Kinh Hoa Nghiêm
Đại Phương Quảng Phật
giảng giải
Phẩm Thứ 39
Hòa Thượng TUYÊN HÓA
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Minh Ðịnh
— o0o —
Phẩm Vào Pháp Giới
Phần 15
— o0o —
51. BỒ TÁT TỪ THỊ
1. NHIẾP ĐỨC THÀNH NHÂN TƯỚNG
Ở trước, Ma Gia phu nhân cả thảy mười một vị, hội duyên vào cảnh thật tướng. Hiện tại Bồ Tát Di Lặc một vị, nhiếp đức thành nhân tướng. Do đó hội duyên vào thật tướng, nhiếp chúng đức ở trước làm nhân thành Phật, chắc chắn sẽ thành Phật, nên còn một đời nữa hậu bổ Phật vị. Cho nên Bồ Tát Di Lặc ở chỗ lầu các lớn, tên là Tỳ Lô Trang Nghiêm. Do bậc nầy khó vào, nên ở trước giả nhiều giới công. Ở đây sẽ tham thỉnh trước phát nhiều thứ tâm thù thắng vậy.
Di Lặc dịch là Từ Thị, là họ của Ngài. A Dật Đa dịch là Vô Năng Thắng, là tên của Ngài. Ngài sinh ra đầy đủ tướng tốt, thắng đức chẳng ai bằng. Vì tôn trọng khởi kiến, chỉ xưng họ của Ngài, mà chẳng gọi tên của Ngài, cho nên gọi là Từ Thị. Tức là Đương Lai Hạ Sinh Di Lặc Tôn Phật. Hiện tại Ngài đang ở nội viện cung trời Đâu Suất, đợi đến tám trăm tám mươi vạn năm ngàn năm sau, Bồ Tát Di Lặc từ nội viện hạ sinh xuống nhân gian, sẽ thành vị Phật thứ năm trong kiếp Hiền nầy.
Đức tướng của Bồ Tát Di Lặc vẫn là bụng mập mạp tai to, miệng lúc nào cũng cười, hoan hỉ vui vẻ, khiến cho mọi người khởi kính dễ gần gũi. Làm thế nào biết Ngài dung nhan như vậy ? Vào thời Ngũ Đại hậu Lương, tại Phụng Hoá tỉnh Triết Giang, có vị Bố Đại Hoà Thượng. Ngài dùng một cây gậy quảy túi vải, đi vào nhân gian hoá duyên phiền não. Mọi người ai ai cũng không phiền não, tự nhiên tâm rộng thể mập. Do đó có câu :
« Tự cổ thần tiên vô biệt pháp,
Quảng sinh hoan hỉ bất sinh sầu ».
Hậu Lương Trinh Minh năm thứ ba (tây lịch năm 918), Ngài ngồi ngay thẳng trên toà đá Chùa Nhạc Lâm, nói một bài kệ rằng :
« Di Lặc chân Di Lặc
Phân thân trăm ngàn ức
Thời thời thị thế nhân
Thế nhân tự bất thức ».
Nghĩa là :
Di Lặc thật Di Lặc
Hoá thân trăm ngàn ức
Thời thời dạy người đời
Người đời chẳng biết thôi ».
Nói xong, Ngài an tường mà viên tịch, bây giờ đúc hình tượng Bồ Tát Di Lặc là lấy mẫu Bố Đại Hoà Thượng đó mà đúc hình tượng của Ngài. Một số chùa chiền, ở trong sơn môn có thờ cúng hình tượng của Ngài, khiến cho Phật tử mới bước vào cửa chùa, trước hết sinh tâm hoan hỉ, quên đi phiền não. Có một câu đối liễn rằng :
« Mở miệng liền cười
Cười người thiên hạ đáng cười
Bụng bự bao dung
Dung việc thiên hạ khó dung”.
Đây là miêu tả về Bồ Tát Di Lặc.
Ngài có một bài kệ lưu truyền ở thế gian rằng:
Lão khờ mặc áo vá
Cơm lạc no đầy bụng
Áo vá che rét lạnh
Vạn sự hãy tuỳ duyên.
Có người mắng lão quê
Lão quê chỉ nói tốt
Có người đánh lão quê
Lão quê nằm lăn ra.
Khạt nhổ vào mặt lão
Để nó tự nhiên khô
Ta cũng không nhọc sức
Họ cũng không phiền não.
Đó là Ba La Mật
Là báu ở trong diệu
Nếu làm được như vậy
Lo gì đạo chẳng thành.
Người yếu tâm chẳng yếu
Người nghèo đạo chẳng nghèo
Một lòng muốn tu hành
Thường tu ở trong đạo.
Người đời ham vinh hoa
Còn ta không nhìn tới
Danh lợi đều là không
Tâm tham không nhàm đủ.
Vàng bạc chất thành núi
Khó mua được vô thường
Tử Cống Y nói được
Chu Công tính như thần.
Khổng Minh đại mưu lược
Phiền Dụ cứu chủ nạn
Hàn Tín công lao lớn
Lúc chết chỉ một kiếm.
Xưa nay bao nhiêu ngườI
Có ai sống ngàn năm
Đây là sính anh hùng
Kia là làm hảo hán.
Nhìn xem tóc đều bạc
Mỗi năm dung nhan đổi
Ngày tháng mặc tơ lụa
Thời gian như tên bắn.
Chẳng lâu bệnh sẽ đến
Cúi đầu tối than thở
Tự nghĩ bao năm thời
Chẳng chịu gắng tu hành.
Khi bệnh muốn hồi đầu
Diêm Vương không triển hạn
Ba khắc dừng hơi thở
Quỷ vô thường bắt đi.
Cũng chẳng luận phải trái
Chẳng nói đến nhà cửa
Cũng chẳng tranh ta người
Cũng chẳng làm hảo hán.
Có chưởi cũng chẳng nói
Có hỏi như người câm
Có đánh cũng chẳng màng
Dời đi cùng thân chuyển.
Cũng chẳng sợ người cười
Cũng chẳng làm má mặt
Con cái khóc hu hu
Lại cũng chẳng thấy được.
Ham thích tranh danh lợi
Đợi bỏ dở giữa chừng
Ta thấy người thế gian
Đều là tinh xả đạm.
Khuyên bạn hãy hồi đầu
Chỉ cần chuyên tu hành
Làm bậc đại trượng phu
Một đao cắt làm hai.
Thoát khỏi hầm lửa dữ
Làm người tu thanh tịnh
Ngộ được lý chân thường
Làm bạn với tháng ngày.
Sáu đại tông chỉ của Vạn Phật Thánh Thành, cũng hợp với tư tưởng của Bồ Tát Di Lặc. Hay nhẫn nhục thì không tranh, biết tri túc thì không tham, hay từ bi thì không tranh, hay đại công vô tư thì không nghĩ lợi mình, hay bố thí thì không ích kỷ. Ai ai cũng như thế thì thiên hạ hoà bình, trở thành thế giới đại đồng.
Nhĩ thời, Thiện tài đồng tử văn thiện tri thức giáo, nhuận trạch kỳ tâm, chánh niệm tư tánh chư Bồ-tát hạnh, hướng hải ngạn quốc.
Thiện-Tài được nghe lời thiện-tri-thức dạy nhuận trạch tâm mình, chánh-niệm tư-duy công-hạnh của Bồ-Tát.
Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử nghe đạo pháp Bồ Tát của Đức Sinh đồng tử và Hữu Đức đồng nữ hai vị thiện tri thức dạy Ngài, giống như được mưa cam lồ, thấm nhuần vào tâm, rất mát mẻ. Lúc đó, Thiện Tài đồng tử chuyên tâm nhất chí, chánh niệm suy gẫm hạnh môn của tất cả Bồ Tát tu, làm thế nào hành Bồ Tát đạo, mà đi hướng về nước Hải Ngạn, tham phương Bồ Tát Di Lặc.
Tự ức vãng thế bất tu lễ kính, tức thời phát ý cần lực nhi hạnh;
Phục ức vãng thế thân tâm bất tịnh, tức thời phát ý chuyên tự trì khiết;
Phục ức vãng thế tác chư ác nghiệp, tức thời phát ý chuyên tự phòng đoạn;
Phục ức vãng thế khởi chư vọng tưởng, tức thời phát ý hằng chánh tư duy;
Tự nhớ đời trước chẳng tu hạnh lễ kính, tức thời phát tâm cố gắng tiến bước.
Lại nhớ đời trước thân tâm chẳng thanh-tịnh, tức thời phát tâm chuyên tự sửa sạch.
Lại nhớ đời trước làm những ác-nghiệp, tức thời phát ý chuyên tự phòng ngừa và dứt diệt.
Lại nhớ đời trước khởi những vọng-tưởng, tức thời phát ý hằng suy gẫm chơn chánh.
Giảng: Thiện Tài đồng tử đã đắc được thần thông lực túc mạng thông. Nhớ được đời quá khứ, đã từng không muốn đảnh lễ cung kính người khác. Hiện tại Ngài biết là không đúng, cho nên liền phát tâm, cố gắng tu hành, nỗ lực hành pháp môn nầy. Vì không đảnh lễ sư trưởng, chẳng cung kính bậc tiền bối, là hành vi cống cao ngã mạn, trái ngược lại với pháp.
Lại nhớ quá khứ, đã từng phát bồ đề tâm, nhưng thân chẳng giữ giới thanh tịnh, tâm cứ khởi vọng tưởng. Bây giờ Ngài biết thân tâm chẳng thanh tịnh, cho nên liền phát tâm, chuyên tâm tịnh trị thân tâm của mình cho trong sạch, không sinh tư tưởng nhiễm ô nữa.
Lại nhớ quá khứ, đã từng làm các nghiệp ác. Các vị đừng có tự ti mặc cảm, đừng cho rằng phạm giới luật thì không thể thành Phật, bèn thối bồ đề tâm. Các vị hãy xem ! Thiện Tài đồng tử trong quá khứ còn không giữ quy cụ như vậy, hà huống là phàm phu chúng ta ! Chỉ cần không làm các điều ác, chuyên làm các việc lành, tự mình khích lệ là được. Đừng có coi thường mình, có lỗi biết sửa đổi, thì có hy vọng thành Phật; có lỗi mà không sửa đổi, thì sẽ đoạ vào ba đường ác thọ quả báo. Thiện Tài đồng tử biết quá khứ đã làm các nghiệp ác, liền phát tâm hổ thẹn, chuyên tâm nhất chí tu hành công đức, tạp niệm không sinh, cẩn thận phòng ngừa tạo nghiệp ác.
Lại nhớ quá khứ, đã từng khởi các vọng tưởng chẳng chánh đáng. Vọng tưởng nhiều giống như sóng biển, sóng trước qua rồi, sóng sau lại tới, liên tục chẳng ngừng. Vọng tưởng trước ngừng, vọng tưởng sau lại sinh khởi, vĩnh viễn không gián đoạn. Thiện Tài đồng tử biết rồi, liền phát tâm luôn luôn chánh tư duy, chỉ có chánh tri chánh kiến, chẳng có tà tri tà kiến. Tuy có nghĩ tưởng, nhưng là tưởng Phật pháp, thật hành Phật pháp, đó mới là tư duy chánh đáng.
Phục ức vãng thế sở tu chư hạnh đãn vi tự thân, tức thời phát ý lệnh tâm quảng đại phổ cập hàm thức;
Phục ức vãng thế truy cầu dục cảnh thường tự tổn háo vô hữu tư vị, tức thời phát ý tu hành Phật Pháp trưởng dưỡng chư căn dĩ tự an ổn;
Phục ức vãng thế khởi tà tư niệm điên đảo tướng ứng, tức thời phát ý sanh chánh kiến tâm khởi Bồ Tát nguyện;
Lại nhớ đời trước tu tập chỉ vì tự-thân, tức thời phát ý khiến tâm quảng-đại lợi khắp chúng-sanh.
Lại nhớ đời trước theo cầu cảnh dục thường tự tổn hao không chút lợi ích, tức thời phát ý tu hành phật-pháp nuôi lớn các căn để tự an-ổn.
Lại nhớ đời trước khởi tà tư-niệm điên-đảo, tức thời phát ý sanh tâm chánh-kiến khởi nguyện bồ-tát.
Giảng: Lại nhớ quá khứ, tu hành các hạnh, chuyên vì chính mình, chẳng vì người khác. Giống như Quả Chân (thầy Hằng Thật) và Quả Đình (thầy Hằng Triều) hai vị tam bộ nhất bái, trước kia chuyên vì mình tu hành, chẳng biết hành Bồ Tát đạo. Bây giờ biết đó chẳng phải là tư tưởng đáng có của người tu đạo, cho nên vì cầu cho thế giới hoà bình, nhân loại an lạc, mà phát tâm tam bộ nhất bái, dùng hành động để cảm hoá người đời, buông bỏ tham sân si, thực hành giới định huệ. Thiện Tài đồng tử biết việc quá khứ, liền phát tâm rộng lớn. Do đó có câu : « Con nay phát tâm, chẳng vì tự cầu, phước báo trời người, Thanh Văn Duyên Giác », phải phát tâm rộng lớn, tận hư không khắp pháp giới, khắp cùng tất cả hàm thức. Phàm là chúng sinh có khí huyết, đều phải lợi ích cho họ, phải có tâm lợi ích chúng sinh rộng lớn như thế.
Thiện Tài đồng tử lại nhớ quá khứ, đã từng có hành vi chẳng giữ quy cụ, vì truy cầu cảnh giới năm dục để hưởng thụ, chẳng chịu ăn khổ. Thân là người tu đạo, muốn ăn chay phải ngon, chẳng giữ quy cụ của tùng lâm, đây tức là cảnh dục. Luôn luôn làm tổn hại tinh khí thần của mình. Thứ dục niệm nầy, nếu hiểu biết được lý của nó, thì hoàn toàn chẳng có từ vị gì, chẳng có ích lợi gì. Bây giờ Thiện Tài đồng tử liền phát tâm, muốn tu hành pháp của chư Phật nói, nuôi lớn tất cả các căn, tức cũng là hộ trì các căn, khiến cho con mắt không mờ, tai không điết, lỗ mũi được thông, lưỡi nếm được vị, khiến cho các căn không bị cảnh giới chuyển, thì mình mới được an ổn.
Lại nhớ quá khứ, đã từng khởi niệm nghĩ tà, điên đảo tương ưng. Các vị nhìn xem ! Thiện Tài đồng tử là đại Thánh nhân, trong đời quá khứ, cũng đã từng khởi niệm tà, tức cũng là niệm dâm dục, đó là điên đảo tương ưng, nếu chẳng điên đảo tương ưng, thì sẽ bình an vô sự. Lúc đó, Thiện Tài đồng tử liền phát tâm, sinh tâm chánh tri chánh kiến, chẳng còn tâm dâm dục, mà phát khởi Bồ Tát nguyện lực.
Phục ức vãng thế nhật dạ Cồ lao tác chư ác sự, tức thời phát ý khởi đại tinh tấn thành tựu Phật Pháp;
Phục ức vãng thế thọ ngũ thú sanh ư tự tha thân giai vô lợi ích, tức thời phát ý nguyện dĩ kỳ thân nhiêu ích chúng sanh thành tựu Phật Pháp thừa sự nhất thiết chư thiện tri thức. Như thị tư duy, sanh đại hoan hỉ.
Lại nhớ đời trước ngày đêm siêng nhọc làm những sự ác, tức thời phát ý khởi đại tinh-tấn thành-tựu phật-pháp.
Lại nhớ đời trước thọ sanh ngũ-thú, thân mình thân người đều không lợi ích, tức thời phát ý nguyện đem thân mình nhiêu ích chúng-sanh thành-tựu phật-pháp kính thờ tất cả thiện-tri-thức. Suy nghĩ như trên đây rồi trong lòng rất hoan-hỉ.
Giảng: Lại nhớ quá khứ, đã từng ngày đêm lao nhọc, chẳng làm việc tốt, mà làm các việc ác, giống như ngày đêm nghĩ tưởng trộm đồ vật, ngày đêm nghĩ hút thuốc, nghĩ uống rượu, nghĩ đánh bạc, nghĩ nhảy đầm .v.v… đó đều là việc ác. Lúc đó, Ngài liền phát tâm khởi đại tinh tấn, thành tựu diệu pháp của chư Phật nói.
Lại nhớ quá khứ, đã từng thọ sinh trong năm loài, đối với thân mình và kẻ khác đều không lợi ích. Lúc đó, Ngài liền phát tâm nguyện, dùng thân mình lợi ích hết thảy chúng sinh, thành tựu Phật pháp, phụng thờ tất cả các thiện tri thức, suy gẫm như vậy rồi, mà sinh đại hoan hỉ.
Phục quán thử thân thị sanh, lão, bệnh, tử chúng khổ chi trạch, nguyện tận vị lai kiếp, tu Bồ Tát đạo giáo hóa chúng sanh, kiến chư Như Lai thành tựu Phật Pháp, du hành nhất thiết Phật sát, thừa sự nhất thiết pháp sư, trụ trì nhất thiết Phật giáo, tầm cầu nhất thiết pháp lữ, kiến nhất thiết thiện tri thức, tập nhất thiết chư Phật Pháp, dữ nhất thiết Bồ Tát nguyện trí thân nhi tác nhân duyên.
Thiện-Tài lại quán thân nầy là nhà khổ sanh lão bịnh tử. Nguyện tận kiếp vị-lai tu bồ-tát-đạo giáo-hóa chúng-sanh, gặp chư Như-Lai thành tựu phật-pháp, du hành tất cả cõi Phật, kính thờ tất cả pháp-sư, trụ-trì tất cả phật-giáo, tìm cầu tất cả pháp-lữ, thấy tất cả thiện-tri-thức, chứa họp tất cả những phật-pháp, làm nhơn-duyên cho tất cả bồ-tát nguyện-trí-thân.
Giảng: Thiện Tài đồng tử lại quán sát thân nầy, là ngôi nhà chỗ ở của các sự khổ sinh, khổ già, khổ bệnh, khổ chết, khổ thương mà xa lìa, khổ ghét mà gặp nhau, khổ cầu mà chẳng được, khổ năm ấm thiêu đốt v.v… Nguyện hết kiếp thuở vị lai, tu hành Bồ Tát đạo, giáo hoá tất cả chúng sinh, điều phục tất cả chúng sinh, gặp được chư Phật, thành tựu pháp của chư Phật nói, du hành tất cả cõi nước chư Phật, phụng thờ tất cả đại pháp sư, trụ trì tất cả Phật giáo, tìm cầu tất cả pháp lữ, gặp được tất cả thiện tri thức, tích tập pháp của tất cả chư Phật, làm nhân duyên nguyện thân và trí thân với tất cả Bồ Tát.
Tác thị niệm thời, trưởng bất tư nghị vô lượng thiện căn, tức ư nhất thiết Bồ Tát thâm tín tôn trọng, sanh hy hữu tưởng, sanh Đại sư tưởng; chư căn thanh tịnh, thiện Pháp tăng ích, khởi nhất thiết Bồ Tát cung kính cúng dường, tác nhất thiết Bồ Tát khúc cung hợp chưởng, sanh nhất thiết Bồ Tát phổ kiến thế gian nhãn, khởi nhất thiết Bồ Tát phổ niệm chúng sanh tưởng, Hiện-Nhất-Thiết Bồ Tát vô lượng nguyện hóa thân, xuất nhất thiết Bồ Tát thanh tịnh tán thuyết âm; tưởng kiến qua, hiện nhất thiết chư Phật cập chư Bồ-tát, ư nhất thiết xứ thị hiện thành đạo thần thông biến hóa, nãi chí vô hữu nhất mao đoan xứ nhi bất chu biến;
Lúc nghĩ như vậy, Thiện-Tài được thêm lớn vô-lượng thiện-căn. Liền ở nơi tất cả Bồ-Tát thâm tín tôn trọng, tưởng là hi-hữu, tưởng là đại-sư, các căn thanh-tịnh, pháp lành càng thêm, khởi tất cả bồ-tát cung kính cúng-dường, làm tất cả bồ-tát cúi mình chắp tay, sanh con mắt thấy khắp thế-gian của tất cả Bồ-Tát, khởi lòng nhớ khắp chúng-sanh của tất cả Bồ-Tát, hiện vô-lượng thân nguyện-hóa của tất cả Bồ-Tát, xuất âm-thanh nói khen thanh-tịnh của tất cả Bồ-Tát, thấy tất cả chư Phật và Bồ-Tát quá-khứ, hiện-tại, thị-hiện thành đạo và thần-thông biến-hóa ở khắp mọi nơi. Nhẫn đến không có một chỗ nhỏ nào bằng đầu sợi lông mà chẳng châu biến.
Giảng: Khi Thiện Tài đồng tử nghĩ như vậy, thì tăng trưởng vô lượng căn lành không thể nghĩ bàn, liền đối với tất cả các đại Bồ Tát, tin sâu các Ngài, tôn trọng các Ngài, sinh nghĩ tưởng hy hữu, sinh nghĩ tưởng đại sư. Các căn cũng thanh tịnh, pháp lành cũng tăng ích, sinh khởi tâm cung kính cúng dường tất cả Bồ Tát, chắp tay khom mình lễ tất cả Bồ Tát. Lại sinh ra thiên nhãn của tất cả Bồ Tát thấy khắp thế gian. Lại khởi nghĩ tưởng của tất cả Bồ Tát nhớ khắp chúng sinh. Lại hiện ra vô lượng nguyện hoá thân của tất cả Bồ Tát. Lại sinh ra tâm tưởng khen nói thanh tịnh của tất cả Bồ Tát. Lại thấy tất cả chư Phật và các Bồ Tát quá khứ và hiện, ở tất cả mọi nơi, đều thị hiện thành đạo thần thông biến hoá, cho đến không có một đầu sợi lông nào mà không khắp cùng.
Hựu đắc thanh tịnh trí quang minh nhãn, kiến nhất thiết Bồ Tát sở hạnh cảnh giới; kỳ tâm phổ nhập thập phương sát võng, kỳ nguyện phổ biến hư không Pháp giới, tam thế bình đẳng, vô hữu hưu tức. Như thị nhất thiết, giai dĩ tín thọ thiện tri thức giáo chi sở trí nhĩ.
Thiện-Tài lại được trí-nhãn quang-minh thanh-tịnh, thấy cảnh-giới sở-hành của tất cả Bồ-Tát, Tâm vào khắp thập phương sát-võng, nguyện rộng khắp hư-không pháp-giới, tam thế bình-đẳng không thôi nghỉ. Tất cả những sự lợi ích lớn mà Thiện-Tài đã được, đều do tin thọ lời dạy của thiện-tri-thức cả.
Giảng: Lại đắc được con mắt trí huệ quang minh thanh tịnh. Lại thấy được cảnh giới tu hành của tất cả Bồ Tát, tâm các Ngài vào khắp lưới cõi mười phương, nguyện của các Ngài khắp cùng hư không pháp giới, ba đời đều bình đẳng, không có ngừng nghỉ. Tất cả sự thành tựu như vậy, đều do nhờ tin thọ lời dạy của thiện tri thức mà đắc được những cảnh giới đó.
Thiện tài đồng tử dĩ như thị tôn trọng, như thị cúng dường, như thị xưng tán, như thị quan sát, như thị nguyện lực, như thị tưởng niệm, như thị vô lượng trí tuệ cảnh giới, ư Tỳ Lô Giá Na trang nghiêm tạng Đại lâu các tiền, ngũ thể đầu địa, tạm thời liễm niệm, tư tánh quan sát.
Ðến nước Hải-Ngạn, Thiện-Tài dùng tâm tôn trọng như vậy, cúng-dường như vậy, xưng tán như vậy, quán-sát như vậy, nguyện lực như vậy, tưởng niệm như vậy, vô-lượng cảnh-giới trí-huệ như vậy, ở trước đại lâu-các Tỳ-Lô-Giá-Na Trang-Nghiêm-Tạng gieo năm vóc đảnh lễ, tạm thời nhiếp niệm tư duy quán-sát.
Giảng: Thiện Tài đồng tử dùng sự tôn trọng như vậy, cúng dường như vậy, khen ngợi như vậy, quán sát như vậy, nguyện lực như vậy, tưởng niệm như vậy, vô lượng cảnh giới trí huệ như vậy, ở trước đại lầu các Tỳ Lô Giá Na Trang Nghiêm Tạng, năm thể sát đất, cung kính đảnh lễ, tạm thời thu nhiếp niệm lại chẳng còn nữa, ngừng suy gẫm quán sát. Nhờ đại nguyện lực tin hiểu thâm sâu, liền nhập vào môn Trí huệ thân bình đẳng khắp tất cả mọi nơi.
Dĩ thâm tín giải, đại nguyện lực cố, nhập biến nhất thiết xứ trí tuệ thân bình đẳng môn, phổ hiện kỳ thân tại ư nhất thiết Như Lai tiền, nhất thiết Bồ Tát tiền, nhất thiết thiện tri thức tiền, nhất thiết Như Lai tháp miếu tiền, nhất thiết Như Lai hình tượng tiền, nhất thiết chư Phật chư Bồ-tát trụ xứ tiền, nhất thiết pháp bảo tiền, nhất thiết Thanh văn Bích Chi Phật cập kỳ tháp miếu tiền, nhất thiết Thánh chúng phước điền tiền, nhất thiết phụ mẫu Tôn-Giả tiền, nhất thiết thập phương chúng sanh tiền, giai như thượng thuyết, tôn trọng lễ tán, tận vị lai tế vô hữu hưu tức.
Vì sức đại-nguyện tín giải sâu nên nhập môn trí-huệ-thân bình-đẳng khắp tất cả xứ, hiện thân mình ở khắp trước chư Như-Lai, chư Bồ-Tát, chư thiện-tri-thức, chư Phật tháp miếu, chư Phật hình tượng, ở trước tất cả chỗ ở của chư Phật chư Bồ-Tát, tất cả pháp-bửu, tất cả Thanh-Văn, Bích-Chi-Phật va tháp miếu của chư vị ấy. Cũng hiện thân mình ở trước tất cả Thánh-Chúng, tất cả phụ-mẫu, tất cả chúng-sanh. Tất cả chỗ, Thiện-Tài đều tôn trọng lễ tán suốt vị-lai-tế không thôi nghỉ
Giảng: Thiện Tài đồng tử khắp hiện thân mình, ở trước tất cả chư Phật, ở trước tất cả Bồ Tát, ở trước tất cả thiện tri thức, ở trước tất cả chùa tháp của Như Lai, ở trước hình tượng của tất cả Như Lai, ở trước trụ xứ của tất cả chư Phật Bồ Tát, ở trước tất cả pháp bảo, ở trước tất cả Thanh Văn Bích Chi Phật và chùa tháp của các Ngài, ở trước ruộng phước tất cả Thánh chúng, ở trước tất cả cha mẹ tôn giả, ở trước tất cả mười phương chúng sinh, đều như nói ở trên, tôn trọng, lễ bái, tán thán, hết kiếp thuở vị lai, không có ngừng nghỉ.
Đẳng hư không, vô biên lượng cố; đẳng Pháp giới, vô chướng ngại cố; đẳng thật tế, biến nhất thiết cố; đẳng Như Lai, vô phân biệt cố. Do như ảnh, tùy trí hiện cố; do như mộng, tùng tư khởi cố; do như tượng, thị nhất thiết cố; do như hưởng, duyên sở phát cố; vô hữu sanh, đệ hưng tạ cố; vô hữu tánh, tùy duyên chuyển cố.
Khắp hư-không vì chẳng có biên-lượng, khắp pháp-giới vì không chướng-ngại, khắp thiệt-tế vì khắp tất cả, khắp Như-Lai vì vô phân-biệt, dường như bóng vì tùy trí hiện, dường như mộng vì từ tư-duy khởi, giống như tượng vì thị hiện tất cả, dường như vang vì theo duyên mà phát, không có sanh vì xoay vần khởi diệt, không có tánh vì theo duyên mà chuyển.
Giảng: Đồng hư không, vì lượng vô biên. Đồng pháp giới, vì không chướng ngại. Đồng thật tế, vì khắp tất cả mọi nơi. Đồng Như Lai, vì không phân biệt. Giống như hình bóng, vì tuỳ trí huệ mà hiện. Giống như mộng, vì do tư duy mà khởi. Do đó có câu : « Ban ngày nghĩ gì, thì ban đêm mộng thấy ». Giống như hình tượng, vì hiện bày tất cả. Giống như tiếng vang, vì do duyên mà phát ra. Đây là không có sinh, vì xoay vòng khởi diệt. Sinh rồi diệt, diệt rồi sinh. Không có tánh, vì tuỳ duyên mà chuyển.
Hựu quyết định tri nhất thiết chư báo giai tùng nghiệp khởi, nhất thiết chư quả giai tùng nhân khởi, nhất thiết chư nghiệp giai tùng tập khởi, nhất thiết Phật hưng giai tùng tín khởi, nhất thiết hóa hiện chư cúng dường sự giai tất tùng ư quyết định giải khởi, nhất thiết hóa Phật tùng kính tâm khởi, nhất thiết Phật Pháp tùng thiện căn khởi, nhất thiết hóa thân tùng phương tiện khởi, nhất thiết Phật sự tùng đại nguyện khởi, nhất thiết Bồ Tát sở tu chư hạnh tùng hồi hướng khởi, nhất thiết pháp giới quảng đại trang nghiêm tùng nhất thiết trí cảnh giới nhi khởi.
Lại quyết định biết tất cả báo đều do nghiệp, tất cả quả đều do nhơn, tất cả nghiệp, đều do hoặc tập, tất cả Phật xuất thế đều do đức tin, tất cả sự hóa hiện cúng-dường đều do quyết định giải, tất cả Hóa-Phật đều do tâm cung-kính, tất cả phật-pháp đều do thiện-căn, tất cả hóa-thân đều do phương tiện, tất cả phật-sự đều do đại-nguyện, tất cả Bồ-Tát tu công-hạnh đều do hồi-hướng, tất cả pháp-giới quảng-đại trang-nghiêm đều từ cảnh-giới nhất-thiết-trí.
Giảng: Thiện Tài đồng tử lại biết chắc chắn thọ tất cả các báo, đều từ nghiệp sinh ra, do đó « Khởi hoặc, tạo nghiệp, thọ báo ». Lại biết chắc chắn thọ tất cả các quả, đều từ nhân sinh ra, do đó « Trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu ». Lại biết chắc chắn tất cả các nghiệp, đều từ tập sinh ra. Lại biết chắc chắn tất cả chư Phật xuất hiện ra đời, đều từ niềm tin sinh ra, do đó có câu :
« Tin là nguồn đạo mẹ công đức,
Nuôi lớn tất cả các căn lành ».
Lại biết tất cả hoá hiện các sự cúng dường, đều từ hiểu biết chắc chắn sinh ra. Lại biết tất cả hoá Phật, là từ tâm cung kính sinh ra. Lại biết tất cả Phật pháp, là từ căn lành sinh ra. Lại biết tất cả hoá thân, là từ phương tiện sinh ra. Lại biết tất cả Phật sự, là từ đại nguyện sinh ra. Lại biết tất cả Bồ Tát tu hành các hạnh, là từ hồi hướng sinh ra. Lại biết tất cả pháp giới rộng lớn trang nghiêm, là từ cảnh giới nhất thiết trí mà sinh ra.
Ly ư đoạn kiến, tri hồi hướng cố; ly ư thường kiến, tri vô sanh cố; ly vô nhân kiến, tri chánh nhân cố; ly điên đảo kiến, tri như thật lý cố; ly tự tại kiến, tri bất do tha cố; ly tự tha kiến, tri tùng duyên khởi cố; ly biên chấp kiến, tri Pháp giới vô biên cố; ly vãng lai kiến, tri như ảnh tượng cố; ly hữu vô kiến, tri bất sanh diệt cố; ly nhất thiết pháp kiến, tri không vô sanh cố, tri bất tự tại cố, tri nguyện lực xuất sanh cố; ly nhất thiết tướng, kiến nhập vô tướng tế cố.
Rời đoạn-kiến nên biết hồi-hướng, rời thường-kiến nên biết vô-sanh, rời vô nhơn-kiến nên biết chánh-nhơn, rời điên-đảo-kiến nên biết như-thật-lý, rời tự-tại-kiến nên biết chẳng do nơi khác, rời tự-tha-kiến nên biết từ-duyên-khởi, rời biên-chấp-kiến nên biết pháp-giới vô-biên, rời vãng-lai-kiến nên biết như ảnh tượng, rời hữu-vô-kiến nên biết chẳng sanh diệt, rời nhất thiết-pháp-kiến nên biết không, vô sanh, nên biết chẳng tự-tại, nên biết do nguyện lực xuất sanh, rời nhất-thiết-tướng kiến nên nhập vô-tướng-tế.
Giảng: Phải lìa khỏi thấy đoạn (đoạn kiến), thì mới biết được hồi tiểu hướng đại. Phải lìa khỏi thấy thường (thường kiến), thì mới biết được đạo lý vô sinh. Chấp đoạn, chấp thường, là tư tưởng của ngoại đạo, chẳng phải lý thể trung đạo. Thế nào là thấy đoạn ? Ngoại đạo chủ trương con người chết rồi như đèn tắt, chẳng có đời sau. Bát vô nhân quả, là phái hưởng thụ. Thế nào là thường kiến ? Ngoại đạo chủ trương con người vĩnh viễn làm người, chó thì vĩnh viễn làm chó, chẳng có biến động, không minh bạch nhân quả, là phái khổ hạnh. Đó đều là tư tưởng tà tri tà kiến. Phải lìa khỏi thấy không nhân, thì mới biết được đạo lý chánh nhân, do đó có câu :
Trồng nhân lành thì kết quả lành, trồng nhân ác thì kết quả ác,
Tức cũng là luật nhân quả trồng nhân gì thì kết quả đó, cũng là định luật vạn đời không đổi. Phải lìa khỏi thấy điên đảo, thì mới biết được đạo lý chân thật. Phải lìa khỏi thấy tự tại, thì mới biết được pháp do là mình tu mới đắc được, chứ chẳng nhờ người khác tu mà được. Phải lìa khỏi chấp trước cái ta, cũng phải lìa khỏi chấp trước người khác, thì mới biết được tất cả pháp, tất cả việc, đều từ duyên mà sinh khởi. Do đó, « duyên sinh vô tánh », tức là như thế, thì còn có gì để chấp trước ! Phải lìa khỏi thấy biên chấp, thì mới biết được pháp giới vốn không có bờ mé. Phải lìa khỏi thấy đến đi, không đến, không đi, thì biết được như hình bóng, chẳng chân thật, là hư vọng. Phải lìa khỏi thấy có và thấy không, thì mới biết được vốn chẳng sinh, cũng chẳng diệt, thì làm gì có cái có và cái không ! Phải lìa khỏi thấy tất cả pháp, thì mới biết được không chẳng chỗ sinh, biết tự tại chẳng phải rốt ráo, biết nguyện lực sinh ra. Phải lìa khỏi thấy tất cả tướng, thì mới vào được bờ mé vô tướng.
Tri nhất thiết pháp như chủng sanh nha cố, như ấn sanh văn cố. Tri chất như tượng cố, tri thanh như hưởng cố, tri cảnh như mộng cố, tri nghiệp như huyễn cố.
Vì biết tất cả pháp như hột giống nẩy mầm, như ấn sanh văn. Vì biết chất như tượng, biết thanh-âm như vang, biết cảnh như mộng, biết nghiệp như huyễn
Giảng: Thiện Tài đồng tử biết tất cả pháp, như hạt giống sinh mầm, như đồ chương ấn tại văn kiện. Biết tất cả chất như hình tượng, đều là hư vọng. Trong Kinh Kim Cang có nói :
« Phàm hết thảy tướng, đều là hư vọng.
Nếu thấy các tướng chẳng phải tướng,
Tức thấy Như Lai ».
Biết tất cả tiếng như vang, có tiếng mới có vang, do đó : « Trong động truyền thanh », cho nên tiếng tức là vang. Biết tất cả cảnh giới như mộng, trong Kinh Kim Cang có nói :
« Tất cả pháp hữu vi
Như mộng huyễn bọt bóng
Như sương cũng như điện
Hãy quán sát như vậy ».
Biết tất cả nghiệp như huyễn, hư vọng chẳng thật. Thấu rõ thế gian tất cả tướng, là do tâm hiện, do đó « Tất cả do tâm tạo ». Thấu rõ tất cả quả thế gian do nhân sinh ra, do đó có câu :
« Muốn biết nhân đời trước
Đời này mình đang thọ
Muốn biết quả đời sau
Đời này mình đang làm ».
Liễu thế tâm hiện cố, liễu quả nhân khởi cố, liễu báo nghiệp tập cố, liễu tri nhất thiết chư công đức Pháp giai tùng Bồ Tát thiện xảo phương tiện sở lưu xuất cố.
Rõ đời do tâm hiện, quả do nhơn khởi, rõ báo do nghiệp tập. Biết rõ tất cả pháp công-đức đều từ bồ-tát phương-tiện thiện-xảo mà lưu xuất
Giảng: Thấu rõ tất cả quả báo thế gian, là do nghiệp tích tập mà sinh ra, do đó « khởi hoặc, tạo nghiệp, thọ báo », tơ hào chẳng sai. Thấu rõ tất cả các pháp công đức, đều từ Bồ Tát căn lành phương tiện sinh ra.
Thiện tài đồng tử nhập như thị trí, đoan tâm khiết niệm; ư lâu quán tiền, cử thể đầu địa, ân cần đảnh lễ; bất tư nghị thiện căn lưu chú thân tâm, thanh lương duyệt dịch. Tùng địa nhi khởi, nhất tâm chiêm ngưỡng, mục bất tạm xả, hợp chưởng vi nhiễu, Kinh vô lượng tạp, tác thị niệm ngôn:
Thiện-Tài Ðồng-Tử nhập quán-trí như vậy, đoan tâm khiết niệm, ở trước lâu các mọp lạy sát đất, bất-tư-nghì thiện-căn lưu chú thân tâm mát mẻ thơ-thời. Rồi đứng dậy chiêm ngưỡng, mắt không tạm rời, chắp tay hữu nhiễu vô-lượng vòng. Tự nghĩ rằng:
Giảng: Thiện Tài đồng tử nhập vào trí huệ như vậy, tâm đoan chánh, niệm thanh tịnh. Ở trước lầu các Tỳ Lô Giá Na Trang Nghiêm Tạng làm lễ sát đất, ân cần cung kính đảnh lễ. Lúc đó, Thiện Tài đồng tử có bất khả tư nghì căn lành lưu chảy trong thân tâm, cảm giác rất là mát mẻ, rất là thơ thới. Từ dưới đất đứng dậy, một lòng chiêm ngưỡng lầu các, mắt không tạm rời, giống như nhập định, chắp tay đi nhiễu quanh bên phải vô lượng vòng, đây là biểu thị thân tâm cung kính. Thiện Tài đồng tử chiêm ngưỡng đại lầu các rồi, bèn nghĩ như vầy :
Thử Đại lâu các, thị giải không, vô tướng, vô nguyện giả chi sở trụ xứ;
thị ư nhất thiết Pháp vô phân biệt giả chi sở trụ xứ;
thị liễu Pháp giới vô sái biệt giả chi sở trụ xứ;
thị tri nhất thiết chúng sanh bất khả đắc giả chi sở trụ xứ;
thị tri nhất thiết Pháp vô sanh giả chi sở trụ xứ;
Ðại lâu các nầy là chỗ ở của bậc đạt không, vô-tướng, vô-nguyện.
Là chỗ ở bực nhất-thiết-pháp vô-phân-biệt.
Là chỗ ở của bậc rõ pháp-giới vô-sai-biệt.
Là chỗ ở của bậc biết tất cả chúng-sanh bất-khả-đắc.
Là chỗ ở của bậc biết tất cả pháp vô-sanh.
Giảng: Đại lầu các báu nầy, là chỗ ở của bậc đại Bồ Tát giải không, vô tướng, vô nguyện.
Là chỗ ở của bậc đại Bồ Tát đối với tất cả pháp không có sự phân biệt.
Là chỗ ở của bậc đại Bồ Tát thấu rõ pháp giới không khác biệt.
Là chỗ ở của bậc đại Bồ Tát biết tất cả chúng sinh bất khả đắc.
Là chỗ ở của bậc đại Bồ Tát biết tất cả pháp không sinh, không diệt, không đến, không đi.
thị bất trước nhất thiết thế gian giả chi sở trụ xứ;
thị bất trước nhất thiết quật trạch giả chi sở trụ xứ;
thị bất lạc nhất thiết tụ lạc giả chi sở trụ xứ;
thị bất y nhất thiết cảnh giới giả chi sở trụ xứ;
Là chỗ ở của bậc chẳng tham chấp tất cả thế-gian.
Là chỗ ở của bậc chẳng tham chấp tất cả nhà của.
Là chỗ ở của bậc chẳng thích tất cả tụ-lạc.
Là chỗ ở của bậc chẳng dựa tất cả cảnh-giới.
Giảng: Là chỗ ở của bậc đại Bồ Tát không chấp trước tất cả thế gian pháp hữu vi.
Là chỗ ở của bậc đại Bồ Tát không chấp trước tất cả nhà cửa.
Là chỗ ở của bậc đại Bồ Tát không ưa thích tất cả thôn xóm.
Là chỗ ở của bậc đại Bồ Tát không nương tựa vào tất cả cảnh giới.
thị ly nhất thiết tưởng giả chi sở trụ xứ;
thị tri nhất thiết pháp vô tự tánh giả chi sở trụ xứ;
thị đoạn nhất thiết phần biệt nghiệp giả chi sở trụ xứ;
thị ly nhất thiết tưởng tâm, ý, thức giả chi sở trụ xứ;
Là chỗ ở của bậc lìa tất cả tưởng.
Là chỗ ở của bậc biết tất cả pháp không tự-tánh.
Là chỗ ở của bậc dứt tất cả nghiệp phân-biệt.
Là chỗ ở của bậc lìa tất cả tưởng, tâm, ý, thức.
Giảng: Là chỗ ở của bậc đại Bồ Tát lìa khỏi tất cả vọng tưởng.
Là chỗ ở của bậc đại Bồ Tát biết tất cả pháp không có tự tánh.
Là chỗ ở của bậc đại Bồ Tát đoạn trừ tất cả phân biệt nghiệp.
Là chỗ ở của bậc đại Bồ Tát lìa khỏi tất cả tưởng tâm ý thức.
thị bất nhập bất xuất nhất thiết đạo giả chi sở trụ xứ;
thị nhập nhất thiết thậm thâm Bát-nhã Ba-la-mật giả chi sở trụ xứ;
thị năng dĩ phương tiện trụ Phổ môn Pháp giới giả chi sở trụ xứ;
thị tức diệt nhất thiết phiền não hỏa giả chi sở trụ xứ;
Là chỗ ở của bậc chẳng xuất, chẳng nhập tất cả đạo.
Là chỗ ở của bậc nhập thậm-thâm bát-nhã ba-la-mật.
Là chỗ ở của bậc hay dùng phương-tiện trụ phổ-môn pháp-giới.
Là chỗ ở của bậc tắt dứt tất cả lửa phiền não.
Giảng: Là chỗ ở của bậc đại Bồ Tát chẳng nhập chẳng xuất tất cả đạo.
Đây là chỗ ở của bậc đại Bồ Tát nhập vào pháp môn tất cả Bát Nhã Ba La Mật thâm sâu.
Đây là chỗ ở của bậc đại Bồ Tát hay dùng phương tiện trụ ở phổ môn pháp giới.
Đây là chỗ ở của bậc đại Bồ Tát đã tiêu diệt được tất cả lửa phiền não.
thị dĩ tăng thượng tuệ trừ đoạn nhất thiết kiến, ái, mạn giả chi sở trụ xứ;
thị xuất sanh nhất thiết chư Thiền giải thoát tam muội thông minh nhi du hí giả chi sở trụ xứ;
thị quan sát nhất thiết Bồ Tát tam muội cảnh giới giả chi sở trụ xứ;
thị an trụ nhất thiết Như Lai sở giả chi sở trụ xứ;
Là chỗ ở của bậc dùng tăng-thượng huệ dứt trừ tất cả kiến, ái, mạn.
Là chỗ ở của bậc xuất sanh tất cả thiền, giải-thoát, tam-muội, thông-sáng và du-hí trong đó.
Là chỗ ở của bậc cảnh-giới tam-muội của tất cả Bồ-Tát.
Là chỗ ở của bậc an-trụ chỗ của tất cả Như-Lai.
Giảng: Đây là chỗ ở của bậc đại Bồ Tát dùng trí huệ tăng thượng dứt trừ tất cả ái dục ngã mạn.
Đây là chỗ ở của bậc đại Bồ Tát sinh ra tất cả các thiền giải thoát tam muội thần thông mà du hí.
Đây là chỗ ở của bậc đại Bồ Tát quán sát cảnh giới tam muội của tất cả Bồ Tát.
Đây là chỗ ở của bậc đại Bồ Tát an trụ chỗ tất cả chư Phật.
thị dĩ nhất kiếp nhập nhất thiết kiếp, dĩ nhất thiết kiếp nhập nhất kiếp, nhi bất hoại kỳ tướng giả chi sở trụ xứ;
thị dĩ nhất sát nhập nhất thiết sát, dĩ nhất thiết sát nhập nhất sát, nhi bất hoại kỳ tướng giả chi sở trụ xứ;
thị dĩ nhất pháp nhập nhất thiết pháp, dĩ nhất thiết pháp nhập nhất pháp, nhi bất hoại kỳ tướng giả chi sở trụ xứ;
thị dĩ nhất chúng sanh nhập nhất thiết chúng sanh, dĩ nhất thiết chúng sanh nhập nhất chúng sanh, nhi bất hoại kỳ tướng giả chi sở trụ xứ;
Là chỗ ở của bậc đem một kiếp vào tất cả kiếp, đem tất cả kiếp vào một kiếp mà không hư tướng thời-gian.
Là chỗ ở của bậc đem một thế-giới vào tất cả thế-giới, đem tất cả thế-giới vào một thế-giới mà chẳng hoại tướng không-gian.
Là chỗ ở của bậc đem một pháp vào tất cả pháp, đem tất cả pháp vào một pháp mà chẳng hư hoại tướng của pháp.
Là chỗ ở của bậc đem một chúng-sanh vào tất cả chúng-sanh, đem tất cả chúng-sanh vào một chúng-sanh, mà không hư tướng chúng-sanh.
Giảng: Đây là chỗ trụ của bậc đại Bồ Tát đem một kiếp vào tất cả kiếp, đem tất cả kiếp vào một kiếp, mà không hoại tướng của nó.
Đây là chỗ trụ của bậc đại Bồ Tát đem một cõi vào tất cả cõi, đem tất cả cõi vào một cõi, mà không hoại tướng của nó.
Đây là chỗ trụ của bậc đại Bồ Tát đem một pháp vào tất cả pháp, đem tất cả pháp vào một pháp, mà không hoại tướng của nó.
Đây là chỗ trụ của bậc đại Bồ Tát đem một chúng sinh vào tất cả chúng sinh, đem tất cả chúng sinh vào một chúng sinh, mà chẳng hoại tướng của nó.
thị dĩ nhất Phật nhập nhất thiết Phật, dĩ nhất thiết Phật nhập nhất Phật, nhi bất hoại kỳ tướng giả chi sở trụ xứ;
thị ư nhất niệm trung nhi tri nhất thiết tam thế giả chi sở trụ xứ;
thị ư nhất niệm trung vãng nghệ nhất thiết quốc độ giả chi sở trụ xứ;
thị ư nhất thiết chúng sanh tiền tất hiện kỳ thân giả chi sở trụ xứ;
Là chỗ ở của bậc đem một Phật vào tất cả Phật, đem tất cả Phật vào một Phật, mà chẳng hoại tướng Phật.
Là chỗ ở của bậc ở trong một niệm mà biết tất cả tam-thế.
Là chỗ ở của bậc trong khoảng một niệm qua đến tất cả quốc-độ.
Là chỗ ở của bậc hiện thân mình ra trước tất cả chúng-sanh.
Giảng: Đây là chỗ trụ của bậc đại Bồ Tát đem một vị Phật vào tất cả vị Phật, đem tất cả vị Phật vào một vị Phật, mà chẳng hoại tướng của nó.
Đây là chỗ trụ của bậc đại Bồ Tát trong một niệm mà biết nhân duyên tất cả ba đời.
Đây là chỗ trụ của bậc đại Bồ Tát trong một niệm đi đến tất cả cõi Phật
Đây là chỗ trụ của bậc đại Bồ Tát ở trước tất cả chúng sinh, đều hiện ra thân mình.
thị tâm thường lợi ích nhất thiết thế gian giả chi sở trụ xứ;
thị năng biến chí nhất thiết xứ giả chi sở trụ xứ;
thị tuy dĩ xuất nhất thiết thế gian, vi hóa chúng sanh cố nhi hằng ư trung hiện thân giả chi sở trụ xứ;
thị bất trước nhất thiết sát, vi cúng dường chư Phật cố nhi du nhất thiết sát giả chi sở trụ xứ;
Là chỗ ở của bậc tâm thường lợi ích tất cả thế-gian.
Là chỗ ở của bậc hay đến khắp tất cả chỗ.
La chỗ ở của bậc dầu đã thoát ly tất cả thế-gian, nhưng vì hóa độ chúng-sanh nên hằng hiện thân ở trong-thế-gian.
Là chỗ ở của bậc chẳng chấp lấy tất cả cõi, nhưng vì cúng-dường chư Phật mà du hành tất cả cõi.
Giảng: Đây là chỗ trụ của bậc đại Bồ Tát tâm thường nghĩ lợi ích tất cả chúng sinh thế gian.
Đây là chỗ trụ của bậc đại Bồ Tát hay đến khắp tất cả mọi nơi.
Đây là chỗ trụ của bậc đại Bồ Tát tuy đã thoát khỏi tất cả thế gian, nhưng vì giáo hoá chúng sinh mà luôn ở trong thế gian hiện thân.
Đây là chỗ trụ của bậc đại Bồ Tát chẳng chấp trước tất cả cõi, vì cúng dường chư Phật, mà du hành đến tất cả cõi.
thị bất động bổn xứ, năng phổ nghệ nhất thiết Phật sát nhi trang nghiêm giả chi sở trụ xứ;
thị thân cận nhất thiết Phật nhi bất khởi Phật tưởng giả chi sở trụ xứ;
thị y chỉ nhất thiết thiện tri thức nhi bất khởi thiện tri thức tưởng giả chi sở trụ xứ;
thị trụ nhất thiết ma cung nhi bất đam trước dục cảnh giới giả chi sở trụ xứ;
Là chỗ ở của bậc chẳng động bổn-xứ, mà có thể đến khắp tất cả phật-độ để trang-nghiêm.
Là chỗ ở của bậc thân cận tất cả Phật mà chẳng khởi phật-tưởng.
Là chỗ ở của bậc y chỉ tất cả thiện-tri-thức mà chẳng khởi thiện-tri-thức tưởng.
Là chỗ ở của bậc ở tất cả ma-cung mà chẳng đắm nhiễm cảnh dục.
Giảng: Đây là chỗ trụ của bậc đại Bồ Tát chẳng động bổn xứ, mà đến khắp tất cả cõi Phật để trang nghiêm cõi Phật.
Đây là chỗ trụ của bậc đại Bồ Tát gần gũi tất cả chư Phật, mà chẳng khởi tưởng Phật.
Đây là chỗ trụ của bậc đại Bồ Tát y chỉ tất cả thiện tri thức, mà chẳng khởi tưởng thiện tri thức.
Đây là chỗ trụ của bậc đại Bồ Tát ở tại tất cả cung ma, mà chẳng đắm trước cảnh giới dục.
thị vĩnh ly nhất thiết tâm tưởng giả chi sở trụ xứ;
thị tuy ư nhất thiết chúng sanh trung nhi hiện kỳ thân, nhiên ư tự tha bất sanh nhị tưởng giả chi sở trụ xứ;
thị năng phổ nhập nhất thiết thế giới nhi ư Pháp giới vô sái biệt tưởng giả chi sở trụ xứ;
thị nguyện trụ vị lai nhất thiết kiếp nhi ư chư kiếp vô trưởng đoản tưởng giả chi sở trụ xứ;
Là chỗ ở của bậc rời hẳn tất cả tâm tưởng.
Là chỗ ở của bậc dầu hiện thân trong tất cả chúng-sanh mà không có quan niệm mình người riêng khác.
Là chỗ ở của bậc hay vào khắp tất cả thế-giới, mà đối với pháp-giới không có tưởng sai biệt.
Là chỗ ở của bậc nguyên trụ tất cả kiếp vị-lai, nhưng đối với kiếp số không có quan-niệm thời-gian dài vắn.
Giảng: Đây là chỗ trụ của bậc đại Bồ Tát vĩnh viễn lìa tất cả tâm tưởng.
Đây là chỗ trụ của bậc đại Bồ Tát tuy ở trong tất cả chúng sinh mà hiện thân, nhưng chẳng sinh hai tưởng ta, người.
Đây là chỗ trụ của bậc đại Bồ Tát vào khắp tất cả thế giới, mà nơi pháp giới không tưởng khác biệt.
Đây là chỗ trụ của bậc đại Bồ Tát nguyện trụ vị lai tất cả kiếp, mà nơi các kiếp không tưởng dài ngắn.
thị bất ly nhất mao đoan xứ nhi phổ hiện thân nhất thiết thế giới giả chi sở trụ xứ;
thị năng diễn thuyết nan tao ngộ Pháp giả chi sở trụ xứ;
thị năng trụ nan tri Pháp, thậm thâm Pháp, vô nhị Pháp, vô tướng Pháp, vô đối trì Pháp, vô sở đắc Pháp, vô hí luận Pháp giả chi sở trụ xứ;
thị trụ Đại từ đại bi giả chi sở trụ xứ;
Là chỗ ở của bậc chẳng rời chỗ một đầu sợi lông mà hiện thân khắp tất cả thế-giới.
Là chỗ ở của bậc hay diễn thuyết những pháp khó được gặp, được nghe.
Là chỗ ở của bậc hay trụ pháp khó biết, pháp thậm thâm, pháp không hai, pháp vô-tướng, pháp không đối-trị, pháp vô-sở-đắc, pháp không hí-luận.
Là chỗ ở của bậc trụ đại-từ đại-bi.
Giảng: Đây là chỗ trụ của bậc đại Bồ Tát chẳng lìa nơi đầu sợi lông, mà khắp hiện thân mình trong tất cả thế giới.
Đây là chỗ trụ của bậc đại Bồ Tát hay diễn nói diệu pháp khó gặp được.
Đại lầu các Tỳ Lô Giá Na Trang Nghiêm Tạng nầy, là chỗ trụ của bậc đại Bồ Tát, hay trụ pháp khó biết, pháp thâm sâu, pháp không hai, pháp vô tướng, pháp không đối trị, pháp vô sở đắc, pháp không hí luận.
Đại lầu các báu nầy, là chỗ trụ của bậc đại Bồ Tát trụ đại từ đại bi.
thị dĩ độ nhất thiết nhị thừa trí, dĩ siêu nhất thiết ma cảnh giới, dĩ ư thế Pháp vô sở nhiễm, dĩ đáo Bồ Tát sở đáo ngạn, dĩ trụ Như Lai sở trụ xứ giả chi sở trụ xứ;
thị tuy ly nhất thiết chư tướng nhi diệc bất nhập Thanh văn chánh vị, tuy liễu nhất thiết pháp vô sanh nhi diệc bất trụ vô sanh pháp tánh giả chi sở trụ xứ;
thị tuy quán bất tịnh nhi bất chứng ly tham Pháp diệc bất dữ tham dục câu, tuy tu ư từ nhi bất chứng ly sân Pháp diệc bất dữ sân cấu câu, tuy quán duyên khởi nhi bất chứng ly si Pháp diệc bất dữ si hoặc câu giả chi sở trụ xứ;
thị tuy trụ tứ Thiền nhi bất tùy Thiền sanh, tuy hành tứ vô lượng vi hóa chúng sanh cố nhi bất sanh sắc giới, tuy tu tứ vô sắc định dĩ đại bi cố nhi bất trụ vô sắc giới giả chi sở trụ xứ;
Là chỗ ở của bậc đã vượt hẳn trí nhị-thừa, đã siêu cảnh-giới ma, đã không nhiễm thế-pháp, đã đến bờ của Bồ-Tát đã đến, đã trụ nơi chỗ trụ của Như-Lai.
Là chỗ ở của bậc dầu rời tất cả tướng mà chẳng nhập chánh-vị của Thanh-Văn, dầu rõ tất cả pháp vô-sanh mà cũng chẳng trụ pháp-tánh vô-sanh.
Là chỗ ở của bậc dầu quán bất-tịnh mà chẳng chứng pháp ly-tham cũng chẳng cùng chung với tham-dục, dầu tu hạnh từ mà chẳng chứng pháp ly-sân cũng chẳng cùng chung với sân hận, dầu quán duyên-khởi mà chẳng chứng pháp ly-si cũng chẳng cùng chung với si hoặc.
Là chỗ ở của bậc dầu trụ tứ-thiền mà chẳng tùy thiền sanh, dầu tu hành tứ-vô-lượng-tâm nhưng vì hóa độ chúng-sanh nên chẳng sanh cõi sắc, dầu tu vô-sắc-định nhưng vì đại-bi nên chẳng trụ cõi vô-sắc.
Là chỗ trụ của bậc đại Bồ Tát đã độ tất cả trí huệ nhị thừa, đã vượt qua tất cả cảnh giới ma, đã không còn nhiễm trước nơi pháp thế gian, đã đạt đến bờ bên kia của Bồ Tát, đã trụ chỗ trụ xứ của Như Lai.
Giảng: Là chỗ trụ của bậc đại Bồ Tát tuy lìa tất cả các tướng, mà cũng không chứng nhập vào chánh vị Thanh Văn, tuy thấu rõ biết tất cả pháp không sinh, mà cũng chẳng trụ pháp tánh không sinh.
Là chỗ trụ của bậc đại Bồ Tát tuy quán sát thế gian bất tịnh, mà vẫn không chứng pháp lìa tham, cũng chẳng có cái chứng, cũng chẳng có cái không chứng, tức là hành sở vô sự, cũng chẳng cùng nhau với tham dục, tuy tu hạnh từ bi mà vẫn không chứng pháp lìa sân, cũng chẳng cùng chung với sân cấu bẩn, do đó : « Thấy việc tỉnh việc thoát thế gian, thấy việc mê việc đoạ trầm luân », tuy quán sát tất cả pháp đều từ duyên khởi, mà vẫn không chứng pháp lìa si, do đó minh bạch đạo lý: « Các pháp do duyên sinh, các pháp do duyên diệt », mà mình chẳng chứng lìa khỏi pháp ngu si, cũng chẳng cùng chung với si hoặc.
Đại Bồ Tát trụ ở trong đại lầu các báu nầy, tuy Ngài trụ trời Tứ Thiền (trong sắc giới có trời Sơ Thiền, trời Nhị Thiền, trời Tam Thiền, trời Tứ Thiền). Chứng được cảnh giới Sơ Thiền, thì các mạch máu của hành giả ngừng lại.
Có người nói : « Tôi đã chứng được Sơ Thiền », lời nầy không phải là chính mình nói, mà phải có thiện tri thức mắt sáng ấn chứng cho bạn, thì mới cho là thật.
Chứng được cảnh giới Nhị Thiền, thì hô hấp ngừng lại. Có người nói : « Hô hấp ngừng lại, đó chẳng phải là đã chết rồi chăng » ? Đây thì chẳng phải chết, mà là nhập định. Hô hấp bên ngoài tuy ngừng lại, nhưng hô hấp bên trong vẫn hoạt động. Đây là hiện tượng Nhị Thiền. Lúc đó, thiền duyệt vi thực, pháp hỉ sung mãn, dùng niềm vui của thiền định làm thức ăn, niềm vui của pháp tràn đầy.
Chứng được cảnh giới Tam Thiền, thì ý niệm ngừng lại, do đó « Một niệm chẳng sinh ». Chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác; chẳng nghĩ đúng, chẳng nghĩ sai. Không có quái ngại, ngồi ở đó, giống như là người sống đã chết, chẳng động, chẳng ăn uống gì.
Chứng được cảnh giới Tứ Thiền, thì chẳng những niệm trụ, vốn chẳng còn ý niệm, cũng chẳng còn vọng tưởng, chỉ còn thức. Đến được cảnh giới Tứ thiền, vẫn còn là phàm phu, chứ chưa nhập vào dòng Thánh nhân, không thể cho rằng đã chứng quả. Tỳ Kheo Vô Văn chứng được cảnh giới nầy, bèn nhận lầm chứng quả A La Hán, chẳng còn sinh tử. Về sau phát hiện vẫn còn sinh tử, bèn phỉ báng Phật là nói dối, nên bị đoạ vào địa ngục.
Sơ thiền gọi là Ly sinh hỉ lạc địa. Lìa khỏi sự khoái lạc của chúng sinh, đắc được một thứ khoái lạc khác. Nhị thiền gọi là Định sinh hỉ lạc địa, ở trong định sinh ra một thứ khoái lạc không gì sánh bằng, không cách gì có thể hình dung. Tam thiền gọi là Ly hỉ diệu lạc địa, đã lìa khỏi sự khoái lạc của Sơ thiền và Nhị thiền, đắc được sự khoái lạc diệu không thể tả. Do đó có cảnh giới : « Như như bất động, rõ ràng sáng suốt ». Tứ thiền gọi là Xả niệm thanh tịnh địa, Cho đến một niệm cũng không sinh, do đó có câu :
« Một niệm không sinh toàn thể hiện,
Sáu căn hốt động bị mây che ».
Tuy có cảnh giới Tứ thiền, mà chẳng tuỳ theo thiền sinh, cũng chẳng chấp trước thiền, chẳng sinh pháp chấp.
Tuy hành bốn vô lượng tâm (Từ bi hỉ xả), từ hay ban vui cho chúng sinh, bi hay cứu khổ chúng sinh. Hỉ hay dùng tâm hoan hỉ vì chúng sinh làm việc, xả hay quên mất việc đã làm. Vì giáo hoá chúng sinh, mà chẳng sinh về cõi sắc, tuy tu bốn vô sắc định (Không vô biên xứ định, thức vô biên xứ định, vô sở hữu xứ định, phi tưởng phi phi tưởng xứ định), nhờ đại bi mà chẳng trụ cõi vô sắc.
thị tuy cần tu chỉ quán vi hóa chúng sanh cố nhi bất chứng minh thoát, tuy hành ư xả nhi bất xả hóa chúng sanh sự giả chi sở trụ xứ;
thị tuy quán ư không nhi bất khởi không kiến, tuy hành vô tướng nhi thường hóa trước tướng chúng sanh, tuy hành vô nguyện nhi bất xả Bồ-đề hạnh nguyện giả chi sở trụ xứ;
thị tuy ư nhất thiết nghiệp phiền não trung nhi đắc tự tại vi hóa chúng sanh cố nhi hiện tùy thuận chư nghiệp phiền não, tuy vô sanh tử vi hóa chúng sanh cố thị thọ sanh tử, tuy dĩ ly nhất thiết thú vi hóa chúng sanh cố thị nhập chư thú giả chi sở trụ xứ;
Là chỗ ở của bậc dầu siêng tu chỉ quán nhưng vì hóa độ chúng-sanh nên chẳng chứng quả giải thoát, dầu thật hành hạnh xả mà chẳng bỏ sự hóa độ chúng-sanh.
Là chỗ ở của bậc dầu quán không mà chẳng khởi không-kiến, dầu hành vô-tướng mà thường giáo-hóa chúng-sanh chấp tướng, dầu hành vô-nguyện mà chẳng bỏ hạnh nguyện vô-thượng bồ-đề.
Là chỗ ở của bậc dầu ở trong tất cả nghiệp phiền-não mà vẫn tự-tại, vì để hóa độ chúng-sanh nên tùy-thuân các nghiệp phiền-não, dầu không sanh tử mà vì hóa độ chúng-sanh nên thị hiện thọ sanh tử, dầu đã rời tất cả loài mà vì hóa độ chúng-sanh nên thị hiện vào các loài.
Giảng: Đây là chỗ trụ của bậc đại Bồ Tát, tuy siêng tu pháp môn chỉ quán (chỉ tất cả ác, quán tất cả thiện), vì giáo hoá chúng sinh mà chẳng chứng ba minh (Thiên nhãn minh, túc mạng minh, lậu tận minh) và tám giải thoát (1. Trong có sắc tưởng quán sắc bên ngoài giải thoát. 2. Trong không có sắc tưởng quán sắc bên ngoài giải thoát. 3. Tịnh giải thoát thân tác chứng cụ túc trụ. 4. Không vô biên xứ giải thoát. 5. Thức vô biên xứ giải thoát. 6. Vô sở hữu xứ giải thoát. 7. Phi tưởng phi phi tưởng xứ giải thoát. 8. Diệt thọ tưởng định thân tác chứng cụ túc trụ), đây là xả bỏ chấp trước pháp nhiễm ô ràng buộc tám thứ thiền định của ba cõi, cho nên còn gọi là tám xả bỏ. Tuy hành nơi xả mà chẳng xả bỏ việc giáo hoá chúng sinh.
Đây là chỗ trụ của bậc đại Bồ Tát, tuy quán về không mà chẳng sinh khởi thấy không, tuy hành pháp môn vô tướng, mà thường giáo hoá chúng sinh chấp trước tướng, tuy tu hành pháp môn vô nguyện, mà chẳng xả bỏ hạnh nguyện bồ đề.
Đại Bồ Tát trụ ở trong đại lầu các báu nầy, Ngài tuy ở trong tất cả nghiệp phiền não, mà đã đắc được tự tại, chẳng bị phiền não lay chuyển. Vì giáo hoá chúng sinh mà hiện tuỳ thuận các nghiệp phiền não. Tuy thoát khỏi sinh tử, nhưng vì giáo hoá tất cả chúng sinh, mà thị hiện thọ sinh tử. Tuy đã lìa tất cả cõi (sáu nẻo luân hồi), nhưng vì giáo hoá tất cả chúng sinh, mà thị hiện vào các cõi.
thị tuy hành ư từ nhi ư chư chúng sanh vô sở ái luyến, tuy hành ư bi nhi ư chư chúng sanh vô sở thủ trước, tuy hành ư hỉ nhi quán khổ chúng sanh tâm thường ai mẩn, tuy hành ư xả nhi bất phế xả lợi ích tha sự giả chi sở trụ xứ;
thị tuy hành cửu thứ đệ định nhi bất yếm ly dục giới thọ sanh, tuy tri nhất thiết pháp vô sanh vô diệt nhi bất ư thật tế tác chứng, tuy nhập tam giải thoát môn nhi bất thủ Thanh văn giải thoát, tuy quán tứ thánh đế nhi bất trụ Tiểu thừa Thánh quả, tuy quán thậm thâm duyên khởi nhi bất trụ cứu cánh tịch diệt, tuy tu bát Thánh đạo nhi bất cầu vĩnh xuất thế gian, tuy siêu phàm phu địa nhi bất đọa Thanh văn, Bích Chi Phật địa, tuy quán ngũ thủ uẩn nhi bất vĩnh diệt chư uẩn, tuy siêu xuất tứ ma nhi bất phân biệt chư ma, tuy bất trước lục xứ nhi bất vĩnh diệt lục xứ, tuy an trụ chân như nhi bất đọa thật tế, tuy thuyết nhất thiết thừa nhi bất xả Đại-Thừa.
Là chỗ ở của bậc dầu thật hành hạnh từ mà không ái luyến chúng-sanh, dầu thật hành hạnh bi mà không chấp trước chúng-sanh, dầu thật hành hạnh hỉ mà thường ai mẫn chúng-sanh khổ, dầu thật hành hạnh xả mà chẳng bỏ sự lợi ích cho người khác.
Là chỗ ở của bậc dầu hành cửu thứ-đệ-định mà chẳng nhàm lìa thọ sanh dục-giới, dầu biết tất cả pháp vô sanh vô diệt mà chẳng tác chứng nơi thiệt-tế, dầu nhập ba môn giải-thoát mà chẳng lấy quả giải-thoát của Thanh-Văn, dầu quán tứ thánh-đế mà chẳng trụ quả tiểu-thừa, dầu quán duyên khởi thậm-thâm mà chẳng trụ rốt ráo tịch-diệt, dầu tu bát thánh-đạo mà chẳng cầu thoát hẳn thế-gian, dầu siêu phàm-phu-địa mà chẳng sa Thanh-Văn Bích-Chi-Phật-Ðịa, dầu quán ngũ-thủ-uẩn mà chẳng diệt hẳn các uẩn, dầu siêu-xuất tứ ma mà chẳng phân biệt các ma, dầu chẳng chấp lục xứ mà chẳng dứt hẳn lục xứ, dầu an-trụ chân-như mà chẳng đọa thiệt-tế, dầu nói tất cả thừa mà chẳng bỏ đại-thừa.
Giảng: Đây là chỗ trụ của bậc đại Bồ Tát, tuy tu hành hạnh tâm từ, mà đối với các chúng sinh không chấp trước ái luyến. Tuy tu hành hạnh tâm bi, mà đối với các chúng sinh không có tư tưởng chấp lấy. Tuy tu hành hạnh tâm hỉ, mà quán thấy chúng sinh khổ, tâm thường thương xót. Tuy tu hành hạnh tâm xả, mà chẳng xả bỏ việc lợi ích người khác.
Đại Bồ Tát trụ ở trong đại lầu các nầy, tuy Ngài tu hành chín định thứ lớp (Tứ thiền, tứ không, diệt tận định), mà chẳng nhàm lìa cảnh giới thọ sinh trong dục giới. Tuy biết tất cả pháp không sinh không diệt, do đó có câu : « Các pháp từ xưa nay, thường tự tướng tịch diệt », vì chẳng sinh, chẳng diệt, cho nên là tướng tịch diệt, mà chẳng ở nơi thật tế lý thể tác chứng, tức cũng là chẳng chứng quả. Tuy vào ba môn giải thoát (không giải thoát, vô tướng giải thoát, vô nguyện giải thoát), mà chẳng thủ giải thoát Thanh Văn (A La Hán) nầy. Tuy quán pháp bốn Thánh đế (Khổ tập diệt đạo), mà chẳng trụ quả Thánh tiểu thừa (Thanh Văn, Bích Chi Phật). Tuy quán pháp duyên khởi thâm sâu (pháp 12 nhân duyên), mà chẳng trụ nơi tịch diệt rốt ráo. Tuy tu pháp tám Thánh đạo (Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định), mà chẳng cầu vĩnh viễn thoát khỏi thế gian. Tuy vượt qua bậc phàm phu, mà chẳng rơi vào bậc Thanh Văn Bích Chi Phật. Tuy quán pháp năm thủ uẩn (sắc thọ tưởng hành thức), mà chẳng vĩnh diệt các uẩn. Tuy vượt qua bốn ma (Thiên ma, phiền não ma, ấm ma, tử ma), mà chẳng phân biệt các ma. Tuy chẳng chấp sáu xứ (mắt tai mũi lưỡi thân ý), mà cũng chẳng vĩnh diệt sáu xứ. Tuy an trụ chân như thật tướng lý thể, mà chẳng rơi vào thật tế, cũng chẳng chấp trước. Tuy nói tất cả thừa, mà chẳng bỏ đại thừa.
Thử Đại lâu các, thị trụ như thị đẳng nhất thiết chư công đức giả chi sở trụ xứ.
Đại lầu các nầy, là chỗ trụ xứ của bậc có tất cả các công đức như vậy.
Giảng: Đại lầu các nầy, là chỗ trụ xứ của bậc đại Bồ Tát có tất cả các công đức như vậy.
Nhĩ thời, Thiện tài đồng tử nhi thuyết tụng ngôn:
Bấy giờ Thiện-Tài nói kệ rằng:
Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử nói xong Kinh trường hàng ở trên rồi, lại dùng năm mươi lăm bài kệ để nói rõ đạo lý nầy. Ba mươi bốn bài kệ đầu, đều dùng bảy chữ, cử đức hoan xứ. Hai mươi mốt bài kệ sau, dùng nằm chữ, chỉ xứ minh đức.
Thử thị đại bi thanh tịnh trí, Lâu các đây là chỗ ở của
Lợi ích thế gian từ thị tôn, Ðức Từ-Thị lợi ích thế-gian
Quán đảnh địa trung Phật trưởng tử, Quán-đảnh đại-bi thanh-tịnh-trí
Nhập Như Lai cảnh chi trụ xứ. Pháp-Vương-Tử nhập Như-Lai cảnh.
Đây là Bồ Tát đại từ đại bi thanh tịnh trí huệ, Ngài lợi ích tất cả chúng sinh thế gian. Ngài là ai ? Tức là đấng Từ Thị Vô Năng Thắng. Mỗi vị Bồ Tát trước khi chưa thành Phật, nhất định phải được thọ ký. Trước khi sắp thành Phật, nhất định phải được chư Phật quán đảnh. Bồ Tát thọ quán đảnh rồi, gọi là bậc Pháp Vương, tức cũng là còn một đời cuối cùng nữa sẽ thành Phật. Vị Bồ Tát Từ Thị nầy, Ngài là trưởng tử của Phật, trưởng tử tức là đại đệ tử thứ nhất của Phật. Ngài đã chứng được cảnh giới của Phật, trụ ở chỗ trụ của Phật. Đại lầu các báu nầy, là chỗ trụ xứ của vị Đương Lai Hạ Sinh Di Lặc Tôn Phật.
Nhất thiết danh văn chư Phật tử, Tất cả Phật-tử có tiếng tăm
Dĩ nhập Đại-Thừa giải thoát môn, Ðã nhập môn giải-thoát đại thừa
Du hành Pháp giới tâm Vô Trước, Du hành pháp-giới tâm không nhiễm
Thử vô đẳng giả chi trụ xứ. Bậc vô-đẳng ở lâu các nầy.
Tiếng tăm của Ngài xa gần đều biết, Ngài vang danh nhất trong hàng đệ tử của tất cả chư Phật. Ngài đã chứng nhập môn giải thoát đại thừa. Ngài hay hoá thân trăm ngàn vạn ức, du hành tận hư không khắp pháp giới, nhưng tâm không chấp trước. Đây chỗ ở của bậc đại Bồ Tát không ai bằng được.
Hai bài kệ ở trên là khen tổng quát, một tóm lược về hạnh vị, một tóm lược về danh đức.
Thí giới nhẫn tiến Thiền trí tuệ, Thí, giới, nhẫn, tấn, thiền, trí, huệ,
Phương tiện nguyện lực cập thần thông, Phương-tiện, nguyện, lực và thần thông
Như thị Đại-Thừa chư độ Pháp, Những bậc đầy đủ đại-thừa-hạnh
Tất cụ túc giả chi trụ xứ. Mười ba-la-mật ở lầu nầy.
Đầy đủ bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ, phương tiện, nguyện, lực và thần thông, đây là chỗ ở của bậc đại Bồ Tát đầy đủ pháp đại thừa các độ.
Trí tuệ quảng đại như hư không, Trí-huệ rộng lớn như hư-không
Phổ tri tam thế nhất thiết pháp, Khắp biết tam thế tất cả pháp
Vô ngại vô y vô sở thủ, Vô-ngại, vô-y, không chấp lấy
Liễu chư hữu giả chi trụ xứ. Biết rõ các cõi ở lầu nầy.
Vị đại Bồ Tát nầy, trí huệ của Ngài rộng lớn như hư không, chẳng có gì mà không bao dung. Biết khắp tất cả pháp thứ lớp ba đời quá khứ, vị lai, hiện tại, cũng không chướng ngại, cũng không nương tựa, cũng không chấp lấy. Đây là chỗ ở của bậc đại Bồ Tát thấu rõ tam giới hai mươi lăm cõi.
Thiện năng giải liễu nhất thiết pháp, Khéo biết rõ được tất cả pháp
Vô tánh vô sanh vô sở y, Không tánh, không sanh, không sở-y
Như điểu phi không đắc tự tại, Như chim bay không, được tự-tại
Thử Đại trí giả chi trụ xứ. Bậc có đại-trí ở lầu nầy.
Khéo hiểu rõ được tất cả pháp, cũng không tánh, cũng không sinh, cũng không chỗ nương tựa. Giống như chim bay lượn ở trong hư không, tuy không có dấu vết, nhưng rất là tự tại. Đây là chỗ ở của bậc đại Bồ Tát có đại trí huệ.
Liễu tri tam độc chân thật tánh, Biết rõ phiền-não chân-thật-tánh
Phân biệt nhân duyên hư vọng khởi, Phân-biệt nhơn-duyên hư-vọng khởi
Diệc bất yếm bỉ nhi cầu xuất, Cũng chẳng nhàm nó mà cầu ra
Thử tịch tĩnh nhân chi trụ xứ. Lầu nầy của bậc tịch-tịnh ở.
Biết rõ tánh chân thật của ba độc tham, sân, si, lại phân biệt được pháp nhân duyên, là do hư vọng mà sinh, do hư vọng mà diệt. Nhưng cũng chẳng nhàm mỏi tam giới như nhà lửa mà cầu thoát khỏi, đây là chỗ ở của bậc đại Bồ Tát tánh định ma phục triều triều lạc, vọng niệm chẳng sinh xứ xứ an.
Tam giải thoát môn bát Thánh đạo, Ba môn giải-thoát, tám thánh-đạo
Chư uẩn xứ giới cập duyên khởi, Các uẩn, xứ, giới và duyên-khởi
Tất năng quan sát bất thú tịch, Ðều hay quán-sát chẳng nhập diệt
Thử thiện xảo nhân chi trụ xứ. Bậc thiện-xảo đây ở lầu nầy.
Đã chứng được ba môn giải thoát, tám Thánh đạo, năm uẩn, sáu xứ, mười tám giới và mười hai nhân duyên. Pháp duyên khởi nầy hoàn toàn quán sát được, khéo vận dụng, chẳng thú hướng tịch diệt. Đây là chỗ ở của bậc đại Bồ Tát thiện xảo phương tiện.
Thập phương quốc độ cập chúng sanh, Mười phương quốc-độ và chúng-sanh
Dĩ vô ngại trí hàm quan sát, Dùng trí vô-ngại đều quán-sát
Liễu tánh giai không bất phân biệt, Biết tánh đều không chẳng phân biệt
Thử tịch diệt nhân chi trụ xứ. Bậc chứng tịch-diệt ở lầu nầy.
Mười phương cõi nước chư Phật và tất cả chúng sinh, dùng mắt trí huệ vô ngại quán sát khắp, thấu rõ tánh tất cả pháp đều là không, chẳng sinh tâm phân biệt. Đây chỗ ở của bậc đại Bồ Tát tịch diệt.
Phổ hạnh Pháp giới tất vô ngại, Ði khắp pháp-giới đều vô-ngại
Nhi cầu hạnh tánh bất khả đắc, Mà cầu tánh đi chẳng thể được
Như phong hạnh không vô sở hạnh, Như gió trong không chẳng chỗ đi
Thử vô y giả chi trụ xứ. Lầu nầy của bậc vô-y ở.
Đi khắp mười phương pháp giới, đều không chướng ngại, mà cầu pháp tánh tu hành không thể được. Như gió đi ở trong hư không, nhìn chẳng thấy dấu tích đã đi qua. Đây chỗ ở của bậc không nương tựa.
Phổ kiến ác đạo quần sanh loại, Thấy khắp ác-đạo loài quần-sanh
Thọ chư sở độc vô sở quy, Chịu những khổ độc không nơi về
Phóng Đại từ quang tất trừ diệt, Phóng đại-từ-quang đều trừ diệt
Thử ai mẩn giả chi trụ xứ. Lầu nầy của bậc từ-mẫn ở.
Thấy khắp tất cả chúng sinh ở trong ba đường ác, thọ tất cả khổ độc, không có chỗ quay về. Vị Bồ Tát nầy phóng ra quang minh đại từ, đều trừ diệt khổ của tất cả chúng sinh đang thọ ở trong ba đường ác. Đây là chỗ ở của bậc đại Bồ Tát thương xót chúng sinh.
Kiến chư chúng sanh thất chánh đạo, Thấy các chúng-sanh mất chánh-đạo
Thí như sanh manh tiễn úy đồ, Như kẻ đui mù đi đường hiểm
Dẫn kỳ lệnh nhập giải thoát thành, Dẫn họ vào thẳng thành giải-thoát
Thử đại đạo sư chi trụ xứ. Lầu nầy của bậc Ðạo-Sư ở.
Thấy tất cả chúng sinh đều mất đi chánh đạo. Giống như người sinh mù, khi đi đường rất sợ hãi, chẳng biết đâu là con đường chân chánh. Vị Bồ Tát nầy dẫn đường họ, khiến cho họ vào thành giải thoát. Đây là chỗ ở của bậc đại Bồ Tát đại Đạo sư trời người.
Kiến chư chúng sanh nhập ma võng, Thấy các chúng-sanh vào lưới ma
Sanh lão bệnh tử thường bức bách, Sanh lão bệnh tử thường bức bách
Lệnh kỳ giải thoát đắc úy an, Cứu họ thoát khổ được an vui
Thử dũng kiện nhân chi trụ xứ. Lầu nầy của bậc dũng-kiện ở.
Thấy tất cả chúng sinh đều vào trong lưới ma, sinh già bệnh chết bốn khổ lớn luôn luôn bức bách họ. Vị Bồ Tát nầy, hay khiến cho họ đắc được giải thoát và an vui. Đây là chỗ ở của bậc đại Bồ Tát đại Dũng kiện.
Kiến chư chúng sanh anh hoặc bệnh, Thấy các chúng-sanh mang phiền-não
Nhi hưng quảng đại bi mẫn tâm, Nên sanh lòng bi-mẫn quảng đại
Dĩ trí tuệ dược tất trừ diệt, Dùng thuốc trí-huệ đều trừ diệt
Thử đại y vương chi trụ xứ. Lầu nầy của bậc y-vương ở.
Thấy tất cả chúng sinh đều bị bệnh mê hoặc. Vị Bồ Tát nầy, khởi tâm thương xót rộng lớn, dùng thuốc hay trí huệ đều trừ diệt hết sạch tật bệnh của chúng sinh. Đây là chỗ ở của bậc đại Bồ Tát đại Y vương.
Kiến chư quần sanh một hữu hải Thấy các quần-sanh chìm biển khổ
Trầm luân ưu bách thọ chúng khổ, Nổi trôi chịu bao sanh tử khổ
Tất dĩ pháp thuyền nhi cứu chi, Ðều dùng pháp-thuyền cứu vớt họ
Thử thiện độ giả chi trụ xứ. Lầu nầy của bậc khéo độ ở.
Thấy tất cả chúng sinh đều chìm đắm ở trong biển cõi dục, cõi sắc, cõi vô sắc. Trầm luân ở trong ba đường ác, lo sợ thọ các khổ. Vị Bồ Tát nầy, đều dùng thuyền pháp cứu họ thoát khỏi biển khổ. Đây là chỗ ở của bậc đại Bồ Tát khéo độ chúng sinh.
Kiến chư chúng sanh tại hoặc hải, Thấy các chúng-sanh tại phiền-não
Năng phát Bồ-đề diệu bảo tâm, Hay phát tâm bồ-đề diệu-bửu
Tất nhập kỳ trung nhi tế bạt, Ðều vào trong đó để cứu họ
Thử thiện ngư nhân chi trụ xứ. Lầu nầy của bậc khéo vớt ở.
Thấy tất cả chúng sinh ở trong biển mê hoặc. Vị Bồ Tát nầy phát tâm bồ đề diệu báu, vào trong biển khổ để cứu họ thoát khỏi biển khổ. Đây là chỗ ở của bậc đại Bồ Tát khéo cứu vớt chúng sinh.
Hằng dĩ đại nguyện từ bi nhãn Hằng dùng cập mắt đại từ-bi
Phổ quán nhất thiết chư chúng sanh, Quán khắp tất cả các chúng-sanh
Tùng chư hữu hải nhi bạt xuất, Cứu họ thoát khỏi biển sanh tử
Thử kim sí Vương chi trụ xứ. Lầu nầy của Kim-Sí-Vương ở.
Vị đại Bồ Tát nầy, Ngài luôn dùng đại nguyện mắt từ bi, quán sát khắp tất cả các chúng sinh, từ trong biển tam giới hai mươi lăm cõi, mà cứu họ thoát ra. Đây là chỗ ở của bậc đại Bồ Tát Kim Sí Điểu Vương.
Thí như nhật nguyệt tại hư không, Như vầng nhật nguyệt tại hư-không
Nhất thiết thế gian mị bất chúc, Tất cả thế-gian được soi sáng
Trí tuệ quang minh diệc như thị, Ánh sáng trí-huệ cũng như vậy
Thử chiếu thế giả chi trụ xứ. Lầu nầy của bậc Chiếu-Thế ở.
Vị đại Bồ Tát nầy, Ngài giống như mặt trời mặt trăng ở trong hư không, tất cả thế gian đều được ánh sáng mặt trời mặt trăng chiếu sáng khắp, chẳng có chỗ nào mà chẳng chiếu đến, trí huệ quang minh cũng như vậy. Đây là chỗ ở của bậc đại Bồ Tát đèn sáng chiếu thế gian.
Bồ Tát vi hóa nhất chúng sanh, Bồ-Tát vì độ một chúng-sanh
Phổ tận vị lai vô lượng kiếp, Khắp cả vị-lai vô-lượng kiếp
Như vi nhất nhân nhất thiết nhĩ, Vì độ tất cả cũng như vậy
Thử cứu thế giả chi trụ xứ. Lầu nầy của bậc Cứu-Thế ở.
Bồ Tát vì giáo hoá một chúng sinh, trải qua đời đời kiếp kiếp, vô lượng thời gian vô lượng kiếp để giáo hoá họ, khắp thuở vị lai vô lượng kiếp cũng không ngừng nghỉ, giáo hoá một chúng sinh là như thế, giáo hoá tất cả chúng sinh cũng như vậy. Đây là chỗ ở của bậc đại Bồ Tát đấng từ tôn cứu thế.
Ư nhất quốc độ hóa chúng sanh, Tại một quốc-độ cứu chúng-sanh
Tận vị lai kiếp vô hưu tức, Tận vị-lai kiếp không thôi nghĩ
Nhất nhất quốc độ hàm như thị, Mỗi mỗi quốc-độ đều như vậy
Thử kiên cố ý chi trụ xứ. Lầu nầy của bậc kiên-cố ở.
Ở trong một cõi nước giáo hoá tất cả chúng sinh, hết kiếp thuở vị lai cũng không ngừng nghỉ. Một cõi nước là như thế, tất cả cõi nước cũng đều như thế. Đây là chỗ ở của bậc đại Bồ Tát ý nguyện kiên cố.
Thập phương chư Phật sở thuyết pháp, Chánh-pháp của chư Phật diễn nói
Nhất tọa phổ thọ hàm lệnh tận, Bồ-Tát nghe lãnh đều khắp hết
Tận vị lai kiếp hằng tất nhiên, Suốt kiếp vị-lai đều vậy cả
Thử trí hải nhân chi trụ xứ. Lầu nầy của bậc trí-hải ở.
Pháp của mười phương ba đời tất cả chư Phật nói, pháp tại một toà nói, khắp khiến cho chúng sinh tin thọ, đều minh bạch được, đều khiến cho cùng tận, dù hết kiếp thuở vị lai cũng đều như thế. Đây là chỗ ở của bậc đại Bồ Tát đầy đủ biển trí huệ.
Biến du nhất thiết thế giới hải, Ði khắp tất cả thế-giới-hải
Phổ nhập nhất thiết đạo tràng hải, Vào khắp tất cả đạo tràng-hải
Cúng dường nhất thiết Như Lai hải, Cúng-dường tất cả như-lai-hải
Thử tu hành giả chi trụ xứ. Lầu nầy của bậc tu hành ở.
Du hành khắp tất cả biển thế giới, vào khắp biển đạo tràng của tất cả chư Phật. Cúng dường tất cả biển chư Phật. Đây là chỗ ở của bậc đại Bồ Tát tu hành Bồ Tát đạo. Ý nghĩa biển là hình dung rộng lớn không bờ mé.
Tu hành nhất thiết diệu hạnh hải, Tu hành tất cả diệu-hạnh-hải
Phát khởi vô biên Đại nguyện hải, Phát khởi vô-biên đại-nguyện-hải
Như thị Kinh ư chúng kiếp hải, Như vậy trải qua những kiếp-hải
Thử công đức giả chi trụ xứ. Lầu nầy của bậc công-đức ở.
Tu hành tất cả biển diệu hạnh không thể nghĩ bàn, phát khởi vô biên biển đại nguyện, như vậy trải qua vô lượng biển đại kiếp. Đây là chỗ ở của bậc đại Bồ Tát đầy đủ công đức Bồ Tát hạnh.
Nhất mao đoan xứ vô lượng sát, Chỗ một đầu lông vô-lượng cõi
Phật chúng sanh kiếp bất khả thuyết, Phật, chúng-sanh, kiếp bất-khả-thuyết
Như thị minh kiến mị bất châu, Thấy rõ như vậy đều cùng khắp
Thử vô ngại nhãn chi trụ xứ. Lầu nầy của bậc vô-ngại-nhãn.
Nơi một lỗ chân lông, có vô lượng cõi nước, vô lượng chư Phật, vô lượng chúng sinh, vô lượng số kiếp, đều bất khả thuyết. Cảnh giới như vậy đều thấy rõ, đều khắp cùng. Đây là chỗ ở của đại Bồ Tát mắt vô ngại.
Nhất niệm phổ nhiếp vô biên kiếp, Một niệm nhiếp khắp vô-biên kiếp
Quốc độ chư Phật cập chúng sanh, Quốc-độ, chư Phật và chúng-sanh
Trí tuệ vô ngại tất chánh tri, Trí-huệ vô-ngại đều chánh biết
Thử cụ đức nhân chi trụ xứ. Lầu nầy của bậc đủ đức ở.
Trong khoảng một niệm, có thể nhiếp khắp vô lượng kiếp, vô biên cõi nước, vô biên chư Phật, vô biên chúng sinh. Trí huệ vô ngại đều hoàn toàn chánh tri chánh kiến. Đây là chỗ ở của bậc đại Bồ Tát đầy đủ biển công đức.
Thập phương quốc độ toái vi trần, Mười phương quốc-độ nghiền làm bụi
Nhất thiết đại hải dĩ mao tích, Tất cả đại-hải cùng lông chấm
Bồ Tát phát nguyện số như thị, Bồ-Tát phát nguyện số như vậy
Thử vô ngại giả chi trụ xứ. Lầu nầy của bậc vô-ngại ở.
Mười phương hết thảy cõi nước đều nghiền nát thành bụi. Tất cả nước biển dùng sợi lông chấm nước cho đến khi cạn hết. Bồ Tát phát nguyện số cũng lại như vậy. Đây là chỗ ở của bậc đại Bồ Tát vô ngại.
Thành tựu tổng trì tam muội môn, Thành-tựu tổng-trì môn tam-muội
Đại nguyện chư Thiền cập giải thoát, Ðại nguyện thiền-định và giải thoát
Nhất nhất giai trụ vô biên kiếp, Mỗi mỗi đều trụ vô-biên kiếp
Thử chân Phật tử chi trụ xứ. Lầu nầy của bậc chân Phật-Tử.
Thành tựu pháp môn tổng trì tam muội, đại nguyện phát ra, sở tu thiền định, giải thoát chứng được, mỗi thứ đều trụ vô biên đại kiếp. Đây là chỗ ở của đại Bồ Tát chân chánh để tử Phật.
Vô lượng vô biên chư Phật tử, Vô-lượng vô-biên các Phật-Tử
Chủng chủng thuyết Pháp độ chúng sanh, Luôn luôn thuyết pháp độ chúng-sanh
Diệc thuyết thế gian chúng kĩ thuật, Cũng nói thế-gian các kỹ-thuật
Thử tu hành giả chi trụ xứ. Lầu nầy của bậc tu hành ở.
Có vô lượng vô biên các đệ tử của Phật, dùng đủ thứ pháp môn phương tiện khéo léo để thuyết pháp, cứu độ tất cả chúng sinh, cũng nói tất cả kỹ thuật và số lý thế gian. Đây là chỗ ở của bậc đại Bồ Tát tu hành Bồ Tát hạnh.
Thành tựu thần thông phương tiện trí, Thành-tựu thần-thông trí phương-tiện
Tu hành như huyễn diệu Pháp môn, Tu hành như huyễn diệu-pháp-môn
Thập phương ngũ thú tất hiện sanh Mười phương ngũ thú đều hiện sanh
Thử vô ngại giả chi trụ xứ. Lầu nầy của bậc vô-ngại ở.
Thành tựu tất cả thần thông phương tiện trí huệ, tu hành diệu pháp môn như huyễn tam muội. Thị hiện thọ sinh trong biển năm cõi, nhiều như số hạt bụi trong mười phương, để giáo hoá tất cả chúng sinh, để điều phục tất cả chúng sinh, cho nên từ cõi Thường Tịch Quang Tịnh Độ đến năm cõi tạp cư địa. Đây là tinh thần của Bồ Tát xả mình vì người, chúng ta nên “kiến hiền tư tề” (thấy người khác giỏi thì nên cô gắng làm cho bằng họ), học tập theo Bồ Tát mới đúng. Đây là chỗ ở của bậc đại Bồ Tát vô ngại.
Bồ Tát thủy tòng sơ phát tâm, Bồ-Tát bắt đầu sơ-phát-tâm
Cụ túc tu hành nhất thiết hành, Tu hành đầy đủ tất cả hạnh
Hóa thân vô lượng biến Pháp giới, Hoá-thân vô-lượng khắp pháp-giới
Thử thần lực giả chi trụ xứ. Lầu nầy của bậc thần-lực ở.
Bồ Tát thuở xưa từ lúc ban đầu phát tâm, thì tu hành đầy đủ tất cả hạnh môn, hoá thân nhiều vô lượng vô biên khắp pháp giới. Đây là chỗ ở của bậc đại Bồ Tát có đại thần thông lực.
Nhất niệm thành tựu Bồ-đề đạo, Một niệm thành-tựu đạo bồ-đề
Phổ tác vô biên trí tuệ nghiệp, Làm khắp vô-biên hạnh trí-huệ
Thế Tình tư lự tất phát cuồng, Thế-tình suy toán rối loạn tâm
Thử nan lượng giả chi trụ xứ. Lầu nầy của bậc nan-lượng ở.
Trong khoảng một niệm, có thể thành tựu đạo bồ đề, khắp làm vô biên trí huệ nghiệp. Tất cả tình nghĩ bàn của thế gian thảy đều phát cuồng, đều thuộc về cuồng tâm dã tính. Đây là chỗ ở của bậc đại Bồ Tát khó độ lượng.
Thành tựu thần thông vô chướng ngại, Thành-tựu thần-thông không chướng-ngại
Du hành Pháp giới mị bất châu, Du hành pháp-giới đều cùng khắp
Kỳ tâm vị vô hữu sở đắc, Nơi tâm chưa từng có sở-đắc
Thử tịnh tuệ giả chi trụ xứ. Lầu nầy của bậc tịnh-huệ ở.
Thành tựu tất cả thần thông không chướng ngại, du hành pháp giới đều khắp cùng, nơi tâm chưa từng có sở đắc. Đây là chỗ ở của bậc đại Bồ Tát có trí huệ thanh tịnh.
Bồ Tát tu hành vô ngại tuệ, Bồ-Tát tu hành huệ vô-ngại
Nhập chư quốc độ vô sở trước, Vào các quốc-độ không nhiễm trước
Dĩ vô nhị trí phổ chiếu minh, Dùng trí vô-nhị chiếu khắp nơi
Thử vô ngã giả chi trụ xứ. Lầu nầy của bậc vô-ngã ở.
Bồ Tát tu hành trí huệ vô ngại, đi đến các cõi nước chư Phật cũng không có sự chấp trước. Dùng trí huệ quang minh không hai, chiếu sáng khắp pháp giới. Đây là chỗ ở của bậc đại Bồ Tát vô ngã.
Liễu tri chư Pháp vô y chỉ, Biết rõ các pháp không y-chỉ.
ổn tánh tịch diệt đồng hư không, Bổn-tánh tịch-diệt đồng hư-không
Thường hành như thị cảnh giới trung, Thường đi trong cảnh-giới như vậy
Thử ly cấu nhân chi trụ xứ. Lầu nầy của bậc ly-cấu ở.
Biết rõ tất cả các pháp đều không chỗ y chỉ, bản tánh của pháp vốn là tịch diệt, đồng như hư không, thường hành trong cảnh giới như vậy. Đây là chỗ ở của bậc đại Bồ Tát ly cấu.
Phổ kiến quần sanh thọ chư khổ, Thấy khắp quần-sanh chịu khốn khổ
Phát đại nhân từ trí tuệ tâm, Pháp tâm nhơn từ đại trí-huệ
Nguyện thường lợi ích chư thế gian, Nguyện thường lợi ích các thế-gian
Thử bi mẫn giả chi trụ xứ. Lầu nầy của bậc bi mẫn ở.
Thấy khắp tất cả chúng sinh thọ các khổ độc, bèn phát tâm đại nhân từ và tâm đại trí huệ, nguyện thường lợi ích hết thảy chúng sinh thế gian. Đây là chỗ ở của bậc đại Bồ Tát thương xót chúng sinh.
Ba mươi hai bài kệ ở trên phân làm bốn đoạn:
1. Có bảy bài kệ, tóm lược tự lợi hạnh thắng.
2. Có mười bài kệ, khen lợi tha hạnh thắng.
3. Có tám bài kệ, khen công đức thắng.
4. Có bảy bài kệ, khen phương tiện thắng.
Chúng ta xuất gia tu đạo, lúc nào cũng phải nhiếp trì thân tâm, không thể tuỳ tiện phóng dật. Ở trong đạo tràng tu hành, một ngày mà không tiến bộ thì sẽ thối lùi, do đó:
“Một ngày không lỗi để sửa,
Là một ngày không có công lao để tiến tới”.
Người xuất gia phải nghiêm trì bốn đại oai nghi đi đứng nằm ngồi, do đó có câu:
“Hành như phong
Toạ như chung
Lập như tùng
Ngoạ như cung”.
Khi đi thì như gió thoảng, sóng nước không sinh, chẳng phải đi như cuồng phong, làm cho sóng biển nổi dậy ầm ầm. Khi ngồi thì an ổn như đại hồng chung, đừng giống như hồng chung ngã lăn không ổn định, lăn qua, lăn lại không ngừng. Khi đứng thì thân ngay thẳng, giống như cây tùng, đứng vững vàng, không nương tựa vào vật gì hết. Khi nằm thì phải nằm tư thế cát tường, nằm nghiêng về bên phải, tư thế như cây cung. Người xuất gia phải đặc biệt chú ý bốn đại oai nghi nầy.
Người xuất gia không thể ăn nói hàm hồ, khi nói thì phải trịnh trọng sự việc, không thể không cẩn thận lời nói, làm gương mẫu cho mọi người ở mọi nơi. Không thể nói cười đùa giỡn hô hố, như vậy là không giữ gìn quy luật trong đạo tràng. Hành vi cười nói hô hố, nếu ngoại đạo mà thấy được, thì họ sẽ phê bình người xuất gia của Vạn Phật Thành, không giữ quy cụ, như vậy thì làm sao mà tu đạo? làm sao mà thành tựu? Đừng vì một hai người không giữ quy cụ, mà phá hoại danh dự của Vạn Phật Thành. Vạn Phật Thánh Thành là ngọn đèn sáng của Phật giáo thế giới, mọi người nhất cử nhất động, lời nói việc làm, đều phải đặc biệt cẩn thận.
Xuất gia tu đạo, lúc nào cũng phải quản lý chính mình, đừng cứ khởi vọng tưởng. Dù là vọng tưởng tốt, hoặc vọng tưởng xấu, đều phải thu thập cho sạch sẽ. Do đó có câu: “Một niệm không sinh”, đến được cảnh giới nầy, thì sẽ tương ưng với đạo, tin tức tốt sẽ đến. Nếu cứ khởi những vọng tưởng vô ích, thì tuy thân ở chỗ tịch tĩnh, nhưng tâm thì ở chỗ ồn ào, như vậy thì làm sao mà dụng công tu đạo? Làm sao mà có sự thành tựu? Như vậy chỉ lãng phí thời gian, chứ chẳng phải là tu đạo. Người chân chánh tu đạo, thì tuyệt đối không khởi vọng tưởng. Vọng tưởng là sự chướng ngại, chướng ngại bạn không tiến bộ được, dễ sinh tâm thối lùi.
Bất cứ người xuất gia, hoặc là người tại gia, chẳng có việc quan trọng gì, thì không thể vào liêu phòng người khác. Bạn đến liêu phòng tôi nói chuyện chơi, tôi sẽ đến liêu phòng bạn uống trà, chỉ phí thời gian luống qua. Bạn chẳng tu hành cũng được, nhưng đừng chướng ngại người khác tu hành, bằng không, tương lai sẽ đoạ vào địa ngục vô gián, khó ra khỏi được. Đã phát tâm tu đạo, thì phải chuyên tâm nhất chí, đối với thời gian phải thương tiếc, do đó có câu:
“Một tất thời gian là một tất vàng
Tất vàng khó mua được tất thời gian”.
Lại nói:
“Mất đi tất vàng dễ được lại
Thời gian qua rồi khó tìm lại”.
Các vị! Phải thương tiếc thời gian, nhất là người tu đạo, tranh thủ từng giây, từng phút, đừng để lãng phí. Biết đâu rằng trong giấy phút đó, là cơ hội khai ngộ.
Khi ăn cơm đừng có nói chuyện, mỗi ngày khi ăn cơm chúng ta đều đọc là: “Tán tâm tạp thoại, tín thí nan tiêu”, nghĩa là: “Nói chuyện tâm tán loạn, thì của đàn na khó tiêu”, đã đọc như vậy, thì tại sao không giữ quy cụ? Do đó có câu: “Không có quy cụ thì khó thành vuông tròn”. Không giữ quy cụ, thì làm sao có trí huệ? Làm sao được khai ngộ? Đức Khổng Tử đã từng nói: “Tẩm bất ngôn, thực bất ngữ”. Nghĩa là: “Ngủ không nói, ăn không nói”. Khi chúng ta dùng cơm ở trai đường, đừng có gây tiếng ồn, chỉ có tiếng ăn cơm, như vậy chẳng những hợp với quy cụ, mà cũng hợp vệ sinh nữa. Ăn từ từ nhai kỹ càng, thì dễ tiêu hoá, cũng có lợi ích cho thân tâm nữa.
Phật tử trụ ư thử, Phật-Tử ở lầu nầy
Phổ hiện chúng sanh tiền, Hiện khắp chỗ chúng-sanh
Do như nhật nguyệt luân, Dường như vầng nhật nguyệt
Biến trừ sanh tử ám. Khắp trừ tối thế-gian.
Thiện Tài đồng tử lại nói: Đệ tử của Phật trụ ở trong đại lầu các báu nầy, Ngài thị hiện khắp ở trước chúng sinh chín pháp giới. Giống như ánh sáng mặt trời, mặt trăng, khắp diệt trừ đen tối sinh tử của chúng sinh.
Đệ tử chân chánh của Phật, chẳng còn mọi phiền não, chẳng còn mọi chấp trước, chẳng còn mọi vọng tưởng, đã đạt đến cảnh giới vô lậu, chứng được Vô Dư Niết Bàn. Còn chúng sinh thì có phiền não, có chấp trước, có vọng tưởng, cho nên trôi nổi ở trong sáu nẻo luân hồi, vĩnh viễn không biết lúc nào chấm dứt. Giống như hạt bụi trôi nổi ở trong hư không, lúc lên trời, lúc xuống đất, lúc làm người, lúc làm quỷ, lúc làm A Tu La, lúc làm súc sinh. Theo nghiệp lực sở cảm, mà đi thọ sinh. Đời này họ Trương, đời sau họ Lý, đời sau nữa họ Triệu, hoặc họ Vương, chẳng biết được. Sinh ra rồi chết, chết rồi lại sinh, liên tục không ngừng, cho nên chuyển tới chuyển lui ở trong sáu nẻo, trôi nổi không ngừng.
Phật tử trụ ư thử, Phật-Tử ở lầu nầy
Phổ thuận chúng sanh tâm, Thuận khắp tâm chúng-sanh
Biến hiện vô lượng thân, Biến hiện vô-lượng thân
Sung mãn thập phương sát. Sung-mãn mười phương cõi.
Đệ tử của Phật trụ ở trong đại lầu các báu nầy, Ngài khắp tuỳ thuận tâm tất cả chúng sinh, biến hiện vô lượng vô biên thân, đầy khắp cùng mười phương cõi nước chư Phật. Giáo hoá tất cả chúng sinh, điều phục tất cả chúng sinh, giúp Phật hoằng dương giáo hoá.
Phật tử trụ ư thử, Phật-Tử ở lầu nầy
Biến du chư thế giới, Ði khắp các thế-giới
Nhất thiết Như Lai sở, Tất cả chỗ Như-Lai
Vô lượng vô số kiếp. Vô-lượng vô-số kiếp.
Đệ tử của Phật trụ ở trong đại lầu các báu nầy, Ngài chẳng động bổn xứ mà du khắp mười phương tất cả thế giới, trong hết thảy đạo tràng của chư Phật, tu hành Bồ Tát đạo trong vô lượng vô biên đại kiếp, cứu giúp tất cả chúng sinh.
Phật tử trụ ư thử, Phật-Tử ở lầu nầy
Tư lượng chư Phật Pháp, Tư-lương các phật-pháp
Vô lượng vô số kiếp, Vô-lượng vô-số kiếp
Kỳ tâm vô yếm quyện. Tâm không hề nhàm mỏi.
Đệ tử của Phật trụ ở trong đại lầu các báu nầy, Ngài hay nghĩ lường nghiên cứu tu hành pháp của chư Phật nói. Trải qua vô lượng vô số đại kiếp, tâm Ngài học Phật pháp dũng mãnh tinh tấn, không nhàm mỏi, không giải đãi.
Phật tử trụ ư thử, Phật-Tử ở lầu nầy
Niệm niệm nhập tam muội, Niệm niệm nhập tam-muội
Nhất nhất tam muội môn, Mỗi mỗi môn tam-muội
Xiển minh chư Phật cảnh. Xiển minh cảnh-giới Phật.
Đệ tử của Phật trụ ở trong đại lầu các báu nầy, Ngài ở trong niệm niệm đều vào cảnh giới tam muội. Mỗi pháp môn tam muội, đều xiển minh cảnh giới của mười phương ba đời tất cả chư Phật.
Phật tử trụ ư thử, Phật-Tử ở lầu nầy
Tất tri nhất thiết sát, Ðều biết tất cả cõi
Vô lượng vô số kiếp, Vô-lượng vô-số kiếp
Chúng sanh Phật danh hiệu. Danh-hiệu Phật, chúng-sanh.
Đệ tử của Phật trụ ở trong đại lầu các báu nầy, Ngài đều biết tất cả cõi nước chư Phật, trong vô lượng vô số kiếp, hết thảy chúng sinh và danh hiệu của chư Phật.
Phật tử trụ ư thử, Phật-Tử ở lầu nầy
Nhất niệm nhiếp chư kiếp, Một niệm nhiếp các kiếp
Đãn tùy chúng sanh tâm, Chỉ tùy tâm chúng-sanh
Nhi vô phân biệt tưởng. Mà không lòng phân-biệt.
Đệ tử của Phật trụ ở trong đại lầu các báu nầy, Ngài ở trong một niệm, nhiếp thọ tất cả kiếp, tất cả kiếp làm một niệm, nhưng tuỳ thuận tâm của tất cả chúng sinh, mà không có tưởng phân biệt.
Phật tử trụ ư thử, Phật-Tử ở lầu nầy
Tu tập chư tam muội, Tu tập các tam-muội
Nhất nhất tâm niệm trung, Trong mỗi mỗi tâm-niệm
Liễu tri tam thế Pháp. Biết rõ pháp tam-thế.
Đệ tử của Phật trụ ở trong đại lầu các báu nầy, Ngài tu tập tất cả tam muội, trong mỗi lần khởi tâm động niệm, đều biết rõ tất cả Phật pháp ba đời quá khứ, hiện tại và vị lai.
Phật tử trụ ư thử, Phật-Tử ở lầu nầy
Kiết già thân bất động, Kiết-già thân bất-động
Phổ Hiện-Nhất-Thiết sát, Hiện khắp tất cả cõi
Nhất thiết chư thú trung. Trong tất cả các loài.
Đệ tử của Phật trụ ở trong đại lầu các báu nầy, Ngài ngồi kiết già, thân tâm đều bất động, mà thị hiện khắp tất cả cõi, lại thị hiện khắp ở trong tất cả các loài. Tại sao vậy? Vì giáo hoá tất cả chúng sinh, cho nên hy sinh chính mình, do đó có câu: “Xả mình vì người”.
Phật tử trụ ư thử, Phật-Tử ở lầu nầy
Ẩm chư Phật Pháp hải, Uống nước biển phật-pháp
Thâm nhập trí tuệ hải, Vào sâu biển trí-huệ
Cụ túc công đức hải. Ðầy đủ biển công-đức.
Đệ tử của Phật trụ ở trong đại lầu các báu nầy, nước của Ngài uống là nước biển pháp của chư Phật nói. Ngài vào sâu biển trí huệ của chư Phật, đầy đủ biển công đức của chư Phật.
Phật tử trụ ư thử, Phật-Tử ở lầu nầy
Tất tri chư sát số, Biết rõ số các cõi
Thế số chúng sanh số, Số đời, số chúng-sanh
Phật danh số diệc nhiên. Số phật-danh cũng vậy.
Đệ tử của Phật trụ ở trong đại lầu các báu nầy, Ngài biết được số lượng các cõi của chư Phật. Còn biết số lượng mười phương tất cả thế giới, còn biết số lượng hết thảy chúng sinh, còn biết số lượng danh hiệu của chư Phật, do đó có câu: “Chẳng có gì mà không biết, chẳng có gì mà không thấu”.
Phật tử trụ ư thử, Phật-Tử ở lầu nầy
Nhất niệm tất năng liễu, Một niệm đều biết rõ
Nhất thiết tam thế trung, Trong tất cả tam thế
Quốc độ chi thành hoại. Quốc-độ thành hay hoại.
Đệ tử của Phật trụ ở trong đại lầu các báu nầy, Ngài ở trong khoảng một niệm, đều hoàn toàn thấu rõ, sự thành, trụ, hoại, không, hết thảy cõi nước, trong tất cả ba đời. Thành có hai mươi tiểu kiếp, trụ có hai mươi tiểu kiếp, hoại có hai mươi tiểu kiếp, không có hai mươi tiểu kiếp. Tám mươi tiểu kiếp làm một đại kiếp. Tuổi thọ của trái đất chỉ có thời gian hai mươi tiểu kiếp.
Phật tử trụ ư thử, Phật-Tử ở lầu nầy
Phổ tri Phật hạnh nguyện, Biết rõ hạnh nguyện Phật
Bồ Tát sở tu hành, Bồ-Tát hạnh tu hành
Chúng sanh căn tánh dục. Chúng-sanh căn, tánh, dục.
Đệ tử của Phật trụ ở trong đại lầu các báu nầy, Ngài biết khắp hạnh nguyện của chư Phật tu, lại còn biết hạnh nguyện của của Bồ Tát tu, lại còn biết rõ căn tánh của chúng sinh như thế nào? Dục lạc của chúng sinh ra sao?
Phật tử trụ ư thử, Phật-Tử ở lầu nầy
Kiến nhất vi trần trung, Thấy trong một vị-trần
Vô lượng sát đạo tràng, Vô-lượng cõi đạo-tràng
Chúng sanh cập chư kiếp. Chúng-sanh và các kiếp.
Đệ tử của Phật trụ ở trong đại lầu các báu nầy, con mắt pháp của Ngài thấy rõ ở trong một hạt bụi, có vô lượng đạo tràng biển cõi của chư Phật, có vô lượng chúng sinh, có vô lượng đại kiếp.
Như nhất vi trần nội, Như trong một vi-trần
Nhất thiết trần diệc nhiên, Tất cả trần cũng vậy
Chủng chủng hàm cụ túc, Các thứ đều đầy đủ
Xứ xứ giai vô ngại. Xứ xứ đều vô-ngại.
Chẳng những ở trong một hạt bụi là như thế, có cảnh giới đạo tràng, chúng sinh, đại kiếp, mà ở trong tất cả hạt bụi cũng đều như thế, có cảnh giới đạo tràng, chúng sinh, đại kiếp. Đủ thứ đều đầy đủ, nơi nơi đều vô ngại.
Phật tử trụ ư thử, Phật-Tử trụ ở đây
Phổ quán nhất thiết pháp, Quán khắp tất cả pháp
Chúng sanh sát cập thế, Chúng-sanh, cõi và đời
Vô khởi vô sở hữu. Không sanh, không sở-hữu.
Đệ tử của Phật trụ ở trong đại lầu các báu nầy, Ngài hay quán sát khắp tất cả Phật pháp, tất cả chúng sinh pháp, tất cả cõi nước pháp, tất cả thế giới pháp, vốn thảy đều tịch tĩnh, chẳng khởi, cũng chẳng chỗ có.
Quan sát chúng sanh đẳng, Quán-sát những chúng-sanh
Pháp đẳng Như Lai đẳng, Chánh-pháp và Như-Lai
Sát đẳng chư nguyện đẳng, Quốc-độ cùng chí-nguyện
Tam thế tất bình đẳng. Tam-thế đều bình-đẳng.
Quán sát tất cả chúng sinh bình đẳng, quán sát tất cả các pháp bình đẳng, quán sát tất cả chư Phật bình đẳng, quán sát tất cả cõi nước bình đẳng, quán sát tất cả đại nguyện bình đẳng, quán sát ba đời bình đẳng, chẳng có gì khác biệt.
Phật tử trụ ư thử, Phật-Tử ở lầu nầy
Giáo hóa chư quần sanh, Giáo-hóa các quần-sanh
Cúng dường chư Như Lai, Cúng-dường chư Như-Lai
Tư tánh chư pháp tánh. Tư-duy các pháp-tánh.
Đệ tử của Phật trụ ở trong đại lầu các báu nầy, Ngài hay giáo hoá tất cả chúng sinh, cúng dường tất cả chư Phật, suy gẫm tánh tất cả các pháp, tu hành tất cả pháp môn. Tóm lại, siêng làm Phật sự, không có nhàm mỏi.
Vô lượng thiên vạn kiếp, Vô-lượng ngàn muôn kiếp
Sở tu nguyện trí hành, Tu tập nguyện, trí, hạnh
Quảng đại bất khả lượng, Rộng lớn chẳng thể lường
Xưng dương mạc năng tận. Tán dương chẳng thể hết.
Trong vô lượng ngàn vạn đại kiếp, sở tu đại nguyện và sở tu trí hạnh, đều rộng lớn vô biên không thể dò lường được, dù có khen ngợi cũng chẳng thể cùng tận.
Bỉ chư đại dũng mãnh, Các bậc đại dũng-mãnh
Sở hạnh vô chướng ngại, Chỗ làm không chướng-ngại
An trụ ư thử trung, An trụ ở trong đây
Ngã hợp chưởng kính lễ. Tôi chắp tay kính lễ.
Vị Bồ Tát tất cả đại dũng mãnh nầy, sở hành không chướng ngại, an trụ ở trong đại lầu các báu nầy, con (Thiện Tài đồng tử) chắp tay kính lễ, con dùng tâm chí thành đảnh lễ Ngài.
Chư Phật chi trưởng tử, Trưởng-Tử của chư Phật
Thánh đức từ thị tôn; Ðức Di-Lặc Bồ-Tát
Ngã kim cung kính lễ, Nay tôi cung kính lễ
Nguyện thùy cố niệm ngã! Cúi xin thương tưởng tôi.
Bồ Tát ở trong đại lầu các báu nầy, Ngài là trưởng tử của chư Phật, Ngài có đức hạnh của bậc Thánh nhân, Ngài là đấng Từ Thị (Bồ Tát Di Lặc). Nay con cung kính đảnh lễ, cúi xin đại Bồ Tát từ bi, nghĩ đến con, con xin lắng nghe lời chỉ dạy của Ngài.
Hai mươi mốt bài kệ ở trên, phân làm sáu đoạn:
1. Có hai bài kệ, hạ hoá.
2. Có hai bài kệ, thượng quán.
3. Có năm bài kệ, rõ tam muội tự tại.
4. Có bảy bài kệ, rõ trí huệ sâu rộng.
5. Có một bài kệ, hiển bày sự bình đẳng.
6. Có bốn bài kệ, kết đức thân kính, cầu sự gia trì.
Nhĩ thời, Thiện tài đồng tử dĩ như thị đẳng nhất thiết Bồ Tát vô lượng xưng dương tán thán pháp, nhi tán Tỳ Lô Giá Na trang nghiêm tạng Đại lâu các trung chư Bồ-tát dĩ, khúc cung hợp chưởng, cung kính đảnh lễ, nhất tâm nguyện kiến Di Lặc Bồ-tát thân cận cúng dường; nãi kiến Di lặc Bồ-Tát Ma-ha-tát tùng biệt xứ lai, vô lượng Thiên, long, dạ xoa, Càn thát bà, A-tu-la, Ca Lâu La, khẩn-na-la, Ma hầu la già Vương, thích, phạm, hộ thế, cập bổn sanh xứ vô lượng quyến thuộc, Bà-la-môn chúng, cập dư vô số bách thiên chúng sanh, tiền hậu vi nhiễu nhi cọng lai hướng trang nghiêm tạng Đại lâu quán sở.
Sau khi dùng vô-lượng pháp xưng tán để tán dương chư Bồ-Tát ở trong đại lâu-các Tỳ-Lô-Giá-Na-Trang-Nghiêm, Thiện-Tài cung kính đảnh lễ nhất-tâm nguyện thấy Di-Lặc Bồ-Tát để thân-cận cúng-dường, bèn thấy đức Di-Lặc Bồ-Tát từ chỗ khác đến, vô-lượng Thiện, Long, Bát-Bộ, Ðế-Thích, Phạm-Vương, Tứ-Thiện-Vương cùng vô-lượng thân-quyến và vô-số chúng-sanh theo Di-Lặc Bồ-Tát.
Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử dùng vô lượng pháp tán thán khen ngợi tất cả Bồ Tát như vậy, để khen ngợi các Bồ Tát ở trong đại lầu các Tỳ Lô Giá Na Trang Nghiêm Tạng rồi, khom mình chắp tay, cung kính đảnh lễ, một lòng muốn được thấy Bồ Tát Di Lặc, gần gũi Bồ Tát Di Lặc, cúng dường Bồ Tát Di Lặc, phụng thờ Bồ Tát Di Lặc.
Thiện Tài đồng tử nghĩ như vậy rồi, bèn thấy đại Bồ Tát Di Lặc từ nơi khác đến, có vô lượng chư Thiên Vương, lại có vô lượng Long Vương, có vô lượng Dạ Xoa Vương, có vô lượng Càn Thát Bà Vương, có vô lượng A Tu La Vương, có vô lượng Ca Lâu La Vương, có vô lượng Khẩn Na La Vương, có vô lượng Ma Hầu La Già Vương, lại có Đế Thích Thiên Vương, Đại Phạm Thiên Vương, Hộ Thế Tứ Thiên Vương, và vô lượng quyến thuộc, cùng với chúng Bà La Môn, ngoài ra còn có vô lượng vô số trăm ngàn chúng sinh khác, vây quanh trước sau Bồ Tát Di Lặc, cùng đi đến chỗ đại lầu các báu Tỳ Lô Giá Na Trang Nghiêm Tạng.
Thiện Tài kiến dĩ, hoan hỉ dũng dược, ngũ thể đầu địa. Thời, Di Lặc Bồ-tát quan sát Thiện Tài, chỉ thị Đại chúng, thán kỳ công đức, nhi thuyết tụng viết:
Thiện-Tài vui mừng hớn hở, gieo mình mọp lạy. Di-Lặc Bồ-Tát quan-sát Thiện-Tài, chỉ-thị với đại-chúng về công-đức của Thiện-Tài mà nói kệ rằng:
Giảng: Thiện Tài đồng tử thấy Bồ Tát Di Lặc rồi, hoan hỉ vui mừng hớn hở, năm thể sát đất đảnh lễ Bồ Tát Di Lặc, lắng nghe Ngài khai thị. Lúc đó, Bồ Tát Di Lặc quán sát công đức của Thiện Tài đồng tử đã viên mãn, bèn chỉ thị đại chúng, khen ngợi công đức của Thiện Tài đồng tử, mà nói ra một trăm mười ba bài kệ dưới đây. Bài kệ đầu tiên là chỉ chúng tổng tán, bài kệ cuối cùng là lược bày hậu hữu, ở giữa một trăm mười một bài kệ là biệt tán thắng đức.
Nhữ đẳng quán Thiện Tài, Ðại-chúng xem Thiện-Tài
Trí tuệ tâm thanh tịnh, Tâm trí-huệ thanh-tịnh
Vi cầu Bồ-đề hạnh, Vì cầu hạnh bồ-đề
Nhi lai chí ngã sở. Nên đến lầu của ta.
Bồ Tát Di Lặc nói với đại chúng rằng : Các vị đại chúng hãy quán sát vị Thiện Tài đồng tử nầy! Trí huệ tâm của Thiện Tài rất thanh tịnh, chẳng có tư tưởng nhiễm ô. Thiện Tài vì cầu hạnh bồ đề giác đạo, mà đi đến chỗ ta. Bài kệ ở dưới là giới thiệu hạnh công đức của Thiện Tài đồng tử, nói rõ với đại chúng.
Thiện lai viên mãn từ, Lành thay viên-mãn-từ!
Thiện lai thanh tịnh bi, Lành thay thanh-tịnh-bi!
Thiện lai tịch diệt nhãn, Lành thay tịch-tịch-nhãn!
Tu hành vô giải quyện. Tu hành không lười mỏi.
Lành thay Thiện Tài đồng tử đã viên mãn tâm đại từ, có thanh tịnh đại bi tâm. Đã chứng được mắt tịch diệt, đi đến các nơi học hỏi với các vị thiện tri thức, không khi nào lười mỏi, đều dũng mãnh tinh tấn, chẳng từ mệt nhọc, đi tham phương từng vị từng vị thiện tri thức.
Thiện lai thanh tịnh ý, Lành thay thanh-tịnh ý!
Thiện lai quảng đại tâm, Lành thay quảng-đại-tâm!
Thiện lai bất thoái căn, Lành thay bất-thối-căn!
Tu hành vô giải quyện. Tu hành không lười mỏi.
Lành thay ý của Thiện Tài đã thanh tịnh, có tâm lượng rộng lớn, do đó : « Dọc bao thái hư, ngang khắp pháp giới », đắc được căn lành bất thối chuyển. Khi tu hành thì chỉ có tinh tấn, tuyệt đối không lùi về sau, cũng không giải đãi, cũng không mệt mỏi.
Thiện lai bất động hành, Lành thay bất-động-hạnh!
Thường cầu thiện tri thức, Thường cầu thiện-tri-thức
Liễu đạt nhất thiết pháp, Thấu rõ tất cả pháp
Điều phục chư quần sanh. Ðiều phục các quần-sanh.
Lành thay Thiện Tài đã tu được tâm hạnh bất động, chẳng bị cảnh giới bên ngoài làm lay chuyển, đã đến được trình độ nầy. Thường tìm cầu thiện tri thức, gần gũi thiện tri thức. Đã thấu rõ thông đạt tất cả Phật pháp, điều phục được hết thảy chúng sinh cang cường.
Thiện lai hành diệu đạo, Lành thay hành diệu-đạo!
Thiện lai trụ công đức, Lành thay trụ công-đức!
Thiện lai thú Phật quả, Lành thay xu phật-quả!
Vị tằng hữu bì quyện. Chưa từng có mỏi nhọc
Lành thay Thiện Tài tu hành diệu đạo không thể nghĩ bàn. Trụ ở trong rừng công đức viên mãn nhất. Đã hướng đến Phật quả, sẽ thành Phật. Tuy nhiên tinh tấn chưa từng có tâm mệt mỏi.
Thiện lai đức vi thể, Lành thay đức làm thể
Thiện lai Pháp sở tư, Lành thay pháp tư nhuận
Thiện lai vô biên hành, Lành thay vô-biên-hạnh
Thế gian nan khả kiến. Thế-gian khó được thấy.
Lành thay Thiện Tài dùng đạo đức làm thể, nhờ pháp thấm nhuần mà trưởng thành. Tu vô biên đại hạnh, trên thế gian không dễ gì gặp được công đức nầy, rất là ít có.
Thiện lai ly mê hoặc, Lành thay lìa mê hoặc
Thế Pháp bất năng nhiễm, Thế pháp chẳng nhiễm được
Lợi suy hủy dự đẳng, Lợi, suy, chê, khen thảy
Nhất thiết vô phân biệt. Tất cả không phân biệt.
Lành thay Thiện Tài đã lìa khỏi tất cả mê hoặc, tất cả pháp thế gian không thể nhiễm thân của Thiện Tài được, tất cả dục lạc của thế gian không thể lay động tâm Thiện Tài được. Đối với cảnh giới được mất khen chê .v.v… tám thứ gió nầy đều thổi không lay động thân tâm được. Đối với hết thảy tất cả chẳng có tâm phân biệt, chẳng có tâm chấp trước.
Thiện lai thí an lạc, Lành thay chí an lạc
Điều nhu kham thọ hóa; Ðiều-nhu kham dược độ
Siểm cuống sân mạn tâm, Tâm siểm cuống sân mạn
Nhất thiết tất trừ diệt. Tất cả đều trừ-diệt.
Lành thay Thiện Tài hay hành pháp môn bố thí, khiến cho tất cả chúng sinh được an lạc. Điều phục tất cả chúng sinh, khiến cho chúng sinh cang cường, được nhu hoà, tiếp thọ sự giáo hoá. Khiến cho chúng sinh chẳng còn tâm xiểm nịnh, chẳng còn tâm lừa dối, chẳng còn tâm sân hận, chẳng còn tâm ngã mạn. Tất cả những hành vi không chánh đáng, đều trừ diệt hết sạch.
Thiện lai chân Phật tử, Lành thay chân Phật-Tử
Phổ nghệ ư thập phương, Ðến khắp cả mười phương
Tăng trưởng chư công đức, Thêm lớn các công-đức
Điều nhu vô giải quyện. Ðiều-nhu không lười mỏi.
Lành thay Thiện Tài là đệ tử Phật chân chánh, có thể đến khắp mười phương pháp giới để cúng dường chư Phật. Tăng trưởng tất cả công đức, điều phục tất cả chúng sinh, chẳng khi nào giải đãi mệt mỏi.
Thiện lai tam thế trí, Lành thay tam-thế trí
Biến tri nhất thiết pháp, Biết khắp tất cả pháp
Phổ sanh công đức tạng, Khắp sanh tạng công-đức
Tu hành bất bì yếm. Tu hành chẳng mỏi nhàm.
Lành thay Thiện Tài có trí huệ ba đời, biết khắp tất cả Phật pháp, khắp sinh tất cả tạng công đức. Tinh tấn tu hành, ngày đêm tu hành, không khi nào mệt mỏi nhàm đủ.
Văn Thù đức vân đẳng, Văn-Thù, Ðức-Vân thảy
Nhất thiết chư Phật tử, Tất cả các Phật-Tử
Lệnh nhữ chí ngã sở, Bảo ngươi đến gặp ta
Thị nhữ vô ngại xứ. Dạy ngươi chỗ vô-ngại.
Bồ Tát Văn Thù và Tỳ Kheo Đức Vân, tất cả các đệ tử của Phật, các Ngài khiến cho ngươi đến chỗ ta, chỉ bày cho ngươi nơi vô ngại.
Cụ tu Bồ Tát hạnh, Tu đủ hạnh bồ-tát
Phổ nhiếp chư quần sanh; Nhiếp khắp các quần-sanh
Như thị quảng đại nhân, Người quảng đại như đây
Kim lai chí ngã sở. Nay đến tìm gặp ta.
Tu hành đầy đủ Bồ Tát hạnh, nhiếp thọ khắp tất cả chúng sinh, người rộng lớn như vậy, nay đã đi đến chỗ ta.
Vi cầu chư Như Lai, Vì cầu những cảnh-giới
Thanh tịnh chi cảnh giới, Thanh-tịnh của Như-Lai
Vấn chư quảng đại nguyện, Nên hỏi nguyện quảng-đại
Nhi lai chí ngã sở. Nay đến tìm gặp ta.
Vì cầu cảnh giới thanh tịnh của tất cả chư Phật, vì thưa hỏi các hạnh nguyện rộng lớn của tất cả chư Phật, mà đi đến chỗ ta.
Khứ lai hiện tại Phật, Phật quá, hiện, vị-lai
Sở thành chư hành nghiệp, Ðã thành tựu công-hạnh
Nhữ dục giai tu học, Người muốn tu học cả
Nhi lai chí ngã sở. Nay đến tìm gặp ta.
Quá khứ, vị lai, hiện tại ba đời chư Phật, các Ngài thành tựu tất cả hạnh nghiệp, ngươi đều muốn tu học những hạnh nghiệp đó, cho nên đi đến chỗ ta.
Nhữ ư thiện tri thức, Với chư thiện-tri-thức
Dục cầu vi diệu Pháp, Ngươi cầu pháp vi-diệu
Dục thọ Bồ Tát hạnh, Muốn thọ bồ-tát-hạnh
Nhi lai chí ngã sở. Nay đến tìm gặp ta.
Ngươi đối với thiện tri thức, muốn cầu pháp vi diệu không thể nghĩ bàn, muốn thọ hạnh của Bồ Tát tu, mà đi đến chỗ ta.
Nhữ niệm thiện tri thức, Ngươi nghĩ thiện-tri-thức
Chư Phật sở xưng thán, Ðược chư Phật khen ngợi
Lệnh nhữ thành Bồ-đề, Làm cho người thành đạo
Nhi lai chí ngã sở. Nay đến tìm gặp ta.
Ngươi nghĩ nhớ thiện tri thức, được chư Phật khen ngợi, khiến cho ngươi thành tựu bồ đề, mà đi đến chỗ ta.
Nhữ niệm thiện tri thức, Ngươi nghĩ thiện-tri-thức
Sanh ngã như phụ mẫu, Như cha mẹ sanh thành
Dưỡng ngã như nhũ mẫu, Nuôi nấng như nhũ-mẫu
Tăng ngã Bồ-đề phần, Lớn bồ-đề cho mình.
Ngươi nghĩ nhớ thiện tri thức, sinh ta như cha mẹ, nuôi ta như nhũ mẫu, tăng trưởng ta bồ đề phần.
Như y liệu chúng tật, Như y-sư trị-bệnh
Như Thiên sái cam lồ, Như trời rưới cam-lộ,
Như nhật thị chánh đạo, Như mặt nhật soi đường
Như nguyệt chuyển tịnh luân, Như mặt nguyệt thanh-tịnh,
Thiện tri thức giống như thầy thuốc, hay chữa lành tất cả tật bệnh. Lại giống như trời mưa xuống cam lồ, giống như mặt trời chỉ bày con đường chánh, lại giống như mặt trăng sáng tỏ, chiếu sáng thế gian, tiêu diệt đen tối.
Như sơn bất động dao, Như núi vững không lay
Như hải vô tăng giảm, Như biển không tăng giảm,
Như thuyền sư tế độ Như lái thuyền tế độ,
Nhi lai chí ngã sở. Nay tìm đến gặp ta.
Thiện tri thức giống như núi Tu Di không lay động, lại giống như biển cả, không tăng, cũng không giảm. Giống như thuyền sư hay tế độ tất cả chúng sinh, mà đi đến chỗ ta.
Nhữ quán thiện tri thức, Ngươi xem thiện-tri-thức
Do như Đại mãnh tướng, Dường như tướng dũng-mãnh
Diệc như Đại thương chủ, Cũng như chủ thương-gia
Hựu như đại đạo sư, Lại như đại đạo-sư,
Ngươi quán sát thiện tri thức, giống như đại tướng dũng mãnh, lại giống như vị đại thương chủ buôn bán, lại giống như đèn sáng lớn chiếu phá đen tối, lại giống như vị đại Đạo sư chỉ đường dẫn lối.
Năng kiến chánh Pháp-Tràng, Hay dựng tràng chánh-pháp,
Năng thị Phật công đức, Hay bày phật công-đức,
Năng diệt chư ác đạo, Hay diệt các ác-đạo,
Năng khai thiện thú môn, Hay mở cửa đường lành,
Thiện tri thức hay kiến lập tràng báu chánh pháp, hay chỉ bày công đức của chư Phật, hay tiêu diệt các đường ác, hay khai mở cửa các đường lành.
Năng hiển chư Phật thân, Hay hiển thân chư Phật,
Năng thủ chư Phật tạng, Hay gìn tạng chư Phật,
Năng trì chư Phật Pháp, Hay giữ pháp chư Phật,
Thị cố nguyện chiêm phụng. Nên ngươi nguyện kính thờ.
Thiện tri thức hay hiển bày pháp thân của chư Phật, hay giữ gìn bảo tạng của chư Phật, hay nhiếp trì pháp môn của chư Phật, cho nên nguyện chiêm ngưỡng thờ phụng.
Hai mươi hai bài kệ ở trên là Bồ Tát Di Lặc khen ngợi đức của Thiện Tài. Chín bài kệ đầu là khen đức lành thay, hai bài kệ kế tiếp là nói rõ nhân duyên đến, mười một bài kệ cuối là nói rõ nguyên nhân đến.
Dục mãn thanh tịnh trí, Muốn đủ trí thanh-tịnh
Dục cụ đoan chánh thân, Muốn đầy thân đoan-chánh
Dục sanh tôn quý gia, Muốn sanh nhà tôn-quý
Nhi lai chí ngã sở. Nay ngươi đến gặp ta.
Ngươi muốn viên mãn trí huệ thanh tịnh, ngươi muốn đầy đủ sắc thân đoan chánh, ngươi muốn sinh vào nhà tôn quý, mà đi đến chỗ ta.
Nhữ đẳng quán thử nhân, Ðại-chúng xem người nầy
Thân cận thiện tri thức, Gần-gũi thiện-tri-thức
Tùy kỳ sở tu học, Chỗ người nầy tu học
Nhất thiết ưng thuận hành. Tất cả phải thuận hành.
Bồ Tát Di Lặc nói với đại chúng rằng : Các vị đệ tử của Phật ! Các vị hãy xem người nầy, Y đã từng gần gũi rất nhiều vị thiện tri thức, vì cầu vô thượng đạo, không từ mệt nhọc, không sợ mệt mỏi. Bất cứ đến gần vị thiện tri thức nào, nhất định cũng y theo lời dạy của thiện tri thức, tu học tất cả Phật pháp, tất cả nên tuỳ thuận tu hành. Các vị đại chúng ! Nên học tập theo tinh thần cầu pháp của Thiện Tài đồng tử.
Dĩ tích phước nhân duyên, Do phước-duyên thuở trước
Văn Thù lệnh phát tâm, Văn-Thù khiến phát tâm
Tùy thuận vô vi nghịch, Tùy thuận không trái nghịch
Tu hành bất giải quyện. Tu hành chẳng mỏi nhọc.
Thiện Tài đồng tử lúc thuở xưa, do nhờ có phước đức, gieo trồng rất nhiều căn lành, cho nên được gặp Bồ Tát Văn Thù, khiến cho Thiện Tài phát tâm bồ đề, tuỳ thuận lời dạy của thiện tri thức, không trái nghịch sự chỉ đạo của thiện tri thức, đời đời kiếp kiếp đều tu hành Phật pháp, không giải đãi, không mệt mỏi, luôn dũng mãnh tinh tấn, thân cũng tinh tấn, tâm cũng tinh tấn.
Phụ mẫu dữ thân chúc, Cha mẹ cùng thân thuộc
Cung điện cập tài sản, Cung-điện và tài sản
Nhất thiết giai xả ly, Tất cả đều bỏ lìa
Khiêm hạ cầu tri thức. Khiêm hạ cầu tri-thức.
Thiện Tài đồng tử xả bỏ hết thảy cha mẹ, quyến thuộc, cung điện, tài sản, đi các nơi tham phương các vị thiện tri thức, đối với thiện tri thức cung kính, rất khiêm nhường, tại sao ? Vì cầu đại trí huệ.
Tịnh trì như thị ý, Tịnh trị ý n hư vậy
Vĩnh ly thế gian thân, Rời hẳn thân thế-gian
Đương sanh Phật quốc độ, Thường sanh cõi cước Phật
Thọ chư thắng quả báo. Hưởng quả báo thù thắng.
Tâm của Thiện Tài thanh tịnh, không khởi mọi vọng tưởng, tu trị tâm ý, chẳng còn tham sân si, vĩnh viễn lìa khỏi báo thân thế gian, sẽ sinh về cõi nước chư Phật, thọ tất cả quả báo thù thắng.
Thiện Tài kiến chúng sanh, Thiện-Tài thấy chúng-sanh
Sanh lão bệnh tử khổ, Khổ sanh, già, bệnh, chết
Vi phát đại bi ý, Vì phát ý đại-bi
Cần tu vô thượng đạo. Siêng tu đạo vô-thượng.
Thiện Tài đồng tử nhìn thấy tất cả chúng sinh, có khổ về sinh, già, bệnh, chết, thương mà xa lìa, ghét mà gặp nhau, cầu mà không được, năm ấm thiêu đốt. Thiện Tài vì chúng sinh có tám thứ khổ, mà phát tâm đại từ bi, siêng tu đạo vô thượng bồ đề.
Thiện Tài kiến chúng sanh, Thiện-Tài thấy chúng-sanh
Ngũ thú thường lưu chuyển, Ngũ-thú thường lưu chuyển
Vi cầu Kim Cương trí, Vì cầu kim-cang-trí
Phá bỉ chư khổ luân. Ðể phá những khổ-luân.
Thiện Tài đồng tử nhìn thấy tất cả chúng sinh, ở trong năm loài (Loài người, loài A tu la, loài súc sinh, loài ngạ quỷ, loài địa ngục) luôn luôn lưu chuyển, quên quay về. Lấy khổ làm vui, điên đảo thị phi, trôi nổi không biết hồi đầu. Do đó có câu : « Biển khổ vô biên, hồi đầu là bờ », chỉ cần hồi đầu, thì sẽ đến được bờ bên kia. Thiện Tài vì cầu trí huệ kim cang, phá trừ các vòng khổ não của chúng sinh.
Thiện Tài kiến chúng sanh, Thiện-Tài thấy chúng-sanh
Tâm điền thậm hoang uế, Tâm-điền rất hoang dơ
Vi trừ tam độc thứ, Vì trừ gai tam độc
Chuyên cầu lợi trí lê. Chuyên cầu cày trí bén.
Thiện Tài đồng tử nhìn thấy tất cả chúng sinh, ruộng tâm rất hoang dơ, đã sinh ra cỏ dại gai góc. Từ sáng đến tối khởi những vọng tưởng, tâm chẳng thanh tịnh. Vì tiêu trừ gai ba độc tham sân si của chúng sinh, mà chuyên cầu cày trí huệ sắc bén lợi ích chúng sinh. Cày là dụng cụ để cày ruộng.
Chúng sanh xứ si ám, Chúng-sanh ở si tối
Manh minh thất chánh đạo; Ðui mù mất chánh-đạo
Thiện Tài vi Đạo sư, Thiện-Tài làm đạo-sư
Thị kỳ an ẩn xứ. Chỉ cho chỗ an ổn.
Chúng sinh ở trong chỗ ngu si đen tối, điên đảo thị phi, chính mình chẳng biết mình đã mê đồ, chẳng còn biết con đường trở về nhà (cõi Thường Tịch Quang Tịnh Độ). Giống như kẻ mù loà mất chánh đạo, ở trong tăm tối, chẳng tìm được phương hướng trở về nhà. Thiện Tài đồng tử vì chúng sinh mà làm Đạo sư, chỉ bày cho chúng sinh nơi an ổn.
Các vị hãy nghĩ xem ! Chẳng có người giác ngộ, thì trên thế gian, mê mê hồ hồ, sống trong cơn say, chết trong ảo mộng, giống như cục thịt biết đi, như vậy có ý nghĩa gì ! Ai biết được những gì mình làm là sai lầm, thì lập tức quay trở lại, đừng có tái phạm nữa, đó tức là giác ngộ.
Nhẫn khải giải thoát thừa, Giáp nhẫn, xe giải-thoát,
Trí tuệ vi lợi kiếm, Trí-huệ làm gươm bén
Năng ư tam hữu nội, Hay ở trong ba cõi
Phá chư phiền não tặc. Phá các giặc phiền-não.
Nếu nhẫn nhục được, thì giống như mặc áo giáp, đao thương chẳng nhập vào, và giống như xe giải thoát, có thể đến được nơi không chướng ngại. Trí huệ làm bảo kiếm sắc bén, có thể ở trong tam giới hai mươi lăm cõi, đoạn trừ tất cả tặc phiền não, làm cho nó không còn nổi sóng làm gió, nhiễu loạn tâm thanh tịnh của sự tu đạo.
Thiện Tài Pháp thuyền sư, Thiện-Tài lái thuyền pháp
Phổ tế chư hàm thức, Tế độ khắp hàm-thức
Lệnh qua nhĩ diệm hải, Vượt qua biển lửa dữ
Tật chí tịnh bảo châu. Mau đến xứ tịnh-bửu.
Thiện Tài đồng tử lái thuyền pháp, cứu độ khắp các chúng sinh, đi qua biển lửa dữ, mau chóng đến chỗ châu báu thanh tịnh.
Thiện Tài chánh giác nhật, Thiện-Tài mặt nhật sáng
Trí quang Đại nguyện luân, Vầng trí-quang đại-nguyện
Châu hành Pháp giới không, Ði khắp pháp-giới-không
Phổ chiếu quần mê trạch. Chiếu khắp nhà quần-mê.
Thiện Tài đồng tử giống như mặt trời chánh giác, có vầng trí huệ quang đại nguyện. Đó là nhờ thuở xưa phát đại nguyện mà thành tựu. Vầng trí huệ quang đại nguyện đó, đi khắp cùng hư không pháp giới, chiếu sáng khắp nhà quần mê chúng sinh, do đó “Trí quang phổ chiếu”.
Thiện Tài chánh giác nguyệt, Thiện-Tài mặt nguyệt sáng
Bạch pháp tất viên mãn, Pháp lành đều viên-mãn
Từ định thanh lương quang, Từ tam-muội thanh-lương
Đẳng chiếu chúng sanh tâm. Chiếu khắp tâm chúng-sanh.
Thiện Tài đồng tử giống như mặt trăng chánh giác, pháp của Thiện Tài tu là pháp trắng thanh tịnh, đã đến cảnh giới viên mãn. Dùng từ bi định lực và quang minh mát mẻ, bình đẳng chiếu khắp tâm tất cả chúng sinh, khiến cho họ phát bồ đề tâm, tu vô thượng đạo.
Thiện Tài thắng trí hải, Thiện-Tài biển thắng-trí
Y ư trực tâm trụ, An-trụ nơi trực-tâm
Bồ-đề hạnh tiệm thâm, Hạnh bồ-đề lần sâu
Xuất sanh chúng pháp bảo. Xuất sanh những pháp-bửu.
Thiện Tài đồng tử có biển trí huệ thù thắng, do tâm thẳng mà thành tựu. Thiện Tài tu hạnh bồ đề, thứ lớp từ từ vào sâu, chứng được quả Phật, sinh ra các pháp bảo.
Thiện Tài Đại tâm long, Thiện-Tài rồng đại-tâm
Thăng ư Pháp giới không, Bay lên pháp-giới-không
Hưng vân tuôn cam trạch, Nổi mây tuôn mưa ngọt
Sanh thành nhất thiết quả. Sanh thành tất cả quả.
Tâm của Thiện Tài đồng tử giống như đại đạo, tâm của Long Vương, thăng lên trong hư không pháp giới, nổi mây lớn, khắp mưa xuống cam lồ, thấm nhuần tất cả vạn vật đại địa, sinh thành tất cả quả thật.
Thiện Tài nhiên pháp đăng, Thiện-Tài thắp đèn pháp
Tín chú từ bi du, Tim: tin, dầu: từ bi,
Niệm khí công đức quang, Bình: niệm, sáng: công-đức
Diệt trừ tam độc ám. Diệt trù tối tam độc.
Thiện Tài đồng tử thắp lên ngọn đèn pháp, dùng tâm tin làm tim đèn, dùng từ bi làm dầu, thường niệm pháp làm bình, công đức làm ánh sáng, hay diệt trừ đen tối ba độc.
Giác tâm Ca la la, Giác-tâm: ca-la-lã,
Bi bào từ vi nhục, Bi: bào thai, từ: thịt,
Bồ-đề phần chi tiết, Bồ-đề phần: chi tiết
Trưởng ư Như Lai tạng. Lớn nơi như-lai-tạng.
Dùng giác tâm làm ca la lã (cục thịt mềm), tâm đại bi làm bào thai, tâm đại từ làm thịt, bồ đề phần làm tứ chi xương cốt, lớn lên ở trong tạng Như Lai.
Tăng trưởng phước đức tạng, Thêm lớn phước-đức-tạng,
Thanh tịnh trí tuệ tạng, Thanh-tịnh trí-huệ-tạng,
Khai hiển phương tiện tạng, Khai hiển phương-tiện-tạng,
Xuất sanh đại nguyện tạng. Xuất sanh đại-nguyện-tạng,
Tăng trưởng phước đức tạng, thanh tịnh trí huệ tạng, khai xiển phương tiện thiện xảo tạng, sinh ra vô biên đại nguyện pháp tạng.
Như thị đại trang nghiêm, Ðại-trang-nghiêm như vậy
Cứu hộ chư quần sanh; Cứu hộ các quần-sanh
Nhất thiết Thiên Nhân trung, Trong tất cả thiên nhơn
Nan văn nan khả kiến. Khó nghe khó thấy được.
Đại trang nghiêm như vậy, hay cứu hộ tất cả chúng sinh lìa khổ được vui. Trong tất cả chư Thiên và loài người, pháp như vậy không dễ gì nghe được, bậc Thánh nhân như vậy, không dễ gì gặp được.
Như thị trí tuệ thọ, Cây trí-huệ như vậy
Căn thâm bất khả động, Rễ sâu chẳng lay động
Chúng hạnh tiệm tăng trưởng, Công-hạnh lần tăng trưởng
Phổ ấm chư quần sanh. Che mát khắp quần-sanh.
Cây trí huệ như vậy, gốc rễ đã sâu chắc, không dễ lay động. Hạnh của Bồ Tát tu dần dần tăng trưởng, che hộ khắp tất cả chúng sinh, khiến cho lửa phiền não dập tắt, đắc được mát mẻ.
Dục sanh nhất thiết đức, Muốn sanh tất cả đức
Dục vấn nhất thiết pháp, Muốn hỏi tất cả pháp
Dục đoạn nhất thiết nghi, Muốn dứt tất cả nghi
Chuyên cầu thiện tri thức. Chuyên cầu thiện-tri-thức.
Muốn sinh tất cả công đức, muốn thưa hỏi tất cả Phật pháp, muốn dứt trừ tất cả nghi hoặc, chuyên tâm cầu thiện tri thức, lắng nghe sự chỉ dạy của thiện tri thức.
Dục phá chư hoặc ma, Muốn phá những ma hoặc
Dục trừ chư kiến cấu, Muốn trừ những kiến chấp
Dục giải chúng sanh phược, Muốn mở trói chúng-sanh
Chuyên cầu thiện tri thức. Chuyên cầu thiện-tri-thức.
Muốn phá trừ các nghi hoặc ma chướng, muốn diệt trừ các tà kiến dơ bẩn, muốn mở trói tất cả chúng sinh, khiến cho đắc được tự tại, chuyên nhứt một lòng cầu thiện tri thức, lắng nghe thiện tri thức chỉ dạy.
Đương diệt chư ác đạo, Phải diệt các ác-đạo,
Đương thị nhân thiên lộ, Phải chỉ đường nhơn thiên,
Lệnh tu công đức hạnh, Khiến ta công-đức-hạnh,
Tật nhập Niết Bàn thành. Mau nhập thành niết-bàn,
Sẽ tiêu diệt thống khổ ba đường ác, sẽ chỉ bày cho chúng sinh con đường trời người, khiến cho tất cả chúng sinh tu hành hạnh công đức, sớm vào được thành Niết Bàn không sinh, không diệt.
Đương độ chư kiến nan, Phải độ nạn chấp kiến,
Đương tiệt chư kiến võng, Phải cắt lưới chấp kiến,
Đương khô ái dục thủy, Phải khô nước ái dục,
Đương thị tam hữu đạo. Phải chỉ đường ba cõi,
Sẽ độ thoát chúng sinh có tà tri, tà kiến và chúng sinh ở trong tám nạn, khiến cho họ thoát khỏi biển khổ. Sẽ chặt đứt các lưới tà kiến, sẽ khô cạn nước tình ái dục niệm, sẽ chỉ bày cho chúng sinh con đường thoát khỏi ba cõi.
Đương vi thế y hỗ, Phải làm chỗ đời nương
Đương tác thế quang minh, Phải làm săng đời soi
Đương thành tam giới sư, Phải làm thầy ba cõi
Thị kỳ giải thoát xứ. Chỉ cho chỗ giải-thoát.
Sẽ làm chỗ nương tựa cho tất cả chúng sinh thế gian, sẽ làm ánh sáng cho đời, sẽ thành bậc Đạo sư của ba cõi, chỉ bày tất cả chúng sinh hướng về nơi giải thoát.
Diệc đương lệnh thế gian, Cũng phải khiến thế-gian
Phổ ly chư tưởng trước, Lìa tất cả tưởng chấp
Phổ giác phiền não thụy, Ðánh thức giấc phiền-não
Phổ xuất ái dục nê. Thoát bùn lầy ái dục.
Cũng sẽ khiến cho hết thảy chúng sinh thế gian, khắp lìa khỏi tất cả vọng tưởng chấp trước, đắc được tự tại. Khắp giác ngộ tất cả con ma ngủ phiền não, khắp thoát khỏi bùn lầy ái dục.
Đương liễu chủng chủng Pháp, Phải biết tất cả pháp,
Đương tịnh chủng chủng sát; Phải tịnh tất cả cõi
Nhất thiết hàm cứu cánh, Tất cả đều rốt ráo
Kỳ tâm đại hoan hỉ. Trong lòng rất hoan-hỉ.
Sẽ thấu rõ đủ thứ Phật pháp, sẽ thanh tịnh đủ thứ cõi Phật. Làm tròn trách nhiệm của mình, tất cả đều viên mãn, đến được nơi rốt ráo, thì tâm sinh đại hoan hỉ.
Hai mươi sáu bài kệ ở trên, đối với chúng khiến cho quán sát khen ngợi. Bốn bài kệ đầu, khen ngợi tổng quát. Bốn bài kệ kế tiếp, là khen bi tức trí. Bảy bài kệ kế tiếp là khen ngợi trí tức bi. Sáu bài kệ kế tiếp là khen tổng quát các đức. Năm bài kệ sau là khen ngợi diệu quả sẽ thành.
Nhữ hành cực điều nhu, Hạnh ngươi rất điều-nhu
Nhữ tâm thậm thanh tịnh, Tâm ngươi rất thanh-tịnh
Sở dục tu công đức, Những công-đức muốn tu
Nhất thiết đương viên mãn. Tất cả sẽ viên-mãn.
Thiện Tài! Hạnh của ngươi rất điều nhu, tâm của ngươi rất thanh tịnh, chẳng còn tâm tham, tâm sân, tâm si, tiêu diệt hết tham sân si rồi, thì giới định huệ sẽ tăng trưởng. Những công đức mà ngươi muốn tu, tất cả hết thảy sẽ được viên mãn.
Bất cửu kiến chư Phật, Ngươi sẽ thấy chư Phật
Liễu đạt nhất thiết pháp, Thấu rõ tất cả pháp
Nghiêm tịnh chúng sát hải, Nghiêm tịnh tất cả cõi
Thành tựu Đại bồ-đề. Thành-tựu đại bồ-đề.
Thiện Tài ! Tương lai chẳng bao lâu nữa, ngươi sẽ thấy được tất cả chư Phật mười phương ba đời, mà thành tựu quả vị Phật, sẽ thấu rõ thông đạt pháp của chư Phật nói, sẽ trang nghiêm thanh tịnh biển cõi nước chư Phật, sẽ thành tựu đại bồ đề giác đạo.
Đương mãn chư hạnh hải, Sẽ viên-mãn hạnh-hải
Đương tri chư pháp hải, Sẽ thấu rõ pháp hải
Đương độ chúng sanh hải, Sẽ độ chúng-sanh-hải
Như thị tu chư hạnh. Tu các hạnh như vậy.
Thiện Tài ! Ngươi sẽ viên mãn tất cả biển hạnh, ngươi sẽ biết rõ biển tất cả các pháp, ngươi sẽ độ biển tất cả chúng sinh, tu lục độ vạn hạnh như vậy, mới có thể thành tựu nguyện vọng quả vị Phật.
Đương đáo công đức ngạn, Sẽ đến bờ công-đức
Đương sanh chư thiện phẩm, Sẽ sanh những thiện-phẩm
Đương dữ Phật tử đẳng, Sẽ đồng chư Phật-Tử
Như thị tâm quyết định. Tâm quyết định như vậy.
Thiện Tài ! Người sẽ đến được công đức bờ kia, ngươi sẽ sinh ở tại tất cả các phẩm lành, ngươi sẽ đồng với các đệ tử của Phật, có tâm quyết định như vậy, để tu Bồ Tát hạnh.
Đương đoạn nhất thiết hoặc, Sẽ dứt tất cả hoặc
Đương tịnh nhất thiết nghiệp, Sẽ sạch tất cả nghiệp
Đương phục nhất thiết ma, Sẽ phục tất cả ma
Mãn túc như thị nguyện. Ðầy đủ nguyện như vậy.
Thiện Tài ! Ngươi sẽ dứt hết tất cả mê hoặc, ngươi sẽ thanh tịnh tất cả nghiệp chướng, ngươi sẽ hàng phục được tất cả ma quân, phải viên mãn đầy đủ nguyện như vậy.
Đương sanh diệu trí đạo, Sẽ sanh diệu-trí-đạo
Đương khai chánh pháp đạo, Sẽ khai chánh-pháp-đạo
Bất cửu đương xả ly, Chẳng lâu sẽ bỏ rời
Hoặc nghiệp chư khổ đạo. Hoặc, nghiệp và khổ-đạo.
Thiện Tài ! Ngươi sẽ sinh đạo trí huệ vi diệu, ngươi sẽ khai quật đạo chánh pháp, chẳng bao lâu nữa ngươi sẽ xả lìa các đường khổ, khởi hoặc, tạo nghiệp, thọ báo.
Nhất thiết chúng sanh luân, Tất cả chúng-sanh-luân
Trầm mê chư hữu luân; Trầm mê tam-hữu-luân
Nhữ đương chuyển pháp luân, Ngươi sẽ chuyển pháp-luân
Lệnh kỳ đoạn khổ luân. Cho họ hết khổ-luân.
Thiện Tài ! Tất cả chúng sinh luân hồi, trầm mê ở trong vòng tam giới hai mươi lăm cõi, chẳng biết thoát khỏi khổ luân hồi. Ngươi sẽ chuyển bánh xe pháp, khiến cho hết thảy chúng sinh đều dứt hết vòng khổ sinh tử, lìa khổ được vui, chấm dứt sinh tử.
Nhữ đương trì Phật chủng, Ngươi sẽ gìn phật-chủng
Nhữ đương tịnh Pháp chủng, Ngươi sẽ tịnh pháp-chủng
Nhữ năng tập tăng chủng, Ngươi hay họp tăng-chủng
Tam thế tất chu biến. Tam-thế đều cùng khắp.
Thiện Tài ! Ngươi sẽ tiếp tục giữ gìn giống Phật, ngươi sẽ thanh tịnh giống Pháp, ngươi sẽ tích tập giống Tăng, thiệu long Tam Bảo, khắp cùng ba đời, khiến cho Phật pháp tăng Tam Bảo vĩnh viễn trụ ở đời.
Đương đoạn chúng ái võng, Sẽ cắt những lưới ái
Đương liệt chúng kiến võng, Se xé những lưới chấp
Đương cứu chúng khổ võng, Sẽ cứu những lưới khổ
Đương thành thử nguyện võng. Sẽ thành những lưới nguyện.
Thiện Tài ! Ngươi sẽ dứt hẳn lưới các ái, ngươi sẽ xé nát lưới các kiến, ngươi sẽ cứu tất cả chúng sinh thoát khỏi lưới các khổ, ngươi sẽ thành tựu lưới đại nguyện nầy.
Đương độ chúng sanh giới, Sẽ độ chúng-sanh-giới
Đương tịnh quốc độ giới, Sẽ tịnh quốc-độ-giới
Đương tập trí tuệ giới, Sẽ chứa tri-tuệ-giới
Đương thành thử tâm giới. Sẽ thành tâm-nguyện-giới.
Thiện Tài ! Người sẽ độ thoát cõi chúng sinh, ngươi sẽ thanh tịnh các cõi nước, ngươi sẽ tích tập cõi trí huệ, ngươi sẽ thành tựu cõi tâm nầy, tức cũng là pháp giới.
Đương lệnh chúng sanh hỉ, Sẽ làm chúng-sanh-mừng
Đương lệnh Bồ Tát hỉ, Sẽ làm Bồ-Tát mừng
Đương lệnh chư Phật hỉ, Sẽ làm chư Phật mừng
Đương thành thử hoan hỉ. Sẽ thành sự vui mừng.
Thiện Tài ! Ngươi sẽ khiến tất cả chúng sinh đều sinh tâm hoan hỉ, ngươi sẽ khiến tất cả Bồ Tát cũng sinh tâm hoan hỉ, ngươi sẽ khiến tất cả chư Phật cũng sinh tâm hoan hỉ, ngươi sẽ thành tựu hoan hỉ nầy.
Đương kiến nhất thiết thú, Sẽ thấy tất cả loài
Đương kiến nhất thiết sát, Sẽ thấy tất cả cõi
Đương kiến nhất thiết pháp, Sẽ thấy tất cả pháp
Đương thành thử Phật kiến. Sẽ thành thấy của Phật.
Thiện Tài ! Ngươi sẽ thấy được tất cả chúng sinh, đang thọ khổ ở trong tất cả loài, ngươi sẽ thấy được tất cả cõi nước chư Phật trong mười phương, ngươi sẽ thấy được đáy nguồn tất cả pháp của chư Phật nói, ngươi sẽ thành tựu tri kiến của Phật.
Đương phóng phá ám quang, Sẽ phóng sáng phá tối
Đương phóng tức nhiệt quang, Sẽ phóng sáng dứt nóng
Đương phóng diệt ác quang, Sẽ phóng sáng diệt ác
Địch trừ tam hữu khổ. Trừ sạch khổ ba cõi.
Thiện Tài ! Ngươi sẽ phóng ra quang minh trí huệ phá đen tối, ngươi sẽ phóng ra quang minh thanh tịnh dứt trừ nóng nhiệt não, ngươi sẽ phóng ra quang minh bồ đề tiêu diệt ác nghiệp, tẩy trừ sạch khổ não trong tam giới hai mươi lăm cõi.
Đương khai thiên thú môn, Sẽ mở cửa thiên-đạo
Đương khai Phật đạo môn, Sẽ mở cửa Phật-đạo
Đương thị giải thoát môn, Sẽ chỉ cửa giải-thoát
Phổ sử chúng sanh nhập. Sẽ bảo chúng-sanh vào.
Thiện Tài! Ngươi sẽ khai mở cửa các cõi trời, khiến cho tất cả chúng sinh đều được thăng lên cõi trời. Ngươi sẽ mở cửa Phật đạo, khiến cho tất cả chúng sinh đều thành tựu quả vị Phật, ngươi sẽ chỉ bày cửa giải thoát, khiến cho tất cả chúng sinh đều đắc được tự tại, khiến cho khắp hết thảy chúng sinh vào pháp môn nầy.
Đương thị ư chánh đạo, Sẽ chỉ cho chánh-đạo
Đương tuyệt ư tà đạo; Sẽ dứt hết tà-đạo
Như thị cần tu hành, Như vậy siêng tu hành
Thành tựu Bồ-đề đạo. Thành-tựu bồ-đề đạo.
Thiện Tài! Ngươi sẽ chỉ bày cho hết thảy chúng sinh, nên đi trên con đường chánh, không nên đi trên con đường tà ác. Siêng tu hành như vậy, mới có thể thành tựu bồ đề giác đạo.
Đương tu công đức hải, Sẽ tu công-đức-hải
Đương độ tam hữu hải; Sẽ độ tam-hữu-hải
Phổ sử quần sanh hải, Khiến khắp chúng-sanh-hải
Xuất ư chúng khổ hải. Thoát khỏi những khổ-hải.
Thiện Tài ! Ngươi sẽ tu hành công đức như biển cả. Ngươi sẽ độ thoát biển ba cõi. Khắp khiến cho hết thảy chúng sinh nhiều như biển, khiến cho họ đều thoát khỏi các biển khổ. Thế gian đầy dẫy sự thống khổ, đầy dẫy các điều ác, khổ không thể tả được, nhưng chúng sinh vẫn thản nhiên không muốn thoát ra, tại sao ? Vì lấy khổ làm vui, cho nên lấy giả làm thật.
Đương ư chúng sanh hải, Phải nơi chúng-sanh-hải
Tiêu kiệt phiền não hải, Tiêu diệt phiền-não-hải
Lệnh tu chư hạnh hải, Khiến tu những hạnh-hải
Tật nhập Đại trí hải. Mau vào đại-trí-hải.
Thiện Tài ! Ngươi sẽ ở trong biển chúng sinh, tiêu trừ khô cạn biển khổ phiền não, khiến cho tất cả chúng sinh tu hành biển hạnh bồ đề vô thượng, sớm vào trong biển đại trí huệ.
Nhữ đương tăng trí hải, Ngươi sẽ thêm trí-hải
Nhữ đương tu hành hải; Ngươi sẽ tu hạnh-hải
Chư Phật Đại nguyện hải, Ngươi sẽ đều đầy đủ
Nhữ đương hàm mãn túc. Chư Phật đại-nguyện-hải.
Thiện Tài ! Ngươi sẽ tăng trưởng biển trí huệ của ngươi. Ngươi sẽ tu hành biển hạnh của Bồ Tát. Biển đại nguyện của chư Phật, ngươi sẽ đều viên mãn đầy đủ những biển hạnh nầy.
Nhữ đương nhập sát hải, Ngươi sẽ nhập sát-hải
Nhữ đương quán chúng hải; Ngươi sẽ quán chúng-hải
Nhữ đương dĩ trí lực, Ngươi sẽ dùng trí-lực
Phổ ẩm chư pháp hải. Uống tất cả pháp-hải.
Thiện Tài ! Ngươi sẽ hoá thân trăm ngàn ức, vào khắp biển cõi của chư Phật. Ngươi sẽ quán sát nhân duyên biển chúng sinh, giáo hoá khắp, khiến cho thành Phật đạo. Ngươi sẽ dùng sức trí huệ, uống khắp biển tất cả các pháp.
Đương cận chư Phật vân, Sẽ thấy chư-phập-vân
Đương khởi cúng dường vân, Sẽ khởi cúng-dường-vân
Đương thính diệu pháp vân, Sẽ nghe diệu-pháp-vân
Đương hưng thử nguyện vân. Sẽ nổi những nguyện vân.
Thiện Tài ! Ngươi sẽ thấy chư Phật, nhiều như mây. Ngươi sẽ cúng dường chư Phật, nhiều như mây. Ngươi sẽ nghe diệu pháp của chư Phật, nhiều như mây. Ngươi sẽ hưng khởi đại nguyện nầy, nhiều như mây.
Phổ du tam hữu thất, Ði khắp nhà ba cõi
Phổ hoại chúng hoặc thất, Phá khắp nhà phiền-não
Phổ nhập Như Lai thất, Vào khắp nhà Như-Lai
Đương hành như thị đạo. Sẽ hành đạo như vậy.
Thiện Tài ! Ngươi sẽ du hành khắp nhà ba cõi. Ngươi sẽ hoại khắp nhà mê hoặc. Ngươi sẽ khắp vào nhà Như Lai. Ngươi sẽ tu hành chánh đạo như vậy.
Phổ nhập tam muội môn, Vào khắp môn tam-muội
Phổ du giải thoát môn, Dạo khắp môn giải-thoát
Phổ trụ Thần thông môn, Trụ khắp môn thần-thông
Châu hành ư Pháp giới. Ði khắp trong pháp-giới.
Thiện Tài ! Ngươi sẽ vào khắp môn tam muội, ngươi sẽ du hành khắp môn giải thoát, ngươi sẽ trụ khắp môn thần thông, ngươi sẽ đi khắp nơi pháp giới, tức cũng là tận hư không khắp pháp giới.
Phổ hiện chúng sanh tiền, Hiện khắp trước chúng-sanh
Phổ đối chư Phật tiền, Ðối trước khắp chư Phật
Thí như nhật nguyệt quang, Ví như sáng nhật nguyệt
Đương thành như thị lực. Sẽ thành sức như vậy.
Thiện Tài ! Ngươi sẽ hiện khắp ở trước tất cả chúng sinh, ngươi sẽ ở khắp trước chư Phật, giống như ánh sáng mặt trời và mặt trăng, sẽ thành tựu lực như vậy, chiếu khắp tất cả.
Sở hạnh vô động loạn, Chỗ đi không động loạn
Sở hạnh vô nhiễm trước, Chỗ đi không nhiễm trước
Như điểu hạnh hư không, Như chim bay hư không
Đương thành thử diệu dụng. Sẽ thành diệu-dụng nầy.
Thiện Tài! Những gì ngươi làm chẳng có điên đảo, chẳng có động loạn. Những gì ngươi tu không có nhiễm trước, không có chấp trước, giống như chim bay trong hư không, sẽ thành tựu diệu dụng nầy. Do đó có câu: “Như chim bay trong không, trong không chẳng dấu vết, như đao chém nước nước không dấu vết”, tức cũng là quét tất cả pháp, lìa tất cả tướng, chẳng chấp trước vào mọi cảnh giới nhiễm ô.
Thí như nhân đà võng, Ví như Phạm-Thiên-Võng
Sát võng như thị trụ; Sát-võng trụ như vậy
Nhữ đương tất vãng nghệ, Ngươi sẽ đều qua đến
Như phong vô sở ngại. Như gió không chướng ngại.
Ví như lưới nhân đà la, lỗ lỗ thông với nhau, ánh sáng chiếu với nhau, trùng trùng vô ngại. Lưới cõi của chư Phật cũng trụ như vậy. Ngươi sẽ đều đi đến cõi nước của mỗi vị Phật, hộ trì Tam Bảo, giống như gió đi ở trong hư không, chẳng có gì chướng ngại.
Nhữ đương nhập Pháp giới, Ngươi sẽ nhập pháp-giới
Biến vãng chư thế giới, Qua khắp các thế-giới
Phổ kiến tam thế Phật, Thấy khắp tam-thế Phật
Tâm sanh đại hoan hỉ. Trong lòng rất hoan-hỉ.
Ngươi sẽ vào pháp giới, đến khắp ở trước tất cả thế giới. Thấy khắp tất cả chư Phật ba đời, tâm sinh đại hoan hỉ.
Nhữ ư chư Pháp môn, Ngươi ở các pháp-môn
Dĩ đắc cập đương đắc, Ðã được và sẽ được
Ưng sanh Đại hỉ dược, Phải vui mừng hớn-hở
Vô tham diệc vô yếm. Không tham cũng không nhàm.
Ngươi đối với tất cả pháp môn, hoặc trong quá khứ đã đắc được, hoặc hiện tại đang chứng được, hoặc vị lai sẽ đắc được. Ngươi sẽ sinh tâm vui mừng lớn, nhưng không còn tâm tham, cũng không có tâm nhàm mỏi.
Nhữ thị công đức khí, Người là công-đức-khí
Năng tùy chư Phật giáo, Hay thuận lời Phật dạy
Năng tu Bồ Tát hạnh, Hay tu hạnh bồ-tát
Đắc kiến thử kì đặc. Ðược thấy sự lạ nầy.
Ngươi là pháp khí công đức, thường theo Phật học, nghe lời chư Phật dạy. Tu hành Bồ Tát hạnh, tức là hạnh môn lợi ích tất cả chúng sinh, tức cũng là hạnh môn tự lợi lợi tha, tự giác giác tha, tự độ độ tha, sẽ thấy được hạnh môn kỳ đặc nầy.
Như thị chư Phật tử, Chư Phật-Tử như vậy
Ức kiếp nan khả ngộ; Ức kiếp khó gặp được
Huống kiến kỳ công đức, Huống thấy được công-đức
Sở tu chư diệu đạo! Và diệu-đạo đã tu.
Các đệ tử của Phật như vậy, dù trải qua ức kiếp cũng không dễ gì gặp được, hà huống thấy được công đức của các Ngài. Tất cả diệu đạo của các Ngài tu hành càng khó thấy được.
Nhữ sanh ư nhân trung, Ngươi sanh trong nhơn-gian
Đại hoạch chư thiện lợi, Ðược những lợi lành lớn
Đắc kiến Văn Thù đẳng, Ðược thấy đức Văn-Thù
Vô lượng chư công đức. Vô-lượng công-đức lớn.
Ngươi sinh ở trong loài người, đắc được các thứ căn lành lớn, cho nên thấy được Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi .v.v… cùng với tất cả thiện tri thức, đã đầy đủ vô lượng công đức lành.
Dĩ ly chư ác đạo, Ðã rời các ác-đạo
Dĩ xuất chư nạn xứ, Ðã ra khỏi chỗ nạn
Dĩ siêu chúng khổ hoạn, Ðã vượt khỏi khổ hoạn
Thiện tai vật giải đãi. Lành thay! Chớ giải-đãi.
Ngươi đã xa lìa tất cả ba đường ác, đã thoát khỏi tất cả nơi tám nạn, đã vượt qua tất cả khổ hoạn. Lành thay ! Thiện Tài ngươi chớ có giải đãi, phải dũng mãnh tinh tấn, tu tập Phật pháp.
Dĩ ly phàm phu địa, Ðã rời phàm-phu-địa
Dĩ trụ Bồ Tát địa, Ðã trụ bồ-tát-địa
Đương mãn trí tuệ địa, Sẽ đầy trí-huệ-địa
Tốc nhập Như Lai địa. Mau nhập như-lai-địa.
Ngươi đã lìa khỏi bậc phàm phu, ngươi đã trụ bậc Bồ Tát, sẽ viên mãn bậc trí huệ, sớm sẽ vào được bậc Như Lai, đừng có tự khốn ở hoá thành, mà phải đến được bảo châu.
Bồ Tát hạnh như hải, Bồ-tát-hạnh như biển
Phật trí đồng hư không, Phật-trí đồng hư-không
Nhữ nguyện diệc phục nhiên, Nguyện của ngươi cũng vậy
Ưng sanh Đại hân khánh. Nên sanh lòng vui mừng.
Bồ Tát tu hành hạnh môn vô lượng vô biên như biển cả. Trí huệ của Phật vô lượng vô biên, đồng như hư không. Đại nguyện của ngươi phát ra cũng như biển, như hư không, ngươi nên sinh tâm vui mừng lớn.
Chư căn bất giải quyện, Các căn chẳng lười trễ
Chí nguyện hằng quyết định, Chí nguyện hằng quyết định
Thân cận thiện tri thức, Thân cận thiện-tri-thức
Bất cửu tất thành mãn. Chẳng lâu sẽ thành mãn.
Các căn của ngươi chẳng giải đãi nhàm mỏi, nên càng tu hành càng tinh tấn. Chí nguyện phải có quyết định kiên thành hằng, tức cũng là kiên nhẫn không thay đổi. Phải gần gũi tất cả thiện tri thức, tương lai chẳng bao lâu nữa, chí nguyện và trí huệ của ngươi đều thành tựu viên mãn.
Bồ Tát chủng chủng hạnh, Bồ-Tát nhiều công-hạnh
Giai vi điều chúng sanh, Ðều vì độ chúng-sanh
Phổ hành chư Pháp môn, Làm khắp các pháp-môn
Thận vật sanh nghi hoặc. Cẩn thận chớ nghi hoặc.
Tại sao Bồ Tát tu hành đủ thứ hạnh ? Vì muốn giáo hoá chúng sinh ngu si, muốn điều phục chúng sinh cang cường. Bồ Tát giống như công nhân làm công, do đó có câu :
« Muốn làm việc giỏi,
Trước hết có đồ nghề tốt ».
Cho nên Bồ Tát tu hành viên mãn đủ thứ hạnh môn, có sức lực cảm hoá rồi, mới khiến cho chúng sinh tâm vui thành phục. Cho nên Bồ Tát tu hành tất cả pháp môn, cẩn thận đừng có sinh tâm hoài nghi.
Nhữ cụ nan tư phước, Ngươi đủ phước nan-tư
Cập dĩ chân thật tín; Và cùng chân-thiệt-tín
Thị cố ư kim nhật, Vì thế nên hôm nay
Đắc kiến chư Phật tử. Ðược thấy các Phật-Tử.
Ngươi đã đầy đủ phước đức khó nghĩ bàn, cùng với tâm tin chân thật. Vì vậy cho nên ngày hôm nay ngươi thấy được tất cả đệ tử của Phật và tất cả thiện tri thức.
Nhữ kiến chư Phật tử, Ngươi thấy các Phật-Tử
Tất hoạch quảng đại lợi, Ðều được lợi rộng lớn
Nhất nhất chư đại nguyện, Mỗi mỗi những đại-nguyện
Nhất thiết hàm tín thọ. Tất cả đều tin thọ.
Ngươi thấy được tất cả đệ tử của Phật, gần gũi tất cả thiện tri thức, hoàn toàn đắc được lợi ích rộng lớn. Đại nguyện của chư Phật Bồ Tát phát ra, ngươi sẽ tin thọ mỗi mỗi lời nguyện, y pháp tu hành.
Nhữ ư tam hữu trung, Ngươi ở trong ba cõi
Năng tu Bồ Tát hạnh; Hay tu hạnh bồ-tát
Thị cố chư Phật tử, Thế nên các Phật-Tử
Thị nhữ giải thoát môn. Dạy cho môn giải-thoát.
Ngươi sẽ ở trong ba cõi (cõi dục, cõi sắc, cõi vô sắc), tu hành hạnh của Bồ Tát tu, bởi vậy cho nên tất cả đệ tử của Phật và tất cả thiện tri thức, chỉ bày cho ngươi tu hành như thế nào, để đắc được môn giải thoát vô ngại.
Phi thị pháp khí nhân, Người chẳng phải pháp-khí
Dữ Phật tử đồng trụ, Cùng ở với Phật-Tử
Thiết Kinh vô lượng kiếp, Dầu đến vô-luợng kiếp
Mạc tri kỳ cảnh giới. Cũng chẳng biết cảnh-giới.
Nếu chẳng phải là bậc pháp khí, thì dù cùng ở với đệ tử của Phật, dù trải qua vô lượng đại kiếp, cũng chẳng biết được cảnh giới của chư Phật.
Nhữ kiến chư Bồ-tát, Ngươi thấy các Bồ-Tát
Đắc Văn như thị Pháp, Ðược nghe pháp như vậy
Thế gian thậm nan hữu, Thế-gian rất khó có
Ưng sanh Đại hỉ khánh. Nên sanh lòng vui mừng.
Ngươi thấy được tất cả đại Bồ Tát, nghe được pháp môn vi diệu như vậy, là pháp trên thế gian rất khó có được, ngươi nên sinh tâm vui mừng lớn, vui vì pháp ít có.
Chư Phật hộ niệm nhữ, Chư Phật hộ niệm ngươi
Bồ Tát nhiếp thọ nhữ, Bồ-Tát nhiếp thọ ngươi
Năng thuận kỳ giáo hạnh, Thuận hành theo lời dạy
Thiện tai trụ thọ mạng. Lành thay trụ thọ-mạng.
Tất cả chư Phật mười phương ba đời, luôn luôn hộ niệm ngươi. Tất cả Bồ Tát luôn luôn nhiếp thọ ngươi. Ngươi hay tuỳ thuận sự giáo hoá của chư Phật, tuỳ thuận hạnh môn của các Bồ Tát. Lành thay! Sẽ trụ lâu ở đời, thọ mạng vô lượng.
Dĩ sanh Bồ Tát gia, Ðã sanh nhà Bồ-Tát
Dĩ cụ Bồ Tát đức, Ðã đủ đức Bồ-Tát
Dĩ trường Như Lai chủng, Ðã lớn giống Như-Lai
Đương thăng quán đảnh vị. Sẽ lên bậc Quán-Ðảnh.
Ngươi đã sinh ra trong nhà Bồ Tát quán đảnh, đã đầy đủ công đức của Bồ Tát, đã sinh trưởng hạt giống của Như Lai. Ngươi sẽ thăng lên bậc quán đảnh, tức cũng là bậc Pháp Vương tử, có tư cách sẽ thành Phật.
Bất cửu nhữ đương đắc, Chẳng lâu ngươi sẽ được
Dữ chư Phật tử đẳng, Ðồng với chư Phật-Tử
Kiến khổ não chúng sanh, Thấy chúng-sanh khổ não
Tất trí an ẩn xứ. Ðều đặt chỗ an ổn.
Tương lai chẳng bao lâu, ngươi sẽ đắc được bậc đồng đệ tử của chư Phật, thấy được chúng sinh khổ não, đều đặt để họ ở nơi an ổn, khiến cho họ tâm không còn lo sợ nữa, lìa khổ được vui, chấm dứt sinh tử.
Như hạ như thị chủng, Ðã gieo giống như vậy
Tất hoạch như thị quả, Sẽ gặt trái như vậy
Ngã kim khánh úy nhữ, Nay ta khen tặng ngươi
Nhữ ưng Đại hân duyệt. Nên sanh lòng vui đẹp.
Ngươi đã gieo xuống hạt giống như vậy, hiện tại đã nở hoa bồ đề, tương lai chắc chắn sẽ đắc được quả bồ đề thật. Nay ta khen tặng ngươi, chúc mừng ngươi. Ngươi nên sinh tâm vui mừng lớn, đừng có sự khổ não lo buồn.
Vô lượng chư Bồ-tát, Vô-luợng chư Bồ-Tát
Vô lượng kiếp hành đạo, Hành đạo vô-lượng kiếp
Vị năng thành thử hạnh, Chưa thành được hạnh nầy
Kim nhữ giai hoạch đắc. Nay ngươi đều được trọn.
Có vô lượng các Bồ Tát, ở trong vô lượng kiếp hành Bồ Tát đạo, rộng độ chúng sinh, chẳng từ lao nhọc, nhưng vẫn chưa hoàn thành hạnh Bồ Tát của các Ngài tu, vẫn chưa thành tựu viên mãn Phật quả. Ngươi là người may mắn nhất, là người thành tựu nhất. Nay ngươi đều đắc được trí huệ và địa vị, nhưng đừng có kiêu ngạo, vẫn phải nỗ lực tu tập.
Tín lạc kiên tấn lực, Thiện-Tài thành những hạnh:
Thiện Tài thành thử hạnh. Tín, nguyện, kiên, tấn, lực,
Nhược hữu kính mộ tâm, Ai có lòng kính mộ
Diệc đương như thị học. Cũng phải học như vậy.
Ngươi đối với đại pháp bồ đề, có tâm tin kiên cố, có sức tinh tấn an vui. Thiện Tài hành giả! Ngươi đã thành tựu hạnh môn của Bồ Tát tu. Nếu ai có tâm cung kính hâm mộ ngươi, thì sẽ học tập theo tâm bồ đề mà ngươi đã phát, tu quả bồ đề.
Nhất thiết công đức hạnh, Tất cả công-đức-hạnh
Giai tùng nguyện dục sanh; Ðều từ tâm nguyện sanh
Thiện Tài dĩ liễu tri, Thiện-Tài đã biết rõ
Thường lạc cần tu tập. Thường thích siêng tu học.
Tất cả hạnh công đức, đều từ nguyện dục sinh ra. Thiện Tài hành giả ! Ngươi đã biết rõ đạo lý nầy, cho nên luôn luôn an vui, siêng tu tập pháp môn nầy.
Như long bố mật vân, Như rồng bủa mây dầy
Tất đương tuôn đại vũ; Tất sẽ tuôn mưa lớn
Bồ Tát khởi nguyện trí, Bồ-Tát khởi nguyện trí
Quyết định tu chư hạnh. Quyết định tu công-hạnh.
Giống như khi Long Vương mưa xuống, thì trước hết nổi mây dày, sau đó sẽ rưới mưa lớn xuống. Bồ Tát phát khởi nguyện lực, sinh ra trí huệ, mới quyết định tu hành tất cả các hạnh. Tu hành mới có trí huệ, có trí huệ mới tu hành, chỗ nầy có sự quan hệ với nhau. Có nguyện lực mới có hằng tâm tu hành, có hằng tâm tu hành mới sinh ra nguyện lực, đây cũng có sự tương quan trợ giúp với nhau. Tóm lại, tu hành phải cung hành thực tiễn, chẳng phải nói mà không làm, nếu chỉ nói mà không làm, thì chẳng có lợi ích gì. Bánh vẽ thì không thể no được, nói ăn mà không ăn thì không thể no được.
Nhược hữu thiện tri thức, Nếu có thiện-trí-thức
Thị nhữ Phổ Hiền hạnh; Dạy ngươi hạnh Phổ-Hiền
Nhữ đương hảo thừa sự, Ngươi nên khéo kính thờ
Thận vật sanh nghi hoặc. Cẩn thận chớ nghi hoặc.
Nếu như gặp thiện tri thức chỉ bày cho ngươi mười Đại Nguyện Vương của Bồ Tát Phổ Hiền tu, thì ngươi nên thờ phụng cho tốt. Ngươi phải cẩn thận hành sự, chớ có sinh tâm nghi hoặc. Ngươi phải chân thật tin thọ phụng hành, y pháp tu hành.
Phật pháp dù có nói bao nhiêu, đều phải cung hành thực tiễn, chẳng có tơ hào tâm ích kỷ lợi mình. Tuỳ thời tuỳ lúc, vì lợi ích chúng sinh mà tu hành, chẳng tu hành thì làm sao lợi ích chúng sinh ? Khi tu hành thì đừng có tâm cống cao ngã mạn, cho rằng mình giỏi, chẳng có ai bằng mình. Sinh thứ tâm nầy, thì thần Hộ pháp sẽ xa lìa bạn. Tại sao ? Vì bạn vẫn còn tâm thế tục, chưa buông bỏ đặng. Một số người nói được, mà làm không được, tâm miệng chẳng như một, lời nói việc làm chẳng đi đôi với nhau. Bất cứ làm việc gì, cũng đừng có phô trương, đừng có lười biếng, phải làm một cách chân thành, phải làm tròn trách nhiệm.
Người tu đạo phải biết tri hành hợp nhất, lời nói đi đôi với việc làm, nói thì phải làm. Đối với tất cả pháp đừng có khởi tâm nghi hoặc. Phàm là Kinh điển đều từ kim khẩu của Phật nói ra, hết thảy giới luật, đức Phật đều hành trì. Hết thảy luận tạng, đều do các Tổ sư tự thân chứng, nếu không sinh tâm nghi hoặc, thì sẽ tương ưng với đạo. Do đó có câu :
« Người tu đạo tâm đừng nghi,
Nếu không có tâm nghi,
Thì thoát khỏi mê hoặc ».
Sinh tâm nghi hoặc, thì sẽ ở trong sương mù, không biết được phương hướng, tìm chẳng được con đường chân chánh. Phải tin tam tạng mươi hai bộ, lời nói hành động phải phải căn cứ nơi tam tạng Kinh điển, không đi trật đường, đó mới là bản sắc của người tu đạo.
Nhữ ư vô lượng kiếp, Ngươi trong vô-lượng kiếp
Vi dục vọng xả thân; Vì dục vọng bỏ thân
Kim vi cầu Bồ-đề, Nay vì cầu bồ-đề
Thử xả phương vi thiện. Xả thân mới là tốt.
Thiện Tài hành giả ! Ngươi ở trong vô lượng kiếp về trước, vì dục niệm và dục vọng mà bỏ đi thân thể của mình. Nay vì cầu bồ đề giác đạo mà xả thân, sự xả thân nầy có giá trị nhất. Chân chánh bố thí, mới là nghiệp lành. Ngươi vì cứu chúng sinh khổ, mà đi các nơi tham phương thiện tri thức, cầu môn giải thoát, do đó có câu : « Vì pháp quên mình », đây là tinh thần đáng quý.
Nhữ ư vô lượng kiếp, Ngươi trong vô-lượng kiếp
Cụ thọ sanh tử khổ, Chịu đủ khổ sanh tử
Bất tằng sự chư Phật, Chẳng từng thờ chư Phật
Vị Văn như thị hành. Chưa nghe hạnh như vậy.
Thiện Tài hành giả! Ngươi ở trong vô lượng kiếp về trước, thọ đủ thứ khổ sinh tử luân hồi, giống như mọi người. Ngươi chưa từng phụng thờ chư Phật, cũng chưa nghe danh hiệu của chư Phật. Hạnh môn của chư Phật tu, hạnh môn của Bồ Tát tu, hạnh môn của bậc Thánh nhân tu, ngươi vốn chưa từng nghe qua. Tại sao? Vì căn lành của ngươi không đủ, công đức không đủ, nhân duyên chưa thành thục.
Nhữ kim đắc nhân thân, Nay ngươi được thân người
Trị Phật thiện tri thức, Gặp Phật, thiện-tri-thức
Thính thọ Bồ-đề hạnh, Nghe lãnh hạnh bồ-đề
Vân hà bất hoan hỉ! Thế nào chẳng hoan-hỉ.
Thiện Tài hành giả! Nay ngươi đã được thân người, do đó có câu:
“Thân người khó được
Nước lớn khó sinh
Phật pháp khó nghe
Thánh nhân khó gặp”.
Nay ngươi gặp được Phật xuất hiện ra đời, lại gặp được năm mươi vị thiện tri thức, lắng nghe nhiếp thọ hạnh bồ đề, làm sao mà không hoan hỉ cho được!
Tuy ngộ Phật hưng thế, Dầu gặp Phật xuất thế
Diệc trị thiện tri thức; Cũng gặp thiện-tri-thức
Kỳ tâm bất thanh tịnh, Mà lòng chẳng thanh-tịnh
Bất Văn như thị Pháp. Chẳng nghe pháp như vậy.
Hiện tại tuy ngươi gặp Phật xuất hiện ra đời, cũng gặp được thiện tri thức. Nếu tâm ngươi chẳng thanh tịnh, thì cũng chẳng nghe pháp vi diệu thâm sâu vô thượng như vậy.
Nhược ư thiện tri thức, Nếu nơi thiện-tri-thức
Tín lạc tâm tôn trọng, Tin mến lòng tôn trọng
Ly nghi bất bì yếm, Lìa nghi chẳng mỏi nhàm
Nãi Văn như thị Pháp. Mới nghe pháp như vậy.
Nếu ngươi đối với thiện tri thức, sinh tâm tin ưa và tôn trọng, thì sẽ lìa khỏi tâm nghi hoặc và tâm không mỏi nhàm, sẽ dũng mãnh tinh tấn, vĩnh viễn không giải đãi, như vậy mới nghe được diệu pháp không thể nghĩ bàn.
Nhược hữu văn thử pháp, Nếu ai nghe pháp nầy
Nhi hưng thệ nguyện tâm; Mà phát lòng thệ nguyện
Đương tri như thị nhân, Phải biết người như vậy
Dĩ hoạch quảng đại lợi. Ðược lợi ích rộng lớn.
Nếu có ai nghe được diệu pháp nầy, mà sinh tâm đại thệ nguyện, thì nên biết người như vậy, đã đắc được lợi ích rộng lớn. Lợi ích đó diệu không thể tả, nói ra thì không còn diệu.
Như thị tâm thanh tịnh, Tâm thanh tịnh như vậy
Thường đắc cận chư Phật, Thường được gần chư Phật
Diệc cận chư Bồ-tát, Cũng gần chư Bồ-Tát
Quyết định thành Bồ-đề. Quyết định thành bồ-đề.
Tâm thanh tịnh như vậy, chẳng có nhiễm ô, thì thường được gần gũi chư Phật, cũng được gần gũi các Bồ Tát, chuyên tâm lắng nghe diệu pháp của các Ngài nói, thì chắc chắn sẽ thành tựu quả vị bồ đề giác đạo.
Nhược nhập thử pháp môn, Nếu vào pháp-môn nầy
Tức cụ chư công đức, Thời đủ các công-đức
Vĩnh ly chúng ác thú, Lìa hẳn các ác-thú
Bất thọ nhất thiết khổ. Chẳng thọ tất cả khổ.
Nếu vào pháp môn nầy, thì sẽ đầy đủ các công đức, vĩnh viễn lìa khỏi ba đường ác, chẳng thọ tất cả sự thống khổ, mà đắc được tất cả an vui.
Bất cửu xả thử thân, Chẳng lâu bỏ thân nầy
Vãng sanh Phật quốc độ, Vãng sanh về Phật-Ðộ
Thường kiến thập phương Phật, Thường thấy thập phương Phật
Cập dĩ chư Bồ-tát. Và cùng chư Bồ-Tát.
Ngươi chẳng bao lâu nữa trong tương lai, xả bỏ báo thân nầy, thì sẽ vãng sinh về cõi nước chư Phật. Luôn luôn thấy được mười phương chư Phật, cùng với các Bồ Tát trong mười phương.
Vãng nhân kim tịnh giải, Nhơn trước, nay trí-huệ
Cập sự thiện hữu lực, Và thờ thiện-tri-thức
Tăng trưởng chư công đức, Thêm lớn các công-đức
Như thủy sanh liên hoa. Như nước mọc hoa sen.
Thuở xưa ngươi đã gieo trồng nhân thanh tịnh, hôm nay đắc được giải thoát thanh tịnh. Do nhờ sức lực ngươi phụng thờ thiện tri thức, nên tăng trưởng các công đức lành, giống như đạo lý ở trong nước sinh ra hoa sen.
Lạc sự thiện tri thức, Thích thờ thiện-tri-thức
Cần cúng nhất thiết Phật, Siêng cúng tất cả Phật
Chuyên tâm thính văn Pháp, Chuyên tâm nghe chánh-pháp
Thường hành vật giải quyện. Thường tu chớ lười mỏi.
Ngươi hoan hỉ phụng thờ tất cả thiện tri thức, ngươi lại hoan hỉ siêng tu cúng dường tất cả chư Phật mười phương. Ngươi lại hoan hỉ chuyên tâm lắng nghe chánh pháp, người lại luôn luôn tu hành Bồ Tát hạnh, chớ có giải đãi, chớ có mệt mỏi, phải tinh tấn, phải siêng tu học.
Nhữ thị chân Pháp khí, Ngươi là chân-pháp-khí
Đương cụ nhất thiết pháp, Thường đủ tất cả pháp
Đương tu nhất thiết đạo, Sẽ tu tất cả đạo
Đương mãn nhất thiết nguyện. Sẽ mãn tất cả nguyện.
Ngươi chân chánh là pháp khí, sẽ đầy đủ tất cả Phật pháp, sẽ tu hành tất cả Phật đạo, sẽ viên mãn tất cả đại nguyện, sẽ thành tựu tất cả tự tại.
Nhữ dĩ tín giải tâm, Ngươi dùng tâm tín giải
Nhi lai lễ kính ngã, Mà đến kính lễ ta
Bất cửu đương phổ nhập, Chẳng lâu sẽ vào khắp
Nhất thiết chư Phật hội. Tất cả phật-pháp-hội.
Ngươi dùng tâm tin hiểu, mà đi đến đại lầu các báu lễ kính ta, chẳng bao lâu trong tương lai, ngươi sẽ vào khắp tất cả pháp hội của chư Phật mười phương, gần gũi Phật, cúng dường Phật.
Thiện tai chân Phật tử, Lành thay chân Phật-Tử
Cung kính nhất thiết Phật, Cung kính tất cả Phật
Bất cửu cụ chư hạnh, Chẳng lâu đủ các hạnh
Đáo Phật công đức ngạn. Ðến bờ phật công-đức.
Lành thay! Ngươi thật là đệ tử của Phật, cung kính tất cả chư Phật. Chẳng bao lâu nữa trong tương lai, ngươi sẽ đầy đủ tất cả Bồ Tát hạnh, đến được công đức bờ bên kia của Phật.
Sáu mươi ba bài kệ ở trên là khen ngợi Thiện Tài. Hai mươi sáu bài kệ trước là khen quả đức, bảy bài kệ kế tiếp là khen hiện đức, tám bài kệ kế tiếp là khen gặp hữu đức, năm bài kệ kế tiếp là khen sớm thành bậc hạnh đức, bảy bài kệ cuối là tổng minh các đức.
Nhữ đương vãng đại trí, Ngươi nên mau đến chỗ
Văn-thù-sư-lợi sở; Của Ðại-Trí Văn-Thù
Bỉ đương lệnh nhữ đắc, Ngài sẽ khiến ngươi được
Phổ Hiền thâm diệu hạnh. Hạnh thâm-diệu Phổ-Hiền.
Thiện Tài hành giả! Ngươi nên trở về chỗ Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, Ngài sẽ khiến cho ngươi đắc được diệu hạnh thâm sâu vi diệu của Bồ Tát Phổ Hiền. Về sau Bồ Tát Phổ Hiền tâm bi tha thiết, vì Ngài nói hạnh Mười Đại Nguyện Vương. Một bài kệ nầy, lược bày hậu hữu.
Nhĩ thời, Di lặc Bồ-Tát Ma-ha-tát tại chúng hội tiền, xưng tán Thiện Tài Đại công đức tạng. Thiện Tài văn dĩ, hoan hỉ dũng dược, thân mao giai thụ, bi khấp ngạnh ế; khởi lập hợp chưởng, cung kính chiêm ngưỡng, nhiễu vô lượng tạp.
Thiện-Tài nghe Di-Lặc Bồ-Tát ở trước đại-chúng tán dương công-đức tạng quảng-đại của mình, liền vui mừng hớn hở, toàn thân rởn ốc, rơi lệ nghẹn ngào, đứng dậy chắp tay cung kính hữu nhiễu vô-lượng vòng.
Giảng: Lúc đó, đại Bồ Tát Di Lặc ở trước chúng hội, tán than khen ngợi đại công đức tạng của Thiện Tài đồng tử. Thiện Tài đồng tử nghe rồi, vui mừng hớn hở, các chân lông trên thân đều dựng đứng, rơi lệ nghẹn ngào, đứng dậy chắp tay, tự nghĩ: Vì cầu Bồ Tát hạnh mà đi các nơi tham phương thiện tri thức, trải qua biết bao gian khổ, chịu đựng biết bao cực khổ, gặp được thiện tri thức thấu hiểu về mình, trở thành bạn tri âm. Lập tức đứng dậy, chắp tay lại, cung kính Bồ Tát Di Lặc, chiêm ngưỡng Bồ Tát Di Lặc, đi nhiễu quanh bên phải vô lượng vòng, biểu thị sự tôn trọng sùng bái.
Dĩ Văn-thù-sư-lợi tâm niệm lực cố, chúng hoa, anh lạc, chủng chủng diệu bảo bất giác hốt nhiên tự doanh kỳ thủ; Thiện Tài hoan hỉ, tức dĩ phụng tán Di lặc Bồ-Tát Ma-ha-tát thượng. Thời, Di Lặc Bồ-tát ma Thiện Tài đảnh vi thuyết tụng ngôn:
Do sức tưởng niệm đức Văn-Thù nên bất giác những hoa anh-lạc và diệu-bửu bỗng nhiên đầy cả hai tay. Thiện-Tài liền rải lên cúng-dường Di-Lặc Bồ-Tát. Bấy giờ Di-Lặc Bồ-Tát xoa đầu Thiện-Tài mà nói kệ rằng:
Giảng: Do nhờ sức tâm niệm Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, bất giác hốt nhiên, trong tay đầy các thứ hoa báu, các thứ chuỗi ngọc, đủ thứ báu đẹp, Thiện Tài đồng tử vui mừng đến cực điểm, bèn đem rải lên trên toà của đại Bồ Tát Di Lặc. Lúc đó, Bồ Tát Di Lặc dũi tay phải, rờ đầu Thiện Tài đồng tử mà nói kệ rằng:
Thiện tai thiện tai chân Phật tử! Lành thay, lành thay chơn Phật-Tử!
Phổ sách chư căn vô giải quyện, Tinh tấn các căn không lười mỏi
Bất cửu đương cụ chư công đức, Chẳng lâu sẽ đủ các công-đức
Do như Văn Thù cập dữ ngã. Giống như Văn-Thù và Di-Lặc.
Lành thay! Lành thay! Ngươi chân chánh là đệ tử của Phật! Ngươi đều sách tấn các căn, dũng mãnh tu đạo, tinh tấn cầu pháp, đi các nơi tham phương thiện tri thức, không khi nào lười mỏi, chẳng bao lâu nữa trong tương lai, ngươi sẽ đầy đủ tất cả công đức lành, ngươi sẽ giống như Bồ Tát Văn Thù cùng với ta, công đức của ngươi sẽ vô lượng vô biên.
Thời, Thiện tài đồng tử dĩ tụng đáp viết:
Bây giờ Thiện-Tài nói kệ kính thưa:
Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử rất cao hứng, bèn dùng kệ để đáp lại kệ của Bồ Tát Di Lặc:
Ngã niệm thiện tri thức, Tôi nghĩ thiện-tri-thức
Ức kiếp nan trực ngộ; Ức kiếp khó được gặp
Kim đắc hàm thân cận, Nay đều được thân-cận
Nhi lai nghệ tôn sở. Và đến gặp được Ngài.
Thiện Tài đồng tử nói: Con thường tưởng nhớ đến tất cả thiện tri thức, trong ức kiếp rất khó gặp được thiện tri thức. Hôm nay con rất may mắn, được gần gũi năm mươi vị thiện tri thức. Hiện tại con đã đến chỗ đại bảo lầu các của Ngài, xin Ngài hãy từ bi chỉ giáo cho con.
Ngã dĩ Văn Thù cố, Tôi nhờ đức Văn-Thù
Kiến chư nạn kiến giả; Ðược thấy người khó thấy
Bỉ Đại công đức tôn, Bậc đại công-đức kia
Nguyện tốc hoàn chiêm cận. Nguyện sớm về thờ kính.
Con nhờ sự chỉ dạy và giáo hoá của Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, cho nên mới thấy được các vị thiện tri thức khó thấy, các Ngài đều là bậc có đại công đức, con nguyện tiếp thọ sự chỉ dạy sớm về chiêm ngưỡng, kính thờ, lễ bái Bồ Tát Văn Thù. Bồ Tát Văn Thù là thầy Đạo sư đầu tiên của con.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét