Phẩm Thập Địa 6

Kinh Hoa Nghiêm

Đại Phương Quảng Phật

giảng giải

Phẩm Thứ 26

Hòa Thượng TUYÊN HÓA
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Minh Ðịnh

— o0o —

Phẩm Thập Địa 6

Đệ Lục Địa – Hiện Tiền Địa

 

Bồ Tát ký văn chư thắng hành Bồ Tát đã nghe những thắng hạnh
Kỳ tâm hoan hỉ vũ hương khí Lòng rất hoan hỷ rải hoa thơm
Phóng Tịnh Quang minh tán bảo châu, Phóng tịnh quang minh rải bửu châu
Cúng dường Như Lai xưng thiện thuyết. Cúng duờng Như Lai khen nói giỏi.

Giảng: Các vị đệ tử của Phật sau khi nghe Bồ Tát Kim Cang Tạng nói xong hạnh môn thù thắng Địa thứ năm rồi, đều sinh tâm đại hoan hỉ, vọt lên hư không rải xuống hoa quý đẹp như mưa. Lại phóng ra quang minh thanh tịnh, rải xuống vô lượng châu báu, để cúng dường mười phương chư Phật và đức Phật Thích Ca. Và còn tán thán khen ngợi nói : “Pháp bảo chư Phật nói ra, đều là vi diệu vô thượng”.

 

Bách thiên Thiên Chúng giai hân khánh, Trăm ngàn thiên chúng đều vui mừng
Cọng tại không trung tán chúng bảo, Ðồng ở hư không rải các báu:
Hoa man anh lạc cập tràng phan, Tràng hoa, chuổi ngọc và tràng phan
Bảo cái đồ hương hàm cúng Phật. Lọng báu, hương thoa đều cúng phật.

Giảng: Nhiều trăm ngàn Thiên nhân đều vui mừng nhảy múa, cùng nhau ở trong hư không rải xuống vô số châu báu, đủ thứ tràng hoa, anh lạc, tràng phan, còn có đủ thứ lọng báu, hương thoa danh quý, đều dùng để cúng dường chư Phật.

 

Tự tại Thiên Vương tinh quyến thuộc, Tự tại thiên vương cùng quyến thuộc
Tâm sanh hoan hỉ trụ không trung, Lòng sanh hoan hỷ trụ hư không
Tán bảo thành vân trì cúng dường Rải báu thành mây dùng cúng dường
Tán ngôn: Phật tử khoái tuyên thuyết! Khen rằng Phật tử khéo tuyên thuyết!

Giảng: Đại Tự Tại Thiên Vương cùng với quyến thuộc rất hoan hỉ, cùng nhau ở trong hư không, rải xuống vô lượng châu báu, hình thành giống như vầng mây, dùng để cúng dường đức Phật. Đồng thời đều lớn tiếng khen ngợi, thỉnh cầu Bồ Tát Kim Cang Tạng nói : “Đại đệ tử của Phật ! Xin Ngài hãy mau tiếp tục nói” !

 

Vô lượng Thiên nữ không trung trụ Vô lượng thiên nữ ở hư không
Cọng dĩ nhạc âm Ca tán Phật, Ðồng tấu nhạc âm ca ngợi phật
Âm trung tất tác như thị ngôn: Trong tiếng ca nhạc đều nói rằng
Phật ngữ năng trừ phiền não bệnh. Lời phật hay trừ bịnh phiền não

Giảng: Vô số Thiên nữ đều ở trong hư không, cùng nhau tấu lên nhạc trời rất hay, ca xướng tán thán khen ngợi công đức của Phật. Ý nghĩa ca xướng đều nói như vầy : “Lời dạy của đức Phật, lời lẽ nhu hoà, nghe rồi có thể khiến cho tiêu trừ tám vạn bốn ngàn phiền não và bệnh tật, mà đắc được mát mẻ”.

 

Pháp tánh bản tịch vô chư tướng, Pháp tánh bổn tịch không hình tướng
Do như hư không bất phân biệt, Dường như hư không chẳng phân biệt
Siêu chư thủ trước tuyệt ngôn đạo, Ngoài những chấp trước, tuyệt nói phô
Chân thật bình đẳng thường thanh tịnh. Chơn thiệt bình đẳng thường thanh tịnh.

Giảng: “Các pháp không tự sinh, cũng chẳng từ tha sinh, chẳng cùng chẳng không sinh, cho nên nói không sinh”. (chư pháp bất tự sanh, diệc bất tùng tha sanh, bất cộng bất vô sanh, thị cố thuyết vô sanh). Bản tánh của pháp là vắng lặng bất động. Dụng của pháp là “cảm mà toại thông”, nó không hình không tướng, cho nên phải “quét tất cả pháp, lìa tất cả tướng”. Có phân biệt thì không thể gọi là hư không. Người học Phật phải giống như hư không, tức không chấp vào “pháp”, càng không chấp vào thấy “ta, người”. Bản thể của pháp là “Ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ diệt”, lìa văn tự lời nói, là chân thật, bình đẳng, cũng là thanh tịnh, vắng lặng.

 

Nhược năng thông đạt chư pháp tánh, Nếu muốn thông đạt các pháp tánh
Ư hữu ư vô tâm bất động. Nơi có, nơi không lòng chẳng động
Vi dục cứu thế cần tu hành, Vì muốn cứu đời siêng tu hành
Thử Phật khẩu sanh chân Phật tử. Từ miệng phật sanh chơn Phật tử.

Giảng: Nếu như bạn hay đối với tất cả sự tướng đều không chấp trước, tức là thông đạt bản tánh của các pháp. Tâm ý của bạn đều không bị pháp hữu vi, hoặc pháp vô vi làm giao động. Bồ Tát vì cứu độ người đời, cho nên nỗ lực siêng tu Phật đạo. Như vậy mới từ trong miệng Phật sinh ra, từ pháp hoá sinh ra chân chánh đệ tử Phật.

 

Bất thủ chúng tướng nhi hành thí, Bố thí vẫn không thấy có tướng
Bổn tuyệt chư ác kiên trì giới, Vốn đứt điều ác gìn giử tịnh giới
Giải Pháp vô hại thường kham nhẫn Hiểu pháp không hại, thường nhẫn nhịn,
Tri Pháp tánh ly cụ tinh tấn Biết pháp tánh ly, chuyên tinh tấn

Giảng: “Không thủ các tướng”, tức là đối với chúng sinh chẳng có thành kiến tốt, xấu, thiện, ác. Khi hành bố thí, thì trong tâm chẳng có bất cứ mục đích gì, vốn đều là tam luân thể không, dùng tâm đại từ bình đẳng hành bố thí. Tam luân thể không là:
1. Không người thí.
2. Không người nhận.
3. Không vật bố thí.
Tam luân đều không, mới thật là bố thí. Con người khi mới sinh ra, vốn đều là thiện lương, chỉ vì sau này tuỳ theo hoàn cảnh mà thay đổi, làm thiện tạo ác, làm cho hồ đồ. Nếu như theo thiện như dòng nước, biết lỗi liền sửa, kiên trì giới hạnh, thì sẽ không tạo ra các điều ác. Bản thân của pháp chẳng có thiện ác, pháp cũng chẳng phải ràng buộc người. Người thấu rõ pháp, tức là người thấu rõ lý, nhất định họ sẽ kiêm hư hoà mục, không tranh với người. Biết pháp tánh và pháp dụng, lìa khỏi tất cả chấp trước, tức là đủ điều kiện tinh tấn.

 

Dĩ tận phiền não nhập chư Thiền Ðã hết phiền não vào thiền định
Thiện đạt tánh không phân biệt Pháp, Khéo đạt tánh không,phan biệt pháp
Cụ túc trí lực năng bác tế, Ðầy đủ trí lực, hay cứu rộng
Diệt trừ chúng ác xưng đại sĩ. Diệt trừ điều ác xưng đại sĩ.

Giảng: Đã dứt sạch tất cả phiền não, tiến vào cảnh giới tứ thiền, đắc được pháp hỉ giải thoát. Cũng thấu rõ pháp tánh vốn không, cũng không phân biệt. Đầy đủ tất cả trí lực, hay rộng độ hết thảy chúng sinh. Diệt trừ hết tất cả niệm ác, như vậy tức là trở thành một vị đại Bồ Tát.

 

Như thị Diệu-Âm thiên vạn chủng Diệu âm như vậy ngàn vạn thứ
Tán dĩ mặc nhiên chiêm ngưỡng Phật. Khen rồi đứng yên chiêm ngưỡng phật.
Giải thoát nguyệt ngữ Kim Cương tạng: Giải thoát nguyệt Bồ Tát rằng
Dĩ hà hành tướng nhập hậu địa? Dùng hành tướng vào địa sau

Giảng: Âm thanh vi diệu như vậy có ngàn vạn thứ. Các Bồ Tát và Thiên chúng khen ngợi đức Phật rồi, mọi người đều yên lặng tỏ ra niềm hân hoan chiêm ngưỡng đức Phật. Lúc đó, Bồ Tát Giải Thoát Nguyệt lại nói với Bồ Tát Kim Cang Tạng : “Dùng pháp môn gì tu hành ? Có tướng trạng thế nào ? Mới có thể tiến vào Địa thứ sáu ?”

 

Kim Cương tạng Bồ Tát cáo giải thoát nguyệt Bồ Tát ngôn: Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát dĩ cụ túc đệ ngũ địa, dục nhập đệ lục hiện tiền địa, đương quan sát thập bình đẳng pháp.

Bấy giờ, Bồ Tát Kim Cang Tạng nói với Bồ Tát Giải Thoát Nguyệt rằng : Phật tử ! Đại Bồ Tát đã đầy đủ Địa thứ năm, muốn vào Hiện Tiền Địa thứ sáu, phải quán sát mười pháp bình đẳng.

Giảng: Lúc đó, Bồ Tát Kim CangTạng nói với Bồ Tát Giải Thoát Nguyệt rằng : “Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát tu hành Bồ Tát đạo, tích tụ đủ thứ căn lành, đã tu hành viên mãn pháp môn thứ năm Nan Thắng Địa, hy vọng tiếp tục tiến vào – Hiện Tiền Địa thứ sáu. Phải quán sát mười thứ pháp môn bình đẳng. Tu mười pháp môn bình đẳng nầy, tuần tự tiến dần, sau đó mới có thể tiến vào Địa thứ sáu được “.

 

Hà đẳng vi thập? sở vị: nhất thiết pháp vô tướng cố bình đẳng, vô thể cố bình đẳng, vô sanh cố bình đẳng, vô thành cố bình đẳng, bản lai thanh tịnh cố bình đẳng, vô hí luận cố bình đẳng, vô thủ xả cố bình đẳng, tịch tĩnh cố bình đẳng, như huyễn, như mộng, như ảnh, như hưởng, như thủy trung nguyệt, như kính trung tượng, như diễm, như hóa cố bình đẳng, hữu, vô bất nhị cố bình đẳng.

Những gì là mười ?Đó là : Tất cả pháp không tướng nên bình đẳng. Không thể nên bình đẳng. Không sanh nên bình đẳng. Không thành nên bình đẳng. Bổn lai thanh tịnh nên bình đẳng. Không hí luận nên bình đẳng. Không lấy bỏ nên bình đẳng. Vắng lặng nên bình đẳng. Như huyễn, như mộng, như bóng, như vang, như trăng dưới nước, như hình trong gương, như diệm, như hoá, nên bình đẳng. Có, không chẳng hai nên bình đẳng.

Giảng: Phải quán sát mười thứ pháp môn bình đẳng như thế nào ? Tức là :

1. Tất cả pháp vốn chẳng có tướng trạng của nó, vì chẳng có tướng trạng, cho nên “Pháp thì bình đẳng, chẳng có cao thấp”.

2. Pháp không tự tướng, cũng không tự thể. Trên mỗi thân chúng sinh đều có pháp, nhưng vì không có tự thể, cho nên nhìn không ra.

3. Pháp chẳng có sinh, cũng chẳng có diệt, vì không sinh không diệt, cho nên bình đẳng.

4. Pháp chẳng có thành, cũng chẳng có hoại, vì chẳng thành chẳng hoại, cho nên bình đẳng.

5. Pháp vốn thanh tịnh, cũng chẳng có gì có thể nhiễm ô nó. Vì thanh tịnh không dơ, cho nên bình đẳng.

6. Pháp đều là chân thật, không thể hí luận, cho nên bình đẳng.

7. Pháp không thể thủ lấy được, cũng không thể bỏ được, vì không lấy không bỏ, cho nên bình đẳng.

8. “Các pháp tùng bản lai, thường tự tịch diệt tánh”. Nó vốn tịch diệt, không bị ngoại cảnh biến động, cho nên là bình đẳng.

9. Pháp là hư huyễn không thật. Pháp giống như nằm mộng, pháp giống như hình bóng – nói nó có chăng ? Nó chẳng có thật thể. Nói nó chẳng có chăng ? Nó lại có hình bóng. Pháp giống như tiếng vang, chỉ có thể nghe được âm thanh, nhưng nhìn không thấy hình tướng, muốn cầm lên nhìn xem cũng không thể được. Pháp lại giống như mặt trăng trong nước, nhìn tựa như có, muốn lấy lại lấy không được. Pháp giống như hình bóng trong gương, giống như ngọn lửa. Pháp giống như biến hoá, tựa như không lại hoá ra có, tựa như có lại hoá ra không, chẳng có nhất định, cho nên bình đẳng.

10. Có tức là có, có mà chẳng có. Không tức là không, không mà chẳng không. Tức có tức không, tức không tức có. Có không chẳng hai, cho nên cũng là bình đẳng.

 

Bồ Tát như thị quán nhất thiết pháp tự tánh thanh tịnh, tùy thuận vô vi, đắc nhập đệ lục hiện tiền địa, đắc minh lợi tùy thuận nhẫn, vị đắc Vô sanh Pháp nhẫn.

Bồ Tát quán tất cả pháp như vậy, tự tánh thanh tịnh, tuỳ thuận không trái. Được nhập vào Địa thứ sáu Hiện Tiền địa. Đắc được tuỳ thuận nhẫn minh lợi, chưa đắc được vô sinh pháp nhẫn.

Giảng: Bồ Tát nghiên cứu tất cả pháp, quán sát tất cả pháp, hiểu rõ tất cả pháp, thông đạt tất cả pháp như vậy, biết tự tánh thanh tịnh. Tuỳ thuận theo pháp, không trái với đạo lý của pháp. Chiếu theo đó mà tu hành, từng chút từng chút sẽ nhập vào Địa thứ sáu – Hiện Tiền địa. Đắc được trí huệ thông minh vô thượng như vậy. Tuỳ thuận theo chân lý, kiếm trí huệ vốn minh lợi, nhìn thấu tất cả sự việc, bình tâm tĩnh khí hoà bình xử lý, đối với mọi người nhẫn nhịn nhu hoà. Tuy nhiên được như vậy, nhưng vẫn chưa đắc được vô sanh pháp nhẫn chân chánh.

 

Phật tử! thử Bồ-Tát Ma-ha-tát như thị quán dĩ, phục dĩ đại bi vi thủ, đại bi tăng thượng, đại bi mãn túc, quán thế gian sanh diệt. Tác thị niệm: thế gian thọ sanh giai do trước ngã, nhược ly thử trước, tức vô sanh xứ.

Phục tác thị niệm: phàm phu vô trí, chấp trước ư ngã, thường cầu hữu, vô, bất chánh tư duy, khởi ư vọng hạnh, hành ư tà đạo; tội hạnh, phước hạnh, bất động hạnh, tích tập tăng trưởng

Phật tử ! Bồ Tát nầy quán như vậy rồi, lại dùng đại bi làm đầu, đại bi tăng thượng, đại bi đầy đủ. Quán thế gian sanh diệt, mà nghĩ như vầy : Thế gian thọ sanh, đều do chấp cái ta, nếu lìa chấp trước nầy, thì không có chỗ sinh.

Lại nghĩ như vầy : Phàm phu không có trí huệ, chấp trước vào cái ta, thường cầu có, không, suy nghĩ bất chánh, khởi hạnh hư vọng, hành tà đạo, tạo tội, làm phước, làm bất động, tích tập tăng trưởng.

Giảng: Bồ Tát Kim Cang Tạng lại gọi một tiếng các vị đệ tử của Phật ! Vị Bồ Tát nầy đang tu học Địa thứ sáu, Ngài quán sát mười pháp bình đẳng như đã nói ở trước rồi, biết được hành Bồ Tát đạo phải dùng tâm đại bi làm đầu, phải dùng tâm đại bi làm tăng thượng, phải dùng tâm đại bi để viên mãn hết thảy hạnh Bồ Tát. Ngài quán sát tất cả hiện tượng sinh diệt của thế gian, lại nghĩ như vầy : Tất cả sinh vật trên thế gian (bao quát con người trong đó) tại sao lại có sinh có diệt ? Tại sao không thể nào chấm dứt sinh tử ? Đó đều do chấp trước vào chữ “Ta”. “Tướng ta” nhìn không thấu, thì “thấy cái ta” không thể trừ được, “chấp cái ta” không thể nào lìa được, cho nên sinh tử không thể dứt được. Nếu như lìa khỏi được tướng ta, chấp cái ta, thì sinh tử sẽ dứt được.

Bồ Tát lại nghĩ như vầy : “Vì phàm phu chẳng có trí huệ, điên đảo ngu si, cho nên chấp vào cái ta. Do chấp trước mà sinh ra cống cao ngã mạn, luôn luôn dùng công phu trên pháp hữu vi, pháp vô vi, không sinh tư tưởng chánh đáng. Dùng vô minh làm nhân, cứ sinh ra tà tri tà kiến, làm những việc ác hư vọng, ba nghiệp chẳng thanh tịnh. Bàng môn tả đạo, thân đầy tội ác. Nhưng có lúc lại làm chút căn lành công đức. Do đó mà tội nghiệp thiện nghiệp xen tạp không rõ ràng, chẳng có định kiến. Như đây tạo nghiệp quá nhiều, không dễ thay đổi, thì trong nghiệp lực không thể chuyển động được. Làm tội ngày càng chồng chất, tăng trưởng không ngừng, một khi nghiệp nhân chín mùi, thì sẽ theo nghiệp thọ báo.

 

Ư chư hạnh trung thực tâm chủng tử, hữu lậu hữu thủ, phục khởi hậu hữu sanh cập lão tử. Sở vị: nghiệp vi điền, thức vi chủng, vô minh ám phước, ái thủy vi nhuận, ngã mạn khái quán, kiến võng tăng trưởng, sanh danh sắc nha, danh sắc tăng trưởng sanh ngũ căn, chư căn tướng đối sanh xúc, xúc đối sanh thọ, thọ hậu hy cầu sanh ái, ái tăng trưởng sanh thủ, thủ tăng trưởng sanh hữu; hữu sanh dĩ, ư chư thú trung khởi ngũ uẩn thân danh; sanh, sanh dĩ suy biến vi lão, chung một vi tử. ư lão tử thời, sanh chư nhiệt não; nhân nhiệt não cố, ưu sầu bi thán, chúng khổ giai tập.

Ở trong các hạnh, trồng hạt giống tâm, hữu lậu có thủ lấy. Lại khởi cõi sau, sanh và lão tử. Do đó gọi nghiệp là ruộng, thức là hạt giống, vô minh đen tối che đậy, nước ái thấm nhuần, ngã mạn tưới nước, lưới chấp kiến tăng trưởng, sinh mầm danh sắc. Danh sắc tăng trưởng sinh ra năm căn. Các căn tương đối sinh xúc, xúc đối sinh ra thọ, thọ rồi mong cầu sinh ra ái. Ái tăng trưởng sinh ra thủ, thủ tăng trưởng sinh ra hữu, hữu sinh rồi thì ở trong các cõi khởi thân năm uẩn gọi là sinh. Sinh rồi, suy biến là già, cuối cùng là chết. Khi già chết thì sinh các nhiệt não. Vì nhiệt não nên ưu sầu bi ai các khổ đều tụ tập.

Giảng: Ở trong các nghiệp hạnh tất cả thiện ác hỗn hợp, thì ở trong ruộng tâm thức trồng xuống hạt giống sinh tử lưu chuyển. “Hạt giống” nầy là “nhân” của hữu lậu; có “nhân” nầy rồi, thì sinh ra “chấp thủ”. Có “chấp thủ”, thì sẽ sinh ra “cõi sau”, bèn có “đời sau”. Do “đời sau” nên có “già chết”. Tạo nghiệp cũng giống như một thửa ruộng. Nhân thiện ác thu ở trong ruộng bát thức, tức là hạt giống. Vô minh che lấp hạt giống nghiệp ruộng. “Ái” giống như nước phân, thấm nhuần từ từ những hạt giống chấp thủ, hữu, sinh, già, chết. Dùng “ngã mạn” để tưới bón nghiệp ruộng, thức giống. Tà kiến như tấm lưới, che đậy những hạt giống nghiệp, khiến cho nó ngày càng tăng trưởng, bèn sinh ra mầm “danh sắc” – bào thai. Mầm danh sắc dần dần lớn lên, thì sinh ra “năm căn” – mắt, tai, mũi, lưỡi, thân. “Sinh căn” và “tánh căn” nầy tương đối, bèn sinh ra “xúc giác”. Phản ứng của xúc giác là “lãnh thọ”. Có cảm thọ rồi, bèn sinh ra tâm tham mong cầu – đây tức là biểu hiện của “ái”. “Ái dục” một khi tăng trưởng, thì sinh ra ý niệm “thủ” lấy. “Thủ” tăng cường, thì hình thành chiếm hữu dục; phàm những gì thấy được, một khi hoan hỉ thì muốn chiếm làm sở “hữu” của mình. Khi “hữu” thành thục, thì thành công đầy đủ thân “năm uẩn” ở trong sáu nẻo luân hồi, đó tức là “sinh”. Sau khi “sinh” rồi, thì chẳng bao lâu sẽ biến thành “suy già”. Cuối cùng, quy về cái chết. Khi lúc già chết, trăm cảm giao tập, người xả bỏ không được ái ; thương tiếc đồ vật, giống như mang đi không được. Ngàn vạn phiền não, ràng buộc tâm. Do những phiền não đó, khiến cho con người khi lâm chung thì tâm lo lắng, buồn khổ, bi ai .v.v… nhiều thứ nói không hết được, đều tụ tập lại với nhau.

 

Thử nhân duyên cố, tập vô hữu tập giả, nhâm vận nhi diệt diệc vô diệt giả. Bồ Tát như thị tùy thuận quan sát duyên khởi chi tướng.

Phật tử! thử Bồ-Tát Ma-ha-tát phục tác thị niệm: ư đệ nhất nghĩa đế bất liễu cố danh: vô minh, sở tác nghiệp quả thị hành, hành y chỉ sơ tâm thị thức, dữ thức cộng sanh tứ thủ uẩn vi danh sắc, danh sắc tăng trưởng vi lục xứ, căn, cảnh, thức tam sự hòa hợp thị xúc, xúc cọng sanh hữu thọ, ư thọ nhiễm trước thị ái, ái tăng trưởng thị thủ, thủ sở khởi hữu lậu nghiệp vi hữu, tùng nghiệp khởi uẩn vi sanh, uẩn thục vi lão, uẩn hoại vi tử; tử thời ly biệt, ngu mê tham luyến, tâm hung phiền muộn vi sầu, thế tứ ti ta vi thán, tại ngũ căn vi khổ, tại ý địa vi ưu, ưu khổ chuyển đa vi não.

Như thị đãn hữu khổ thọ tăng trưởng, vô ngã, vô ngã sở, vô tác, thị cố giả. Phục tác thị niệm: nhược hữu tác giả, tức hữu tác sự; nhược vô tác giả, diệc vô tác sự, đệ nhất nghĩa trung câu bất khả đắc.

Đó là do nhân duyên nên tập hợp, chứ chẳng có kẻ tập, nhậm vận mà diệt, cũng chẳng có kẻ diệt. Bồ Tát tuỳ thuận quán sát tướng duyên khởi như vậy.

Phật tử ! Đại Bồ Tát nầy lại nghĩ như vầy : Nơi đệ nhất nghĩa đế không thấu hiểu, nên gọi là vô minh. Làm những nghiệp quả là hành. Hành y chỉ vào sơ tâm là thức. Thức cùng sinh với bốn thủ uẩn là danh sắc. Danh sắc tăng trưởng là sáu xứ. Căn cảnh thức ba việc hoà hợp là xúc. Xúc cộng với sinh có thọ. Nơi thọ nhiễm trước là ái. Ái tăng trưởng là thủ. Thủ khởi lên nghiệp hữu lậu là hữu. Từ nghiệp khởi uẩn là sinh. Uẩn chín mùi là già. Uẩn hoại là chết. Khi chết ly biệt, ngu mê tham ái, lòng phiền muộn là sầu. Khóc rơi lệ than thở là thán. Tại năm căn là khổ. Tại ý tưởng là ưu. Ưu khổ chuyển nhiều thành não.

Như vậy chỉ có cây khổ tăng trưởng. Không ta, không của ta, không kẻ làm, không kẻ thọ. Lại nghĩ như vầy : Nếu có kẻ làm, thì có làm việc. Nếu không kẻ làm, cũng không làm việc. Trong đệ nhất nghĩa đế đều bất khả đắc.

Giảng: Do “nhiệt não ưu bi” đủ thứ nhân duyên, nên đã trồng xuống “đời sau”. Tuy nhiên nói các khổ tích tập, nhưng không có một thật thể nào khiến cho nó tích tập, chỉ là hư vọng mà sinh, hư vọng mà diệt. Vì hư vọng mới khiến cho con người sinh ra chấp trước. Cho nên nói : “Chẳng có một người nào tích tập, nó tự nhiên nhậm vận mà sinh ra, nhậm vận mà diệt đi. Tức chẳng có năng diệt, cũng chẳng có sở diệt. Chẳng có năng sinh, cũng chẳng có sở sinh. Bồ Tát tư duy quán sát như vậy, dùng trí huệ nghiên cứu những vấn đề nầy, tuỳ thuận cảnh giới quán sát tướng trạng của duyên khởi. Có thể kết luận rằng: Tất cả là hư vọng không thật, duyên khởi không tánh. Do đó:

“Nhân duyên sinh ra pháp
Ta nói tức là không
Cũng gọi là tên giả
Cũng gọi nghĩa trung đạo”.

Bồ Tát Kim Cang Tạng lại gọi một tiếng các vị đệ tử của Phật ! Vị đại Bồ Tát nầy tu hành Bồ Tát đạo, tích tập đủ thứ căn lành, Ngài lại suy gẫm như vầy : Phàm phu vì không minh bạch đệ nhất nghĩa đế – Pháp bốn đế, cho nên gọi là “vô minh”. “Vô minh” tạo nghiệp, thọ quả báo, tức là “hành”. “Hành” là y chỉ tâm niệm lúc ban đầu, đây tức là “thức”.

Với thức đồng sinh ra bốn thủ uẩn – 1. Vô minh. 2. Hành. 3. Thức. 4.

Danh sắc, tức gọi là “danh sắc”. Bốn thứ nầy đồng thời sinh ra. “Danh sắc” lớn dần, bèn có lục nhập – mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý.

Căn : Sáu căn còn gọi là lục xứ, còn gọi là lục nhập.

Cảnh : Sáu trần, tức là tất cả sự tướng.

Thức : Sáu thức, tâm phân biệt khởi lên đối với sự tướng. Ba dạng nầy hợp lại phát sinh ra một thứ tác dụng, tức là “xúc”.

Tự xúc xúc tha, xúc giác tướng sinh, thì phát sinh ra “thọ”, là một sự cảm ứng tốt, xấu, tức là “thọ”. Trong sự lãnh thọ, tâm sinh nhiễm ô và chấp trước, tức là một số người xem nặng “ái” của sinh mạng thứ hai. “Ái” đến cực điểm, thì sinh ra tâm “thủ”, phải thủ lấy làm của riêng mình. Do đây mà sinh ra tâm chiếm lấy làm của riêng, bèn sinh ra “hữu”. “Hữu” tức là nghiệp hữu lậu. Từ trong nghiệp hữu lậu sinh ra “sắc” uẩn, tức là “sinh”, bèn có đời sau.

Năm uẩn – sắc, thọ, tưởng, hành, thức, chín mùi rồi, tức là “già”. Đến khi năm uẩn tan hoại, bốn đại – đất, nước, gió, lửa, đều phân tán, thì đến thời kỳ chết. Người ngu si hồ đồ, đến giờ phút cuối cùng vẫn tham luyến thân xác, mọi thứ xả bỏ không được, buông bỏ chẳng đặng. Vì tham luyến, nên trong tâm sinh ra phiền muộn, đây tức là “sầu”. Khóc lóc chảy nước mắt, kêu la không ngừng gọi là “thán”. Nói về năm căn thì cảm giác rất là thống khổ, nói về tâm ý thì ưu bi khổ não vô hạn. Tình huống thảm thiết nầy, càng ngày càng thêm nhiều, đây tức là phiền não bi khổ. Tình hình nầy giống như một cây khổ, phía trước kết đầy quả khổ, ngày ngày tăng trưởng. Trong những quả khổ nầy, chẳng có phần nào là ta, cũng chẳng có phần nào là của ta. Chẳng có một người nào làm những chuyện nầy, cũng chẳng có một người nào thọ những chuyện nầy. Tất cả những gì hiện ra, đều là hư vọng không thật.

Bồ Tát lại suy gẫm như vầy : Giả như có người làm những chuyện nầy, thì phải có những sự tướng làm hiện ra ; nhưng chỉ có khổ, lại chẳng có sự thật để chứng minh. Giả sử chẳng có người làm việc, thì đương nhiên chẳng có sự thật để biểu hiện. Đây gọi là khổ, ở trong đạo lý đệ nhất nghĩa đế đều là không, hư vọng.

 

Phật tử! thử Bồ-Tát Ma-ha-tát phục tác thị niệm: tam giới sở hữu, duy thị nhất tâm. Như Lai ư thử phân biệt diễn thuyết thập nhị hữu chi, giai y nhất tâm, như thị nhi lập.

Hà dĩ cố? tùy sự tham dục dữ tâm cộng sanh, tâm thị thức, sự thị hành, ư hành mê hoặc thị vô minh, dữ vô minh cập tâm cộng sanh thị danh sắc, danh sắc tăng trưởng thị lục xứ, lục xứ tam phần hợp vi xúc, xúc cộng sanh thị thọ, thọ Vô yếm túc thị ái, ái nhiếp bất xả thị thủ, bỉ chư hữu chi sanh thị hữu, hữu sở khởi danh: sanh, sanh thục vi lão, lão hoại vi tử.

Phật tử ! Đại Bồ Tát nầy lại nghĩ như vầy : Hết thảy ba cõi, chỉ là một tâm. Như Lai từ đây mà phân biệt diễn nói mười hai chi, đều nương vào một tâm như vậy mà lập.

Tại sao vậy ? Vì tuỳ theo sự tham dục cùng sinh với tâm. Tâm là thức, sự là hành. Nơi hành mê hoặc là vô minh. Vô minh cùng sinh với tâm là danh sắc. Danh sắc tăng trưởng là sáu xứ. Sáu xứ ba phần hợp là xúc. Xúc cùng sinh là thọ. Thọ không nhàm đủ là ái. Ái nhiếp lấy không bỏ là thủ. Các chi đó sinh là hữu. Hữu khởi lên gọi là sinh. Sinh chín mùi là lão. Lão hoại là tử.

Giảng: Bồ Tát Kim Cang lại gọi một tiếng các vị đệ tử của Phật ! Vị đại Bồ Tát nầy tu hành Bồ Tát đạo, tích tụ đủ thứ căn lành, tại Địa thứ sáu – Hiện tiền địa, lại nghĩ như vầy : Hết thảy tất cả ba cõi – cõi dục, cõi sắc, cõi vô sắc, đều do một tâm niệm mà tạo thành. Đức Phật đối với hết thảy chúng sinh trong ba cõi, phân môn biệt loại rất rõ ràng, giải thích mười hai thứ nhân duyên thành lập – đều nương vào một tâm niệm mới sinh ra, cũng là do một tâm niệm chi trì. “Một tâm đầy đủ mười pháp giới”, tức là đạo lý nầy.

Do một tâm niệm mà sinh ra đủ thứ nhân duyên, mà mỗi thứ lập thành danh tướng. Tại sao vậy ? Vì tuỳ theo sự tướng mà sinh ra tham dục. Tham dục cùng với tâm mới sinh ra “thức”. “Thức” tức là “tâm”, lại gọi là “hành”. Một khi tâm niệm động tức là “thức”, nó hay khởi dụng, có thể phân biệt sự vật. Sự tức là “hành”, có hành vi biểu hiện cụ thể. Nơi “hành” mà mê hoặc thì chẳng có lý trí, đầu não không rõ ràng, làm ra sự việc điên đảo, không hợp với lý tánh. Vì mê hoặc nên chẳng có trí huệ, cho nên làm việc điên đảo, đây tức là “vô minh”. “Vô minh” lại cùng với “tâm thức” sinh ra “danh sắc” – danh tự và nhan sắc, tức là ban đầu trồng xuống “bào thai”. “Danh sắc ngày càng lớn dần, bèn sinh ra “sáu xứ” – còn gọi là sáu căn, hoặc là lục nhập – mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý.

Sáu xứ phân làm ba phần –

1. Sáu xứ.
2. Sáu cảnh còn gọi là sáu trần.
3. Sáu thức. Nương vào căn, biết cảnh, chạy theo sự phân biệt của ý thức.

Ba thứ nầy hợp lại với nhau thành “xúc”. Ba cái mà thiếu một thì không thể cùng sinh, vì “xúc” là có sự phân biệt, có cảm giác. “Xúc” với “xúc” tương đối – tự xúc, tha xúc, tự tha xúc, do đó sinh ra “thọ”, tức là “lãnh thọ” hoặc gọi là “lãnh nạp”. Trong sự “lãnh thọ”, có cảm giác tốt xấu, bèn sinh ra tâm tham, thọ thọ không ngừng. Sự tham lãnh thọ nầy chẳng có lúc nào nhàm đủ, ở trong đó bèn biến thành “ái”. Do “ái” mà có “ái dục sinh ra”, hy vọng sở ái vĩnh viễn tồn tại không mất. Một khi không hoan hỉ nữa thì “ghét muốn nó chết đi”, vĩnh viễn tiêu diệt. Ái bao nhiêu thì hận bấy nhiêu. Do đó buông bỏ chẳng đặng, nhìn không thấu, thì làm sao được tự tại ?

Do “ái” nhiếp lấy không bỏ, bèn quyết định lấy cho được, do đó bèn sinh ra “hữu”. Hữu nầy tức là hữu lậu. “Hữu lậu tạo ra nghiệp, nghiệp nầy bèn trồng xuống nhân đời sau. Nhân nầy giống như một hạt giống. Hạt giống chín mùi sinh lên, thì gọi là “sinh”. “Sinh” ra rồi, càng ngày càng lớn lên chín mùi thì “già” đi. Già rồi thì bắt đầu thối hoá biến hoại, trước hết năm uẩn đều sinh ra bệnh tật, mất đi tác dụng. Bốn đại cũng dần dần phân hoá, cuối cùng tiêu tan. Bốn đại quy về không, thì thân thể sẽ “chết” đi.

 

Phật tử! thử trung vô minh hữu nhị chủng nghiệp, nhất lệnh chúng sanh mê ư sở duyên, nhị dữ hành tác sanh khởi nhân.

Hành diệc hữu nhị chủng nghiệp, nhất năng sanh vị lai báo, nhị dữ thức tác sanh khởi nhân.

Thức diệc hữu nhị chủng nghiệp, nhất lệnh chư hữu tướng tục, nhị dữ danh sắc tác sanh khởi nhân.

Danh sắc diệc hữu nhị chủng nghiệp, nhất hỗ tương trợ thành, nhị dữ lục xứ tác sanh khởi nhân. Lục xứ diệc hữu nhị chủng nghiệp, nhất các thủ tự cảnh giới, nhị dữ xúc tác sanh khởi nhân.

Xúc diệc hữu nhị chủng nghiệp, nhất năng xúc sở duyên, nhị dữ thọ tác sanh khởi nhân.

Thọ diệc hữu nhị chủng nghiệp, nhất năng lĩnh thọ ái tăng đẳng sự, nhị dữ ái tác sanh khởi nhân.

Ái diệc hữu nhị chủng nghiệp, nhất nhiễm trước khả ái sự, nhị dữ thủ tác sanh khởi nhân.

Thủ diệc hữu nhị chủng nghiệp, nhất lệnh chư phiền não tướng tục, nhị dữ hữu tác sanh khởi nhân.

Hữu diệc hữu nhị chủng nghiệp, nhất năng lệnh ư dư thú trung sanh, nhị dữ sanh tác sanh khởi nhân.

Sanh diệc hữu nhị chủng nghiệp, nhất năng khởi chư uẩn, nhị dữ lão tác sanh khởi nhân.

Lão diệc hữu nhị chủng nghiệp, nhất lệnh chư căn biến dị, nhị dữ tử tác sanh khởi nhân.

Tử diệc hữu nhị chủng nghiệp, nhất năng hoại chư hạnh, nhị bất giác tri cố tướng tục bất tuyệt.

Phật tử ! Trong đó vô minh có hai thứ nghiệp : Một là khiến cho chúng sinh mê nơi sở duyên. Hai là cùng với hành làm sinh ra nhân.

Hành cũng có hai thứ nghiệp : Một là hay sinh báo vị lai. Hai là cùng với thức làm sinh ra nhân.

Thức cũng có hai thứ nghiệp : Một là khiến cho các hữu tương tục. Hai là cùng với danh sắc làm sinh ra nhân.

Danh sắc cũng có hai thứ nghiệp : Một là hổ tương trợ thành. Hai là cùng với sáu xứ làm sinh ra nhân.

Sáu xứ cũng có hai thứ nghiệp : Một là mỗi thứ đều thủ lấy cảnh giới. Hai là cùng với xúc làm sinh ra nhân.

Xúc cũng có hai thứ nghiệp : Một là hay xúc sở duyên. Hai là cùng với thọ làm sinh ra nhân.

Thọ cũng có hai thứ nghiệp : Một là hay lãnh thọ thương ghét các sự việc. Hai là cùng với ái làm sinh ra nhân.

Ái cũng có hai thứ nghiệp : Một là nhiễm trước việc đáng ưa thích. Hai là cùng với thủ làm sinh ra nhân.

Thủ cũng có hai thứ nghiệp : Một là khiến các phiền não tương tục. Hai là cùng với hữu làm sinh ra nhân.

Hữu cũng có hai thứ nghiệp : Một là hay khiến sinh ở trong các cõi khác. Hai là cùng với sinh làm sinh ra nhân.

Sinh cũng có hai thứ nghiệp : Một là hay khởi các uẩn. Hai là cùng với già làm sinh ra nhân.

Già cũng có hai thứ nghiệp : Một là khiến các căn biến đổi. Hai là cùng với chết làm sinh ra nhân.

Chết cũng có hai thứ nghiệp : Một là hay hoại các hành. Hai là không giác biết, cho nên liên tục không ngừng.

Giảng: Bồ Tát Kim Cang Tạng lại gọi một tiếng các vị Phật tử ! Ở trong mười hai nhân duyên,

“Vô minh” tạo thành có hai thứ nghiệp quả chủ yếu : Một là nó khiến cho chúng sinh mê nơi cảnh giới nương tựa. Phàm là những cảnh giới tiếp xúc, đều không nhận thức được nhân duyên rõ ràng, không hiểu thế nào đối mặt với hiện thực, do đó mà mê hoặc điên đảo hồ đồ. Thứ hai là do “vô minh”, không trí huệ, làm việc hồ đồ, những gì làm đều trở thành nhân tố sinh khởi “hành”.

“Hành” cũng có hai thứ nghiệp : Một là có thể sinh ra quả báu thọ vị lai, do “hành” mà có thể tạo ra các thứ nghiệp, tạo nghiệp thì phải thọ báo. Hai là làm nhân tố “thức” sinh khởi.

“Thức” cũng có hai thứ nghiệp : Một là có thể khiến “hữu” tác nghiệp liên tục không ngừng. Hai là làm nhân tố sinh khởi ra “danh sắc”.

“Danh sắc” cũng có hai thứ nghiệp : Một là có thể trợ giúp nghiệp khác thành lập. Hai là làm ra nhân tố sinh khởi “sáu xứ”.

“Sáu xứ” cũng có hai thứ nghiệp : Một là “sáu xứ” đều giữ lấy cảnh giới của nó. Hai là làm thành nhân tố sinh khởi “xúc”. Nếu chẳng có “sáu xứ”, thì không thể có “xúc” sinh khởi, cho nên nói “sáu xứ” hạt giống của “xúc”.

“Xúc trần” cũng có hai thứ cảnh giới : Một là xúc trần năng “xúc” sở duyên. Hai là làm “lãnh thọ” sinh khởi hạt giống.

“Thọ” cũng có hai thứ nghiệp quả : Một là có thể lãnh thọ đủ thứ sự vật tốt xấu. Hai là thành hạt giống sinh khởi “ái”.

“Ái”cũng có hai thứ nghiệp quả : Một là đối với cảnh giới sự tướng thấy được, sinh khởi tâm tham ái, do đó mà mất đi lý trí, mê hồ nhiễm trước không thể tự giác tự cứu, cho rằng “ái” mới là mục tiêu họ đáng truy cầu, là một bảo bối duy nhất. Hai là do nhiễm trước “ái”, mà sinh ra tâm thủ lấy ích kỷ, tâm chiếm đoạt, do đó trồng xuống nhân duyên sinh ra “thủ”.

“Thủ” cũng có hai thứ nghiệp : Một là khiến cho chúng sinh có tâm được mất, giữ lấy được thì sinh ra tâm hoan hỉ, giữ lấy không được thì sinh ra tâm phiền não, do phiền não đó mà vĩnh viễn liên tục không thể dứt trừ. Hai là lại làm ra nhân duyên sinh khởi “hữu”, “hữu” tức là hạt giống hữu lậu. Hạt giống hữu lậu sinh ra gốc mầm “hữu”, trở thành “hữu chi”. “Hữu lậu” tức là nghiệp không thanh tịnh, thứ nghiệp nầy làm cho con người rớt vào vào ba cõi, hoặc những cõi khác. “Hữu” và “lậu” là hai thứ không lìa khỏi, “hữu” tức là “đời sau”.

“Hữu” cũng có hai thứ nghiệp : Một là hay khiến cho chúng sinh thọ sinh trong những cõi khác – lục đạo hoặc sáu nẻo. Hai là làm thành nhân tố sinh khởi “đời sau”.

“Sinh” cũng có hai thứ nghiệp báo : Một là hay sinh ra “năm uẩn”. Hai là làm hạt giống sinh khởi “lão”. Sinh ra rồi thì nhất định sẽ già đi.

“Lão” cũng có hai thứ nghiệp quả : Một là hay khiến cho các căn suy yếu, tướng mạo biến thành xấu xí, da nhăn tóc bạc, đó là hiện tượng các căn biến đổi. Hai là làm nhân tố sinh sinh khởi “tử”.

“Tử” cũng có hai thứ nghiệp quả : Một là hay phá hoại lý tưởng của con người, trở ngại tất cả mọi việc con người đang làm. Hai là do ở trong “vô minh” hôn mê không giác, sinh sinh tử tử, tuần hoàn liên tục, cuối rồi lại bắt đầu, không thể dứt được sinh tử.

 

Phật tử! thử trung vô minh duyên hành, nãi chí sanh duyên lão tử giả, do vô minh nãi chí sanh vi duyên, lệnh hành nãi chí lão tử bất đoạn, trợ thành cố. Vô minh diệt tức hành diệt, nãi chí sanh diệt tức lão tử diệt giả, do vô minh nãi chí sanh bất vi duyên, lệnh chư hạnh nãi chí lão tử đoạn điệt, bất trợ thành cố.

Phật tử ! Trong đây vô minh duyên hành, cho đến sinh duyên lão tử, do vô minh cho đến sinh làm duyên, nên khiến hành cho đến lão tử trợ giúp hình thành không dứt. Vô minh diệt thì hành diệt, cho đến sinh diệt thì lão tử diệt. Do vô minh cho đến sinh không làm duyên, nên khiến cho các hành, cho đến lão tử đoạn diệt không trợ giúp hình thành.

Giảng: Bồ Tát Kim Cang Tạng lại gọi một tiếng các vị đệ tử của Phật ! Ở trong mười hai nhân duyên, từ “vô minh” mà nói. Do “vô minh” mới sinh ra “hành”. “Hành” lại tiếp tục sinh ra các nhân duyên sau, cho đến “lão, tử”, cuối cùng rồi lại bắt đầu tuần hoàn không dứt. Cho nên đều nói là do “vô minh” mới dẫn đến “sinh”. Do “vô minh” làm duyên cho đến “sinh”, khiến cho “hành” đến “lão tử” tiếp tục không ngừng, trợ giúp lẫn nhau, từ trên xuống dưới thành mười hai nhân duyên.

Nếu “vô minh” diệt trừ rồi, thì “hành” cũng sẽ diệt, cho đến “sinh, lão, tử” cũng đều diệt trừ hết. Là do nguyên nhân gì ? Vì chẳng còn “vô minh” thì chẳng còn hạt giống, thì các nhân duyên ở sau không thể nào sinh khởi, mất đi căn cứ liên quan trước sau với nhau. “Hành” đến “lão tử” đều dứt trừ, thì không thể hổ tương trợ giúp tương tục trợ thành.

 

Phật tử! thử trung vô minh, ái, thủ bất đoạn thị phiền não đạo, hành, hữu bất đoạn thị nghiệp đạo, dư phần bất đoạn thị khổ đạo. Tiền hậu tế phân biệt diệt tam đạo đoạn, như thị tam đạo ly ngã, ngã sở, đãn hữu sanh diệt, do như thúc lô.

Phật tử ! Trong đây vô minh ái thủ không dứt là phiền não đạo. Hành và hữu không dứt là nghiệp đạo. Các phần khác không dứt là khổ đạo. Tiền tế hậu tế phân biệt diệt thì tam đạo dứt. Như vậy ba nghiệp lìa ngã, ngã sở, chỉ có sinh diệt giống như bó lau.

Giảng: Bồ Tát Kim Cang Tạng lại gọi một tiếng các vị đệ tử của Phật ! Nếu không thể đoạn trừ “vô minh, ái và thủ” trong mười hai nhân duyên, thì đây tức là hoặc nghiệp, sẽ trở thành phiền não. Nếu như không thể đoạn trừ “hành và hữu”, thì sẽ trở thành gốc rễ của nghiệp. Còn các nhân duyên khác không thể đoạn trừ, thì sẽ trở thành nhân tố của khổ. Còn nếu có thể ở trong đời trước và đời sau, phân biệt thảy đều diệt trừ những nhân duyên nầy, thì có thể đoạn trừ được ba thứ nguồn gốc căn bản. Lúc đó tam đạo – phiền não đạo, nghiệp đạo, khổ đạo, sẽ lìa khỏi (ngã và ngã sở). Nghĩa là nói : Ở trong tam đạo vốn chẳng có ngã và ngã sở. Sinh diệt nhân quả giống như bó cỏ lau, nó là hai rễ đều sinh, hổ tương nương lập với nhau, không thể độc thành. Tam đạo lìa khỏi ngã và ngã sở thì sinh diệt tự nhiên sẽ dứt.

 

Phục thứ, vô minh duyên hành giả, thị quán quá khứ; thức nãi chí thọ, thị quán hiện tại; ái nãi chí hữu, thị quán vị lai. ư thị dĩ hậu, triển chuyển tướng tục.

Lại nữa, vô minh duyên hành là quán quá khứ. Thức cho đến thọ là quán hiện tại. Ái cho đến hữu là quán vị lai. Từ đây về sau triển chuyển liên tục.

Giảng: Lại nói : Ý nghĩa “Vô minh duyên hành” là quán nhân tạo ra quá khứ. “Thức cho đến thọ” là quán hiện tại tất cả đều do nghiệp quá khứ tạo ra. “Ái cho đến hữu” là quán nhân của vị lai mà đắc được quả vị lai. Từ đây về sau triển chuyển liên tục.

 

Vô minh diệt hành diệt giả, thị quán đãi đoạn. Phục thứ, thập nhị hữu chi danh vi tam khổ, thử trung vô minh, hành nãi chí lục xứ thị hành khổ, xúc, thọ thị khổ khổ, dư thị hoại khổ.Vô minh diệt hành diệt giả, thị tam khổ đoạn.

Vô minh diệt thì hành diệt là quán đối đãi đoạn diệt. Lại nữa, mười hai chi đều có ba khổ. Trong đó vô minh hành, cho đến sáu xứ là hành khổ. Xúc thọ là khổ khổ. Còn những cái khác là hoại khổ. Vô minh diệt thì hành diệt, là ba khổ dứt.

Giảng: “Vô minh” diệt, thì “hành” diệt. Đây là nói về diệt, là một thứ đối đãi. Lại nữa, “hữu” trong mười hai nhân duyên, còn gọi là “ba khổ”. Trong đó “vô minh hành cho đến sáu xứ”, là “hành khổ”. “Xúc và thọ” là khổ trong sự khổ. Còn những chi khác là “hoại khổ”. Vô minh diệt thì hành không thể sinh ra, tức cũng diệt luôn, những chi sau càng không thể nào sinh ra, cho nên ba khổ thảy đều diệt hết.

 

Phục thứ, vô minh duyên hành giả, vô minh nhân duyên năng sanh chư hạnh; vô minh diệt hành diệt giả, dĩ vô vô minh, chư hạnh diệc vô, dư diệc như thị.

Lại nữa, vô minh duyên hành, vô minh nhân duyên sinh ra các hành. Vô minh diệt thì hành diệt, không có vô minh thì các hành cũng không, những cái khác cũng như vậy.

Giảng: Lại nói tại sao “vô minh” có thể sinh ra “hành” ? Vì “vô minh” là không có trí huệ, hồ đồ không minh bạch chánh tà thị phi, do đó mà sinh ra rất nhiều tà tri tà kiến, khởi hoặc tạo nghiệp, do nó mà sinh ra “hành” và những nhân duyên khác. Nếu “vô minh” diệt thì “hành” diệt. Vì chẳng còn “vô minh”, nên những nhân duyên khác cũng không cách nào sinh khởi, đây tức là đạo lý “vô minh diệt, hành diệt cho đến sinh lão tử diệt.

 

Hựu vô minh duyên hành giả, thị sanh hệ phược; vô minh diệt hành diệt giả, thị diệt hệ phược. Dư diệc như thị. Hựu vô minh duyên hành giả, thị tùy thuận vô sở hữu quán; vô minh diệt hành diệt giả, thị tùy thuận tận diệt quán. Dư diệc như thị.

Lại nữa, vô minh duyên hành là sinh trói buộc. Vô minh diệt thì hành diệt, là diệt trói buộc. Những cái khác cũng như vậy. Lại nữa, vô minh duyên hành là tuỳ thuận vô sở hữu quán. Vô minh diệt thì hành diệt, là tuỳ thuận tận diệt quán, những cái khác cũng như vậy.

Giảng: Lại nói về ý nghĩa “vô minh duyên hành”, tức giống như dùng một sợi dây thừng, trói buộc con người lại, khiến cho không được tự do. Ý nghĩa “Vô minh diệt thì hành diệt” : Giống như chặt đứt sợi dây thừng, thì cởi trói, mà được tự do. Cũng không còn những cái khác trói buộc nữa. Lại nói một cách khác : Nghĩa là căn cứ nghiên cứu kết luận, quán sát kỹ càng cảnh giới thật tế, tuỳ thuận đạo lý chân thật, biết tất cả đều là không chẳng chỗ có, đây là vô sở hữu quán. Biết tất cả đều không chẳng chỗ có, “vô minh” diệt rồi, thì “hành” cũng diệt. Đây là trải qua sự nghiên cứu, tuỳ thuận sự quán sát mà biết tất cả đều là không, cho nên đoạn diệt – đây là tận diệt quán. Các thứ nhân duyên sau nương đạo lý nầy, đều đắc được câu trả lời, tất cả đều là không huyễn.

 

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát như thị thập chủng nghịch thuận quán chư duyên khởi. sở vị: hữu chi tướng tục cố, nhất tâm sở nhiếp cố, tự nghiệp sái biệt cố, bất tướng xả ly cố, tam đạo bất đoạn cố, quán quá khứ, hiện tại, vị lai cố, tam khổ tụ tập cố, nhân duyên sanh diệt cố, sanh diệt hệ phược cố, vô sở hữu, tận quán cố

Phật tử ! Đại Bồ Tát quán nghịch thuận mười thứ duyên khởi như vậy. Đó là vì hữu chi tương tục, vì nhất tâm nhiếp trì, vì tự nghiệp khác biệt, vì chẳng bỏ lìa nhau, vì tam đạo không dứt, vì quán quá khứ hiện tại vị lai, vì ba khổ tụ tập, vì nhân duyên sinh diệt, vì sinh diệt trói buộc, vì vô sở hữu tận quán.

Giảng: Bồ Tát Kim Cang Tạng lại gọi một tiếng các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát đi ngược trở lại như vậy, quán sát chân chánh, quán sát ngược lại, quán sát nguyên nhân mười hai nhân duyên sinh khởi, nương vào đạo lý gì mà tiếp nối không dứt ? Bồ Tát đắc được câu trả lời là :

  1. Chi “hữu” trong mười hai nhân duyên là hữu lậu, hay tạo đủ thứ nghiệp ác. Nghiệp nhân tức là hạt giống của đời sau, do đó mà tiếp nối không dứt.
  2. Mười hai nhân duyên đều nương vào tâm mà khởi, không lìa một tâm, được một tâm nhiếp lấy.
  3. Nghiệp của mỗi người tạo ra, đều khác nhau.
  4. Những nghiệp đó không dễ gì bỏ lìa, vì buông chẳng đặng, tức là chướng ngại.
  5. Ba thứ đạo – phiền não đạo, nghiệp đạo, khổ đạo, đều không dễ gì đoạn diệt sạch hết.
  6. Quán quá khứ là như vậy, hiện tại là như vậy, vị lai vẫn như vậy, nhân quả ba đời biết không thể dứt.
  7. Ba khổ ngày càng tích luỹ, không dễ hết được.
  8. Đủ thứ nhân quả, tạo thành sinh diệt không dứt.
  9. Sinh diệt như bị trói buộc, không thể giải thoát được.

10. Tất cả không chẳng chỗ có. Quán sâu như vậy, Bồ Tát biết pháp thế gian không trái với pháp xuất thế.

 

Phật tử, Bồ-Tát Ma-ha-tát dĩ như thị thập chủng tướng quán chư duyên khởi, tri vô ngã, vô nhân, vô thọ mạng, tự tánh không, vô tác giả, thị cố giả, tức đắc không giải thoát môn hiện tại tiền. quán chư hữu chi giai tự tánh diệt, tất cánh giải thoát, vô hữu thiểu Pháp tướng sanh, tức thời đắc vô tướng giải thoát môn hiện tại tiền.

Như thị nhập không, vô tướng dĩ, vô hữu nguyện cầu, duy trừ đại bi vi thủ, giáo hóa chúng sanh, tức thời đắc vô nguyện giải thoát môn hiện tại tiền. Bồ Tát như thị tu tam giải thoát môn, ly bỉ, ngã tưởng, ly tác giả, thọ giả tưởng, ly hữu, vô tưởng.

Phật tử ! Đại Bồ Tát dùng mười thứ tướng quán các duyên khởi như vậy, biết không có cái ta, không người, không thọ mạng, tự tánh không, không người làm, không người thọ, liền được môn giải thoát không hiện tiền. Quán các chi hữu, đều tự tánh diệt, rốt ráo giải thoát, chẳng có chút pháp tướng sinh, liền đắc được giải thoát môn vô tướng hiện tiền.

Như vậy vào không vô tướng rồi, không có nguyện cầu, chỉ trừ đại bi làm đầu, giáo hoá chúng sinh. Liền đắc được môn giải thoát vô nguyện hiện tiền. Bồ Tát tu ba môn giải thoát như vậy, lìa nghĩ tưởng cái ta đó, lìa nghĩ tưởng người làm, người thọ, lìa nghĩ tưởng có và không.

Giảng: Bồ Tát Kim Cang Tạng lại gọi một tiếng các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát Địa thứ sáu tu hành Bồ Tát đạo tích tập đủ thứ căn lành, Ngài căn cứ vào mười phương pháp như đã nói ở trên, quán tưởng duyên khởi của mười hai thứ nhân duyên. Ngài biết trong tất cả sự vật, đều chẳng có “cái ta” tồn tại, đây là không ta ; cũng chẳng có “người” khác tồn tại, cũng chẳng tồn tại “thọ mạng”. Đây là chúng sinh không, tự tánh của nó vốn không, chẳng có bản thể. Tức chẳng có người làm, cũng chẳng có người thọ. Quán sát như vậy, bèn chứng được pháp môn giải thoát không, thấu rõ các pháp không tướng. Ý nghĩa hiện tiền là nói trí và cảnh đều đến được chỗ sâu xa. Lại quán tất cả duyên khởi của “hữu”, tự tánh của nó vốn là vắng lặng, vốn chẳng có sự trói buộc, vốn là giải thoát, cũng chẳng sinh ra một chút pháp tướng nào. Quán sát như vậy, lập tức chứng được pháp môn một tướng vô tướng. Năng sở đều vắng lặng, thì vô tướng hiện tiền. Quán tưởng như vậy rồi, từ không mà vào giả, minh bạch tất cả tướng cũng đều là giả, liền giác ngộ thêm.

Gì cũng chẳng có, thì không cầu, cũng không nguyện, tất cả vọng tưởng đều tiêu mất, huyễn hoá. Chỉ có một tâm đại bi mới là chân thật, quan trọng bậc nhất. Có tâm đại bi, mới có thể giáo hoá chúng sinh, độ chúng sinh trong sự khổ nạn, lợi ích chúng sinh. Đắc được sự giác ngộ nầy, lập tức chứng được pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện, hiện tiền. Bồ Tát suy gẫm thâm trầm như vậy, quán sát kỹ càng, tinh chuyên tu học, chuyên tâm nghiên cứu ba môn giải thoát ở trên – môn giải thoát không, môn giải thoát tướng, môn giải thoát nguyện. Suy gẫm lìa khỏi không người không ta, ta người đều không còn nữa. Suy gẫm lìa khỏi người làm, người thọ, năng sở cả hai đều không. Suy gẫm lìa khỏi có và không, đến được cảnh giới chân không.

 

Phật tử! thử Bồ-Tát Ma-ha-tát đại bi chuyển tăng, tinh cần tu tập, vi vị mãn Bồ-đề phần Pháp lệnh viên mãn cố, tác thị niệm: nhất thiết hữu vi, hữu hòa hợp tức chuyển, vô hòa hợp tức bất chuyển; duyên tập tức chuyển, duyên bất tập tức bất chuyển. Ngã như thị tri hữu vi Pháp đa chư quá hoạn, đương đoạn thử hòa hợp nhân duyên; nhiên vi thành tựu chúng sanh cố, diệc bất tất cánh diệt ư chư hạnh.

Phật tử ! Đại Bồ Tát nầy đại bi càng tăng thêm, tinh chuyên tu tập, vì chưa mãn pháp bồ đề phần, nên khiến cho viên mãn. Bèn nghĩ rằng : Tất cả hữu vi, có hoà hợp thì chuyển, không hoà hợp thì không chuyển. Duyên tập thì chuyển, duyên không tập thì không chuyển. Tôi biết pháp hữu vi nhiều các hoạ hoạn như vậy, phải dứt nhân duyên hoà hợp nầy. Nhưng vì thành tựu chúng sinh, nên cũng không rốt ráo diệt các hành.

Giảng: Bồ Tát Kim Cang Tạng lại gọi một tiếng các vị đệ tử của Phật ! Vị đại Bồ Tát chứng được Địa thứ sáu nầy, vì tỏ ngộ ba pháp môn giải thoát, biết được sự quan trọng của tâm đại bi, thường thường dũng mãnh tinh tấn tu học, thì tâm đại bi ngày càng tăng trưởng. Ngoài nguyên nhân Bồ Tát siêng tu những pháp môn nầy, vẫn là do Ngài tu học bồ đề giác đạo chưa được viên mãn, cho nên hy vọng muốn sớm được viên mãn đầy đủ. Do đó, Bồ Tát nghĩ như vầy : Tất cả pháp hữu vi đều do nghiệp hoặc hoà hợp với nhau mới sinh khởi, như vô minh duyên hành. Có hoà hợp thì tiếp nối không dứt.

Không hoà hợp thì không thể nối tiếp không dứt. Do duyên đầy đủ không thiếu, nên khởi tác dụng, nối tiếp không dứt. Nhân duyên không đầy đủ thì sẽ không sinh khởi tác dụng, không thể nối tiếp không dứt. Giả xử tuy nhiên có hành, mà không có ái để thấm nhuần nó, thì không thể sinh khởi các nhân duyên sau. Hiện tại Bồ Tát biết tất cả nhân duyên hoà hợp sinh ra pháp, đưa đến rất nhiều phiền não và tai nạn, khiến cho con người thường gặp những chuyện không như ý, do đó phải dứt trừ nhân duyên hoà hợp, sau đó giáo hoá chúng sinh, thành tựu chúng sinh, bất tất phải hoàn toàn diệt sạch hết. Vẫn ở trong tất cả các pháp lưu lại một chút khuyết giận, để thích ứng với căn cơ của chúng sinh.

 

Phật tử! Bồ Tát như thị quan sát hữu vi đa chư quá hoạn, vô hữu tự tánh, bất sanh bất diệt, nhi hằng khởi đại bi, bất xả chúng sanh, tức đắc Bát-nhã Ba-la-mật hiện tiền, danh: vô chướng ngại trí quang minh. Thành tựu như thị trí quang minh dĩ, tuy tu tập Bồ-đề phần nhân duyên nhi bất trụ hữu vi trung, tuy quán hữu vi pháp tự tánh tịch diệt diệc bất trụ tịch diệt trung, dĩ Bồ-đề phần Pháp vị viên mãn cố.

Phật tử ! Bồ Tát quán sát pháp hữu vi nhiều các lỗi ác như vậy, chẳng có tự tánh không sinh không diệt, mà luôn khởi đại bi không bỏ chúng sinh, liền đắc được Bát Nhã Ba La Mật hiện tiền, tên là Vô chướng ngại trí quang minh. Thành tựu trí quang minh như vậy rồi, tuy tu tập bồ đề phần nhân duyên, mà không trụ trong pháp hữu vi. Tuy quán pháp hữu vi tự tánh vắng lặng, cũng không trụ trong vắng lặng, vì pháp bồ đề phần chưa viên mãn.

Giảng: Bồ Tát Kim Cang Tạng lại gọi một tiếng các vị đệ tử của Phật ! Bồ Tát hiện tiền địa quán sát nhân duyên hoà hợp sinh ra của pháp hữu vi như vậy, minh bạch nó có rất nhiều khuyết điểm, có thể tạo thành rất nhiều lỗi ác, khiến cho con người buồn rầu hoạ hoạn không ngừng. Pháp hữu vi nầy vốn chẳng có tự tánh, dùng vọng sinh vọng, dùng lỗi ác sinh lỗi ác. Nó vốn chẳng có tự thể, cho nên không sinh không diệt. Tuy nhiên Bồ Tát quán tất cả các pháp như đây không hợp đạo lý, nhưng mà Ngài vẫn thường sinh khởi tâm đại bi cứu hộ chúng sinh, không nhẫn bỏ chúng sinh đáng thương xót. Do đó, Ngài liền đắc được đại trí huệ, và chứng được hữu vi Niết Bàn bình đẳng hiện tiền. Tên của Bát nhã nầy gọi là “Vô chướng ngại đại quang minh”. Bồ Tát thành tựu đại trí huệ nầy rồi, tuy nhiên vẫn phải tiếp tục tu học nhân duyên của bồ đề giác đạo, nhưng Ngài chẳng vì sự mà mất lý, chấp trước vào pháp hữu vi, mà là biết hữu vi mà chẳng vi. Tuy nhiên Ngài quán sát biết rõ pháp hữu vi chẳng có bản thể, tự tánh là vắng lặng, nhưng Ngài thấy lý không hoại sự, không trụ ở trong pháp vắng lặng, vì pháp giác đạo mà Ngài tu chưa được viên mãn, cho nên Ngài không trụ nơi có, cũng chẳng trụ nơi không.

 

Phật tử! Bồ-tát trụ thử hiện tiền địa, đắc nhập không tam-muội, tự tánh không tam-muội, đệ nhất nghĩa không tam muội, đệ nhất không tam-muội, Đại không tam-muội, hợp không tam-muội, khởi không tam-muội, như thật bất phân biệt không tam-muội, bất xả ly không tam-muội, ly bất ly không tam-muội. Thử Bồ Tát đắc như thị thập không tam muội môn vi thủ, bách thiên không tam-muội giai tất hiện tiền; như thị thập vô tướng, thập vô nguyện tam muội môn vi thủ, bách thiên vô tướng, vô nguyện tam muội môn giai tất hiện tiền.

Phật tử ! Bồ Tát trụ Hiện Tiền địa nầy, vào được không tam muội, tự tánh không tam muội, đệ nhất nghĩa không tam muội, đệ nhất không tam muội, đại không tam muội, hợp không tam muội, khởi không tam muội, như thật chẳng phân biệt không tam muội, chẳng xả lìa không tam muội, lìa chẳng lìa không tam muội. Bồ Tát nầy đắc được mười tam muội không như vậy làm đầu, trăm ngàn không tam muội thảy đều hiện tiền. Mười vô tướng, mười vô nguyện môn tam muội như vậy làm đầu, trăm ngàn vô tướng vô nguyện môn tam muội thảy đều hiện tiền.

Giảng: Bồ Tát chẳng trụ không, chẳng trụ có. Nếu như chấp vào không, thì không thể tu hành tiến về trước được, phạm vào nhị thừa trung đạo tự hoá, được ít cho là đủ, vướng vào mao bệnh mê hoặc bởi không. Giả như chấp vào có, thì chấp trước vào người, chấp trước vào pháp. Cho nên Bồ Tát chẳng chấp vào không, cũng chẳng chấp vào có, “người, pháp” cả hai đều vong mất, chẳng chấp vào “có, không”. Do công đức trợ đạo chưa đầy đủ, còn phải siêng tu, lục độ vạn hạnh, hành sở vô sự.

Bồ Tát Kim Cang Tạng lại gọi một tiếng các vị đệ tử của Phật ! Khi Bồ Tát trụ tại hiện tiền địa, Ngài siêng tu lục độ vạn hạnh và pháp môn hiện tiền địa, thì Ngài chứng được :

  1. Thật không, tức là “vào không”, cho nên Ngài vào được không tam muội – chánh định, lìa khỏi “có”. Tam muội nầy chẳng chấp vào tất cả pháp hữu vi.
  2. Tự tánh không, tức là không tánh. Tự tánh vốn là không, chẳng rời vào “không”, cũng chẳng rơi vào “có”. Bồ Tát cũng chứng được chánh định tự tánh không, tức là “pháp không”.
  3. Đệ nhất nghĩa không tam muội, tức là hiểu rõ đệ nhất nghĩa đế, chẳng chấp vào đệ nhất nghĩa.
  4. Đệ nhất không tức so với đệ nhất nghĩa “không” càng tiến thêm một bước, tức chẳng rơi vào “không”, cũng chẳng rơi vào “có”, “không, có” chẳng hai, vào tam muội nầy, thì tất cả đều chẳng chấp trước nữa. Đây là chánh định không chẳng chỗ không.
  5. Đại không là chánh định lớn mà không ngoài, nhỏ mà không ở trong.
  6. Hợp không tam muội, còn gọi là chánh định Bát nhã ba la mật. Hợp tức là hợp không chỗ hợp, trong ngoài đều không.
  7. Khởi không tam muội tức là chánh định khởi chẳng chỗ khởi.
  8. Như thật tam muội là chánh định chân thật lý thể, chẳng có mọi sự phân biệt về “không”.
  9. Chẳng xả lìa tam muội, tức là chánh định lìa chẳng chỗ lìa.

10. Lìa chẳng lìa tam muội tức là không chẳng chỗ “không”. Lìa với chẳng lìa đều chẳng chỗ có. Bồ Tát địa thứ sáu, Ngài chứng được mười thứ chánh định chánh thọ nầy, nhận thức được quyết thật về “không” chẳng lay động, lãnh hội được diệu lý không. Lại dùng mười thứ pháp môn tam muội vô tướng vô nguyện làm chỗ nương tựa hướng về, do đó, trăm ngàn thứ pháp môn không vô tướng vô nguyện, tự nhiên đều hiển hiện đắc được.

 

Phật tử! Bồ-tát trụ thử hiện tiền địa, phục cánh tu tập mãn túc bất khả hoại tâm, quyết định tâm, thuần thiện tâm, thậm thâm tâm, Bất-thoái-chuyển tâm, bất hưu tức tâm, quảng đại tâm, vô biên tâm, cầu trí tâm, phương tiện tuệ tướng ứng tâm, giai tất viên mãn.

Phật tử ! Bồ Tát trụ hiện tiền địa nầy, lại càng tu tập đầy đủ tâm không thể hoại, tâm quyết định, tâm thuần thiện, tâm thâm sâu, tâm không thối chuyển, tâm không dừng nghỉ, tâm rộng lớn, tâm không bờ mé, tâm cầu trí, tâm phương tiện huệ tương ưng, thảy đều viên mãn.

Giảng: Bồ Tát Kim Cang Tạng lại gọi một tiếng các vị đệ tử của Phật ! Khi Bồ Tát trụ tại địa thứ sáu – Hiện Tiền địa, thì Ngài đặc biệt lưu ý tu tập trí vĩnh viễn không thể hoại mất, tâm đại bi, thì có thể diệt trừ chướng ngại của sự tu hành, sớm được quả vị viên mãn. Trước hết Ngài đối với niềm tin có sự quyết định vững chắc. Thứ hai là công phu tu hành phải chú ý về tâm điều hoà nhu nhẫn. Thứ ba không trụ vào niệm ác, chẳng sợ ngoại đạo, có trí huệ Bát nhã thâm sâu. Thứ tư tâm bồ đề chẳng thối về nhị thừa. Thứ năm là phải có tâm lúc nào cũng tinh tấn, không mệt mỏi. Thứ sáu là phải có tâm rộng lớn vô lượng, chẳng có sự phân biệt “ta người”. Thứ bảy là phải có tâm lợi ích chúng sinh, không chấp vào bờ mé. Thứ tám là phải có tâm cầu trí huệ vô thượng. Thứ chín là phải có trí huệ phương tiện khéo léo, giáo hoá chúng sinh, và tất cả mọi việc đều tuỳ thuận thích nghi tương ưng. Thứ mười có mười thứ tâm đại đạo bi trí như ở trên đã nói, thì đạo quả tu tập sẽ được đầy đủ thành tựu viên mãn.

 

Phật tử! Bồ Tát dĩ thử tâm thuận Phật Bồ-đề, bất cụ dị luận, nhập chư trí địa, ly nhị thừa đạo, thú ư Phật trí, chư phiền não ma vô năng tự hoại, trụ ư Bồ Tát trí tuệ quang minh, ư không, vô tướng, vô nguyện Pháp trung giai thiện tu tập, phương tiện trí tuệ hằng cộng tướng ứng, Bồ-đề phần Pháp thường hành bất xả.

Phật tử ! Bồ Tát dùng mười thứ tâm nầy, tuỳ thuận Phật bồ đề, chẳng sợ dị luận, vào các trí địa. Lìa đạo nhị thừa, hướng về Phật trí. Các ma phiền não, không thể nào trở ngại phá hoại được. Trụ nơi trí huệ quang minh của Bồ Tát, ở trong pháp không vô tướng vô nguyện, đều khéo tu tập. Phương tiện trí huệ luôn tương ưng với nhau. Pháp bồ đề phần thường thực hành không bỏ.

Giảng: Bồ Tát Kim Cang Tạng lại gọi một tiếng các vị đệ tử của Phật ! Vị đại Bồ Tát Địa thứ sáu nầy đang tu tập, dùng mười thứ tâm trí huệ như đã nói ở trên, tuỳ thuận bồ đề giác đạo thâm nhập thú hướng, siêng tu tập mà được tự tại, do đó không sợ thiên ma ngoại đạo, và tất cả tà tri tà kiến của ngoại đạo luận sư nói. Bồ Tát chẳng những không bị ảnh hưởng chúng, mà còn có thể hàng phục được họ, sau đó một lòng thâm nhập vào trí địa của Phật. Bồ Tát minh bạch tôn chỉ thú hướng của hàng nhị thừa là không rốt ráo, cho nên Ngài xa lìa Thanh văn Duyên giác, tự biết siêng tu Phật trí. Ngài lại có thể đoạn trừ tất cả ma chướng, chướng ngại sự tu tập, như phiền não chướng, sở tri chướng .v.v… các loại ma chướng đó, cũng không thể dùng sức để phá hoại quyết tâm và sức trí huệ của Ngài được, vì Bồ Tát đã thấu rõ thâm sâu về chân lý pháp không. Bồ Tát thường trụ ở trong trí huệ, đối với không giải thoát môn, vô tướng giải thoát môn, vô nguyện giải thoát môn – ba thứ pháp môn nầy – Ngài đều hiểu được tu tập và ứng dụng như thế nào, mà không chấp trước vào ba cõi. Bồ Tát đắc được các thứ trí huệ phương tiện quyền xảo, và pháp môn tu tập. Pháp môn Bồ Tát giác đạo, cũng thường thường tu tập, chưa từng xả bỏ.

 

Phật tử! Bồ-tát trụ thử hiện tiền địa trung, đắc Bát-nhã Ba-la-mật hạnh tăng thượng, đắc đệ tam minh lợi thuận nhẫn, dĩ ư chư Pháp như thật tướng tùy thuận vô vi cố.

Phật tử ! Bồ Tát trụ trong Hiện tiền địa nầy, đắc được Bát Nhã Ba La Mật hạnh tăng thượng, đắc được tam minh lợi thuận nhẫn, vì ở nơi các pháp như thật tướng tuỳ thuận không trái.

Giảng: Bồ Tát Kim Cang Tạng lại gọi một tiếng các vị đệ tử của Phật ! Vị đại Bồ Tát nầy đang tu tập các thứ pháp môn trong Địa thứ sáu – Hiện tiền địa, Ngài tu đắc được thành quả trí huệ, đã đạt được trình độ bờ bên kia. Nhưng Ngài vẫn siêng tu tập không giải đãi, cho nên trí huệ quang minh của Ngài càng ngày càng tăng trưởng. Do đó Bát nhã hiện tiền, tất cả thuận nhẫn minh lợi. Ý nghĩa “thứ ba” : Ở trong tam phẩm nhẫn, dùng “thuận nhẫn minh lợi” làm tối thượng. Thuận nhẫn : ý niệm quyết định lý lẽ không di động, khoảng giữa từ Tứ địa đến Lục địa, thuận bồ đề đạo mà hướng về quả vị vô sinh pháp nhẫn. Minh lợi : Thần thông vô ngại các căn minh lợi, cùng với tất cả chân lý các pháp thật tướng, Bồ Tát đều thông đạt vô ngại. Ngài biết tùy thuận thật tướng để tu hành, quyết định không trái ngược.

 

Phật tử! Bồ-tát trụ thử hiện tiền địa dĩ, dĩ nguyện lực cố, đắc kiến đa Phật. sở vị: kiến đa bách Phật, nãi chí kiến đa bách thiên ức na-do-tha Phật.

Phật tử ! Bồ Tát trụ Hiện tiền địa nầy rồi, do nhờ nguyện lực nên thấy được nhiều vị Phật. Thấy được nhiều trăm vị Phật, cho đến thấy được nhiều trăm ngàn ức Na do tha vị Phật.

Giảng: Bồ Tát Kim Cang Tạng lại gọi một tiếng các vị đệ tử của Phật ! Khi Bồ Tát trụ tại Hiện tiền địa, do nhờ đại nguyện của Ngài phát ra trong quá khứ, cho nên thấy được nhiều vị Phật. Tại sao một số người không thấy được Phật ? Vị trong đời quá khứ họ chẳng phát đại nguyện. Bồ Tát phát đại nguyện lực, cho nên Ngài có thể thấy được nhiều vị Phật, thấy được hàng trăm vị Phật, cho đến thấy được trăm ngàn ức Na do tha vị Phật.

 

Tất dĩ quảng đại tâm, thâm tâm, cúng dường cung kính, tôn trọng tán thán, y phục, ẩm thực, ngọa cụ, thang dược, nhất thiết tư sanh tất dĩ phụng thí, diệc dĩ cúng dường nhất thiết chúng tăng, dĩ thử thiện căn hồi hướng A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề. Ư chư Phật sở, cung kính thính pháp, văn dĩ thọ trì, đắc như thật tam muội trí tuệ quang minh, tùy thuận tu hành, ức trì bất xả. Hựu đắc chư Phật thậm thâm Pháp tạng.

Đều dùng tâm rộng lớn, tâm thâm sâu, cúng dường cung kính, tôn trọng khen ngợi. Y phục thức ăn uống, toạ cụ thuốc thang, tất cả vật tư sanh, đều dâng lên cúng dường. Cũng đem cúng dường tất cả chúng Tăng. Đem căn lành hồi hướng về Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Ở chỗ các đức Phật cung kính nghe pháp, nghe rồi thọ trì, đắc được như thật tam muội, trí huệ quang minh. Tuỳ thuận tu hành, nhớ giữ không bỏ. Lại đắc được pháp tạng thâm sâu của chư Phật.

Giảng: Bồ Tát thấy được các đức Phật rồi, Ngài liền dùng tâm rộng lớn vô lượng vô biên, tâm thành thâm sâu không thể dò, dùng để cung kính cúng dường chư Phật, tôn trọng khen ngợi mười phương ba đời chư Phật. Lại đem y phục tốt đẹp nhất, thức ăn uống thượng hạng, toạ cụ, thuốc thang, tất cả vật tư sanh thường dùng hằng ngày, cung kính dâng lên cúng dường mười phương ba đời chư Phật, cũng đem những đồ vật đó cung kính dâng lên cúng dường mười phương chư hiền Thánh Tăng. Đem các thứ căn lành cung kính cúng dường, tôn trọng khen ngợi, hồi hướng về quả vị Phật Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Do công đức đó, Bồ Tát thấy được vô số chư Phật như đã nói ở trên, đắc được sự thành tựu như vậy. Vị Bồ Tát địa thứ sáu nầy, Ngài ở tại đạo tràng của mười phương chư Phật, thân, tâm, ý, kiền thành tụ tinh hội thần lắng nghe Phật pháp. Nghe rồi, Ngài nhất định y giáo phụng hành. Thọ nơi tâm, hành nơi thân, cho nên đắc được chánh định chánh thọ chân thật, mà hiển ra trí huệ quang minh vốn có. Ngài thuận theo trí huệ, tu hành các pháp môn, suy gẫm ghi nhớ không quên. Thành khẩn siêng tu Phật pháp như vậy, cho nên được chư Phật hộ niệm, cũng đắc được pháp tạng thâm sâu vi diệu của chư Phật.

 

Kinh ư bách kiếp, Kinh ư thiên kiếp, nãi chí vô lượng bách thiên ức na-do-tha kiếp, sở hữu thiện căn chuyển canh minh tịnh.

Trải qua trăm kiếp, ngàn kiếp, cho đến vô lượng trăm ngàn ức Na do tha kiếp, hết thảy căn lành càng thêm sáng tịnh. Ví như vàng thật, dùng báu tỳ lưu ly mài dũa, thì càng thêm sáng tịnh.

Giảng: Bồ Tát siêng năng tu hành, trải qua trăm kiếp, ngàn kiếp, cho đến vô lượng trăm ngàn ức Na do tha kiếp, căn lành của Ngài tích tụ, càng thêm sáng lạng, càng thanh tịnh hơn. Đây cũng giống như luyện vàng thật, dùng đá báu tỳ lưu ly mài dũa nhiều lần, thì khiến cho vàng càng sáng lạng, càng thanh tịnh. Công phu tu hành của Bồ Tát Hiện Tiền địa, căn lành tích tập, giống như vàng thật, cũng từng kiếp từng kiếp đầy đủ viên mãn.

 

Thí như chân kim, dĩ Tì lưu ly bảo sát sát ma oánh, chuyển canh minh tịnh; thử địa Bồ Tát sở hữu thiện căn diệc phục như thị, dĩ phương tiện tuệ, tùy trục quan sát, chuyển canh minh tịnh, chuyển phục tịch diệt, vô năng ánh tế.

Thí như nguyệt quang, chiếu chúng sanh thân, lệnh đắc thanh lương, tứ chủng phong luân sở bất năng hoại; thử địa Bồ Tát sở hữu thiện căn diệc phục như thị, năng diệt vô lượng bách thiên ức na-do-tha chúng sanh phiền não sí hỏa, tứ chủng ma đạo sở bất năng hoại. Thử Bồ Tát, thập Ba la mật trung, Bát-nhã Ba-la-mật Thiên đa; dư phi bất tu, đãn tùy lực tùy phần.

Phật tử! thị danh: lược thuyết Bồ-Tát Ma-ha-tát đệ lục hiện tiền địa.

Hết thảy căn lành của Bồ Tát địa nầy cũng lại như vậy. Dùng phương tiện huệ theo dõi quán sát, càng thêm sáng tịnh. Lại càng vắng lặng, chẳng có che khuất được. Ví như ánh sáng mặt trăng chiếu lên thân chúng sinh, khiến cho được mát mẻ, bốn thứ gió không thể nào hoại được. Hết thảy căn lành của Bồ Tát địa nầy cũng lại như vậy, có thể diệt vô lượng trăm ngàn ức Na do tha lửa phiền não của chúng sinh, bốn thứ ma đạo không thể nào phá hoại được.

Bồ Tát nầy ở trong mười Ba la mật, thiên nhiều về Bát nhã ba la mật, còn các Ba la mật kia chỉ tuỳ sức tuỳ phần mà tu.

Phật tử ! Đó là lược nói về Hiện Tiền địa thứ sáu của đại Bồ Tát.

Giảng: Bồ Tát tại Địa thứ sáu, hết thảy căn lành của Ngài, cũng giống như vàng thật. Ngài dùng phương tiện trí huệ khéo léo mà Ngài tu được, theo loại quán sát, thì trí huệ quang minh của Ngài càng thêm sâu rộng. Vì trí huệ vốn có của Ngài hiển hiện ra. Chứng được trí huệ, giải thoát khỏi chướng ngại, thì càng vắng lặng. Do trí huệ của Ngài thanh tịnh, cho nên chẳng có bất cứ quang minh nào có thể che khuất được, cũng chẳng có bất cứ quang minh nào so sánh được.

Ví như ánh sáng mặt trăng trong hư không, chiếu sáng đến tất cả thân chúng sinh, khiến cho hết thảy chúng sinh đều cảm thấy mát mẻ tự tại. Dùng bốn thứ gió có thể phá hoại tất cả các pháp để nói : Gió mùa xuân điều hoà, ví dụ ma phiền não, vì có tâm ý thuận ái. Gió mùa hè nóng, dụ như ma uẩn, nhiệt não nhiều. Gió mùa thu mát mẻ, dụ cho tử ma, quả chín tiêu sát. Gió mùa đông lạnh, dụ cho thiên ma, hại người hành thiện. Bốn thứ gió nầy, tuy mỗi thứ có oai lực của nó, nhưng không thể nào phá hoại được ánh sáng mặt trăng, làm cho ánh sáng mặt trăng ẩn đi. Căn lành của Bồ Tát Hiện Tiền địa tu tập, cũng giống như ánh sáng mặt trăng, chẳng có bất cứ vật gì có thể làm tổn hại Ngài được. Căn lành của Bồ Tát tu tập, có thể tiêu diệt vô lượng trăm ngàn ức lửa phiền não của chúng sinh, bốn thứ ma – ma phiền não, ma bệnh, ma chết, thiên ma, tuy nhiên lợi hại, cũng không thể nào phá hoại được căn lành của Bồ Tát.

Bồ Tát Địa thứ sáu tu hành phần nhiều thiên về Bát nhã trí huệ Ba la mật trong mười Ba la Mật, còn chín Ba la mật kia không phải là không tu hành, mà là tuỳ sức và duyên phần của mình mà tu tập.

Các vị đệ tử của Phật ! Đây chỉ là nói sơ lược về quá trình tu tập của đại Bồ Tát hiện tiền địa thứ sáu, nói chút ít về cảnh giới thật tại mà thôi.

 

Bồ-tát trụ thử địa, đa tác thiện hóa Thiên Vương, sở tác tự tại, nhất thiết Thanh văn sở hữu vấn nan vô năng thoái khuất, năng lệnh chúng sanh trừ diệt ngã mạn, thâm nhập duyên khởi. Bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự như thị nhất thiết chư sở tác nghiệp, giai bất ly niệm Phật, nãi chí bất ly niệm cụ túc nhất thiết chủng, nhất thiết trí trí.

Phục tác thị niệm: ngã đương ư nhất thiết chúng sanh trung vi thủ, vi thắng, nãi chí vi nhất thiết trí trí y chỉ giả. Thử Bồ Tát nhược cần hành tinh tấn, ư nhất niệm khoảnh, đắc bách thiên ức tam muội, nãi chí thị hiện bách thiên ức Bồ Tát dĩ vi quyến thuộc. Nhược dĩ nguyện lực tự tại thị hiện, qua ư thử số, nãi chí bách thiên ức na-do-tha kiếp bất năng số tri.

Bồ Tát trụ tại địa nầy, phần nhiều làm Thiện Hoá Thiên Vương, việc làm đều tự tại. Tất cả Thanh Văn vấn nạn điều gì, đều không khuất phục được, hay khiến cho chúng sinh diệt trừ được ngã mạn, vào sâu duyên khởi. Bố thí ái ngữ lợi hành đồng sự, làm tất cả các nghiệp như vậy, đều không lìa khỏi niệm Phật, cho đến không lìa niệm đầy đủ nhất thiết chủng trí, nhất thiết trí.

Lại nghĩ như vầy : Ở trong tất cả chúng sinh tôi phải làm thượng thủ, làm tối thắng, cho đến làm bậc y chỉ của nhất thiết trí. Bồ Tát nầy nếu siêng hành tinh tấn, thì trong khoảng một niệm, đắc được trăm ngàn ức tam muội, cho đến thị hiện trăm ngàn ức Bồ Tát, dùng để làm quyến thuộc. Nếu dùng nguyện lực tự tại mà thị hiện, thì nhiều hơn số trên, cho đến trăm ngàn ức Na do tha số kiếp, không thể đếm biết được.

Giảng: Khi Bồ Tát tu đến quả vị Địa thứ sáu, thì đa số đều thị hiện làm Thiên Vương cõi trời Thiện Hoá. Những gì Ngài làm đều nhậm vận tự tại, không bị bất cứ gì làm khó khăn, hoặc trở ngại được. Dù hàng Thanh Văn có vấn nạn đối với Phật pháp, thì vị Bồ Tát nầy cũng không thể nào bị khuất phục những vấn nạn đó. Vì Ngài đã thấu rõ đạo đế của hàng nhị thừa nên hàng phục được. Vị Bồ Tát nầy cũng rất khéo léo giáo hoá chúng sinh, hay khiến cho chúng sinh được lợi ích, mà diệt trừ được ác tập cống cao ngã mạn, khiến cho chúng sinh vào sâu hiểu rõ được đạo lý chân thật của các pháp duyên khởi. Bồ Tát độ hoá chúng sinh, trước hết quán sát tập tánh và sự cần thiết của chúng sinh, sau đó dùng : Bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự, trong bốn pháp nhiếp. Như vậy, tất cả công việc độ hoá, đều không quên tông chỉ Phật pháp, cũng không trái với nguyên tắc đầy đủ trí huệ, hoàn toàn bám vào trí huệ tối thượng để hành sự.

Do đó, Bồ Tát lại nghĩ như vầy : Tôi phải làm bậc lãnh đạo trong tất cả chúng sinh, làm một bậc lãnh đạo thù thắng có đầu não đặc biệt, cho đến làm y chỉ sư của những người có trí huệ nhất. Phải giống như đức Phật tự giác giác tha, làm thầy của trời người. Nếu như vị Bồ Tát nầy dũng mãnh tinh tấn không giải đãi, thì có thể ở trong một niệm, đắc được trăm ngàn ức chánh định chánh thọ (tam muội). Cũng có thể ở trong một niệm, thị hiện được trăm ngàn ức Bồ Tát làm quyến thuộc của Ngài. Nếu dùng nguyện lực mà Bồ Tát đã phát ra trong quá khứ, thì Ngài rất tự tại thị hiện tất cả, còn hơn số vừa nói ở trên, dù bạn có dùng trăm ngàn ức Na do tha kiếp để tính đếm, cũng không cách chi đếm rõ ràng được.

 

Nhĩ thời, Kim Cương tạng Bồ Tát dục trọng tuyên kỳ nghĩa nhi thuyết tụng viết:

Bấy giờ Kim Cang Tạng Bồ Tát muốn tuyên lại nghĩa này mà nói kệ rằng:

 

Bồ Tát viên mãn ngũ địa dĩ Bồ Tát viên mãn Ngũ Ðịa rồi
Quán Pháp vô tướng diệc vô tánh Quán pháp vô tướng cũng vô tánh
Vô sanh vô thành bổn thanh tịnh, Vô sanh vô diệt vốn thanh tịnh
Vô hữu hí luận vô thủ xả Không có hỷ luân không thủ xả.

Giảng: Lúc đó, Bồ Tát Kim Cang Tạng muốn tường thuật lại ý nghĩa đã nói ở trên, do đó dùng phương pháp kệ để nói ra. Kệ tụng nói như vầy :

Đại Bồ Tát tu tập hạnh Bồ Tát, tích tụ đủ thứ căn lành, viên mãn chứng được Địa thứ năm rồi – quả vị Nan Thắng địa, Ngài quán sát các pháp. Biết các pháp vốn là không có thể, không tướng, cũng không có tánh. Pháp không sanh, cũng không hoại diệt, vì nó vốn thanh tịnh không nhiễm. Pháp vốn không có chỗ gọi là hí luận, cũng không có chất báu cụ thể có thể lấy, có thể bỏ.

 

Thể tướng tịch diệt như huyễn đẳng Thể tướng tịch diệt như huyễn thảy
Hữu vô bất nhị ly phân biệt, Hữu vô bất nhị rời phân biệt
Tùy thuận pháp tánh như thị quán, Tùy thuận pháp tánh quán như vậy
Thử trí đắc thành nhập lục địa. Trí này được thành nhập Lục Ðịa.

Giảng: Thể tướng của pháp là vắng lặng, nó giống như mộng huyễn bọt bóng, như sương như điện. Có và không chẳng có hai dạng, lìa khỏi sự phân biệt lời nói. Bạn chỉ có thể tuỳ thuận chân lý của pháp tánh để quán sát suy gẫm, nếu chứng được Bát nhã trí huệ thù thắng, thì có thể tiến vào Địa thứ sáu. “Trí nầy đắc được” là không, vô tướng, vô nguyện ba thứ trí huệ.

 

Minh lợi thuận nhẫn trí cụ túc Ðầy đủ trí minh lợi thuận nhẫn
Quan sát thế gian sanh diệt tướng Quán sát thế gian tướng sanh diệt
Dĩ si ám lực thế gian sanh, Do sức si tối có thế gian
Nhược diệt si ám thế vô hữu. Si tối diệt mất không thế gian.

Giảng: Thông minh có trí huệ tuỳ thuận pháp môn nhẫn tu học, thì có thể đắc được đầy đủ tất cả trí huệ. Bồ Tát quán sát tất cả trên thế gian, cùng với tướng trạng sinh diệt của chúng sinh, đều do bị sức ngu si, ám độn, mới lưu chuyển sanh tử tại thế gian. Giả sử tiêu diệt hết sức ngu si ám độn, thì không còn lưu chuyển sanh tử tại thế gian nữa.

 

Quán chư nhân duyên thật nghĩa không Quán các nhơn duyên không thiệt tánh
Bất hoại giả danh hòa hợp dụng, Chẳng hoại giả, gọi hoà hiệp dụng
Vô tác thị cố vô tư niệm, Vô tác, vô thọ, không nghĩ nhớ
Chư hạnh như vân biến hưng khởi. Hành pháp như mây nổi khắp nơi.

Giảng: Quán sát tất cả nghiệp quả nhân duyên sanh khởi trên thế gian, phân tích kỹ càng ra, thì chẳng có một sự kiện gì chẳng phải là không. Đem tất cả giả danh đó tập hợp lại với nhau, thì sẽ sanh ra một thứ tác dụng. Kỳ thật vốn chẳng có người tạo tác, chẳng có người thọ nhận, cũng chẳng có gì suy nghĩ nhớ tưởng, buông bỏ chẳng đặng. Vì “vô minh” mà hưng khởi các thứ nghiệp hành, giống như mây theo duyên mới sanh, tuỳ cảnh giăng bủa khắp nơi, thể tánh của nó là hư huyễn không thật.

 

Bất tri chân đế danh vô minh, Chẳng biết chơn đế gọi vô minh
Sở tác tư nghiệp ngu si quả, Gây tạo tư: nghiệp,ngu si: quả.
Thức khởi cộng sanh thị danh sắc Thức khởi sanh chung gọi là danh sắc
Như thị nãi chí chúng khổ tụ. Như vậy nhẫn đến những khổ tụ,

Giảng: Thế nào gọi là “vô minh” ? Không biết chân lý gọi là “vô minh”. Cứ làm những việc hồ đồ điên đảo, còn tự mình cho là đúng, đây là biểu hiện hành vi “vô minh”. Những gì vọng tưởng nghĩ tà là nhân, làm ra hành vi ngu si hồ đồ điên đảo là quả. Do “vô minh” nên có “hành”, có “hành” rồi thì sinh ra “thức”, ba thứ nầy tiếp tục sinh ra “danh sắc”, tiếp tục cho đến “sanh lão tử”, kết thành quan hệ đời đời kiếp kiếp, trong đời đời kiếp kiếp thống khổ tích tụ lại với nhau.

 

Liễu đạt tam giới y tâm hữu, Rõ thấu ba cõi nương nơi tâm
Thập nhị nhân duyên diệc phục nhiên, Mười hai nhơn duyên cũng nương tâm
Sanh tử giai do tâm sở tác Sanh tử đều do tâm làm ra
Tâm nhược diệt giả sanh tử tận. Tâm nếu diệt dứt, sanh tử hết.

Giảng: Bồ Tát Địa thứ sáu, Ngài đã chứng được đại trí huệ, cho nên minh bạch hết thảy ba cõi đều do tâm hiện. Nghĩa là mười pháp giới cũng do một tâm niệm hiện ra – Phật, Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn, trời, người, A tu la, súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục. Mười hai nhân duyên mà hình thành cũng do tâm tạo ra. Con người lưu chuyển trong sanh tử luân hồi, cũng bắt đầu từ một tâm niệm sinh khởi. Do vọng tưởng tạo nghiệp, do nghiệp thọ báo, cho nên nói: Lưới nghiệp vây bủa, luân hồi trả nợ, sanh tử khó dứt. Nếu trong tâm không sanh vọng niệm, thì đối với cảnh giới bên ngoài đến, như như bất động, rõ ràng sáng suốt. Bởi vậy:

“Một niệm không sinh toàn thể hiện
Sáu căn giao động bị mây che”.

Chẳng còn niệm thì tâm sẽ diệt. Cống cao ngã mạn, độc tố tham sân si chẳng còn nữa, sinh tử cũng chấm dứt.

 

Vô minh sở tác hữu nhị chủng Vô minh công dụng có hai thứ:
Duyên trung bất liễu vi hàng nhân Mê lầm sở duyên, làm thành nhơn,
Như thị nãi chí lão chung một, Như vậy nhẫn đến lão và tử
Tòng thử khổ sanh vô hữu tận. Do đây quả khổ không cùng tận.

Giảng: “Vô minh” tạo nên nghiệp nhân có hai thứ: Một thứ là làm tất cả, tức là nghiệp nhân, giống như hạt giống. Hạt giống gặp duyên chín mùi tức là nhân của “hành”. Như vậy tiếp tục về sau thẳng đến “sanh, lão, tử”, tuần hoàn không ngừng, đều do “vô minh” sinh ra. Ba khổ tám nạn cũng tuần tự sinh ra, chẳng lúc nào cùng tận.

 

Vô minh vi duyên bất khả đoạn, Vô minh làm duyên chẳng thể dứt,
Bỉ duyên nhược tận tất giai diệt Duyên đó nếu dứt tất cả dứt,
Ngu si ái thủ phiền não chi, Ngu si, ái,thủ: phiền não chi
Hành hữu thị nghiệp dư giai khổ. Hành, hữu là nghiệp, nghiệp, chi khác: khổ.

Giảng: Mười hai nhân duyên từ “vô minh” sinh ra, tiếp tục diễn biến tiến về trước, vô cùng vô tận, chẳng có lúc nào đoạn diệt. Nếu hiểu rõ được đạo lý pháp môn hoàn diệt, thì khiến cho các duyên khác không sinh, thì mười hai nhân duyên cũng không, đoạn diệt mất. Môn hoàn diệt và môn thuận sinh, cả hai đều tương phản với nhau.
Môn thuận sinh là: “Vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên lão tử, ưu bi khổ não”.

Môn hoàn diệt là: “Vô minh diệt thì hành diệt, hành diệt thì thức diệt”. Như vậy thuận diệt về sau, thì tự nhiên các chi đều diệt mất. Vì “vô minh” sinh ra “ái”, có “ái” rồi thì sau đó có “thủ”, đây là nguồi gốc của phiền não. “Hành duyên” và “hữu duyên” là chủ động lực tạo nghiệp, tức cũng là trồng xuống nhân thọ báo đời sau. Các duyên khác đều thuộc về nhân duyên của khổ.

 

Si chí lục xứ thị hành khổ, Si đến lục nhập là hành khổ,
Xúc thọ tăng trưởng thị khổ khổ, Xúc thọ thêm lớn là khổ khổ,
Sở dư hữu chi thị hoại khổ, Còn những chi khác là hoại khổ,
Nhược kiến vô ngã tam khổ diệt. Nếu thay vô ngã ba khổ dứt.

Giảng: Từ “Vô minh” đến “sáu xứ” – cũng gọi là “lục nhập”, đây là hành khổ. “Xúc” và “thọ” hai thứ duyên này tăng trưởng, tức là khổ trong khổ. Còn các chi khác là hoại khổ. Nếu thấu đạt đạo lý tất cả vô ngã, cũng không có ngã sở, thì ba khổ nầy sẽ diệt trừ được.

 

Vô minh dữ hành vi quá khứ Vô minh cùng hành thuộc quá khứ,
Thức chí ư thọ hiện tại chuyển Thức đến xúc, thọ thuộc hiện tại
Ái thủ hữu sanh vị lai khổ, Ái, thủ, hữu sanh khổ vị lai.
Quán đãi nhược đoạn biên tế tận. Quán đãi nếu dứt: biên tế dứt.

Giảng: “Vô minh” và “hành” hai chi nầy là nhân của quá khứ. Từ “thức” đến “thọ” mấy chi nầy là nhân hiện tại đang chuyển biến con người. “Ái” và “thủ, hữu, sinh” mấy chi nầy là nhân khổ của vị lai. Quán sát suy gẫm kỹ càng nhân sinh khởi của mười hai nhân duyên, hiểu rõ phương pháp đối trị hoàn diệt chuyên tâm tu hành học đạo, đồng đối đãi với khổ vô biên không bờ mé, cuối cùng dứt tận diệt sạch hết.

 

Vô minh vi duyên thị sanh phược Vô minh làm duyên: là sanh phược
Ư duyên đắc ly phược nãi tận, Rời được nơi duyên phược mới hết
Tùng nhân sanh quả ly tức đoạn Từ nhơn sanh quả, lìa thời dứt,
Quan sát ư thử tri tánh không. Quán sát nơi đây biết tánh không.

Giảng: Từ “Vô minh” về sau sinh ra nhân duyên các chi khác, đó tức là trói buộc “sinh”. Nếu thấu hiểu được môn hoàn diệt, thì từ “vô minh” duyên khởi nầy sẽ đoạn diệt, trói buộc sinh sẽ hết, khổ cũng hết chẳng còn nữa. Từ nhân duyên mới sinh ra quả báo; lìa nhân duyên rồi, thì quả báo đương nhiên sẽ lìa. Bạn thường quán sát suy gẫm về đạo lý nầy, thì sẽ minh bạch “nhân duyên sinh ra pháp, tất cả tức là không”.

 

Tùy thuận vô minh khởi chư hữu, Tuỳ thuận vô minh khởi ba cỏi.
Nhược bất tùy thuận chư hữu đoạn, Nếu không tuỳ thuận ba cõi dứt,
Thử hữu bỉ hữu vô diệc nhiên, Có đây có kia, không cũng vậy
Thập chủng tư tánh tâm ly trước Mười cách tư duy tâm lìa chấp.

Giảng: Nếu thuận theo “vô minh” phát triển về sau, thì các chi khác nhân duyên cũng thuận theo từng chi từng chi sinh khởi. Nếu không thuận theo “vô minh” phát triển về sau, thì các chi khác sẽ không sinh khởi theo. Đạo lý nầy là : Có chi nầy thì sẽ sinh ra chi khác. Nếu chi nầy không sinh khởi, thì chi khác không thể sinh ra. Quán tưởng kỹ càng mười thứ đạo lý nầy, kết luận lại là “tâm phải lìa chấp trước”.

 

Hữu chi tướng tục nhất tâm nhiếp Hữu chi tiếp nói nhiếp nhứt tâm
Tự nghiệp bất ly cập tam đạo, Tự nghiệp chẳng rời và tam đạo,
Tam tế tam khổ nhân duyên sanh Tam tế, tam khổ nhơn duyên sanh
Hệ phược khởi diệt thuận vô tận. Hệ phược khởi diệt thuận vô tận

Giảng: Vì “có” chi nghiệp nhân nầy, khiến sinh tử liên tục không dứt, nguyên nhân chủ yếu vẫn là do một tâm nhiếp với nhau không lìa, tức là chấp trước. Tự mình tạo ra nghiệp ác thì không thể giải thoát được, sẽ bị đoạ vào trong ba đường ác. Nghiệp nhân ba đời đắc được báo của ba khổ, đó đều là chi phối nhân duyên của thọ, khó thoát khỏi khổ báo. Sự ràng buộc các thứ khổ của con người, sinh diệt biến đổi, thuận theo vô minh, thì vĩnh viễn chẳng có lúc nào dừng lại và hết được. Nếu giác ngộ chân lý sinh diệt, lìa khỏi “có” và “chấp trước” thì sẽ chấm dứt các khổ.

 

Như thị phổ quán duyên khởi hạnh Như vậy, quán khắp pháp duyên khởi
Vô tác thị cố vô chân thật, Vô tác, vô thọ, không chơn thiệt
Như huyễn như mộng như quang ảnh Như huyễn, như mộng, như bóng vang
Diệc như ngu phu trục dương diệm. Như kẻ ngu chay theo dương diệm.

Giảng: Quán sát khắp duyên khởi của các pháp như vậy, biết chẳng có kẻ làm, cũng chẳng có kẻ thọ, càng không có thể tánh chân thật, đều là giả không. Giống như huyễn thuật, cảnh mộng, hoặc giống như hình bóng, lại giống như kẻ ngu si đuổi theo dương diệm, mà chẳng tìm được dương diệm, tất cả đều là hư vọng không thật, bất khả đắc.

 

Như thị quan sát nhập ư không Quán sát như vậy vào nơi không
Tri duyên tánh ly đắc vô tướng Biết duyên tánh ly được vô tướng
Liễu kỳ hư vọng vô sở nguyện, Rõ pháp hư vọng không nguyện cầu
Duy trừ từ mẫn vi chúng sanh. Chỉ có từ mẫn độ muôn loại.

Giảng: Như vậy suy gẫm quán sát, thì chứng được chân lý “không”, minh bạch bản tánh của tất cả nhân duyên, đều là không chẳng chỗ có. Có thể nhận thức rõ ràng bản tánh của mười hai nhân duyên, thì sẽ xa lìa “vô minh”, chứng được pháp môn vô tướng giải thoát. Biết tất cả pháp hữu vi đều là hư vọng, sẽ chứng được pháp môn vô nguyện giải thoát. Tất cả những gì đều buông xả hết, chỉ có lưu lại tâm từ bi, dùng để giáo hoá chúng sinh, mới là chân thật không hư.

 

Đại sĩ tu hành giải thoát môn, Ðại sĩ tu hành môn giải thoát
Chuyển ích đại bi cầu Phật Pháp, Càng thêm đại bi cầu phật pháp
Tri chư hữu vi hòa hợp tác Biết các hữu vi hòa hiệp làm
Chí lạc quyết định cần hành đạo. Chí nguyện quyết định siêng hành đạo.

Giảng: Đại Sĩ là một tên gọi khác của Bồ Tát. Cũng gọi là chúng sinh Đại đạo tâm, vì Bồ Tát là do chúng sinh tinh cần tu đạo mà thành tựu, vì Ngài có đạo tâm kiên cố đặc biệt, cho nên được gọi là chúng sinh có đại đạo tâm. Còn gọi là Đại khai sĩ, hay khai mở trí huệ cho tất cả chúng sinh. Còn gọi là đại Bồ Tát, đây là nửa tiếng Phạn, nói cho đầy đủ là Bồ đề tát đoả, dịch là “giác hữu tình”, hay giác ngộ tất cả hữu tình. Hữu tình tức là chúng sinh, còn gọi là “hữu tình giác”, nghĩa là một bậc giác ngộ trong hữu tình. Bồ Tát tu học pháp môn giải thoát, Ngài biết muốn đắc được giải thoát, phải diệt trừ tham sân si, không chấp trước, thì mới không bị mọi sự ràng buộc. Sỡ dĩ phàm phu bị ràng buộc, là vì tự mình cùng với vô minh phiền não ràng buộc với nhau, buông bỏ chẳng đặng tham sân si, chấp trước tất cả hư huyễn vọng niệm, do đó chẳng được giải thoát. Nếu phá trừ được vô minh, đoạn sạch phiền não, tiêu diệt tham sân si, như vậy thì sẽ đắc được pháp môn giải thoát, đắc được tự do tự tại chân chánh, chẳng còn chấp trước ! Bồ Tát đắc được môn giải thoát, đắc được đại lợi ích, thì tâm đại bi càng tăng trưởng, tâm tinh tấn trên cầu Phật đạo càng thêm vững chắc. Bởi vậy Bồ Tát càng thấu rõ vạn sự vạn vật của thế gian, cùng với sự hình thành tất cả pháp hữu vi thành lập, đều không lìa khỏi nhân duyên hoà hợp. Bồ Tát biết rõ những đạo lý nầy rồi, quyết định phát ra tâm kiên cố, chí nguyện tu hành, ưa thích siêng hành Phật đạo.

 

Không tam muội môn cụ bách thiên, Môn không tam muội đủ trăm ngàn
Vô tướng vô nguyện diệc phục nhiên, Vô tướng, vô nguyện cũng như vậy
Bát-nhã thuận nhẫn giai tăng thượng, Bát nhã thuận nhẫn đều không tăng thượng
Giải thoát trí tuệ đắc thành mãn. Giải thoát trí huệ được viên mãn.

Giảng: Không tam muội tức là thấu rõ chân đế của “không”. Tam muội là chánh định chánh thọ. Pháp môn tam muội “không” nầy có trăm ngàn thứ. Tam muội vô tướng vô nguyện cũng có trăm ngàn thứ loại. Bát nhã là đại trí huệ vô thượng, pháp trí huệ xuất thế. Tuỳ thuận nơi pháp môn vô sinh pháp nhẫn, càng ngày càng tăng tấn, do đó mà pháp môn giải thoát trí huệ được thành tựu viên mãn.

 

Phục dĩ thâm tâm đa cúng Phật, Lại dùng thâm tâm cúng nhiều phật
Ư Phật giáo trung tu tập đạo, Ở trong phật giáo tu tập đạo
Đắc Phật pháp tạng tăng thiện căn, Ðược Phật pháp tạng thêm thiện căn
Như kim lưu ly sở ma oánh. Như vàng dùng lưu ly trau sáng.

Giảng: Bồ Tát lại dùng tâm chí thành thâm sâu rộng lớn của Ngài, luôn luôn cúng dường các đức Phật. Dưới sự dạy bảo từ bi của Phật, tu tập vô thượng Phật đạo, đắc được Phật pháp bảo tạng, căn lành cũng càng tăng trưởng. Giống như vàng thật dùng lưu ly đá báu để mài dũa, khiến cho sự sáng bóng càng thêm sáng bóng.

 

Như nguyệt thanh lương bị chúng vật, Như trăng sáng mát lợi muôn loài.
Tứ phong lai xúc vô năng hoại; Bốn phong luân không ngăn hoại được,
Thử địa Bồ Tát siêu ma đạo Bực Bồ Tát này siêu ma đạo
Diệc tức quần sanh phiền não nhiệt. Dứt trừ phiền não cho quần sanh.

Giảng: Lại giống như ánh sáng của mặt trăng chiếu lên thân chúng sinh, khiến cho chúng sinh cảm thấy mát mẻ. Gió bốn mùa xuân hạ thu đông, tuy sức gió mỗi mùa khác nhau, cũng không thể phá hoại được ánh sáng mát mẻ của mặt trăng. Bồ Tát địa thứ sáu – Hiện tiền địa, định lực tu hành đã vượt qua khỏi các ma đạo, hàng phục được các ma đạo. Tâm đại bi mát mẻ của Bồ Tát, cũng hay diệt trừ được bệnh nhiệt phiền não của chúng sinh.

 

Thử địa đa tác thiện hóa Vương Bực này thường làm thiên hóa vương
Hóa đạo chúng sanh trừ ngã mạn Hóa đạo chúng sanh trừ ngã mạn
Sở tác giai cầu nhất thiết trí, Công hạnh đều cầu nhứt thiết trí
Tất dĩ siêu thắng Thanh văn đạo. Ðều đã vượt hơn đạo Thanh văn.

Giảng: Bồ Tát Hiện tiền địa, dùng nguyện lực của Ngài, thường thị hiện làm Thiên Vương trời Thiện Hoá, giáo hoá tất cả chúng sinh, khiến cho họ trừ khử tập khí ác cống cao ngã mạn. Những gì Bồ Tát làm, và tu tập tất cả pháp môn, cùng với tích tập đủ thứ căn lành công đức, mục đích là muốn cầu được nhất thiết chủng trí. Pháp môn tu hành và sự thành tựu của Bồ Tát địa thứ sáu, đều đã vượt qua pháp môn của bậc Thanh Văn Duyên Giác tu.

 

Thử địa Bồ Tát cần tinh tấn Bồ Tát bực này siêng tinh tấn
Hoạch chư tam muội bách thiên ức, Ðược môn tam muội trăm ngàn ức
Diệc kiến nhược can vô lượng Phật Cũng thấy trăm ngàn ức đức phật
Thí như thịnh hạ không trung nhật Ví như mặt nhựt ngày thạnh hạ.

Giảng: Bồ Tát Địa thứ sáu, lúc nào cũng tinh tấn không giải đãi, cho nên Ngài mới đắc được vô lượng trăm ngàn ức tam muội – chánh định chánh thọ. Đồng thời cũng thấy được vô lượng vị Phật nhiều không thể đếm biết được. Sự thành tựu đó, có thể dùng mặt trời mùa hạ làm ví dụ, vì ai ai cũng đều cảm thọ được ánh nắng gay gắt.

 

Thậm thâm vi diệu nan kiến tri, Tậm thâm vi diệu khó thấy biết
Thanh văn độc giác vô năng liễu, Thanh văn, độc giác không rõ được
Như thị Bồ Tát đệ lục địa Bồ Tát hiện tiền đệ lục địa
Ngã vi Phật tử dĩ tuyên thuyết Tôi vì Phật tử đã lược nói.

Giảng: Phật pháp thâm sâu vi diệu vô thượng, rất khó thấy được, cũng không dễ gì hiểu được. Thanh Văn và Duyên Giác của hàng nhị thừa, các Ngài tuy đã ở trong hàng Thánh, nhưng cũng không thể nào hiểu biết hoàn toàn. Sự tu hành của các vị Bồ Tát Địa thứ sáu – Hiện tiền địa, pháp môn và cảnh giới của địa nầy, tôi – Bồ Tát Kim Cang Tạng đã vì các vị đệ tử của Phật diễn nói xong rồi.






Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét