thượng, thường thường gần gũi bạn lành, chưa từng xả bỏ thiện tri thức. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, thường thường gặp nhiều bậc thiện tri thức, chuyên tâm nhất chí phụng sự hầu hạ các Ngài, không trái với lời dạy của các Ngài.
Nguyện nhất thiết chúng sanh lạc thiện tri thức, thường bất xả ly, Vô gián vô tạp, diệc vô ngộ thất. Nguyện nhất thiết chúng sanh năng dĩ kỳ thân thí thiện tri thức, tùy kỳ giáo mạng mị hữu vi nghịch. Nguyện nhất thiết chúng sanh vi thiện tri thức chi sở nhiếp thọ, tu tập đại từ, viễn ly chư ác. Nguyện nhất thiết chúng sanh tùy thiện tri thức thính văn chư Phật sở thuyết Chánh Pháp. Nguyện nhất thiết chúng sanh dữ thiện tri thức đồng nhất thiện căn thanh tịnh nghiệp quả, dữ chư Bồ-tát đồng nhất hạnh nguyện cứu cánh thập lực.
Nguyện cho tất cả chúng sinh, ưa thích thiện tri thức, thường chẳng xả lìa, chẳng gián đoạn, chẳng phức tạp, cũng chẳng lầm lỗi. Nguyện cho tất cả chúng sinh, có thể đem thân mình bố thí cho thiện tri thức, tuỳ theo sự dạy bảo của Ngài, chẳng có trái nghịch. Nguyện cho tất cả chúng sinh, được thiện tri thức nhiếp thọ, tu tập đại từ, xa lìa các điều ác. Nguyện cho tất cả chúng sinh, theo thiện tri thức, lắng nghe chánh pháp của chư Phật nói. Nguyện cho tất cả chúng sinh, đồng một căn lành với thiện tri thức, nghiệp quả thanh tịnh, đồng một hạnh nguyện với các Bồ Tát, rốt ráo đắc được mười lực.
Giảng: Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, hoan hỉ thường gần gũi thiện tri thức, mỗi thời mỗi khắc đều không muốn xa lìa, ngày ngày đều như thế, chưa từng gián đoạn, không chạy theo người khác, đi khắp nơi phan duyên, tu học chẳng chuyên nhất, chính mình cũng chẳng biết rốt ráo như thế nào là tốt, cho nên mê lầm chân chánh minh nhãn thiện tri thức. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, có thể xả thân phụng sự thiện tri thức-đại thiện tri thức tức là đại Bồ Tát, nếu gặp được thiện tri thức như thế, tự mình đầy đủ tâm kính trọng thiện tri thức, theo sự dạy bảo tu đạo của thiện tri thức, một chút cũng không trái nghịch với lời dạy của Ngài mà tinh tấn chẳng giải đãi, chẳng làm cho Ngài thất vọng, đó cũng giống như sinh vào nhà Phật, đã vào trí huệ của Phật. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, thường được thiện tri thức nhiếp thọ, theo Ngài tu tập Phật pháp đại thừa, tài bồi tâm đại từ bi, đối với bất cứ ai cũng đều xem họ như mình, chẳng sân, chẳng đố kị, xa lìa tất cả tội ác lỗi lầm. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, thường đi theo thiện tri thức, nghe chánh pháp của chư Phật nói, nếu có chỗ nào không minh bạch, thì thiện tri thức sẽ giảng giải cho bạn. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, có căn lành giống như thiện tri thức, và đồng nghiệp thiện quả báo thanh tịnh, cũng đồng hạnh môn của các Bồ Tát tu hành, đồng phát nguyện lớn, cũng đồng đắc được mười lực rốt ráo.
Nguyện nhất thiết chúng sanh tất năng thọ trì thiện tri thức Pháp, đãi đắc nhất thiết tam muội cảnh giới trí tuệ thần thông. Nguyện nhất thiết chúng sanh tất năng thọ trì nhất thiết chánh pháp, tu tập chư hạnh đáo ư bỉ ngạn. Nguyện nhất thiết chúng sanh thừa ư Đại-Thừa vô sở chướng ngại, cứu cánh thành tựu nhất thiết trí đạo. Nguyện nhất thiết chúng sanh tất đắc thượng ư nhất thiết trí thừa, chí an ẩn xứ vô hữu thoái chuyển. Nguyện nhất thiết chúng sanh tri như thật hạnh, tùy kỳ sở văn nhất thiết Phật Pháp, giai đắc cứu cánh, vĩnh vô vong thất. Nguyện nhất thiết chúng sanh phổ vi chư Phật chi sở nhiếp thọ, đắc vô ngại trí, cứu cánh chư Pháp.
Nguyện cho tất cả chúng sinh, đều thọ trì được pháp của thiện tri thức. Chóng được tất cả cảnh giới tam muội, trí huệ thần thông.
Nguyện cho tất cả chúng sinh, đều thọ trì được tất cả chánh pháp, tu tập các hạnh, đến nơi bờ kia.
Nguyện cho tất cả chúng sinh, tu theo đại thừa chẳng có chướng ngại, rốt ráo thành tựu đạo nhất thiết trí.
Nguyện cho tất cả chúng sinh, đều được ngồi nơi nhất thiết trí, đến chỗ an ổn không thối chuyển.
Nguyện cho tất cả chúng sinh, biết hạnh như thật, tuỳ theo chỗ nghe tất cả Phật pháp, đều được rốt ráo vĩnh viễn không quên mất.
Nguyện cho tất cả chúng sinh, khắp được chư Phật nhiếp thọ, đắc được trí vô ngại rốt ráo biết rõ các pháp.
Giảng: Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đều thọ trì được diệu pháp của thiện tri thức truyền thọ, mau chóng đắc được các thứ cảnh giới định lực, trí huệ thù thắng và thần thông diệu dụng. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, thọ trì được tất cả chánh pháp, tu tập lục độ vạn hạnh, đạt đến bờ Niết Bàn bên kia. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, được ngồi cỗ xe rộng lớn chẳng có bờ mé, không có hạn độ, chở đầy vạn hữu trong tận cùng hư không khắp pháp giới, mà đi không có chướng ngại, đến được nơi mục đích cuối cùng, là thành tựu đạo nhất thiết trí-quả Phật. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đều ngồi nơi nhất thiết trí huệ, đến được chỗ an ổn. Lúc chưa đến chỗ mục đích, thì quyết không thối chuyển ở giữa đường.
Chỗ nào là nơi an ổn ? Tức là biết rõ bản thể của chư Phật, chứng nhập vào nguồn gốc của chư Phật, tỏ ngộ tự tánh của chư Phật, trở về nguồn cội, gọi là nơi an ổn. Chuyển phiền não thành bồ đề, thì gọi là nơi an ổn. Vì có tâm đại bi, mà sinh tâm bồ đề. Nhờ tâm bồ đề mà thành Chánh Giác, cũng là nơi an ổn. Tinh tấn hành đạo, từ bi tu huệ, nên gọi là không thối chuyển. Bồ Tát vĩnh viễn chẳng thối chuyển chánh niệm, tu hạnh đại thừa không thối chuyển, dù gặp ngàn khó vạn khổ, cũng không thối lùi về hàng nhị thừa. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, biết pháp môn tu hành chân thật, tuỳ thời tuỳ nơi nghe được Phật pháp, đều thấu đạt lý thể chân thật của các pháp một cách triệt để. Chứng được lý thể chân thật của các pháp rồi, tuy trải qua ngàn vạn kiếp, cũng chẳng quên mất. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đều được chư Phật nhiếp thọ, đắc được trí huệ chẳng chướng ngại, rốt ráo biết rõ thật tướng của các pháp.
Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc vô thoái thất tự tại thần thông, sở dục vãng nghệ, nhất niệm giai đáo. Nguyện nhất thiết chúng sanh vãng lai tự tại, quảng hành hóa đạo, lệnh trụ Đại-Thừa. Nguyện nhất thiết chúng sanh sở hạnh bất không, tái dĩ trí thừa đáo cứu cánh vị. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc vô ngại thừa, dĩ vô ngại trí chí nhất thiết xứ. thị vi Bồ-Tát Ma-ha-tát thí thiện tri thức chủng chủng xa thời thiện căn hồi hướng, vi lệnh chúng sanh công đức cụ túc dữ Phật Bồ-tát đẳng vô dị cố.
Nguyện cho tất cả chúng sinh, được thần thông tự tại không thối thất. Tuỳ theo chỗ muốn đến đi, một niệm liền đến.
Nguyện cho tất cả chúng sinh, đến đi tự tại, rộng thực hành giáo hoá, khiến cho họ trụ nơi đại thừa.
Nguyện cho tất cả chúng sinh, chỗ thực hành đều không luống qua, dùng xe trí chuyên chở, đến bậc rốt ráo.
Nguyện cho tất cả chúng sinh, được thừa vô ngại, dùng trí vô ngại đến tất cả mọi nơi.
Đó là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát, khi Ngài bố thí đủ thứ xe cho thiện tri thức, vì khiến cho chúng sinh đầy đủ công đức, đồng với Phật Bồ Tát không khác.
Giảng: Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đắc được thần thông tự tại chẳng thối thất, có thể nhậm vận tự tại chẳng thêm tạo tác, có thể khiến cho một làm vô lượng, vô lượng làm một. Thứ thần thông đó một nhiều chẳng ngại nhau, tức là thần thông tự tại. “Thần gọi là thiên tâm, thông gọi là huệ tánh”, thần thông là do tu phước tu huệ, tu đến khi viên mãn đầy đủ, thì thành tựu thần thông tự tại. Có người được “báo đắc thông”, hoặc khai mở ngũ nhãn, thấy tất cả Phật Bồ Tát và nhiều cảnh giới kỳ lạ khác, tuy nhiên đắc được thần thông, nhưng không thể giữ được lâu. Một khi không tu hành mà phóng dật, trong tâm có tư tưởng chẳng thanh tịnh, thì thần thông chẳng còn thông nữa, sẽ thối thất, đó tức là thần thông chẳng tự tại. Bồ Tát hy vọng chúng sinh đắc được thần thông tự tại chẳng thối thất, chúng sinh phải nghiêm trì giới thanh tịnh siêng tu phước huệ, thì mới có thể giữ được thần thông tự tại chẳng thối thất, nghĩ muốn đến chỗ nào, chỉ một niệm khởi lên, thì sẽ đến được nơi mục đích. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đến bất cứ chỗ nào, đều đến đi tự tại, chẳng bị trở ngại, chẳng có vật gì làm phiền phức. Chỗ đến, rộng làm Phật sự giáo hoá chúng sinh, khiến cho họ đều quy y nơi cửa Phật, thường tu pháp đại thừa. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, làm những nghiệp thiện, công chẳng luống qua, ngồi xe trí huệ, chuyên chở đầy đủ các công đức, đến bậc rốt ráo viên mãn quả Phật. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, được thừa chẳng bị bất cứ gì làm chướng ngại, dùng trí huệ viên dung vô ngại, thành tựu mười Ba La Mật, đến được tất cả mọi nơi an ổn. Ðó là hồi hướng đủ thứ căn lành của đại Bồ Tát tu tập, khi Ngài bố thí xe báu cho thiện tri thức, vì muốn khiến cho chúng sinh đều đắc được công đức đầy đủ viên mãn, đồng với công đức trí huệ của Phật Bồ Tát không khác.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát dĩ chúng bảo xa bố thí tăng thời, khởi học nhất thiết thí tâm, trí thiện liễu tâm, tịnh công đức tâm, tùy thuận xả tâm, tăng bảo nan ngộ tâm, thâm tín tăng bảo tâm, nhiếp trì chánh giáo tâm, trụ thắng chí lạc, đắc vị tằng hữu, vi đại thí hội, xuất sanh vô lượng quảng đại công đức, thâm tín Phật giáo bất khả tự hoại.
Phật tử ! Khi đại Bồ Tát đem các xe báu bố thí cho Tăng, thì khởi tâm học tất cả hạnh bố thí. Tâm trí khéo biết rõ. Tâm thanh tịnh công đức. Tâm tuỳ thuận xả bỏ. Tâm Tăng Bảo khó gặp. Tâm tin sâu Tăng Bảo. Tâm nhiếp trì chánh giáo. Thích trụ chí nguyện thù thắng, được chưa từng có. Làm hội đại bố thí, sinh ra vô lượng công đức rộng lớn. Tin sâu Phật giáo, không thể trở ngại phá hoại.
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát tu pháp môn hồi hướng, hiện tại Ngài lại đem đủ thứ xe báu bố thí cho Tăng xuất gia. Tăng có hai loại: Một là hiền Thánh Tăng, một là phàm phu Tăng. Hiền Thánh Tăng là Bồ Tát chứng quả, phàm phu Tăng là phàm phu đang tu hành tinh tấn hướng đến sự chứng đạo. Tăng Bảo là bao quát hai loại Tăng nầy. Công đức bố thí cho Thánh Tăng và phàm phu Tăng đều đồng nhau, đừng có sinh tâm phân biệt. Khi Bồ Tát bố thí cho Tăng, thì trong tâm của Ngài sinh khởi mười thứ tâm:
- Ngài muốn học tập các thứ bố thí-tài, pháp, vô uý, ba thứ.
- Ngài muốn dùng trí huệ hiểu rõ đối tượng bố thí, hoặc đáng bố thí, hoặc không đáng bố thí. Cùng với sự gieo trồng bố thí đối tượng thích nghi của sự bố thí, những điều đó đều phải dùng trí huệ hiểu rõ mà quyết định.
- Là tâm thanh tịnh công đức: Tức là tâm phải “ba thứ đều không” (không thấy người thí, không thấy người nhận, không thất vật thí), thì công đức mới thanh tịnh.
- Tâm xả bỏ phải tuỳ thuận bố thí Ba La Mật.
- Tăng Bảo khó gặp, Phật lại càng khó gặp. Vì có Phật mới có Tăng, cho nên bố thí cho Tăng, đồng như bố thí cho Phật, do đó, sinh ra tâm khó gặp Tăng Bảo.
- Vì y chỉ phước điền Tăng, tu học Phật pháp, cho nên phải đối với Tăng Bảo sinh ra tâm cung kính và tâm tín ngưỡng.
- Pháp do Tăng truyền. Bốn chúng xuất gia đều vào sâu tạng Kinh, nhiếp thọ chánh pháp của chư Phật nói, y giáo tu trì, chúng sinh thì y theo Tăng mà được nghe chánh giáo của chư Phật.
- Tăng Bảo xả lìa tất cả hư vọng ân ái tham trước thế gian, an trụ nơi phạm hạnh thanh tịnh, phát hạnh nguyện lớn, cảnh giới thường lạc ngã tịnh đó, chẳng dễ gì đắc được, cho nên phải sinh tâm hâm mộ.
- Thường lập pháp hội bố thí rộng lớn cho ngàn vị Tăng, sinh ra đại công đức vô lượng vô biên.
- Vì có Tăng Bảo, nên giống Phật mới không đoạn diệt, Phật giáo trụ ở đời cũng vĩnh viễn không suy bại, càng không thể bị thiên ma ngoại đạo phá hoại.
Dĩ chư thiện căn như thị hồi hướng, sở vị: nguyện nhất thiết chúng sanh phổ nhập Phật Pháp, ức trì bất vong. Nguyện nhất thiết chúng sanh ly phàm ngu Pháp, nhập hiền thánh xứ. Nguyện nhất thiết chúng sanh tốc nhập thánh vị, năng dĩ Phật Pháp thứ đệ khai dụ. Nguyện nhất thiết chúng sanh cử thế tông trọng, ngôn tất tín dụng. Nguyện nhất thiết chúng sanh thiện nhập nhất thiết chư pháp bình đẳng, liễu tri Pháp giới tự tánh vô nhị. Nguyện nhất thiết chúng sanh tùng ư Như Lai trí cảnh nhi sanh, chư điều thuận nhân sở cọng vi nhiễu.
Đem các căn lành hồi hướng như vầy: Nguyện cho tất cả chúng sinh, khắp vào trong Phật pháp, nhớ thọ trì không quên.
Nguyện cho tất cả chúng sinh, lìa khỏi pháp phàm phu ngu si, vào nơi hiền Thánh.
Nguyện cho tất cả chúng sinh, chóng vào bậc Thánh, dùng Phật pháp dạy bảo dẫn dắt có thứ tự.
Nguyện cho tất cả chúng sinh, được thế gian tôn sùng kính trọng, lời nói được tin dùng.
Nguyện cho tất cả chúng sinh, khéo vào tất cả pháp bình đẳng, biết rõ pháp giới, tự tánh không hai.
Nguyện cho tất cả chúng sinh, từ nơi trí huệ cảnh giới của Như Lai mà sinh ra, những người được điều thuận, cùng nhau vây quanh.
Giảng: Khi Bồ Tát đem xe báu bố thí cho các hiền Thánh Tăng, thì Ngài sinh khởi mười thứ tâm thâm sâu thiết thực. Do đó đem đủ thứ căn lành mà Ngài tu tập, hồi hướng như vầy: Nguyện cho tất cả chúng sinh, đều vào sâu tạng Kinh, vào sâu trong biển Phật pháp, phàm là chỗ đã nghe được, biết được vĩnh viễn nhớ không quên. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đều lìa khỏi pháp phàm phu ngu si, nhập vào nơi Thánh hiền, chuyển phàm thành Thánh. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, mau chóng chứng được quả vị Thánh nhân, mà còn biết dùng Phật pháp khai thị dẫn dắt chúng sinh có thứ tự, khiến cho họ khai mở tri kiến của Phật. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, được người thế gian tôn sùng, cung kính, tin cậy, nói ra lời nào cũng được tin dùng. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, khéo vào các pháp tánh, biết rõ các pháp bình đẳng, chẳng có cao thấp. Minh bạch tự tánh của pháp giới, đều là không hai. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, từ trí huệ cảnh giới của Phật mà sinh ra, người thường được Ngài giáo hoá, và những người vốn cang cường mà hiện tại đã điều thuận gần gũi, cùng nhau vây quanh.
Nguyện nhất thiết chúng sanh trụ ly nhiễm pháp, diệt trừ nhất thiết phiền não trần cấu. Nguyện nhất thiết chúng sanh giai đắc thành tựu vô thượng tăng bảo, ly phàm phu địa, nhập hiền thánh chúng. Nguyện nhất thiết chúng sanh cần tu thiện Pháp, đắc vô ngại trí, cụ Thánh công đức. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc trí tuệ tâm, bất trước tam thế, ư chư chúng trung tự tại như Vương. Nguyện nhất thiết chúng sanh thừa trí tuệ thừa, chuyển chánh Pháp luân. Nguyện nhất thiết chúng sanh cụ túc thần thông, nhất niệm năng vãng bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới.
Nguyện cho tất cả chúng sinh, trụ pháp lìa nhiễm ô, diệt trừ tất cả bụi dơ phiền não.
Nguyện cho tất cả chúng sinh, đều được thành tựu vô thượng Tăng Bảo, lìa khỏi phàm phu, nhập vào chúng Thánh hiền.
Nguyện cho tất cả chúng sinh, siêng tu pháp lành, được trí huệ vô ngại, đầy đủ công đức của Thánh hiền.
Nguyện cho tất cả chúng sinh, được tâm trí huệ, chẳng chấp vào ba đời. Ở trong các chúng, tự tại như vua.
Nguyện cho tất cả chúng sinh, ngồi thừa trí huệ, chuyển bánh xe chánh pháp.
Nguyện cho tất cả chúng sinh, đầy đủ thần thông, một niệm đến được bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới.
Giảng: Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, trụ ở trong pháp thanh tịnh, vô lậu, pháp xuất thế, xa lìa pháp nhiễm ô của thế gian, diệt trừ sạch hết tất cả phiền não và bụi dơ. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, siêng tu pháp lành, diệt trừ pháp ác, đắc được đại trí huệ viên dung vô ngại, đầy đủ công đức của Thánh hiền. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đắc được tâm trí huệ Bát Nhã, chẳng chấp trước quan niệm thời gian không gian của ba đời, hiển hiện thần thông tự tại như ông vua. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, ngồi thừa trí huệ, thường ở trong mười phương thế giới, chuyển bánh xe chánh pháp, giáo hoá chúng sinh. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đầy đủ thần thông diệu dụng, có thể ở trong một niệm đến khắp bất khả thuyết bất khả thuyết vô lượng thế giới, để lợi ích hữu tình.
Nguyện nhất thiết chúng sanh thừa hư không thân, ư chư thế gian trí tuệ vô ngại. Nguyện nhất thiết chúng sanh phổ nhập nhất thiết hư không Pháp giới chư Phật chúng hội, thành tựu đệ nhất Ba-la-mật hạnh. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc khinh cử thân thù thắng trí tuệ, tất năng biến nhập nhất thiết Phật sát. Nguyện nhất thiết chúng sanh hoạch vô biên tế thiện xảo thần túc, ư nhất thiết sát phổ hiện kỳ thân. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc ư nhất thiết vô sở y thân, dĩ thần thông lực như ảnh phổ hiện.
Nguyện cho tất cả chúng sinh, được thân hư không, nơi các thế gian trí huệ vô ngại.
Nguyện cho tất cả chúng sinh, vào khắp chúng hội của chư Phật, tất cả hư không pháp giới, thành tựu hạnh Ba La Mật bậc nhất.
Nguyện cho tất cả chúng sinh, được thân nhẹ nhàng, trí huệ thù thắng, vào khắp tất cả cõi Phật.
Nguyện cho tất cả chúng sinh, đắc được thần túc khéo léo không bờ mé, nơi tất cả cõi khắp hiện thân hình.
Nguyện cho tất cả chúng sinh, được thân nơi tất cả không chỗ nương, dùng sức thần thông hiện khắp như hình bóng.
Giảng: Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, được thân như hư không, rộng lớn không tướng không tánh, dùng trí huệ hành nơi thế gian mười phương, chẳng có chướng ngại. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, vào khắp trong tất cả hư không pháp giới, đến chúng hội đạo tràng của chư Phật, thành tựu hạnh môn đến bờ kia bậc nhất. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, được thân nhẹ nhàng, lại có trí huệ thù thắng, chỉ một niệm, thì tuỳ theo nguyện lực mà đến, bay đi tự tại. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đắc được thần túc thông diệu dụng khéo léo chẳng có bờ mé, trong tất cả cõi nước, thảy đều hiện thân khắp vì chúng sinh nói pháp. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đắc được thân nhậm vận tự tại, tuỳ theo ý muốn, chẳng nương tựa vào các sức lực khác, dùng thần thông biến hoá diệu dụng của Ngài, tuỳ mọi nơi đều có thể hiện ra, giống như hình bóng.
Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc bất tư nghị tự tại thần lực, tùy ưng khả hóa, tức hiện kỳ tiền, giáo hóa điều phục. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc nhập Pháp giới vô ngại phương tiện, nhất niệm biến du thập phương quốc độ. Thị vi Bồ-Tát Ma-ha-tát thí tăng bảo xa thiện căn hồi hướng. Vi lệnh chúng sanh phổ thừa thanh tịnh vô thượng trí thừa, ư nhất thiết thế gian chuyển vô ngại Pháp trí tuệ luân cố.
Nguyện cho tất cả chúng sinh, được thần lực tự tại không nghĩ bàn, tuỳ chúng sinh đáng được hoá độ, liền hiện ra ở trước họ, giáo hoá điều phục.
Nguyện cho tất cả chúng sinh, được phương tiện vào pháp giới vô ngại, một niệm du hành khắp mười phương cõi nước.
Đó là đại Bồ Tát hồi hướng căn lành bố thí xe báu cho Tăng, vì khiến cho chúng sinh, khắp ngồi thừa trí huệ thanh tịnh vô thượng. Nơi tất cả thế gian chuyển bánh xe pháp trí huệ vô ngại.
Giảng: Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, được thần thông nhậm vận tự tại không thể nghĩ bàn, tuỳ thời tuỳ lúc tuỳ duyên, tuỳ cảm ứng của chúng sinh, liền hoá hiện ở trước họ, giáo hoá những chúng sinh nhân duyên chín mùi đó, khiến cho thân tâm của họ được thấm nhuần mưa pháp, điều phục nhu nhuyến. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, được sức thần túc phương tiện viên dung vô ngại, vào pháp giới thâm sâu, ở trong một niệm, có thể đến khắp cõi nước của chư Phật trong mười phương. Ðó là hồi hướng căn lành tu tập của đại Bồ Tát, khi Ngài bố thí xe báu cho các hiền Thánh Tăng. Vì hy vọng tất cả chúng sinh, đều được nguồn gốc tính diệu chân như thanh tịnh. Ðược ngồi thừa trí huệ vô thượng, đến mười phương thế giới chuyển bánh xe chánh pháp, chuyển bánh xe trí huệ chánh pháp viên dung vô ngại, cho nên Bồ Tát phát đủ thứ nguyện lớn, hồi hướng cho tất cả chúng sinh.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát dĩ chúng bảo xa bố thí Thanh văn, độc giác chi thời, khởi như thị tâm, sở vị: phước điền tâm, tôn kính tâm, công đức hải tâm, năng xuất sanh công đức trí tuệ tâm, tùng Như Lai công đức thế lực sở sanh tâm, bách thiên ức na-do-tha kiếp tu tập tâm, năng ư bất khả thuyết kiếp tu Bồ Tát hạnh tâm, giải thoát nhất thiết ma hệ phược tâm, tồi diệt nhất thiết ma quân chúng tâm, tuệ quang chiếu liễu vô thượng pháp tâm.
Phật tử ! Khi đại Bồ Tát đem các xe báu bố thí cho Thanh Văn Duyên Giác, Ngài khởi tâm như vầy. Đó là: Tâm ruộng phước. Tâm tôn kính. Tâm biển công đức. Tâm hay sinh ra công đức trí huệ. Tâm từ công đức thế lực của Như Lai sinh ra. Tâm trăm ngàn Na Do Tha kiếp tu tập. Tâm nơi bất khả thuyết kiếp tu hạnh Bồ Tát. Tâm giải thoát tất cả sự trói buộc của ma. Tâm tiêu diệt tất cả chúng ma quân. Tâm trí huệ quang minh chiếu rõ pháp vô thượng.
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát tu pháp môn hồi hướng, lại đem đủ thứ xe báu bố thí cho hàng nhị thừa Thanh Văn Duyên Giác. Khi Ngài bố thí, thì Ngài sinh khởi những tâm niệm như vầy: Tâm ruộng phước: Tự mình tu công đức là tự mình gieo trồng ruộng phước, nhưng cũng phải làm ruộng phước cho chúng sinh, để cho họ đến cầu phước. Tâm tôn kính: Tâm tôn trọng Phật, tôn trọng pháp, cung kính Tam Bảo. Tâm biển công đức: Phải siêng tu vô lượng công đức. Có thể từ siêng tu nghiệp lành, tích tụ căn lành, sinh ra tâm đại trí huệ. Tâm từ trong công đức thế lực của Phật sinh ra. Tâm trong trăm ngàn ức Na do tha kiếp, siêng tu tập các Phật pháp. Tâm ở trong bất khả thuyết kiếp tu hạnh Bồ Tát. Tâm tự tại nhìn thấu suốt buông xả được, giải thoát khỏi sự trói buộc của ma. Tâm phá huỷ tiêu diệt được tất cả ma quân, thường hộ trì Tam Bảo. Tâm trí huệ quang minh, chiếu soi pháp vô thượng cầu thành đạo.
Dĩ thử thí xa sở hữu thiện căn như thị hồi hướng, sở vị: nguyện nhất thiết chúng sanh vi thế sở tín đệ nhất phước điền, cụ túc vô thượng đàn ba-la-mật. Nguyện nhất thiết chúng sanh ly vô ích ngữ, thường lạc độc xứ, tâm vô nhị niệm. Nguyện nhất thiết chúng sanh thành tối đệ nhất thanh tịnh phước điền, nhiếp chư chúng sanh lệnh tu phước nghiệp. Nguyện nhất thiết chúng sanh thành trí tuệ uyên, năng dữ chúng sanh vô lượng vô số thiện căn quả báo. Nguyện nhất thiết chúng sanh trụ vô ngại hạnh, mãn túc thanh tịnh đệ nhất phước điền.
Đem hết thảy căn lành bố thí xe hồi hướng như vầy: Nguyện cho tất cả chúng sinh, làm ruộng phước bậc nhất cho thế gian tin, đầy đủ bố thí Ba La Mật vô thượng.
Nguyện cho tất cả chúng sinh, lìa khỏi lời nói vô ích, thường thích ở một mình, tâm không có hai niệm.
Nguyện cho tất cả chúng sinh, thành ruộng phước thanh tịnh bậc nhất, nhiếp lấy các chúng sinh, khiến cho họ tu phước nghiệp.
Nguyện cho tất cả chúng sinh, thành vực sâu trí huệ, ban cho chúng sinh vô lượng vô số căn lành quả báo.
Nguyện cho tất cả chúng sinh, trụ nơi hạnh vô ngại, đầy đủ ruộng phước thanh tịnh bậc nhất.
Giảng: Khi đại Bồ Tát bố thí xe báu cho hàng bậc Thánh nhân nhị thừa, thì Ngài sinh khởi mười thứ tâm dưới đây, tiếp tục đem hết thảy căn lành bố thí xe, hồi hướng như vầy: Nguyện cho tất cả chúng sinh, được hết thảy mọi người trên thế gian cùng tin tưởng, tin Ngài là ruộng phước tốt bậc nhất trên thế gian, vì Ngài đầy đủ công đức bố thí vô thượng, tu hành viên mãn pháp môn bố thí đến bờ kia. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, xả lìa mao bệnh lời nói không có ích, vì tập khí hý luận đó, đối với mình và người đều chẳng có lợi ích, chỉ lãng phí thời gian. Nếu khi muốn nói, thì nói lời có lợi ích cho mọi người, mà còn phải chú ý không thất thời. Một người tu học Phật đạo, phải ưa thích ở một mình, chuyên tâm suy gẫm các pháp, tâm niệm không ô nhiễm, tu phạm hạnh thanh tịnh. Bồ Tát phát nguyện nầy, là hy vọng chúng sinh luôn tu bồ đề giác đạo, sớm thành Chánh Giác. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, thành ruộng phước thanh tịnh nhất của thế gian, có thể nhiếp thọ chúng sinh khác, đến đây gieo trồng ruộng phước, khiến cho tất cả chúng sinh tu phước báo, thành tựu nghiệp lành. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, thành vực sâu trí huệ, có thể rửa sạch hết đủ thứ ngu si và đen tối của chúng sinh, từ trong vực sâu trí huệ, đắc được vô lượng vô số căn lành phước báo. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, thường tu hành hạnh môn vô ngại, đầy đủ đạo quả thanh tịnh của Ngài, thành ruộng phước tốt thanh tịnh bậc nhất của thế gian.
Nguyện nhất thiết chúng sanh trụ vô tránh Pháp, liễu nhất thiết pháp giai vô sở tác, Vô tánh vi tánh. Nguyện nhất thiết chúng sanh thường đắc thân cận tối thượng phước điền, cụ túc tu thành vô lượng phước đức. Nguyện nhất thiết chúng sanh năng hiện vô lượng tự tại thần thông, dĩ tịnh phước điền nhiếp chư hàm thức. Nguyện nhất thiết chúng sanh cụ túc vô tận công đức phước điền, năng dữ chúng sanh Như Lai thập lực đệ nhất thừa quả. Nguyện nhất thiết chúng sanh vi năng biện quả chân thật phước điền, thành nhất thiết trí, vô tận phước tụ.
Nguyện cho tất cả chúng sinh, trụ nơi pháp không tranh, thấu rõ tất cả các pháp, đều không chỗ làm, không tánh làm tánh.
Nguyện cho tất cả chúng sinh, thường được gần gũi ruộng phước tối thượng, tu thành đầy đủ vô lượng phước đức.
Nguyện cho tất cả chúng sinh, hiện được vô lượng thần thông tự tại, dùng ruộng phước thanh tịnh, nhiếp lấy các hàm thức.
Nguyện cho tất cả chúng sinh, đầy đủ ruộng phước công đức vô tận, hay ban cho chúng sinh mười lực quả thừa bậc nhất của Như Lai.
Nguyện cho tất cả chúng sinh, làm ruộng phước chứng được quả chân thật, thành nhất thiết trí phước tụ vô tận.
Giảng: Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, trụ ở trong pháp chẳng tuỳ tiện tranh luận thị phi với người, minh bạch các pháp chẳng có tự thể, thì chẳng có ai làm, cũng chẳng có kẻ thọ, là dùng vô tánh làm tánh. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, luôn luôn đều có cơ hội gần gũi ruộng phước tối thượng-tức là được gần gũi chư Phật, luôn nghe chánh pháp, tu hành viên mãn đầy đủ thành tựu vô lượng phước đức trí huệ. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, hiển hiện được vô lượng thần thông, mà còn có diệu dụng nhậm vận tự tại, dùng địa vị ruộng phước Tăng thanh tịnh, nhiếp thọ tất cả chúng sinh, khiến cho họ đều an trụ ở trong pháp an vui. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đầy đủ công đức ruộng phước chẳng cùng tận, có thể ban cho mười thứ lực của Phật, khiến cho chúng sinh đều đạt được quả thừa bậc nhất-thành Phật. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, sớm được thành tựu đạo nghiệp, những gì cần làm đã làm xong, chẳng còn thọ thân sau nữa, chứng được Niết Bàn chân thật-Phật quả, thành tựu nhất thiết trí huệ, phước đức vô tận đều cùng tụ tập.
Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc diệt tội Pháp, tất năng thọ trì sở vị tằng văn Phật Pháp cú nghĩa. Nguyện nhất thiết chúng sanh thường cần thính thọ nhất thiết Phật Pháp, văn tất giải ngộ, vô không quá giả. Nguyện nhất thiết chúng sanh thính văn Phật Pháp thông đạt cứu cánh, như kỳ sở văn, tùy thuận diễn thuyết. Nguyện nhất thiết chúng sanh ư Như Lai giáo tín giải tu hành, xả ly nhất thiết cửu thập lục chủng ngoại đạo tà kiến. Nguyện nhất thiết chúng sanh thường kiến hiền thánh, tăng trưởng nhất thiết tối thắng thiện căn. Nguyện nhất thiết chúng sanh tâm thường tín lạc trí hành chi sĩ, dữ chư Thánh triết đồng chỉ cọng hoan.
Nguyện cho tất cả chúng sinh, được pháp diệt tội, đều có thể thọ trì Phật pháp câu nghĩa chưa từng nghe.
Nguyện cho tất cả chúng sinh, thường siêng nghe lãnh thọ tất cả Phật pháp. Nghe đều ngộ hiểu, chẳng có luống qua.
Nguyện cho tất cả chúng sinh, nghe được Phật pháp, thông đạt rốt ráo. Như chỗ nghe được, tuỳ thuận diễn nói.
Nguyện cho tất cả chúng sinh, nơi giáo pháp của Như Lai, tin hiểu tu hành, xả lìa tất cả chín mươi sáu thứ ngoại đạo tà kiến.
Nguyện cho tất cả chúng sinh, thường thấy Thánh hiền, tăng trưởng tất cả căn lành tối thắng.
Nguyện cho tất cả chúng sinh, tâm thường tin ưa bậc trí hạnh, đồng ở chung cùng hoan hỉ với các bậc Thánh triết.
Giảng: Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đều đắc được pháp môn tiêu diệt tội nghiệp. Gì là tội pháp ? Tức là tư tưởng tham sân si, hình thành tội nghiệp biểu hiện hành vi. Nếu muốn tiêu diệt những tội nghiệp đó, thì chỉ có một pháp môn, đó là siêng tu giới định huệ. Bồ Tát phát nguyện hy vọng chúng sinh thường được gần gũi Tam Bảo, tức là thương xót chúng sinh trầm luân trong biển tội nghiệp sinh tử, đời đời kiếp kiếp lên rồi xuống, vĩnh viễn chẳng có khi nào được giải thoát. Còn nếu được gần gũi Tam Bảo, luôn nghe chánh pháp, đối với Phật pháp chưa từng nghe qua, nghĩa lý mỗi câu đều minh bạch biết rõ, thọ trì siêng tu ba học vô lậu, thì tất cả tội nghiệp, đều sẽ diệt trừ, sẽ đắc được pháp diệt tội.
Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, luôn nghe pháp của chư Phật nói, nghe rồi minh bạch đạo lý của Phật nói, giác ngộ hôm nay đúng mà hôm qua sai, lãnh thọ được mà còn đắc được thân tâm thọ dụng. Cho nên Bồ Tát nói với chúng ta phải siêng nghe Phật pháp, phải có cơ hội nghe pháp, đừng để luống qua, vì nghe pháp thì có trăm ngàn vạn ức lợi ích. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, hiểu triệt để nghĩa lý Phật pháp, vận dụng tự như, thông đạt vô ngại. Nếu chỗ nghe được Phật pháp, tuỳ thuận nhân duyên giảng giải cho bạn bè quyến thuộc khác nghe, thì nhất định giảng được nghĩa lý rõ ràng, khiến cho người nghe hoan hỉ tin thọ. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, ở trước Phật được thọ sự giáo hoá, thì sẽ sinh niềm tin thâm sâu. Do tin mà hiểu, do hiểu mà thiết thực tu hành, thì sẽ xa lìa nghị luận của ngoại đạo, chẳng bị nghị luận của ngoại đạo mê hoặc.
Tại Ấn Ðộ, vào thời Ðức Phật có chín mươi sáu thứ ngoại đạo. Vốn là sáu thứ, tức là sáu ông thầy, mỗi ông thầy có mười sáu đệ tử, mỗi đệ tử học được từ ông thầy một thứ đạo, như vậy diễn biến thành chín mươi sáu thứ ngoại đạo. Vì tông chỉ và kiến giải của họ đều sai lệch, chấp trước ít phần, tà tri tà kiến, cho nên gọi là ngoại đạo. Bồ Tát nguyện cho chúng sinh thọ được chánh tri chánh kiến của Phật giáo hoá, tin hiểu đạo lý chân thật, mà xa lìa ngoại đạo tà kiến. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, luôn luôn gần gũi các bậc Thánh hiền có đức hạnh, thọ được sự đồng hoá của các Ngài, nhờ đó mà tăng trưởng phẩm cách thiện lương, tích tụ căn lành. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, trong tâm thường thường kính tin thiện tri thức, ưa thích tuỳ thuận bậc trí hiền triết, đồng ở chung cùng hoan hỉ.
Nguyện nhất thiết chúng sanh thính văn Phật danh tất bất đường quyên, tùy kỳ sở văn, hàm đắc mục kiến. Nguyện nhất thiết chúng sanh thiện phân biệt tri chư Phật chánh giáo, tất năng thủ hộ trì Phật Pháp giả. Nguyện nhất thiết chúng sanh thường lạc thính văn nhất thiết Phật Pháp, thọ trì đọc tụng, khai thị chiếu liễu. Nguyện nhất thiết chúng sanh tín giải Phật giáo như thật công đức, tất xả sở hữu, cung kính cúng dường. Thị vi Bồ-Tát Ma-ha-tát thí Thanh văn, độc giác chủng chủng xa thời thiện căn hồi hướng. Vi lệnh chúng sanh giai đắc thành tựu thanh tịnh đệ nhất trí tuệ thần thông, tinh tấn tu hành vô hữu giải đãi, hoạch nhất thiết trí, lực, vô úy cố.
Nguyện cho tất cả chúng sinh, nghe được danh hiệu Phật, đều chẳng luống qua. Tuỳ chỗ được nghe, đều được mắt thấy.
Nguyện cho tất cả chúng sinh, khéo phân biệt biết được chánh giáo của chư Phật, đều thủ hộ thọ trì Phật pháp.
Nguyện cho tất cả chúng sinh, thường thích nghe tất cả Phật pháp, thọ trì đọc tụng, khai thị chiếu soi.
Nguyện cho tất cả chúng sinh, tin hiểu công đức Phật giáo như thật, đều xả bỏ hết thảy, cung kính cúng dường.
Đó là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát khi Ngài bố thí đủ thứ xe cho Thanh Văn Duyên Giác. Vì khiến cho chúng sinh đều được thành tựu trí huệ thần thông thanh tịnh bậc nhất. Tinh tấn tu hành, chẳng có giải đãi, đắc được nhất thiết trí lực không sợ hãi.
Giảng: Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, chỉ cần nghe được danh hiệu của Phật, thì công đức đó đều không luống qua. Tuỳ theo chỗ họ được nghe danh hiệu Phật, thì có thể sẽ thấy được vị Phật đó. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, khéo phân biệt hiểu được chánh giáo của chư Phật nói, cũng thủ hộ hoằng pháp lợi sinh, làm hộ pháp tốt nhất của Phật giáo. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, luôn luôn thích nghe tất cả Phật pháp, mà còn thọ nơi tâm, trì nơi thân, luôn chẳng nhàm mỏi.
Lại hay ưa thích đọc tụng Kinh điển đại thừa, và giảng giải cho chúng sinh nghe, chỉ dẫn tu tập như thế nào, mới có được lợi ích, hiểu rõ diệu dụng của trung đạo. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, tin sâu giáo nghĩa của chư Phật, thấu hiểu lý thể của các pháp cùng với công đức chân thật của chư Phật tu tập, đem hết thảy những gì mình có, khó xả, đều cung kính cúng dường chư Phật. Ở trên là hồi hướng căn lành tu tập của đại Bồ Tát, khi Ngài bố thí xe cho hàng nhị thừa Thanh Văn Duyên Giác. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, đều đắc được thần thông bậc nhất, trí huệ bậc nhất, thanh tịnh bậc nhất. Luôn luôn dũng mãnh tinh tấn, tu hành chẳng giải đãi, đắc được nhất thiết huệ và sức không sợ hãi.
Các vị thiện tín ! Mười nguyện ở trong đoạn Kinh văn nầy, Bồ Tát đặc biệt nhấn mạnh về lợi ích của sự nghe pháp. Muốn chúng sinh thường nghe Phật pháp, có thể sẽ thấu hiểu đạo lý chân thật của chư Phật nói, khai mở đại trí huệ. Thường gần gũi Tam Bảo, cúng dường Tam Bảo, khiến cho thân tâm an lạc, đắc được an ổn không thể nghĩ bàn, lại thường được người đời cung kính tin cậy ngưỡng mộ. Bồ Tát khổ nhọc như thế, khuyên chúng ta đi trên con đường chân chánh, khiến cho chúng ta có phước báo nghe đại thừa diệu pháp vô thượng đệ nhất nghĩa đế-Hoa Nghiêm pháp lớn, đó là nhân duyên lớn khó gặp được. Ðó cũng là căn lành của các vị đã tích tập nhiều đời, mới có cơ duyên khó gặp nầy. Hy vọng các vị ngàn vạn đừng xem thường, đừng cho rằng hằng ngày nghe đều là lời lặp đi lặp lại, nói tới nói lui đều là đạo lý rất nông cạn, trẻ con đều biết, chúng ta sớm cũng đều đã hiểu. Phải đó, các vị sớm đã hiểu. Cổ nhân có nói:
“Trẻ con ba tuổi đều hiểu được
Già tám mươi tuổi làm chưa xong”.
Bạn đã hiểu đạo lý trong Kinh, nhưng bạn chẳng có thực hành, chẳng thiết thực đi làm, thì cũng giống như người không hiểu không biết. Tại sao chư Phật Bồ Tát không nhàm chán, nói đi nói lại, diễn nói giải thích tỉ mỉ, đưa ra ví dụ để thuyết minh ? Là vì sợ rằng chúng sinh đời sau khinh thường lơ là, nghe qua rồi thôi. Giống như người có hai cái chân, hằng ngày muốn đi đây, đi kia, nhưng họ lại thật thà ngồi một chỗ bất động, thì bạn trách cứ ai ? Chân không nghe lời chăng ? Chúng ta đến nghe Kinh, là vì có tâm tin mới đến, nghe hiểu rõ đạo lý trong Kinh điển, thì chúng ta phải thực hành từng chút từng chút, từ từ y theo lý mà làm, học “tinh thần hy sinh” của Bồ Tát xả mình vì người, đó mới là chân chánh minh bạch Phật pháp, hiểu rõ Phật pháp, đó mới là người chân chánh cầu Phật đạo, một Phật giáo đồ thành thật muốn học Phật pháp, hy vọng các vị đừng xem thường, bỏ qua cơ duyên trên.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát dĩ chúng bảo xa thí chư phước điền nãi chí bần cùng, cô độc giả thời, tùy kỳ sở cầu, nhất thiết tất xả, tâm sanh hoan hỉ, vô hữu yếm quyện, nhưng hướng bỉ nhân tự hối trách ngôn: ngã ưng vãng tựu cúng dường cung cấp, bất ưng lao nhữ viễn lai bì đốn. Ngôn dĩ bái quỵ, vấn tấn khởi cư, phàm hữu sở tu, nhất thiết thí dữ. Hoặc thời thí bỉ ma-ni bảo xa, dĩ Diêm-phù-đề đệ nhất nữ bảo sung mãn kỳ thượng. Hoặc phục thí dữ kim trang nghiêm xa, nhân gian nữ bảo sung mãn kỳ thượng. Hoặc phục thí dữ diệu lưu ly xa, nội cung kĩ nữ sung mãn kỳ thượng.
Phật tử ! Đại Bồ Tát đem các xe báu bố thí các ruộng phước, cho đến khi bố thí cho kẻ bần cùng cô độc, tuỳ theo chỗ họ mong cầu, tất cả đều xả, tâm sinh hoan hỉ, chẳng có tâm nhàm mỏi. Vẫn hướng về người đó, tự bảo họ rằng: Đáng lẽ tôi phải mang đến cúng dường cung cấp, không nên lao nhọc các vị từ xa đến mỏi mệt. Nói rồi quỳ xuống lạy, hỏi thăm chỗ ở. Phàm là hết thảy cần những gì, tất cả đều bố thí cho. Hoặc có lúc bố thí cho họ xe báu ma ni, dùng nữ báu bậc nhất ở cõi Diêm Phù Đề, chở đầy trong xe. Hoặc lại ban cho xe trang nghiêm bằng vàng, nữ báu nhân gian chở đầy trong xe. Hoặc lại bố thí xe lưu ly đẹp, kĩ nữ trong nội cung, đầy dẫy trong xe.
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát tu pháp môn hồi hướng, Ngài lại đem các thứ xe báu khác nhau, bố thí cho tất cả ruộng phước-ruộng phước Tăng thanh tịnh, cùng với những người bần cùng, cô nhi, độc thân. Chẳng những Ngài bố thí cho họ xe báu, mà còn tuỳ theo chỗ họ cần dùng, thảy đều bố thí cho họ, tâm sinh hoan hỉ, chẳng có biểu hiện chút buồn phiền không vui nào. Ngài đối với những người đến cầu xin tự trách mình nói: “Ðáng lẽ tôi phải mang đồ vật đến tận nhà cúng dàng các vị, không cần các vị phải lao nhọc từ xa mà đến, khiến cho các vị mệt mỏi, thật là xin lỗi”. Nói xong bèn quỳ xuống hướng về họ lễ lạy, hỏi thăm chỗ ở của họ. Phàm là họ cần tất cả những đồ vật gì, thảy đều bố thí cho họ được toại tâm mãn nguyện.
Các vị ! Các vị nhìn thấy hạnh Bồ Tát bố thí, thật là thành khẩn mà còn bình đẳng, thật là không thể nghĩ bàn. Bồ Tát hoặc có lúc bố thí cho họ xe báu ma ni, dùng nữ báu xinh đẹp bậc nhất trong cõi Diêm Phù Ðề, chở đầy trong xe. Bồ Tát biết trong tâm của chúng sinh, hoan hỉ nhất là thấy được con gái xinh đẹp. Vì làm mãn tâm nguyện chúng sinh, cho nên trên xe chở đầy mỹ nữ, khiến cho chúng sinh thấy được sinh tâm hoan hỉ. Do tâm hoan hỉ mà phát tâm bồ đề, siêng tu đạo nghiệp, thành tựu Phật quả. Những mỹ nữ báu đó, chẳng phải là mỹ nữ thế tục, mà đều là Bồ Tát tu Bồ Tát đạo, vì độ chúng sinh mà thị hiện làm mỹ nữ, chẳng có dâm dục. Khiến cho chúng sinh thấy rồi sẽ chẳng sinh tưởng niệm tà, trong tâm ngược lại cảm thấy mát mẻ. Có lúc hoặc bố thí xe báu bằng vàng thật, trên xe cũng chở đầy nữ báu của nhân gian. Có lúc hoặc bố thí xe báu làm bằng lưu ly, chở đầy mỹ nữ ca hát nhảy múa ở trong cung vua.
Hoặc thí chủng chủng kì diệu bảo xa, đồng nữ sung mãn, như Thiên thải nữ. Hoặc thí vô số bảo trang nghiêm xa, bảo nữ mãn trung, nhu Minh biện tuệ. Hoặc thí sở thừa diệu chiên đàn xa, hoặc phục thí dữ pha lê bảo xa, tất tái bảo nữ, sung mãn kỳ thượng, nhan dung đoan chánh, sắc tướng vô bỉ, 袨phục trang nghiêm, kiến giả hân duyệt. Hoặc phục thí dữ mã não bảo xa, quán đảnh Vương tử thân tái kỳ thượng. Hoặc thời thí dữ kiên cố hương xa, sở hữu nam nữ tất tái kỳ trung. Hoặc thí nhất thiết bảo trang nghiêm xa, tái dĩ nan xả thân thiện quyến thuộc.
Hoặc bố thí đủ thứ xe báu kỳ diệu, chở đầy đồng nữ, như Thiên thể nữ. Hoặc bố thí xe dùng vô số báu trang nghiêm, nữ báu đầy trong xe, nhu hoà thông minh biện tài trí huệ. Hoặc bố thí xe bằng chiên đàn. Hoặc lại bố thí xe báu pha lê, đều chở các nữ báu, đầy dẫy trong xe, dung nhan xinh đẹp, tướng mạo không ai sánh bằng, y phục trang nghiêm, ai thấy cũng đều vui mừng. Hoặc lại bố thí xe báu mã não, trên xe chở vương tử quán đảnh. Hoặc có lúc bố thí xe hương kiên cố, chở hết thảy nam nữ trong đó. Hoặc có lúc bố thí xe trang nghiêm tất cả báu, chở quyến thuộc thân thiện khó xả.
Giảng: Bồ Tát có lúc lại bố thí các thứ xe rất kỳ diệu không thể nghĩ bàn, dùng các thứ báu nghiêm sức, trong xe chở đầy đồng nữ, mỗi đồng nữ đều xinh đẹp giống như thể nữ trên trời. Hoặc lại bố thí xe trang nghiêm rất nhiều thứ báu, chở đầy nữ báu nhân gian, mỗi nữ báu đều rất nhu hoà thông minh, có biện tài lại có trí huệ. Có lúc lại bố thí xe hương chiên đàn. Hoặc có lúc bố thí xe làm bằng pha lê, trên xe cũng chở đầy nữ báu. Những nữ báu đó tướng mạo xinh đẹp, dung nhan rất mỹ lệ, sắc tướng đầy đủ, chẳng phải những con gái ở nhân gian có thể sánh bằng. Họ đều mặc y phục rất trang nghiêm, những y phục đó chẳng phải đồ bình thường, ai thấy được cũng đều sinh tâm hoan hỉ, khởi tâm cung kính. Hoặc có lúc lại bố thí xe báu làm bằng mã não, trên xe chở thái tử đã làm lễ quán đảnh, tức là người sẽ kế thừa ngôi vua. Hoặc có lúc bố thí xe hương rất kiên cố, trong xe chở đầy hết thảy nam nữ. Hoặc bố thí xe dùng tất cả châu báu trang nghiêm, trong xe chở đầy vợ đẹp con xinh không xả bỏ đặng, quyến thuộc khó xả bỏ, lục thân thân thiết nhất, bạn bè mật thiết nhất.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát dĩ như thị đẳng vô lượng bảo xa, tùy kỳ sở cầu, cung kính thí dữ, giai lệnh toại nguyện, hoan hỉ mãn túc. dĩ thử thiện căn như thị hồi hướng, sở vị: nguyện nhất thiết chúng sanh thừa Bất-thoái-chuyển vô chướng ngại luân quảng đại chi thừa, nghệ bất khả nghị Bồ-đề thụ hạ. Nguyện nhất thiết chúng sanh thừa thanh tịnh nhân Đại Pháp trí thừa, tận vị lai kiếp, tu Bồ Tát hạnh vĩnh Bất-thoái-chuyển. Nguyện nhất thiết chúng sanh thừa nhất thiết pháp vô sở hữu thừa, vĩnh ly nhất thiết phân biệt chấp trước, nhi thường tu tập nhất thiết trí đạo. Nguyện nhất thiết chúng sanh thừa vô siểm cuống chánh trực chi thừa, vãng chư Phật sát, tự tại vô ngại. Nguyện nhất thiết chúng sanh tùy thuận an trụ nhất thiết trí thừa, dĩ chư Phật Pháp cộng tướng ngu lạc. Nguyện nhất thiết chúng sanh giai thừa Bồ Tát thanh tịnh hạnh thừa, cụ túc Bồ Tát thập xuất ly đạo cập tam muội lạc.
Phật tử ! Đại Bồ Tát đem vô lượng các xe báu như vậy, tuỳ theo chỗ họ mong cầu, cung kính bố thí cho, đều khiến cho họ toại nguyện, hoan hỉ đầy đủ. Đem căn lành đó hồi hướng như vầy:
Nguyện cho tất cả chúng sinh, ngồi xe rộng lớn vô ngại không thối chuyển, thẳng đến dưới cội bồ đề không thể nghĩ bàn.
Nguyện cho tất cả chúng sinh, ngồi xe nhân thanh tịnh pháp trí lớn, suốt thuở kiếp vị lai, tu hạnh Bồ Tát, vĩnh viễn chẳng thối chuyển.
Nguyện cho tất cả chúng sinh, ngồi xe tất cả pháp không chỗ có, vĩnh viễn lìa khỏi tất cả phân biệt chấp trước, thường tu tập đạo nhất thiết trí.
Nguyện cho tất cả chúng sinh, ngồi xe chân chánh không xiểm nịnh dối trá, đến cõi nước chư Phật, tự tại vô ngại.
Nguyện cho tất cả chúng sinh, tuỳ thuận an trụ nơi xe nhất thiết trí, dùng các Phật pháp, cùng nhau vui thích.
Nguyện cho tất cả chúng sinh, đều ngồi xe Bồ Tát hạnh thanh tịnh, đầy đủ mười đạo xuất ly và ưa thích tam muội của Bồ Tát.
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát đem vô số xe báu như vậy, tuỳ thuận ý của những người mong cầu, hoà nhan duyệt sắc rất lễ phép, bố thí cho họ, khiến cho họ đắc được xe báu, ai nấy đều toại tâm mãn nguyện, đầy dẫy tâm hoan hỉ. Ngài đem công đức căn lành bố thí đó, hồi hướng cho tất cả chúng sinh. Ngài nói: Tôi nguyện cho tất cả chúng sinh, đều có thể ngồi xe bất thối chuyển, xe chẳng có bất cứ chướng ngại gì, xe rộng lớn, đến được dưới cội bồ đề không thể nghĩ bàn, đi gần gũi cúng dường chư Phật. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, ngồi xe nhân thanh tịnh chẳng có ô nhiễm, xe trí huệ pháp môn đại thừa, suốt thuở kiếp vị lai, siêng tu hạnh Bồ Tát, rộng độ chúng sinh, vĩnh viễn chẳng lùi về nhị thừa. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, ngồi xe tất cả chánh pháp, chỉ có một thừa, vĩnh viễn lìa khỏi tâm phân biệt và chấp trước, thường tu đạo nhất thiết trí. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, ngồi xe chân chánh chẳng có xiểm nịnh dối trá, đến cõi nước chư Phật trong mười phương, đều chẳng có chướng ngại. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, tuỳ thuận an trụ nơi xe nhất thiết trí huệ, dùng pháp của chư Phật nói, làm niềm an lạc cho thân tâm. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đều có thể tu phạm hạnh thanh tịnh của Bồ Tát tu, đầy đủ mười thứ Phật đạo thoát khỏi ba cõi, và chứng được an vui tam muội của Bồ Tát.
Nguyện nhất thiết chúng sanh thừa tứ luân thừa, sở vị trụ hảo quốc độ, y chỉ thiện nhân, tập thắng phước đức, phát đại thệ nguyện, dĩ thử thành mãn nhất thiết Bồ Tát thanh tịnh phạm hạnh. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc phổ chiếu thập phương pháp quang minh thừa, tu học nhất thiết Như Lai trí lực. Nguyện nhất thiết chúng sanh thừa Phật Pháp thừa, đáo nhất thiết pháp cứu cánh bỉ ngạn. Nguyện nhất thiết chúng sanh tái chúng phước thiện nan tư Pháp thừa, phổ thị thập phương an ổn chánh đạo. Nguyện nhất thiết chúng sanh thừa Đại thí thừa, xả xan lận cấu. Nguyện nhất thiết chúng sanh thừa tịnh giới thừa, trì đẳng Pháp giới vô biên tịnh giới. Nguyện nhất thiết chúng sanh thừa nhẫn nhục thừa, thường ư chúng sanh ly sân trược tâm. Nguyện nhất thiết chúng sanh thừa đại tinh tấn Bất-thoái-chuyển thừa, kiên tu thắng hành, thú Bồ-đề đạo. Nguyện nhất thiết chúng sanh thừa Thiền định thừa, tốc chí đạo tràng, chứng Bồ-đề trí.
Nguyện cho tất cả chúng sinh, ngồi xe bốn bánh. Đó là: Ở cõi nước tốt, y chỉ người thiện, tu tập phước đức thù thắng, phát thệ nguyện lớn. Dùng bốn điều đó để thành tựu viên mãn tất cả phạm hạnh thanh tịnh của Bồ Tát.
Nguyện cho tất cả chúng sinh, được xe pháp quang minh chiếu khắp mười phương, tu học tất cả trí lực của Như Lai.
Nguyện cho tất cả chúng sinh, ngồi xe Phật pháp, đến tất cả pháp rốt ráo bờ bên kia.
Nguyện cho tất cả chúng sinh, ngồi xe pháp chở các phước thiện khó nghĩ bàn, chỉ bày chánh đạo an ổn khắp mười phương.
Nguyện cho tất cả chúng sinh, ngồi xe đại bố thí, xả bỏ lòng bỏn xẻn dơ bẩn.
Nguyện cho tất cả chúng sinh, ngồi xe giới thanh tịnh, giữ tịnh giới đồng với pháp giới chẳng có bờ mé.
Nguyện cho tất cả chúng sinh, ngồi xe nhẫn nhục, thường ở nơi chúng sinh, lìa tâm sân hận ô trược.
Nguyện cho tất cả chúng sinh, ngồi xe đại tinh tấn chẳng thối chuyển, kiên trì tu thắng hạnh, hướng về đạo bồ đề.
Nguyện cho tất cả chúng sinh, ngồi xe thiền định, sớm đến đạo tràng, chứng trí bồ đề.
Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, ngồi xe bốn bánh. Bốn bánh nầy, đại biểu cho bốn hàm ý:
- Ở cõi nước tốt nhất.
- Y chỉ người thiện, làm thầy làm bạn với người lương thiện có đức.
- Tích tập phước đức thù thắng.
- Phát thệ nguyện lớn độ khắp chúng sinh.
Y theo xe bốn bánh đó, thì sẽ thành tựu viên mãn tất cả phạm hạnh thanh tịnh của Bồ Tát tu. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, được chân đế Phật pháp đại thừa, được đại trí huệ vô thượng, quang minh trí huệ chiếu khắp mười phương, để tu tập trí huệ và mười lực của Phật. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đều ngồi xe Phật pháp đại thừa, đắc được chân lý rốt ráo của tất cả Phật pháp, mà lên bờ Niết Bàn bên kia. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, ngồi xe pháp chuyên chở tất cả phước đức, và xe tất cả nghiệp thiện, xe pháp thù thắng không thể dùng tư tưởng độ lượng đó, chỉ bày khắp tất cả chúng sinh trong mười phương, đều đắc được chánh đạo an ổn. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, ngồi xe bố thí lớn, quét trừ sạch hết tâm tham lam bỏn sẻn dơ bẩn bất tịnh.
Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, ngồi xe giới hạnh thanh tịnh, hay giữ gìn tịnh giới như đồng pháp giới, chẳng có bờ mé, thành tựu giới đức kim cang thượng phẩm. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, ngồi xe nhẫn nhục, thường đối với chúng sinh thân thiết từ ái, xa lìa tâm sân hận ô trược. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, ngồi xe đại tinh tấn, bất cứ lúc nào cũng đều không sinh tâm thối chuyển, chí nguyện kiên cố tu học tất cả hạnh môn thù thắng, dũng mãnh hướng về bồ đề giác đạo. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, ngồi xe thiền định, mau chóng đến được bồ đề đạo tràng, chứng được trí huệ bồ đề giác đạo.
Nguyện nhất thiết chúng sanh thừa ư trí tuệ xảo phương tiện thừa, hóa thân sung mãn nhất thiết pháp giới, chư Phật cảnh giới. Nguyện nhất thiết chúng sanh thừa pháp vương thừa, thành tựu vô úy, hằng phổ huệ thí nhất thiết trí Pháp. Nguyện nhất thiết chúng sanh thừa vô sở trước trí tuệ chi thừa, tất năng biến nhập nhất thiết thập phương, ư chân pháp tánh nhi vô sở động. Nguyện nhất thiết chúng sanh thừa ư nhất thiết chư Phật Pháp thừa, thị hiện thọ sanh biến thập phương sát, nhi bất thất hoại Đại-Thừa chi đạo. Nguyện nhất thiết chúng sanh thừa nhất thiết trí tối thượng bảo thừa, mãn túc Phổ Hiền Bồ Tát hạnh nguyện nhi vô yếm quyện. Thị vi Bồ-Tát Ma-ha-tát dĩ chúng bảo xa thí chư phước điền nãi chí bần cùng, cô lộ chi nhân thiện căn hồi hướng. Vi lệnh chúng sanh cụ vô lượng trí, hoan hỉ dũng dược, cứu cánh giai đắc nhất thiết trí thừa cố.
Nguyện cho tất cả chúng sinh, ngồi xe trí huệ phương tiện khéo léo, hoá thân cảnh giới của chư Phật đầy dẫy tất cả pháp giới.
Nguyện cho tất cả chúng sinh, ngồi xe pháp vương, thành tựu không sợ hãi, luôn bố thí khắp tất cả trí pháp.
Nguyện cho tất cả chúng sinh, ngồi xe trí huệ không chấp trước, đều vào được khắp tất cả mười phương. Nơi chân pháp tánh mà không lay động.
Nguyện cho tất cả chúng sinh, ngồi xe tất cả pháp của chư Phật, thị hiện thọ sinh, khắp mười phương cõi nước, mà chẳng mất huỷ hoại đạo đại thừa.
Nguyện cho tất cả chúng sinh, ngồi xe báu nhất thiết trí tối thượng, đầy đủ hạnh nguyện Bồ Tát Phổ Hiền, mà chẳng nhàm mỏi.
Đó là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát, đem các xe báu bố thí các ruộng phước, cho đến những người bần cùng cô độc. Vì khiến cho chúng sinh đầy đủ vô lượng trí huệ, hoan hỉ hớn hở. Rốt ráo đều được xe nhất thiết trí.
Giảng: Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, ngồi xe trí huệ, xe đó phương tiện khéo léo thao túng tự như, lại dùng trăm ngàn ức hoá thân, luôn luôn đầy dẫy tận hư không khắp pháp giới, đắc được cảnh giới của chư Phật. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, ngồi xe vua của vạn pháp, thành tựu trí huệ không sợ hãi, luôn luôn bố thí khắp cho tất cả chúng sinh pháp nhất thiết trí. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, ngồi xe không chấp trước, mà lại có xe trí huệ, nơi mười phương thế giới tuỳ tâm theo ý muốn đều vào được, đối với pháp tánh lý thể chân thật, thông đạt vô ngại, tin sâu không hoài nghi, chẳng bị nghị luận bên ngoài làm giao động, cũng quyết không làm việc điên đảo. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, ngồi xe pháp của chư Phật, đến mười phương pháp giới, khắp thị hiện sinh diệt, mà chẳng thối thất tâm bồ đề đại thừa. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, ngồi xe báu nhất thiết trí tối cao vô thượng, siêng tu mười đại nguyện vương của Bồ Tát Phổ Hiền, viên mãn đại nguyện vương đó mà trọn không có tâm nhàm mỏi. Ðại Bồ Tát tu pháp hồi hướng, Ngài đem vô số xe báu bố thí khắp, làm ruộng phước tốt cho chúng sinh, cho đến bình đẳng bố thí cho những người bần cùng nhất, những người cô độc nhất, hết thảy căn lành tu tập, thảy đều hồi hướng cho chúng sinh. Mục đích của Ngài là vì khiến cho chúng sinh được đầy đủ vô lượng trí huệ, thân tâm hớn hở, đắc được xe nhất thiết trí huệ.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát bố thí tượng bảo, kỳ tánh điều thuận, thất chi cụ túc, niên xỉ thịnh tráng, lục nha thanh tịnh, khẩu sắc hồng xích do như liên hoa, hình thể tiên bạch thí như tuyết sơn, kim tràng vi sức, bảo võng La phước, chủng chủng diệu bảo trang nghiêm kỳ tỳ, kiến giả hân ngoạn vô hữu yếm túc, siêu bộ vạn lý tằng bất bì quyện.
Phật tử ! Đại Bồ Tát bố thí voi báu, tính tình của voi điều thuận, thất chi đầy đủ, tuổi tác thạnh vượng cường tráng, sáu ngà thanh tịnh. Miệng màu hồng đỏ, giống như hoa sen. Hình thể tươi trắng, ví như núi tuyết. Nghiêm sức tràng bằng vàng, lưới la báu che phủ, đủ thứ báu đẹp trang nghiêm cái vòi, ai thấy được đều hân hoan đùa giỡn, chẳng có nhàm đủ. Đi bộ vạn dặm, chưa từng mệt mỏi.
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát, Ngài lại thị hiện bố thí voi báu cho chúng sinh. Con voi đó tính tình rất điều hoà nhu thuận, là công cụ giao thông tốt nhất. Thất chi của nó: Mắt, tai, mũi, họng, như vậy đều rất toàn mỹ. Tuổi tác của nó cũng đang trong thời kỳ thạnh vượng cường tráng. Sáu ngà của nó đồng đều, mà còn rất thanh tịnh trắng muốt. Miệng của nó màu hồng đỏ, giống như đoá hoa sen lớn nở. Thân hình của nó tráng kiện giống như núi tuyết nhỏ, lông tươi trắng giống như tuyết trắng. Ðầu của nó trang sức tràng bằng vàng, trên lưng phủ tấm lưới la châu báu. Trên vòi voi dùng đủ thứ trân bảo nghiêm sức rất trang nghiêm mỹ lệ. Khi đi trên đường khiến cho những người thấy được nó, đều hân hoan khen ngợi hết lời, nhìn không biết chán. Tuy nhiên nó đi hàng vạn dặm, nhưng cũng không biết mệt.
Hoặc phục thí dữ điều lương mã bảo, chư tướng cụ túc do như Thiên mã, diệu bảo nguyệt luân dĩ vi quang sức, chân kim linh võng La phước kỳ thượng, hàng bộ bình chánh, thừa giả an ổn, tùy ý sở vãng tấn tật như phong, du lịch tứ châu tự tại vô ngại. Bồ Tát dĩ thử tượng bảo, mã bảo, hoặc phụng dưỡng phụ mẫu cập thiện tri thức, hoặc cấp thí bần phạp, khổ não chúng sanh, kỳ tâm khoáng nhiên, bất sanh hối lận, đãn bội tăng hân khánh, ích gia bi mẫn, tu Bồ Tát đức, tịnh Bồ Tát tâm.
Dĩ thử thiện căn như thị hồi hướng, sở vị: nguyện nhất thiết chúng sanh trụ điều thuận thừa, tăng trưởng nhất thiết Bồ Tát công đức. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc thiện xảo thừa, năng tùy xuất sanh nhất thiết Phật Pháp. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc tín giải thừa, phổ chiếu Như Lai vô ngại trí lực. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc phát thú thừa, năng phổ phát hưng nhất thiết đại nguyện.
Hoặc lại bố thí ngựa báu tốt giỏi, các tướng đầy đủ, giống như ngựa trời. Dùng ánh sáng bánh xe báu đẹp hình mặt trăng nghiêm sức. Lưới linh bằng vàng thật giăng che phía trên. Đi đứng êm đềm, người cỡi được an ổn. Tuỳ ý chỗ muốn đến, đi nhanh như gió. Du hành khắp bốn châu, tự tại vô ngại. Bồ Tát đem voi báu ngựa báu đó, hoặc phụng dưỡng cha mẹ và thiện tri thức. Hoặc bố thí cho chúng sinh nghèo thiếu khổ não. Tâm của Bồ Tát vẫn khoáng đạt tự nhiên, chẳng sinh tâm hối tiếc tham sẻn, nhưng lại tăng thêm vui mừng. Lợi ích tăng thêm từ bi thương xót. Tu Bồ Tát đức, tịnh bồ đề tâm.
Giảng: Đem căn lành đó hồi hướng như vầy: Nguyện cho tất cả chúng sinh, trụ xe điều thuận, tăng trưởng tất cả công đức của Bồ Tát. Nguyện cho tất cả chúng sinh, được xe khéo léo, có thể tuỳ ý sinh ra tất cả Phật pháp. Nguyện cho tất cả chúng sinh, được xe tin hiểu, chiếu khắp trí lực vô ngại của Như Lai. Nguyện cho tất cả chúng sinh, được xe phát thú, khắp phát hưng tất cả nguyện lớn.
Bồ Tát hoặc lại bố thí cho tất cả chúng sinh ngựa báu đã được điều phục huấn luyện thành công. Ngựa báu đó cũng đồng như voi báu, cũng đầy đủ các tướng, giống như ngựa trời. Dùng ánh sáng bánh xe báu đẹp hình mặt trăng nghiêm sức, dùng vàng thật làm lưới la che phủ ở phía trên lưng, linh báu làm bằng vàng thật treo ở trán của nó. Ðiều gọi là ngựa báu, chẳng phải nó có sức chạy nhanh, mà là nói nó đức tánh giống như người thiện, cho nên khi nó chạy đi, nhanh chậm đều êm đềm, khiến cho người cỡi nó có cảm giác được an toàn thoải mái, mà nó còn khéo hiểu được ý niệm của chủ nhân, tuỳ tiện chủ nhân muốn đến đâu, nó liền thể hội được, chạy nhanh như gió. Nếu muốn du hành bốn châu thiên hạ (Ðông Thắng Thần Châu, Nam Thiệm Bộ Châu, Tây Ngưu Hoá Châu, Bắc Câu Lư Châu), thì nó nhất định khiến cho bạn được an nhiên tự, chẳng có tơ hào trở ngại nào. Ngựa tốt nầy, đức tính của nó cao siêu, nó quyết không đãi hai chủ, cổ nhân có nói:
“Hảo mã bất phối nhị an”.
Nó hay dũng mãnh cứu chủ, trải qua các thời đại lịch sử đã nói về việc trung nghĩa của ngựa giỏi. Bồ Tát có voi báu, ngựa hay, hiếm có trên đời như vậy, Ngài cũng chẳng dùng hưởng thụ riêng mình, mà là đem phụng dưỡng cha mẹ, làm công cụ đi lại cho cha mẹ, để cho cha me đi lại phương tiện mà còn an toàn tự tại. Hoặc hiến dâng cho sư trưởng, thiện tri thức. Hoặc bố thí cho những người nghèo khổ thiếu thốn bệnh tật suy nhược khổ não, khiến cho họ đi lại phương tiện, an ổn tự tại. Tâm của Bồ Tát từ bi khoáng đạt, phàm là vật chất bố thí cho người, Ngài chưa từng sinh tâm hối tiếc, tính toán, tham sẻn, chỉ có tăng trưởng thêm tâm hoan hỉ, mà còn vui mừng mình có tài năng bố thí, có cơ hội bố thí. Trong xã hội có nhiều người có tiền tài sức lực, nhưng họ chẳng bố thí được, kêu họ đem một xu để làm lợi ích thiên hạ, họ đều chẳng làm được.
Có người muốn hành bố thí, lại chẳng biết bố thí ở đâu, tìm đối tượng tiếp nhận bố thí tìm chẳng được. Cho nên Bồ Tát vui mừng Ngài bố thí ba thứ đều không-tiền tài, vật chất, người nhận, chẳng chấp về công đức. Bồ Tát một mặt vui mừng về có cơ hội bố thí, đồng thời Ngài đối với chúng sinh, sinh tâm từ bi thương xót, quán sát khổ nạn của chúng sinh, thật là trùng trùng vô tận. Bồ Tát tế độ chúng sinh, giáo hoá chúng sinh, đó đều là đang tu Bồ Tát đạo, tích tụ công đức, dùng đức tính thanh tịnh tu được, tài bồi tâm Bồ Tát, khiến cho thanh tịnh không dơ bẩn. Bồ Tát đem căn lành công đức bố thí voi báu ngựa báu, hồi hướng cho tất cả chúng sinh, Ngài phát nguyện rằng: Tôi nguyện cho tất cả chúng sinh, thường trụ nơi xe điều thuận, ngày ngày tăng trưởng công đức như Bồ Tát tu.
Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, được xe pháp môn phương tiện khéo léo, có thể tuỳ ý sinh ra pháp của chư Phật nói. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đắc được xe tin sâu Phật pháp, lại có thể minh bạch các pháp thật tướng, khắp chiếu soi trí huệ vô ngại của chư Phật và mười lực của Phật. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đắc được xe thú phát, có thể khắp phát hưng tất cả nguyện lớn. Tức là nguyện lớn lợi ích chúng sinh, phát đến sáu cõi bốn loài sinh, đi độ chúng sinh.
Nguyện nhất thiết chúng sanh cụ túc bình đẳng Ba-la-mật thừa, thành mãn nhất thiết bình đẳng thiện căn. Nguyện nhất thiết chúng sanh thành tựu bảo thừa, sanh chư Phật Pháp vô thượng trí bảo. Nguyện nhất thiết chúng sanh thành tựu Bồ Tát hạnh trang nghiêm thừa, khai phu Bồ Tát chư tam muội hoa. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc vô biên tốc tật thừa, ư vô số kiếp tịnh Bồ Tát tâm, tinh cần tư tánh, liễu đạt chư Pháp. Nguyện nhất thiết chúng sanh thành tựu tối thắng điều thuận Đại-Thừa, dĩ thiện phương tiện cụ Bồ Tát địa. Nguyện nhất thiết chúng sanh thành tối cao quảng kiên cố Đại-Thừa, phổ năng vận tái nhất thiết chúng sanh, giai đắc chí ư nhất thiết trí vị. thị vi Bồ-Tát Ma-ha-tát thí tượng, mã thời thiện căn hồi hướng. Vi lệnh chúng sanh giai đắc thừa ư vô ngại trí thừa, viên mãn cứu cánh chí Phật thừa cố.
Nguyện cho tất cả chúng sinh, đầy đủ bình đẳng xe Ba La Mật, thành tựu viên mãn tất cả căn lành bình đẳng.
Nguyện cho tất cả chúng sinh, thành tựu xe báu, sinh ra các Phật pháp vô thượng trí bảo.
Nguyện cho tất cả chúng sinh, thành tựu xe Bồ Tát hạnh trang nghiêm, nở các hoa tam muội của Bồ Tát.
Nguyện cho tất cả chúng sinh, được xe nhanh chóng vô biên, nơi vô số kiếp, tịnh bồ đề tâm, tinh tấn suy gẫm, thấu đạt các pháp.
Nguyện cho tất cả chúng sinh, thành tựu xe lớn tối thắng điều thuận, dùng phương tiện khéo léo, đủ bậc Bồ Tát.
Nguyện cho tất cả chúng sinh, thành tựu xe lớn cao rộng kiên cố nhất, chuyên chở khắp tất cả chúng sinh, đều đến được bậc nhất thiết trí.
Đó là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát khi Ngài bố thí voi ngựa. Vì khiến cho chúng sinh đều được ngồi xe trí vô ngại. Viên mãn rốt ráo đến Phật thừa.
Giảng: Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đầy đủ bình đẳng mỗi xe Ba La Mật-sáu Ba La Mật, đến bờ bên kia, thành tựu viên mãn đầy đủ tất cả căn lành bình đẳng. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, thành tựu xe báu, sinh ra các Phật pháp bảo nhất thiết trí tối cao vô thượng. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, thành tựu xe đại thừa Bồ Tát hạnh trang nghiêm, nở ra đủ thứ hoa chánh định của Bồ Tát tu. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đắc được xe nhanh chóng vô biên, ở trong vô lượng kiếp thanh tịnh tâm Bồ Tát. Do đó có thể chứng minh công phu thanh tịnh tâm ý, chẳng phải là trong thời gian ngắn mà làm được, Bồ Tát đều phải trải qua vô lượng kiếp mới làm cho tâm thanh tịnh. E rằng chúng sinh tu hành, chẳng dễ gì làm cho vọng tưởng ngưng bặc. Tinh tấn suy gẫm: Là phải ở chỗ tinh vi nhất, dùng tâm suy tư, mới thấu hiểu chân thật lý thể của các pháp.
Giả sử không thể tinh tế suy gẫm, thì không thể nào minh bạch các pháp được, cũng không thể viên mãn bồ đề, cho nên Bồ Tát hy vọng chúng sinh đều tinh cần suy gẫm, mới mong cầu thấu đạt được các pháp. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, thành tựu xe lớn thù thắng nhất, điều thuận nhất, dùng phương pháp phương tiện khéo léo, điều thuận tất cả chúng sinh, khiến cho họ đều vào được pháp môn đại thừa, đầy đủ công đức của bậc Bồ Tát. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, ngồi xe lớn cao nhất, rộng rãi nhất, kiên cố nhất, khắp chuyên chở tất cả chúng sinh, khiến cho họ đều đạt được đủ bậc nhất thiết trí-thành quả vị Phật. Ðó là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát khi Ngài bố thí voi báu ngựa báu. Mục đích là vì khiến cho tất cả chúng sinh, đều được ngồi xe trí huệ không chướng ngại, viên mãn sáu độ vạn hạnh, rốt ráo đến bờ Niết Bàn quả vị Phật thừa.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát bố thí tọa thời, hoặc thí sở xứ sư tử chi tọa. kỳ tọa cao quảng Thù đặc diệu hảo, lưu ly vi túc, kim lũ sở thành, nhu nhuyễn y phục dĩ phu kỳ thượng. kiến dĩ ảo tràng, huân chư diệu hương, vô lượng tạp bảo trang nghiêm chi cụ dĩ vi trang giáo. kim võng phước thượng, bảo đạc phong diêu, xuất diệu âm thanh. kì trân vạn kế châu táp điền sức, nhất thiết thần dân sở cọng chiêm ngưỡng. Quán đảnh Đại Vương độc cư kỳ thượng, tuyên bố pháp hóa, vạn bang tuân phụng. Kỳ Vương phục dĩ diệu bảo nghiêm thân. Sở vị: phổ quang minh bảo, đế thanh bảo, Đại đế thanh bảo, thắng tạng ma-ni bảo, minh tịnh như nhật, thanh lương do nguyệt, châu táp phồn bố thí như chúng tinh, thượng diệu trang nghiêm đệ nhất vô bỉ. Hải thù diệu bảo, hải kiên cố tràng bảo, kì văn dị biểu, chủng chủng trang nghiêm, ư Đại chúng trung tối tôn tối thắng. diêm phù đàn kim ly cấu bảo tăng dĩ quan kỳ thủ, hưởng quán đảnh vị, Vương Diêm-phù-đề, cụ túc vô lượng đại uy đức lực. dĩ từ vi chủ, phục chư oán địch, giáo lệnh sở hạnh, mị bất thừa thuận.
Phật tử ! Khi đại Bồ Tát bố thí toà. Hoặc bố thí toà sư tử, toà đó cao rộng, tốt đẹp thù thắng đặc biệt. Dùng lưu ly làm chân, vàng sợi làm thành. Y phục mềm mại giăng bày ở trên. Dựng các tràng báu, xông các hương quý. Có vô lượng đồ tạp báu trang nghiêm, dùng làm nghiêm sức. Lưới vàng che phủ phía trên. Chuông báu gió thổi vang ra âm thanh vi diệu. Dùng vạn cách nghiêm sức khắp chung quanh các báu trân kỳ. Tất cả thần dân cùng nhau chiêm ngưỡng. Lễ quán đảnh đại vương, chỉ mình vua ngồi trên toà, tuyên bố pháp hoá, vạn bang đều tôn phụng. Vua đó lại dùng báu đẹp trang nghiêm thân mình. Đó là: Báu phổ quang minh. Báu đế thanh. Báu đại đế thanh. Báu thắng tạng ma ni, phát ra ánh sáng thanh tịnh như mặt trời, mát mẻ như mặt trăng, bày bố khắp chung quanh. Ví như các vì sao, thượng diệu trang nghiêm, bậc nhất không ai bằng. Hải châu diệu báu, hải kiên cố tràng báu, kỳ văn dị biểu, đủ thứ trang nghiêm ở trong đại chúng. Tôn quý nhất, thù thắng nhất. Lụa báu vàng Diêm Phù Đề lìa cấu, dùng làm mão đội đầu. An hưởng ngôi quán đảnh rồi, trở thành vua cõi Diêm Phù Đề. Đầy đủ vô lượng sức oai đức lớn. Lấy từ bi làm chủ, hàng phục các oán địch, ra lệnh thi hành, chẳng có ai mà không thuận.
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Khi đại Bồ Tát bố thí toà báu, thì Ngài hoặc đem toà báu sư tử của mình ngồi, bố thí cho chúng sinh. Toà báu đó rất cao lớn, rất rộng rãi, rất thù thắng, đặc biệt tốt đẹp. Dùng lưu ly làm chân ghế, dùng vàng sợi kết thành, đệm toà rất mềm mại, có y phục bày trên toà. Phía trên toà báu, dựng tràng báu, và còn xông lên hương thơm quý. Lại dùng rất nhiều các thứ châu báu, làm thành đủ thứ vật nghiêm sức, dùng để trang nghiêm toà báu. Sợi vàng thật kết thành lưới giăng che phía trên, bốn phía treo các chuông báu, khi gió thổi rung động vang ra âm thanh vi diệu. Có hàng vạn trân báu kỳ lạ, nghiêm sức la liệt khắp bốn phía trên dưới toà.
Tất cả thần dân đều đến chiêm ngưỡng toà báu đó. Ông vua sau khi thọ lễ quán đảnh rồi, ông ta một mình ngồi trên toà báu sư tử. Khi ông vua ngồi trên toà báu, tuyên cáo tất cả mệnh lệnh giáo hoá chúng sinh, ngoài nhân dân cõi nước của mình, hoan hô phụng hành, hết thảy cõi nước lớn nhỏ, xa gần, đều thuận theo mạng lệnh của ông vua. Vị vua quán đảnh đó, lại dùng đủ thứ báu đẹp trân kỳ để trang nghiêm thân của ông ta, làm tăng thêm oai đức của ông ta. Báu đẹp mà ông ta dùng là: Báu phổ quang minh, báu đế thanh, báu đại đế thanh, báu thắng tạng ma ni. Những quang minh của các thứ báu đó, sáng thanh tịnh như ánh sáng của mặt trời, phát ra một thứ khí mát mẻ, giống như trăng rằm. Bốn phía nghiêm sức la liệt các châu báu, ánh sáng toả ra sáng lạn giống như các vì sao đêm khuya. Sự trang nghiêm tốt đẹp nhất, tối thượng nhất đó, trong nhân gian, trên trời, có thể gọi là bậc nhất, chẳng có gì có thể sánh bằng. Trong biển lại có báu đẹp rất thù thắng đặc biệt, tràng báu hải kiên cố, phía trên ngọc đó, thiên nhiên sinh ra những tia văn, bên ngoài cũng rất đặc biệt.
Ðủ thứ sự trang nghiêm khó hình dung hết được, ở trong đại chúng, phải gọi là tôn quý nhất, thù thắng nhất. Lại dùng vàng Diêm Phù Ðàn và lụa báu thanh tịnh nhất, chẳng có chút nhiễm ô nào, tạo thành cái mão để vua đội. Ông vua an hưởng địa vị quán đảnh, làm ông vua lớn cõi Diêm Phù Ðề, ông ta đầy đủ vô lượng sức oai đức lớn. Song, chẳng phải ông ta dùng oai võ để chinh phục người, mà là dùng từ bi làm chủ, giáo hoá chúng sinh đều phụng hành năm giới mười điều lành. Ông ta thi hành nhân chánh như thế, hàng phục những oán địch chưa từng thọ mạng, khiến cho họ thọ đức hoá, tâm vui vẻ thành phục làm dân lành của ông ta. Sự giáo hoá và mạng lệnh của ông ta đến đâu mọi người thảy đều thuận theo.
Thời, Chuyển luân Vương dĩ như thị đẳng bách thiên vạn ức vô lượng vô số bảo trang nghiêm tọa, thí ư Như Lai đệ nhất phước điền, cập chư Bồ-tát, chân thiện tri thức, hiền Thánh Tăng bảo, thuyết Pháp chi sư, phụ mẫu, tông thân, Thanh văn, độc giác, cập dĩ phát thú Bồ-tát thừa giả, hoặc Như Lai tháp, nãi chí nhất thiết bần cùng, cô lộ. Tùy kỳ sở tu, tất giai thí dữ.
Bấy giờ, vua Chuyển Luân Vương, dùng trăm ngàn vạn ức vô lượng vô số toà trang nghiêm như vậy, bố thí cho Như Lai ruộng phước bậc nhất, và các Bồ Tát, chân thiện tri thức, hiền Thánh Tăng Bảo, pháp sư thuyết pháp, cha mẹ tôn thân, Thanh Văn Ðộc Giác, và những người phát tâm hướng về Bồ Tát thừa, hoặc tháp của Như Lai, cho đến tất cả những kẻ bần cùng cô nhi, tuỳ theo chỗ họ cần, thảy đều bố thí cho.
Giảng: Lúc bấy giờ, vua Chuyển Luân Thánh Vương – Kinh văn ở trước đã từng nói Bồ Tát thị hiện ông vua nước lớn, che khắp mười phương. Ông vua nước lớn đó, dùng nhân đức thống trị bốn phương, giáo hoá chúng sinh, tức là vua Chuyển Luân Thánh Vương. Bấy giờ ông ta dùng trăm ngàn vạn ức vô lượng số toà báu trang nghiêm, bố thí cúng dường cho Như Lai, để cầu ruộng phước bậc nhất. Cũng bố thí cho các vị Bồ Tát, cùng với chân thật minh nhãn thiện tri thức hiền Thánh Tăng Bảo, các pháp sư hoằng pháp lợi sinh, diễn nói Phật pháp, cha mẹ của mình, tôn thân trong dòng dõi, các bậc Thánh Thanh Văn và Ðộc Giác, cùng với tứ chúng đệ tử phát tâm bồ đề tu đạo Bồ Tát đại thừa. Hoặc bố thí cúng dường tháp miếu thờ xá lợi của Phật, cho đến những kẻ bần cùng, cô nhi, già trẻ, đáng thương, bất luận là sang hèn, Bồ Tát thảy đều bình đẳng bố thí, tuỳ theo chỗ họ cần, khiến cho họ mãn tâm nguyện, mà sinh tâm đại hoan hỉ.
Dĩ thử thiện căn như thị hồi hướng, sở vị: nguyện nhất thiết chúng sanh tọa Bồ-đề tọa, tất năng giác ngộ chư Phật chánh pháp. Nguyện nhất thiết chúng sanh xứ tự tại tọa, đắc pháp tự tại, chư Kim Cương sơn sở bất năng hoại, năng tất tồi phục nhất thiết ma quân. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc Phật tự tại sư tử chi tọa, nhất thiết chúng sanh chi sở chiêm ngưỡng. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc bất khả thuyết bất khả thuyết chủng chủng thù diệu bảo trang nghiêm tọa, ư pháp tự tại, hóa đạo chúng sanh. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc tam chủng thế gian tối thù thắng tọa, quảng đại thiện căn chi sở nghiêm sức. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc chu biến bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới tọa, a-tăng-kì kiếp thán chi vô tận. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc Đại thâm mật phước đức chi tọa, kỳ thân sung mãn nhất thiết pháp giới.
Ðem căn lành đó hồi hướng như vầy: Nguyện cho tất cả chúng sinh, ngồi toà bồ đề, đều được giác ngộ chánh pháp của chư Phật. Nguyện cho tất cả chúng sinh ngồi toà tự tại, đắc được pháp tự tại. Các núi kim cang không thể hoại được, đều hàng phục được tất cả ma quân. Nguyện cho tất cả chúng sinh, đắc được toà sư tử tự tại của Phật, chỗ chiêm ngưỡng của tất cả chúng sinh. Nguyện cho tất cả chúng sinh, đắc được toà báu trang nghiêm, có bất khả thuyết bất khả thuyết đủ thứ thù thắng vi diệu. Nơi pháp tự tại, giáo hoá dẫn dắt chúng sinh. Nguyện cho tất cả chúng sinh, đắc được toà ba thứ thù thắng nhất thế gian, do căn lành rộng lớn nghiêm sức. Nguyện cho tất cả chúng sinh, đắc được toà khắp cùng bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới, trong A tăng kỳ kiếp khen ngợi cũng không hết được. Nguyện cho tất cả chúng sinh, đắc được toà phước đức rộng lớn thâm mật, thân hình sung mãn tất cả pháp giới.
Giảng: Bồ Tát đem căn lành bố thí toà báu, đối với tất cả chúng sinh hồi hướng như vầy: Ngài nói tôi nguyện cho tất cả chúng sinh, đều được ngồi trên toà kim cang dưới cội bồ đề, giống như Phật dùng một thừa pháp khai ngộ chúng sinh, tỏ ngộ chánh pháp của chư Phật. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đều đến bồ đề ngồi trên toà báu, đắc được tự tại thọ dụng của các pháp, kiên cố như núi kim cang, tất cả đều không thể lay động được tín niệm của họ, và huỷ diệt hàng phục được tất cả dị luận ma quân của thiên ma ngoại đạo. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đắc được toà báu sư tử tự tại của Phật, hết thảy chúng sinh đều vui mừng đến nhìn toà báu đó. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đắc được toà báu thù đặc trang nghiêm, chỗ tốt đẹp của nó không thể nào dùng văn tự lời lẽ để hình dung được, đối với các pháp thông đạt vô ngại, dùng để giáo hoá chúng sinh, dẫn dắt chúng sinh, tuỳ thời tuỳ lúc đều nhậm vận tự như, viên dung tự tại. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đắc được toà báu ba thứ thù thắng nhất trên thế gian:
- Chánh Giác thế gian.
- Hữu tình thế gian.
- Khí thế gian.
Thứ toà báu đó dùng căn lành rộng lớn để trang nghiêm. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đắc được toà báu lớn bất khả thuyết, cho nên dù có khen ngợi những ưu điểm của nó, trải qua A tăng kỳ kiếp, cũng nói không hết được. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đắc được toà báu phước đức vô lượng rộng lớn như hư không, thâm mật như biển cả, pháp thân sung mãn tất cả pháp giới.
Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc bất tư nghị chủng chủng bảo tọa, tùy kỳ Bổn Nguyện sở niệm chúng sanh, quảng khai pháp thí. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc thiện diệu tọa, hiện bất khả thuyết chư Phật thần thông. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc nhất thiết bảo tọa, nhất thiết hương tọa, nhất thiết hoa tọa, nhất thiết y tọa, nhất thiết man tọa, nhất thiết ma-ni tọa, nhất thiết lưu ly đẳng bất tư nghị chủng chủng bảo tọa, vô lượng bất khả thuyết thế giới tọa, nhất thiết thế gian trang nghiêm thanh tịnh tọa, nhất thiết Kim Cương tọa, thị hiện Như Lai uy đức tự tại, thành tối chánh giác. Thị vi Bồ-Tát Ma-ha-tát thí bảo tọa thời thiện căn hồi hướng. Vi lệnh chúng sanh hoạch ly thế gian Đại bồ-đề tọa, tự nhiên giác ngộ nhất thiết Phật Pháp cố.
Nguyện cho tất cả chúng sinh, đắc được toà báu đủ thứ không thể nghĩ bàn, tuỳ theo nguyện xưa chỗ niệm của chúng sinh, rộng mở pháp thí. Nguyện cho tất cả chúng sinh, đắc được toà tốt lành, hiện thần thông của chư Phật bất khả thuyết. Nguyện cho tất cả chúng sinh, đắc được tất cả toà báu. Tất cả toà hương. Tất cả toà hoa. Tất cả toà y phục. Tất cả toà man. Tất cả toà ma ni. Tất cả toà báu đủ thứ lưu ly thảy đều không thể nghĩ bàn. Vô lượng bất khả thuyết toà thế giới. Tất cả toà thanh tịnh trang nghiêm thế gian. Tất cả toà kim cang, thị hiện oai đức tự tại của Như Lai, thành tối Chánh Giác. Ðó là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát, khi Ngài bố thí toà báu, vì khiến cho chúng sinh đắc được toà đại bồ đề lìa thế gian, tự nhiên giác ngộ tất cả Phật pháp.
Giảng: Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đắc được toà báu đủ thứ không thể nghĩ bàn, tuỳ theo thuở xưa họ đã phát tâm nguyện, và họ nhớ ý niệm của chúng sinh, khắp rộng mở pháp hội, thuyết pháp cho chúng sinh, tác pháp bố thí. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đắc được toà báu tốt đẹp, khi ngồi trên toà báu đó, thì có thể thị hiện đủ thứ đại thần thông giống như chư Phật. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đắc được tất cả toà báu, đắc được tất cả toà hương, đắc được tất cả toà hoa, đắc được tất cả toà y phục, đắc được tất cả toà man, đắc được tất cả toà báu ma ni, đắc được tất cả toà báu làm bằng lưu ly tinh xảo không thể nghĩ bàn, toà báu vô lượng số thế giới bất khả thuyết, tất cả toà báu thanh tịnh nhất, trang nghiêm nhất trong thế gian, tất cả toà báu làm bằng kim cang, cho nên thị hiện đại oai đức, đại tự tại, đại thần thông của Như Lai, có thể thành tựu vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Ðó là tu pháp môn hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát, đem căn lành công đức của Ngài tu bố thí đủ thứ toà báu hồi hướng cho chúng sinh. Là vì hy vọng chúng sinh đắc được lợi ích, có thể đắc được toà báu đại bồ đề lìa khỏi thế gian, tự nhiên giác ngộ Phật pháp của mười phương chư Phật nói, rốt ráo tỏ ngộ chân đế của tất cả Phật pháp. Ðó gọi là thành tựu huệ thân, chẳng do người khác mà ngộ.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát thí chư bảo cái. Thử cái Thù đặc, tôn quý sở dụng, chủng chủng đại bảo nhi vi trang nghiêm, bách thiên ức na-do-tha thượng diệu cái trung tối vi đệ nhất. Chúng bảo vi can, diệu võng phước thượng, bảo thằng kim linh châu táp thùy hạ, ma-ni anh lạc thứ đệ huyền bố, vi phong xuy động, Diệu-Âm khắc hài. Châu ngọc Bảo Tạng chủng chủng sung mãn, vô lượng kì trân tất dĩ nghiêm sức, chiên đàn, trầm thủy diệu hương phổ huân, diêm phù đàn kim quang minh thanh tịnh. Như thị vô lượng bách thiên ức na-do-tha a-tăng-kì chúng diệu bảo vật cụ túc trang nghiêm, dĩ thanh tịnh tâm phụng thí ư Phật, cập Phật diệt hậu sở hữu tháp miếu, hoặc vi Pháp cố thí chư Bồ-tát cập thiện tri thức, danh văn Pháp sư, hoặc thí phụ mẫu, hoặc thí tăng bảo, hoặc phục phụng thí nhất thiết Phật Pháp, hoặc thí chủng chủng chúng sanh phước điền, hoặc thí sư tăng cập chư tôn tú, hoặc thí sơ phát Bồ-đề chi tâm nãi chí nhất thiết bần cùng, cô lộ. Tùy hữu cầu giả, tất giai thí dữ.
Phật tử ! Ðại Bồ Tát bố thí các lọng báu, lọng đó thù đặc, tôn quý, dùng đủ thứ báu lớn để trang nghiêm. Trong lọng báu có trăm ngàn ức Na do tha thứ thượng diệu tốt bậc nhất. Các thứ báu làm cáng, lưới đẹp phủ phía trên, chung quanh giăng treo dây báu và linh bằng vàng, chuỗi ma ni giăng bày thứ lớp. Gió nhẹ thổi lay động, vang ra tiếng vi diệu hài hoà với nhau. Châu ngọc tạng báu đủ thứ đầy dẫy, vô lượng đồ trân quý, đều dùng nghiêm sức. Chiên đàn trầm thuỷ, hương thơm xông khắp nơi. Vàng Diêm Phù Đàn quang minh thanh tịnh. Như vậy vô lượng trăm ngàn ức Na do tha A tăng kỳ các báu vật tốt đẹp, đầy đủ trang nghiêm. Dùng tâm thanh tịnh, dâng cúng Ðức Phật, và hết thảy chùa tháp sau khi Phật diệt độ. Hoặc vì pháp mà bố thí cho các Bồ Tát và bậc thiện tri thức, pháp sư nổi tiếng. Hoặc bố thí cho cha mẹ. Hoặc bố thí cho Tăng Bảo. Hoặc lại bố thí cho cho tất cả Phật pháp. Hoặc bố thí đủ thứ ruộng phước chúng sinh. Hoặc bố thí cho sư Tăng và các bậc tôn túc. Hoặc bố thí cho Bồ Tát mới phát tâm, cho đến tất cả những kẻ bần cùng, cô nhi, tuỳ theo chỗ họ mong cầu, thảy đều bố thí cho.
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát, Ngài lại bố thí đủ thứ lọng báu. Lọng đó rất đặc biệt thù thắng, cũng rất tôn quý, vì dùng đủ thứ báu trang nghiêm. Trong trăm ngàn ức Na do tha lọng báu, thì những lọng nầy cũng được tôn là bậc nhất. Cán lọng chẳng phải làm bằng gỗ, mà là dùng các thứ báu hợp thành. Phía trên có lưới báu giăng che, bốn phía có dây báu và linh bằng vàng, ma ni làm chuỗi giăng treo có thứ lớp, khi gió nhẹ thổi thì vang ra tiếng vi diệu, rất hài hoà êm tai. Chân châu ngọc ngà và các thứ tạng báu khác, đầy dẫy ở phía trên lọng, còn có vô lượng các báu lạ trân kỳ, dùng để nghiêm sức lọng báu. Lại dùng hương chiên đàn trầm thuỷ danh quý nhất để xông khắp lọng báu. Vàng diêm phù đề vừa phóng ra quang minh vừa thanh tịnh, bên ngoài lọng báu hiển lộ rất tôn quý.
Giống như tụ tập vô lượng trăm ngàn trăm ngàn ức Na do tha A tăng kỳ báu vật, đầy đủ các màu trang sức nhất, ở trên lọng báu đó. Bồ Tát dùng tâm thành thanh tịnh nhất không có tơ hào tạp niệm, đem lọng báu đó, dâng cúng lên đức Phật, và chùa tháp xá lợi sau khi Phật vào Niết Bàn. Hoặc vì cầu pháp mà bố thí lọng báu đó cho các Bồ Tát, minh nhãn thiện tri thức, cao Tăng có đức hạnh đồn khắp, làm thầy sư biểu của trời người. Hoặc đem lọng báu đó bố thí cho cha mẹ. Hoặc bố thí cho Thánh hiền Tăng. Hoặc bố thí cho tất cả Phật pháp. Hoặc bố thí cho tất cả chúng sinh, gieo trồng ruộng phước nơi chúng sinh. Hoặc bố thí cho thầy thế độ của mình, cao Tăng đại đức trong Phật môn, và những bậc tôn túc tiền bối trưởng lão. Hoặc bố thí cho Bồ Tát mới phát tâm bồ đề, cho đến tất cả những người nghèo khổ cô nhi. Tuỳ theo từng loại người đến cầu xin lọng báu đó, Bồ Tát tơ hào không xẻn tiếc, tuỳ tâm mãn nguyện bố thí cho họ.
Dĩ thử thiện căn như thị hồi hướng, sở vị: nguyện nhất thiết chúng sanh cần tu thiện căn dĩ phước kỳ thân, thường vi chư Phật chi sở tí ấm. Nguyện nhất thiết chúng sanh công đức trí tuệ dĩ vi kỳ cái, vĩnh ly thế gian nhất thiết phiền não. Nguyện nhất thiết chúng sanh phước dĩ thiện Pháp, trừ diệt thế gian trần cấu nhiệt não. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc trí tuệ tạng, lệnh chúng lạc kiến, tâm vô yếm túc. Nguyện nhất thiết chúng sanh dĩ tịch tĩnh bạch pháp nhi tự phước ấm, giai đắc cứu cánh bất hoại Phật Pháp.
Ðem căn lành đó hồi hướng như vầy: Nguyện cho tất cả chúng sinh, siêng tu căn lành, dùng che thân mình, thường được chư Phật che chở. Nguyện cho tất cả chúng sinh, dùng công đức trí huệ làm lọng che, vĩnh viễn lìa khỏi tất cả phiền não thế gian. Nguyện cho tất cả chúng sinh, dùng pháp lành che chở, trừ diệt trần cấu nhiệt não thế gian. Nguyện cho tất cả chúng sinh, đắc được tạng trí huệ, khiến cho chúng sinh đều ưa thấy, tâm chẳng nhàm đủ. Nguyện cho tất cả chúng sinh, dùng pháp trắng vắng lặng mà tự che chở, đều được Phật pháp rốt ráo không hoại.
Giảng: Bồ Tát đem căn lành bố thí lọng báu, vì chúng sinh mà hồi hướng: Ngài phát nguyện hy vọng tất cả chúng sinh, thường siêng tu tập nghiệp lành, trồng căn lành, dùng căn lành để che chở thân thể, nuôi lớn tâm từ bi. Do đó, có thể đắc được chư Phật hộ niệm, che chở, bảo hộ. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, dùng công đức lành, trí huệ che chở thân tâm, cũng có thể nói là nhờ công đức trí huệ của chư Phật che chở. Do đó, vĩnh viễn lìa khỏi tất cả phiền não của thế gian, vĩnh viễn lìa phiền não tức là chuyển phiền não thành bồ đề. Làm thế nào để chuyển phiền não thành bồ đề ? Phiền não và bồ đề chẳng phải là hai thứ, mà là một vật hai mặt, dựa theo tri kiến chánh tà của con người mà thành hình. Phiền não và bồ đề đều chẳng lìa khỏi thế gian, cũng chẳng lìa khỏi tâm ý của chúng ta. Lục Tổ Ðại Sư đã từng nói:
“Phật pháp tại thế gian
Chẳng lìa thế gian giác
Lìa thế cầu bồ đề
Ví như tìm sừng thỏ”.
Chỉ thị của mấy câu kệ nầy là nói, phiền não của thế gian là vì chúng ta không khéo lợi dụng nó, nếu biết lợi dụng, thì vốn tức là bồ đề; vì chẳng biết lợi dụng, nên bồ đề trở thành phiền não. Nói về vĩnh viễn lìa tất cả phiền não, tức là kêu chúng ta tự chuyển tất cả phiền não biến thành bồ đề. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, thường dùng pháp lành làm áo giáp, tẩy trừ pháp ô nhiễm của thế gian, chuyển thành thanh tịnh, chuyển tất cả nhiệt não thành mát mẻ. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đắc được bảo tạng đại trí huệ, khiến cho tất cả chúng sinh đều ưa thích gần gũi Ngài, tâm chẳng nhàm đủ. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, dùng pháp trắng vắng lặng – diệu pháp thanh tịnh, che chở chính mình, đều đắc được Phật pháp rốt ráo không hoại, thành quả vị Phật.
Nguyện nhất thiết chúng sanh thiện phước kỳ thân, cứu cánh Như Lai thanh tịnh Pháp thân. Nguyện nhất thiết chúng sanh tác chu biến cái, thập lực trí tuệ biến phước thế gian. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc diệu trí tuệ, xuất qua tam thế vô sở nhiễm trước. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc Ứng-Cúng cái, thành thắng phước điền, thọ nhất thiết cúng. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc tối thượng cái, hoạch vô thượng trí, tự nhiên giác ngộ. Thị vi Bồ-Tát Ma-ha-tát bố thí cái thời thiện căn hồi hướng.
Nguyện cho tất cả chúng sinh, khéo che thân mình, rốt ráo được pháp thân thanh tịnh của Như Lai. Nguyện cho tất cả chúng sinh, làm lọng che khắp, được mười lực trí huệ, che khắp thế gian. Nguyện cho tất cả chúng sinh, được diệu trí huệ, vượt qua ba đời, không nhiễm ô chấp trước. Nguyện cho tất cả chúng sinh, được lọng ứng cúng, thành ruộng phước thù thắng, thọ tất cả sự cúng dường. Nguyện cho tất cả chúng sinh, được lọng tối thượng, được trí vô thượng, tự nhiên giác ngộ. Ðó là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát khi Ngài bố thí lọng.
Giảng: Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, khéo che thân huệ mạng của chính mình, siêng tu nghiệp thiện, đắc được pháp thân thanh tịnh giống như Phật. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, làm lọng báu khắp cùng hư không pháp giới, đắc được mười thứ sức thần thông, và trí huệ không thể nghĩ bàn, trợ giúp tất cả chúng sinh thế gian. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đều đắc được lọng báu trí huệ thù thắng, vượt qua ba đời, vĩnh viễn không nhiễm trước năm dục. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, được lọng báu kham thọ trời người cúng, trở thành ruộng phước thù thắng bậc nhất, thọ tất cả trời người cúng dường. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, được lọng báu tối thượng, đắc được trí huệ vô thượng, thành tựu huệ thân, chẳng do người khác mà giác ngộ, tự nhiên thấu đạt pháp vi diệu thâm sâu của Phật nói. Ðó là đại Bồ Tát tu pháp hồi hướng, khi Ngài bố thí lọng báu, tu tập căn lành công đức, đem công đức đó hồi hướng cho chúng sinh.
Vi lệnh nhất thiết chúng sanh đắc tự tại cái, năng trì nhất thiết chư thiện Pháp cố. Vi lệnh nhất thiết chúng sanh năng dĩ nhất cái, phổ phước nhất thiết hư không Pháp giới nhất thiết sát độ, thị hiện chư Phật tự tại thần thông vô thoái chuyển cố. Vi lệnh nhất thiết chúng sanh năng dĩ nhất cái, trang nghiêm thập phương nhất thiết thế giới, cúng dường Phật cố. Vi lệnh nhất thiết chúng sanh dĩ diệu tràng phan cập chư bảo cái, cúng dường nhất thiết chư Như Lai cố. Vi lệnh nhất thiết chúng sanh đắc phổ trang nghiêm cái, biến phước nhất thiết chư Phật quốc độ tận vô dư cố. Vi lệnh nhất thiết chúng sanh đắc quảng đại cái, phổ cái chúng sanh, giai lệnh ư Phật sanh tín giải cố. Vi lệnh nhất thiết chúng sanh dĩ bất khả thuyết chúng diệu bảo cái, cúng dường nhất Phật, ư bất khả thuyết nhất nhất Phật sở giai như thị cố. Vi lệnh nhất thiết chúng sanh đắc Phật Bồ-đề cao quảng chi cái, phổ phước nhất thiết chư Như Lai cố.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, được lọng tự tại, vì giữ được tất cả các pháp lành. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, có thể dùng một lọng che khắp tất cả hư không pháp giới, tất cả cõi nước, thị hiện thần thông tự tại vô uý của chư Phật. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, có thể dùng một lọng trang nghiêm mười phương tất cả thế giới, cúng dường Phật. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, dùng tràng phan đẹp và các lọng báu, cúng dường tất cả các Như Lai. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, được lọng trang nghiêm khắp, che khắp tất cả cõi nước chư Phật trọn không dừ thừa. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, được lọng rộng lớn, che khắp chúng sinh, đều khiến cho ở chỗ Phật sinh tâm tin hiểu. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, dùng bất khả thuyết các lọng báu đẹp cúng dường một vị Phật. Ở chỗ mỗi vị Phật nhiều bất khả thuyết cũng đều như vậy. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, được lọng Phật bồ đề cao rộng, che khắp tất cả các Như Lai.
Giảng: Mục đích Bồ Tát đem căn lành của Ngài tu hành hồi hướng cho tất cả chúng sinh, vì khiến cho tất cả chúng sinh đắc được lọng báu tự tại, có thể thọ trì tất cả diệu pháp của chư Phật nói. Lại vì khiến cho tất cả chúng sinh, có thể dùng một lọng báu che khắp tất cả hư không pháp giới, và cõi nước của mười phương chư Phật, thị hiện thần thông tự tại của chư Phật, vĩnh viễn không sinh tâm thối chuyển. Lại vì khiến cho tất cả chúng sinh, có thể dùng một lọng báu, trang nghiêm mười phương tất cả thế giới, cúng dường mười phương chư Phật. Lại vì khiến cho tất cả chúng sinh, dùng tràng phan tốt nhất, và các thứ lọng báu, cúng dường mười phương chư Phật. Lại vì khiến cho tất cả chúng sinh, đắc được lọng báu trang nghiêm, che khắp mười phương cõi nước chư Phật, chẳng sót thừa. Lại vì khiến cho tất cả chúng sinh, đắc được lọng báu rộng lớn nhất, che khắp tất cả chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh đối với Phật sinh tâm tin hiểu. Lại vì khiến cho tất cả chúng sinh, dùng không biết bao nhiêu lọng báu làm bằng châu báu thượng diệu, cúng dường cho mỗi vị Phật. Ðối với mười phương vô lượng chư Phật cũng đều cúng dường như thế. Lại vì khiến cho tất cả chúng sinh, đắc được lọng báu bồ đề giác đạo vừa cao vừa rộng, có thể cúng dường che hộ mười phương chư Phật.
Vi lệnh nhất thiết chúng sanh đắc nhất thiết ma-ni bảo trang nghiêm cái, nhất thiết bảo anh lạc trang nghiêm cái, nhất thiết kiên cố hương trang nghiêm cái, chủng chủng bảo thanh tịnh trang nghiêm cái, vô lượng bảo thanh tịnh trang nghiêm cái, quảng đại bảo thanh tịnh trang nghiêm cái, bảo võng di phước, bảo linh thùy hạ, tùy phong dao động, xuất vi diệu âm, phổ phước Pháp giới, hư không giới, nhất thiết thế giới chư Phật thân cố. Vi lệnh nhất thiết chúng sanh đắc Vô chướng vô ngại trí trang nghiêm cái, phổ phước nhất thiết chư Như Lai cố. Hựu dục lệnh nhất thiết chúng sanh đắc đệ nhất trí tuệ cố. Hựu dục lệnh nhất thiết chúng sanh đắc Phật công đức trang nghiêm cố. Hựu dục lệnh nhất thiết chúng sanh ư Phật công đức sanh thanh tịnh dục nguyện tâm cố. Hựu dục lệnh nhất thiết chúng sanh đắc vô lượng vô biên tự tại tâm bảo cố. Hựu dục lệnh nhất thiết chúng sanh mãn túc chư pháp tự tại trí cố. Hựu dục lệnh nhất thiết chúng sanh dĩ chư thiện căn phổ phước nhất thiết cố.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh, được tất cả lọng báu ma ni trang nghiêm. Tất cả lọng chuỗi báu trang nghiêm. Tất cả lọng hương kiên cố trang nghiêm. Ðủ thứ lọng báu thanh tịnh trang nghiêm. Vô lượng lọng báu thanh tịnh trang nghiêm. Lọng báu rộng lớn thanh tịnh trang nghiêm. Lưới báu che phủ, linh báu thòng rũ, theo gió lay động, vang ra âm thanh vi diệu, che khắp pháp giới, hư không giới, tất cả thế giới thân chư Phật. Vì khiến cho tất cả chúng sinh, được lọng trí trang nghiêm không chướng không ngại, che khắp tất cả các Như Lai. Lại muốn khiến cho tất cả chúng sinh, được trí huệ bậc nhất. Lại muốn khiến cho tất cả chúng sinh, được công đức trang nghiêm của Phật. Lại muốn khiến cho tất cả chúng sinh, nơi công đức của Phật sinh tâm nguyện thanh tịnh. Lại muốn khiến cho tất cả chúng sinh, được vô lượng vô biên tâm báu tự tại. Lại muốn khiến cho tất cả chúng sinh, đầy đủ các pháp trí tự tại. Lại muốn khiến cho tất cả chúng sinh, dùng các căn lành che khắp tất cả.
Giảng: Lại vì muốn khiến cho tất cả chúng sinh, đắc được lọng báu trang nghiêm làm bằng ma ni báu. Lọng báu chuỗi trang nghiêm làm bằng tất cả châu báu. Lọng báu dùng tất cả hương kiên cố trang nghiêm. Lọng báu các thứ đá quý báu rất thanh tịnh. Lọng báu vô lượng số đá quý báu thanh tịnh trang nghiêm. Lọng báu dùng báu trang nghiêm thanh tịnh rộng lớn nhất. Còn có lưới La làm bằng châu báu. Lọng báu che phủ khắp. Linh báu bằng vàng thật thòng rũ bốn phía, theo gió lay động, vang ra tiếng hay vi diệu. Lọng báu rộng lớn đó không thể so sánh được, có thể che khắp tận hư không giới, khắp pháp giới, tất cả thế giới, cho đến pháp thân của chư Phật. Lại vì muốn khiến cho tất cả chúng sinh, đắc được lọng báu trang nghiêm, trí huệ chẳng có gì che đậy, chẳng có gì chướng ngại. Thứ lọng báu đó, có thể che hộ khắp mười phương chư Phật. Lại vì muốn khiến cho tất cả chúng sinh, đắc được trí huệ bậc nhất. Lại vì muốn khiến cho tất cả chúng sinh, đắc được đại công đức giống như Phật, và trang nghiêm giống như Phật. Lại vì muốn khiến cho tất cả chúng sinh, đối với công đức của Phật sinh tâm ngưỡng mộ thanh tịnh khen ngợi, tự mình cũng phát tâm nguyện thanh tịnh, cầu công đức như Phật. Lại vì muốn khiến cho tất cả chúng sinh, đắc được vô lượng vô biên tâm báu tự tại, tâm tự tại nhất có thể nhậm vận tự như, lại có tâm trí huệ thù thắng, nhận thức được, thông đạt được thật tướng của các pháp, thứ tâm đó mới được gọi là tâm báu. Lại vì muốn khiến cho tất cả chúng sinh, đắc được trí huệ nhậm vận tự tại, minh bạch thể tướng chân thật của tất cả các pháp, viên mãn tu tập tất cả các pháp. Lại vì muốn khiến cho tất cả chúng sinh, dùng đủ thứ căn lành tu tập, che hộ khắp tất cả hữu tình, vô tình, khiến cho họ đều có thể an trụ nơi cõi Phật thanh tịnh.
Hựu dục lệnh nhất thiết chúng sanh thành tựu tối thắng trí tuệ cái cố. Hựu dục lệnh nhất thiết chúng sanh thành tựu thập lực phổ biến cái cố. Hựu dục lệnh nhất thiết chúng sanh năng dĩ nhất cái di phước Pháp giới chư Phật sát cố. Hựu dục lệnh nhất thiết chúng sanh ư pháp tự tại vi pháp vương cố. Hựu dục lệnh nhất thiết chúng sanh đắc Đại uy đức tự tại tâm cố. Hựu dục lệnh nhất thiết chúng sanh đắc quảng đại trí hằng vô tuyệt cố. Hựu dục lệnh nhất thiết chúng sanh đắc vô lượng công đức phổ phước nhất thiết giai cứu cánh cố. Hựu dục lệnh nhất thiết chúng sanh dĩ chư công đức cái kỳ tâm cố. Hựu dục lệnh nhất thiết chúng sanh dĩ ình đẳng tâm phước chúng sanh cố. Hựu dục lệnh nhất thiết chúng sanh đắc đại trí tuệ bình đẳng cái cố. Hựu dục lệnh nhất thiết chúng sanh cụ Đại hồi hướng xảo phương tiện cố. Hựu dục lệnh nhất thiết chúng sanh hoạch thắng dục lạc thanh tịnh tâm cố. Hựu dục lệnh nhất thiết chúng sanh đắc thiện dục lạc thanh tịnh ý cố. Hựu dục lệnh nhất thiết chúng sanh đắc Đại hồi hướng phổ phước nhất thiết chư chúng sanh cố.
Lại muốn khiến cho tất cả chúng sinh, thành tựu lọng trí huệ tối thắng. Lại muốn khiến cho tất cả chúng sinh, thành tựu lọng mười lực khe khắp. Lại muốn khiến cho tất cả chúng sinh, có thể dùng một lọng che khắp pháp giới cõi nước chư Phật. Lại muốn khiến cho tất cả chúng sinh, nơi pháp tự tại làm bậc Pháp Vương. Lại muốn khiến cho tất cả chúng sinh, được tâm đại oai đức tự tại. Lại muốn khiến cho tất cả chúng sinh, được trí rộng lớn luôn không đoạn tuyệt. Lại muốn khiến cho tất cả chúng sinh, được vô lượng công đức, che khắp tất cả đều rốt ráo. Lại muốn khiến cho tất cả chúng sinh, dùng các công đức che tâm mình. Lại muốn khiến cho tất cả chúng sinh, dùng tâm bình đẳng che chúng sinh. Lại muốn khiến cho tất cả chúng sinh, được lọng đại trí huệ bình đẳng. Lại muốn khiến cho tất cả chúng sinh, đủ đại hồi hướng phương tiện khéo léo. Lại muốn khiến cho tất cả chúng sinh, được tâm ưa thích thanh tịnh thù thắng. Lại muốn khiến cho tất cả chúng sinh, được thiện ý ưa muốn thanh tịnh. Lại muốn khiến cho tất cả chúng sinh, được đại hồi hướng che khắp tất cả các chúng sinh.
Giảng: Lại muốn khiến cho tất cả chúng sinh, thành tựu lọng báu trí huệ tối thù thắng nhất. Lại muốn khiến cho tất cả chúng sinh, thành tựu sức mười lực của Phật, có thể che chở khắp tất cả. Lại muốn khiến cho tất cả chúng sinh, có thể dùng một lọng báu, che chở khắp hết thảy cõi nước chư Phật trong pháp giới. Lại muốn khiến cho tất cả chúng sinh, đối với các pháp đều thông đạt vô ngại, tự tại thọ dụng, kham làm bậc Pháp Vương, như đức Phật. Lại muốn khiến cho tất cả chúng sinh, đắc được tâm tự tại đại oai đức. Lại muốn khiến cho tất cả chúng sinh, đắc được trí huệ rộng lớn, vĩnh viễn chẳng tán mất. Lại muốn khiến cho tất cả chúng sinh, đắc được vô lượng công đức, che hộ khắp tất cả chúng sinh, mà còn thông đạt được quả vị rốt ráo.
Lại muốn khiến cho tất cả chúng sinh, dùng đủ thứ công đức che chở tâm trí của họ. Lại muốn khiến cho tất cả chúng sinh, dùng tâm bình đẳng che chở chúng sinh khác. Lại muốn khiến cho tất cả chúng sinh, đắc được đại trí huệ, bình đẳng che chở tất cả chúng sinh. Lại muốn khiến cho tất cả chúng sinh, đầy đủ pháp môn phương tiện khéo léo đại hồi hướng. Lại muốn khiến cho tất cả chúng sinh, đều đắc được ưa thích thanh tịnh thù thắng nhất, trong tâm rất thanh tịnh. Lại muốn khiến cho tất cả chúng sinh, đều biết lựa chọn sự ưa thích chánh đáng, ý cảnh cũng luôn luôn thanh tịnh, khiến cho chúng sinh đều lấy pháp làm vui. Lại muốn khiến cho tất cả chúng sinh, đắc được lợi ích đại hồi hướng, dùng lợi ích đó để lợi ích tất cả chúng sinh, che hộ khắp tất cả chúng sinh.
Các vị thiện tín ! Ðoạn Kinh văn ở trên đây, là hồi hướng thứ sáu trong thập hồi hướng. Bồ Tát ở trong hồi hướng nầy, Ngài tu sáu mươi thứ đại bố thí, bao quát tài, pháp, vô uý, đối tượng bố thí trên hết là chư Phật, dưới cùng là vô lượng chúng sinh, bần cùng cô nhi. Ðoạn Kinh văn nầy nói về bố thí lọng báu thứ mười chín. Khi Bồ Tát bố thí lọng báu đem căn lành hồi hướng, vì chúng sinh mà phát mười nguyện lớn, trong tâm lập mười mục đích, hai mươi hy vọng, nguyện nguyện đều vì chúng sinh, sự sự đều không quên chúng sinh. Tóm lại là hy vọng chúng sinh nhân tròn quả đầy. Mỗi chữ mỗi câu đều chảy ra tâm từ bi của Bồ Tát. Chúng ta đã tụng, đã nghe qua, có cảm tưởng gì ? Bồ Tát vì cứu vớt chúng sinh đời sau, thật là dụng tâm lương khổ ! Chúng ta đem cái gì báo đáp cho Bồ Tát ? Làm thế nào để đối với Bồ Tát ? Các vị ! Chúng ta chỉ có phát tâm tu hành, học đại từ đại bi của Bồ Tát, xả mình vì chúng sinh. Hy vọng mọi người sớm phát tâm đại từ bi, vì tâm đại từ bi mới sinh ra tâm bồ đề; nếu chẳng sinh tâm từ bi, thì tâm bồ đề chẳng phát được.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hoặc thí chủng chủng thượng diệu tràng phan. Chúng bảo vi can, bảo tăng vi phan, chủng chủng tạp thải dĩ vi kỳ tràng. Bảo võng thùy phước, quang sắc biến mãn. Bảo đạc vi diêu, âm tiết tướng hòa. kì đặc diệu bảo hình như bán nguyệt, diêm phù đàn kim quang du kiểu nhật, tất trí tràng thượng. Tùy chư thế giới nghiệp quả sở hiện, chủng chủng diệu vật dĩ vi nghiêm sức. Như thị vô số thiên vạn ức na-do-tha chư diệu tràng phan, tiếp ảnh liên huy đệ tướng gian phát, quang minh nghiêm khiết chu biến Đại địa, sung mãn thập phương hư không Pháp giới nhất thiết Phật sát. Bồ-Tát Ma-ha-tát tịnh tâm tín giải, dĩ như thị đẳng Vô-Lượng-Tràng phan, hoặc thí hiện tại nhất thiết chư Phật cập Phật diệt hậu sở hữu tháp miếu, hoặc thí pháp bảo, hoặc thí tăng bảo, hoặc thí Bồ Tát, chư thiện tri thức, hoặc thí Thanh văn cập Bích Chi Phật, hoặc thí Đại chúng, hoặc thí biệt nhân. Chư lai cầu giả, phổ giai thí dữ.
Phật tử ! Ðại Bồ Tát hoặc bố thí đủ thứ tràng phan tốt đẹp, cán làm bằng các thứ báu, lụa thêu báu làm phan, đủ thứ tơ lụa màu dùng làm tràng. Lưới báu giăng che. Ánh sáng màu sắc đầy khắp. Chuông báu lay động, vang ra âm thanh hoà nhã. Báu đẹp kỳ lạ đặc biệt, hình như bán nguyệt. Vàng diêm phù đàn, ánh sáng rực rỡ, đều an trí ở trên tràng. Tuỳ các thế giới nghiệp giới sở hiện. Ðủ thứ đồ vật tốt đẹp, dùng làm nghiêm sức. Như vậy vô số ngàn vạn ức Na do tha các tràng phan đẹp. Theo hình bóng mà chiếu sáng, quang minh trang nghiêm thanh khiết, khắp cùng đại địa, sung mãn mười phương hư không pháp giới. Tất cả cõi Phật, đại Bồ Tát, tịnh tâm tín giải. Dùng vô lượng tràng phan như vậy, hoặc bố thí cho tất cả chư Phật hiện tại, và hết thảy chùa tháp sau khi Phật diệt độ. Hoặc bố thí cho Pháp Bảo. Hoặc bố thí cho Tăng Bảo. Hoặc bố thí cho Bồ Tát các thiện tri thức. Hoặc bố thí cho Thanh Văn và Bích Chi Phật. Hoặc bố thí cho đại chúng. Hoặc bố thí cho người khác. Những người đến cầu mong, thảy đều bố thí cho.
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát, hoặc lại bố thí đủ thứ tràng và phan tốt đẹp nhất, dùng các thứ đá báu đủ màu sắc làm cán, dùng lụa thêu tối thượng làm phan, dùng các thứ tơ lụa màu tươi đẹp làm tràng, lưới La bằng châu báu giăng che thòng rũ bốn phía. Ánh sáng bảy báu và màu sắc tơ lụa đầy khắp trên tràng phan báu. Chuông báu giăng treo, khi gió thổi lay động, thì vang ra tiếng hoà nhã, và còn rất tiết tấu, rất hoà điệu, khiến cho người nghe, tự nhiên có cảm giác thoát trần. Còn có báu rất đặc biệt hiếm có, hình trạng giống như mặt trăng sáng, ánh sáng của vàng Diêm Phù Đề, còn sáng hơn là ánh sáng mặt trời. Những đồ vật nghiêm sức trân kỳ đó, đều an trí ở trên tràng báu và phan báu, tuỳ theo nghiệp của chúng sinh trên thế giới tạo ra, và quả báo thọ, mỗi mỗi đều xuất hiện ở trên tràng báu và phan báu. Lại có đủ thứ phẩm vật trang sức kỳ diệu, dùng để trang nghiêm ở trên đó. Do vậy tràng phan rất là đẹp đẽ vô cùng, có vô lượng ngàn vạn ức Na do tha tràng báu, phan báu, cùng nhau chiếu sáng, giống như ánh đèn, toả ra ánh sáng rực rỡ không dứt đoạn, chiếu sáng khắp cùng đại địa, sung mãn mười phương hư không pháp giới, trang nghiêm cõi nước chư Phật, đạo tràng của chư Phật trong mười phương.
Các vị ! Tại sao chúng ta chúng sinh bần cùng khốn khổ như vậy ? Là vì chúng ta chẳng tu bố thí. Tại sao chúng ta chúng sinh tướng mạo xấu xí ? Là vì chúng ta chúng sinh ở trước Phật chẳng cúng dường hoa tươi. Tại sao chúng ta chúng sinh ngu si như thế ? Vì chúng ta ở trước Phật chẳng đọc tụng Kinh điển. Tại sao chúng ta chúng sinh ai cũng có đủ thứ phiền não ? Là vì chẳng cúng dường Tam Bảo, chẳng cung kính Tam Bảo. Có những nhân tố như vậy, cho nên hết thảy tất cả đều chẳng viên mãn. Bồ Tát quán sát chúng sinh, nhân như vậy, quả như vậy, thương sót chúng sinh, phát nguyện đem căn lành công đức của mình bố thí, hoàn toàn hồi hướng cho chúng sinh, giáo hoá chúng sinh tu nhiều bố thí, tự mình lấy thân làm khuông phép, bố thí vô lượng châu báu và nội tài. Một phương diện tăng thêm căn lành phước đức của mình, mặt khác khiến cho chúng sinh cũng tăng thêm ruộng phước, tăng thêm sự trang nghiêm của thế giới, khiến cho chúng sinh đắc được các phương diện đều viên mãn.
Ðại Bồ Tát dùng tâm thanh tịnh của Ngài, tin sâu Phật pháp, thông đạt pháp của chư Phật nói, tu pháp môn hồi hướng, hạnh bố thí lớn. Giống như Kinh văn ở trước nói vô lượng tràng báu phan báu, hoặc Ngài đem bố thí cho tất cả chư Phật hiện tại, và chùa tháp xá lợi sau khi Phật diệt độ. Hoặc bố thí cho Pháp Bảo, tức là Kinh điển của chư Phật nói. Hoặc bố thí cho hiền Thánh Tăng Bảo. Hoặc bố thí cho các vị Bồ Tát, các vị đại thiện tri thức. Hoặc bố thí cho các bậc Thanh Văn, Bích Chi Phật. Hoặc bố thí cho tất cả chúng sinh. Hoặc bố thí cho những người cô độc. Phàm là những người nào đến cầu xin tràng báu phan báu, Bồ Tát đều có lòng từ bi bình đẳng, bố thí khắp cho những người đến xin.
Dĩ thử thiện căn như thị hồi hướng, sở vị: nguyện nhất thiết chúng sanh giai năng kiến lập nhất thiết thiện căn phước đức tràng phan, bất khả hủy hoại. Nguyện nhất thiết chúng sanh kiến nhất thiết pháp tự tại tràng phan, tôn trọng ái lạc, cần gia thủ hộ. Nguyện nhất thiết chúng sanh thường dĩ bảo tăng thư tả chánh pháp, hộ trì chư Phật Bồ-tát Pháp tạng. Nguyện nhất thiết chúng sanh kiến cao hiển tràng, nhiên trí tuệ đăng phổ chiếu thế gian. Nguyện nhất thiết chúng sanh lập kiên cố tràng, tất năng tồi điễn nhất thiết ma nghiệp.
Ðem căn lành đó hồi hướng như vầy: Nguyện cho tất cả chúng sinh, đều kiến lập được tất cả tràng phan căn lành phước đức, không thể huỷ hoại. Nguyện cho tất cả chúng sinh, kiến lập tất cả tràng phan pháp tự tại, tôn trọng ưa thích, siêng năng giữ gìn. Nguyện cho tất cả chúng sinh, thường dùng lụa báu biên chép chánh pháp, hộ trì tạng pháp của chư Phật Bồ Tát. Nguyện cho tất cả chúng sinh, kiến lập tràng cao hiển, đèn trí huệ sáng chói, chiếu khắp thế gian. Nguyện cho tất cả chúng sinh, kiến lập tràng kiên cố, đều phá tan tất cả ma nghiệp. Nguyện cho tất cả chúng sinh, kiến lập tràng trí lực, tất cả các ma không thể phá hoại được.
Giảng: Bồ Tát đem căn lành công đức của Ngài bố thí tràng báu phan báu, đối với chúng sinh hồi hướng như vầy: Nguyện cho tất cả chúng sinh, đều kiến lập được các thứ tràng phan căn lành phước đức, bất cứ thứ gì cũng không thể phá hoại được. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, kiến lập tràng phan các pháp tự tại, tôn trọng ưa thích pháp của chư Phật nói, siêng năng giữ gìn các pháp. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, thường dùng các thứ lụa quý để biên chép Kinh điển, cũng phải bảo hộ tạng pháp của chư Phật Bồ Tát lưu truyền. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, kiến lập tràng phan cao lớn hiển bày – lập chí lớn phát nguyện lớn, tiêu diệt hết tất cả nghiệp ma. Tại sao con người hay có ma nghiệp ? Là vì thuở xưa chẳng nghe lời dạy của bậc thiện tri thức, tự mình cứ khởi vọng tưởng, tạo nghiệp ác, cho nên đời nầy thường thọ ma nghiệp ràng buộc, mọi việc đều không toại tâm mãn nguyện. Nếu muốn tương lai không thọ ma nghiệp quấy nhiễu, thì hiện tại phải nghe sự giáo hoá của bậc thiện tri thức. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, kiến lập tràng báu có sức trí huệ, hết thảy thiên ma ngoại đạo đều không thể xâm phạm và phá hoại tâm thành tu đạo của họ được.
Nguyện nhất thiết chúng sanh kiến trí lực tràng, nhất thiết chư ma sở bất năng hoại. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc đại trí tuệ Na-la-diên tràng, tồi diệt nhất thiết thế gian mạn tràng. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc trí tuệ nhật đại quang minh tràng, dĩ trí nhật quang phổ chiếu Pháp giới. Nguyện nhất thiết chúng sanh cụ túc vô lượng bảo trang nghiêm tràng, sung mãn thập phương nhất thiết thế giới cúng dường chư Phật. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc Như Lai tràng, tồi diệt nhất thiết cửu thập lục chủng ngoại đạo tà kiến. Thị vi Bồ-Tát Ma-ha-tát thí tràng phan thời thiện căn hồi hướng, vi lệnh nhất thiết chúng sanh đắc thậm thâm cao quảng Bồ Tát hạnh tràng cập chư Bồ-tát thần thông hạnh tràng thanh tịnh đạo cố.
Nguyện cho tất cả chúng sinh, được tràng đại trí huệ Na la diên, diệt tan tất cả tràng kiêu mạn thế gian. Nguyện cho tất cả chúng sinh, được tràng trí huệ đại quang minh như mặt trời, dùng quang minh trí huệ mặt trời chiếu khắp pháp giới. Nguyện cho tất cả chúng sinh, đầy đủ vô lượng tràng báu trang nghiêm, sung mãn mười phương tất cả thế giới, cúng dường chư Phật. Nguyện cho tất cả chúng sinh, được tràng Như Lai, diệt tan tất cả chín mươi sáu thứ ngoại đạo tà kiến.
Ðó là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát khi Ngài bố thí tràng phan. Vì muốn khiến cho tất cả chúng sinh được tràng Bồ Tát hạnh thâm sâu cao rộng, và tràng thần thông hạnh đạo thanh tịnh của các Bồ Tát.
Giảng: Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, được trí huệ lớn nhất, kiên cố giống như tràng Na la diên – tràng báu kim cang, có thể diệt tan hết mao bệnh cống cao ngã mạn của mọi người trên thế gian. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, được trí huệ đại quang minh, ánh sáng phóng ra giống như mặt trời trên không giữa trưa chẳng có mây, dùng quang minh trí huệ chiếu sáng khắp mười pháp giới. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đầy đủ tràng báu trang nghiêm chẳng có số lượng, dùng để cúng dường chư Phật trong mười phương thế giới. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đắc được tràng Phật, tràng đó diệt tan được tất cả chín mươi sáu thứ ngoại đạo tà tri tà kiến. Những điều nói ở trên là đại Bồ Tát tu pháp hồi hướng, khi bố thí tràng báu phan báu, Ngài hồi hướng căn lành của mình làm. Bồ Tát hy vọng tất cả chúng sinh đều đắc được tràng Bồ Tát hạnh, vừa thâm sâu, vừa cao rộng, kiến lập pháp tràng, cùng với tràng thần thông hạnh của các Bồ Tát, và đạo thanh tịnh – Bồ Tát giác đạo thanh tịnh của Bồ Tát tu.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát khai chúng Bảo Tạng, dĩ ách thiên ức na-do-tha chư diệu trân bảo, cấp thí vô số nhất thiết chúng sanh, tùy ý dữ chi, tâm vô lận tích. dĩ chư thiện căn như thị hồi hướng, sở vị:
Nguyện nhất thiết chúng sanh thường kiến Phật bảo, xả ly ngu si, tu hành chánh niệm. Nguyện nhất thiết chúng sanh giai đắc cụ túc pháp bảo quang minh, hộ trì nhất thiết chư Phật Pháp tạng. Nguyện nhất thiết chúng sanh năng tất nhiếp thọ nhất thiết tăng bảo, châu cấp cúng dường, hằng Vô yếm túc. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc nhất thiết trí vô thượng tâm bảo, tịnh Bồ-đề tâm, vô hữu thoái chuyển. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc trí tuệ bảo, phổ nhập chư Pháp, tâm vô nghi hoặc.
Phật tử ! Ðại Bồ Tát khai mở các tạng báu, dùng trăm ngàn ức Na do tha các trân báu đẹp, bố thí cho vô số tất cả chúng sinh. Tuỳ theo ý mà cho họ, tâm chẳng xẻn tiếc. Ðem các căn lành đó hồi hướng như vầy:
Nguyện cho tất cả chúng sinh, thường thấy được Phật Bảo, xả lìa ngu si, tu hành chánh niệm. Nguyện cho tất cả chúng sinh, đều được đầy đủ Pháp Bảo quang minh, hộ trì tất cả pháp tạng của chư Phật. Nguyện cho tất cả chúng sinh, đều có thể nhiếp thọ tất cả Tăng Bảo, chu cấp cúng dường, luôn chẳng nhàm đủ. Nguyện cho tất cả chúng sinh, được nhất thiết trí vô thượng tâm bảo, thanh tịnh tâm bồ đề, chẳng có thối chuyển. Nguyện cho tất cả chúng sinh, được trí huệ bảo, vào khắp các pháp, tâm chẳng nghi hoặc.
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát khai mở kho tàng đủ thứ châu báu, đây là chỉ mười sáu thứ trí bảo, tức là tám nhẫn tám trí. Ðem trăm ngàn ức Na do tha báu đẹp kỳ lạ, bố thí cho vô lượng số chúng sinh, tuỳ theo yêu cầu của chúng sinh, mà cung cấp cho họ, trong tâm chẳng có chút xẻn tiếc nào. Ðem đủ thứ căn lành Ngài bố thí tích tụ, đối với chúng sinh hồi hướng như vầy: Nguyện cho tất cả chúng sinh, thường thường được thấy Phật. Nhờ đó mà xả lìa được tư tưởng hành vi ngu si, mà tu hành chánh pháp của chư Phật. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đều đắc được đầy đủ Pháp Bảo quang minh, vào sâu tạng Kinh, trí huệ như biển, viên mãn thông đạt đạo lý tất cả các pháp, và còn bảo hộ tạng pháp của chư Phật, tu trì pháp của chư Phật nói. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, thường được Tăng Bảo nhiếp thọ, tiếp thọ Phật Pháp Tăng Bảo giáo hoá, biết bố thí cho Tăng Bảo, cúng dường Tăng Bảo, thích trợ giúp Tăng Bảo, tất cả Phật sự, tận tâm tận sức luôn chẳng gián đoạn. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đắc được tâm bảo vô thượng trí huệ Bát Nhã, trí huệ chẳng có gì mà không thông đạt, tất cả nghĩa lý, đủ thứ phẩm loại thế xuất thế gian, tâm tu giác đạo bồ đề thanh tịnh, chẳng có lúc nào thối chuyển. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đắc được trí huệ bảo quý báu nhất, vào sâu đủ thứ diệu pháp, trong tâm đối với các pháp chẳng sinh tơ hào tâm hoài nghi.
Nguyện nhất thiết chúng sanh cụ túc Bồ Tát chư công đức bảo, khai thị diễn thuyết vô lượng trí tuệ. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc ư vô lượng diệu công đức bảo, tu thành chánh giác thập lực trí tuệ. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc diệu tam muội thập lục trí bảo, cứu cánh thành mãn quảng đại trí tuệ. Nguyện nhất thiết chúng sanh thành tựu đệ nhất phước điền chi bảo, ngộ nhập Như Lai vô thượng trí tuệ. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc thành đệ nhất vô thượng bảo chủ, dĩ vô tận biện khai diễn chư Pháp. Thị vi Bồ-Tát Ma-ha-tát thí chúng bảo thời thiện căn hồi hướng, vi lệnh nhất thiết chúng sanh giai đắc thành mãn đệ nhất trí bảo, Như Lai vô ngại Tịnh nhãn bảo cố.
Nguyện cho tất cả chúng sinh, đầy đủ các công đức bảo của Bồ Tát, khai thị diễn nói vô lượng trí huệ. Nguyện cho tất cả chúng sinh, đắc được nơi vô lượng diệu công đức bảo, tu thành Chánh Giác, trí huệ thập lực. Nguyện cho tất cả chúng sinh, được diệu tam muội, mười sáu trí bảo, rốt ráo thành tựu viên mãn trí huệ rộng lớn. Nguyện cho tất cả chúng sinh, thành tựu ruộng phước bảo đệ nhất, ngộ nhập trí huệ vô thượng của Như Lai. Nguyện cho tất cả chúng sinh, thành tựu vô thượng bảo vương đệ nhất, dùng vô tận biện tài khai diễn các pháp. Ðó là đại Bồ Tát, hồi hướng căn lành khi bố thí các châu báu, vì muốn khiến cho chúng sinh đều được thành tựu viên mãn trí bảo đệ nhất, mắt bảo thanh tịnh vô ngại của Như Lai.
Giảng: Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đầy đủ Bồ Tát đạo của Bồ Tát tu, tích tụ đủ thứ công đức bảo tạng, khai thị diễn nói vô lượng vô biên đại trí huệ của Bồ Tát. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đắc được vô lượng vô số thượng diệu công đức bảo, tu hành thành tựu Phật quả Chánh Đẳng Chánh Giác, và đắc được mười lực và trí huệ của Phật. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đắc được thiền định bất khả tư nghì và mười sáu thứ trí huệ bảo, đắc được vô thượng trí huệ của Phật. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, trở thành bảo chủ tối cao vô thượng đệ nhất – Phật quả, dùng biện tài chẳng cùng tận, đối với chúng sinh khai diễn đủ thứ pháp môn của chư Phật nói. Những lời nguyện đó, đều từ trong tâm từ bi của đại Bồ Tát, tu pháp hồi hướng chảy ra ! Bồ Tát đem căn lành công đức bố thí các châu báu, hồi hướng cho tất cả chúng sinh, vì muốn khiến cho mỗi chúng sinh đều đắc được thành tựu viên mãn, trí huệ bảo đệ nhất, mắt bảo thanh tịnh không chướng ngại giống như Phật.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hoặc dĩ chủng chủng diệu trang nghiêm cụ nhi vi bố thí. sở vị: nhất thiết thân trang nghiêm cụ, lệnh thân tịnh diệu, mị bất xưng khả. Bồ-Tát Ma-ha-tát đẳng quán nhất thiết thế gian chúng sanh, do như nhất tử, dục lệnh giai đắc thân tịnh trang nghiêm, thành tựu thế gian tối thượng an lạc, Phật trí tuệ lạc, an trụ Phật Pháp, lợi ích chúng sanh. Dĩ như thị đẳng bách thiên ức na-do-tha chủng chủng thù diệu bảo trang nghiêm cụ, cần hành bố thí. Hành bố thí thời, dĩ chư thiện căn như thị hồi hướng, sở vị:
Nguyện nhất thiết chúng sanh thành tựu vô thượng diệu trang nghiêm cụ, dĩ chư thanh tịnh công đức trí tuệ trang nghiêm nhân thiên. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc thanh tịnh trang nghiêm tướng, dĩ tịnh phước đức trang nghiêm kỳ thân. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc thượng diệu trang nghiêm tướng, dĩ ách phước tướng trang nghiêm kỳ thân. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc bất tạp loạn trang nghiêm tướng, dĩ nhất thiết tướng trang nghiêm kỳ thân.
Giảng: Phật tử ! Ðại Bồ Tát hoặc dùng đủ thứ đồ trang nghiêm tốt đẹp bố thí. Ðó là: Tất cả đồ trang nghiêm thân, khiến cho thân thanh tịnh vi diệu. Ðại Bồ Tát bình đẳng quán sát tất cả chúng sinh thế gian như con một. Muốn khiến cho họ đều được thân thanh tịnh trang nghiêm. Thành tựu an lạc tối thượng của thế gian. Ưa thích trí huệ của Phật. An trụ nơi Phật pháp, lợi ích chúng sinh. Ðem trăm ngàn ức Na do tha đủ thứ đồ báu đẹp trang nghiêm thù thắng như vậy, siêng thực hành bố thí. Khi bố thí, đem các căn lành hồi hướng như vầy:
Nguyện cho tất cả chúng sinh, thành tựu đồ trang nghiêm tốt đẹp vô thượng. Dùng các công đức trí huệ thanh tịnh trang nghiêm trời người. Nguyện cho tất cả chúng sinh, được đồ trang nghiêm thanh tịnh. Dùng phước đức thanh tịnh trang nghiêm thân mình. Nguyện cho tất cả chúng sinh, được tướng trang nghiêm tốt đẹp, dùng tướng trăm phước trang nghiêm thân mình. Nguyện cho tất cả chúng sinh, được tướng trang nghiêm chẳng tạp loạn, dùng tất cả tướng trang nghiêm thân mình.
Các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát, hoặc Ngài lại dùng các phẩm vật trang nghiêm tốt đẹp nhất, hiếm có trong đời để bố thí. Đó là: Ðồ trang sức trên thân, làm cho thân thể thanh tịnh trang nghiêm cao quý, đồ trang sức hợp với thân phận. Ðại Bồ Tát Ngài dùng mắt từ bi bình đẳng quán sát tất cả chúng sinh pháp giới, đều giống như con một của Ngài. Cho nên Ngài muốn khiến cho tất cả chúng sinh, thân họ vừa thanh tịnh, vừa trang nghiêm, đắc được an vui khoái lạc chân thật nhất trên thế gian. Lại đắc được hết thảy trí huệ pháp vui như Phật, an trụ ở trong Phật pháp lợi ích tất cả chúng sinh. Dùng trăm ngàn ức Na do tha đủ thứ phẩm vật trang nghiêm tốt đẹp thù thắng như vậy, luôn thực hành bố thí.
Khi Bồ Tát tu hành bố thí, thì Ngài đem đủ thứ căn lành mà Ngài đã tu tập, hồi hướng như vầy: Nguyện cho tất cả chúng sinh, được thành tựu đồ trang nghiêm tốt đẹp thù thắng tối thượng, dùng những công đức và trí huệ thanh tịnh đó, trang nghiêm Thánh hiền ở nhân gian và người trời. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đắc được thân tướng trang nghiêm chẳng có chút nhiễm ô nào, dùng phước đức thanh tịnh tu tập, trang nghiêm thân tướng của mình. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, được tướng mạo trang nghiêm đoan chánh viên mãn tốt đẹp tối thượng không thể nghĩ bàn, lại dùng trăm phước – đủ thứ nghiệp thiện công đức trang nghiêm thân mình. Tại sao chư Phật đều có tướng tốt trang nghiêm ?
Là vì các Ngài từ lúc ban đầu phát tâm, trải qua bất khả thuyết kiếp, đời đời kiếp kiếp đều làm các điều lành, không làm các điều ác, chừa từng có việc thiện nhỏ nào mà không làm, điều ác nhỏ nào mà làm. Nghiệp thiện từng chút từng giọt, tích tập dù nhỏ như hạt bụi, cho đến công đức nhỏ như sợi lông, mà thành tựu trăm phước, ngàn phước, ức vạn phước, nhiều không thể nói hết được, lâu dần mới được viên mãn ba mươi hai tướng tốt tám mươi vẻ đẹp. Chúng ta mỗi người, nếu sinh ra được ngũ quan đoan chánh, tứ chi đều đặng hoàn toàn, có trí huệ trung thượng đẳng, lại được nghe chánh pháp đại thừa, xuất gia tu hành, đó đều chẳng phải là ngẫu nhiên, đã tu hành tích tụ phước báu nhiều đời, cho nên mọi người đều nên phát tâm hoan hỉ, tinh tấn tu hành.
Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đắc được tướng chẳng tạp loạn, ngũ quan đoan chánh, đều đặng phối hợp với nhau, khiến cho người thấy được liền sinh tâm cung kính thân thiết, thì tự nhiên lộ ra biểu hiện cao quý trang nghiêm, khiến cho người tôn kính mà chẳng sợ hãi. Thân tài tứ chi nơi nơi đều viên mãn, dùng tất cả tướng tốt đó, để trang nghiêm thân thể của mình.
Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc thiện tịnh ngữ ngôn trang nghiêm tướng, cụ túc chủng chủng vô tận biện tài. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc nhất thiết công đức thanh trang nghiêm tướng, kỳ âm thanh tịnh, văn giả hỉ duyệt. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc khả ái lạc chư Phật ngữ ngôn trang nghiêm tướng, lệnh chư chúng sanh văn Pháp hoan hỉ tu thanh tịnh hạnh. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc tâm trang nghiêm tướng, nhập thâm Thiền định, phổ kiến chư Phật. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc tổng trì trang nghiêm tướng, chiếu minh nhất thiết chư Phật chánh pháp. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc trí tuệ trang nghiêm tướng, dĩ Phật trí tuệ trang nghiêm kỳ tâm.
Thị vi Bồ-Tát Ma-ha-tát huệ thí nhất thiết trang nghiêm cụ thời thiện căn hồi hướng. Vi lệnh chúng sanh cụ túc nhất thiết vô lượng Phật Pháp, công đức trí tuệ viên mãn trang nghiêm, vĩnh ly nhất thiết kiêu mạn phóng dật cố.
Nguyện cho tất cả chúng sinh, được tướng lời nói thiện tịnh trang nghiêm, đầy đủ đủ thứ biện tài vô tận. Nguyện cho tất cả chúng sinh, được tướng âm thanh tất cả công đức trang nghiêm. Âm thanh đó thanh tịnh, người nghe được đều vui thích. Nguyện cho tất cả chúng sinh, được tướng lời nói trang nghiêm đáng ưa thích của chư Phật, khiến cho các chúng sinh nghe pháp hoan hỉ, tu hạnh thanh tịnh. Nguyện cho tất cả chúng sinh, được tướng tâm trang nghiêm, vào thiền định sâu, thấy khắp chư Phật. Nguyện cho tất cả chúng sinh, được tướng tổng trì trang nghiêm, chiếu sáng tất cả chánh pháp của chư Phật. Nguyện cho tất cả chúng sinh, được tướng trí huệ trang nghiêm, dùng trí huệ của Phật trang nghiêm tâm mình.
Giảng: Ðó là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát khi Ngài bố thí tất cả đồ trang nghiêm. Vì muốn khiến cho chúng sinh, đầy đủ tất cả vô lượng Phật pháp công đức trí huệ, viên mãn trang nghiêm, vĩnh viễn lìa tất cả kiêu mạn phóng dật.
Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đắc được phương tiện khéo léo biện tài vô ngại, vì chúng sinh diễn nói diệu pháp thanh tịnh. Ðoạn văn ở trước nói thân nghiệp của Bồ Tát thanh tịnh, đoạn văn này nói ngữ nghiệp của Bồ Tát thanh tịnh, Ngài cũng nguyện ngữ nghiệp của chúng sinh thanh tịnh, dùng thân tướng trang nghiêm lời nói khéo léo thanh tịnh, đầy đủ đủ thứ biện tài vô tận, giáo hoá những chúng sinh có thành kiến, có nghi hoặc với Phật pháp, khiến cho họ tiêu mất tri kiến chướng ngại trên, tâm ý vui mừng thành phục, quy y với Phật giáo. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, được âm thanh đủ thứ công đức, dùng âm thanh đó trang nghiêm thân tướng.
Âm thanh của mỗi người, đều có quan hệ rất lớn đối với cuộc đời của họ. Có người tướng mạo đường đường, thân thể to lớn, nhưng một khi mở miệng nói, thì âm thanh giống như cái loa bễ; có người tiếng chẳng rõ ràng, nghe chẳng vui lòng, có tiếng trầm bổng cao thấp. Âm thanh của con người chẳng phải tập luyện mà được, mà là do phước báu nhiều đời làm nghiệp thiện mà có được. Tức khiến cho bạn có biện tài vô ngại, miệng nói như nước chảy, nói đến nỗi hoa trời rơi xuống. Nhưng âm thanh của bạn chẳng tốt, cũng dẫn đến làm cho thính chúng chẳng hứng thú; nếu bạn có cổ họng u nhã thanh tịnh, người khác chưa gặp được bạn, chỉ nghe tiếng của bạn nói, thì họ rất vui thích, bổn lai người trong mê mộng, lập tức giống như nghe được tiếng trống tiếng chuông, khiến cho họ tỉnh ngộ, chẳng màng bạn nói gì, họ nghe được tiếng mà ngộ đạo. Phàm là người có tiếng thanh tịnh, thì nhất định là người có đạo đức, có tu hành phạm hạnh, cho nên nói tiếng thanh tịnh, người nghe ưa thích.
Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, được đầy đủ trí huệ biết việc và biết người, lại có kỹ thuật nói, lời nói ra khiến cho người nghe hoan hỉ vui thích, giống như chư Phật, dùng lời nói trang nghiêm thân tướng. Chúng sinh nghe bạn nói pháp, thật là thân tâm an lạc, pháp hỷ sung mãn. Bổn lai là người không thể tu đạo, vì nghe tiếng của bạn nói, liền giác ngộ mà tu phạm hạnh thanh tịnh. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, được ý nghiệp thanh tịnh, dùng tâm ý thanh tịnh mà trang nghiêm thân tướng. Tâm là chủ của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, năm căn, là có trí huệ nhất. Tâm tốt nhất là thường ở trong sự vắng lặng, tu tập thiền định, vào sâu thiền định.
Do đó, có thể thấy khắp được mười phương ba đời chư Phật. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, hay tu học đủ thứ pháp, minh bạch vận dụng tất cả các pháp, nghĩa lý chân thật của các pháp, đều có thể y giáo y pháp phụng hành thật tiễn. Tổng trì, tức là “Tổng tất cả pháp, trì vô lượng nghĩa”. Dùng tâm nầy thể hội tinh thần lực hạnh, trang nghiêm thân tướng, quán chiếu thấu rõ chánh pháp của mười phương chư Phật. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đắc được trí huệ thù thắng, y theo sự biểu đạt minh triết của trí huệ, xử thế tiếp vật siêu nhiên cao tiết, mà trang nghiêm thân tướng, dùng trí huệ như Phật mà trang nghiêm tự tâm thanh tịnh.
Nguyện vọng ba nghiệp thanh tịnh ở trên, tức là khi đại Bồ Tát bố thí tất cả đồ trang nghiêm, đối với chúng sinh mà hồi hướng căn lành. Bồ Tát vì muốn hy vọng tất cả chúng sinh, đều đầy đủ vô lượng đủ thứ công đức của Phật pháp, và đắc được trí huệ thù thắng, viên mãn tướng trang nghiêm của họ, vĩnh viễn lìa khỏi những mao bệnh cống cao ngã mạn, kiêu ngạo phóng dật.
Các vị thiện tín ! Bồ Tát tinh tấn tu hành, ngày đêm không giải đãi, dùng công đức ba nghiệp thanh tịnh tu tập, mà trang nghiêm thân tâm của Ngài, Ngài cũng nguyện cho chúng sinh đều siêng tu ba nghiệp, khiến cho thân miệng ý thanh tịnh, mới có thể đắc được căn lành công đức thanh tịnh, mới có thể viên mãn thân tướng trang nghiêm. Chúng ta là người tu hành học đạo, giờ giờ phút phút đều không thể phóng dật, nhất là phải chú ý đến ba nghiệp cầu tinh tấn chẳng giải đãi, nếu hằng ngày tu hành tích tập công đức lành, gieo trồng đại căn lành. Không kể thời kiếp tinh tấn như vậy, thì tự nhiên sẽ thành tựu đạo nghiệp, cũng sẽ viên mãn tướng trang nghiêm của chúng ta. Tướng, tuy nhiên là tu, nhưng giả như bạn sinh ra hình tướng xấu xí, ai thấy cũng chẳng sinh tâm hoan hỉ mà xa lìa bạn, thì không dễ gì giáo hoá chúng sinh.
Vào năm đó, Tổ Sư Ðạt Ma đến Trung Quốc, người Trung Quốc thấy Ngài mặt đầy râu ria, mi dày mắt lớn, xa thấy mà sinh sợ. Cho nên Tổ Sư Ðạt Ma hơn mười năm quay mặt vào tường, chỉ giáo hoá rất ít chúng sinh, chỉ có vị Nhị Tổ Thần Quang, vì cầu pháp mà quỳ chín năm, còn chặt đứt một cánh tay, mới được chân truyền dùng tâm ấn tâm, mới có thiền tông ngày hôm nay. Hiện tại tôi đến tây phương hoằng pháp, giáo hoá các bạn tu học Phật pháp, cũng giáo hoá các bạn nên tu căn lành phước đức, để trang nghiêm thân tướng của mình.
Tu căn lành phước đức như thế nào ? Tu ở đâu ? Tu hành biện đạo cũng cần phải có chỗ an thân. Cơ hội nầy bây giờ nhân duyên đã thành thục, tức tại Vạn Phật Thành. Vạn Phật Thành cần có vạn Phật để trang nghiêm thành nầy. Gọi vạn Phật, chẳng phải vạn Phật đã thành, mà là vạn Phật sẽ thành, là đã phát tâm bồ đề, hiện tại đang phát tâm bồ đề, sẽ phát tâm bồ đề. Vạn Phật Thành, Vạn Phật Thành, Vạn Phật đều sẽ thành.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát dĩ thọ quán đảnh Tự tại Vương vị ma-ni bảo quán cập kế trung châu, phổ thí chúng sanh, tâm vô lận tích, thường cần tu tập, vi Đại thí chủ, tu học thí tuệ, tăng trưởng xả căn, trí tuệ thiện xảo, kỳ tâm quảng đại, cấp thí nhất thiết
Phật tử ! Ðại Bồ Tát dùng mão ma ni báu, thọ quán đảnh ngôi vua tự tại, và hạt châu trong búi tóc, bố thí khắp cho chúng sinh, tâm chẳng xẻn tiếc, thường siêng tu tập. Làm đại thí chủ, tu học thí huệ, tăng trưởng xả căn, trí huệ thiện xảo, tâm Ngài rộng lớn, bố thí cho tất cả.
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát, Ngài đem mũ của đế vương đã từng thọ lễ quán đảnh, tức là lễ lên ngôi vua, mão vua làm bằng ma ni báu, và hạt châu giấu ở trong búi tóc – hạt châu đó chỉ có ông vua mới có: Ai có được hạt châu nầy trong búi tóc, thì người đó là vua quán đảnh. Song, vua quán đảnh nầy, Ngài chẳng coi trọng ngôi vua của Ngài, mà còn có thể bố thí khắp cho tất cả chúng sinh, bất luận ai đến cầu xin, Ngài đều bố thí cho họ, trong tâm tuyệt đối chẳng có ý niệm xả bỏ chẳng được. Bồ Tát hành bố thí, trước hết Ngài dùng trí huệ quán sát nhân duyên, chứ chẳng phải mù mắt bố thí. Một mặt Ngài rất tinh tấn tu trì lục độ, một mặt không ngừng học tập trí huệ và phương pháp hành bố thí của chư Phật, tuỳ thời làm chủ nhân đại bố thí. Ngài tu học trí huệ bố thí, có thể tăng trưởng căn lành thí xả của Ngài. Do đó, tâm lượng của Ngài cũng đặc biệt rộng lớn, đối với vật chất bố thí, tơ hào không tính toán, đối với người nhận, một luật bình đẳng, chẳng có phân biệt kẻ oán người thân, bố thí khắp cho tất cả chúng sinh.
Dĩ bỉ thiện căn như thị hồi hướng, sở vị: nguyện nhất thiết chúng sanh đắc chư Phật Pháp chi sở quán đảnh, thành nhất thiết trí. Nguyện nhất thiết chúng sanh cụ túc đảnh kế, đắc đệ nhất trí, đáo ư bỉ ngạn. Nguyện nhất thiết chúng sanh dĩ diệu trí bảo phổ nhiếp chúng sanh, giai lệnh cứu cánh công đức chi đảnh. Nguyện nhất thiết chúng sanh giai đắc thành tựu trí tuệ Bảo Đính, kham thọ thế gian chi sở lễ kính. Nguyện nhất thiết chúng sanh dĩ trí tuệ quan trang nghiêm kỳ thủ, vi nhất thiết pháp tự tại chi Vương. Nguyện nhất thiết chúng sanh trí tuệ minh châu hệ kỳ đảnh thượng, nhất thiết thế gian vô năng kiến giả.
Ðem căn lành đó hồi hướng như vầy: Nguyện cho tất cả chúng sinh, được thọ pháp quán đảnh của chư Phật, thành tựu nhất thiết trí. Nguyện cho tất cả chúng sinh, đầy đủ đảnh nhục kế, được trí huệ đệ nhất, đến được bờ bên kia. Nguyện cho tất cả chúng sinh, dùng diệu trí bảo, nhiếp khắp chúng sinh, đều khiến cho đến được đảnh công đức rốt ráo. Nguyện cho tất cả chúng sinh, đều được thành tựu trí huệ bảo tột đảnh, kham thọ sự cung kính lễ bái của thế gian. Nguyện cho tất cả chúng sinh, dùng mão trí huệ trang nghiêm đầu mình, làm vua tự tại của tất cả các pháp. Nguyện cho tất cả chúng sinh, trí huệ minh châu thường cột trên đảnh, tất cả thế gian không ai thấy được.
Giảng: Bồ Tát đem căn lành công đức bố thí mão báu, đối với chúng sinh hồi hướng như vầy: Nguyện cho tất cả chúng sinh, đều thọ được chư Phật dùng nước pháp để quán đảnh, do vậy cho nên thành tựu nhất thiết trí huệ. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đều đầy đủ nhục kế tướng vô kiến đảnh, đắc được trí huệ bậc nhất, đến được Niết Bàn bờ bên kia. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đều có trí huệ bảo thượng diệu, dùng để nhiếp khắp chúng sinh khác, khiến cho họ đều được viên mãn công đức, đến được tột đảnh cao nhất. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đều thành tựu được trí huệ vô thượng thù thắng, trí huệ đó giống như vua các thứ báu, đến được cực đảnh, chân chánh được tiếp thọ tất cả chúng sinh thế gian cung kính lễ bái. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, dùng trí huệ làm mão báu, mà trang nghiêm đầu mình, có thể làm vua tự tại trong các pháp. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, trí huệ minh châu thường cột trên đảnh, phàm Thánh mười phương thế gian, chẳng có ai mà chẳng nhìn thấy được. Nghĩa là nói trí huệ quang, chiếu sáng mười phương, ai ai cũng đều nhìn thấy được.
Nguyện nhất thiết chúng sanh giai tất kham thọ thế gian đảnh lễ, thành tựu tuệ đảnh, chiếu minh Phật Pháp. Nguyện nhất thiết chúng sanh thủ quan thập lực trang nghiêm chi quan, trí tuệ bảo hải thanh tịnh cụ túc. Nguyện nhất thiết chúng sanh chí Đại địa đảnh, đắc nhất thiết trí, cứu cánh thập lực, phá dục giới đảnh chư ma quyến thuộc. Nguyện chư chúng sanh đắc thành đệ nhất vô thượng đảnh Vương, hoạch nhất thiết trí quang minh chi đảnh, vô năng ánh đoạt.
Thị vi Bồ-Tát Ma-ha-tát thí bảo quán thời thiện căn hồi hướng, vi lệnh chúng sanh đắc đệ nhất trí tối thanh tịnh xứ trí tuệ ma-ni diệu bảo quan cố.
Nguyện cho tất cả chúng sinh, thảy đều kham thọ thế gian đảnh lễ, thành tựu huệ đảnh, chiếu sáng Phật pháp. Nguyện cho tất cả chúng sinh, đầu đội mão thập lực trang nghiêm, trí huệ bảo hải thanh tịnh đầy đủ. Nguyện cho tất cả chúng sinh, đến được đảnh đại địa, được nhất thiết trí, rốt ráo thập lực, phá tan đảnh dục giới các quyến thuộc của ma. Nguyện cho tất cả chúng sinh, được thành tựu đảnh vua vô thượng bậc nhất, đắc được đảnh nhất thiết trí quang minh, không gì làm lu mờ được.
Giảng: Ðó là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát khi Ngài bố thí mão báu, vì khiến cho chúng sinh được trí huệ thanh tịnh bậc nhất và mão báu trí huệ ma ni vi diệu.
Bồ Tát lại nguyện cho tất cả chúng sinh, các đức viên mãn, quyết thật có thể tiếp thọ người thế gian lễ bái, lại thành tựu trí huệ Bát Nhã xuất thế, thấu hiểu tất cả Phật pháp. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, trên đầu đội mão, là dùng mười thứ oai lực như Phật làm đồ trang nghiêm. Trí huệ của Ngài sâu rộng như biển cả, và thanh tịnh trong suốt. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đến được tột đảnh đại địa, đắc được nhất thiết trí huệ, thành tựu mười thứ oai thần lực của Phật, phá trừ được dục niệm nguy hại trong dục giới, và những tà kiến thiên ma ngoại đạo, cùng với quyến thuộc của ma. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, thành tựu được đảnh vua vô thượng đệ nhất, đắc được trí huệ quang minh vô thượng, trên thế gian chẳng có gì có thể che lấp được, vượt qua được. Ðó là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát, khi Ngài bố thí mão báu. Vì hy vọng chúng sinh đắc được trí huệ đệ nhất, quả vị thanh tịnh nhất, và mão trí huệ ma ni báu vi diệu.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát kiến hữu chúng sanh xứ tại lao ngục hắc ám chi xứ, nữu giới, gia tỏa kiểm hệ kỳ thân, khởi tọa bất an, chúng khổ cạnh tập, vô hữu thân thức, vô quy vô cứu, lỏa lộ, cơ luy, toan kịch nan nhẫn. Bồ Tát kiến dĩ, xả kỳ sở hữu nhất thiết tài bảo, thê tử, quyến thuộc cập dĩ tự thân, ư lao ngục trung cứu bỉ chúng sanh, như đại bi Bồ-tát, diệu nhãn Vương Bồ Tát. ký cứu độ dĩ, tùy kỳ sở tu, phổ giai cấp thí, trừ kỳ khổ hoạn, lệnh đắc an ổn. Nhiên hậu thí dĩ vô thượng pháp bảo, lệnh xả phóng dật, an trụ thiện căn, ư Phật giáo trung, tâm vô thoái chuyển.
Phật tử ! Ðại Bồ Tát thấy có chúng sinh ở trong lao ngục đen tối, bị giam cầm cùm xiềng, trói buộc thân thể, đứng ngồi không yên, đủ các thứ khổ, chẳng có thân nhân bạn bè, không nơi nương tựa cứu vớt. Không có y phục, đói khát gầy ốm, đủ các thống khổ khó mà chịu được. Bồ Tát thấy rồi, xả bỏ hết thảy tất cả tiền tài, châu báu, vợ con quyến thuộc và thân mình. Ở trong lao ngục cứu chúng sinh đó. Như Bồ Tát Ðại Bi, Bồ Tát Diệu Nhãn Vương. Ðược cứu độ rồi, tuỳ theo sự cần dùng, thảy đều bố thí cho họ. Trừ được khổ sở hoạn nạn của họ, khiến cho được an ổn. Sau đó bố thí Pháp Bảo vô thượng, khiến cho họ xả bỏ phóng dật, an trụ vào căn lành, ở trong Phật giáo tâm chẳng thối chuyển.
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát, nhìn thấy có chúng sinh nào ở trong lao ngục tối tăm, bị giam cầm, cùm xiềng thân thể họ, đứng lên ngồi xuống đều bất phương tiện, cũng chẳng thoải mái, hết thảy thống khổ đều tụ tập nơi thân, lại chẳng có thân nhân và bạn bè, cũng chẳng có chỗ nương tựa và chẳng có ai cứu vớt. Trên thân chẳng có quần áo che thân, lại lạnh và đói khát, gầy ốm như khúc củi. Ðủ thứ sự thống khổ như vậy, thật chẳng dễ gì nhẫn chịu được. Bồ Tát thấy chúng sinh đáng thương như thế, lập tức đem hết thảy tiền tài châu báu, thậm chí vợ con, quyến thuộc, cho đến thân thể của Ngài, thảy đều xả thí, đến lao ngục cứu vớt chúng sinh đó ra. Hành động như thế của Ngài, giống như tinh thần cứu độ chúng sinh của Bồ Tát Ðại Bi Quán Thế Âm. Lại giống như Bồ Tát Diệu Nhãn Vương, hay xả mình vì người. Ngài cứu những chúng sinh khỗ nào đó thoát ra rồi, tuỳ theo sự cần của họ, thảy đều bố thí cho họ, để giải trừ những thống khổ hoạn nạn của họ, khiến cho thân tâm họ được an ổn. Sau đó khai thị Phật pháp cho họ nghe, giảng giải Kinh điển, khiến cho họ từ bỏ mao bệnh phóng dật, biết lợi ích an phận giữ quy cụ, thấu hiểu làm người phải tu hành các việc thiện, vun bồi căn lành phước đức của chính mình, tin sâu Phật pháp. Ở trong Phật giáo vĩnh viễn chẳng sinh tâm thối chuyển.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát ư lao ngục trung cứu chúng sanh thời, dĩ chư thiện căn như thị hồi hướng, sở vị: nguyện nhất thiết chúng sanh cứu cánh giải thoát tham ái triền phược. Nguyện nhất thiết chúng sanh đoạn sanh tử lưu, thăng trí tuệ ngạn. Nguyện nhất thiết chúng sanh trừ diệt ngu si, sanh trưởng trí tuệ, giải thoát nhất thiết phiền não triền phược. Nguyện nhất thiết chúng sanh diệt tam giới phược, đắc nhất thiết trí, cứu cánh xuất ly. Nguyện nhất thiết chúng sanh vĩnh đoạn nhất thiết phiền não kết phược, đáo vô phiền não, vô chướng ngại địa trí tuệ bỉ ngạn. Nguyện nhất thiết chúng sanh ly chư động niệm, tư tánh, phân biệt, nhập ư bình đẳng bất động trí địa.
Phật tử ! Khi đại Bồ Tát ở trong lao ngục cứu chúng sinh, thì đem các căn lành hồi hướng như vầy: Nguyện cho tất cả chúng sinh, rốt ráo giải thoát tham ái ràng buộc. Nguyện cho tất cả chúng sinh, dứt dòng sinh tử, thăng lên bờ trí huệ. Nguyện cho tất cả chúng sinh, diệt trừ ngu si, sinh trưởng trí huệ, giải thoát tất cả phiền não ràng buộc. Nguyện cho tất cả chúng sinh, diệt trừ ràng buộc trong ba cõi, được nhất thiết trí, rốt ráo thoát khỏi ba cõi. Nguyện cho tất cả chúng sinh, vĩnh viễn dứt tất cả phiền não trói buộc, đến được bờ bên kia trí huệ không có phiền não, không có chướng ngại. Nguyện cho tất cả chúng sinh, lìa các phân biệt động niệm tư duy, vào nơi trí địa bất động bình đẳng.
Giảng: Bồ Tát Kim Cang Tràng vì đề cao thính chúng trong pháp hội chú ý, và tăng cường chúng sinh đời sau xem trọng, lại lớn tiếng gọi một tiếng các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát, Ngài đến lao ngục thấy những chúng sinh đó thọ khổ, đời sống thống khổ, giống như chính thân mình chịu khổ, do đó Ngài nghĩ tìm cách cứu họ như thế nào. Nếu không thể cứu vớt họ thoát khỏi khổ nạn, thì Bồ Tát ăn không ngon, ngủ không yên.
Các vị thiện tín ! Các bạn chắc chắn sẽ hoài nghi, Bồ Tát chẳng phải có thần thông chăng ? Sao lại giống phàm phu ăn ngủ không yên. Phải, bạn cho rằng Bồ Tát với phàm phu hai dạng chăng ? Căn bản là một, bất quá tâm của Bồ Tát lúc nào cũng vì chúng sinh, còn tâm của phàm phu là vì mình. Bồ Tát thương người như chính mình, Ngài có tâm đại từ, hay ban vui cho mọi người; Ngài có tâm đại bi, hay cứu người thoát khỏi biển khổ. Vì đại từ đại bi cứu khổ cứu nạn, cho nên gọi là Bồ Tát. Bạn tôi và họ, nếu có tâm từ bi, thì cũng được mọi người gọi là Bồ Tát giống nhau.
Nhìn về biểu hiện, thì tư tưởng của Bồ Tát ngu si hơn phàm phu, ngày đêm tinh tấn tu hành, vì chúng sinh mà lao nhọc bôn ba, dụng hết khổ tâm, tu tập căn lành công đức, đều hồi hướng cho chúng sinh, nhưng sự ngu si đó là hướng thượng, tiến đến con đường Phật đạo. Phàm phu tự cho mình là thông minh, tức là đi về hạ lưu, hướng về trong vòng lục đạo. Tinh thần ngu si của Bồ Tát như thế, là vượt khỏi ba cõi, là biểu hiện đại trí ngu si. Nếu người nào muốn học Bồ Tát, thì trước hết phải học sự thiết thòi, không chiếm tiện nghi của người khác. Thiệt thòi là xả mình vì người, chiếm tiện nghi là ích kỷ. Bồ Tát thấy chúng sinh đồng một thể, cho nên muốn đến lao ngục để cứu chúng sinh. Khi Ngài đến cứu chúng sinh thì, Ngài đem căn lành công đức bố thí mà Ngài tu tập tích tụ từng chút từng chút, hoàn toàn hồi hướng cho tất cả chúng sinh, và còn phát tâm nguyện lớn:
Nguyện cho tất cả chúng sinh, đều chân thật giải thoát khỏi tham ái ràng buộc, đắc được thân tâm tự tại. Tham và ái là hai xiềng xích vô hình, trói buộc người đời không được tự do, chỉ có phiền não thống khổ, nhưng ai ai cũng trầm mê ở trong phiền não chẳng thể tự giác được, còn thấy là mạng sống thứ hai. Bổn lai chúng ta sinh ra thì có thể tánh thanh tịnh – tánh vốn thiện. Nhưng vì thọ năm dục theo năm tháng mà chảy vào trong chân tánh, bổn tánh thanh tịnh bèn bị nhiễm ô, bèn sinh ra tham ái, mê mất tự tánh, bèn có vô minh phiền não, bị ràng buộc mà chẳng được giải thoát. Tham ái tức là gông cùm, thọ khổ chẳng tự do tức là ở trong lao ngục.
Hiện tại Bồ Tát phát nguyện muốn khuyên giúp chúng ta giải thoát khỏi ràng buộc tham ái, muốn chúng ta thoát khỏi gông cùm nầy – buông xả tất cả hết thảy tâm tham tiền tài châu báu, vật chất hưởng thụ, phù hoa hư vinh, buông xả vợ đẹp con xinh, và hết thảy quyền vị, như thế thì sẽ đắc được chân chánh giải thoát. Nếu còn một chút buông xả chẳng được, thì đó vĩnh viễn vẫn ở trong lao ngục thọ trói buộc. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh dứt được lưu chuyển trong sinh tử. Gì gọi là dòng sinh tử ?
Tức là tâm tham ái. Vì tham ái mà tâm chẳng nhàm lìa, làm ra những nghiệp ác, thì vĩnh viễn theo dòng sinh tử ở trong sáu nẻo luân hồi. Phải làm thế nào để dứt được dòng sinh tử ? Phải tu hành biện đạo, chứng được sơ quả A la hán, thì nhập vào dòng Thánh nhân pháp tính, ngược lại dòng phàm phu sáu trần. Dứt được dòng sinh tử, mới thăng lên được bờ trí huệ, mới phá được vô minh hiển pháp tính. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, tiêu diệt được tư tưởng hành vi ngu si. Diệt trừ ngu si tức là phá vô minh, mới minh bạch được sự lợi hại của tham ái, vì tham ái tức là dòng sinh tử. Diệt trừ được ngu si, thì phá được vô minh, sau đó sẽ sinh trưởng trí huệ.
Giống như mặt trời mọc lên tức là ban ngày, ban ngày giống như thông minh. Mặt trời lặng đi, tức là đêm tối, đêm tối tức là vô minh. Ánh sáng mặt trời giống như quang minh của Phật chiếu khắp, một khi được quang minh của Phật chiếu đến thân thể, thì tất cả phiền não ràng buộc đều được giải thoát. Con người đều hoan hỉ nghe những lời khen, nếu như nghe những lời họ mắng bạn, thì lập tức phiền não sinh ra, kỳ thật nếu xem lời mắng như lời khen, thì cũng chẳng có chuyện gì, tại sao chỉ khác nhau giữa mắng và khen, thì vui và giận lại khác nhau !
Ðó tức là bị cảnh giới chuyển. Mỗi người tu đạo, phải dưỡng thành định lực khống chế, phải có công phu người chuyển cảnh, thì không bị cảnh chuyển người. Hai câu nầy tôi thường khuyên các bạn, hy vọng các bạn khéo vận dụng, trợ giúp rất lớn đói với sự tu hành. Ðó cũng là biện pháp tiêu diệt ngu si, sinh trưởng trí huệ, giải thoát tất cả phiền não ràng buộc. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, tiêu diệt được sự trói buộc của ba cõi-cõi dục, cõi sắc, cõi vô sắc, tức là khởi hoặc, tạo nghiệp, thọ báo. Một niệm vô minh sinh ra, thì theo đó mà tạo ra đủ thứ nghiệp. Diệt được sự trói buộc ba cõi rồi, thì sẽ vượt khỏi ba cõi, đắc được trí huệ chân chánh xuất thế, vĩnh viễn lìa khỏi ràng buộc của ba cõi.
Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, vĩnh viễn đoạn trừ tất cả phiền não kết tập trói buộc, bao quát gồm có “tham, sân, si, mạn, nghi, ác, kiến; thân, biên, giới, kiến, tà”, dứt trừ được những nguồn gốc đó, thì vĩnh viễn dứt trừ phiền não kết tập ràng buộc, sau đó sẽ đắc được thân tâm tự tại, đến được cảnh giới tất cả không chướng ngại, thăng lên bờ bên kia trí huệ. Từ ngu si đến được bờ bên kia trí huệ, nói ra rất giản đơn. Nhưng nếu bạn không cung hành thực tiễn, thành thật tu hành, chỉ học thiền ngoài miệng, hoặc giống như người đầu đá, chỉ nói mà không tu hành, thì vĩnh viễn chẳng đến được bờ bên kia trí huệ. Cho nên hy vọng mỗi người tu học đạo, mọi người đều nhiếp tâm được quy về một, dần dần từng bước từng bước đi hướng về bồ đề.
Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, lìa khỏi tất cả tạp niệm không cần thiết, thường chế tâm tại một chỗ, suy gẫm các pháp, an trụ trong sự vắng lặng không động, thì sẽ cảm mà toại thông. Chẳng còn vọng niệm, cũng chẳng còn tư duy, đối với tất cả cảnh giới cũng chẳng còn phân biệt, như vậy thì sẽ đạt đến cảnh giới tu hành như định. Do đó gọi là tâm không phân biệt, ý không suy gẫm, nhập vào trí huệ bình đẳng bất động. Ðịnh hay sinh trí huệ, có định thì sẽ phát sinh trí huệ.
Nguyện nhất thiết chúng sanh thoát chư dục phược, vĩnh ly thế gian nhất thiết tham dục, ư tam giới trung vô sở nhiễm trước. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc thắng chí lạc, thường mông chư Phật vi thuyết Pháp môn. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc Vô Trước, vô phược giải thoát, tâm quảng đại như Pháp giới, cứu cánh như hư không. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc Bồ Tát thần thông, nhất thiết thế giới điều phục chúng sanh, lệnh ly thế gian, trụ ư Đại-Thừa.
Thị vi Bồ-Tát Ma-ha-tát cứu độ lao ngục khổ chúng sanh thời thiện căn hồi hướng, vi lệnh chúng sanh phổ nhập Như Lai trí tuệ địa cố.
Nguyện cho tất cả chúng sinh, thoát khỏi các dục trói buộc, vĩnh viễn lìa tất cả tham dục thế gian. Ở trong ba cõi, chẳng có nhiễm trước. Nguyện cho tất cả chúng sinh, được chí nguyện thù thắng khoái lạc, thường được chư Phật vì nói pháp môn. Nguyện cho tất cả chúng sinh, được tâm giải thoát không chấp trước không ràng buộc, rộng lớn như pháp giới, rốt ráo như hư không. Nguyện cho tất cả chúng sinh, được thần thông của Bồ Tát, điều phục chúng sinh tất cả thế giới, khiến cho họ lìa thế gian, trụ nơi đại thừa.
Giảng: Ðó là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát khi Ngài cứu độ chúng sinh trong lao ngục, vì khiến cho chúng sinh vào khắp trí huệ của Như Lai.
Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, giải thoát khỏi tất cả tham dục trói buộc, tức là bao quát vọng tưởng, ý niệm dâm dục. Những tư tưởng không chánh đáng đó, trói buộc thân tâm con người không động được, muốn giải trừ những trói buộc tham dục, thì phải vĩnh viễn lìa khỏi những tham dục, mà người thế gian ưa thích, mới có thể ở trong tam giới đắc được thanh tịnh. Nếu không nhiễm trước dục niệm ba cõi, thì có thể thoát khỏi ba cõi, đắc được vui vắng lặng thanh tịnh. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đắc được chí nguyện thù thắng khoái lạc, mà còn được mười phương chư Phật hộ niệm, vì nói tất cả pháp môn tu hành, khiến cho chúng sinh y giáo tu hành. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đắc được tâm giải thoát chẳng chấp trước, cũng chẳng bị ràng buộc, tự tại an ổn, toại tâm như ý, tâm ý khoát đạt khắp pháp giới, thanh tịnh không nhiễm như hư không. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đắc được thần thông giống như Bồ Tát, đến mười phương thế giới giáo hoá chúng sinh, điều phục những chúng sinh cang cường, khiến cho họ đều phát tâm bồ đề, lìa khỏi tất cả những ưu sầu khổ não trên thế gian, an trụ ở trong Phật pháp đại thừa bình đẳng. Ðó tức là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát khi Ngài cứu vớt chúng sinh thọ khổ trói buộc tham ái dục lạc ở trong lao ngục. Mục đích là vì khiến cho tất cả chúng sinh đạt được trí huệ của Phật.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát kiến hữu ngục tù ngũ xứ bị phược, thọ chư khổ độc. phòng vệ khu bức, tướng chi tử địa, dục đoạn kỳ mạng, xả Diêm-phù-đề nhất thiết lạc cụ, thân thích, bằng hữu tất tướng vĩnh quyết, trí cao châm thượng dĩ đao đồ cát, hoặc dụng mộc thương thụ quán kỳ thể, y triền du ốc dĩ hỏa phần thiêu, như thị đẳng khổ, chủng chủng bức bách. Bồ Tát kiến dĩ, tự xả kỳ thân nhi đại thọ chi. Như A-dật-đa Bồ Tát, Thù Thắng Hạnh Vương Bồ Tát cập dư vô lượng chư đại Bồ-tát, vi chúng sanh cố, tự xả thân mạng, thọ chư khổ độc.
Phật tử ! Ðại Bồ Tát thấy có tù nhân, cổ mang gông, tay chân bị trói, thọ các khổ độc, sắp bị xử tử. Xả bỏ tất cả đồ vui cõi Diêm Phù Ðề, thân nhân bạn bè. Hoặc dùng dao lóc thịt, hoặc dùng giáo đâm, hoặc dùng lửa thiêu. Các thứ khổ như vậy, đủ thứ sự bức bách. Bồ Tát thấy rồi, tự xả bỏ thân mình, mà thay thế họ thọ khổ. Như Bồ Tát A Dật Ða, Bồ Tát Thù Thắng Hạnh Vương, cùng với vô lượng các Bồ Tát khác. Vì chúng sinh mà tự bỏ thân mạng, thọ các khổ độc.
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát, Ngài nhìn thấy chúng sinh bị nhốt ở trong lao ngục, cổ bị mang gông, hai tay bị trói lại, hai chân bị cùm, không thể cử động được, thống khổ vạn phần. Lại còn thêm những ngục tốt cai quản tội phạm thường xin họ tài vật, nếu không được toại nguyện, thì bị họ hành hạ đủ thứ hình phạt độc ác, muốn xử tử họ, đoạt lấy mạng sống của họ. Những ngục tù thọ khổ đáng thương đó, xả bỏ hết những đồ vật tài sản trong cõi Diêm Phù Ðề, và những dụng cụ vui chơi hằng ngày mà họ ưa thích. Quyến thuộc, thân nhân, bạn bè cũng đều vĩnh viễn từ biệt. Dẫn họ lên chỗ rất cao, dùng dao lóc thịt ra từng miếng, hoặc dùng giáo đâm, xuyên thủng thân thể họ, hoặc đổ dầu lên quần áo của họ rồi dùng lửa thiêu đốt. Những thảm cảnh độc ác đó, trừng phạt những tù nhân, Bồ Tát thấy rồi, sao mà không khiến Ngài đau lòng cho được ? Cho nên Ngài quyết xả bỏ thân mình, tìm đến chỗ tù nhân thay thế họ, để thọ hình pháp thống khổ tàn khốc. Giống như Bồ Tát A Dật Ða, Bồ Tát Thù Thắng Hạnh, khi các Ngài hành Bồ Tát đạo cứu độ chúng sinh, thì thường xả bỏ mạng sống cứu vớt chúng sinh. Chẳng những hai vị Bồ Tát đó như vậy, mà còn có vô lượng vô biên các Bồ Tát khác, vì cứu chúng sinh, cũng thường thường xả bỏ thân mình, nguyện thay thế chúng sinh thọ tất cả khổ độc.
Bồ Tát nhĩ thời ngữ chủ giả ngôn: ngã nguyện xả thân dĩ đại bỉ mạng, như thử đẳng khổ khả dĩ dữ ngã. Như trì bỉ nhân, tùy ý giai tác. Thiết qua bỉ khổ a-tăng-kì bội, ngã diệc đương thọ, lệnh kỳ giải thoát. Ngã nhược kiến bỉ tướng bị sát hại, bất xả thân mạng cứu thục kỳ khổ, tức bất danh vi trụ Bồ Tát tâm. Hà dĩ cố? ngã vi cứu hộ nhất thiết chúng sanh, phát nhất thiết trí Bồ-đề tâm cố.
Bấy giờ, Bồ Tát nói với người chủ quản lý rằng: Tôi nguyện xả thân để thay thế mạng sống cho người kia. Thọ các thứ khổ như người kia, có thể trị tôi như người kia, tuỳ ý các ông làm. Dù thọ khổ trải qua gấp bội A tăng kỳ, tôi cũng cam chịu. Khiến cho người kia được giải thoát, nếu tôi thấy người kia bị giết hại, không xả thân mạng cứu chuộc họ, thì không gọi là trụ tâm Bồ Tát. Tại sao ? Tôi vì cứu hộ tất cả chúng sinh, mà phát tâm bồ đề nhất thiết trí.
Giảng: Lúc đó, Bồ Tát nói với người quản lý giám ngục rằng: Tôi nguyện ý bố thí thân thể của tôi, để thay thế mạng sống của người thọ khổ hình. Những gì người kia thọ khổ, tôi xin chịu hết, trừng phạt tôi giống như người kia, tuỳ ý ông muốn trừng phạt thế nào cũng được. Dù ông muốn tôi thọ khổ trải qua gấp bội vô lượng vô biên người kia, tôi cũng cam chịu tiếp thọ. Chỉ muốn ông khiến cho người kia thọ khổ được giải thoát, được tự do. Bồ Tát nói: Nếu như tôi thấy chúng sinh thọ những khổ hình đó, khi sắp phải bị giết hại, mà tôi không xả bỏ thân mạng để cứu họ, hoặc dùng tiền vàng đi chuộc thân mạng họ, thì tôi không được gọi là người đã phát tâm Bồ Tát, hành Bồ Tát đạo, trụ nơi quả vị của Bồ Tát. Vì sao ? Vì tôi cứu hộ mạng sống tất cả chúng sinh, giống như cứu hộ mạng sống của chính mình. Tôi thấy chúng sinh thọ khổ, giống như mình thọ khổ. Cho nên tôi phát nguyện cứu hộ tất cả chúng sinh, tôi phát tâm bồ đề giác đạo nhất thiết trí huệ, tức là vì cứu chúng sinh.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát tự xả thân mạng cứu chúng sanh thời, dĩ chư thiện căn như thị hồi hướng, sở vị: nguyện nhất thiết chúng sanh đắc vô đoạn tận cứu cánh thân mạng, vĩnh ly nhất thiết tai hoạnh bức não. Nguyện nhất thiết chúng sanh y chư Phật trụ, thọ nhất thiết trí, cụ túc thập lực, Bồ-đề kí biệt. Nguyện nhất thiết chúng sanh phổ cứu hàm thức, lệnh vô bố úy, vĩnh xuất ác đạo. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc nhất thiết mạng, nhập ư bất tử trí tuệ cảnh giới. Nguyện nhất thiết chúng sanh vĩnh ly oán địch, vô chư ách nạn, thường vi chư Phật, thiện hữu sở nhiếp. Nguyện nhất thiết chúng sanh xả ly nhất thiết đao kiếm binh trượng, chư ác khổ cụ, tu hành chủng chủng thanh tịnh thiện nghiệp.
Phật tử ! Khi đại Bồ Tát tự xả thân mạng cứu chúng sinh, thì đem các căn lành hồi hướng như vầy: Nguyện cho tất cả chúng sinh, được thân mạng rốt ráo không đoạn tận, vĩnh viễn lìa khỏi tất cả tai nạn bức não. Nguyện cho tất cả chúng sinh, nương chư Phật mà trụ, được thọ ký nhất thiết trí, đầy đủ mười lực bồ đề. Nguyện cho tất cả chúng sinh, cứu khắp hàm thức, khiến cho không sợ hãi, vĩnh viễn thoát khỏi đường ác. Nguyện cho tất cả chúng sinh, được tất cả mạng, vào nơi cảnh giới trí huệ bất tử. Nguyện cho tất cả chúng sinh, vĩnh viễn lìa oán địch, không có các ách nạn, thường được chư Phật bạn lành nhiếp thọ. Nguyện cho tất cả chúng sinh, xả lìa tất cả đao kiếm binh trượng, các dụng cụ khổ ác, tu hành đủ thứ nghiệp thiện thanh tịnh.
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Khi đại Bồ Tát Ngài tự nguyện xả thân mạng cứu chúng sinh, vẫn đem căn lành tích luỹ mà Ngài tu bố thí, đối với chúng sinh hồi hướng như vầy: Nguyện cho tất cả chúng sinh, đều đắc được thân mạng chân thật vĩnh viễn không đoạn diệt-pháp thân, cũng vĩnh viễn lìa khỏi ba tai tám nạn, và những khổ não bách hại khác. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, có thể y chiếu pháp của chư Phật nói, lão thật tu hành, gần gũi chư Phật, y chỉ chư Phật mà trụ, đắc được nhất thiết Phật trí, đầy đủ mười thứ oai thần lực. Còn được thọ ký thành Phật-mỗi vị Phật trước khi thành Phật, đều được mười phương chư Phật thọ ký, tức là nói trước đời vị lai sẽ được thành Phật, hiệu Phật là gì, cõi nước tên gì, đại kiếp thời gian trụ thế bao lâu .v.v… Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, có thể cứu hộ khắp tất cả những kẻ có mạng sống, khiến cho họ chẳng thọ sự sợ hãi, mà vĩnh viễn xa lìa khỏi ba đường ác. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, được mạng sống lâu dài, đến được cảnh giới bất tử, chẳng còn vô minh, chỉ có trí huệ. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, vĩnh viễn lìa khỏi những kẻ có tâm oán hại, những người có ý không thiện, cũng chẳng gặp nguy hiểm và tai nạn, thường thường được chư Phật và bạn hữu nhiếp trì. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đều chẳng có tâm tàn sát chiến tranh, do đó: “Cất đao vào kho, thả ngựa vào núi”, qua những ngày thái bình thịnh vượng. Người với người, người với động vật, cùng nhau hoà ái, chẳng có những hung khí đao kiến binh trượng, cũng chẳng có công cụ gông cùm xiềng xích thống khổ. Hết thảy hàm thức chúng sinh, đều biết tu đủ thứ nghiệp thiện thanh tịnh, xa lìa tất cả nghiệp ác chẳng thanh tịnh.
Nguyện nhất thiết chúng sanh ly chư bố úy, Bồ-đề thụ hạ tồi phục ma quân. Nguyện nhất thiết chúng sanh ly đại chúng phố, ư vô thượng pháp tâm tịnh vô úy, năng vi tối thượng Đại sư tử hống. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc vô chướng ngại sư tử trí tuệ, ư chư thế gian tu hành chánh nghiệp. Nguyện nhất thiết chúng sanh đáo vô úy xứ, thường niệm cứu hộ chư khổ chúng sanh. Thị vi Bồ-Tát Ma-ha-tát tự xả thân mạng cứu bỉ lâm hình chư ngục tù thời thiện căn hồi hướng. Vi lệnh chúng sanh ly sanh tử khổ, đắc ư Như Lai thượng diệu lạc cố.
Nguyện cho tất cả chúng sinh, lìa các sợ hãi. Ở dưới cội bồ đề, hàng phục ma quân. Nguyện cho tất cả chúng sinh, lìa sợ hãi nơi đại chúng, nơi pháp vô thượng tâm thanh tịnh không sợ sệt, hay làm đại sư tử hống tối thượng. Nguyện cho tất cả chúng sinh, được trí huệ sư tử không chướng ngại, nơi các thế gian tu hành chánh nghiệp. Nguyện cho tất cả chúng sinh, đến nơi không sợ hãi, thường nhớ cứu hộ chúng sinh khổ.
Giảng: Ðó là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát khi Ngài tự xả bỏ thân mạng cứu các ngục tù lúc lâm hình. Vì khiến cho chúng sinh lìa khổ sinh tử, được vui thượng diệu của Như Lai.
Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, xa lìa tất cả sợ hãi, ngồi dưới cội bồ đề thành Phật, hàng phục ma quân thiên ma ngoại đạo. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, chẳng sợ oai đức của đại chúng, ở trong pháp hội rộng lớn, có thể đối với chúng sinh diễn nói đại pháp vô thượng, tâm chẳng khiếp nhược. Vì trong tâm ý thanh tịnh không nhiễm, cho nên làm sư tử hống, giáo hoá chúng sinh. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đắc được trí huệ sư tử chẳng bị bất cứ gì làm chướng ngại, trong mười phương thế gian đều tu hành đạo nghiệp chân chánh. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, đều đến được cõi Cực Lạc Tịnh Ðộ chẳng có sợ hãi, luôn luôn nghĩ nhớ còn chúng sinh trầm luân trong biển khổ, phải phát nguyện trở lại sinh tử, khắp cứu chúng sinh, đồng sinh về cõi nước Cực Lạc.
Ðó là hồi hướng căn lành công đức tích tụ của đại Bồ Tát khi Ngài tự xả thân mạng cứu những ngục tù sắp bị xử tử. Vì hy vọng khiến cho tất cả chúng sinh, vĩnh viễn thoát khỏi khổ sinh tử trói buộc, đắc được vui vắng lặng tối cao vô thượng như chư Phật, cho nên Bồ Tát mới phát nguyện lớn nầy.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát bố thí khất giả liên phu đảnh kế, như bảo kế Vương Bồ Tát, thắng diệu thân Bồ Tát, cập dư vô lượng chư Bồ-tát đẳng.
Bồ Tát Thị thời kiến khất giả lai, tâm sanh hoan hỉ nhi ngữ chi ngôn: nhữ kim nhược tu liên phu đảnh kế, khả tựu ngã thủ. Ngã thử đảnh kế, Diêm-phù-đề trung tối vi đệ nhất. Tác thị ngữ thời, tâm vô động loạn, bất niệm dư nghiệp, xả ly thế gian, chí cầu tịch tĩnh, cứu cánh thanh tịnh, tinh cần chất trực, hướng nhất thiết trí. Tiện chấp lợi đao cát kỳ đầu thượng liên phu đảnh kế, hữu tất trước địa, hợp thập chỉ chưởng, nhất tâm thí dữ.
Phật tử ! Ðại Bồ Tát bố thí cả búi tóc liền da đầu cho người đến cầu xin, như Bồ Tát Bảo Kế Vương, Bồ Tát Thắng Diệu Thân, và vô lượng các Bồ Tát khác.
Lúc đó, Bồ Tát thấy người đến xin, tâm sinh hoan hỉ, mà nói rằng: Nay nếu ông muốn búi tóc liền da đầu, thì có thể lấy, búi tóc của tôi là tối đệ nhất trong cõi Diêm Phù Ðề. Khi nói như vậy tâm không động loạn, chẳng niệm nghiệp dư, xả lìa thế gian, chí cầu tịch tĩnh, rốt ráo thanh tịnh, tinh cần chất trực, hướng về nhất thiết trí. Liền cầm đao bén, cắt búi tóc liền da đầu, gối phải quỳ xuống, chắp hai tay lại, một lòng bố thí cho.
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Trong Kinh văn ở trước, đại Bồ Tát bố thí cho tất cả chúng sinh là ngoại tài, hiện tại Ngài bố thí cho tất cả chúng sinh là nội tài-thân tâm tính mạng, đầu mắt tuỷ não. Như nay bố thí là búi tóc liền da đầu. Chúng ta ở trong chánh điện nhìn thấy trên đầu của Phật có viên tròn đen, cao nhô lên giống như núi thịt nhỏ, đó tức là tướng nhục kế trên đỉnh đầu, là một trong 32 tướng của Phật. Bồ Tát cũng có tướng đảnh nhục kế, là do công đức tu hành mà thành tựu, Bồ Tát nếu gặp có người đến xin Ngài nhục kế, thì Ngài cũng chẳng xẻn tiếc. Giống như thuở xưa có vị Bồ Tát Bảo Kế Vương, Bồ Tát Thắng Diệu Thân, cùng với vô lượng Bồ Tát khác, các Ngài đều đem nhục kế của mình bố thí cho người đến cầu xin.
Khi đại Bồ Tát, Ngài muốn bố thí búi tóc liền với da đầu, thấy có người đến xin búi tóc, thì Ngài bèn sinh tâm đại hoan hỉ, mà nói với người xin: Hiện tại nếu ông muốn búi tóc liền với da đầu, thì có thể lấy trên đầu của tôi. Búi tóc của tôi tốt đẹp nhất ở trong cõi Diêm Phù Ðề, được gọi là đệ nhất. Khi trong miệng Ngài nói như thế, thì trong tâm cũng chẳng có chút hoảng sợ tán loạn nào. Ngài chẳng nghĩ gì cả, tất cả đều buông xả đặng, tất cả trên thế gian, Ngài đều xả được hết. Một lòng lập chí vui thiền định vắng lặng, hy vọng đắc được sự thanh tịnh chân chánh. Tinh tấn siêng tu học Phật đạo, ba nghiệp thanh tịnh, lìa khỏi hai chướng-Phiền não chướng, sở tri chướng, phẩm chất đoan chánh, tâm ngay thẳng, chỉ cầu hướng về nhất thiết trí huệ. Do đó, tay bèn cầm đao sắc bén tự cắt búi tóc liền da trên đầu của mình xuống, đem đến trước mặt người xin, gối phải quỳ sát đất, chắp tay lại, cung kính dâng bố thí búi tóc liền da đầu cho người đến xin.
Chánh niệm tam thế nhất thiết chư Phật Bồ Tát sở hạnh, phát đại hoan hỉ, tăng thượng chí lạc. Ư chư Pháp trung ý thiện khai giải, bất thủ ư khổ, liễu tri khổ thọ vô tướng vô sanh, chư thọ hỗ khởi, vô hữu thường trụ: thị cố ngã ưng đồng khứ, lai, kim nhất thiết Bồ Tát tu hành đại xả, phát thâm tín lạc, cầu nhất thiết trí vô hữu thoái chuyển, bất do tha giáo thiện tri thức lực. Bồ-Tát Ma-ha-tát tác thị thí thời, dĩ chư thiện căn như thị hồi hướng, sở vị: nguyện nhất thiết chúng sanh đắc vô kiến đảnh, thành tựu Bồ Tát như tháp chi kế. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc cám thanh phát, Kim cương phát, tế nhuyễn phát, năng diệt chúng sanh nhất thiết phiền não. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc nhuận trạch phát, mật trí phát, bất xâm tấn ngạch phát.
Chánh niệm chỗ thực hành của ba đời tất cả chư Phật Bồ Tát, phát tâm đại hoan hỉ tăng thêm ý chí vui thích. Ở trong các pháp, ý khéo khai mở thấu hiểu, chẳng thủ lấy khổ, biết rõ khổ thọ. Vô tướng vô sinh, các thọ khởi với nhau, chẳng có thường trụ. Cho nên tôi phải đồng với tất cả các Bồ Tát quá khứ hiện tại và vị lai. Tu hành đại xả, phát lòng tin ưa thích thâm sâu, cầu nhất thiết trí. Chẳng có thối chuyển, chẳng do người khác chỉ dạy, sức lực thiện tri thức. Khi đại Bồ Tát bố thí như thế, đem các căn lành hồi hướng như vầy: Nguyện cho tất cả chúng sinh được vô kiến đảnh, thành tựu búi tóc Bồ Tát như tháp. Nguyện cho tất cả chúng sinh được tóc xanh biếc, tóc kim cang, tóc mịn màng mềm mại, diệt được tất cả phiền não của chúng sinh. Nguyện cho tất cả chúng sinh được tóc thấm nhuần, tóc kín dày, tóc không lấn phủ vành trán.
Giảng: Bồ Tát lúc đó, một lòng không hai, chánh niệm hạnh môn của ba đời chư Phật và Bồ Tát tu, sinh tâm đại hoan hỉ, đồng thời tăng trưởng chí nguyện của mình được vui thành tựu. Ðối với pháp lý của chư Phật nói, quá khứ có chỗ chẳng minh bạch, hiện tại hốt nhiên trong tâm ý đều minh bạch. Tuy nhiên cắt búi tóc trên đầu xuống để bố thí, nhưng chẳng cho rằng thọ khổ. Vì Bồ Tát thấu hiểu:
“Thọ khổ thì hết khổ
Hưởng phước thì hết phước”.
Khổ vốn chẳng có tự thể, cũng chẳng có “tướng” và “sinh”, nó vốn tức là không. Sắc thọ tưởng hành thức năm uẩn, tuy thường thường cùng nhau sinh khởi, nhưng chẳng phải lúc nào cũng tồn tại có tác dụng. Do đó, tôi-Bồ Tát phải tuỳ đồng hết thảy tất cả Bồ Tát quá khứ hiện tại và vị lai, cùng tu hành pháp môn đại bố thí, cử hành đại hội bố thí, phát vô lượng tâm đại hỉ đại xả, tin sâu chỉ có phụng hành giáo lý của chư Phật, mới là pháp vui chân chánh. Một lòng trên cầu Phật trí, chẳng sợ thọ bất cứ khổ nạn nào, cũng chẳng thối thất tâm nguyện của mình. Tôi quyết tâm như thế, chẳng phải nhờ thiện tri thức chỉ dạy, hoặc nhờ sức lực thiện tri thức tăng cường mới làm được, mà là tôi tự phát tâm, ý chí ưa thích hành đại bố thí nầy.
Khi đại Bồ Tát bố thí búi tóc, đem công đức căn lành của Ngài tu tập, đối với chúng sinh hồi hướng như vầy: Tôi nguyện tất cả chúng sinh được vô kiến đảnh-không thể thấy được đỉnh đầu của họ, chỉ có Phật mới có tướng vô kiến đảnh trang nghiêm nầy. Hy vọng chúng sinh tu hành công đức, có thể thành tựu búi tóc Bồ Tát giống như bảo tháp. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh được đầu tóc xanh biếc, hoặc là đầu tóc giống như kim cang, hoặc là đầu tóc mịn màng mềm mại, hay diệt được tám vạn bốn ngàn thứ phiền não của chúng sinh. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh được đầu tóc thấm nhuần bóng mượt, vừa kín vừa lại dày, cũng không thể lấn phủ vành trán, rất có thứ lớp, nhìn trông thật rất đẹp.
Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc nhu nhuyễn phát, tận ư tấn ngạch nhi sanh phát. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc như vạn tự phát, loa văn hữu toàn phát. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc Phật tướng phát, vĩnh ly nhất thiết phiền não kết tập. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc quang minh phát, kỳ quang phổ chiếu thập phương thế giới. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc vô loạn phát, như như lai phát, tịnh diệu vô tạp. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc thành Ứng-Cúng đảnh tháp chi phát, lệnh kỳ kiến giả như kiến Phật phát. Nguyện nhất thiết chúng sanh giai đắc Như Lai vô nhiễm trước phát, vĩnh ly nhất thiết ám ế trần cấu.
Thị vi Bồ-Tát Ma-ha-tát thí liên phu kế thời thiện căn hồi hướng. Vi lệnh chúng sanh kỳ tâm tịch tĩnh, giai đắc viên mãn chư Đà-la-ni, cứu cánh Như Lai nhất thiết chủng trí, thập chủng lực cố.
Nguyện cho tất cả chúng sinh được tóc mềm mại. Nguyện cho tất cả chúng sinh được tóc như chữ vạn, tóc xoắn khu ốc về phía phải. Nguyện cho tất cả chúng sinh được tướng tóc của Phật, vĩnh viễn lìa tất cả phiền não kết tập. Nguyện cho tất cả chúng sinh được tóc quang minh, quang minh đó chiếu mười phương thế giới. Nguyện cho tất cả chúng sinh được tóc không rối loạn, giống như tóc của Như Lai, sạch đẹp không không tạp. Nguyện cho tất cả chúng sinh được tóc đảnh tháp như bậc ứng cúng, khiến cho người thấy, như thấy được tóc của Phật. Nguyện cho tất cả chúng sinh được tóc không nhiễm trước của Như Lai, vĩnh viễn lìa tất cả màng tối trần cấu.
Giảng: Ðó là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát khi Ngài bố thí búi tóc liền da đầu, vì muốn khiến cho tâm chúng sinh được vắng lặng, đều được viên mãn các Ðà la ni, rốt ráo nhất thiết chủng trí của Như Lai, mười thứ lực của Phật.
Bồ Tát lại nguyện cho hết thảy chúng sinh, được đầu tóc mềm mại. Tại sao ? Vì đầu tóc mềm cứng, có thể hiển ra cá tính của con người, là hoà thiện hay là cố chấp. Cá tính của người cố chấp chẳng dễ gì hợp tác với người, vì có tỳ khí cang cường. Người đầu tóc mềm mại, thì tính tình hoà thiện. Chúng ta người tu học đạo, phải thường thường chú ý khống chế tỳ khí của mình, giảm bớt đi phiền não và sân hận. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh được đầu tóc hình chữ vạn, tóc xoắn hình ốc về phía phải. Ðầu tóc của chư Phật tức là tóc xoắn hình ốc về phía phải. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh được đầu tóc giống như Phật, vĩnh viễn xa lìa tám vạn bốn ngàn phiền não kết tập-kết tập tức là tiểu mao bệnh của một số người. Người không có đại bệnh thì có tiểu bệnh; chẳng có tiểu bệnh, thì có mao bệnh, đó tức là kết tập. Ví như trong đời sống của mọi người, đều có chỗ ưa thích khác nhau, như mùi vị ăn uống. Tóm lại, tham sân si mạn nghi là kết tập của chúng sinh, có thể vĩnh viễn xa lìa những tập khí xấu nầy, thì sẽ vĩnh viễn lìa tất cả phiền não kết tập.
Lại nguyện cho tất cả chúng sinh được đầu tóc quang minh, thứ quang minh đó có thể chiếu khắp mười phương thế giới. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh được đầu tóc không tạp loạn, thẳng mượt không rối loạn, thanh tịnh tốt đẽp, màu sắc thuần nhất không tạp, giống như đầu tóc của Phật. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh thành tựu đầu tóc đỉnh tháp của bậc xứng đáng trời người cúng dường, khiến cho bất cứ người nào thấy được như thấy được đầu tóc của Phật. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh được đầu tóc thanh tịnh như Phật chẳng có sự ô nhiễm, vĩnh viễn lìa khỏi tất cả màng đen tối trần cấu. Những lời nguyện ở trên, là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát, khi Ngài bố thí búi tóc liền với da đầu. Vì muốn khiến cho tâm của tất cả chúng sinh, thường ở trong định thanh tịnh vắng lặng, chẳng sinh vọng niệm nào khác, đều đắc được đủ thứ Ðà la ni viên mãn. Chú lực tổng trì, và nhất thiết chủng trí chân thật của Phật, cùng với mười đại oai thần lực của Phật.
Các vị thiện tín ! Bồ Tát phát nguyện, lần nầy rồi lần khác, nguyện nguyện vô cùng, nguyện nguyện vô tận, vì cứu độ chúng sinh, nguyện nguyện chu tường, vĩnh viễn không ngừng nghỉ. Cho nên gọi là nguyện hải, nguyện lực thâm sâu không đáy, rộng lớn không bờ mé, Ngài nhìn thấy chúng sinh từ trong bất tịnh sinh ra, từ trong bất tịnh chết đi, vĩnh viễn lưu chuyển trong sự bất tịnh. Do đó Ngài phát nguyện cứu chúng sinh thoát ra khỏi sự bất tịnh, khiến cho chúng sinh đều đắc được thân tâm thanh tịnh. Bồ Tát thương xót chúng ta ngu si, chẳng có trí huệ, cứ làm những việc điên đảo. Ngài lại phát nguyện giáo hoá chúng sinh, khiến cho chúng ta khai mở trí huệ, khai mở mắt tâm, ở trong quang minh của Phật chiếu đến, hưởng thọ pháp hỉ vô thượng. Bồ Tát lại thấy chúng ta mắt loà vô tri, chẳng phân biệt được khổ vui, cho nên khai thị chúng ta phải nhận thức cảnh giới, đối với thọ khổ, thọ vui, chẳng khổ chẳng thọ vui, đều có thể thái nhiên. Khi gặp cảnh nghịch, phải nhẫn nại phá tan cửa ải khổ; khi gặp cảnh thuận cũng đừng lưu luyến, minh bạch tất cả vô thường. Gặp bất cứ cảnh giới gì, đều có định lực như như chẳng động, rõ ràng sáng suốt.
Có nghị lực và quyết tâm chuyển biến cảnh giới, mới diệt trừ được phiền não thống khổ. Nhất là người tu hành, càng phải chú ý. Bồ Tát lại sợ chúng ta tướng sinh chẳng đủ trang nghiêm, trên từ đầu xuống dưới chân, chẳng có chút nào mà Bồ Tát chẳng nghĩ đến chúng ta, thảy đều vì chúng ta hồi hướng, nguyện nguyện vì chúng ta mà mong cầu, đều hy vọng cho tất cả mỗi chúng sinh đều viên mãn thành tựu đầy đủ. Các bạn hãy nghĩ xem ! Thiên hạ còn có ai có tâm từ bi hơn Bồ Tát chăng ! Khi Ngài hồi hướng, bất luận là thiện ác tốt xấu, giàu nghèo sang hèn, nam nữ già trẻ oán thân, một luật đều bao quát hết trong đó, nguyện cho khắp tất cả đều được lợi ích của Ngài hồi hướng, tâm của Ngài thật là bình đẳng ! Mọi người phải sớm phát tâm đại bi, do tâm đại bi mới sinh ra tâm bồ đề, mới báo đáp được thâm ân của Bồ Tát.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát dĩ nhãn bố thí chư lai khất giả, như Hoan Hỉ Hạnh Bồ Tát, nguyệt quang Vương Bồ Tát, cập dư vô lượng chư Bồ-tát đẳng sở hạnh huệ thí. Bồ-Tát Ma-ha-tát bố thí nhãn thời, khởi thanh tịnh thí nhãn tâm, khởi thanh tịnh trí nhãn tâm, khởi y chỉ pháp quang minh tâm, khởi hiện quán vô thượng Phật đạo tâm, phát hồi hướng quảng đại trí tuệ tâm, phát dữ tam thế Bồ Tát bình đẳng xả thí tâm, phát ư vô ngại nhãn khởi bất hoại tịnh tín tâm, ư kỳ khất giả khởi hoan hỉ nhiếp thọ tâm.
Phật tử ! Ðại Bồ Tát đem con mắt bố thí cho người đến xin. Như Bồ Tát Hoan Hỉ Hạnh, Bồ Tát Nguyệt Quang Vương, và vô lượng các Bồ Tát khác. Khi đại Bồ Tát bố thí mắt, thì khởi tâm thí nhãn thanh tịnh. Khởi tâm trí nhãn thanh tịnh. Khởi tâm y chỉ pháp quang minh. Khởi tâm hiện quán vô thượng Phật đạo. Phát tâm hồi hướng trí huệ rộng lớn. Phát tâm xả thí bình đẳng với Bồ Tát ba đời. Phát tâm nơi vô ngại nhãn khởi niềm tin thanh tịnh bất hoại. Ðối với người xin, khởi tâm hoan hỉ nhiếp thọ.
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát, hiện tại Ngài lại đem con mắt của mình, bố thí cho người đến xin mắt. Như Bồ Tát Hoan Hỉ Hạnh, Bồ Tát Nguyệt Quang Vương, cùng với vô lượng các Bồ Tát khác, đều đã từng bố thí con mắt của các Ngài. Vị đại Bồ Tát nầy, khi Ngài bố thí con mắt, tâm của Ngài rất thanh tịnh, chẳng có chút tâm tạp nhiễm nào, chân tâm thành ý đem con mắt của Ngài bố thí cho người đến xin. Có người có con mắt phóng quang, có thể nhìn sự vật rất xa, đó là nguyên nhân thuở xưa đã từng bố thí con mắt. Có người tuy nhiên có con mắt, nhưng chẳng nhìn thấy sự vật, đó là trong quá khứ không có công đức bố thí con mắt. Nói như vậy, tôi nghĩ rằng sẽ dẫn khởi nghi vấn của các bạn, cho rằng chẳng bố thí con mắt cho người khác, thì đương nhiên phải có con mắt tốt, còn đem con mắt bố thí cho người, thì mới chẳng còn con mắt. Lối nói nầy là sự thấy nông cạn của thế tục, nhưng đi ngược lại trong luật nhân quả. Bố thí là xả bỏ, bạn càng xả bỏ cho người khác, thì bạn càng có, xả bỏ càng nhiều thì quả báo phước đức càng lớn. Trong Kinh Ðịa Tạng có nói:
“Xả một được vạn báo”.
Trong xã hội có rất nhiều người có tiền, mà họ chẳng xả bỏ được cho những kẻ nghèo, thà lãng phí vật chất, để cá nhân hưởng thụ năm dục. Các bạn hãy nhìn xem những người bần cùng khốn khổ cô nhi, quần áo chẳng có mặt ấm thân, cơm chẳng no bụng, họ là những người kém phước đức. Cho nên chúng ta đừng sợ bố thí cho họ, thì mình chẳng còn nữa. Khi Bồ Tát bố thí con mắt, thì Ngài sinh khởi tâm trí huệ thanh tịnh, hy vọng con mắt Ngài bố thí, trở thành mắt trí thanh tịnh của người xin. Ngài lại nghĩ đến công đức bố thí con mắt, hồi hướng cho pháp giới chúng sinh, hy vọng họ đều phát tâm trí huệ rộng lớn. Lại phát tâm bình đẳng đồng với các Bồ Tát ba đời mà bố thí. Lại phát tâm con mắt chẳng thọ tất cả sự chướng ngại, mắt từ bi bình đẳng quán sát tất cả chúng sinh, đều như quyến thuộc chí thân. Tâm tin thanh tịnh kiên cố, đối với chân lý Phật pháp thông đạt vô ngại, chẳng có tơ hào nghi hoặc, chẳng bị dị luận phá hoại. Ðối với người xin con mắt của Ngài, thì sinh tâm đại hoan hỉ, và còn nhiếp thọ chúng sinh có pháp duyên, giáo hoá họ, phát tâm bồ đề viên mãn.
Vi cứu cánh nhất thiết thần thông cố, vi sanh Phật nhãn cố, vi tăng quảng đại Bồ-đề tâm cố, vi tu tập đại từ bi cố, vi chế phục lục căn cố, ư như thị pháp nhi sanh kỳ tâm.
Vì rốt ráo tất cả thần thông. Vì sinh Phật nhãn. Vì tăng trưởng tâm đại bồ đề. Vì tu tập đại từ bi. Vì chế phục sáu căn. Do các pháp như vậy mà sinh tâm như thế.
Giảng: Tại sao Bồ Tát muốn làm công đức bố thí con mắt ? Vì hy vọng đắc được tất cả thần thông chân chánh, mà hành công đức bố thí đặc biệt khó xả mà xả được. Kỳ thật sức thần thông chỉ cần nhận chân tu hạnh thanh tịnh, công phu tu đến trình độ viên mãn, thì tự nhiên sẽ cảm mà toại thông. Lại vì muốn thành Phật đạo, sẽ khai mở Phật nhãn. Quang minh của Phật nhãn, giống như ánh sáng của một ngàn mặt trời, nó có thể chiếu khắp pháp giới. Cổ nhân có bài kệ rằng:
“Thiên nhãn thông phi ngại,
Nhục nhãn ngại phi thông,
Pháp nhãn duy quán tục,
Huệ nhãn liễu chân không,
Phật nhãn như thiên nhật,
Chiếu dị thể hoàn đồng”.
“Thiên nhãn thông phi ngại”: Người có thiên nhãn thông, thì họ có thể thấy mọi sự sinh hoạt ở trên trời, năm quang mười sắc, tất cả đều ở trong con mắt; dưới thì thấy đủ thứ sinh hoạt của tất cả chúng sinh, nhỏ bé đều nhìn thấy hết; dưới lòng đất khoảng mười thướt, tất cả bảo tàng cũng đều nhìn thấy rõ ràng; nhưng không thể khởi tâm tham tuỳ ý lấy làm của mình, một khi khởi tâm tham thì thiên nhãn vĩnh viễn chẳng sáng trở lại nữa.
“Nhục nhãn ngại phi thông”. Nhục nhãn của phàm phu, chỉ nhìn thấy sự vật ở trước, cách tường chẳng nhìn thấy, càng không nhìn thấy sự vật có vật chướng ngại ngăn che. Song, nhục nhãn ở đây, có thể thấy được sự vật có vật chướng ngại ngăn che, có thể nhìn thấy người, thấy quỷ, thấy thần, thấy Phật.
“Pháp nhãn duy quán tục”. Pháp nhãn thì nhìn thấy thật tướng của tất cả các pháp, nhưng chẳng phải thuộc về tục đế; bất quá pháp nhãn cũng có thể nhìn thấy sự vật mà phàm phu nhìn chẳng thấy, giống như chúng ta tụng Kinh, mắt phải nhìn vào quyển Kinh, từng chữ từng câu từng hàng mà đọc từ từ. Nếu như tu hành được pháp nhãn thanh tịnh, thì tận hư không khắp pháp giới đều là Kinh điển, tuỳ ý bạn hoan hỉ, thích Kinh gì đều có cả, mà còn nhìn nhanh gấp hơn trăm lần phàm phu, đối với ý nghĩa Kinh điển, cũng đều thấu rõ minh bạch.
“Huệ nhãn liễu chân không”. Huệ nhãn thấu rõ được đạo lý chân không, chân đế về chân không chẳng không, diệu hữu phi hữu. “Phật nhãn như thiên nhựt”. Ánh sáng của Phật nhãn giống như ngàn mặt trời chiếu soi, chiếu khắp mười phương pháp giới, hết thảy tất cả đều thấy rõ như trong lòng bàn tay.
Phàm phu bề ngoài nhìn chỉ thấy có hai con mắt thịt, kỳ thật mỗi người đều có năm thứ con mắt (ngũ nhãn), nhưng vì không tu hành, tham trước năm dục, đời sống thân tâm đều chẳng thanh tịnh, cho đến mắt thịt càng ngày càng yếu đi, thì làm gì nói đến chuyện khai mở ngũ nhãn. Dù bậc Thánh nhân đã khai mở thiên nhãn, nhục nhãn, pháp nhãn, huệ nhãn, Ngài cũng chẳng xử dụng thường xuyên, mà là khéo quán cơ duyên, khi nào cần dùng thì mới dùng, càng không thể sinh tâm cống cao tự mãn, như thế thì sẽ mất đi tác dụng. Bất quá bậc Thánh nhân chân chánh chứng quả, Ngài cũng tuyệt đối chẳng phạm mao bệnh ấu trĩ đó. Khi công đức tu hành và công phu đạt đến tứ quả A La Hán, thì họ sẽ thành tựu tam minh và ngũ thông, sẽ chẳng thối thất. Tam minh bao quát thiên nhãn minh.
Bồ Tát vì tăng trưởng tâm bồ đề rộng lớn của Ngài, cho nên phải tu công đức bố thí mắt. Có rất nhiều người tại sao khi tu hành thì thối tâm giữa đường ? Là vì đạo tâm của họ chẳng vững chắc, tâm bồ đề chẳng tăng trưởng, không thể rộng lớn, khi thọ cảnh nghịch thì thối tâm; nhất là người xuất gia thường thường bị cảnh giới năm dục dẫn dụ, chẳng qua được cửa ải ma dục. Hy vọng bốn chúng đệ tử tu học Phật đạo, mọi người tuỳ thời phải tăng trưởng tâm bồ đề của mình.
Bồ Tát lại vì tu tập tâm đại từ đại bi, cho nên hành công đức bố thí mắt. Các vị thiện tín ! Nếu mỗi người đều có tâm từ bi, còn có nhìn sự việc không đúng của chúng sinh chăng ? Còn có thể cảm thấy người khác không thuận mắt chăng ? Hoan hỉ ai, chán ghét ai, ai thiện ai ác, sinh những tâm phân biệt nầy chăng ? Sự việc trên thế gian, lập trường của mỗi người đều khác nhau, tư tưởng đều khác nhau, do đó ý kiến mỗi cá nhân, hình thành thị phi đối lập tranh chấp, đối nghịch, phỉ báng, tiến thêm nữa diễn ra cảnh chảy máu chém giết, đó đều là do chẳng có tâm từ bi, chẳng có lòng dung thứ, vì ngã kiến quá sâu, tâm sân quá nặng. Nếu như ai ai cũng đều có tâm lượng rộng lớn như hư không khắp pháp giới, thì còn có lỗi lầm tranh chấp tôi đúng bạn sai chăng ? Tôi thường thường nói với các bạn: Nhà xí là nơi dơ bẩn nhất, nhưng trên thế giới có phải không cần nhà xí chăng ?
Tôi muốn mọi người đều biết là không thể nào được. Bất luận là người giàu nghèo sang hèn, đều muốn ăn thức ăn ngon, nhưng ăn vào trong bụng rồi, trải qua sự tiêu hoá, thải ra chẳng muốn nhìn, vật rất là thối. Lúc đó, nếu bạn chẳng dùng nhà xí để chuyển vận, thì còn dùng phương pháp gì để giải quyết ? Rắn độc thú dữ thì hại người, nhưng ông trời có đức háo sinh, bạn có thể trừ diệt sạch hết chúng chăng ? Cho nên chúng ta đừng có nhìn người khác không đúng, đừng có nhìn nhất cử nhất động chỗ không tốt của người khác, phải dưỡng thành tâm dung thứ người khác, nhất là người xuất gia tu đạo, càng phải có tâm từ bi, tha thứ cho người, người tốt kẻ xấu đều đối đãi như nhau, dùng tâm từ bi để cảm hoá kẻ ác, kẻ ác mới là đối tượng giáo hoá của chúng ta, tu tập căn lành công đức, thì tại người ác thấy có công hiệu nhất. Nhất là không thể thấy người có lỗi lầm thì bỏ họ, kẻ khác chẳng bằng tâm ý của ta thì bài bác họ, như thế là dưỡng lớn tâm sân hận, tự giam bớt mầm bồ đề.
Tôi có mấy câu rất thiển cạn, cũng có thể nói là châm ngôn xử sự làm người của tôi, nói ra cho các vị nghe. Nếu các bạn cảm thấy đúng, thì đừng ngại thực hành theo; nếu các bạn cho rằng không hợp ý, thì bạn cũng có thể lập ra tiêu chuẩn càng tốt.
“Sự sự đô hảo khứ”. Nghĩa là mọi việc đều trôi qua tốt đẹp: Việc gì cũng đều chẳng có.
“Phiền não nan đoạn liễu”. Nghĩa là phiền não khó dứt hết, chỉ có phiền não khó đoạn dứt sạch nhất.
“Chân năng bất sinh khí”. Nghĩa là thật không sinh nóng giận, nếu bạn thật không nóng giận với kẻ khác.
“Tựu đắc vô giá bảo”. Nghĩa là sẽ được báu vô giá, Không nóng giận là báu vô giá. Không màng cảnh giới gì, thiện ác tốt xấu, thậm chí gặp người đánh chưởi, đều không nóng giận, cảnh nghịch đến thuận mà thọ nhận, tu công phu nhẫn nhục, như thế chẳng đợi đắc được báu vô giá, bèn trở thành đại phú ông giàu có nhất trong nước.
“Tái yếu bất oán nhân”. Nghĩa là lại chẳng thù oán người, tiến thêm một bước nữa chẳng oán trời trách người.
“Vạn sự đô năng hảo”. Nghĩa là mọi việc thảy đều tốt, lúc đó tâm cảnh của bạn rộng lớn thái nhiên, mọi việc đều cảm thấy thuận tâm như ý.
“Phiền não vĩnh bất sinh”. Nghĩa là phiền não vĩnh viễn không sinh, Mọi việc đều như ý, thì làm gì còn có phiền não sinh ra ?
“Sân hận tiêu trừ liễu”. Nghĩa là sân hận đã tiêu trừ, vì tâm lượng rộng lớn, hay dung thứ người, nhường cho người, thì tâm sân hận vốn chẳng có chỗ nào sinh ra, như vậy thì tự nhiên sẽ tiêu trừ sạch hết không còn.
“Oan nghiệp tùng na trảo”. Nghĩa là oan nghiệp tìm chỗ nào? Bạn không sân hận kẻ khác, lại không đố kị người khác, khắp nơi đều hoà khí, đi đến đâu thì nơi đó đều mát mẻ yên bình, ai ai cũng đều mến bạn, gần gũi bạn, thì còn có oan gia đối đầu chăng ?
“Thường sầu nhân bất đối”. Nghĩa là còn lo người không đúng, bạn cảm thấy người nầy cũng không đúng, người kia cũng không thuận mắt, chuyên môn vạch lông tìm vết, tâm đầy oán khí, cái nầy không đúng cái kia không đúng.
“Na thị khổ một liễu”. Nghĩa là, như vậy khổ chưa hết, trái cũng không đúng, phải cũng không đúng, lúc nào cũng phiền não, chuyện gì cũng nổi giận, đó chẳng phải tự mình tìm chuốt lấy cái khổ chăng, ai có thể thay thế được !
Bồ Tát đại từ đại bi, Ngài đói với chúng sinh chưa từng mong cầu gì. Chúng sinh tốt, Ngài phát tâm hoan hỉ; chúng sinh có lỗi lầm, Ngài phát tâm thương sót, lấy lỗi lầm của chúng sinh làm lỗi lầm của mình, cho nên nói chư Phật Bồ Tát chẳng thấy lỗi chúng sinh. Bồ Tát lại lại vì hàng phục sáu căn-mắt tai mũi lưỡi thân ý sáu căn, chẳng để cho sáu căn bị năm dục làm nhiễm ô, thâm tâm kiên cố chẳng bị sáu căn sáu trần làm giao động, chẳng bị sáu trần mê hoặc. Khiến cho sáu căn lìa khỏi dòng sáu trần của phàm phu, nhập vào dòng pháp tính của Thánh nhân. Thực hành công đùc bố thí mắt tức là vì hàng phục sáu căn. Căn cứ vào các pháp nói ở trên, mà sinh tâm học pháp tu đạo.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát bố thí nhãn thời, ư kỳ khất giả tâm sanh ái lạc, vi Thiết thí hội, tăng trưởng pháp lực. xả ly thế gian ái kiến phóng dật, trừ đoạn dục phược, tu tập Bồ-đề. Tùy bỉ sở cầu, tâm an bất động, bất vi kỳ ý, giai lệnh mãn túc, nhi thường tùy thuận vô nhị xả hạnh. Dĩ thử thiện căn như thị hồi hướng, sở vị: nguyện nhất thiết chúng sanh đắc tối thắng nhãn, thị đạo nhất thiết.
Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc vô ngại nhãn, khai quảng Trí Tạng. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc tịnh nhục nhãn, quang minh giám triệt, vô năng tế giả. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc tịnh thiên nhãn, tất kiến chúng sanh sanh tử nghiệp quả.
Phật tử ! Khi đại Bồ Tát bố thí mắt, thì đối với người xin đó, tâm sinh vui thích, thiết bày hội bố thí, tăng trưởng sức lực của pháp, xả lìa sự ưa thấy phóng dật của thế gian, dứt trừ sự ràng buộc của dục vọng, tu tập bồ đề. Tuỳ theo chỗ họ mong cầu, tâm an chẳng động, chẳng trái với ý của họ, đều khiến cho họ được mãn nguyện đầy đủ, mà thường tuỳ thuận hạnh xả không hai. Ðem căn lành đó hồi hướng như vầy:
Nguyện cho tất cả chúng sinh được mắt tối thắng, chỉ bày tất cả. Nguyện cho tất cả chúng sinh được mắt vô ngại, khai diễn trí tạng. Nguyện cho tất cả chúng sinh được nhục nhãn thanh tịnh, quang minh soi thấu, chẳng có gì chướng ngại được. Nguyện cho tất cả chúng sinh được thiên nhãn thanh tịnh, đều thấy nghiệp quả sinh tử của chúng sinh.
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát, khi Ngài bố thí mắt thì đói với người xin con mắt, trong tâm sinh khởi sự vui thích vô hạn, mà còn vì người đó mà thiết lập pháp hội bố thí lớn, vì chúng sinh mà làm tăng trưởng sức tự tin của họ thâm sâu đối với Phật pháp. Khiến cho chúng sinh thấu hiểu xả lìa tham ái ô nhiễm của thế gian, và tất cả tà tri tà kiến trên thế gian, và đoạn tuyệt trừ sạch những hành vi phóng đãng bất chánh đáng đó, cùng với những sự ràng buộc tham dục, để tu học căn lành bồ đề giác đạo. Bồ Tát ở trong hội bố thí, đề ra những yêu cầu của họ, trong tâm của
Ngài chẳng có sự xẻn tiếc, cũng chẳng tính toán do dự, tâm bình khí hoà an nhiên chẳng động, hoan hỉ vui mừng, chẳng trái với tâm nguyện của chúng sinh, khiến cho ai nấy đều mãn nguyện. Bồ Tát bố thí chẳng phải ngẫu nhiên mà làm, Ngài thường tuỳ thuận chúng sinh, dùng hành trì thí xả làm pháp môn không hai tu hành của Ngài. Bồ Tát đem căn lành bố thí tích tụ, đối với chúng sinh hồi hướng như vầy: Ngài nói tôi nguyện cho tất cả chúng sinh-bao quát thai sinh, noãn sinh, thấp sinh, hoá sinh, có tưởng, không tưởng, có sắc, không sắc, chẳng có tưởng, chẳng không tưởng, chẳng có sắc, chẳng không sắc .v.v…
Tất cả chúng sinh, hy vọng họ đều đắc được mắt thù thắng quang minh chiếu soi, có thể chỉ bày, hướng dẫn chúng sinh chánh quyết rõ ràng, đi trên con đường chân chánh quang minh. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh được mắt không bị bất cứ vật gì chướng ngại, có thể khai diễn bảo tạng trí huệ rộng lớn. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh được nhục nhãn thanh tịnh, tuy nói là nhục nhãn, nhưng rất là thanh tịnh nhìn thấy tất cả, bất luận gần xa to nhỏ, đều thấy rõ ràng, con mắt quang minh, chẳng bị bất cứ vật gì bên ngoài ngăn che được. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh được thiên nhãn thanh tịnh, có thể quán thấy ở trên trời, quán thấy tiền nhân hậu quả luân chuyển sinh tử của tất cả chúng sinh trên thế gian, cùng với sự tích tạo nghiệp thọ báo của tất cả chúng sinh trong vô lượng kiếp, đều nhìn thấy rất rõ ràng.
Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc tịnh Pháp nhãn, năng tùy thuận nhập Như Lai cảnh giới. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc trí Tuệ-nhãn, xả ly nhất thiết phân biệt thủ trước. Nguyện nhất thiết chúng sanh cụ túc Phật nhãn, tất năng giác ngộ nhất thiết chư pháp. Nguyện nhất thiết chúng sanh thành tựu phổ nhãn, tận chư cảnh giới vô sở chướng ngại. Nguyện nhất thiết chúng sanh thành tựu thanh tịnh ly si ế nhãn, liễu chúng sanh giới không vô sở hữu. Nguyện nhất thiết chúng sanh cụ túc thanh tịnh vô chướng ngại nhãn, giai đắc cứu cánh Như Lai thập lực.
Thị vi Bồ-Tát Ma-ha-tát bố thí nhãn thời thiện căn hồi hướng, vi lệnh chúng sanh đắc nhất thiết trí thanh Tịnh nhãn cố.
Nguyện cho tất cả chúng sinh được pháp nhãn thanh tịnh, có thể tuỳ thuận nhập vào cảnh giới của Như Lai. Nguyện cho tất cả chúng sinh được mắt trí huệ, xả lìa tất cả phân biệt thủ lấy chấp trước. Nguyện cho tất cả chúng sinh đầy đủ Phật nhãn, thảy đều giác ngộ tất cả các pháp. Nguyện cho tất cả chúng sinh thành tựu phổ nhãn, khắp hết các cảnh giới chẳng có chướng ngại. Nguyện cho tất cả chúng sinh thành tựu mắt thanh tịnh lìa màng ngu si, thấu rõ cõi chúng sinh, vốn là không, chẳng chỗ có. Nguyện cho tất cả chúng sinh đầy đủ mắt thanh tịnh không chướng ngại, đều được rốt ráo mười lực của Như Lai.
Giảng: Ðó là hồi hướng căn lành bố thí mắt của đại Bồ Tát. Vì khiến cho chúng sinh được mắt thanh tịnh nhất thiết trí.
Bồ Tát lại nguyện cho tất cả chúng sinh, được pháp nhãn thanh tịnh, có thể chiếu rõ thật tướng của tất cả các pháp, thông đạt chân lý thật tướng của các pháp, hay tuỳ thuận chân lý tu hành nhập vào cảnh giới của Phật. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh được mắt đại trí huệ, đối với tất cả sự lý trên thế gian, đều biết rất rõ ràng, chẳng khởi tư tưởng phân biệt, cũng chẳng thủ lấy chấp trước sinh vọng tưởng. Sở dĩ người đời thủ lấy chấp trước, là vì họ chẳng có huệ nhãn, chỉ có ngu si chấp cái ta. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh được đầy đủ Phật nhãn, đều có thể giác ngộ thể tính của các pháp như huyễn như hoá.
Lại nguyện cho tất cả chúng sinh có thể thành tựu phổ nhãn, xa lìa ngu si, như cắt trừ màng bệnh trong con mắt, từ đó quang minh vô ngại. Ðắc được mắt sáng có đại trí huệ, thấu đạt cõi chúng sinh vốn là không, chẳng chỗ có. Vì chúng sinh chấp trước, mà có cõi chúng sinh, hiện tại phá trừ rồi sự chấp trước nầy, thì như lìa khỏi màng ngu si. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh tu hạnh thanh tịnh, thì có thể đắc được mắt đầy đủ chẳng có chướng ngại, đều có thể đắc được mười thứ lực chân thật không thể nghĩ bàn của Như Lai. Ðó là hồi hướng căn lành bố thí mắt của đại Bồ Tát, kỳ thật là vì khiến cho chúng sinh, đều đắc được mắt nhất thiết trí huệ thanh tịnh.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát năng dĩ nhĩ, tỳ thí chư khất giả, như thắng hành Vương Bồ Tát, vô oán thắng Bồ Tát, cập dư vô lượng chư Bồ-tát đẳng. Bố thí chi thời, thân phụ khất giả, chuyên tâm tu tập chư Bồ-tát hạnh. Cụ Phật chủng tánh, sanh Như Lai gia, niệm chư Bồ-tát sở tu thí hạnh, thường cần phát khởi chư Phật Bồ-đề, thanh tịnh chư căn công đức trí tuệ. quan sát tam hữu, vô nhất kiên cố. Nguyện thường đắc kiến chư Phật Bồ-tát, tùy thuận ức niệm nhất thiết Phật Pháp. Tri thân hư vọng không vô sở hữu, vô sở tham tích.
Phật tử ! Ðại Bồ Tát hay đem tai mũi bố thí cho những người xin. Như Bồ Tát Thắng Hạnh Vương. Bồ Tát Vô Oán Thắng, và vô lượng các Bồ Tát khác. Khi bố thí, tự mình đưa cho người xin. Chuyên tâm tu tập các hạnh của Bồ Tát. Đủ giống tánh Phật. Sinh vào nhà Như Lai. Nhớ nghĩ hạnh bố thí của các Bồ Tát. Thường siêng phát khởi bồ đề của chư Phật. Thanh tịnh các căn công đức trí huệ. Quán sát ba cõi, chẳng có cõi nào bền vững. Nguyện thường thấy được chư Phật Bồ Tát. Tuỳ thuận nghĩ nhớ tất cả Phật pháp, biết thân là hư vọng, vốn không chẳng chỗ có, chẳng có tham tiếc.
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát, Ngài đem tai mũi của mình bố thí cho những người đến cầu xin. Ðây là việc người khó làm, mà Bồ Tát làm được. Dùng tâm bi và nguyện lực của Ngài, tinh thần xả bỏ đại ngã của mình vì chúng sinh, cho nên trong tâm vắng lặng của Ngài là như như chẳng động, chẳng sinh tâm thống khổ thương tiếc. Từ vô thuỷ đến nay, người tu hạnh bồ đề, tu Bồ Tát hạnh, hành Bồ Tát đạo, rất là tự nhiên sinh tâm như vậy, làm bố thí như vậy. Như có Bồ Tát Thắng Hạnh Vương tu hành công đức thù thắng.
Bồ Tát Vô Oán Thắng đối với bất cứ người nào cũng đều chẳng sinh tâm oán hận, và vô lượng vô số các đại Bồ Tát khác, các Ngài đều chẳng tiếc thân thể của mình, bố thí cho những người đến cầu xin đáng thương. Khi bố thí, tâm an lý đắc hoà nhan duyệt sắc, thân tự đem vật bố thí dâng lên cho người xin. Hành vi như vậy của Bồ Tát chẳng phải mong cầu tiếng tăm lợi dưỡng, Ngài chỉ chuyên tâm tu tập hạnh môn mà tất cả Bồ Tát phải tu. Ðầy đủ giống tánh của Phật, mà sinh vào nhà của Phật, đạt được quả vị Phật. Nghĩ nhớ hạnh môn tu bố thí của các Bồ Tát. Thường siêng tinh tấn, phát tâm đại từ bì như chư Phật đã phát, vì tâm từ bi mà sinh ra tâm đại bồ đề.
Luôn giữ giới thanh tịnh, ba nghiệp thanh tịnh, khiến cho các căn thanh tịnh, tích tập công đức thanh tịnh, sinh đại trí huệ. Quán sát ba cõi-cõi dục, cõi sắc, cõi vô sắc, chẳng có gì chân thật, chẳng có sự vật gì vĩnh viễn tồn tại. Người tu học Phật đạo, có cái nhìn đối với ba cõi, phải thường biết cảnh giác, có tư tưởng xuất thế: “Ba cõi không an, giống như nhà lửa”. Hy vọng thường thấy được chư Phật Bồ Tát, thì phải luôn luôn tuỳ thuận pháp của chư Phật nói, biết rõ các pháp không tướng, thấy pháp như thấy Phật. Người tu học Phật đạo, tuyệt đối không thể chấp trước cái nhục thân nầy, phải biết thân thể nầy vốn là do bốn đại giả hoà hợp mà thành, hư vọng chẳng có chủ. Một khi đến thời kỳ, thì bốn đại đều trở về bản thể của nó, tất cả đều huyễn diệt chẳng chỗ có, lại có gì có thể tham luyến thương tiếc ?
Bồ Tát như thị thí nhĩ, tỳ thời, tâm thường tịch tĩnh, điều phục chư căn. miễn tế chúng sanh hiểm ác chư nạn, sanh trưởng nhất thiết trí tuệ công đức. Nhập Đại thí hải, liễu đạt pháp nghĩa, cụ tu chư đạo. y trí tuệ hàng, đắc pháp tự tại, dĩ ất kiên thân dịch kiên cố thân.
Khi Bồ Tát bố thí tai mũi như vậy, tâm thường vắng lặng, điều phục các căn, cứu giúp chúng sinh, thoát khỏi hiểm ác các hoạn nạn, sinh trưởng nhất thiết trí huệ công đức. Nhập vào biển đại bố thí, thấu đạt nghĩa của pháp, tu đủ các đạo. Nương trí huệ hành, được pháp tự tại, dùng thân không kiên cố, tu thành thân kiên cố.
Giảng: Khi Bồ Tát bố thí tai mũi, thì tâm của Ngài rất vắng lặng an nhiên, sáu căn của Ngài cũng rất điều thuận, chẳng có chút nào chẳng tự tại, Bồ Tát thấy được chúng sinh gặp nguy hiểm và hoạn nạn, Ngài chẳng từ mạo hiểm để cứu tế chúng sinh thoát khỏi khổ nạn. Do đó, mà sinh trưởng nhất thiết trí huệ, phương tiện khéo léo giáo hoá chúng sinh, tích tụ vô lượng căn lành công đức. Thực hành hạnh đại bố thí khó làm mà làm được như thế, như nhập vào trong biển đại bố thí, thấu rõ thông đạt đạo lý thật tướng của tất cả các pháp.
Hết thảy nghĩa lý pháp môn, Ngài thảy đều tu tập viên mãn đầy đủ. Nương theo pháp môn Bát Nhã tu chứng, hành Bồ Tát đạo cứu độ giáo hoá chúng sinh trầm mê, nhậm vận tự tại, vì Ngài đã minh bạch tất cả các pháp, thấu hiểu tất cả các pháp, lại hay vận dụng phương tiện khéo léo tất cả các pháp, đắc được công dụng tự tại của pháp. Tuy Ngài bố thí tai mũi của mình cho người, nhưng Ngài đắc được thiên nhãn thiên nhĩ thiên tĩ, đó là dùng nhục thân chẳng kiên cố, tu thành thân kim cang kiên cố bất hoại.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát bố thí nhĩ thời, dĩ chư thiện căn như thị hồi hướng, sở vị: nguyện nhất thiết chúng sanh đắc vô ngại nhĩ, phổ văn nhất thiết thuyết Pháp chi âm. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc vô chướng nhĩ, tất năng giải liễu nhất thiết âm thanh. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc Như Lai nhĩ, nhất thiết thông đạt vô sở ủng trệ. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc thanh tịnh nhĩ, bất nhân nhĩ xứ sanh phân biệt tâm. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc vô lung hội nhĩ, lệnh mông muội thức tất cánh bất sanh. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc biến Pháp giới nhĩ, tất tri nhất thiết chư Phật pháp âm. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc vô ngại nhĩ, khai ngộ nhất thiết vô chướng ngại Pháp. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc vô hoại nhĩ, thiện tri chư luận, vô năng hoại giả. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc phổ văn nhĩ, quảng đại thanh tịnh, vi chư nhĩ Vương. Nguyện nhất thiết chúng sanh cụ túc thiên nhĩ cập dĩ Phật nhĩ. Thị vi ồ-Tát Ma-ha-tát bố thí nhĩ thời thiện căn hồi hướng, vi lệnh chúng sanh giai tất hoạch đắc thanh tịnh nhĩ cố.
Phật tử ! Ðại Bồ Tát, khi Ngài bố thí tai, đem các căn lành hồi hướng như vầy: Nguyện cho tất cả chúng sinh được tai vô ngại, nghe khắp tất cả tiếng nói pháp. Nguyện cho tất cả chúng sinh được tai không chướng, thảy đều hiểu rõ tất cả âm thanh. Nguyện cho tất cả chúng sinh được tai Như Lai, thông đạt tất cả không bị trì trệ. Nguyện cho tất cả chúng sinh được tai thanh tịnh, chẳng vì lỗ tai mà sinh tâm phân biệt. Nguyện cho tất cả chúng sinh được tai không điếc lãng, khiến cho rốt ráo không có sự nghe sai mờ. Nguyện cho tất cả chúng sinh được tai khắp pháp giới, đều biết pháp âm của tất cả chư Phật. Nguyện cho tất cả chúng sinh được tai vô ngại, khai ngộ tất cả pháp không chướng ngại. Nguyện cho tất cả chúng sinh được tai không hoại, khéo biết các luận không ai huỷ hoại được. Nguyện cho tất cả chúng sinh được tai nghe khắp, rộng lớn thanh tịnh làm vua các tai. Nguyện cho tất cả chúng sinh đầy đủ thiên nhĩ, cùng với tai Phật. Ðó là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát khi Ngài bố thí tai, vì khiến cho chúng sinh đều đắc được tai thanh tịnh.
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát, khi Ngài bố thí tai, đem các căn lành của Ngài tu tập, hồi hướng như vầy: Tôi nguyện cho tất cả chúng sinh, đều được tai không có chướng ngại, nghe khắp âm thanh của mười phương chư Phật thuyết pháp. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, được tai không chướng, đối với tất cả âm thanh không gian, đều phân biệt thấu hiểu được. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, được tai của Như Lai, bất cứ sự lý gì, khi nghe được liền minh bạch, lỗ tai đặc biệt thông minh, chẳng có hiện tượng gì trì trệ được. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, được tai rất thanh tịnh, chẳng vì thọ thanh trần mà sinh tâm ô nhiễm và phân biệt.
Tâm Bồ Tát thường thanh tịnh vắng lặng, Ngài tuyệt đối chẳng bị lời lẽ tà kiến dụ hoặc, cho nên Ngài bố thí tai cho chúng sinh, cũng hy vọng chúng sinh đều đắc được tai thanh tịnh, sinh tâm thanh tịnh. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, được tai không điếc lãng, sinh ra tai chẳng bị điếc, sau này cũng chẳng bị nạn lãng tai. Nghe sai mờ-tâm ý hồ đồ, thấy việc chẳng rõ ràng, giống như nghe mà chẳng nghe, có mắt mà chẳng thấy. Hy vọng chúng sinh vĩnh viễn đều chẳng sinh tâm thức mù mờ chẳng rõ ràng như thế.
Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, được căn tai đặc biệc thông minh, nghe được pháp âm của chư Phật thuyết pháp trong khắp pháp giới, một khi pháp âm lọt vào lỗ tai, thì đều thấu hiểu. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, được căn tai chẳng bị chướng ngại, nghe được pháp của chư Phật nói, lập tức khai ngộ, thông đạt vô ngại. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, được tai không hoại, khéo nghe được đủ thứ nghị luận, dù có nghe được dị luận ngoại đạo, cũng chẳng tổn hoại căn tai thanh tịnh của Ngài.
Trong Kinh Pháp Hoa Phật đã từng nói: “… Trong ba ngàn đại thiên thế giới, hết thảy tất cả các thứ tiếng, tuy chưa được thiên nhĩ, dùng tai thường thanh tịnh của cha mẹ sinh ra, thảy đều nghe biết. Như vậy phân biệt đủ thứ âm thanh, mà chẳng hoại căn tai”. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, được tai nghe khắp tiếng trong ba ngàn đại thiên thế giới, rộng lớn thanh tịnh, làm vua tai trong tất cả chúng sinh. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh, được đầy đủ căn lành, đắc được thiên nhĩ, bất cứ xa bao nhiêu, trên đến cõi trời Hữu Ðỉnh, dưới đến địa ngục Vô Gián, tất cả âm thanh thảy đều nghe được hết. Ðắc được tai giống như Phật, tai của Phật là viên dung vô ngại, tận hư không khắp pháp giới, chẳng có một thứ âm thanh nào mà chẳng nghe được.
Những lời nguyện ở trên, là của đại Bồ Tát hồi hướng căn lành khi Ngài bố thí tai. Vì muốn khiến cho tất cả chúng sinh, đều đắc được tai thanh tịnh, nghe khắp pháp âm vô thượng của chư Phật nói.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát bố thí tỳ thời, như thị hồi hướng, sở vị: nguyện nhất thiết chúng sanh đắc long trực tỳ, đắc tùy hảo tỳ, đắc thiện tướng tỳ, đắc khả ái lạc tỳ, đắc tịnh diệu tỳ, đắc tùy thuận tỳ, đắc cao hiển tỳ, đắc phục oán tỳ, đắc thiện kiến tỳ, đắc Như Lai tỳ.
Phật tử ! Khi đại Bồ Tát bố thí mũi, hồi hướng như vầy: Nguyện cho tất cả chúng sinh được mũi cao thẳng. Được mũi tốt đẹp. Được tướng mũi thiện. Được mũi đáng ưa thích. Được mũi tịnh diệu. Được mũi tuỳ thuận. Được mũi cao hiển. Được mũi phục oán. Được mũi khéo thấy. Được mũi Như Lai.
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát bố thí mắt tai rồi, tiếp theo lại bố thí mũi. Khi bố thí mũi, Ngài hồi hướng như vầy: Ngài nói: Nguyện cho tất cả chúng sinh, đều đắc được mũi cao thẳng. Ðắc được mũi tốt đẹp: Mũi và các khí quan khác, phối hợp rất tương xứng, không lớn, không nhỏ, không cao, không thấp. Ðược tướng mũi thiện: Vì lỗ mũi sinh ra rất đẹp, khiến cho tướng mặt đều hiển lộ ra rất thiện lương, khiến cho người nhìn thấy vẻ bên ngoài thuận mắt, sinh tâm hoan hỉ. Ðược mũi đáng ưa thích: Lỗ mũi sinh ra rất đoan chánh đồng đều, khiến cho người thấy được vừa hoan hỉ lại tôn kính, sự ưa thích đó là thanh tịnh, tâm lý rất cung kính. Ðược mũi tịnh diệu: Hình sắc bên ngoài lỗ mũi nhuần nhã, hình dáng lỗ mũi cũng rất tốt đẹp, thần kinh khứu giác của lỗ mũi cũng đặc biệc linh mẫn. Ðược mũi tuỳ thuận:
Trong vô hình lỗ mũi có một sức lực hấp dẫn, người tu đạo sinh ra được mũi tuỳ thuận, đối với việc hoằng pháp lợi sinh có sự trợ giúp rất lớn. Tất cả chúng sinh thấy được vị pháp sư nầy, thị họ sẽ rất muốn theo vị thầy đó tu học Phật pháp, và còn rất nghe lời chỉ dạy. Ðược mũi cao hiển: Hình lỗ mũi nầy tục ngữ có nói là mũi huyền đảm, mũi cao và thẳng, mũi tướng thiện, tổng hợp ưu điểm của mũi khéo thấy, trở thành như mũi của Phật. Lỗ mũi là một bộ phận quan trọng ở trên mặt của con người, là chủ của ngũ quan. Con người ở trong thai mẹ, lỗ mũi cũng thọ hình trước. Tướng mũi sinh ra có thể tượng trưng cho tính cách của một con người-trung, gian, thành, trá, cũng có thể hiển bày ra vận mệnh giàu nghèo sang hèn. Người xuất gia tuy không coi trọng về tướng mạng, nhưng tướng tốt trang nghiêm, phẩm đức học thức ưu lương, vẫn rất quan trọng. Tướng tốt là đời trước tu tập phước báu, là bên ngoài, vô thường, cho nên cần phải dụng công trên phẩm đức. Phẩm đức là bên trong, ngày ngày tăng trưởng, càng lâu càng bền vững.
Nhục thân chúng ta phải có tướng tốt trang nghiêm, phẩm đức trang nghiêm pháp thân vô hình. Người xuất gia tuỳ thời chú ý vun bồi pháp thân, ngàn vạn đừng lầm lẫn dùng hết tướng tốt đời trước tu được, cũng đừng cô phụ lợi ích của Bồ Tát hồi hướng cho chúng ta. Ðược mũi phục oán: Thứ lỗ mũi nầy trong vô hình nó có một khí chất oai nghiêm, không nộ mà oai, khiến cho người một khi thấy được tự nhiên sinh tâm kính sợ. Ðầy dẫy oán cừu, thấy mặt thì trong vô hình tiêu tan mất. Người có đức hạnh, chẳng phải tại địa vị tuổi tác, họ nói năng im lặng hành động, tự nhiên chảy ra phẩm cách khiến cho người kính sợ, sự kính sợ nầy chẳng phải là sợ hãi, sợ hãi thì khiến cho người xa lìa họ; mà là khiến cho người cung kính.
Người xuất gia phải có sự tu dưỡng, vun bồi khí chất không nộ mà oai. Ðược mũi khéo thấy: Vì lỗ mũi sinh ra rất đoan chánh, ngũ quan tương xứng, hiển lộ từ tường đầy sắc mặt, khiến cho người thấy được sinh tâm hoan hỉ, cũng sinh thiện niệm chánh kiến. Ðược mũi Như Lai: Ngũ quan của Phật viên mãn như vậy, ưu điểm lỗ mũi của Ngài là trên đời chẳng có thể ví dụ được. Bồ Tát hy vọng chúng sinh cũng sinh ra có lỗ mũi như thế. Tóm lại, Bồ Tát tâm bi tha thiết, mong muốn mỗi chúng sinh đều viên mãn, thậm chí còn vượt hơn chính Ngài nữa, lúc đó Ngài mới yên tâm chứng quả Phật vào Niết Bàn, bằng không Ngài sẽ vĩnh viễn theo chúng sinh thọ khổ !
Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc ly khuể nộ diện, đắc nhất thiết pháp diện, đắc vô chướng ngại diện, đắc thiện kiến diện, đắc tùy thuận diện, đắc thanh tịnh diện, đắc ly quá thất diện, đắc Như Lai viên mãn diện, đắc biến nhất thiết xứ diện, đắc vô lượng mỹ hảo diện. thị vi Bồ-Tát Ma-ha-tát bố thí tỳ thời thiện căn hồi hướng
Nguyện cho tất cả chúng sinh được khuôn mặt lìa nét giận hờn. Ðược khuôn mặt tất cả pháp. Ðược khuôn mặt không chướng ngại. Ðược khuôn mặt thiện kiến. Ðược khuôn mặt tuỳ thuận. Ðược khuôn mặt thanh tịnh. Ðược khuôn mặt lìa lỗi lầm. Ðược khuôn mặt viên mãn của Như Lai. Ðược khuôn mặt khắp tất cả mọi nơi. Ðược khuôn mặt vô lượng tốt đẹp. Ðó là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát khi Ngài bố thí mũi.
Giảng: Bồ Tát bố thí mắt tai mũi rồi, lại đem căn lành tu tập hồi hướng cho chúng sinh: Hiện tại Ngài lại cứ nghĩ đến ngũ quan tốt đẹp, nếu chẳng có một khuôn mặt đẹp, thì đó chẳng phải là thiếu sót một cái gì lớn lao trong cái đẹp chăng ? Cho nên Bồ Tát lại phát nguyện, nguyện cho tất cả chúng sinh được lìa khuôn mặt giận hờn; giận hờn là khí phẫn uất trong tâm, biểu hiện ở trên mặt, khiến cho người thấy phát sợ. Bồ Tát nguyện cho chúng sinh đừng có khuôn mặt hung ác, mà đắc được khuôn mặt từ bi. Khuôn mặt tất cả pháp: Tức giống như khuôn mặt của Bồ Tát, nhìn được khuôn mặt nầy, thì tự nhiên sẽ minh bạch tất cả các pháp, sùng kính tất cả các pháp. Khuôn mặt không chướng ngại: Khiến cho người một khi thấy được bèn sinh tâm thuận lợi, tâm hoan hỉ. Khuôn mặt khéo thấy: Khuôn mặt thiện lượng chánh trực. Khuôn mặt tuỳ thuận: Người tâm tính khiêm hoà, thì khuôn mặt của họ biểu hiện rất tuỳ hoà, chẳng cố chấp, ở đâu cũng khiến cho mọi người vừa ý, cho nên người khác cũng nghe họ chỉ dạy. Khuôn mặt thanh tịnh: Khuôn mặt thanh tịnh có hai điểm đặc trưng:
Một là biểu hiện bên ngoài thanh tịnh, sắc da bên ngoài nhoẵn bóng sạch sẽ, chẳng có bệnh hoạn gì hết, mặt mày sáng sủa như trăng rằm, thường hiện ra dáng vui vẻ tươi cười; riêng về phương diện khác, phàm là người có tướng mặt hoà mục nầy, thì nhất định là vị quân tử có tâm thanh tịnh, phẩm đức thanh cao. Nếu là người xuất gia tu đạo, nhìn thì biết vị đó là cao Tăng đắc đạo, công phu thiền định đã đến lư hoả trừng thanh, phương diện ba nghiệp tuyệt đối xa lìa tạp nhiễm, vì tướng theo tâm chuyển. Khuôn mặt lìa lỗi lầm: Người ba nghiệp thanh tịnh, thì xa lìa tất cả lỗi lầm, tâm của họ bình dị, cho nên sắc mặt của họ tự nhiên, thường hiện ra biểu hiện hân hoan vui vẻ, như thường gần gũi người tốt nầy, thì sẽ được đồng hoá họ, cũng sẽ lìa khỏi lỗi lầm, làm người thiện lương thanh bạch. Ðược khuôn mặt viên mãn của Như Lai:
Khuôn mặt của Như Lai, chẳng phải văn tự có thể hình dung được, các vị có thể đến chùa vào chánh điện, bất cứ góc độ nào, bạn từ từ chiêm ngưỡng tướng vị Phật lớn chính giữa, dùng tâm thanh tịnh, tâm tôn trọng, tâm cung kính nhìn tướng của Phật, tâm thần lãnh hội, thì bạn sẽ thể hội được tướng mạo của Phật viên mãn như thế nào. Khi bạn tiếp xúc đến thần quang của diện mạo Phật, thì thân tâm thanh tịnh hân hoan vui vẻ, quên hết tất cả phiền não và tội nghiệp của thế gian. Sức cảm chiêu nầy, là Phật đã viên mãn lục độ vạn hạnh trong quá khứ, tích tụ căn lành công đức thành tựu trong trăm kiếp. Bồ Tát phát nguyện hy vọng chúng sinh đắc được tướng mạo viên mãn của Như Lai, nhưng chúng minh mê mờ chẳng chịu tu hành, chẳng nghe chỉ dạy, đó là cô phụ khổ tâm của Bồ Tát.
Lại nguyện cho chúng sinh được khuôn mặt khắp tất cả mọi nơi: Ở đây chẳng phải nói khuôn mặt đắc được, lớn có thể khắp tất cả ở mọi nơi, mà là nói bạn có đức hạnh, có nhân duyên, bất cứ đến đâu cũng đều được mọi người cung kính hoan nghinh. Lại được khuôn mặt vô lượng tướng tốt: Cũng có thể nói là khuôn mặt sinh ra được viên mãn đầy đủ, chẳng có chút thiếu khuyết nào. Ở trên là hồi hướng căn lành tu tập của đại Bồ Tát khi Ngài bố thí mũi, hy vọng chúng sinh đắc được sự hồi hướng có một khuôn mặt tốt.
Vi lệnh chúng sanh cứu cánh đắc nhập chư Phật Pháp cố, vi lệnh chúng sanh cứu cánh nhiếp thọ chư Phật Pháp cố, vi lệnh chúng sanh cứu cánh liễu tri chư Phật Pháp cố, vi lệnh chúng sanh cứu cánh trụ trì chư Phật Pháp cố, vi lệnh chúng sanh cứu cánh thường kiến chư Như Lai cố, vi lệnh chúng sanh giai tất chứng đắc Phật Pháp môn cố, vi lệnh chúng sanh cứu cánh thành tựu vô năng hoại tâm cố, vi lệnh chúng sanh giai năng chiếu liễu chư Phật chánh pháp cố, vi lệnh chúng sanh phổ tất nghiêm tịnh chư Phật quốc độ cố, vi lệnh chúng sanh giai đắc Như Lai đại uy lực thân cố. thị vi Bồ-Tát Ma-ha-tát thí nhĩ, tỳ thời thiện căn hồi hướng.
Vì khiến cho chúng sinh rốt ráo được nhập vào các Phật pháp. Vì khiến cho chúng sinh rốt ráo nhiếp thọ các Phật pháp. Vì khiến cho chúng sinh rốt ráo thấu rõ các Phật pháp. Vì khiến cho chúng sinh rốt ráo trụ trì các Phật pháp. Vì khiến cho chúng sinh rốt ráo thường thấy các Như Lai. Vì khiến cho chúng sinh thảy đều chứng được pháp môn của Phật. Vì khiến cho chúng sinh rốt ráo thành tựu tâm không thể hoại. Vì khiến cho chúng sinh đều chiếu rõ chánh pháp của chư Phật. Vì khiến cho chúng sinh khắp nghiêm tịnh cõi nước chư Phật. Vì khiến cho chúng sinh đều được thân đại oai lực của Như Lai.
Ðó là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát khi Ngài bố thí tai mũi.
Giảng: Bồ Tát bố thí tai mũi, cùng với sự hồi hướng căn lành của Ngài, mục đích của Ngài chẳng phải tham cầu công đức, mà là hy vọng chúng sinh khai mở đại trí huệ, chân chánh vào sâu tạng Kinh, trí huệ như biển. Lại hy vọng chúng sinh quyết thực tiếp thọ pháp của chư Phật nói, mà còn có thể y giáo phụng hành, nhiếp trì không giải đãi. Lại muốn khiến cho chúng sinh đều minh bạch pháp của chư Phật nói, không có nghi hoặc. Lại muốn khiến cho hết thảy chúng sinh an trụ vào pháp của chư Phật nói, vĩnh viễn không thối chuyển. Lại muốn khiến cho tất cả chúng sinh thường thấy chư Phật, gần gũi chư Phật. Lại muốn khiến cho tất cả chúng sinh, đều tu chứng được pháp môn của chư Phật nói, viên mãn quả vị Phật. Lại muốn khiến cho tất cả chúng sinh, thành tựu tâm tin kiên cố như kim cang, chẳng có gì có thể chướng ngại phá hoại được. Lại muốn khiến cho tất cả chúng sinh, đều minh bạch pháp của chư Phật nói, đắc được chánh pháp nhãn tạng. Lại muốn khiến cho tất cả chúng sinh, thảy đều dùng công đức thanh tịnh trang nghiêm cõi nước của chư Phật. Lại muốn khiến cho tất cả chúng sinh, đều đắc được đại oai đức thân kim cang bất hoại giống như Phật. Ðó là những sự hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát, khi Ngài bố thí tai mũi.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát an trụ kiên cố tự tại địa trung, năng dĩ nha xỉ thí chư chúng sanh, do như vãng tích hoa xỉ Vương Bồ Tát, lục nha tượng Vương Bồ Tát, cập dư vô lượng chư Bồ-tát đẳng.
Phật tử ! Ðại Bồ Tát an trụ vững chắc ở trong cảnh giới tự tại, có thể dùng răng bố thí cho các chúng sinh. Như thuở xưa Bồ Tát Hoa Xỉ Vương. Bồ Tát Lục Nha Tượng Vương, và vô lượng các Bồ Tát khác.
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát tâm tin của Ngài thâm sâu, nguyện lực kiên cố, buông xả tất cả không chấp không nương tựa, chuyên tâm tu hành pháp môn bố thí. Ở trong cảnh giới nhậm vận tự tại, có thể đem răng bố thí cho chúng sinh. Thưở xưa có vị Bồ Tát Hoa Xỉ Vương, vì khó xả mà xả được, nhẫn nại sự đau răng bố thí cho chúng sinh, cho nên đời đời kiếp kiếp Ngài đắc được răng tốt đẹp nhất. Do công đức đó, được gọi là Bồ Tát Hoa Xỉ Vương.
Lại như Bồ Tát Lục Nha Tượng Vương-có một câu chuyện như vầy: Lúc Ðức Phật còn tại thế, có một đời đã từng thọ sinh làm đại tượng vương (voi chúa), Ngài sinh ra có sáu cái ngà dài rất trắng muốt. Một lần nọ, bị ông vua Ca Xa biết được, bèn sai năm người chiên đà la đi lấy, nếu lấy không được thì sẽ bị mất mạng. Họ vì bảo vệ mạng sống, nên thân thể quấn y cà sa nguỵ làm Sa Môn, tay cầm mũi tên độc, vào trong núi Tuyết, chỗ con voi chúa đại tượng vương ở để giết hại.
Lúc đó, voi mẹ ở xa thấy có người dương cung bắn, lập tức báo cáo cho tượng vương biết, tượng vương nghe rồi nhìn xem, thì thấy đệ tử của Phật cạo râu tóc, mặc áo cà sa, ngược lại còn nói với voi mẹ rằng: Họ đều đã lìa ác tâm, chẳng còn hại chúng sinh nữa, mẹ đừng có sợ.
Lúc đó những người chiên đà la thấy voi chúa không chạy trốn, bèn lấy mũi tên độc bắn trúng tim con voi chúa. Voi mẹ thấy tình hình như vậy, kêu rống to lên, đàn voi nghe tiếng tụ tập lại, oán nộ muốn dùng chân đạp chết bọn chiên đà la. Voi chúa không oán giận, dùng thân bảo vệ họ, và hỏi họ tại sao bắn Ngài ? Bọn chiên đà la bèn nói sự thật. Voi chúa hoan hỉ, bèn dùng vòi lôi hết sáu cái ngà dâng cho bọn chiên đà la lấy đem về phục mạng. Và còn nói với đàn voi rằng: Ta thà bỏ thân mạng, cũng chẳng khởi tâm giết hại chúng sinh, lại đối với chiên đà la nói: “Nay tôi đem ngà trắng bố thí cho các ông, mà không phẫn, không hận, không sẻn tiếc. Nguyện đem công đức bố thí sẽ được thành Phật, diệt trừ bệnh phiền não của chúng sinh”.
Các vị ! Voi chúa tuy thọ bàng sinh thân thú, nhưng vì cầu quả Phật Chánh Ðẳng Chánh Giác, mà xả bỏ thân mạng không sẻn tiếc, còn biết cung kính người xuất gia, đối với ác hạnh của họ cũng không báo thù. Chúng ta nghe qua câu chuyện nầy, có sự phản ứng gì ? Bồ Tát hành Bồ Tát đạo, bố thí xả bỏ nội tài, ngoại tài, giống như vậy, có vô lượng vô số các Bồ Tát khác, ở đây bất quá cử ra hai vị Bồ Tát mà thôi.
Bồ-Tát Ma-ha-tát thí nha xỉ thời, kỳ tâm thanh tịnh, hy hữu nan đắc như ưu-đàm hoa. Sở vị: vô tận tâm thí, đại tín tâm thí, bộ bộ thành tựu vô lượng xả tâm thí, điều phục chư căn tâm thí, nhất thiết tất xả tâm thí, nhất thiết trí nguyện tâm thí, an lạc chúng sanh tâm thí, Đại thí, cực thí, thắng thí, tối thắng thí, xuyết thân yếu dụng vô sở hiềm hận tâm thí.
Khi đại Bồ Tát bố thí răng, tâm của Ngài thanh tịnh, ít có khó được, như hoa Ưu Ðàm. Đó là: Tâm bố thí vô tận. Tâm bố thí niềm tin lớn. Tâm bố thí từng bước thành tựu vô lượng. Tâm bố thí điều phục các căn. Tâm bố thí tất cả đều xả bỏ. Tâm bố thí tất cả trí nguyện. Tâm bố thí an lạc chúng sinh. Bố thí lớn. Bố thí tột cùng. Bố thí thù thắng. Bố thí tối thắng. Tâm bố thí chẳng có lòng hiềm ghét thù hận.
Giảng: Ðại Bồ Tát khi Ngài bố thí răng, thì tâm của Ngài rất thanh tịnh bình tĩnh, chẳng có chút vọng niệm nào, cũng chưa từng cảm thấy đau đớn, trình độ an tĩnh như thế, thật là ít có, giống như hoa Ưu Ðàm, thời gian rất lâu mới nở một lần, thời gian nở lại rất ngắn. Người thấy được thứ hoa nầy, cũng rất ít. Lúc đó, tâm của Bồ Tát sung mãn tâm bố thí vô tận, hy vọng mình có thể vĩnh viễn hành bố thí lớn. Lại sinh khởi ý niệm tâm tin lớn, dùng tâm tin nguyện lớn nhất bố thí răng của mình. Lại hy vọng có thể từng bước từng bước, thành tựu vô lượng tâm bố thí lớn, chẳng những chỉ có thể bố thí răng, mà thân tâm tính mạng của mình đều có thể xả bỏ được. Lại có thể điều phục thân tâm năm căn của mình, đều được an nhiên tự tại, chẳng cảm thấy chút đau khổ nào. Lại đối với tất cả nội tài, ngoại tài, đều bố thí được hết, chẳng có chấp trước, cũng chẳng sẻn tiếc.
Bồ Tát hành sự là dùng trí huệ để thực hành, vì nguyện lực tức là căn lành, cho nên Ngài hành bố thí chẳng phải là mù mắt. Ngài phải quán sát nhân duyên, rồi sau đó mới làm, tất cả đều căn cứ vào trí huệ và tâm nguyện mà bố thí. Mục đích Ngài bố thí, chẳng phải là vì viên mãn công đức của mình, mà là vì khiến cho chúng sinh đắc được an lạc, có tâm xả mình vì người, thì tự nhiên Ngài sẽ viên mãn bố thí Ba La Măt. Bồ Tát thiết lập hội bố thí lớn, người khác xả không được, mà Ngài đều xả được; người khác không làm được mà Ngài làm được. Cho nên pháp hội bố thí của Ngài là hội bố thí lớn nhất vô giá, phong phú nhất, hội bố thí toàn thiện tột cùng nhất, hội bố thí thù thắng hơn người khác, hội bố thí thù thắng nhất. Nếu có người cần thân mạng của Ngài, thì Bồ Tát cũng chẳng có tơ hào do dự bố thí cho họ, mà còn chẳng sinh chút tâm hiềm hận nào, thảy đều xả thí cho người xin. Bồ Tát dùng đủ thứ tâm ít có khó được như vậy, để bố thí răng của Ngài.
Bồ Tát nhĩ thời, dĩ chư thiện căn như thị hồi hướng, sở vị: nguyện nhất thiết chúng sanh đắc tiêm bạch nha xỉ, thành tối thắng tháp, thọ Thiên Nhân cúng. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc tề bình nha xỉ, như Phật tướng hảo, vô hữu 踈khuyết. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc điều phục tâm, thiện thú Bồ Tát Ba-la-mật Hạnh. Nguyện nhất thiết chúng sanh khẩu thiện thanh tịnh, nha xỉ tiên bạch, phân minh hiển hiện. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc khả ức niệm trang nghiêm nha xỉ, kỳ khẩu thanh tịnh, vô khả ác tướng. Nguyện nhất thiết chúng sanh nha xỉ thành tựu cụ mãn tứ thập, thường xuất chủng chủng hy hữu diệu hương.
Lúc đó, Bồ Tát đem các căn lành hồi hướng như vầy: Nguyện cho tất cả chúng sinh được răng trắng bén nhọn, thành tháp tối thắng, thọ trời người cúng dường. Nguyện cho tất cả chúng sinh được răng bằng phẳng đồng đều, như tướng tốt của Phật, chẳng có hở thiếu. Nguyện cho tất cả chúng sinh được tâm điều phục, khéo hướng về hạnh Ba La Mật của Bồ Tát. Nguyện cho tất cả chúng sinh được miệng lành thanh tịnh, răng bóng trắng, hiển hiện phân minh. Nguyện cho tất cả chúng sinh được răng trang nghiêm có thể nghĩ nhớ, miệng được thanh tịnh, không có tướng xấu. Nguyện cho tất cả chúng sinh thành tựu đầy đủ bốn mươi cái răng, thường toả ra đủ thứ hương thơm ít có.
Giảng: Bồ Tát phát tâm ít có như ở trên đã nói rồi, lại đem căn lành của Ngài bố thí răng, hồi hướng như vầy: Tôi nguyện cho tất cả chúng sinh được răng trắng sạch bén nhọn, có hình dáng giống như tháp, tiếp thọ trời người cúng dường thức ăn uống thượng hạng. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh được răng rất bằng phẳng đồng đều, ngay hàng, giống như Phật có tướng tốt về răng, không hở cũng không thiếu khuyết. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh được thân tâm an nhiên, năm căn điều thuận, chẳng cấp tốc thô tháo, cũng chẳng nổi giận, nhu hoà khiêm nhường, khéo tu tập các hạnh môn, hướng về lục độ vạn hạnh của Bồ Tát tu. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh được nghiệp miệng thanh tịnh, thường nói lời chân chánh.
Răng trắng khiết, răng rất bóng sáng, hiển hiện phân minh rõ ràng. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh được răng đoan chánh toàn mỹ, miệng cũng đặc biệt thanh tịnh. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh thành tựu đầy đủ bốn mươi cái răng. Tại sao phải nguyện cho chúng sinh đầy đủ bốn mười cái răng ? Vì bốn mươi cái răng rất khó có được, là bậc đế vương đại phú quý mới sinh ra có đủ bốn mươi cái răng. Phật là đấng Pháp Vương, bậc đại giác phước huệ đầy đủ, cho nên Ngài có bốn mươi cái răng. Ngài Thanh Lương Quốc Sư tả Kinh Hoa Nghiêm Sớ Sao, là Bồ Tát thị hiện, cũng có đủ bốn mươi cái răng. Vị đại Bồ Tát tu pháp hồi hướng nầy, Ngài cũng hy vọng chúng sinh thành tựu đầy đủ bốn mươi cái răng.
Các vị ! Mọi người hãy mau phát tâm tu hạnh Bồ Tát, bằng không, khiến cho Bồ Tát thất vọng thương tâm ! Ở trong răng thường thường toả ra đủ thứ hương thơm ít có, thứ hương thơm đó rất tự nhiên từ trong răng, theo sự hô hấp nhẹ nhàng toả ra trong không khí, tuyệt đối chẳng phải là nước dầu thơm.
Nguyện nhất thiết chúng sanh ý thiện điều phục, nha xỉ tiên khiết như bạch liên hoa, văn lý hồi toàn vạn tự thành tựu. Nguyện nhất thiết chúng sanh khẩu thần tiên tịnh, nha xỉ khiết bạch, phóng Vô Lượng Quang chu biến chiếu diệu. Nguyện nhất thiết chúng sanh nha xỉ kiên lợi, thực vô hoàn lạp, vô sở vị trước, vi thượng phước điền. Nguyện nhất thiết chúng sanh ư nha xỉ gian thường phóng quang minh, thọ chư Bồ-tát đệ nhất kí biệt.
Thị vi Bồ-Tát Ma-ha-tát thí nha xỉ thời thiện căn hồi hướng. Vi lệnh chúng sanh cụ nhất thiết trí, ư chư Pháp trung trí tuệ thanh tịnh cố.
Nguyện cho tất cả chúng sinh ý khéo điều phục, răng trắng bóng, như hoa sen trắng, có vân quay về bên phải, thành tựu chữ vạn. Nguyện cho tất cả chúng sinh miệng môi thanh tịnh, răng trắng sạch, phóng ra vô lượng quang minh, chiếu sáng khắp cùng. Nguyện cho tất cả chúng sinh răng cứng sắc bén, ăn nhai kỹ, không tham trước mùi vị, làm ruộng phước vô thượng. Nguyện cho tất cả chúng sinh nơi giữa răng thường phóng quang minh, thọ ký cho các Bồ Tát đệ nhất.
Giảng: Ðó là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát khi Ngài bố thí răng. Vì khiến cho chúng sinh đủ nhất thiết trí, trí huệ thanh tịnh ở trong các pháp.
Bồ Tát lại nguyện cho tất cả chúng sinh, khéo điều phục ý căn của mình, ở trong ý niệm chẳng khởi tà niệm tham sân si, cho nên phải khéo tự điều phục, thường tu giới định huệ ba học vô lậu, sinh khởi chánh niệm. Răng sinh ra trắng khiết sạch sẽ, giống như hoa sen trắng, trên răng có vân, quay về phía bên phải, thành tựu hình chữ vạn. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh miệng môi thanh tịnh. Răng trắng khiết phóng ra vô lượng quang minh, chiếu sáng khắp cõi nước chư Phật trong mười phương thế giới. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh răng sinh ra rất chắt và bén nhọn, bất cứ ăn gì, đều nhai kỹ càng, chẳng có nuốt trựng. Tuy nhiên có răng tốt, nhưng không tham trước ăn uống, mà làm ruộng phước bậc nhất của chúng sinh. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh răng thường có quang minh phóng ra, có thể thọ việc các Như Lai thọ ký đệ nhất. Nói Bồ Tát khi nào sẽ thành Phật, cõi nước tên gì, trụ kiếp như thế nào, trụ thế bao lâu?
Ðó là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát khi Ngài bố thí răng. Bồ Tát vì khiến cho tất cả chúng sinh đều đầy đủ nhất thiết trí huệ, ở trong các Phật pháp sinh đại trí huệ, dùng đại trí huệ thanh tịnh nầy, để giáo hoá tất cả chúng sinh.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát nhược hữu nhân lai tùng khất thiệt thời, ư khất giả sở, dĩ từ bi tâm nhuyễn ngữ, ái ngữ, do như vãng tích đoan chánh diện Vương Bồ Tát, Bất-thoái-chuyển Bồ Tát, cập dư vô lượng chư Bồ-tát đẳng.
Phật tử ! Nếu có ai đến chỗ đại Bồ Tát xin cái lưỡi, thì Ngài đối với người xin, dùng tâm từ bi, nói lời nhẹ nhàng khả ái. Như thuở xưa Bồ Tát Ðoan Chánh Diện Vương, Bồ Tát Bất Thoái Chuyển, và vô lượng các Bồ Tát khác.
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Nếu có người nào đến chỗ đại Bồ Tát xin cái lưỡi của Ngài, thì lúc đó Bồ Tát dùng tâm đại từ đại bi, và dùng lời nói rất hoà mục khải ái đối với người xin. Như thuở xưa có vị Bồ Tát Ðoan Chánh Diện Vương, Bồ Tát Bất Thoái Chuyển, và vô lượng vô số các Bồ Tát khác, bố thí cái lưỡi. Vì Bồ Tát muốn viên mãn bố thí Ba La Măt, thì phải xả bỏ nội tài, nhưng người xin nội tài thật là ít có, cho nên Bồ Tát thấy có người đến xin nội tài của Ngài, thì phát tâm hoan hỉ, tâm cung kính, vui vẻ nói năng dịu dàng mà bố thí.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát ư chư thú trung nhi thọ sanh thời, hữu vô lượng bách thiên ức na-do-tha chúng sanh nhi lai khất thiệt. Bồ Tát nhĩ thời, an trí kỳ nhân tại sư tử tọa, dĩ vô khuể tâm, vô hại tâm, vô hận tâm, đại uy đức tâm, tùng Phật chủng tánh sở sanh tâm, trụ ư Bồ Tát sở trụ tâm, thường bất trược loạn tâm, trụ đại thế lực tâm, ư thân Vô Trước tâm, ư ngữ Vô Trước tâm, lượng (lưỡng) tất trước địa, khai khẩu xuất thiệt, dĩ thị khất giả. Từ tâm nhuyễn ngữ nhi cáo chi ngôn: ngã kim thử thân, phổ giai chúc nhữ. Khả thủ ngã thiệt, tùy ý sở dụng, lệnh nhữ sở nguyện, giai đắc mãn túc.
Phật tử ! Khi đại Bồ Tát ở trong các cõi thọ sinh, thì có vô lượng trăm ngàn ức Na do tha chúng sinh đến xin cái lưỡi. Khi đó Bồ Tát đặc người đó trên toà sư tử. Dùng tâm không sân. Tâm không hại. Tâm không hận. Tâm đại oai đức. Tâm sinh ra từ giống tánh của Phật. Tâm trụ chỗ Bồ Tát trụ. Tâm thường chẳng trược loạn. Tâm trụ nơi thế lực lớn. Tâm không chấp nơi thân. Tâm không chấp nơi lời nói. Hai gối quỳ xuống đất, mở miệng thè lưỡi ra, tâm từ bi lời nói nhẹ nhàng, nói với người xin rằng: Nay thân nầy của tôi, đều thuộc về ông, ông có thể lấy lưỡi của tôi, tuỳ ý mà sử dụng, khiến cho nguyện vọng của ông đều được đầy đủ.
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát khi Ngài tu Bồ Tát hạnh, thường thọ sinh ở trong sáu nẻo. Ở trong những thế giới đó, thường có vô lượng số trăm ngàn ức Na do tha chúng sinh, đến xin cái lưỡi của Ngài. Khi ấy, Bồ Tát đặc người xin lên trên toà sư tử. Tâm của Ngài an tĩnh, chẳng có tơ hào phẫn uất, cũng chẳng có tâm giết hại chúng sinh, cũng chẳng có tâm oán hận ai; chỉ dùng tâm thành tựu đại oai đức, tâm từ bi từ trong giống tánh của Phật chảy ra, tâm vô ngã rộng lớn trụ chỗ trụ của Bồ Tát, tâm thanh tịnh chẳng điên đảo cũng chẳng ngu si, tâm trụ nơi địa vị thế lực lớn, tâm chẳng chấp trước đối với thân, tâm cũng chẳng chấp trước đối với lời nói. Bồ Tát dùng mười thứ tâm thanh tịnh thù thắng đó, hai gối quỳ xuống đất, mở miệng ra, thè lưỡi ra cho người xin xem, tâm từ bi nói lời nhẹ nhàng với người xin rằng: Hiện tại thân thể đây của tôi, hoàn toàn thuộc về ông, tuỳ ông muốn làm gì thì làm. Ông muốn cái lưỡi của tôi, thì có thể cắt lấy đi, khiến cho nguyện vọng của ông được tuỳ tâm mãn nguyện.
Bồ Tát nhĩ thời, dĩ chư thiện căn như thị hồi hướng, sở vị: nguyện nhất thiết chúng sanh đắc châu phổ thiệt, tất năng tuyên thị chư ngữ ngôn Pháp. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc phước diện thiệt, sở ngôn vô nhị, giai tất chân thật. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc phổ phước nhất thiết Phật quốc độ thiệt, thị hiện chư Phật tự tại thần thông. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc nhuyễn bạc thiệt, hằng thọ mỹ diệu thanh tịnh thượng vị. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc biện tài thiệt, năng đoạn nhất thiết thế gian nghi võng. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc quang minh thiệt, năng phóng vô số vạn ức quang minh. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc quyết định thiệt, biện thuyết chư Pháp vô hữu cùng tận. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc phổ điều phục thiệt, thiện năng khai thị nhất thiết bí yếu, sở hữu ngôn thuyết giai lệnh tín thọ. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc phổ thông đạt thiệt, thiện nhập nhất thiết ngữ ngôn đại hải. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc thiện thuyết nhất thiết chư pháp môn thiệt, ư ngôn ngữ trí tất đáo bỉ ngạn.
Thị vi Bồ-Tát Ma-ha-tát bố thí thiệt thời thiện căn hồi hướng, vi lệnh chúng sanh giai đắc viên mãn vô ngại trí cố.
Lúc đó Bồ Tát, đem các căn lành hồi hướng như vầy: Nguyện cho tất cả chúng sinh được lưỡi cùng khắp, đều có thể tuyên nói diễn bày các pháp lời nói. Nguyện cho tất cả chúng sinh được lưỡi che trùm cả mặt, lời nói ra không hai, thảy đều chân thật. Nguyện cho tất cả chúng sinh được lưỡi che trùm khắp tất cả cõi Phật, thị hiện thần thông tự tại của chư Phật. Nguyện cho tất cả chúng sinh được lưỡi mềm mỏng, luôn thọ được hương vị thanh tịnh thơm ngon thượng hạng. Nguyện cho tất cả chúng sinh được lưỡi biện tài, dứt trừ được tất cả lưới nghi của thế gian. Nguyện cho tất cả chúng sinh được lưỡi quang minh, có thể phóng ra vô số vạn ức quang minh. Nguyện cho tất cả chúng sinh được lưỡi quyết định, biện nói các pháp chẳng cùng tận. Nguyện cho tất cả chúng sinh được lưỡi điều phục khắp, khéo khai thị tất cả bí yếu, những lời nói ra đều khiến cho họ tin thọ. Nguyện cho tất cả chúng sinh được lưỡi thông đạt khắp, khéo nhập vào tất cả biển ngôn ngữ. Nguyện cho tất cả chúng sinh được lưỡi khéo nói tất cả các pháp môn, nơi lời nói trí đều đến bờ kia.
Giảng: Ðó là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát, khi Ngài bố thí lưỡi. Vì khiến cho chúng sinh đều đắc được trí viên mãn vô ngại.
Lúc đó Bồ Tát, Ngài đem đủ thứ căn lành tu tập, hồi hướng như vầy: Ngài nói: Tôi nguyện cho tất cả chúng sinh, đều đắc được lưỡi dùng khắp pháp giới, đều nói được lời nói của mỗi cõi nước. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh được lưỡi che trùm cả mặt; khi thè lưỡi ra thì có thể che trùm khắp cả khuôn mặt, lưỡi của Phật là như thế. Tại sao lưỡi của chúng ta ngắn và nhỏ ? Vì chúng ta ưa nói dối, lâu dần thì thụt vào ngắn và nhỏ như vậy; nếu như học theo Phật không nói dối, giữ giới thanh tịnh, thì mỗi người đều có thể được lưỡi che trùm cả mặt. Lời nói không hai, thảy đều chân thật, tức là không nói dối, thành thật không dối trá, lời nói có uy tín. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh được lưỡi che khắp tất cả cõi Phật, có tướng lưỡi rộng dài, che khắp ba ngàn đại thiên thế giới và tất cả cõi nước chư Phật. Lại có thể thị hiện sức thần thông nhậm vận tự tại của chư Phật.
Lại nguyện cho tất cả chúng sinh được lưỡi mềm mỏng, luôn luôn thọ được hương vị ăn uống thanh tịnh thơm ngon thượng hạng. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh được lưỡi biện tài vô ngại, dứt trừ được lưới nghi của người đời. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh được lưỡi quang minh, cái lưỡi có thể phóng ra vô số vạn ức quang minh. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh được lưỡi quyết định, tất cả sự lý, cái lưỡi đều đắc được sự quyết định chánh quyết, biện luận diễn nói thật tướng của các pháp, chẳng khi nào cùng tận. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh được lưỡi điều phục, đối với chúng sinh cang cường khó điều, khó phục, nghe được Ngài khai thị, thì lập tức hồi tâm thuần phục, nghe sự giáo hoá. Nếu giảng giải pháp môn bí yếu của chư Phật, thì một khi xiển minh, chúng đều liễu ngộ tin thọ phụng hành.
Ðại đệ tử của Phật, Ngài Phú Lâu Na thuyết pháp đệ nhất, Ngài đắc được lưỡi điều phục khắp nầy. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh được lưỡi thông đạt khắp cùng, đối với hết thảy ngôn ngữ, một khi lọt qua tai thì liền hiểu và nói được, có thiên tài ngôn ngữ, đắc được tam muội ngôn ngữ, cho nên nói khéo nhập vào biển ngôn ngữ. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh được lưỡi phương tiện khéo léo hay hoằng dương các thứ pháp môn. Lời nói trí huệ của Ngài đã đến được rốt ráo thành thục tột đỉnh-bờ bên kia. Ðó là hồi hướng căn lành tu tập của đại Bồ Tát khi Ngài bố thí lưỡi, vì khiến cho tất cả chúng sinh, đều đắc được trí huệ viên mãn chẳng có chướng ngại.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát dĩ đầu bố thí chư lai khất giả, như tối thắng trí Bồ Tát, cập đại trượng phu Ca thi quốc Vương đẳng chư đại Bồ-tát sở hạnh bố thí. Vi dục thành tựu nhập nhất thiết pháp tối thắng trí thủ, vi dục thành tựu chứng đại Bồ-đề cứu chúng sanh thủ, vi dục cụ túc kiến nhất thiết pháp tối đệ nhất thủ, vi đắc chánh kiến thanh tịnh trí thủ, vi dục thành tựu vô chướng ngại thủ, vi dục chứng đắc đệ nhất địa thủ, vi cầu thế gian tối thắng trí thủ, dục thành tam giới vô năng kiến đảnh tịnh trí tuệ thủ, vi đắc thị hiện phổ đáo thập phương trí tuệ Vương thủ, vi dục mãn túc nhất thiết chư pháp vô năng phá hoại tự tại chi thủ.
Phật tử ! Ðại Bồ Tát đem cái đầu bố thí cho người đến xin. Như Bồ Tát Tối Thắng Trí. Đại trượng phu quốc vương Ca Thi, và các đại Bồ Tát khác. Vì muốn thành tựu đầu trí huệ tối thắng, nhập vào tất cả các pháp. Vì muốn thành tựu chứng được đầu đại bồ đề cứu chúng sinh. Vì muốn đầy đủ đầu tối đệ nhất thấy tất cả các pháp. Vì được đầu trí huệ chánh kiến thanh tịnh. Vì muốn thành tựu đầu không chướng ngại. Vì muốn chứng được đầu bậc đệ nhất. Vì cầu đầu trí huệ tối thắng thế gian. Vì muốn thành tựu đầu trí huệ thanh tịnh ba cõi không thấy được đảnh. Vì được đầu trí huệ vương thị hiện đến khắp mười phương. Vì muốn được đầu tự tại đầy đủ tất cả các pháp không thể phá hoại được.
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát, Ngài lại đem cái đầu của mình bố thí cho người đến xin. Giống như thuở xưa Bồ Tát Tối Thắng Trí, đại trượng phu quốc vương Ca Thi, cùng với vô lượng vô số các đại Bồ Tát khác, đều đã từng thực hành qua tinh thần bố thí đại vô uý. Mục đích các Ngài thực hành bố thí nầy, là vì muốn thành tựu đầu trí huệ thù thắng có thể thâm nhập vào chân lý của các pháp. Lại vì hy vọng chứng được đầu đại bồ đề giác đạo, cứu hộ chúng sinh, cứu bạt chúng sinh thoát khỏi biển khổ sinh tử. Lại vì muốn đắc được đầu tối đệ nhất đầy đủ thắng trí, thấy rõ chân lý của sự lý ở trong tất cả các pháp. Lại vì muốn đắc được đầu có trí huệ thanh tịnh chánh tri chánh kiến. Chánh tri chánh kiến là trợ giúp người, cứu hộ người, dẫn dắt người đi trên con đường tin phụng Phật pháp, làm ảnh hưởng người phát tâm bồ đề. Nếu có người muốn xuất gia tu đạo, thì khiến cho họ được thành tựu, khen ngợi họ.
Tài bồi tưới nước khiến cho hạt giống bồ đề dần dần lớn lên, làm như thế tức là biểu hiện của sự chánh tri chánh kiến; bằng không thì tức là tà tri tà kiến của kẻ ác. Lại vì muốn thành tựu đầu không bị bất cứ gì chướng ngại, tất cả đều thuận tâm như ý, sự lý đều viên dung vô ngại. Lại vì muốn chứng được đầu của bậc đệ nhất thế gian, khiến cho chúng sinh đều có chỗ nương tựa. Lại vì muốn khiến cho tất cả chúng sinh đều đắc được đầu tối thù thắng trên thế gian, có trí huệ vô thượng vi diệu, vĩnh viễn chẳng sinh tà kiến, chẳng dính vào lưới ngu si. Lại vì muốn thành tựu đầu có trí huệ thanh tịnh, trong ba cõi không thể thấy được đảnh. Lại vì muốn đắc được đầu vua trí huệ, có thể thị hiện trong mười phương thế giới-cũng giống như đầu của Phật. Lại vì muốn được đầu đầy đủ chân lý của tất cả các pháp, thông đạt vô ngại, thiên ma ngoại đạo không thể phá hoại được, đầu tất cả tự tại.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát an trụ thị pháp, tinh cần tu tập, tức vi dĩ nhập chư Phật chủng tánh, học Phật hành thí. ư chư Phật sở, sanh thanh tịnh tín, tăng trưởng thiện căn. lệnh chư khất giả, giai đắc hỉ túc. kỳ tâm thanh tịnh, khánh duyệt vô lượng. Tâm tịnh tín giải, chiếu minh Phật Pháp. phát Bồ-đề ý, an trụ xả tâm. Chư căn duyệt dự, công đức tăng trưởng. Sanh thiện lạc dục, thường hảo tu hành quảng đại thí hạnh.
Phật tử ! Ðại Bồ Tát, an trụ pháp nầy, tinh cần tu tập, vì đã nhập vào giống tánh của chư Phật, học Phật tu hành bố thí. Ở chỗ chư Phật, sinh niềm tin thanh tịnh, tăng trưởng căn lành, khiến cho những người xin đều được thoả mãn, tâm được thanh tịnh, vui mừng vô lượng, tâm thanh tịnh tin hiểu, chiếu rõ Phật pháp, phát tâm bồ đề, an trụ tâm xả, các căn thơ thới, công đức tăng trưởng, sinh ưa muốn lành, thường thích tu hành hạnh bố thí rộng lớn.
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát, Ngài rất an nhiên tự tại, dũng mãnh tinh tấn chuyên tu hạnh khó làm mà làm được, bố thí đầu. Ðó là biểu thị Ngài đã thâm nhập vào giống tánh của chư Phật. Học hành vi của Phật và bố thí nội tài và ngoại tài, ở tại đạo tràng của Phật, lắng nghe pháp của chư Phật nói, sinh tâm tin thanh tịnh, tăng trưởng căn lành tối thắng. Khiến cho những người đến xin đầu, đều được mãn nguyện, tâm của họ thanh tịnh vô lượng, hoan hỉ vui mừng vô lượng. Vì tâm thanh tịnh tin hiểu của Bồ Tát đối với tất cả Phật pháp, đều thấu rõ liễu ngộ, phát tâm đại bồ đề, an trụ nơi tâm bố thí xả bỏ, vĩnh viễn chẳng thối chuyển. Ở trong cảnh giới thanh tịnh vô vi đó, các căn-sáu căn tự nhiên điều thuận thơ thới, căn lành công đức, ngày càng tăng trưởng, trong tâm sinh ra ý niệm ưa thích làm lành, thường hoan hỉ tu hành phạm hạnh, lập pháp hội bố thí rộng lớn.
Bồ Tát nhĩ thời, dĩ chư thiện căn như thị hồi hướng, sở vị: nguyện nhất thiết chúng sanh đắc Như Lai đầu, đắc vô kiến đảnh. ư nhất thiết xứ vô năng ánh tế, ư chư Phật sát tối vi thượng thủ. kỳ phát hữu toàn, Quang tịnh nhuận trạch, vạn tự nghiêm sức, thế sở hy hữu. Cụ túc Phật thủ, thành tựu trí thủ, nhất thiết thế gian tối đệ nhất thủ, vi cụ túc thủ, vi thanh tịnh thủ, vi tọa đạo tràng viên mãn trí thủ. thị vi Bồ-Tát Ma-ha-tát bố thí đầu thời thiện căn hồi hướng. Vi lệnh chúng sanh đắc tối thắng Pháp, thành ư vô thượng đại trí tuệ cố.
Bấy giờ, Bồ Tát đem các căn lành hồi hướng như vầy: Nguyện cho tất cả chúng sinh được đầu Như Lai, được đảnh đầu không ai thấy. Tất cả mọi nơi không bị che khuất. Là thượng thủ nhất ở trong cõi nước của chư Phật. Tóc xoắn về bên phải. Quang minh thanh tịnh nhuần bóng. Có chữ vạn nghiêm sức, ít có trong đời. Ðầy đủ đầu Phật. Thành tựu đầu trí huệ. Đầu tối đệ nhất ở trong tất cả thế gian. Là đầu đầy đủ, là đầu thanh tịnh, là đầu ngồi đạo tràng viên mãn trí huệ. Ðó là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát khi Ngài bố thí đầu, vì khiến cho chúng sinh được pháp tối thắng, thành tựu đại trí huệ vô thượng.
Giảng: Khi đại Bồ Tát bố thí đầu, thì đem đủ thứ căn lành công đức tu tập bố thí, đối với chúng sinh hồi hướng như vầy: Nguyện cho tất cả chúng sinh đều được đầu giống như Phật, tức là tướng đảnh Phật không ai thấy được, ở bất cứ chỗ nào, cũng không thể nào che khuất quang minh đầu của Ngài. Ở trong cõi nước của chư Phật, là tối thượng thủ bậc nhất. Ðầu tóc của Ngài đều tự nhiên xoắn về bên phải, màu tóc thuần tịnh, quang minh sáng bóng, tóc xoắn về bên phải hiển hiện ra giống hình chữ vạn, chẳng phải do sự nghiêm sức làm nên, mà tự nhiên thành tựu sự trang nghiêm ít có trong đời. Ðầy đủ hết thảy tướng tốt đầu của Phật, hiếm có trong đời, thành tựu đầu có trí huệ. Cũng là đầu đệ nhất ở trong hết thảy chúng sinh thế gian, là đầu viên mãn đầy đủ tất cả ưu điểm, thanh tịnh nhất, ngồi đạo tràng thuyết pháp lợi sinh, viên mãn nhất thiết chủng trí. Ðó là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát, khi Ngài bố thí đầu, vì khiến cho tất cả chúng sinh, đều đắc được quang minh pháp tạng thù thắng nhất, thành tựu đại trí huệ vô thượng.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát dĩ kỳ thủ, túc thí chư chúng sanh, như Thường-tinh-tấn Bồ Tát, Vô ưu Vương Bồ Tát, cập dư vô lượng chư Bồ-tát đẳng. Ư chư thú trung chủng chủng sanh xứ bố thí thủ, túc, dĩ tín vi thủ, khởi nhiêu ích hạnh. Vãng phản chu toàn, cần tu chánh pháp, nguyện đắc bảo thủ dĩ thủ vi thí. Sở hạnh bất không, cụ Bồ Tát đạo, thường thư kỳ thủ nghĩ tướng quảng huệ. An bộ du hành, dũng mãnh vô khiếp, dĩ tịnh tín lực cụ tinh tấn hạnh, trừ diệt ác đạo, thành tựu Bồ-đề.
Phật tử ! Ðại Bồ Tát dùng tay chân của mình bố thí cho chúng sinh. Như Bồ Tát Thường Tinh Tấn, Bồ Tát Vô Ưu Vương, và vô lượng các Bồ Tát khác. Ở trong các cõi, đủ thứ nơi sinh, bố thí tay chân. Dùng niềm tin làm tay, sinh khởi hạnh nhiêu ích. Qua lại xoay vòng, siêng tu chánh pháp. Nguyện được tay báu, dùng tay làm vật bố thí. Chỗ thực hành chẳng không, đầy đủ đạo Bồ Tát. Thường dang rộng hai tay sẵn sàng bố thí, bước đi dũng mãnh không khiếp sợ. Dùng sức tin thanh tịnh, đầy đủ hạnh tinh tấn, trừ diệt đường ác, thành tựu bồ đề.
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát, lại dùng tay và chân của Ngài bố thí cho những chúng sinh chẳng có tay chân. Giống như thuở xưa Bồ Tát Thường Tinh Tấn, Bồ Tát Vô Ưu Vương, và rất nhiều các vị đại Bồ Tát khác, khi các Ngài tại nhân địa hành Bồ Tát đạo, thì thương xót những chúng sinh cụt tay, cụt chân, liền đem tay chân của mình bố thí cho họ, thà mình thọ khổ. Bồ Tát đại từ đại bi, đối với chúng sinh, khó xả mà xả bỏ được, khó nhẫn mà nhẫn được, khó nhường mà nhường được. Chúng ta người tu đạo, nên thời khắc phản tỉnh, nhìn lỗi lầm của chính mình, đừng cứ đi giặt đồ dơ thay thế cho người khác, nói người ta dài ngắn.
Người khác là một mặt gương sáng của mình, người ta có hạnh lành thì mình khen ngợi học tập; người ta có ác hạnh thì mình thương xót họ mà tự biết cảnh tỉnh, đừng tuỳ tiện phỉ bán họ, sân hận với họ, chán ghét họ. Nếu có thể khuyên họ được, thì giúp họ sửa lỗi hướng thiện, tức là lợi ích người, là công đức lành. Người tu đạo quan trọng nhất là giữ giới, đối cảnh giới không động vọng niệm, không sinh tâm tham dục, ngày ngày sám hối, phát nguyện phát tâm bồ đề. Như thế mới có thể tăng tấn định lực, mới gọi là công phu nên làm. Hy vọng mọi người cố gắng, học hạnh Bồ Tát, trừ khử sạch tập khí mao bệnh của mình.
Ðại Bồ Tát tu hạnh bố thí, chẳng phải chỉ hành bố thí trong loài người, mà Ngài vào trong khắp chín pháp giới, sáu loài tứ sinh để thọ sinh. Ngài chẳng tiếc mạng sống, chẳng sợ gian nan khốn khổ, vào sâu trong đủ loại chúng sinh, giáo hoá, điều phục, tế độ, lợi ích họ, khiến cho họ đều biết bỏ tà theo chánh, cải ác hướng thiện, và còn bố thí nội tài tay chân của Ngài .v.v…Tại sao dùng niềm tin làm tay ? Vì tin mới có thể đi thực hành. Tin là nhân bố thí tay, có tài báu vật chất từ trong tay bố thí ra, đó là quả của niềm tin nhờ tay. Cho nên Bồ Tát dùng niềm tin làm tay, thì sinh khởi tất cả hạnh lành lợi ích chúng sinh. Bồ Tát chẳng tính thời gian kiếp số, như vậy đi đi lại lại trong chín pháp giới và ban đủ thứ cho chúng sinh-đời đời kiếp kiếp sinh sống với họ, một mặt tự lợi, siêng tu tất cả chánh pháp cầu đạo vô thượng, một mặt lợi tha, giáo hoá vô lượng chúng sinh, tiếp dẫn họ vào Phật đạo.
Lại nguyện cho đắc được tay báu, vô lượng các châu báu đều từ trong tay chảy ra, dùng tay báu đó bố thí khắp cho tất cả chúng sinh. Chỗ thực hành chẳng không: Ðến bất cứ nơi nào, Ngài đều thực hành bố thí khắp, tuyệt đối chẳng khiến cho người có tâm luống qua mà thất vọng. Việc làm đều đầy đủ đạo Bồ Tát, bình đẳng bố thí khắp. Ngài thường dũi tay báu của Ngài ra, tuỳ thời muốn đem tài phước của mình, rộng bố thí cho người, Ngài đến khắp nơi quán sát bệnh khổ của chúng sinh, mãn nguyện tâm đại từ bi, nương theo đại nguyện lực cứu khắp chúng sinh, qua lại ở trong sáu loài bốn sinh, dũng mãnh không khiếp sợ. Dùng tâm tin nguyện lực thanh tịnh, đầy đủ tinh thần tinh tấn hành đạo, một lòng diệt trừ đường ác, dẫn dắt chúng sinh tiến đến thành tựu bồ đề giác đạo.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát như thị thí thời, dĩ vô lượng vô biên quảng đại chi tâm, khai tịnh Pháp môn, nhập chư Phật hải. Thành tựu thí thủ, châu cấp thập phương. Nguyện lực nhậm trì nhất thiết trí đạo, trụ ư cứu cánh ly cấu chi tâm. Pháp thân, trí thân vô đoạn vô hoại, nhất thiết ma nghiệp bất năng khuynh động. y thiện tri thức kiên cố kỳ tâm, đồng chư Bồ-tát tu hành thí độ.
Phật tử ! Khi đại Bồ Tát bố thí như vậy, dùng vô lượng vô biên tâm rộng lớn, khai mở pháp môn thanh tịnh, nhập vào biển chư Phật, thành tựu bố thí tay, chu cấp khắp mười phương. Nguyện lực nhậm trì đạo nhất thiết trí. Trụ nơi tâm rốc ráo lìa cấu. Pháp thân trí thân, không dứt không hoại. Tất cả ma nghiệp không thể khuynh động được. Nương thiện tri thức, tâm ý bền vững, đồng với các Bồ Tát, tu hành bố thí.
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát, khi Ngài bố thí tay chân, Ngài dùng tâm từ bi rộng lớn vô lượng vô biên, đối với chúng sinh khai thị diễn nói pháp môn thanh tịnh của chư Phật nói. Do đó, Ngài có thể vào sâu biển pháp của chư Phật. Cũng nhờ công đức đó mà thành tựu tay báu bố thí, chu cấp khắp cho mười phương chúng sinh thọ khổ. Bồ Tát phát nguyện lực lớn, dùng sự hoằng dương Phật pháp làm trách nhiệm của mình, khiến cho Phật pháp trụ trì lâu dài tại thế gian, dùng nguyện lực vô thượng, trụ nơi trí đạo: An trụ nơi tâm chân chánh chẳng có trần cấu, thanh tịnh không nhiễm. Vì lìa khỏi tâm cấu bẩn, cho nên pháp thân thậm nhiên. Vì trụ trí địa, liền thành tựu trí thân. Pháp thân thậm nhiên, không thể bị huỷ hoại. Ngọn đèn trí vĩnh viễn liên tục, chẳng có đoạn diệt. Lúc đó, tất cả vọng niệm ác hạnh không thanh tịnh, đều chẳng có biện pháp nào để giao động chí nguyện kiên cố của Ngài được. Y chỉ thiện tri thức, nghe sự giáo hoá của Ngài, tài bồi tâm tin kiên cố. Ðồng như các vị đại Bồ Tát tu hành bố thí Ba La Mật.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát vi chư chúng sanh cầu nhất thiết trí, thí thủ, túc thời, dĩ chư thiện căn như thị hồi hướng, sở vị: nguyện nhất thiết chúng sanh cụ thần thông lực, giai đắc bảo thủ. đắc bảo thủ dĩ, các tướng tôn kính, sanh phước điền tưởng, dĩ chủng chủng bảo cánh tướng cúng dường. hựu dĩ chúng bảo cúng dường chư Phật, hưng diệu Bảo Vân biến chư Phật thổ, lệnh chư chúng sanh hỗ khởi từ tâm, bất tướng não hại. Du chư Phật sát, an trụ vô úy, tự nhiên cụ túc cứu cánh thần thông.
Phật tử ! Khi đại Bồ Tát, vì các chúng sinh mà cầu nhất thiết trí bố thí tay chân. Ngài đem các căn lành hồi hướng như vầy: Nguyện cho tất cả chúng sinh, đầy đủ sức thần thông, đều đắc được tay báu. Ðược tay báu rồi, đều tôn kính nhau, sinh nghĩ tưởng làm ruộng phước. Dùng đủ thứ báu, càng phải cúng dường lẫn nhau. Lại dùng các thứ báu cúng dường chư Phật. Nổi mây báu đẹp khắp cõi nước của chư Phật. Khiến cho các chúng sinh cùng khởi tâm từ bi, không não hại lẫn nhau. Du hành đến các cõi nước chư Phật. An trụ nơi không sợ hãi, tự nhiên đầy đủ, rốt ráo thần thông.
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát vì cứu tất cả chúng sinh, nên phải có đại trí huệ, cho nên Ngài bố thí tay chân. Khi Ngài bố thí tay chân, lại đem đủ thứ căn lành của Ngài tu tập, đối với chúng sinh hồi hướng như vầy: Ngài nói tôi nguyện cho tất cả chúng sinh, đều đầy đủ sức thần thông, đắc được tay báu tự nhiên hiện ra bảy báu. Khi họ đắc được bảy báu rồi, đừng sinh tâm tham, phải có tâm tôn kính lẫn nhau, phải sinh ra tư tưởng tôi có thể làm ruộng phước cho những chúng sinh khác. Càng phải đem châu báu đẹp sinh ra từ tay báu, cúng dường cho mọi người. Lại biết đem những châu báu đó, cúng dường mười phương chư Phật, và nổi mây báu đẹp khắp cõi nước của chư Phật. Khiến cho hết thảy chúng sinh đều sinh tâm từ bi, trợ giúp lẫn nhau, không sinh ác tâm phiền não và xâm hại kẻ khác. Thường đến cõi nước của chư Phật, chiêm ngưỡng gần gũi lễ lạy chư Phật, an trụ trong tâm bình tĩnh không sợ hãi, tự nhiên đầy đủ sức thần thông chân thật.
Hựu lệnh giai đắc bảo thủ, hoa thủ, hương thủ, y thủ, cái thủ, hoa man thủ, mạt hương thủ, trang nghiêm cụ thủ, vô biên thủ, vô lượng thủ, phổ thủ. đắc thị thủ dĩ, dĩ thần thông lực thường cần vãng nghệ nhất thiết Phật thổ, năng dĩ nhất thủ biến ma nhất thiết chư Phật thế giới, dĩ tự tại thủ trì chư chúng sanh, đắc diệu tướng thủ phóng Vô Lượng Quang, năng dĩ nhất thủ phổ phước chúng sanh, thành ư Như Lai thủ chỉ võng man xích đồng trảo tướng.
Lại khiến cho chúng sinh đều đắc được tay báu: Tay hoa, tay hương, tay y phục, tay lọng, tay tràng hoa, tay hương bột, tay đồ trang nghiêm, tay vô biên, tay vô lượng, tay khắp cùng. Ðắc được những tay đó rồi, dùng sức thần thông thường siêng đi đến tất cả cõi Phật, có thể dùng một tay rờ khắp tất cả thế giới của chư Phật. Dùng tay tự tại giữ gìn các chúng sinh. Ðược tướng tay tốt, phóng ra vô lượng quang minh. Có thể dùng một tay che khắp chúng sinh. Thành tựu tay Như Lai ngón tay có màn lưới, móng như đồng đỏ.
Giảng: Bồ Tát vì tất cả chúng sinh, bố thí tay chân để cầu nhất thiết trí. Lại đem công đức tu tập hồi hướng cho chúng sinh, hy vọng chúng sinh đắc được đủ thứ tay hiếm có trên đời, khiến cho mỗi chúng sinh đều được tay báu, hay sinh ra tất cả báu đẹp. Tay hoa: Hay sinh ra đủ thứ hoa quý. Tay hương: Hay sinh ra các thứ hương báu. Tay y phục: Hay hiện ra y trời. Tay lọng: Hay sinh ra lọng hoa có các châu báu. Tay tràng hoa: Hay sinh ra tất cả tràng hoa. Tay hương bột: Hay sinh ra hương bột tốt nhất. Tay đồ trang nghiêm: Có thể sinh ra các thứ đồ trang nghiêm hiếm có trên đời. Tay vô biên: Thứ tay nầy diệu dụng vô biên. Tay vô lượng: Thứ tay nầy có thể sinh ra vô lượng bảy báu. Tay khắp cùng: Hay bình đẳng hộ khắp tất cả chúng sinh.
Bồ Tát hy vọng chúng sinh đều có thể sinh ra đủ thứ tay báu hiếm có trên đời, dụng tâm của Ngài là thương sót chúng sinh, có tay báu như vậy rồi, thì tất cả đều sẽ toại tâm mãn nguyện, không khởi tâm tham sân si, chẳng tạo nghiệp ác. Ðắc được tay báu đó rồi, thì phải biết cảm ân báo đức, dùng sức thần thông luôn luôn đi đến cõi nước của chư Phật, lễ lạy chư Phật, cúng dường chư Phật, lắng nghe lời dạy của chư Phật, siêng tu Phật đạo. Ðắc được tay báu đó rồi, lại có thể dùng một tay, có thể rờ khắp đảnh chúng sinh trong thế giới của chư Phật. Lại có thể dùng tay báu tự tại hộ trì tất cả chúng sinh. Ðắc được tay báu tướng tốt, có thể phóng ra vô lượng vô biên quang minh. Lại có thể dùng tay báu đó che mát khắp tất cả chúng sinh. Thành tựu tay giống như đức Như Lai, ngón tay có màn lưới, móng như đồng đỏ tốt đẹp giống như Phật.
Bồ Tát nhĩ thời, dĩ đại nguyện thủ phổ phước chúng sanh: nguyện nhất thiết chúng sanh chí thường lạc cầu vô thượng bồ Đề, xuất sanh nhất thiết công đức đại hải, kiến lai khất giả hoan hỉ vô yếm, nhập Phật Pháp hải đồng Phật thiện căn. thị vi Bồ-Tát Ma-ha-tát thí thủ, túc thời thiện căn hồi hướng.
Bấy giờ, Bồ Tát dùng tay đại nguyện, che khắp chúng sinh. Nguyện cho tất cả chúng sinh chí thường ưa cầu vô thượng bồ đề. Sinh ra biển tất cả công đức. Thấy người đến xin, hoan hỉ không nhàm chán, nhập vào biển Phật pháp, đồng căn lành với Phật. Ðó là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát khi Ngài bố thí tay chân.
Giảng: Khi Bồ Tát nói lời nguyện, đồng thời Ngài dũi ra tay phát đại nguyện, che mát khắp tất cả chúng sinh, từ từ Ngài nói ra lời nguyện trong tâm của Ngài: Nguyện cho tất cả chúng sinh đều đắc được lợi ích sự hồi hướng của tôi, phải lập chí thường ưa cầu vô thượng bồ đề giác đạo, luôn luôn trụ chánh niệm, tập thực hành các điều lành, tích tụ đủ thứ công đức, vô lượng vô biên như biển cả. Thấy người đến xin tay chân của bạn, thì sinh tâm đại hoan hỉ, chẳng có biểu hiện không vui. Nhập vào trong biển trí huệ của Phật, có căn lành công đức giống như đức Phật. Ðó là đại Bồ Tát hồi hướng đủ thứ căn lành của Ngài tu tập cho chúng sinh, khi Ngài bố thí tay chân.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hoại thân xuất huyết bố thí chúng sanh, như pháp nghiệp Bồ Tát, thiện ý Vương Bồ Tát, cập dư vô lượng chư Bồ-tát đẳng. ư chư thú trung thí thân huyết thời, khởi thành tựu nhất thiết trí tâm, khởi hân ngưỡng đại Bồ-đề tâm, khởi lạc tu Bồ Tát hạnh tâm, khởi bất thủ khổ thọ tâm, khởi lạc kiến khất giả tâm, khởi bất hiềm lai khất tâm, khởi thú hướng nhất thiết Bồ Tát đạo tâm, khởi thủ hộ nhất thiết Bồ Tát xả tâm, khởi tăng quảng Bồ Tát thiện thí tâm, khởi Bất-thoái-chuyển tâm, bất hưu tức tâm, vô luyến kỷ tâm.
Phật tử ! Ðại Bồ Tát huỷ hoại thân mình chảy máu, để bố thí cho chúng sinh. Như Bồ Tát Pháp Nghiệp. Bồ Tát Thiện Ý Vương, và vô lượng các Bồ Tát khác. Ở trong các cõi, khi bố thí thân thể máu huyết, thì khởi tâm thành tựu nhất thiết trí. Khởi tâm hoan hỉ ngưỡng mộ đại bồ đề. Khởi tâm ưa thích tu hạnh Bồ Tát. Khởi tâm chẳng lấy khổ thọ. Khởi tâm ưa thấy người xin. Khởi tâm chẳng hiềm người đến xin. Khởi tâm hướng về tất cả Bồ Tát đạo. Khởi tâm thủ hộ hạnh xả của tất cả Bồ Tát. Khởi tâm tăng thêm rộng lớn hạnh bố thí lành của Bồ Tát. Khởi tâm chẳng thối chuyển, tâm chẳng nghỉ ngơi, tâm chẳng luyến tiếc nơi chính mình.
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát Ngài huỷ hoại thân thể của mình, lấy máu bố thí cho chúng sinh cần máu. Hiện nay các nơi đều có những chỗ cho máu, để cung cấp máu cho những người thiếu máu, giống như hoại thân lấy máu bố thí cho chúng sinh. Bất quá thuở xưa công cụ y liệu không tiến bộ, hoại thân lấy máu là người phải có tinh thần hy sinh không sợ hãi-Bồ Tát mới làm được. Như Bồ Tát Pháp Nghiệp, Bồ Tát Thiện Ý Vương, còn có nhiều Bồ Tát khác đều đã thực hành qua sự bố thí nầy. Vị Bồ Tát nầy khi Ngài ở trong sáu nẻo hoại thân bố thí máu, thì Ngài phát khởi thắng tâm vô lượng, làm công đức bố thí nầy, hy vọng thành tựu nhất thiết trí huệ. Dùng tâm hoan hỉ, ngưỡng mộ bồ đề giác đạo, chân thành ưa thích tu học hạnh Bồ Tát.
Ngài tự nguyện thực hành sự bố thí nầy, tuyệt đối không cho rằng là thọ khổ. Sinh khởi tâm hoan hỉ thấy có người đến xin máu của Ngài, tuyệt đối chẳng sinh tâm hiềm chán đối với người xin. Sinh khởi tâm hướng về cầu Bồ Tát đạo. Lại sinh khởi tâm thủ hộ hạnh bố thí đại hỉ đại xả của các vị Bồ Tát. Lại sinh khởi tăng thêm rộng lớn tâm bố thí của Bồ Tát, khiến cho càng ngày càng tăng trưởng, rộng lớn đến tận cùng hư không khắp pháp giới. Ðủ thứ tâm thù thắng như vậy, tuyệt đối chẳng thối chuyển, tuyệt đối chẳng nghỉ ngơi, tuyệt đối cũng chẳng luyến tiếc lợi ích của chính mình, mà sinh tâm ích kỷ.
Dĩ chư thiện căn như thị hồi hướng, sở vị: nguyện nhất thiết chúng sanh giai đắc thành tựu pháp thân, trí thân. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc vô lao quyện thân, do như Kim cương. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc bất khả hoại thân, vô năng thương hại. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc như biến hóa thân, phổ hiện thế gian vô hữu tận cực. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc khả ái lạc thân, tịnh diệu kiên cố. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc Pháp giới sanh thân, đồng ư Như Lai vô sở y chỉ.
Ðem các căn lành hồi hướng như vầy: Nguyện cho tất cả chúng sinh đều được thành tựu pháp thân trí thân. Nguyện cho tất cả chúng sinh được thân không mệt mỏi, giống như kim cang. Nguyện cho tất cả chúng sinh được thân không thể hoại, không thể làm thương hại được. Nguyện cho tất cả chúng sinh được thân như biến hoá, hiện khắp thế gian, chẳng cùng tận. Nguyện cho tất cả chúng sinh được thân đáng ưa thích, thanh tịnh kiên cố vi diệu. Nguyện cho tất cả chúng sinh được sinh thân pháp giới, đồng với Như Lai, không chỗ nương tựa.
Giảng: Bồ Tát đem đủ thứ căn lành, hồi hướng cho chúng sinh như vầy: Nguyện cho tất cả chúng sinh đều được viên mãn bồ đề, chu khắp pháp giới, thành tựu thanh tịnh pháp thân. Trí chứng các pháp thật tướng, thông đạt vô ngại, thành tựu thân trí huệ vô thượng. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh được thân thể vĩnh viễn không mỏi mệt, kiên cố giống như Na la diên. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh đắc được thân kim cang bất hoại, đao thương kiếm mác đều không thể làm thương hại đến nhục thân của họ được. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh đắc được thân thể trăm ngàn ức biến hoá, thị hiện khắp thế gian, chẳng cùng tận. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh đắc được thân thể thanh tịnh tốt đẹp, viên mãn kiên cường, khiến cho chúng sinh gần gũi, khiến cho chúng sinh sinh tâm hoan hỉ. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh được sinh thân tận hư không biến pháp giới, đồng như pháp thân của Phật, không cần nương tựa bất cứ chỗ nào.
Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc như diệu bảo quang minh chi thân, nhất thiết thế nhân vô năng ánh tế. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc Trí Tạng thân, ư bất tử giới nhi đắc tự tại. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc bảo hải thân, kiến giai hoạch ích, vô không quá giả. Nguyện nhất thiết chúng sanh đắc hư không thân, thế gian não hoạn vô năng nhiễm trước.
Thị vi Bồ-Tát Ma-ha-tát thí thân huyết thời, dĩ Đại-Thừa tâm, thanh tịnh tâm, quảng đại tâm, hân duyệt tâm, khánh hạnh tâm, hoan hỉ tâm, tăng thượng tâm, an lạc tâm, vô trược tâm thiện căn hồi hướng.
Nguyện cho tất cả chúng sinh, được thân quang minh như báu đẹp, tất cả người đời không thể chói sáng hơn được. Nguyện cho tất cả chúng sinh được thân trí tạng hải, nơi cõi bất tử mà được tự tại. Nguyện cho tất cả chúng sinh được thân bảo hải, ai thấy cũng đều được lợi ích, không luống qua. Nguyện cho tất cả chúng sinh đắc được thân hư không, thế gian não hoạn, không thể nhiễm trước.
Giảng: Ðó là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát, Ngài dùng tâm đại thừa, tâm rộng lớn, tâm vui mừng, tâm hân hạnh, tâm hoan hỉ, tâm tăng thượng, tâm an lạc, tâm không ô trược, để hoại thân lấy máu bố thí.
Lại nguyện cho tất cả chúng sinh đắc được thân thể như dạ minh châu, quang minh chiếu sáng mười phương, trên thế gian chẳng có ai sáng hơn quang minh đó được. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh đắc được thân trí huệ bảo tạng, thâm sâu như biển cả, nơi cõi bất tử-Bồ Tát ngộ nhập vào các pháp thật tướng, chứng được cảnh giới Niết Bàn, tất cả giải thoát được tự tại, cho nên Ngài cũng nguyện cho tất cả chúng sinh đắc được thân tự tại như vậy. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh đắc được thân như bảo hải, tuỳ tâm sở dục có thể ở trong thân của Ngài xuất hiện nhiều thứ báu, khiến cho người thấy được Ngài, đều đắc được lợi ích, không luống qua. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh đắc được thân như hư không, hết thảy phiền não và hoạn nạn trên thế gian tuyệt đối không nhiễm trên thân của Ngài. Ðó là hồi hướng căn lành của đại Bồ Tát, khi Ngài hoại thân lấy máu bố thí cho chúng sinh, Ngài dùng tâm đại thừa Bồ Tát, tâm thanh tịnh không nhiễm, tâm rộng lớn vô biên, tâm hân hoan khoái lạc, tâm hân hạnh minh bạch pháp môn bố thí, tâm hoan hỉ, tâm tăng trưởng trí huệ hướng thượng, tâm an ổn khoái lạc, tâm không ô trược. Dùng đủ thứ tâm thắng diệu như vậy để bố thí.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát kiến hữu khất cầu kỳ thân tủy nhục, hoan hỉ nhuyễn ngữ, vị khất giả ngôn: ngã thân tủy nhục, tùy ý thủ dụng. Như nhiêu ích Bồ Tát, nhất thiết thí Vương Bồ Tát, cập dư vô lượng chư Bồ-tát đẳng.
Phật tử ! Ðại Bồ Tát thấy có người đến cầu xin thân tuỷ thịt của mình, liền hoan hỉ nói lời dịu dàng với người xin rằng: Thân tuỷ thịt của tôi, tuỳ ý lấy dùng. Như Bồ Tát Nhiêu Ích. Bồ Tát Nhất Thiết Thí Vương, và vô lượng các Bồ Tát khác.
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát nếu thấy có người đến cầu xin Ngài tuỷ và thân thịt thì, Ngài rất hoan hỉ, lập tức hoà nhan duyệt sắc với người đến cầu xin, hiện ra dáng vẻ rất vui mừng, dùng lời nói dịu dàng nói với họ rằng: “Thịt và tuỷ trên thân của tôi đây, tuỳ ý ông, hoan hỉ dùng bao nhiêu thì lấy bấy nhiêu”. Giống như thuở xưa Bồ Tát Nhiêu Ích, Bồ Tát Nhất Thiết Thí Vương, và còn có vô lượng các đại Bồ Tát khác, các Ngài đều đã từng thực hành đại bố thí thân thịt cốt tuỷ nầy để cứu chúng sinh. Trước kia có vị thái tử Nguyệt Quang, có xe một mình tự đi du hành, ở giữa đường gặp một người nghèo khổ mình đầy ghẻ lở, ông ta ngăn cản xe của thái tử, và nói với thái tử rằng:
– “Mình tôi sinh ra chứng bệnh nầy, rất là đau khổ và phiền não. Thái tử ! Ngài thật là hạnh phúc, một mình tự cỡi xe đi du hành. Ngài có thể phát tâm đại từ, thương xót tôi, trị cho bệnh của tôi được lành chăng ?”
Thái tử nghe rồi, bèn đi hỏi rất nhiều danh y.
– Bác sĩ nói: “Chứng bệnh đó là do tâm sân hận nặng mà sinh ra, phải lấy cốt tuỷ của người nào mà từ nhỏ đến lớn chưa từng sinh ra một chút tâm sân hận, thoa lên thân bệnh ghẻ của người đó, và còn uống máu và tuỷ của người đó thì mới khỏi được”.
Thái tử nghe xong trong tâm suy nghĩ, đến đâu để tìm người như thế đây, ai có thể không tiếc thân thể của mình ! Ngoại trừ chính ta đây, do đó lập tức sai chiên đà la lóc thịt đập xương, lấy tuỷ thoa lên cho bệnh nhân, và lấy máu cho uống.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét