Kinh Hoa Nghiêm
Đại Phương Quảng Phật
giảng giải
Phẩm Hiền Thủ
Hòa Thượng TUYÊN HÓA
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Minh Ðịnh
— o0o —
Phẩm Thứ Mười Hai
Hiền là Thánh hiền. Thánh hiền nhân, thời thời hồi quang phản chiếu, cầu nơi chính mình. Mình chẳng sinh vô minh phiền não, cũng chẳng khiến cho người khác sinh vô minh phiền não. Nghiệp chướng của mình muốn quét sạch, muốn chiếu thấu, thì cũng đừng làm cho người khác tăng thêm nghiệp chướng, do đó có câu:
‘’Những gì mình không muốn
Đừng thí cho người khác.’’
Thời thời quản thúc thân miệng ý của mình, khiến cho nó thanh tịnh, cho nên gọi là ‘’Thể tánh chí thuận.’’ Thể tánh tức là bổn thể của mình và quang minh diệu tánh, chí thuận tức là thuận nhất, chẳng trái ngược với tất cả lý và tất cả pháp. Cử chỉ hành động đều phải hợp lý hợp pháp, tuyệt đối chẳng chướng ngại người khác tu hành, cũng chẳng chướng ngại mình tu hành, đây gọi là ‘’Hiền mà có đức.’’
Nếu có người đến chướng ngại bạn tu đạo, thì phải nghĩ như vầy : A ! Trong quá khứ tôi đã từng chướng ngại họ tu đạo, cho nên họ đến để chướng ngại ta tu đạo, đây là báo ứng ‘’Nhân nào quả đó.’’ Hãy xem họ như bậc thiện tri thức đến để trợ giúp bạn tu đạo, để thành tựu đạo nghiệp của bạn. Phải dùng tâm nhẫn nhục để xử lý cảnh nghịch đó, thì sẽ sóng yên gió lặng, đừng bao giờ sinh tâm đối địch, phải tâm an lý đắc, để tiếp nhận sự khảo nghiệm.
Trên thế gian này, giữa người với người cùng nhau đối địch, chẳng có nhịn nhường, cho nên mới phát sinh đủ thứ chiến tranh và đủ thứ tai nạn, mà tạo thành đủ thứ ác kiếp. Chúng ta người tu đạo, bất cứ đi đứng nằm ngồi đều phải thu nhiếp tự tánh của mình, đây gọi là ‘’Khéo điều thân tâm,’’ như đây gọi là ‘’Thiền.’’
Thủ là thủ lãnh, vì có Thánh đức cát tường, chứ chẳng phải tranh cường luận thắng, đàn áp mọi người để được tháng lợi mà làm đệ nhất. Mà phải có trí huệ cát tường, có đức hạnh thù thắng; tức cũng là người khác không thể tu hành, mà ta tu hành được, người khác không thể làm được, mà ta làm được, phải hơn người khác chẳng có đức hạnh, là lấy đức để phục người, chẳng phải dùng sức để phục người, cho nên gọi là siêu tuyệt, như vậy mới đáng gọi là ‘’Thủ.’’
Bồ Tát Hiền Thủ có thắng đức, vượt hơn các Bồ Tát khác, chẳng những thù thắng mà còn cát tường. Bồ Tát là lợi ích người khác, chứ chẳng phải lợi ích chính mình, chỉ cần đối với người khác có lợi ích, thì hết mình mà làm. Cho nên có tâm Bồ Tát để hành Bồ Tát đạo, thì có tinh thần xả mình vì người. Phẩm này là Bồ Tát Văn Thù hỏi Bồ Tát Hiền Thủ. Mà Bồ Tát Hiền Thủ dùng ba trăm năm mươi chín câu kệ để trả lời. Phẩm này là một phẩm tối quan trọng trong Kinh Hoa Nghiêm, hy vọng mọi người tụ tinh hội thần lại để nghe giảng, thì nhất định sẽ được lợi ích không thể nghĩ bàn.
Nhĩ thời, Văn-thù-sư-lợi Bồ-tát thuyết vô trược loạn thanh tịnh hạnh Đại công đức dĩ, dục hiển thị Bồ-đề tâm công đức cố, dĩ kệ vấn Hiền Thủ Bồ Tát viết
Bấy giờ, Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi nói hạnh thanh tịnh đại công đức chẳng đục loạn rồi, vì muốn hiển bày công đức tâm bồ đề, cho nên dùng kệ hỏi Bồ Tát Hiền Thủ rằng.
Giảng: Ðoạn Kinh văn này là tôn giả A Nan nói lúc kết tập Kinh điển. Ðây là thừa ở trước, là chỉ trước khi nói phẩm Tịnh Hạnh. Tịnh Hạnh tức là chẳng đục loạn, vì muốn hiển bày công đức tâm bồ đề, nên mở đầu Kinh văn ở sau.
Lúc đó, Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi nói xong đại công đức thanh tịnh hạnh chẳng đục loạn rồi, lại muốn hiển bày công đức phát tâm bồ đề, cho nên dùng kệ để hỏi Bồ Tát Hiền Thủ.
Trong quá khứ khi Ðức Phật tu hành, thì chẳng có ô trược, chẳng có tán loạn. Ô trược là gì ? Tức là có vô minh phiền não, có tham sân si ba độc, hoặc cố ý chướng ngại người khác tu đạo. Tán loạn là gì ? Tức là phóng dật chẳng giữ quy cụ, suốt ngày cứ khởi vọng tưởng, tinh thần chẳng tập trung, tu hành chẳng nhận chân.
Chúng ta người tu đạo, trước hết phải đừng có tâm ích kỷ. Nếu có tâm ích kỷ thì công đức gì cũng chẳng có. Bạn muốn chẳng có tâm ích kỷ thì trước hết phải đừng có ‘’cái ta.’’ Nếu có cái ta thì có tâm ích kỷ; chẳng có cái ta thì chẳng có tâm ích kỷ. Tâm ích kỷ hay chướng ngại sự tu đạo, điểm này mỗi người đều phải biết.
Chúng ta người xuất gia nhất định phải tôn sư trọng đạo. Không thể khinh sư mạn pháp, chẳng những tôn kính đối với sư phụ, mà các sư huynh xuất gia trước, mình cũng phải tôn kính. Quy cụ trong đạo tràng không được cống cao ngã mạn, Tỳ Kheo phải tôn kính sư trưởng, Tỳ Kheo Ni phải hành pháp Bát Kính, cung kính Tỳ Kheo, không thể khinh mạn Tỳ Kheo. Sa Di thì nhất định phải nghe Tỳ Kheo chỉ huy, Sa Di Ni nhất định phải nghe Tỳ Kheo Ni chỉ dạy. Ưu Bà Tắc và Ưu Bà Di thì nhất định phải tôn kính Tam Bảo, cung kính người xuất gia, không được phê bình người xuất gia, không được phỉ báng người xuất gia. Quy cụ này mọi người phải biết phải hiểu. Hay giữ gìn tức là hạnh thanh tịnh, không giữ gìn thì là hạnh đục loạn.
Ngã kim dĩ vi chư Bồ-tát Nay tôi đã vì các Bồ Tát
Thuyết Phật vãng tu thanh tịnh hạnh, Nói hạnh thanh tịnh Phật tu rồi
Nhân diệc đương ư thử hội trung Ngài cũng ở trong pháp hội này
Diễn sướng tu hành thắng công đức. Diễn nói thắng công đức tu hành.
Giảng: Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi là trí huệ bậc nhất, Bồ Tát Hiền Thủ là thắng đức bậc nhất. Bồ Tát Văn Thù đại biểu chúng sinh để thỉnh pháp. Ngài nói : Hiện tại tôi đã vì các đại Bồ Tát, nói hạnh môn thanh tịnh của mười phương chư Phật thuở xưa tại nhân địa tu rồi. Ngài (Bồ Tát Hiền Thủ) cũng đang ở trong pháp hội Hoa Nghiêm này, hãy diễn nói pháp môn công đức thù thắng của sự tu hành. Nên nói ra để biết tu hành như thế nào mới đắc được công đức thù thắng? Mới trợ giúp cho tâm bồ đề ? Mới viên mãn được đại công đức ?
Nhĩ thời, Hiền Thủ Bồ Tát dĩ kệ đáp viết
Bấy giờ, Bồ Tát Hiền Thủ dùng kệ đáp rằng.
Giảng: Bồ Tát Văn Thù vì chúng sinh thỉnh pháp, Bồ Tát Hiền Thủ vì chúng sinh nói pháp. Hai vị đại Bồ Tát này đều đầy đủ tâm từ bi, tất cả vì chúng sinh, do đó Bồ Tát Hiền Thủ dùng kệ để trả lời vấn đề Bồ Tát Văn Thù hỏi.
Thiện tai nhân giả ưng đế thính, Lành thay mong Ngài hãy lắng nghe
Bỉ chư công đức bất khả lượng, Các công đức đó không thể lường
Ngã kim tùy lực thuyết thiểu phần Nay tôi theo sức nói ít phần
Do như đại hải nhất tích thủy. Như một giọt nước của biển cả.
Giảng: Tốt lắm ! Ðại Sĩ nhân từ, Ngài biểu thị chúng sinh để hỏi pháp, đại biểu chúng sinh để nghe pháp, vậy xin Ngài hãy chú ý lắng nghe đạo lý tôi nói, hiển thị công đức của tâm bồ đề, là vô lượng vô biên. Tuy không thể trắc lường được bao nhiêu, nhưng hiện tại tôi tùy theo sức trí huệ có hạn, để diễn nói chút ít phần, giống như một giọt nước trong biển cả, tôi chỉ có thể nói công đức tâm bồ đề chút ít này.
Phật pháp rộng như biển cả. Chỉ cần nếm mùi vị của một giọt nước trong biển cả, thì sẽ biết nước trong biển cả đồng một vị, đều là mặn. Phật pháp tuy nhiên có tám vạn bốn nghìn pháp môn, chỉ cần chuyên nhất tu một pháp môn thành tựu, thì sẽ giải thoát. Do đó: ‘’Một thông tất cả thông,’’ minh bạch triệt để một pháp, thì pháp pháp cũng đều thấu rõ.
Nhược hữu Bồ Tát sơ phát tâm, Nếu có Bồ Tát mới phát tâm
Thệ cầu đương chứng Phật Bồ-đề, Thệ cầu sẽ chứng Phật bồ đề
Bỉ chi công đức vô biên tế, Công đức người đó chẳng bờ mé
Bất khả xưng lượng vô dữ đẳng. Không thể xưng lường chẳng gì bằng.
Giảng: Nếu như có người bắt đầu tin Phật pháp, phát tâm bồ đề muốn hành Bồ Tát đạo, thì trước hết phải quy y Tam Bảo, tức là quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Quy y Phật chẳng đọa địa ngục, quy y Pháp chẳng đọa ngạ quỷ, quy y Tăng chẳng làm súc sinh. Ðó là nghi thức bắt đầu tin Phật. Sau đó lại giữ năm giới. Năm giới tức là :
1). Không sát sinh.
2). Không trộm cắp.
3). Không tà dâm.
4). Không nói dối.
5). Không uống rượu.
Thọ năm giới rồi, thì nhất định phải giữ gìn giới luật. Trong mỗi giới đều có năm vị thiện thần hộ pháp. Nếu giữ được năm giới, thì có hai mươi lăm vị thiện thần đến bảo hộ, khiến cho hành giả gặp hung hóa cát, gặp nạn thành cát tường. Nếu phạm giới thì hai mươi lăm vị thiện thần đó sẽ bỏ bạn đi.
Nghi thức thọ ba quy y, phải làm ở trước mặt vị Tăng; người tại gia chẳng có tư cách thế người thọ quy y. Quy y Phật tức là quy y mười phương ba đời tất cả chư Phật. Quy y Pháp tức là quy y Tam Tạng mười hai bộ tất cả tôn pháp của Phật nói. Quy y Tăng tức là quy y hết thảy Hiền, Thánh, Tăng. Quy y Tam Bảo mới là đệ tử của Phật.
Người xuất gia, Sa Di thọ mười giới, Tỳ Kheo thọ hai trăm năm mươi giới, Tỳ Kheo Ni thọ ba trăm bốn mươi tám giới, còn phải thọ giới Bồ Tát mười giới trọng, bốn mươi tám giới khinh. Những giới này đầy đủ, mới chân chánh là người xuất gia. Người tại gia phải thọ năm giới, tám giới, Bồ Tát giới, mới là người chân chánh tin Phật. Ðây tức là Bồ Tát mới phát tâm, nhưng chẳng nhất định là Bồ Tát, chỉ là hướng đi trên con đường Bồ Tát mà thôi. Không thể có tư tưởng ‘’Lầm mắt cá là hạt châu.’’ Tôi đã thọ Bồ Tát giới, tức là Bồ Tát, đó là quan niệm sai lầm.
Bồ Tát mới phát tâm, giống như ví dụ đem hạt giống bồ đề vừa mới trồng xuống đất, mọc lên mầm bồ đề. Ðây chẳng phải là Bồ Tát viên mãn, mà là Bồ Tát chưa trưởng thành. Chẳng những ai ai cũng sẽ là Bồ Tát, mà ai ai cũng có thể thành Phật. Chỉ cần tu hành, thì bất cứ người nào cũng đều thành Phật. Vì ai ai cũng có Phật tánh, dù Nhất xiển đề (chẳng tin Phật) cũng có thể thành Phật, bất quá thời gian muộn hơn mà thôi.
Có Bồ Tát mới phát tâm, bỏ dở giữa đường, sinh tâm thối chuyển, lúc đó mầm bồ đề khô héo đi. Vì chẳng tưới nước đại bi, nên biến thành mầm hư thối. Có một bài thơ rằng :
‘’Ngư tử ba ma la.
Bồ Tát sơ phát tâm.
Tam sự nhân trung đa.
Như kỳ kết quả thiểu.’’
Nghĩa là: Cá đẻ ra rất nhiều trứng, song, rất ít biến thành cá. Cây ba ma la nở hoa rất nhiều, song, kết trái rất ít. Bồ Tát mới phát tâm rất nhiều, chân chánh hành Bồ Tát đạo rất là ít. Tại sao ? Vì chẳng có kiên, thành, hằng, ba chữ. Kiên là kiên cố, phải phát tâm bồ đề kiên cố, đừng có nóng năm phút, rồi sau thì lạnh, như thế thì sẽ chẳng thành tựu. do đó có câu :
‘’Kiên nhẫn chẳng từ nan.
Gian nan chẳng chùng bước.’’
Có tinh thần như thế mới thành công. Thành là thành tâm, phải có tâm kiền thành, từ từ thời khắc dụng công tu hành, chẳng giải đãi, chẳng phóng dật. Hằng là hằng thường. Người tu đạo phải có hằng tâm, thời khắc đều tu hành, năm tháng tu hành, đời đời tu hành. Biển có thể cạn, đá có thể mòn, tâm tu hành không khô cạn, không hao mòn, như vậy thì mới đi đến thượng lộ của Bồ Tát. Bồ Tát mới phát tâm bồ đề, phải phát bốn thệ nguyện lớn :
‘’Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.’’
Nghĩ muốn thành quả vị Phật, thì trước phải hành đạo Bồ Tát. Hành đạo Bồ Tát, thì trước phải giáo hóa chúng sinh. Muốn giáo hóa chúng sinh, thì trước phải đoạn phiền não, hóa phiền não thành bồ đề. Pháp môn tuy nhiều, nhưng đều phải học, học phương pháp thành Phật.
Nếu như có Bồ Tát mới phát tâm, phát bốn thệ nguyện lớn, thì tương lai nhất định sẽ chứng đắc Phật bồ đề. Công đức đó chẳng có bờ bến, cũng không thể dùng cân để cân, không thể dùng đấu để lường, chẳng có số mục nào đồng với công đức mới phát tâm Bồ Tát.
Hà huống vô lượng vô biên kiếp, Hà huống vô lượng vô biên kiếp
Cụ tu địa độ chư công đức, Tu đủ địa độ các công đức
Thập phương nhất thiết chư Như Lai, Mười phương tất cả các Như Lai
Tất cọng xưng dương bất năng tận. Thảy đều khen ngợi chẳng hết được.
Giảng: Bồ Tát mới phát tâm, tu sáu độ vạn hạnh, phát nguyện nhất định thành Bồ Tát đạo quả. Công đức đó vô lượng vô biên, hà huống đã tu hành vô lượng vô biên kiếp thời gian dài ! Ðầy đủ viên mãn tu hành pháp môn thập địa sáu độ và hết thảy tất cả pháp môn, đều viên mãn các công đức. Lúc đó mười phương ba đời tất cả chư Phật, cùng tán thán khen ngợi cũng chẳng hết được.
Như thị vô biên Đại công đức, Như vậy vô biên công đức lớn
Ngã kim ư trung thuyết thiểu phần, Nay tôi nói ít phần trong đó
Thí như điểu túc sở lý không, Ví như dấu chim bay trong không
Diệc như Đại địa nhất vi trần. Cũng như hạt bụi nơi đại địa.
Giảng: Giống như ở trước đã nói về nhiều kiếp tu hành sáu độ vạn hạnh, phát nguyện chứng được quả vị Phật, đó là công đức lớn vô lượng vô biên. Tôi (Bồ Tát Hiền Thủ) hiện nay chỉ nói ít phần trong công đức vô biên đó. Ít đến cỡ nào ? Giống như đường chim bay trong hư không, bất cứ bay bao nhiêu đường, nhưng tìm chẳng được dấu chim, do đó ‘’Như chim bay hư không chẳng có dấu vết.’’ Công đức tôi nói ra cũng giống như một hạt bụi trong đại địa.
Bồ Tát phát ý cầu Bồ-đề, Bồ Tát phát tâm cầu bồ đề
Phi thị vô nhân vô hữu duyên, Chẳng phải không nhân không có duyên
Ư Phật pháp tăng sanh tịnh tín, Nơi Phật Pháp Tăng sinh tịnh tín
Dĩ thị nhi sanh quảng đại tâm. Nhờ đó mà sinh tâm rộng lớn.
Giảng: Bồ Tát phát tâm là vì cầu đạo bồ đề, đều có nhân duyên, chẳng phải không nhân không duyên mà phát sinh. Mà là gặp bậc thiện tri thức khai thị mà phát sinh tâm bồ đề, trên cầu Phật đạo, dưới độ chúng sinh. Ðối với Phật Pháp Tăng đều sinh niềm tin thanh tịnh. Phật là bậc Thánh nhân ba giác tròn, vạn đức đầy. Pháp là phương pháp chấm dứt sanh tử. Tăng là tụ tập bốn vị Tỳ Kheo trở lên mới gọi là Tăng. Nhờ tin Phật tin Pháp tin Tăng, mà sinh ra tâm hân hoan rộng lớn, đây chẳng phải là sự vui củ thế gian, mà là sự an vui của xuất thế gian.
Gì là sự an vui xuất thế gian ? Tức là bốn đức Niết Bàn Thường Lạc Ngã Tịnh. Do đó có câu :
‘’Nhị tử vĩnh quên là Thường.
Giải thoát thọ dụng là Lạc.
Chứng chân pháp thân là Ngã.
Tuyệt chẳng nhiễm tướng là Tịnh.’’
Ðó là giải thích Thường Lạc Ngã Tịnh.
Bất cầu ngũ dục cập Vương vị, Chẳng cầu năm dục và ngôi vua
Phú nhiêu tự lạc Đại danh xưng, Giàu có sung sướng danh đồn khắp
Đãn vi vĩnh diệt chúng sanh khổ, Chỉ vì vĩnh diệt khổ chúng sinh
Lợi ích thế gian nhi phát tâm. Lợi ích thế gian mà phát tâm.
Giảng: Bồ Tát phát tâm bồ đề chẳng phải vì cầu tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ, hưởng thụ năm dục. Vì tham tài, sắc, danh, thực, thùy, đều là thú hướng về địa ngục năm căn. Tuy nhiên làm hoàng đế có quyền thế, giàu có bốn biển, hưởng thụ sung sướng, tiếng đồn thiên hạ, bốn biển đều biết, nhưng là vô thường, cho nên Bồ Tát cũng không cầu.
Tại sao Bồ Tát muốn phát tâm bồ đề ? Vì muốn cứu chúng sinh thoát khỏi biển khổ, vĩnh viễn diệt trừ khổ não. Vì lợi ích tất cả chúng sinh thế gian lìa khổ được vui, chấm dứt sinh tử, cho nên mới phát tâm bồ đề.
Thường dục lợi lạc chư chúng sanh, Thường muốn lợi lạc các chúng sinh
Trang nghiêm quốc độ cúng dường Phật, Trang nghiêm cõi nước cúng dường Phật
Thọ trì chánh pháp tu chư trí, Thọ trì các pháp tu các trí
Chứng Bồ-đề cố nhi phát tâm. Vì chứng bồ đề mà phát tâm.
Giảng: Bồ Tát thường thường phải phát nguyện, lợi lạc tất cả chúng sinh, dùng máu mồ hôi của mình, để lợi ích tất cả chúng sinh, thậm chí xả thân tâm tánh mạng để lợi ích tất cả chúng sinh, đó mới là biểu hiện hành Bồ Tát đạo. Những công đức tu hành phải hồi hướng trang nghiêm chư Phật. Kệ hồi hướng là :
‘’Nguyệm đem công đức này.
Trang nghiêm cõi Phật thanh tịnh.
Trên đền bốn ơn nặng.
Dưới cứu ba đường khổ.
Nếu có ai thấy nghe.
Ðều phát tâm bồ đề.
Khi xả báo thân này.
Đồng sinh về Cực Lạc.’’
Bốn ân nặng là :
1). Trời đất : Có ân che chở.
2). Cha mẹ : Cha mẹ có ân dưỡng dục.
3). Sư Trưởng : Sư trưởng có ân giáo dục.
4). Vua : Vua có ân bảo hộ.
Còn phải cứu độ ba đường khổ : Ðịa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, khiến cho họ thoát khỏi biển khổ. Nếu như thấy được pháp hội giảng Kinh thuyết pháp, hoặc nghe được tiếng thuyết pháp, thì đều phát tâm bồ đề. Khi hết báo thân này (sắc thân), sau đó mọi người cùng vãng sinh về cõi Cực Lạc. Ở đó là hoa sen hóa sinh, hoa nở thấy Phật, chỉ có vui chứ chẳng có khổ, do đó gọi là thế giới Cực Lạc.
Chẳng những phải trang nghiêm cõi Phật, mà còn phải cúng dường chư Phật. Có một phần sức lực, thì tận hết một phần sức lực; có mười phần sức lực, thì tận hết mười phần, còn phải thọ trì chánh pháp. Chánh pháp là gì ? Tức là Phật nói pháp bốn diệu đế, pháp mười hai nhân duyên, pháp sáu độ .v.v… Phải y pháp tu hành, tu nhất thiết trí huệ. Vì muốn chứng được quả vị Vô thượng chánh đẳng chánh giác, cho nên phải phát tâm bồ đề, phải hành đạo Bồ Tát.
Thâm tâm tín giải thường thanh tịnh, Tâm tin hiểu sâu thường thanh tịnh
Cung kính tôn trọng nhất thiết Phật, Cung kính tôn trọng tất cả Phật
Ư Pháp cập tăng diệc như thị, Nơi pháp và Tăng cũng như vậy
Chí thành cúng dường nhi phát tâm. Chí thành cúng dường mà phát tâm.
Giảng: Tu đạo phải có tâm kiên, thành, hằng, thâm sâu và tâm tin hiểu. Có tâm tin rồi, thì mới thấu hiểu nghĩa chân thật của Phật pháp. Muốn thanh tịnh thì phải tin pháp của Phật nói, lại phải cung kính chư Phật, tôn trọng chư Phật, cúng dường chư Phật, gần gũi chư Phật. Chẳng những cung kính tất cả chư Phật, mà còn phải cung kính tất cả Pháp, càng phải cung kính tất cả Tăng. Tam Bảo là bình đẳng, cung kính Phật tức là cung kính Pháp, cung kính pháp cũng phải cung kính Tăng. Tại sao ? Nghĩ muốn thành Phật thì nhất định phải minh bạch Phật pháp. Chẳng minh bạch Phật pháp thì sẽ chẳng thành Phật. Nghĩ muốn minh bạch Phật pháp, thì nhất định phải theo Tăng để học Phật pháp. Do đó: ‘’Pháp do Tăng truyền,’’ bất cứ lúc nào Phật pháp cũng đều do Tăng truyền, chứ chẳng phải người học vấn nào truyền. Muốn học Phật pháp, thì nhất định phải cung kính Tam Bảo, tôn trọng Tam Bảo. Do đó, phải dùng tâm chí thành khẩn thiết cúng dường Tam Bảo, đừng có tướng ta, chấp ta, thấy ta, phải làm cho ‘’ba cái ta‘’ này không. Bồ Tát phát tâm tức là phát tâm chí thành chân thật này.
Thâm tín ư Phật cập Phật Pháp, Tin sâu nơi Phật và Phật pháp
Diệc tín Phật tử sở hạnh đạo, Cũng tin Phật tử sở hành đạo
Cập tín vô thượng Đại bồ-đề, Và tin vô thượng đại bồ đề
Bồ Tát dĩ thị sơ phát tâm. Bồ Tát nhờ đó mới phát tâm.
Giảng: Học Phật pháp thì nhất định phải tin sâu, thệ nguyện, thực hành. Ðây là tin, nguyện, hành, ba tư lương, tức cũng là tiêu chuẩn đi đến cõi Phật. Người học Phật pháp chẳng có tâm tin, thì không thể thành Phật. Có tâm tin rồi mà không phát nguyện, cũng không thể thành Phật. Phát nguyện mà không thực hành, cũng không thể thành Phật. Tin, hành, nguyện, ba tư tưởng này vốn liếng thành Phật.
Tức nhiên tin sâu Phật và Phật pháp, còn phải tin đạo của Bồ Tát hành, còn phải tin pháp vô thượng đại bồ đề, tức cũng là phương pháp thành Phật. Bồ Tát mới phát tâm là nhờ đủ thứ công đức và đủ thứ nhân duyên đã nói ở trước mà phát tâm bồ đề.
Tu hành là pháp môn bình đẳng nhất, ai nhìn xuyên thủng, buông xả đặng, chân chánh y pháp tu hành thì người đó sẽ thành tựu. Ngược lại thì chẳng thành tựu. Ðây là bình đẳng tuyệt đối, chẳng có cầu may. Tu một phần thì được một phần, tu mười phần thì được mười phần. Do đó: ‘’Một thật tất cả thật, một rõ tất cả rõ, một ngộ tất cả ngộ, ’’ tức là đạo lý này.
Tín vi Đạo Nguyên công đức mẫu, Tin là nguồn đạo mẹ công đức
Trưởng dưỡng nhất thiết chư thiện Pháp, Nuôi lớn tất cả các pháp lành
Đoạn trừ nghi võng xuất ái lưu Dứt trừ lưới nghi thoát biển ái
Khai thị Niết-Bàn vô thượng đạo. Mở bày Niết Bàn đạo vô thượng.
Giảng: Phật pháp như biển cả, chỉ tin mới vào được. Có tâm tin rồi, mới vào được trong biển Phật pháp. Chẳng có tâm tin, thì giống như đèn điện chẳng mở, thì chẳng có ánh sáng. Chẳng có tâm tin Phật pháp, thì chẳng đắc được trí huệ quang minh, cho nên tâm tin rất là quan trọng.
Tin là nguồn đạo, nguồn đạo tức là tu đạo phương pháp đệ nhất. Có tâm tin mới có thể tu đạo; chẳng có tâm tin, thì không thể tu đạo, đây là gốc của sự tu đạo. Chữ nguồn (nguyên) này phát xuất từ Kinh Dịch. Kinh Dịch một khi bắt đầu nói : ‘’Càn, nguyên hanh lợi trinh.’’ Quẻ Càn thuộc dương, là dương trong dương, dương đến cực điểm. Nguyên (nguồn) tức là pháp thứ nhất trong pháp lành, tức cũng là bắt đầu tu đạo. Hanh tức là vạn sự hanh thông, tức cũng là tập hội tốt. Lợi là lợi ích tất cả sự vật, phải hợp với tất cả nghĩa lý. Trinh tức là đi làm việc chân chánh, chẳng phải cẩu thả. Nguyên hanh lợi trinh đây là bốn đức. Quân tử có bốn đức hạnh, cho nên mới có thể lợi vật, xử sự, cát tường .v.v…
Công đức là gì ? Công là lập công, đức là làm đức. Lập công như thế nào ? Ví như có người xây chùa, trợ giúp chùa làm cả mọi việc, đây là lập công. Làm đức như thế nào ? Bất cứ việc thiện lớn nhỏ, đều phải đi lập công. Công viên mãn thì đức thành tựu, tức cũng là đạo nghiệp thành công, đó là làm đức. Nếu chẳng lập công, chẳng làm việc có lợi cho chúng sinh, thì chẳng có đức hạnh. Người chẳng có đức hạnh, thì tu đạo chẳng dễ gì thành tựu. Cho nên người tu đạo, phải có đại đức hạnh. Ðại đức hạnh là gì ? Tức là chẳng có tham sân si ba độc, chẳng có tâm đố kỵ chướng ngại, chẳng có tâm cống cao ngã mạn.
Tin là việc hàng đầu về tu đạo, cũng là mẹ của sự tu đạo. Mẹ hay sinh ra và nuôi dưỡng, cho nên nói :
‘’Tin là nguồn đạo mẹ công đức.
Nuôi dưỡng tất cả các pháp lành.’’
Tức cũng là bốn niệm xứ, bốn chánh cần, bốn như ý túc, năm căn, năm lực, bảy bồ đề phần, tám chánh đạo, mười hai nhân duyên và sáu độ .v.v… Có tâm tin rồi, thì mới nuôi dưỡng tất cả pháp lành; chẳng có tâm tin, thì đương nhiên không thể nuôi dưỡng tất cả pháp lành. Giống như mùa xuân gieo hạt giống ngũ cốc, nếu chẳng có nước, ánh sáng mặt trời .v.v… các nhân khác, thì không thể nẩy mầm lớn lên. Tin đối với Phật pháp cũng như vậy. Có trợ duyên thì mới sinh căn lành.
Người tu đạo việc quan trọng nhất, là chẳng sinh tâm hoài nghi. Ðối với Phật pháp phải tin sâu đừng nghi ngờ, đoạn trừ tất cả hoài nghi. Do đó:
‘’Người tu đạo chớ sinh tâm nghi
Tâm nghi sinh ra đạo mê mờ.’’
Nếu sinh tâm hoài nghi thì có mê hoặc, lầm vào đường tà thì chẳng hợp với trí huệ của Phật mà làm một, trí huệ vốn có chẳng thể hiện ra, cho nên phải đoạn trừ lưới nghi hoặc thì mới thoát khỏi biển ái tình.
Tất cả chúng sinh đều lìa chẳng khỏi hai chữ ‘’ái tình‘’ này. Có tình thì có ái, có ái thì có tình, tình ái chẳng phân lìa. Nếu đoạn tình khử ái, thì sẽ có biện pháp. Song, trận ái tình này chẳng dễ gì công phá, giống như bức tường đồng cốt sắt vững chắc kiên cố. Do đó có câu :
‘’Tửu sắc tài khí bốn bức tường
Biết bao người mê đắm trong đó
Có người thoát khỏi ra ngoài tường
Tức là trường sinh bất lão ông.’’
Có không biết bao nhiêu người, đều mê luyến uống rượu, háo sắc, tham tiền, đấu khí. Bốn thứ này như bốn vách tường cao, lại giống như ngục tù vô hình, trói buộc người, chẳng được tự tại. Nếu có người thoát ra khỏi bốn vách tường bao bọc này, tức cũng là nhìn xuyên thủng, buông xả tất cả rượu sắc tiền khí, lúc đó sẽ chấm dứt sinh tử, tức cũng là trường sinh bất lão ông.
Chúng ta người tu đạo, không sợ có ái dục, chỉ sợ chẳng nhận thức ái dục. Nếu nhận thức rõ ràng ái dục ở trước mắt, thì chẳng bị nó làm mê. Tất cả chúng sinh đều do ái dục mà sinh, do ái dục mà chết. Muốn chấm dứt sinh tử thì nhất định phải nhìn thủng buông xả, chẳng bị tình ái làm mê, thì tự nhiên sẽ đắc được tự tại.
Phật mở bày cho chúng sinh thoát khỏi ba cõi, thành tựu quả vị Niết Bàn vô thượng, Thường Lạc Ngã Tịnh bốn đức hạnh. Phật nói với chúng ta chúng sinh, muốn vào biển Phật Pháp, trước hết phải có niềm tin, thứ hai phải có tâm nguyện, thứ ba phải có tâm hành, tức là ba điều kiện thành Phật.
Tín vô cấu trược tâm thanh tịnh, Tin không dơ đục tâm thanh tịnh
Diệt trừ kiêu mạn cung kính bổn, Diệt trừ kiêu mạn cung kính gốc
Diệc vi Pháp tạng đệ nhất tài, Cũng là pháp tạng đệ nhất tài
Vi thanh tịnh thủ thọ chúng hạnh. Làm tay thanh tịnh thọ các hạnh.
Giảng: Phải tin pháp chân chánh, tức là pháp chánh tri chánh kiến. Ðừng tin pháp thiên ma ngoại đạo, tức cũng là pháp tà tri tà kiến. Thứ pháp ngoại đạo này, càng tin càng mê, càng tin càng chẳng thanh tịnh. Tại sao ? Vì chúng là pháp nhiễm ô, vốn chẳng biết gì là pháp thanh tịnh. Nếu có tâm tin chân chánh, thì sẽ hiện ra tự tánh thanh tịnh vốn có. Tại sao tự tánh quang minh của chúng ta chẳng hiện ra ? Là vì có tâm dơ đục. Dơ đục tức là tư tưởng chẳng sạch sẽ, tức cũng là tư tưởng ô nhiễm. Có ô nhiễm thì tâm chẳng thanh tịnh. Chẳng thanh tịnh thì tự tánh quang minh chẳng hiện ra.
Có tâm tin rồi, tâm thanh tịnh rồi, trí huệ hiện tiền thì chẳng có tâm kiêu mạn. Chẳng có tâm kiêu mạn thì sinh tâm cung kính. Cung kính Tam Bảo, cung kính cha mẹ, cung kính sư trưởng, cho nên nói tin là gốc rễ của sự cung kính. Tin hay tiêu diệt tất cả kiêu ngạo và khinh mạn.
Tin là tài thứ nhất trong pháp tạng, tức cũng là tạng thứ nhất trong mười tạng. Mười tạng là :
1). Tín tạng.
2). Giới tạng.
3). Tàm tạng.
4). Quý tạng.
5). Văn tạng.
6). Thí tạng.
7). Huệ tạng.
8). Niệm tạng.
9). Trì tạng.
10). Biện tạng.
Tin còn là một tài trong bảy Thánh tài. Bảy Thánh tài là :
1). Tín tài.
2). Tinh tấn tài.
3). Giới tài.
4). Văn xả tài.
5). Tàm quý tài.
6). Nhẫn nhục tài.
7). Ðịnh huệ tài.
Vì thân tâm thanh tịnh, cho nên tay cũng thanh tịnh, hay tu trì tất cả Phật pháp.
Pháp đại bi mà chúng ta tu, pháp môn bốn mươi hai tay mắt (thủ nhãn), mỗi tay đều là tay thanh tịnh. Có bốn mươi hai tay thanh tịnh rồi, thì mới có thể lợi ích chúng sinh, giáo hóa chúng sinh, dùng để thọ trì tất cả các pháp. Pháp môn này là không thể nghĩ bàn.
Tín năng huệ thí tâm vô lận, Tin hay huệ thí tâm không sẻn
Tín năng hoan hỉ nhập Phật Pháp, Tin hay hoan hỷ vào Phật pháp
Tín năng tăng trưởng trí công đức, Tin hay tăng trưởng trí công đức
Tín năng tất đáo Như Lai địa. Tin mới đến được bậc Như Lai.
Giảng: Phải có tâm tin mới có thể bố thí, trong thì thân tâm, ngoài thì thế giới, đều hay huệ thí cho tất cả chúng sinh, chẳng có tâm tham sẻn. Phải có tâm tin thì mới hoan hỷ học Phật pháp, chẳng vì Phật pháp thâm sâu quá vi diệu mà sinh tâm thối chuyển. Có tâm tin rồi thì chỉ có tinh tấn, chẳng có thối lùi mà vào biển Phật pháp.
Phải có tâm tin mới tăng trưởng trí huệ và công đức. Nếu chẳng có tâm tin, thì trí huệ và công đức chẳng những chẳng tăng trưởng, ngược lại giảm bớt. Tại sao ? Vì chẳng có tâm tin để bồi dưỡng, để đượm nhuần, cho nên dần dần bớt đi.
Phải tin mình, tin người, tin sự, tin lý, tin mình tương lai nhất định sẽ chứng quả vị Phật. Thành Phật rồi, có thể độ người khác cũng thành Phật. Nhất định có pháp đó hiện ra, nhất định có đạo lý đó, cho nên tin là quan trọng hơn hết. Có sức tin mới đạt đến bậc Như Lai.
Tín lệnh chư căn tịnh minh lợi, Tin khiến các căn tịnh sáng suốt
Tín lực kiên cố vô năng hoại, Sức tin kiên cố không thể hoại
Tín năng vĩnh diệt phiền não bổn, Tin hay vĩnh diệt gốc phiền não
Tín năng chuyên hướng Phật công đức. Tin sẽ hướng về công đức Phật.
Giảng: Tin hay thành tựu tất cả công đức, cho nên trong sáu thành tựu, thành tựu thứ nhất là tin thành tựu. Sáu thành tựu là :
1). Tin thành tựu.
2). Văn thành tựu.
3). Thời thành tựu.
4). Chủ thành tựu.
5). Xứ thành tựu.
6). Chúng thành tựu.
Chẳng có tâm tin thì chẳng cách chi minh bạch Phật pháp.
Tin hay khiến cho các căn thanh tịnh mà sáng suốt. Làm nhiều việc thiện, tài bồi căn lành, thì sáu căn tự nhiên thanh tịnh sáng suốt. Sức tâm tin phải kiên cố, thì mới phát sinh tác dụng. Chẳng phải tin năm phút thì không tin nữa. Không tin lại tin, tin rồi không tin, đó là tâm tin chẳng có kiên cố. Người sức tin kiên cố, làm việc gì đều từ đầu đến cuối, chiếu theo tông chỉ mà làm. Ví như người tu đạo muốn thành Phật, tông chỉ này phải kiên cố, tức cũng là sức tin kiên cố. Bất cứ cảnh nghịch nào đến đều khắc phục, chẳng sinh tâm thối chuyển, cho nên nói không thể hoại. Bất cứ ma đến như thế nào, cũng chẳng bị cảnh giới lay chuyển, mà giao động tâm. Trước sau vẫn giữ tông chỉ, do đó:
‘’Tuỳ duyên chẳng đổi
Chẳng đổi tùy duyên.’’
Có tâm tin rồi, thì mới tiệu diệt được gốc phiền não. Tại sao hay sinh phiền não ? Vì chẳng có tâm tin, tham sân si ba độc thừa đó mà vào, nổi sóng làm gió, khiến cho bạn khởi hoặc, tạo nghiệp, thọ báo, cho nên tin là vĩnh viễn tiêu diệt gốc phiền não.
Có tâm tin rồi, thì mới đem hết thảy tất cả công đức hồi hướng cho chư Phật. Nhờ Phật trang nghiêm mà tự trang nghiêm, nhờ công đức Phật để thành tựu công đức của mình, cho nên phải chuyên nhất hồi hướng chư Phật.
Tín ư cảnh giới vô sở trước, Tin nơi cảnh giới chẳng chấp trước
Viễn ly chư nan đắc vô nan, Xa lìa các nạn được vô nạn
Tín năng siêu xuất chúng ma lộ, Tin hay thoát khỏi các đường ma
Thị hiện vô thượng giải thoát đạo. Thị hiện đạo giải thoát vô thượng.
Giảng: Cảnh giới có cảnh giới thiện, có cảnh giới ác, có cảnh giới thuận, có cảnh giới nghịch, có cảnh giới hoan hỷ, có cảnh giới phiền não. Nếu có tâm tin thì chẳng chấp trước vào tất cả cảnh giới, do đó:
‘’Thấy việc tỉnh việc lìa thế gian
Thấy việc mê việc đọa trầm luân.’’
Ðối với cảnh giới nhận thức rõ ràng, thì sẽ thoát khỏi ba cõi; đối với cảnh giới nhận thức chẳng rõ ràng, thì sẽ đọa ba đường ác. Tâm tin vững chắc, thì đối với cảnh giới thuận nghịch thiện ác, đều vẫn an nhiên, chẳng có chấp trước, nhậm vận tự tại, chẳng có tơ hào phiền não, đó là sức tin.
Có tâm tin thì gặp dữ hóa lành, gặp nạn hóa cát tường. Xa lìa các nạn tức cũng là xa lìa nạn lửa, nạn nước, nạn La sát, nạn vua, nạn quỷ, nạn gông cùm, nạn oán tặc .v.v… hoặc xa lìa thiên tai, đao binh đủ thứ tai nạn, cho nên nói đắc được cảnh giới vô tai nạn.
Sức tin thắng hơn sức ma, hay thoát khỏi tất cả đường ma, chẳng bị lầm vào đường tà. Có tâm tin thì chư Phật sẽ thị hiện đạo giải thoát vô thượng, khiến cho bạn đắc được tự tại, chẳng bị ma mê hoặc não loạn.
Tín vi công đức bất hoại chủng, Tin là công đức giống bất hoại
Tín năng sanh trưởng Bồ-đề thụ, Tin hay sinh trưởng cây bồ đề
Tín năng tăng ích tối thắng trí, Tin hay tăng ích trí tối thắng
Tín năng thị Hiện-Nhất-Thiết Phật. Tin hay thị hiện tất cả Phật.
Giảng: Thập tín, thập trụ, thập hạnh, thập hồi hướng, thập địa, đây là năm mươi vị của Bồ Tát. Mỗi một vị đều dùng tâm tin để làm cơ sở. Người xưa nói :
‘’Người vô tín bất lập.’’
Nếu dân chẳng tin vua, chẳng ủng hộ vua, thì đất nước chẳng vững được. Chúng ta học Phật pháp phải sinh tâm tin, làm cho gốc tin sinh trưởng tựa như Kim Cang, vĩnh viễn chẳng giao động, là cơ sở tốt cho định. Làm những công đức chẳng hoại. Muốn ảnh hưởng cho người khác sinh tâm tin, thì phải y pháp tu hành, biết bao nhiêu thì hành bấy nhiêu. Biết giết hại là phạm giới, thì đừng giết hại, cho đến chẳng uống rượu .v.v… nơi nơi lấy thân làm khuôn phép. Do đó có câu:
‘’Kỳ thân chánh bất khiến nhi hành’’.
Bản thân mình làm việc chân chánh, làm mô phạm, chẳng khuyên người làm, họ cũng vẫn đi thực hành. Nếu mình chẳng y pháp tu hành, mà dạy người y pháp tu hành, thì chẳng có ai tin bạn. Tại sao ? Vì bạn chẳng có đức hạnh chân thật, chỉ dùng khẩu đầu thiền giáo hóa người, khiến cho người chẳng kính phục, cho nên nói tin là hạt giống công đức chẳng hoại.
Có sức tâm tin thì khiến cho cây bồ đề (tâm) lớn lên, càng ngày càng cao lớn. Cơ sở của niềm tin vững chắc, thì trí huệ càng ngày càng tăng trưởng. Tâm tin chẳng đủ không thể tăng ích trí huệ thù thắng. Có tâm tin thì cõi nước của tất cả chư Phật, sẽ thị hiện ra ở trước mặt bạn.
Thị cố y hành thuyết thứ đệ, Do đó nương hành nói thứ lớp
Tín lạc tối thắng thậm nan đắc, Tin ưa tối thắng rất khó được
Thí như nhất thiết thế gian trung, Ví như trong tất cả thế gian
Nhi hữu tùy ý diệu bảo châu. Mà có diệu bảo châu như ý.
Giảng: Bài kệ ở trước nói, nếu thật có tâm tin, thì sẽ sinh ra tin sâu, thệ nguyện, thực hành. Như vậy thì bạn cũng có thể thị hiện ở trước chư Phật, chư Phật cũng có thể thị hiện ở trước bạn, cùng nhau thị hiện, đó là sức tâm tin cảm ứng đạo giao. Vì vậy cho nên y chiếu tu hành thứ lớp để nói pháp môn tu hành.
Tin ưa vững chắc này là thù thắng nhất, là khó được nhất. Ví như trong hết thảy thế gian mà có diệu bảo châu như ý. Từ trong diệu bảo châu như ý này, mà chảy ra tất cả châu báu. Từ trong bảo châu tin này, mà chảy ra tất cả diệu pháp môn, cho nên nói tin là pháp môn tu hành căn bản nhất.
Chúng ta học Phật pháp, thì nhất định phải có tâm tin chân chánh. Gì là tâm tin chân chánh ? Tức là chẳng ích kỷ, chẳng tư lợi, chẳng có tham sân si, siêng tu giới định huệ, đó là điều kiện căn bản đầy đủ thật tin.
Nhược thường tín phụng ư chư Phật, Nếu thường tin phụng các đức Phật
Tức năng trì giới tu học xứ; Thì hay giữ giới tu học xứ
Nhược thường trì giới tu học xứ, Nếu thường giữ giới tu học xứ
Tức năng cụ túc chư công đức. Thì hay đầy đủ các công đức.
Giảng: Người học Phật phải luôn luôn sinh tâm tin đối với Phật, không thể nửa tin nửa ngờ, nhất định phải luôn luôn tin phụng mười phương ba đời tất cả các Ðức Phật. Như thế thì hay giữ giới tinh nghiêm, y giáo phụng hành, tu hành tất cả pháp môn.
Nếu như thường giữ giới chẳng gián đoạn, y theo pháp của Phật nói tu hành, thì lâu dần sẽ đầy đủ tất cả công đức, có hy vọng sớm sẽ thành Phật. Cho nên phải có tâm tin không thối lùi, tinh tấn tiến về trước, giữ giới tu hành.
Giới năng khai phát Bồ-đề bổn, Giới hay khai phát gốc bồ đề
Học thị cần tu công đức địa Học là siêng tu các công đức
Ư giới cập học thường thuận hành Nơi giới và học luôn thuận hành
Nhất thiết Như Lai sở xưng mỹ. Tất cả Như Lai đều khen ngợi.
Giảng: Giới tức là ngừa ác lánh dữ, tức cũng là đừng làm các điều ác, hãy làm các điều lành. Nếu đừng làm các điều ác, thì sẽ tiêu diệt tham sân si; hãy làm các điều lành, tức là siêng tu giới định huệ. Siêng tu giới định huệ, tức là khai phát gốc bồ đề. Nếu muốn khai ngộ thì nhất định phải giữ giới. Nếu muốn giữ giới thì nhất định phải có tâm tin. Tin mới có thể giữ giới, giữ giới mới có thể khai phát pháp căn bản của con đường bồ đề.
Học là học tập, học tập tất cả pháp. Muốn minh bạch tất cả pháp, thì phải siêng năng học tập. Trong Luận Ngữ có nói : ‘’Học nhi thời tập chi.’’ Học rồi phải luôn luôn ôn lại, như vậy mới ‘’Ôn cố nhi tri tân.’’ Ôn lại những điều đã học, thì sau đó sẽ biết những điều học mới. Chúng ta học Phật pháp, phải cần khổ tài bồi công đức, đượm nhuần công đức. Giống như vun bồi cội bồ đề, tăng trưởng quả bồ đề.
Phải tôn trọng giới luật, y chiếu giới luật mà tu hành. Phải học luôn thuận hành, đừng phạm giới, đừng phá giới. Hay giữ giới tu học như thế, thì mười phương chư Phật ba đời đều đến khen ngợi tán thán bạn, thường đến hộ trì cho bạn.
Nhược thường tín phụng ư chư Phật, Nếu thường tin phụng các đức Phật
Tức năng hưng tập Đại cúng dường; Thì hay hưng tập cúng dường lớn
Nhược năng hưng tập Đại cúng dường Nếu hay hưng tập cúng dường lớn
Bỉ nhân tín Phật bất tư nghị. Người đó tin Phật không nghĩ bàn.
Giảng: Người tin Phật thì phải luôn luôn tin ngưỡng các đức Phật, phụng sự các đức Phật, không thể gián đoạn. Nếu lúc tiến lúc lùi, thì chẳng có công đức, cũng chẳng thành tựu. Hoặc dùng đủ thứ hương đốt để cúng dường, hoặc dùng đủ thứ hoa quả để cúng dường các đức Phật, ngày dài tháng rộng sẽ thành cúng dường lớn.
Nếu như có người phát tâm nguyện rộng tu cúng dường, cúng dường mười phương các đức Phật, thì tương lai lúc thành Phật, cũng có chúng sinh đến cúng dường. Nếu phát tâm rộng lớn tu vô lượng hạnh, hưng tập cúng dường lớn, thì công đức vô lượng vô biên. Cho nên tại các nước Phật giáo, có người cúng dường trai Tăng cho ngàn vị Tăng. Cúng dường một ngàn vị Tăng, thì trong đó chắc chắn có một vị A La Hán đến ứng cúng. Nếu cúng dường một vị A La Hán, thì thù thắng hơn cúng dường cho trăm ngàn vạn người xuất gia. Vì A La Hán là bậc Thánh xuất thế, cho nên có vô lượng công đức.
Người đó công đức tin phụng các đức Phật không thể nghĩ bàn, nhiều vô tận nói không hết được.
Nhược thường tín phụng ư tôn Pháp, Nếu thường tin phụng nơi tôn pháp
Tức văn Phật Pháp Vô yếm túc Tất nghe Phật pháp chẳng nhàm đủ
Nhược văn Phật Pháp Vô yếm túc Nếu nghe Phật pháp chẳng nhàm đủ
Bỉ nhân tín Pháp bất tư nghị. Người đó tin pháp không nghĩ bàn.
Giảng: Bài kệ ở trước là tin phụng Phật bảo. Bài kệ này là nói tin phụng Pháp bảo. Hễ tin Phật thì cũng phải tin Pháp. Tại sao ? Vì Pháp là Phật nói. Chỉ tin Phật không tin pháp, thì không vào trong biển Phật pháp được.
Nếu như có người luôn luôn tin phụng Tam Tạng mười hai bộ tất cả Kinh điển của Phật nói, vì có sức tin, cho nên nghe Phật pháp chẳng có lúc nào nhàm chán vì biết đủ.
Nghe Kinh nghe pháp, chẳng phải ngày ngày đắc được lợi ích gì, có thể khai mở trí huệ gì, chẳng phải như thế. Người thật sự tin Phật pháp, thì chẳng mong cầu đắc được lợi ích gì, diệu dụng gì. Tâm nghĩ đắc được lợi ích, đắc được diệu dụng thì còn có tâm tham. Phải đừng có tâm tham mà thường nghe pháp, nghe pháp được xem như điều cần thiết trong đời sống, quan trọng giống như ăn cơm, mặc đồ, ngủ nghỉ, đừng có tâm xí đồ mong cầu. Nếu có tâm mong cầu thì là vọng tưởng. Vọng tưởng sinh ra thì chẳng tương ưng với đạo. Nếu tương ưng thì hợp với đạo mà làm một. Như vậy thì tất cả vọng tưởng đều chẳng còn. Lúc đó ngưng bặt tất cả vọng niệm, chẳng động tất cả vọng niệm, đó tức là thanh tịnh.
Nghe Kinh nghe pháp đừng khởi tâm phân biệt, bộ Kinh này tôi đã giảng qua, chẳng cần nghe nữa. Bộ Kinh kia tôi chưa nghe qua, tôi phải nghe, tư tưởng như thế là sai. Phải biết người giảng Kinh, mỗi người có trí huệ khác nhau, có kiến giải khác nhau. Nghe nhiều lần sẽ có ích lợi, đừng sinh tâm nhàm chán.
Nếu như nghe Kinh, nghe pháp, chẳng có lúc nào nhàm chán, thì người đó tin phụng tất cả tôn pháp, sẽ đắc được cảnh giới không thể nghĩ bàn. Trước khi chưa đắc được, đừng có tâm mong cầu, chẳng có tâm tham cầu, thì trí huệ vốn có sẽ hiện tiền.
Nhược thường tín phụng thanh tịnh tăng, Nếu thường tin phụng thanh tịnh Tăng
Tức đắc tín tâm Bất-thoái-chuyển Thì được tâm tin chẳng thối chuyển
Nhược đắc tín tâm Bất-thoái-chuyển Nếu được tâm tin chẳng thối chuyển
Bỉ nhân tín lực vô năng động. Người đó sức tin không thể động.
Giảng: Thanh tịnh Tăng thì chẳng có vọng tưởng, dục niệm, ba độc, mà có giới định huệ ba học. Chẳng bị cảnh giới chuyển, mà chuyển được cảnh giới, song, chuyển cảnh giới không thanh tịnh, thành thanh tịnh, chuyển cảnh giới nhiễm ô, thành thanh tịnh. Lại có thể chuyển đời ác năm trược, thành đời lành năm thứ thanh tịnh. Thanh tịnh Tăng mười phương thế giới, bao quát Bồ Tát, A La Hán, Duyên Giác. Tóm lại, phàm là chẳng có tư tưởng nhiễm ô, tức là thanh tịnh Tăng.
Nếu như thường thường tin phụng gần gũi thanh tịnh Tăng, đem tánh mạng của mình cúng dường Tam Bảo, đem thân khẩu ý ba nghiệp thanh tịnh để cúng dường Tam Bảo, có tâm tin như thế rồi, thì chẳng thối lùi về sau. Ðắc được cảnh giới ba bất thối :
1). Niệm không thối : Chẳng sinh tâm niệm thối chuyển.
2). Hạnh không thối : Chỉ tu hành tiến về phía trước, chứ chẳng thối lùi về sau.
3). Vị không thối : Vào vị Bồ Tát, chẳng lùi về vị nhị thừa.
Nếu như khi đắc được tâm tin không thối chuyển, thì người phát tâm bồ đề đó, có sức tin chẳng cách chi làm lay động. Người tu đạo bất cứ gặp cảnh giới gì, mà tâm chẳng động, đó là chứng minh sức tin vững chắc.
Nhược đắc tín lực vô năng động, Nếu được sức tin không lay động
Tức đắc chư căn tịnh minh lợi Thì được các căn tịnh sáng suốt
Nhược đắc chư căn tịnh minh lợi, Nếu được các căn tịnh sáng suốt
Tức năng viễn ly ác tri thức. Thì sẽ xa lìa ác trí thức.
Giảng: Sức tin là một trong năm lực. Có sức tin thì không thấy lạ nghĩ đổi khác. Có sức tinh tấn thì chẳng phế bỏ giữa đường. Có sức niệm thì niệm niệm chẳng quên tâm bồ đề. Có sức định thì như như chẳng động, liễu liễu thường minh, chẳng bị cảnh giới làm giao động. Có sức huệ thì sẽ nhận thức được cảnh giới. Năm lực tức là năm sức lực, trợ giúp cho năm căn sinh trưởng.
Nếu như đắc được sức tin không lay động, thì sẽ đắc được đủ thứ căn lành thanh tịnh sáng suốt, mắt tai mũi lưỡi thân ý chẳng có mao bệnh.
Nếu đắc được các căn thanh tịnh sáng suốt, thì lúc đó mắt thấy sắc, chẳng bị sắc trần làm mê. Tai nghe tiếng chẳng bị tiếng đời làm mê. Mũi ngửi hương thơm chẳng bị hương trần làm mê. Lưỡi nếm vị chẳng bị vị trần làm mê. Thân xúc giác chẳng bị xúc trần làm mê. Ý biết pháp chẳng bị pháp trần làm mê. Như vậy sẽ đắc được đại trí huệ, sẽ xa lìa bàng môn tả đạo, thiên ma ngoại đạo và tất cả ác tri thức.
Ác tri thức là gì ? Tức là tà tri tà kiến, ích kỷ tư lợi, tất cả đều nghĩ về lợi ích của mình.
Thiện tri thức là gì ? Tức là chánh tri chánh kiến, đại công vô tư, hay xả thân cứu chúng sinh, chẳng tính toán vì lợi ích cho cá nhân mình. Khắp giáo hóa chúng sinh, lấy khổ của chúng sinh làm khổ của mình, đại biểu chúng sinh để thọ khổ. Do đó:
‘’Nếu còn một chúng sinh chưa thành Phật
Quyết không thủ chứng quả vị Nê Hoàn.’’
Nguyện tất cả chúng sinh lìa khổ được vui, sớm chứng vô thượng chánh đẳng chánh giác, đó là tác phong của thiện tri thức.
Nhược năng viễn ly ác tri thức, Nếu hay xa lìa ác tri thức
Tức đắc thân cận thiện tri thức Thì được gần gũi thiện tri thức
Nhược đắc thân cận thiện tri thức Nếu được gần gũi thiện tri thức
Tức năng tu tập quảng đại thiện. Thì hay tu việc lành rộng lớn.
Giảng: Người đắc được các căn tịnh sáng suốt, thì có mắt chọn pháp, hay phân biệt đây là thiện tri thức, kia là ác tri thức. Như vậy sẽ xa lìa ác tri thức, mà hay gần gũi thiện tri thức, gần gũi thanh tịnh phước điền Tăng. Nếu hay gần gũi thiện tri thức, thì hay tu tập việc lành rộng lớn vô biên, mà thành tựu nghiệp lành rộng lớn.
Nhược năng tu tập quảng đại thiện, Nếu hay tu việc lành rộng lớn
Bỉ nhân thành tựu Đại nhân lực Người đó thành tựu đại nhân lực
Nhược nhân thành tựu Đại nhân lực Nếu người thành tựu đại nhân lực
Tức đắc thù thắng quyết định giải. Tất được quyết định giải thù thắng.
Giảng: Hay gần gũi thiện tri thức, thì phải nghe thiện tri thức chỉ dạy, mới tu tập việc lành rộng lớn. Người tu việc lành rộng lớn, thì hay thành tựu đại nhân lực (thành Phật). Người đó hay thành tựu đại nhân lực, thì sẽ đắc được quyết định giải (đại trí huệ) thù thắng nhất, đặc biệt nhất. Tức cũng chỉ là một giải pháp chứ chẳng có hai giải pháp, là hiểu quyết định, không thể hoài nghi.
Nhược đắc thù thắng quyết định giải, Nếu được quyết định giải thù thắng
Tức vi chư Phật sở hộ niệm Thì được các đức Phật hộ niệm
Nhược vi chư Phật sở hộ niệm Nếu được các đức Phật hộ niệm
Tức năng phát khởi Bồ-đề tâm. Thì hay phát khởi tâm bồ đề.
Giảng: Nếu như đắc được trí huệ quyết định giải thù thắng, thì có tâm tin mà chẳng có tâm hoài nghi, thì sẽ cảm động mười phương chư Phật đến hộ niệm. Quang minh của Phật và quang minh của bạn thông đạt với nhau, sẽ phá trừ ngu si đen tối, đắc được đại quang minh tạng.
Nếu như được chư Phật hộ niệm, thì sẽ chuyển tám thức thành bốn trí, vật đến thì chiếu, vật đi thì lặng. Ðược như vậy thì do mười phương chư Phật gia trì, sẽ phát khởi tâm bồ đề rộng lớn, tu đạo vô thượng thành quả vô thượng.
Nhược năng phát khởi Bồ-đề tâm, Nếu hay phát khởi tâm bồ đề
Tức năng cần tu Phật công đức Thì sẽ siêng tu công đức Phật
Nhược năng cần tu Phật công đức Nếu hay siêng tu công đức Phật
Tức đắc sanh tại Như Lai gia. Thì được sinh vào nhà Như Lai.
Giảng: Nếu hay phát khởi tâm bồ đề rộng lớn, thì sẽ siêng tu công đức mà mười phương chư Phật đã tu ở tại nhân địa. Nếu hay siêng tu công đức Phật, thì được sinh vào nhà Như Lai, làm con của đấng Pháp Vương.
Chúng ta phát tâm tu đạo, đừng có vọng tưởng ‘’mong cầu’’. Mong cầu sẽ đắc được gì, đó là tâm tham. Có tâm tham thì sẽ chướng ngại sự tu đạo. Vọng tưởng như vậy thì gì cũng chẳng đắc được, ngược lại bỏ lỡ cơ hội tốt khai ngộ, do đó:
‘’Có tâm là vọng tưởng
Không tâm thì cảm ứng.’’
Cổ đức nói : ‘’Không tâm là đạo,’’ cảnh giới này chẳng dễ gì làm được, song, chúng ta nhất định phải làm được. Muốn tự nhiên làm được, thì phá xập tất cả khốn khổ hoạn nạn, bất cứ cảnh giới nghịch nào đều phải phá xập nó. Phá xập tất cả nghịch cảnh, thì nhất định sẽ thành tựu quả vị Phật.
Nhược đắc sanh tại Như Lai gia, Nếu được sanh vào nhà Như Lai
Tức thiện tu hành xảo phương tiện Thì khéo tu hành xảo phương tiện
Nhược thiện tu hành xảo phương tiện Nếu khéo tu hành xảo phương tiện
Tức đắc tín lạc tâm thanh tịnh. Thì được tâm tin ưa thanh tịnh.
Giảng: Nếu như được sinh vào nhà Như Lai, làm đệ tử Phật, làm pháp thân Đại Sĩ, thì khéo tu hành tất cả pháp môn phương tiện quyền xảo, để giáo hóa tất cả chúng sinh. Nếu hay khéo tu pháp môn phương tiện quyền xảo, để độ thoát tất cả chúng sinh, thì sẽ đắc được sức tin khoái lạc, tâm thường thanh tịnh, chẳng có tất cả phiền não.
Chúng ta người tu đạo, việc quan trọng nhất là đừng có phiền não. Nếu không đoạn phiền não, thì dù tu đến tám vạn đại kiếp, cũng không thể thành tựu đạo nghiệp, cũng chẳng đắc được tâm tin ưa thanh tịnh, càng chẳng được sáu căn thanh tịnh, càng chẳng được sáu căn thanh tịnh. Sáu căn chẳng thanh tịnh, thì ngày ngày điên điên đảo đảo, ngày ngày khởi vọng tưởng. Nếu sáu căn thanh tịnh thì có diệu cảnh giới không thể tả.
Nhược đắc tín lạc tâm thanh tịnh, Nếu được tâm tin ưa thanh tịnh
Tức đắc tăng thượng tối thắng tâm Thì được tâm tăng thượng tối thắng
Nhược đắc tăng thượng tối thắng tâm Nếu được tâm tăng thượng tối thắng
Tức thường tu tập Ba-la-mật Thì thường tu tập Ba la mật.
Giảng: Nếu như đắc được sức tin thì luôn luôn an lạc, tâm cũng thanh tịnh, một chút phiền não cũng chẳng có, thì sẽ đắc được tâm bồ đề tăng thượng tối thù thắng.
Chúng ta người tu đạo phải thường sinh tâm an lạc, tâm từ bi, tâm hỷ xả, dụng bốn tâm vô lượng để lợi ích người khác. Chẳng những hay bố thí ngoại tài, dù nội tài cũng bố thí được. Như vậy mới là người chân chánh siêng tu Phật pháp. Ðừng học hành vi nguy hiểm của ngoại đạo, nơi nào cũng muốn gia tăng thế lực của mình, chỉ biết lợi ích cho mình, chẳng biết lợi ích cho kẻ khác. Phàm là việc có lợi ích cho mình, chẳng màng như thế nào, đều đi làm; việc chẳng có lợi ích cho mình như thế nào, cũng chẳng chịu làm, biểu hiện như thế, thì chẳng phải là người chân chánh giáo hóa chúng sinh.
Nếu đắc được tâm bồ đề tăng thượng tối thắng, thì luôn luôn tu tập mười Ba la mật, pháp môn đến bờ kia. Muốn tu pháp môn đó, thì trước hết phải đừng có tâm ích kỷ, tâm ngã mạn, tâm đố kỵ, tâm chướng ngại. Có người nói : ‘’Ích kỷ là thiên tánh của con người; làm thế nào không ích kỷ‘’? Vì ai ai cũng ích kỷ, cho nên thế giới mới thảm hại như ngày nay. Làm thế nào khiến cho thế giới thanh tịnh ? Thì phải giác ngộ tất cả là vô thường, khổ, không, vô ngã. Nghĩ như thế thì sẽ chẳng ích kỷ. Phải bỏ mê về với giác ngộ, đừng chạy theo sáu trần. Do đó:
‘’Biển khổ vô biên, hồi đầu là bờ. ’’
Ðạo lý này ai ai cũng biết, song, ai ai cũng chẳng làm. Khi nói thì gì cũng hiểu, khi làm thì gì cũng mê mờ ! Chúng ta hy vọng mọi người buông xả phiền não vô minh, bất cứ gặp chuyện gì cũng đừng hấp tấp, cũng đừng nóng giận, hãy nghe tự nhiên, đó mới có sở đắc đối với Phật pháp. Nếu tánh nóng muốn lớn hơn người thế tục, thì còn tu cái gì nữa ? Tu đạo tức là tu chẳng có nóng giận. Các vị phải đặc biệt chú ý điểm này, đừng nóng giận, đừng sinh phiền não !
Nhược thường tu tập Ba-la-mật Nếu thường tu tập Ba la mật
Tức năng cụ túc Ma-ha diễn Thì sẽ đầy đủ pháp đại thừa
Nhược năng cụ túc Ma-ha diễn Nếu sẽ đầy đủ pháp đại thừa
Tức năng như pháp cúng dường Phật. Thì sẽ như pháp cúng dường Phật.
Giảng: Nếu như thường thường tu tập đủ thứ Ba la mật, hay lợi ích tất cả chúng sinh. Như vậy sẽ đầy đủ pháp đại thừa. Nếu đầy đủ viên mãn pháp đại thừa, thì sẽ như pháp (hiểu quy cụ cúng dường) để cúng dường mười phương ba đời tất cả chư Phật.
Nhược năng như pháp cúng dường Phật Nếu hay như pháp cúng dường Phật
Tức năng niệm Phật tâm bất động Thì sẽ niệm Phật thân chẳng động
Nhược năng niệm Phật tâm bất động Nếu hay niệm Phật thân chẳng động
Tức thường đổ kiến vô lượng Phật. Thì thường thấy được vô lượng Phật.
Giảng: Nếu như chiếu theo cách thức để cúng dường Phật, thì sẽ niệm Phật mà tâm chẳng động. Nếu như pháp cúng dường Tam Bảo, niệm Phật niệm Pháp niệm Tăng chẳng động tâm, thì luôn luôn thấy được mười phương vô lượng chư Phật. Vô lượng chư Phật phóng quang để chiếu soi tâm của bạn.
Nhược thường đổ kiến vô lượng Phật Nếu thường thấy được vô lượng Phật
Tức kiến Như Lai thể thường trụ Thì thấy thể Như Lai thường trụ
Nhược kiến Như Lai thể thường trụ Nếu thấy thể Như Lai thường trụ
Tức năng tri Pháp vĩnh bất diệt. Thì sẽ biết pháp vĩnh không diệt.
Giảng: Nếu như tu hành có cảm ứng, thì thường thấy vô lượng chư Phật phóng quang nhiếp chiếu bạn, thì sẽ thấy được pháp thân bổn thể của Như Lai, thường trụ nơi pháp giới, không đến không đi. Nếu thấy được pháp thân thường trụ bất biến của Như Lai, thì sẽ biết được Phật pháp vĩnh viễn chẳng tiêu diệt.
Tuy nhiên Phật pháp phân làm ba thời kỳ :
1). Thời đại chánh pháp : Lúc Phật còn ở đời nói ra các pháp viên mãn chẳng thiếu, trụ ở đời được năm trăm năm.
2). Thời đại tượng pháp : Thời kỳ này, tinh thần Phật pháp chẳng tồn tại, nhưng văn tự còn tồn tại, trụ thế một ngàn năm.
3). Thời đại mạt pháp : Chân lý của Phật pháp ẩn náu, chánh pháp suy nhược, thời kỳ này lâu dài đến năm ngàn năm. Song, bổn thể của pháp vĩnh viễn chẳng diệt.
Nhược năng tri Pháp vĩnh bất diệt, Nếu hay biết pháp vĩnh không diệt
Tức đắc biện tài vô chướng ngại Thì được biện tài không chướng ngại
Nhược đắc biện tài vô chướng ngại Nếu được biện tài không chướng ngại
Tức năng khai diễn vô biên Pháp. Thì sẽ khai diễn vô biên pháp.
Giảng: Vì nghiệp cảm của chúng sinh, cho nên mới có chánh pháp, tượng pháp và mạt pháp. Nếu biết được pháp là vĩnh viễn không diệt, thì sẽ đắc được biện tài không chướng ngại. Nếu đắc được biện tài không chướng ngại, thì hay diễn nói vô lượng diệu pháp, khai thị chúng sinh. Vì có diệu biện tài như vậy, cho nên giảng Kinh thuyết pháp chẳng có chướng ngại, đầu đầu thị đạo, phân tích sự lý, có đầu có đuôi, diệu không thể tả, bất cứ ai cũng chẳng biện luận qua bạn được.
Nhược năng khai diễn vô biên Pháp Nếu hay khai diễn vô biên pháp
Tức năng từ mẫn độ chúng sanh Thì sẽ thương xót độ chúng sinh
Nhược năng từ mẫn độ chúng sanh Nếu hay thương xót độ chúng sinh
Tức đắc kiên cố đại bi tâm. Thì được tâm đại bi vững chắc.
Giảng: Nếu như hay khai diễn nói vô lượng vô biên diệu pháp, thì sẽ phát tâm từ bi thương xót để độ thoát tất cả chúng sinh. Nếu hay có tâm thương xót, thì sẽ đắc được tâm đại bi vững chắc như kim cang, vĩnh viễn chẳng phá hoại.
Nhược đắc kiên cố đại bi tâm, Nếu được tâm đại bi vững chắc
Tức năng ái lạc thậm thâm Pháp Tất hay ưa thích pháp thâm sâu
Nhược năng ái lạc thậm thâm Pháp Nếu hay ưa thích pháp thâm sâu
Tức năng xả ly hữu vi qua. Tất hay xả lìa lỗi hữu vi.
Giảng: Nếu như đắc được tâm đại bi kiên cố, thì sẽ ưa thích pháp thâm sâu vi diệu. Nếu tâm ưa thích pháp thâm sâu vi diệu vượt qua tâm tình ái, thì sẽ xả lìa tất cả pháp hữu vi.
Pháp thế gian tức là pháp hữu vi, pháp hữu vi tức là có chỗ làm, tức cũng là có tướng. Pháp xuất thế gian là pháp vô vi; pháp vô vi là không tạo tác, tức cũng là vô tướng. Có tướng là hư vọng, vô tướng là chân thật.
Chúng ta người tu đạo, phải hiểu rõ đạo lý chân không tức là diệu hữu, diệu hữu tức là chân không, cho nên phải luôn luôn hồi quang phản chiếu, phải tu tự tánh viên minh. Nếu đến trình độ viên minh, tức là xả lìa pháp hữu vi. Pháp hữu vi sở tạo lỗi lầm tức là tham. Tham nhiều thì đọa địa ngục, hoặc làm ngạ quỷ, hoặc làm súc sinh, cho nên nói phải xả lìa lỗi hữu vi.
Nhược năng xả ly hữu vi quá Nếu hay xả lìa lỗi hữu vi
Tức ly kiêu mạn cập phóng dật Tất lìa kiêu mạn và phóng dật
Nhược ly kiêu mạn cập phóng dật Nếu lìa kiêu mạn và phóng dật
Tức năng kiêm lợi nhất thiết chúng. Tất hay lợi ích tất cả chúng.
Giảng: Nếu như hay xả lìa lỗi lầm hữu vi, thì hay xa lìa tất cả kiêu ngạo, ngã mạn, phóng dật .v.v… Kiêu ngạo tức là tự đại, cảm thấy mình đều hơn người. Ngã mạn tức là cống cao, chẳng coi ai ra gì. Phóng dật tức là chẳng giữ quy cụ. Nếu hay lìa khỏi hành vi kiêu mạn và phóng dật, thì sẽ kiêm lợi ích tất cả chúng sinh, tức cũng là rộng độ chúng sinh.
Nhược năng kiêm lợi nhất thiết chúng Nếu hay lợi ích tất cả chúng
Tức xứ sanh tử vô bì yếm Tất nơi sinh tử chẳng nhàm chán
Nhã xứ sanh tử vô bì yếm Nếu nơi sinh tử chẳng nhàm chán
Tức năng dũng kiện Vô năng thắng. Tất hay dũng mãnh vô năng thắng.
Giảng: Bồ Tát vì hành Bồ Tát đạo, tuy chưa dứt sinh tử mà chẳng nhàm chán sinh tử. Vì kiêm lợi tất cả chúng sinh, mà nguyện đời đời kiếp kiếp đến thế giới Ta Bà giáo hóa tất cả chúng sinh, đó là tư tưởng của Bồ Tát. Nếu chẳng nhàm chán sinh tử, thì sẽ dũng mãnh tiến về trước, tuyệt đối chẳng lùi về sau. Có sức kiện tráng thì sẽ bách chiến bách thắng, chẳng ai địch nổi, chiến thắng tất cả thiên ma ngoại đạo và ly mị vọng lượng.
Nhược năng dũng kiện Vô năng thắng, Nếu hay dũng mãnh vô năng thắng
Tức năng phát khởi đại thần thông Tất sẽ phát sinh đại thần thông
Nhược năng phát khởi đại thần thông Nếu hay phát sinh đại thần thông
Tức tri nhất thiết chúng sanh hành. Tất biết tất cả chúng sinh làm.
Giảng: Nếu như có sức dũng mãnh kiện tráng thì sẽ chiến thắng tất cả kẻ địch. Tức cũng sẽ phát sinh sức đại thần thông, hàng phục thiên ma chế các ngoại đạo. Ðại thần thông tức là cảm ứng đạo giao. Nếu phát sinh đại oai lực đại thần thông, thì biết tất cả chúng sinh làm gì, sau đó mới giáo hóa họ cải ác hướng thiện. Hành vi chẳng giữ quy cụ được sửa đổi thành người giữ quy cụ.
Nhược tri nhất thiết chúng sanh hành Nếu biết tất cả chúng sinh làm
Tức năng thành tựu chư quần sanh Tất sẽ thành tựu các quần sinh
Nhược năng thành tựu chư quần sanh Nếu hay thành tựu các quần sinh
Tức đắc thiện nhiếp chúng sanh trí. Tất được khéo nhiếp chúng sinh trí.
Giảng: Nếu như biết hành vi của tất cả chúng sinh, lại có thể quán cơ nói pháp, giáo hóa tất cả chúng sinh, tùy thuận căn tánh của chúng sinh để nói đủ thứ pháp môn phương tiện, thì sẽ thành tựu nguyện lực của các quần sinh, trợ giúp họ được lợi ích.
Nếu hay thành tựu nguyện lực của các chúng sinh, thì sẽ đắc được trí huệ khéo nhiếp trì chúng sinh. Khéo nhiếp trì là gì ? Tức là dùng đủ thứ pháp môn để giáo hóa chúng sinh tâm tín ngưỡng và tâm hoan hỷ, khiến cho họ sinh ra trí lực. Nhiếp trì giống như đá nam châm, hay thu nhiếp tất cả sắt lại một chỗ. Bồ Tát giáo hóa chúng sinh tức là đá nam châm; chúng sinh bị giáo hóa tức là sắt.
Nhược đắc thiện nhiếp chúng sanh trí Nếu được khéo nhiếp chúng sinh trí
Tức năng thành tựu tứ nhiếp Pháp Tất sẽ thành tựu bốn pháp nhiếp
Nhược năng thành tựu tứ nhiếp Pháp Nếu hay thành tựu bốn pháp nhiếp
Tức dữ chúng sanh vô hạn lợi. Sẽ ban chúng sinh lợi vô hạn.
Giảng: Nếu như đắc được trí huệ khéo nhiếp thọ tất cả chúng sinh, thì sẽ thành tựu bốn pháp nhiếp. Nếu hay thành tựu bốn pháp nhiếp, do đó:
‘’Muốn khiến vào trí Phật
Trước dùng câu dục móc’’.
Sau đó mới ban cho chúng sinh tất cả chúng sinh lợi ích không có hạn lượng.
Bốn pháp nhiếp là: Bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự. Nhiếp là một sức lực, sức lực đó chẳng có hình tướng, nhìn chẳng thấy, cũng nghe chẳng được.
I). Bố thí : Vì chúng sinh đều có tâm tham, tham chẳng biết chán, cho nên phải tặng lễ vật, thì sẽ có cảm tình. Có cảm tình rồi thì mới có thể nói pháp cho chúng sinh nghe. Nếu chẳng cho chúng sinh lợi ích, thì chẳng có cơ hội nói pháp.
Bố thí có ba : Tài thí, pháp thí, vô úy thí.
1). Tài thí : Dùng tài vật để bố thí cho chúng sinh. Tài có nội tài và ngoại tài. Nội tài là da máu gân cốt, đầu mắt tủy não tay chân, ngũ tạng và lục phủ .v.v… những thứ này đều có thể bố thí cho chúng sinh cần. Ðó là bố thí vĩ đại, chân chánh hành Bồ Tát đạo. Ngoại tài tức là vàng bạc châu báu, đất nước vợ con, đây là vật ngoài thân, càng phải bố thí cho chúng sinh cần, chỉ cần có người cần, thì đều cam tâm tình nguyện bố thí, tuyệt đối chẳng tham xẻn. Vì lợi ích chúng sinh mà tất cả đều phải xả được, thậm chí vì pháp quên mình, chẳng luyến tiếc, đó là tác phong hy sinh tiểu ngã để hoàn thành đại ngã.
2). Pháp thí : Tức là giảng Kinh thuyết pháp, giáo hóa chúng sinh, là thù thắng hơn hết trong các sự bố thí, cho nên pháp thí là bậc nhất. Dịch Kinh điển, ấn tống Kinh điển cũng là pháp thí. Người thế Phật giáo lao tâm lao sức đều là pháp thí. Bố thí có hình tướng là tài thí, bố thí chẳng có hình tướng là pháp thí.
3). Vô úy thí : Như có người gặp lúc sợ sệt, sinh tâm sợ hãi, thì hãy dùng lời lẽ khéo léo để an ủi, thậm chí trong dầu sôi lửa bỏng, dùng thân mình để cứu họ ra khỏi hầm lửa, hoặc nước sâu, hành vi như thế là vô úy thí.
II). Ái ngữ : Tức là dùng lời dịu dàng nhu hòa để nhiếp dẫn chúng sinh, để dạy bảo chúng sinh, khiến cho họ nghe hoan hỷ. Như thế mới nhiếp thọ dễ dàng, song, đừng dùng lời ngon ngọt để lường gạt người ta. Nếu chỉ nói nửa câu không tốt, khiến cho người ta nghe rồi tâm lạnh lùng, do đó có câu: ‘’Lời ác nửa câu lạnh sáu tháng,’’ nói lời tốt khiến cho người nghe cảm giác thoải mái, sinh cảm tình với bạn, tin những lời nói và việc làm của bạn đều là chánh quyết chánh đáng, mà chẳng khởi hoài nghi. Lúc đó, nói Phật pháp với họ thì nhất định họ sẽ y pháp tu hành.
III). Lợi hành : Tức là làm những việc có lợi đối với chúng sinh, như vậy mới có thể phát sinh tác dụng, khiến cho chúng sinh tin hành vi của bạn là chánh đại quang minh, mà chẳng ích kỷ thì họ nhất định sẽ học theo bạn.
IV). Ðồng sự : Tức là cùng chung làm việc với nhau. Tóm lại, muốn độ loại chúng sinh nào, thì thị hiện ra thân loại chúng sinh đó, làm cùng việc với họ. Như thế sẽ gần gũi dễ dàng, có cơ hội nói pháp giáo hóa. Ví như muốn bọn cướp cải tà quy chánh, thì hiện thân bọn cướp, ở với bọn cướp, dùng đủ thứ pháp môn phương tiện, dần dần cảm hóa họ cải ác hướng thiện, ở trên là ý đại khái về bốn pháp nhiếp.
Nhược dữ chúng sanh vô hạn lợi, Nếu ban chúng sinh lợi vô hạn
Tức cụ tối thắng trí phương tiện Tất đủ trí phương tiện tối thắng
Nhược cụ tối thắng trí phương tiện Nếu đủ trí phương tiện tối thắng
Tức trụ dũng mãnh vô thượng đạo. Sẽ trụ dũng mãnh đạo vô thượng.
Giảng: Nếu như hay ban cho chúng sinh lợi ích vô hạn lượng, thì lúc đó sẽ đầy đủ trí huệ phương tiện pháp môn thù thắng nhất. Nếu đầy đủ trí huệ phương tiện pháp môn thù thắng nhất đó, thì sẽ thường trụ ở đạo vô thượng dũng mãnh.
Nhược trụ dũng mãnh vô thượng đạo Nếu trụ dũng mãnh đạo vô thượng
Tức năng tồi điễn chư ma lực Thì hay phá tan các ma lực
Nhược năng tồi điễn chư ma lực, Nếu hay phá tan các ma lực
Tức năng siêu xuất tứ ma cảnh. Thì sẽ vượt khỏi cảnh bốn ma.
Giảng: Nếu như trụ ở cảnh giới dũng mãnh tinh tấn vô thượng Phật đạo, thì hay phá tan tất cả ma lực. Nếu hay phá tan tất cả ma lực, thì sẽ vượt khỏi cảnh giới bốn thứ ma. Tất cả ma lực là thiên ma, thần ma, quỷ ma, người ma .v.v…
1). Thiên ma : Tức là ma trên trời. Nếu hành giả chưa phá cửa ải tiền tài, thì thiên ma dùng đủ thứ tài vật để dẫn dụ, khiến cho sinh tâm tham, nhiễu loạn tâm thanh tịnh của hành giả. Ðây là hạt giống trong ruộng tám thức chưa hàng phục được, còn gốc rễ vô minh, cho nên chưa cầm chắc được, theo cảnh mà chuyển, làm con ma cháu ma, dân ma nữ ma, làm quyến thuộc của thiên ma. Nếu cửa ải sắc chưa phá, thì thiên ma sẽ tìm cơ hội để chướng ngại tu đạo, hiện ra người nữ xinh đẹp, hoặc người nam đẹp trai, biểu diễn các tư thái ở trước mặt bạn, khiến cho bạn mê mà phát cuồng, mất đi đạo nghiệp, bị thiên ma nhiếp đi, làm quyến thuộc của chúng.
2). Thần ma : Tức là ma có thần thông. Chúng chẳng nhất định ở trên trời, hoặc ở trên đảo, hoặc ở trong núi, trong rừng. Chúng thấy người tu đạo, thì đến gây phiền não, đấu pháp với người tu đạo so sánh cao thấp. Người đạo cao thì hàng phục được ma; ngược lại thì sẽ bị ma hàng phục, liền làm quyến thuộc của chúng.
3). Quỷ ma : Tức là ma quỷ hại người. Chẳng những đến gây phiền não mà còn hại huệ mạng của người, khiến cho người tu đạo tâm chẳng an ổn, hoặc khiến cho mất đạo tâm. Trong Kinh Lăng Nghiêm có nói, có năm mươi thứ ấm ma, hay nhiễu loạn tâm người tu đạo. Do đó, bất cứ gặp cảnh giới gì, phải có định lực, đừng động tâm, bị cảnh làm lay chuyển.
4). Người ma : Tức là đố kỵ chướng ngại người tu đạo. Lúc chuyên nhất tu đạo, thì chúng cố ý đến gây phiền não, chướng ngại bạn tu đạo, khiến cho bạn nóng giận, sinh phiền não, động vô minh. Phàm là có hành vi như thế, thì tức là người ma.
Trong Sớ Văn Ngài Thanh Lương Quốc Sư có nói : ‘’Xả phần đoạn nên chẳng có ấm ma, không xả mạng nên không có tử ma, hoặc chẳng hiện hành nên vượt phiền não ma, giác Phật mười phương nên vượt thiên ma.’’ Vì ấm ma này trói chặt người, chẳng được giải thoát. Hiện xả phần đoạn sinh tử rồi, cho nên chẳng còn ấm ma. Chưa xả mạng, cho nên chẳng có tử ma. Gặp cảnh giới chẳng mê hoặc, cảm thấy rất bình thường, thì chẳng có phiền não ma. Nếu giác ngộ Phật mười phương thì vượt khỏi thiên ma.
Chúng ta, chúng sinh bị sắc thọ tưởng hành thức năm uẩn trói buộc, mà chẳng được giải thoát. Năm uẩn này biến thành năm thứ ma lực, cho nên phải vượt khỏi năm thứ cảnh giới này, lại phải vượt khỏi cảnh giới tử ma. Lúc người vừa chết, bốn đại phân tán, trở về chỗ cũ, thân thể chẳng còn gì nữa, là không. Còn có phiền não ma, tức là tham sân si mạn nghi năm thứ phiền não cơ bản. Tham tức là đối với cảnh thuận sinh tâm vui thích. Sân tức là đối với cảnh nghịch khởi tâm sân hận. Si tức là chẳng minh bạch đạo lý chân chánh. Mạn tức là khoe khoang mình, khinh khi người khác. Nghi tức là chẳng tin lời của người khác nói. Năm thứ hành vi này, hay não hại thân tâm, cũng là đá cột chân người tu đạo. Lại có thiên ma đến chướng ngại tu đạo, mê hoặc tu đạo. Nếu hay minh bạch đạo lý mười lực của Phật, thì thiên ma cũng chẳng cách chi nhiễu loạn tâm tu đạo.
Nhược năng siêu xuất tứ ma cảnh, Nếu hay vượt khỏi cảnh bốn ma
Tức đắc chí ư bất thoái địa Thì sẽ đắc được địa bất thối
Nhược đắc chí ư bất thoái địa Nếu hay đắc được địa bất thối
Tức đắc vô sanh thâm pháp nhẫn. Tất được vô sinh thâm pháp nhẫn.
Giảng: Nếu như vượt khỏi cảnh giới bốn thứ ma (ấm ma, tử ma, phiền não ma, thiên ma) thì sẽ đắc được quả vị bất thối. Nếu đắc được tam bất thối địa, thì sẽ đắc được cảnh giới thâm pháp nhẫn vô sinh.
Tam bất thối :
1). Vị bất thối.
2). Hạnh bất thối.
3). Niệm bất thối.
Vị bất thối tức là Bồ Tát đại thừa phát tâm, chẳng thối lùi về quả vị nhị thừa. Hạnh bất thối tức là tinh tấn tu hành, chẳng thối lùi về sau. Niệm bất thối tức là phát tâm bồ đề, vĩnh viễn chẳng thối lùi.
Vô sinh thâm pháp nhẫn : Tức là không thể nhẫn thọ cũng phải nhẫn thọ. Bất cứ cảnh giới gì đến, đều phải nhẫn thọ, thì tất cả thống khổ chẳng còn nữa. Không sinh phiền não, chỉ phát tâm bồ đề. Nhẫn này là nhẫn nơi tâm, trong tâm thọ chẳng nổi cũng phải chịu. Nghĩa là lúc đó phải phát tâm bồ đề, để quyết đấu với sinh tử, để quyết đấu với thống khổ, để đấu tranh với khốn khổ hoạn nạn. Ðó tức là điều người ta nhẫn không được, mà mình nhẫn được, điều người ta không thể nhường, mà mình nhường được, như vậy mới đắc được vô sinh thâm pháp nhẫn.
Nhược đắc vô sanh thâm pháp nhẫn Nếu được vô sinh thâm pháp nhẫn.
Tức vi chư Phật sở thọ kí Sẽ được các đức Phật thọ ký
Nhược vi chư Phật sở thọ kí Nếu được các đức Phật thọ ký
Tức nhất thiết Phật hiện kỳ tiền. Thì tất cả Phật hiện ở trước.
Giảng: Nếu như đắc được vô sinh thâm pháp nhẫn, thì cũng là không thể nhẫn mà nhẫn được. Nhẫn tất cả pháp chẳng động tâm. Thuận nghịch đều tinh tấn dũng mãnh hướng về Phật đạo, thì sẽ được mười phương ba đời tất cả chư Phật thọ ký, thọ ký biệt hiệu. Thọ ký biệt hiệu là gì ? Tức là nói bạn vào lúc nào sẽ thành Phật, cõi nước gì ? Ở đâu ? Tên gì ? Phật hiệu là gì ? Thời gian ở đời bao lâu ? Tất cả đều thọ ký trước, ký cho biệt hiệu.
Nếu được mười phương chư Phật thọ ký, thì mười phương chư Phật đều thị hiện ở trước bạn, vì bạn mà thọ ký biệt hiệu tương lai.
Thược nhất thiết Phật hiện kỳ tiền, Nếu tất cả Phật hiện ở trước
Tức liễu thần thông thâm mật dụng Tất rõ thần thông dụng tâm mật
Nhược liễu thần thông thâm mật dụng, Nếu rõ thần thông dụng tâm mật
Tức vi chư Phật sở ức niệm. Tất được chư Phật thường nghĩ nhớ.
Giảng: Nếu như được tất cả chư Phật thị hiện ở trước để thọ ký cho bạn, thì sẽ thấu rõ tất cả thần thông có mật dụng không thể nghĩ bàn. Cảnh giới đó thâm sâu không thể dò, diệu không thể tả. Nếu biết rõ diệu dụng của thần thông, thì được mười phương chư Phật nghĩ nhớ, cùng nhau thông đạt chẳng có chướng ngại, do đó: ‘’Tâm tâm tương ấn, quang quang tương chiếu.’’ Tuy mười phương chư Phật ở cõi Thường Tịch Quang Tịnh Ðộ, nhưng thường nghĩ nhớ tới bạn, bạn cũng thường nghĩ nhớ mười phương chư Phật. Giống như mẹ nhớ con, con nhớ mẹ, hai niệm thông nhau, khởi tác dụng tâm điện cảm ứng, thì mẹ con sẽ gặp nhau.
Thược vi chư Phật sở ức niệm, Nếu được chư Phật thường nghĩ nhớ
Tức dĩ Phật đức tự trang nghiêm Tất dùng Phật đức tự trang nghiêm
Nhược dĩ Phật đức tự trang nghiêm Nếu dùng Phật đức tự trang nghiêm
Tức hoạch diệu phước đoan nghiêm thân. Sẽ được diệu phước đoan nghiêm thân.
Giảng: Nếu như được mười phương chư Phật thường nghĩ nhớ, thì bạn cũng luôn nghĩ nhớ mười phương chư Phật. Hai niệm này càng ngày phải càng thâm sâu, thì sẽ dùng Phật đức để trang nghiêm đức hạnh của mình, do đó ‘’Vạn đức viên dung.’’ Nếu Phật có đức hạnh gì, thì bạn có đức hạnh đó, như vậy thì sẽ đắc được diệu phước đoan nghiêm thân, thiên biến vạn hóa. Diệu phước trang nghiêm thân đó, tức là ba mươi hai tướng đại nhân.
Nhược hoạch diệu phước đoan nghiêm thân, Nếu được diệu phước đoan nghiêm thân
Tức thân hoảng diệu như kim sơn Thì thân sáng chói như núi vàng
Nhược thân hoảng diệu như kim sơn, Nếu thân sáng chói như núi vàng
Tức tướng trang nghiêm tam thập nhị. Thì được ba hai tướng trang nghiêm.
Giảng: Nếu như được tướng tốt trang nghiêm thân, thì thân thể sẽ giống như núi vàng, chiếu soi sáng rực. Làm thế nào mới được thân như vậy ? Thì phải luôn tu phước tu huệ. Tu phước thì được tướng tốt trang nghiêm thân, tu huệ thì được quang minh chiếu khắp. Muốn đắc được diệu phước đoan nghiêm thân, dùng Phật đức trang nghiêm mà tự trang nghiêm, thì thân thể sẽ sáng chói như núi vàng.
Lúc Phật còn ở đời thì một ngày nọ, đến nhà của một cư sĩ thuyết pháp, thì vị cư sĩ đó đặc biệt chuẩn bị cái giạ bằng vàng để cho Phật ngồi. Khi Phật đến thì cái giạ đó rơi xuống đất tìm chẳng được. Tại sao ? Vì thân Phật phóng ra vô lượng tia sáng màu vàng, chiếu khắp mặt đất biến thành màu vàng, cho nên tìm chẳng được cái giạ. Khi Phật đi khỏi rồi lại hiện ra tự nhiên. Do nhân duyên đó, vị cư sĩ đó mới phát tâm tin Phật, đời đời kiếp kiếp tu hành, nhưng chưa thành đạo nghiệp.
Ðến thời đại vua A Dục, thì anh ta làm Tỳ Kheo, cảm hóa vua A Dục tin Phật; chẳng những khiến cho vua A Dục tin Phật, mà còn rất kiền thành, trở thành đại hộ pháp trong Phật giáo. Vua A Dục tạo tám vạn bốn ngàn tháp trên khắp xứ Ấn Ðộ để cúng dường xá lợi Phật. Và còn kết tập Kinh điển, dùng văn Pali viết trên lá bồ đề, trở thành Tạng Kinh tiểu thừa nam truyền.
Vua A Dục vốn là một ông vua tàn ác, đã từng làm địa ngục ở nhân gian, phàm là người nào phản đối ông ta, thì đều bị tống vào ngục để chịu cực hình. Bất cứ ai tống vào thì không thể ra được, thọ nạn cho đến chết. Vị Tỳ Kheo đó, lầm vào ngục đó bị phán tử hình. Vị Tỳ Kheo đó bèn yêu cầu bảy ngày sau mới hành hình. Trong bảy ngày đó, tuy nỗ lực tu hành nhưng cũng tu chẳng thành công, bèn yêu cầu bảy ngày nữa. Ngài chuyên tu quán bất tịnh, quán chín lỗ thường chảy ra đồ dơ dáy hôi thối, thân thể chẳng có chỗ nào sạch sẽ. Quán tới quán lui cũng chẳng thành tựu. Chuyển nháy mắt thì hạn kỳ sắp đến. Lúc đó, ở bên ngoài bắt dẫn tới một phụ nữ, ngục tốt bỏ bà ta vào trong cối đá lớn, đâm dần nát ra, vị Tỳ Kheo đó mắt thấy người phụ nữ chết như thế, bèn chứng quả, tiêu trừ kiến tư hai hoặc, mà đắc được thần thông. Lúc hành hình thì tâm chẳng sợ hãi, bị ngục tốt bỏ vào chảo dầu sôi, nhưng kỳ tích xuất hiện, làm thế nào lửa cũng không làm chết Ngài. Ngục tốt bèn báo cáo lên vua A Dục. Vua A Dục chẳng tin, đích thân đến xem thì quả nhiên như thế ! Do đó, cảm động vua A Dục bỏ tín ngưỡng ngoại đạo mà tin Phật pháp.
Người chứng quả thân thể rất nhẹ, đi đường chẳng có tiếng động, đi khất thực chân chẳng chấm đất. Song, trở về thì vẫn phải rửa chân, đó là tập quán, cũng là quy cụ. Người chứng quả, bất cứ nam hay nữ đều đoạn dục niệm, tức cũng là đoạn được gốc sinh tử.
Nếu thân phóng ra quang minh như núi vàng, thì sẽ đầy đủ tướng tốt trang nghiêm ba mươi hai tướng. Trên mặt có hai mươi tướng tốt, thân thể có mười tướng tốt, tay chân có mười tướng tốt. Ðó là tu ba mươi hai thứ tịnh hạnh, mới đắc được sự thành tựu như vậy.
Nhược tướng trang nghiêm tam thập nhị, Nếu tướng trang nghiêm ba mươi hai
Tức cụ tùy hảo vi nghiêm sức Sẽ đủ vẻ đẹp làm nghiêm sức
Nhược cụ tùy hảo vi nghiêm sức Nếu đủ vẻ đẹp làm nghiêm sức
Tức thân quang minh vô hạn lượng. Thì thân quang minh không hạn lượng.
Giảng: Nếu như đắc được ba mươi hai tướng trang nghiêm thân thì sẽ đầy đủ tám mươi vẻ đẹp, càng trang nghiêm, càng tốt đẹp. Nếu đắc được tám mươi vẻ đẹp để làm trang nghiêm tu sức, thì thân thể phóng ra quang minh không có hạn lượng. Có ba mươi hai tướng đại nhân, thì quang minh chẳng đủ. Có tám vẻ đẹp thì thân thể sẽ phóng ra vô lượng vô biên quang minh, sáng chói như núi vàng.
Nhược thân quang minh vô hạn lượng, Nếu thân quang minh không hạn lượng
Tức bất tư nghị quang trang nghiêm Tất quang trang nghiêm không nghĩ bàn
Nhược bất tư nghị quang trang nghiêm Nếu quang trang nghiêm không nghĩ bàn
Kỳ quang tức xuất chư liên hoa. Quang đó sẽ hiện các hoa sen.
Giảng: Nếu như thân thể như núi vàng, thì sẽ phóng ra quang minh chẳng có hạn lượng, trong quang minh đó, hiện ra quang minh không thể nghĩ bàn, để trang nghiêm thân. Nếu đắc được cảnh giới như thế, thì trong quang minh sẽ hiện ra đủ thứ hoa sen, có vô lượng Phật, Bồ Tát ngồi kiết già, ngồi ở trên tòa hoa sen báu lớn, đó là cảnh giới cùng nhau trang nghiêm, cùng nhau vô ngại.
Kỳ quang nhược xuất chư liên hoa Nếu quang đó hiện các hoa sen
Tức vô lượng Phật tọa hoa thượng Tất vô lượng Phật ngồi trên hoa
Quang không nghĩ bàn đó để trang nghiêm thân, trong quang minh đó hiện ra đủ thứ hoa sen, đủ các màu sắc : Hoa xanh quang xanh, hoa trắng quang trắng, hoa vàng quang vàng, hoa đỏ quang đỏ, hoa tía quang tía, có đủ thứ hoa sen, có đủ thứ quang minh, trên mỗi đóa hoa sen báu lớn đó, có vô lượng các Ðức Phật ngồi trên hoa sen để nói đủ thứ pháp, để giáo hóa đủ thứ chúng sinh. Ðây là nửa câu kệ.
Cảnh giới Hoa Nghiêm là:
‘’Một tức tất cả, tất cả tức một.’’
Tại một nơi hiện ra cảnh giới đó, tận hư không khắp pháp giới, hết thảy mọi nơi đều hiện ra cảnh giới như thế. Chợt nhìn là một, nhìn kỹ là nhiều. Tuy là nhiều, thật tế là một. Tu đạo thành công thì đắc được pháp thân, tức là như vậy. Thấy nó là một, song, tận hư không khắp pháp giới. Nhưng ở trong một lại hiện ra vô lượng. Do đó :
‘’Vô lượng là một, một là vô lượng.
Nhiều tức là một, một tức là nhiều.
Một nhiều đầy khắp, một nhiều không ngại.’’
Làm thế nào biết được cảnh giới đó ? Tức là phải tu hành thì tự tánh quang minh mới hiện ra. Lúc đó, pháp thân cũng thành tựu, báo thân cũng thành tựu, hóa thân cũng có thần thông, một thân có thể hóa làm trăm ngàn vạn ức thân. Do đó : ‘’Thanh Tịnh Pháp Thân Tỳ Lô Giá Na Phật, Viên Mãn Báo Thân Lô Xá Na Phật, Thiên Bách Ức Hóa Thân Thích Ca Mâu Ni Phật.’’ Chẳng những Phật Thích Ca Mâu Ni có thần thông diệu dụng như thế, mà chúng ta phàm phu nếu như nhận chân tu hành, cước đạp thật địa, thì cũng sẽ thành tựu đạo nghiệp, chứng đắc thần thông diệu dụng giống như Phật không hai không khác. Nếu chẳng tu hành mà chấp vào văn tự Bát Nhã, hoặc chấp vào giảng giải, thì không được. Nhất định phải tu hành, hạ thủ công phu. Các vị phải chú ý, phải nỗ lực ! Vì ai ai cũng đều có Phật tánh, đều có thể thành Phật, cho nên ai ai cũng đều phải tu hành thì mới hy vọng thành Phật.
Thị hiện thập phương mĩ bất biến Thị hiện mười phương khắp hết thảy
Tất năng điều phục chư chúng sanh Đều hay điều phục các chúng sinh
Nhược năng như thị điều chúng sanh Nếu hay điều chúng sinh như thế
Tức hiện vô lượng thần thông lực. Tất hiện vô lượng sức thần thông.
Giảng: Phật hay thị hiện đến mười phương thế giới, chẳng có nơi nào mà chẳng đến. Lúc đó hoàn toàn điều phục hết thảy chúng sinh cang cường. Nếu điều phục hết chúng sinh khó điều khó phục, thì hiện ra vô lượng vô biên sức thần thông không thể nghĩ bàn. Sức thần thông đó là từ đâu đến ? Là từ ngồi thiền, niệm Phật, trì Chú .v.v… tu hành mà chứng đắc. Lúc tu hành thì phải nhẫn nhục, không thể nhẫn cũng phải nhẫn, mới đắc được thần thông diệu dụng.
Nhược hiện vô lượng thần thông lực Nếu hiện vô lượng sức thần thông
Tức trụ bất khả tư nghị độ, Tất trụ cõi không thể nghĩ bàn
Diễn thuyết bất khả tư nghị Pháp, Diễn nói pháp không thể nghĩ bàn
Lệnh bất tư nghị chúng hoan hỉ. Khiến bất tư nghì chúng hoan hỷ.
Giảng: Nếu như hay hiện ra vô lượng vô biên sức thần thông, thì có thể trụ ở cõi Phật không thể nghĩ bàn, hoặc trụ ở cõi nước đất làm bằng vàng, hoặc trụ ở cõi nước trang nghiêm tốt đẹp, diễn nói diệu pháp không thể nghĩ bàn, khiến cho bất khả tư nghì chúng sinh phát tâm bồ đề, đều đại hoan hỷ.
Nhược thuyết bất khả tư nghị Pháp Nếu nói pháp không thể nghĩ bàn
Lệnh bất tư nghị chúng hoan hỉ Khiến bất tư nghì chúng hoan hỷ
Tức dĩ trí tuệ biện tài lực Tất nhờ sức trí huệ biện tài
Tùy chúng sanh tâm nhi hóa dụ. Tùy tâm chúng sinh mà hóa dụ.
Giảng: Nếu như hay diễn nói pháp không thể nghĩ bàn, thì sẽ khiến cho bất tư nghì chúng sinh đều sinh tâm hoan hỷ, phát tâm bồ đề tăng trưởng căn lành. Làm thế nào mới khiến cho chúng sinh hoan hỷ ? Thì phải dùng sức trí huệ chân chánh và biện tài, tùy theo tâm của chúng sinh mà dẫn dụ họ, khiến cho họ phát tâm bồ đề.
Nhược dĩ trí tuệ biện tài lực Nếu dùng sức trí huệ biện tài
Tùy chúng sanh tâm nhi hóa dụ, Tùy tâm chúng sinh mà hóa dụ
Tức dĩ trí tuệ vi tiên đạo, Tất dùng trí huệ làm tiên đạo
Thân ngữ ý nghiệp hằng vô thất. Thân ngữ ý nghiệp luôn không lỗi.
Giảng: Nếu như dùng sức trí huệ chân chánh, khéo léo phương tiện biện tài để tùy thuận tâm ý chúng sinh, để hóa đạo chúng sinh, để dẫn dụ họ, khiến cho họ phát tâm bồ đề, tu đạo vô thượng. Là nhờ trí huệ làm tiên đạo, khiến cho thân ngữ ý ba nghiệp thanh tịnh, luôn không lỗi là chẳng tạo mười điều ác, làm mười việc lành.
Mười điều ác là thân có ba điều ác : Sát sinh, trộm cắp, tà dâm; lời nói có bốn điều ác : Nói dối, nói thêu dệt, nói hai lưỡi và chửi mắng; ý có ba điều ác : Tham lam, sân hận, si mê.
Chúng ta phát nguyện thì phải dứt mười điều ác, phải tu mười điều lành. Không làm mười điều ác, tức là mười điều thiện.
Nhược dĩ trí tuệ vi tiên đạo, Nếu dùng trí huệ làm tiên đạo
Thân ngữ ý nghiệp hằng vô thất, Thân ngữ ý nghiệp luôn không lỗi
Tức kỳ nguyện lực đắc tự tại, Tất các nguyện lực được tự tại
Phổ tùy chư thú nhi hiện thân. Khắp tùy các loài mà hiện thân.
Giảng: Nếu như dùng trí huệ làm tiên đạo để giáo hóa tất cả chúng sinh, thì thân ngữ ý ba nghiệp sẽ luôn luôn chẳng lỗi lầm. Không làm mười điều ác, mà làm mười điều thiện, tức sẽ giáo hóa chúng sinh phát tâm bồ đề. Những lời nguyện phát ra sẽ được tự tại, sẽ đến khắp các nẻo mà hiện thân. Muốn lên trời giáo hóa, thì có thể hiện thân lên trời. Muốn xuống địa ngục giáo hóa, thì có thể hiện thân xuống địa ngục, chẳng có giới hạn, cũng chẳng có chướng ngại. Ðó là đồng sự trong bốn pháp nhiếp. Do đó ‘’Ðáng dùng thân gì độ được họ, thì thị hiện thân đó để độ họ.’’ Hiện thân giống như chúng sinh trong các nẻo, khiến cho họ phát tâm bồ đề, đó chẳng phải là đi thọ báo.
Nhược kỳ nguyện lực đắc tự tại Nếu các nguyện lực được tự tại
Phổ tùy chư thú nhi hiện thân, Khắp tùy các loài mà hiện thân
Tức năng vi chúng thuyết Pháp thời, Tất lúc vì chúng sinh nói pháp
Âm thanh tùy loại nan tư nghị. Âm thanh tùy loài khó nghĩ bàn.
Giảng: Nếu như nguyện lực phát ra mà đắc được tự tại, toại âm mãn nguyện, thì sẽ lợi ích chúng sinh, sẽ trợ giúp chúng sinh. Như vậy thì sẽ tùy theo khắp các nẻo mà hiện thân. Lúc vì chúng sinh diễn nói diệu pháp, thì âm thanh tùy theo loài chúng sinh mà khác nhau, đều đắc được lợi ích không thể nghĩ bàn. Do đó:
‘’Phật dùng một tiếng diễn nói pháp
Chúng sinh theo loài đều hiểu được.’’
Người trời nghe là tiếng trên trời, loài người nghe là tiếng người, A tu la nghe là tiếng A tu la, súc sinh nghe là tiếng súc sinh, ngạ quỷ nghe là tiếng ngạ quỷ, địa ngục nghe là tiếng của địa ngục.
Nhược năng vi chúng thuyết Pháp thời, Nếu lúc vì chúng sinh nói pháp
Âm thanh tùy loại nan tư nghị, Âm thanh tùy loài khó nghĩ bàn
Tức ư nhất thiết chúng sanh tâm, Hết thảy tất cả tâm chúng sinh
Nhất niệm tất tri vô hữu dư. Một niệm đều biết không thừa sót.
Giảng: Nếu như lúc vì chúng sinh diễn nói vô lượng diệu pháp, thì âm thanh đó đều khiến cho chúng sinh nghe hiểu rõ. Ví như người Tàu thì nghe tiếng Tàu, người Mỹ thì nghe tiếng Mỹ. Người nước nào thì nghe tiếng nước đó, đó là sức thần thông diệu dụng. Như vậy thì sẽ thấu rõ tâm của tất cả chúng sinh. Trong một niệm biết hết tất cả tâm niệm của chúng sinh đang nghĩ gì ? Do đó:
‘’Tất cả chúng sinh có bao nhiêu tâm
Như Lai đều biết đều thấy.’’
Bất cứ có bao nhiêu chúng sinh, có bao nbiêu tâm niệm thì đều thấu suốt rõ ràng.
Nhược ư nhất thiết chúng sanh tâm, Nếu nơi tất cả tâm chúng sinh
Nhất niệm tất tri vô hữu dư, Một niệm đều biết không thừa sót
Tức tri phiền não vô sở khởi, Tất biết phiền não chẳng chỗ khởi
Vĩnh bất một nịch ư sanh tử. Vĩnh chẳng chìm nổi trong sinh tử.
Giảng: Nếu như trong một niệm biết tất cả tâm chúng sinh thì sẽ biết phiền não cũng là không. Do đó:
‘’Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn.’’
Phiền não tuy chẳng cùng tận, nhưng biết chúng sinh có bao nhiêu tâm, thì biết:
‘’Phiền não tức bồ đề
Sinh tử tức Niết Bàn.’’
Vì tâm bồ đề viên mãn, cho nên phiền não chẳng chỗ khởi. Tức nhiên chẳng còn phiền não, thì gốc rễ sinh tử chẳng còn nữa. Ðã dứt sinh tử thì chẳng còn trôi nổi ở trong biển sinh tử nữa, càng không còn luân hồi trong sáu nẻo nữa. Như vậy thì sẽ thoát khỏi gông cùm của sinh tử luân hồi.
Người tu đạo, việc quan trọng nhất là ‘’đoạn dục khử ái‘’ (đoạn sạch ái tình), đó là biện pháp duy nhất để chứng quả. Nếu chẳng còn phiền não, thì dục niệm cũng chẳng còn. Dục niệm chẳng còn, thì sinh tử chấm dứt, đó đều có liên hệ với nhau, cho nên nhất định không thể có tư tưởng nhiễm ô.
Nhược tri phiền não vô sở khởi Nếu biết phiền não chẳng chỗ khởi
Vĩnh bất một nịch ư sanh tử, Vĩnh chẳng chìm nổi trong sinh tử
Tức hoạch công đức pháp tánh thân Sẽ được công đức thân pháp tánh
Dĩ pháp uy lực hiện thế gian. Nhờ pháp oai lực hiện thế gian.
Giảng: Nếu như biết phiền não chẳng chỗ khởi, thì sẽ chuyển phiền não thành bồ đề. Nếu chẳng minh bạch thì bồ đề cũng biến thành phiền não. Ðây dễ như trở bàn tay, chúng ta vô duyên vô cớ nổi giận, đó là vô minh tác quái; vô minh chướng ngại bạn, khiến cho bạn sinh phiền não. Nếu phá vô minh rồi, thì phiền não tức bồ đề. Lúc đó vĩnh viễn chẳng còn ở trong luân hồi nữa, mà thoát khỏi biển khổ sinh tử. Lúc đó công đức viên mãn, đắc được thân pháp tánh. Nhờ oai lực của pháp, mà hiện khắp trong mười phương thế giới.
Nhược hoạch công đức pháp tánh thân Nếu được công đức thân pháp tánh
Dĩ pháp uy lực hiện thế gian, Dùng pháp oai lực hiện thế gian
Tức hoạch Thập Địa thập tự tại, Tất được Thập địa mười tự tại
Tu hành chư độ thắng giải thoát. Tu hành các độ thắng giải thoát.
Giảng: Nếu như đắc được công đức thân pháp tánh, thì có thể dùng oai lực của pháp hiện khắp trong mười phương thế giới, tất sẽ đắc được địa vị Thập địa mười tự tại. Lại tu hành pháp môn mười độ, sẽ đắc được giải thoát thù thắng không thể nghĩ bàn.
Mười địa có bốn thứ :
1). Thập địa của Phật thừa.
2). Thập địa của Bồ Tát.
3). Thập địa của Duyên Giác.
4). Thập địa của Thanh Văn.
Hiện tại là nói thập địa của Bồ Tát :
1). Hoan hỷ địa.
2). Ly cấu địa.
3). Phát quang địa.
4). Diệm huệ địa.
5). Nan thắng địa.
6). Hiện tiền địa.
7). Viễn hành địa.
8). Bất động địa.
9). Thiện huệ địa.
10). Pháp vân địa.
Trong phẩm Thập địa có giải thích rõ ràng.
Thập tự tại tức là:
- Mạng tự tại
- Tâm tự tại
- Tư cụ tự tại
- Nghiệp tự tại
- Thọ sinh tự tại
- Giải tự tại
- Nguyện tự tại
- Thần lực tự tại
- Pháp tự tại
- Trí tự tại.
Thập độ tức là thập Ba la mật :
- Bố thí Ba la mật.
- Trì giới Ba la mật.
- Nhẫn nhục Ba la mật.
- Tinh tấn Ba la mật.
- Thiền định Ba la mật.
- Bát Nhã Ba la mật.
- Phương tiện Ba la mật.
- Nguyện Ba la mật.
- Lực Ba la mật.
- Trí Ba la mật.
Ở trước đã giải thích rồi.
Nhược hoạch Thập Địa thập tự tại, Nếu được thập địa mười tự tại
Tu hành chư độ thắng giải thoát, Tu hành các độ thắng giải thoát
Tức hoạch quán đảnh đại thần thông, Tất được quán đảnh đại thần thông
Trụ ư tối thắng chư tam muội. Trụ nơi các tam muội tối thắng.
Giảng: Nếu như đắc được thập địa, từ hoan hỷ địa đến pháp vân địa; lại đắc được mười tự tại; từ mạng tự tại cho đến trí tự tại; lại tu mười độ, từ bố thí cho đến trí độ, do đó mà đắc được giải thoát thù thắng. Như vậy sẽ đắc được mười phương chư Phật đến quán đảnh, sẽ lập tức chứng được thần thông diệu dụng thập địa mười tự tại; cũng trụ ở trong tất cả cảnh giới tam muội tối thù thắng, đắc được thọ dụng chánh định chánh thọ.
Nhược hoạch quán đảnh đại thần thông, Nếu được quán đảnh đại thần thông
Trụ ư tối thắng chư tam muội, Trụ nơi các tam muội tối thắng
Tức ư thập phương chư Phật sở, Tất ở chỗ mười phương chư Phật
Ưng thọ quán đảnh nhi thăng vị. Được thọ quán đảnh mà thăng vị.
Giảng: Nếu như được mười phương chư Phật đến quán đảnh, thì sẽ đắc được đại thần thông, sẽ trụ ở trong các tam muội thù thắng nhất. Sẽ đến đạo tràng của mười phương chư Phật, chư Phật vì năm mươi vị (thập tín, thập trụ, thập hồi hướng, thập địa, thập hạnh) pháp thân Đại Sĩ thọ nghi thức quán đảnh, khiến cho các Ngài đều thăng lên đến bậc Đẳng Giác. Nếu đoạn một phần sinh tướng vô minh cuối cùng (vô minh nhỏ như sợi tóc), thì sẽ đến bậc Diệu Giác.
Nhược ư thập phương chư Phật sở Nếu ở chỗ mười phương chư Phật
Ưng thọ quán đảnh nhi thăng vị, Được thọ quán đảnh mà thăng vị
Tức mông thập phương nhất thiết Phật, Tất được mười phương tất cả Phật
Thủ dĩ cam lồ quán kỳ đảnh. Tay rưới cam lồ quán đảnh cho.
Giảng: Nếu như hay ở chỗ đạo tràng mười phương chư Phật, được thọ nghi thức quán đảnh mà thăng lên bậc Đẳng Giác, thì sẽ được mười phương tất cả chư Phật, dùng tay rưới nước cam lồ mà quán đảnh.
Quán đảnh tức là chư Phật rưới nước đại bi quán đảnh, thì hết thảy tập khí hoàn toàn tiêu sạch. Tự hành viên mãn, chứng được quả vị Phật.
Ấn Ðộ thời xưa, lúc vua lên ngôi, thì dùng nước bốn biển để quán đảnh, biểu thị chúc mừng. Mật Tông lấy sự quán đảnh làm truyền giới. Trước khi chưa quán đảnh, thì không thể trì chú. Phổ thông có hai lối nghi thức quán đảnh : Một là truyền giáo quán đảnh, người mới phát tâm, được thầy hứa khả mà thọ quán đảnh, làm đệ tử chánh thức. Hai là kết duyên quán đảnh. Gặp nghi thức quán đảnh, pháp duyên khó gặp, cầu xin quán đảnh thì mới có tư cách nghiên cứu Kinh điển mật tông.
Nhược mông thập phương nhất thiết Phật Nếu được mười phương tất cả Phật
Thủ dĩ cam lồ quán kỳ đảnh, Tay rưới cam lồ quán đảnh cho
Tức thân sung biến như hư không, Thì thân sung mãn như hư không
An trụ bất động mãn thập phương. An trụ bất động đầy mười phương.
Giảng: Nếu như được mười phương tất cả chư Phật dùng nước cam lồ để quán đảnh, thì sẽ tiêu sạch một phần sinh tướng vô minh cuối cùng, đó là cảnh giới thù thắng. Nếu được chư Phật quán đảnh, thì pháp thân sẽ sung mãn như hư không. Pháp thân tuy an trụ bất động trong hư không, song, đầy khắp mười phương thế giới. Tại sao ? Vì một pháp thân tức là vô lượng pháp thân, vô lượng pháp thân vẫn là một pháp thân.
Nhược thân sung biến như hư không, Nếu thân sung mãn như hư không
An trụ bất động mãn thập phương, An trụ bất động đầy mười phương
Tức bỉ sở hạnh vô dữ đẳng, Sở hành vị đó chẳng thể sánh
Chư Thiên thế nhân mạc năng tri. Chư thiên loài người chẳng biết được.
Giảng: Nếu như pháp thân sung mãn như hư không, đây tức là cảnh giới vô tại vô bất tại. Cảnh giới hư không và cảnh giới địa ngục là như nhau. Một pháp thân cũng đầy khắp hư không, nhiều pháp thân cũng đầy khắp hư không. Ðây là cảnh giới một tức là nhiều, nhiều tức là một, một nhiều không ngại. Chúng sinh địa ngục do nghiệp mà cảm, một người cũng đầy khắp địa ngục, cho nên gọi vô gián địa ngục, tức cũng là ý nghĩa chẳng có không gian.
Pháp thân đầy khắp hư không, an trụ bất động trong hư không mà đầy khắp mười phương thế giới. Sở hành chẳng thể sánh được, chư thiên và loài người chẳng cách chi biết được cảnh giới thần diệu đó.
Bồ Tát cần tu đại bi hạnh Bồ Tát siêng tu hạnh đại bi
Nguyện độ nhất thiết vô bất quả, Nguyện độ tất cả đều chứng quả
Kiến văn thính thọ nhược cúng dường Nếu được thấy nghe hoặc cúng dường
Mĩ bất giai lệnh hoạch an lạc Hết thảy đều khiến được an lạc.
Giảng: Bồ Tát là một bậc giác ngộ trong hữu tình, chúng sinh là một bậc không giác ngộ trong hữu tình. Cho nên Bồ Tát nguyện đem đạo lý giác ngộ để giác ngộ bậc không giác ngộ trong hữu tình. Vì Bồ Tát bi tâm thiết thiết, từ bi độ chúng sinh, cho nên siêng tu hạnh đại bi, tức là:
‘’Vô duyên đại từ, đồng thể đại bi.’’
Bồ Tát phát nguyện độ tất cả chúng sinh, chẳng có chúng sinh nào mà chẳng chứng được quả vị, thảy đều đắc được quả giác viên mãn. Hoặc có chúng sinh thấy Bồ Tát hành thập độ vạn hạnh, hoặc nghe được pháp Bồ Tát hành, tức cũng là thọ trì. Nếu lại phát tâm cúng dường, thì chẳng có chúng sinh nào mà chẳng đắc được quả vị an lạc.
Bồ Tát siêng tu hạnh đại bi, chẳng thấy lỗi chúng sinh. Xem lỗi lầm của chúng sinh nhận làm lỗi lầm của chính mình, đó là tâm trạng của Bồ Tát. Tôi đã từng nói :
‘’Hãy nhận thật lỗi mình
Đừng nói người đúng sai
Lỗi người tức lỗi mình
Đồng thể gọi đại bi.’’
Nghĩa là quét trừ đen tối biến thành ánh sáng, đừng đem đen tối của người che lấp ánh sáng của mình. Người khác có gì không đúng tức là chỗ mình không đúng. Xem người với mình đồng một thể, đó là đại bi.
Bỉ chư đại sĩ uy thần lực, Sức oai thần các Đại Sĩ đó
Pháp nhãn thường toàn vô khuyết giảm, Pháp nhãn thường đủ chẳng thiếu khuyết
Thập thiện diệu hạnh đẳng chư đạo Thập thiện diệu hạnh thảy các đạo
Vô thượng thắng bảo giai lệnh hiện. Vô thượng thắng bảo đều khiến hiện.
Giảng: Những pháp thân Đại Sĩ đó, đều có sức đại oai thần, đều đầy đủ pháp nhãn, gì cũng đều biết, chẳng có lúc nào thiếu khuyết. Các Ngài tu diệu hạnh thập thiện, phổ độ sáu nẻo chúng sinh thoát khỏi biển khổ. Lại dùng pháp bảo vô thượng thù thắng, đều khiến cho hiển hiện ra.
Chúng ta mỗi người đều có năm nhãn (nhục nhãn, thiên nhãn, huệ nhãn, pháp nhãn, Phật nhãn). Lúc còn trẻ nếu có căn lành, thì rất dễ khai mở ngũ nhãn. Do đó: ‘’Ðồng chân nhập đạo’’, thì dễ đắc được thần thông, chứng quả vị A La Hán. Cho nên đồng tử xuất gia (đồng tử [nam] trước mười sáu tuổi, đồng nữ trước mười bốn tuổi). Pháp nhãn thường toàn đủ. Ðến lúc hiểu pháp nhiễm ô, thì pháp thanh tịnh xa lìa. Lúc đó lại tu hành thì khó khăn hơn mà thiếu khuyết. Song, nếu chân thật tu hành, thì vẫn có thể trở về nguồn cội (khôi phục thân đồng tử), mà chẳng có tư tưởng nhiễm ô, thân hoàn toàn thanh tịnh. Chúng ta tu đạo tức là tu thân thanh tịnh (đồng tử). Khi nào thật thanh tịnh, thấy cảnh chẳng động tâm thì lúc đó sẽ thành tựu.
Thí như đại hải Kim cương tụ Ví như biển có kim cang tụ
Dĩ bỉ uy lực sanh chúng bảo, Nhờ oai lực đó sinh các báu
Vô giảm vô tăng diệc vô tận Không giảm không tăng cũng vô tận
Bồ Tát công đức tụ diệc nhiên. Công đức Bồ Tát tụ cũng thế.
Giảng: Ví như trong biển cả, có đá báu Kim Cang tụ lại với nhau, nhờ oai lực của đá báu kim cang, mà lại sinh ra tất cả các báu. Các báu đó cũng không giảm bớt, cũng chẳng tăng thêm, cũng chẳng cùng tận. Công đức của Bồ Tát tu, tụ tập lại với nhau cũng như thế, hay sinh ra tất cả pháp bảo.
Hoặc hữu sát độ vô hữu Phật Hoặc có cõi nước không có Phật
Ư bỉ thị hiện thành chánh giác, Thị hiện nơi đó thành Chánh Giác
Hoặc hữu quốc độ bất tri Pháp, Hoặc có cõi nước chẳng biết pháp
Ư bỉ vi thuyết diệu pháp tạng. Vì nơi đó nói diệu pháp tạng.
Giảng: Hoặc có cõi nước chẳng có Phật ra đời. Bồ Tát hành Bồ Tát đạo, thì hay thị hiện tám tướng thành đạo.
Tám tướng là :
1). Từ cung trời Ðâu Suất sinh xuống nhân gian.
2). Nhập thai.
3). Trụ thai.
4). Xuất thai.
5). Xuất gia.
6). Thành đạo.
7). Chuyển pháp luân.
8). Vào Niết Bàn.
Hoặc có cõi nước chẳng biết Phật pháp là gì, vì chẳng thấy được Phật, chẳng nghe Pháp, chẳng thấy Tăng. Trong cõi nước chẳng biết có Tam Bảo, thì những Bồ Tát đó vì chúng sinh mà thị hiện, để diễn nói diệu pháp tạng, tức cũng là giáo pháp mà Phật nói. Vì nó hàm chứa nhiều nghĩa nên gọi là pháp tạng.
Vô hữu phân biệt vô công dụng Chẳng có phân biệt chẳng công dụng
Ư nhất niệm khoảnh biến thập phương, Nơi một niệm khắp cùng mười phương
Như nguyệt quang ảnh mĩ bất châu Như hình mặt trăng khắp hết thảy
Vô lượng phương tiện hóa quần sanh. Vô lượng phương tiện hóa quần sinh.
Giảng: Vì chẳng có phân biệt và chẳng có công dụng đạo thần thông diệu dụng, cho nên trong một niệm khắp cùng mười phương, để giáo hóa chúng sinh, giống như mặt trăng ở trên không, chiếu khắp mọi nơi hiện bóng vào trong nước, do đó có câu :
‘’Trăng hiện khắp tất cả chỗ có nước,
Trăng trong tất cả nước, chỉ một mặt trăng nhiếp.’’
Mặt trăng trong hết thảy chỗ có nước, đều do một mặt trăng trên không hiện xuống, và:
‘’Ngàn đầm có nước ngàn đàm có mặt trăng
Vạn dặm không mây vạn dặm trong sáng’’.
Cùng một đạo lý, Bồ Tát dùng vô lượng vô biên diệu pháp môn phương tiện để giáo hóa tất cả chúng sinh.
Vô công dụng đạo là gì ? Tức là đầy đủ đại viên cảnh trí, việc đến thì chiếu, việc đi thì lặng. Ðã tròn đầy công quả, không dụng mà đâu chẳng dụng, rất tự nhiên mà chẳng miễn cưỡng.
Ư bỉ thập phương thế giới trung, Ở trong mười phương thế giới đó
Niệm niệm thị hiện thành Phật đạo, Niệm niệm thị hiện thành Phật đạo
Chuyển chánh Pháp luân nhập tịch diệt, Chuyển bánh xe pháp vào Niết Bàn
Nãi chí xá lợi quảng phân bố. Cho đến rộng phân chia xá lợi.
Giảng: Bồ Tát trong hết thảy mười phương thế giới, trong mỗi niệm thị hiện thành Phật đạo, chuyển bánh xe chánh pháp vô thượng, vào thường lạc ngã tịnh Niết Bàn, cho đến đem xá lợi phân bố trong mười phương thế giới.
Xá lợi có cảnh giới không thể nghĩ bàn. Vào đời Ðường, có vị Phàn Huyền Trí lạy hòa thượng Xã Thuận làm thầy, chuyên tụng Kinh Hoa Nghiêm, tu hạnh Phổ Hiền. Mỗi khi vị đó tụng Kinh thì miệng tuôn ra xá lợi, trước sau cả trăm hạt. Hiện tại có vị giáo sư Tạ Băng Oánh ở San Francisco, nước Mỹ. Bà ta là vị Phật tử thuần thành, cúng dường một hạt xá lợi. Hạt xá lợi đó lại sinh ra xá lợi nhỏ, trước sau đã sinh ra hơn hai mươi hạt, đều được mọi người thỉnh về cúng dường. Hạt xá lợi đó hiện tại vẫn sinh ra không ngừng. Người thỉnh xá lợi, nếu tâm thành ý khẩn thì sớm sẽ sinh ra xá lợi nhỏ, thật là không thể nghĩ bàn. Cảnh giới này khoa học không thể nào thấu hiểu được, chẳng cách chi tìm được nguyên nhân chân chánh.
Hoặc hiện thanh văn độc giác đạo Hoặc hiện Thanh Văn Độc Giác đạo
Hoặc hiện thành Phật phổ trang nghiêm, Hoặc hiện thành Phật khắp trang nghiêm
Như thị khai xiển tam thừa giáo Như vậy khai xiển giáo ba thừa
Quảng độ chúng sanh vô lượng kiếp. Rộng độ chúng sinh vô lượng kiếp.
Giảng: Hoặc có cõi nước hiện ra thân Thanh Văn, hoặc hiện ra thân Ðộc Giác, hoặc hiện đến thế giới khác để thành Phật, khắp trang nghiêm cõi nước chư Phật. Như vậy khai xiển giáo pháp ba thừa, trong vô lượng kiếp đã độ khắp tất cả chúng sinh, giáo hóa tất cả chúng sinh, khiến cho họ đều lìa khổ được vui, chấm dứt sinh tử.
Thanh Văn tức là A La Hán, các Ngài nghe âm thanh của Phật mà ngộ đạo. Các Ngài tu pháp bốn Diệu Ðế, biết khổ, dứt tập, mộ diệt, tu đạo. Biết thế gian tất cả đều là khổ, khổ là từ phiền não mà ra, cho nên phải dứt tập đế, thì sẽ hâm mộ pháp tịch diệt mà tu đạo. Tu đạo gì ? Tức là ba mươi bảy phẩm trợ đạo, dứt được kiến tư (thấy nghĩ) hai hoặc của tam giới, thì chứng quả A La Hán.
Ðộc Giác tức là Bích Chi Phật, còn là Duyên Giác. Lúc không có Phật ra đời, người tu đạo tĩnh tu ở trong thâm sơn cùng cốc: ‘’Xuân quán trăm hoa nở, thu quán lá vàng rơi,’’ cảm thấy tất cả là vô thường mà ngộ đạo gọi là Ðộc Giác. Duyên Giác là sau khi Phật ra đời rồi, tu quán mười hai pháp nhân duyên mà ngộ đạo.
Pháp mười hai nhân duyên :
1). Vô minh : Tức là chẳng minh bạch đạo lý, cho nên sinh ra mê hoặc.
2). Hành : Vì mê hoặc, cho nên phát sinh hành vi.
3). Thức : Có hành vi rồi thì có thức (thai nhi).
4). Danh sắc : Có thức rồi thì có danh sắc, tức cũng là thân năm uẩn. Danh là tinh thần phương diện thọ (cảm thọ), tưởng (tư tưởng), hành (hành vi), thức (phân biệt). Sắc là phương diện sinh lý của nhục thể.
5). Lục nhập : Có danh sắc rồi, theo đó sẽ có mắt tai mũi lưỡi thân ý sáu căn mà vào.
6). Xúc : Có lục nhập rồi thì tiếp xúc với sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, cảnh giới sáu trần, phát sinh tác dụng xúc giác, thì bị cảnh giới lay chuyển.
7). Thọ : Có xúc giác rồi, thì có vọng tưởng về lãnh thọ; thuận cảnh thì tham, nghịch cảnh thì sân.
8). Ái : Có lãnh thọ rồi thì sinh tâm ái; tâm thương vật, tâm thương người, nhất định tìm cách dành lấy.
9). Thủ : Có tâm thương rồi thì giữ làm của mình.
10). Hữu : Vì có thủ (giữ) rồi, cho nên sẽ có hữu (thức A lại da).
11). Sinh : Có chủng tử rồi, cha mẹ duyên thành thục thi đi đầu thai, lại có thân năm uẩn nữa.
12). Già chết : Có sinh rồi thì có già chết.
Ðó là vòng sinh mạng của con người. Mười hai nhân duyên này có hai cửa, một là cửa lưu chuyển, hai là cửa hoàn diệt. Người tu đạo thì thoát khỏi cửa lưu chuyển mà tu cửa hoàn diệt, như vậy mới chấm dứt sinh tử. Ở trên là nhân duyên cửa lưu chuyển, ở dưới là phương pháp cửa hoàn diệt. Do vô minh bắt đầu, quán sát đến già chết, mười hai nhân duyên này tiếp vận không ngừng. Nếu diệt được vô minh rồi thì hành diệt, hành diệt thì thức cũng diệt. Thức diệt thì danh sắc cũng diệt. Danh sắc diệt thì lục nhập cũng diệt. Lục nhập diệt thì xúc cũng diệt. Xúc diệt thì thọ cũng diệt. Thọ diệt thì ái cũng diệt. Ái diệt thì thủ cũng diệt. Thủ diệt thì hữu cũng diệt. Hữu diệt thì sinh cũng diệt. Sinh diệt thì già chết cũng diệt. Do đó người tu đạo trước hết phải phá vô minh. Vô minh là đứng đầu trong vạn điều ác, cho nên phải dùng kiếm trí huệ để chém đầu vô minh. Vô minh hết tác quái thì sẽ hết sinh tử.
Tuy đạo lý này nói đã nhiều lần, nhưng nghe nhiều lần thì nhận thức thêm nhiều lần. Giống như tụng Kinh, càng tụng thì càng tốt, ấn tượng càng sâu, thọ ích cũng càng rộng.
Hoặc hiện đồng nam đồng nữ hình, Hoặc hiện thân đồng nam đồng nữ
Thiên Long cập dĩ A-tu-la, Trời rồng cùng với A tu la
Nãi chí Ma hầu la già đẳng, Cho đến Ma hầu la già thảy
Tùy kỳ sở lạc tất lệnh kiến. Tùy chỗ họ thích đều khiến thấy.
Giảng: Hoặc thị hiện thân hình đồng nam đồng nữ, đây là thân tâm thanh tịnh thiên chân không tà. Nếu đồng chân nhập đạo thì sẽ thành tựu. Giống như Bồ Tát Hộ Pháp Vi Ðà, Ngài phát nguyện đời đời kiếp kiếp nguyện làm thân đồng tử, vĩnh viễn chẳng kết hôn để hộ trì Phật pháp. Ngài là một vị Phật cuối cùng của ngàn vị Phật trong kiếp Hiền. Phật Thích Ca Mâu Ni là vị Phật thứ tư trong kiếp Hiền, Bồ Tát Di Lặc là vị Phật thứ năm trong tương lai. Hoặc thị hiện trời người, hoặc hiện thân Long vương, hoặc thị hiện A Tu La, hoặc thị hiện Ma Hầu La Già các loại thân, tức cũng là trời rồng tám bộ. Tùy theo sự ưa thích của họ mà khiến cho được thấy.
Nay lược giải trời rồng tám bộ như sau :
1). Bộ trời : Chỉ Tứ Thiên Vương mà nói. Các Ngài trụ ở giữa núi Tu Di, bốn phía đều có bốn thành. Phía đông là chỗ ở của Trì Quốc Thiên Vương, phía nam là chỗ ở của Tăng Trưởng Thiên Vương, phía tây là chỗ ở của Quảng Mục Thiên Vương, phía bắc là chỗ ở của Ða Văn Thiên Vương. Các Ngài là thần hộ trì Phật giáo.
2). Bộ rồng : Tức là vua rồng ở trong biển. Chuyên bảo hộ an toàn những người tu đạo, chẳng khiến cho ma đến nhiễu loạn tâm của người tu đạo. Vì tâm sân quá nặng cho nên làm rồng. Còn vì ‘’thừa cấp giới hoãn’’, cho nên có thần thông, nhưng là súc sinh. Rồng quy y với Phật, nguyện làm thiện thần hộ pháp.
3). A Tu La : Dịch là ‘’chẳng phải trời’’ (phi thiên). Có phước báo người trời, nhưng chẳng có đức hạnh người trời. Còn dịch là ‘’không đoan chánh,’’ tướng mạo của nam A Tu La rất xấu xí, song, nữ A Tu La rất xinh đẹp. Còn dịch là ‘’không rượu,’’ vì chúng thích uống rượu, nhưng không có rượu uống. A Tu La thích đấu tranh, thường đánh với người trời. Có một lần nọ trời Ðế Thích bị thua, mới đến thỉnh cầu Ðức Phật. Phật từ bi chúng sinh, nói với Ðế Thích : ‘’Ta có câu Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Ða, ngươi về đọc thì sẽ thắng lợi.’’ Ðế thích trở về trời Ðao Lợi, chiếu theo lời Ðức Phật dạy, quả nhiên chiến thắng được quân A Tu La.
4). Càn Thát Bà : Dịch là “tìm hương”. Vì chúng dùng hương làm thức ăn, cho nên thân tỏa ra mùi hương. Chúng là thần tấu nhạc của trời Ðế Thích. Khi Ðế Thích muốn nghe nhạc, thì đốt hương chiên đàn lên, chúng sẽ ngửi mùi hương mà đến, diễn tấu âm nhạc, biểu diễn ca múa, cho chư thiên thưởng thức. Còn gọi là hương thần.
5). Khẩn Na La : Dịch là “nghi thần”. Thân hình tựa như người, nhưng trên đầu có một cái sừng, khiến cho người thấy sinh nghi. Khẩn Na La khéo về ca xướng, cũng là thần nhạc của trời Ðế Thích. Ðế Thích muốn nghe ca khúc trang nghiêm, thì hai nách của chúng tự động ra mồ hôi, do đó bèn đến cung trời vì chư Thiên ca xướng pháp ngữ, khiến cho người nghe sinh tâm niệm Phật, niệm pháp, niệm Tăng, Tam Bảo.
6). Ca Lâu La : Dịch là chim đại bàng cánh vàng. Cánh của nó mở ra thì rộng khoảng ba trăm sáu mươi do tuần. Khi đói thì dùng đôi cánh quạt nước biển rẽ làm hai, rồng trong biển sắp chết thì tự nhiên hiện ra, làm thức ăn cho chúng. Sức ăn rất lớn, một lần ăn một con rồng lớn, năm chục con rồng nhỏ. Vua rồng bảo vệ quyến thuộc đến chỗ Ðức Phật để khẩn cầu. Phật bèn cho chúng một tấm y cà sa, nói với vua rồng : ‘’Ðem tấm y này về, xé ra từng sợi chỉ, buộc lên thân mỗi con rồng, thì sẽ không bị chim ăn, nhưng phải giữ bát quan trai giới.’’ Vua rồng y chiếu lời Phật dạy để làm, quả nhiên chim Ðại Bàng cánh vàng tìm chẳng được rồng để ăn.
– Do đó chúng cũng đến chỗ Ðức Phật, luận lý với Phật : ‘’Tôi dùng rồng để làm thức ăn, hiện nay chẳng có rồng để ăn, chúng tôi sắp chết đói. Ngài cứu rồng mà không cứu chúng tôi, đây thật là không công bằng.’’
– Phật nói : ‘’Nhà ngươi phải giữ giới Bát quan trai, thì ta sẽ khiến cho đệ tử mỗi ngày lúc ăn cơm sẽ cúng dường một phần cơm.’’
Do đó, cho đến hôm nay, các chùa vào buổi trưa, đều cúng chút cơm cho Ðại Bàng ăn. Chúng cũng quy y Phật, làm thần hộ pháp.
Bát quan trai giới là :
a). Không sát hại : Không giết hại mạng sống hữu tình.
b). Không trộm cắp : Không trộm cắp của cải của người khác.
c). Không tà dâm : Người tại gia không tà dâm, người xuất gia không dâm.
d). Không nói dối : Không nói lời trái với tâm.
e). Không uống rượu : Vì rượu hay bia có chất say, làm cho tâm tán loạn phát cuồng.
f). Không được thoa son đánh phấn mang đồ trang sức. Không được ca múa xem nghe.
g). Không được nằm giường cao rộng : Tức là không nằm giường cao rộng tốt đẹp.
h). Không ăn phi thời : Tức là quá ngọ không ăn. Tám giới trên hợp với giới không ăn phi thời là tám giới, cũng là Bát quan trai giới.
7). Ma Hầu La Già : Dịch là “đại phục hành”, lại là đại mãng xà, còn gọi là địa long. Rồng thì có thần thông, còn chúng thì chẳng có thần thông. Tâm của chúng thường đố kỵ và sân hận, thường phun độc hại người. Về sau được Phật cảm hóa mà làm thiện thần hộ pháp, bảo hộ thân tâm người tu đạo chẳng bị tổn hại.
8). Dạ Xoa : Dịch là “tốc tật”, hành động của chúng rất nhanh. Có ba thứ Dạ Xoa : Thiên hành Dạ Xoa, Không hành Dạ Xoa, Ðịa hành Dạ Xoa, đều là quỷ hại người, về sau được Phật cảm hóa, làm thiện thần hộ pháp.
Chúng sanh hình tướng các bất đồng Chúng sinh hình tướng đều khác nhau
Hành nghiệp âm thanh diệc vô lượng, Hành nghiệp âm thanh cũng vô lượng
Như thị nhất thiết giai năng hiện Như vậy tất cả đều hiện ra
Hải ấn tam muội uy thần lực. Hải ấn tam muội sức oai thần.
Giảng: Hình tượng của chúng sinh đều khác nhau, nghiệp tạo ra, thọ báo cũng khác nhau. Âm thanh cũng vô lượng sự khác nhau. Tuy nhiên có hình sắc khác nhau, song, trong tam muội hải ấn của Bồ Tát, hết thảy đều hiện ra, đó tức là sức oai thần của Bồ Tát.
Tam muội hải ấn là gì ? Hình tướng của vạn sự vạn vật hiện ra ở trong biển hương thủy, đó là không tâm mà hiện, bất cứ là năng hiện và sở hiện, đều do vô công dụng đạo mà thành tựu. Tam muội hải ấn của Bồ Tát hay hiện ra tất cả hình tướng của chúng sinh.
Nghiêm tịnh bất khả tư nghị sát Nghiêm tịnh cõi nước không nghĩ bàn
Cúng dường nhất thiết chư Như Lai, Cúng dường tất cả các Như Lai
Phóng đại quang minh vô hữu biên Phóng đại quang minh vô lượng biên
Độ thoát chúng sanh diệc vô hạn. Độ thoát chúng sinh cũng vô hạn.
Giảng: Muốn trang nghiêm thanh tịnh cõi nước chư Phật không thể nghĩ bàn, thì trước hết phải trang nghiêm tự thân tự tâm tự tánh của mình. Khiến cho thân thanh tịnh, chẳng có sát sinh, trộm cắp, tà dâm. Khiến cho miệng thanh tịnh thì đừng nói dối, nói thêu dệt, nói hai lưỡi, chưởi mắng. Khiến cho ý thanh tịnh thì đừng có tham sân si. Thân khẩu ý đều trang nghiêm thanh tịnh, thì cõi nước chư Phật mới trang nghiêm thanh tịnh không thể nghĩ bàn.
Dâng hoa quả cúng Ðức Phật, đó là cúng dường có hình tướng. Phải dùng sự cúng dường không hình tướng để cúng dường tất cả các Như Lai. Do đó có câu:
‘’Trên mặt không sân là đồ cúng dường
Trong miệng không sân toả diệu hương
Ý niệm không sân là báu thật.’’
Mặt có dáng cười, tức là đồ vật cúng dường. Trong miệng không nói dối, thêu dệt, hai lưỡi, chửi mắng, tức là toả diệu hương. Trong ý niệm không sân hận, tức là châu báu thật. Chân chánh cúng dường chư Phật, là hoan hỷ chứ chẳng nóng giận.
Chư Phật phóng ra vô lượng vô biên đại quang minh, chiếu khắp độ thoát tất cả chúng sinh, khiến cho chúng sinh tiêu trừ đen tối vô minh, đắc được trí huệ quang minh. Trong tự tánh thường sinh an vui, thì sẽ tiêu diệt ba độc (tham sân si), chẳng còn đen tối mà sẽ phóng ra trí huệ quang minh, chẳng bị cảnh giới làm mê hoặc. Người học Phật phải hướng vào trong mà nghiên cứu, chứ đừng hướng ra ngoài truy cầu. Chạy ra bên ngoài để tìm thì tìm chẳng được. Phải biết tám vạn bốn ngàn pháp môn đều chẳng lìa tự tánh.
Trí tuệ tự tại bất tư nghị, Trí huệ tự tại không nghĩ bàn
Thuyết Pháp ngôn từ vô hữu ngại, Lời lẽ nói pháp chẳng chướng ngại
Thí giới nhẫn tấn cập Thiền định, Thí giới nhẫn tấn và thiền định
Trí tuệ phương tiện thần thông đẳng. Trí huệ phương tiện thần thông thảy.
Giảng: Trí huệ tức là thấu hiểu chân chánh, giác ngộ chân chánh. Chẳng thấu hiểu, chẳng giác ngộ, tức là ngu si. Có trí huệ thì sẽ chuyển được tất cả cảnh giới, mà không bị tất cả cảnh giới làm lay chuyển. Còn ngược lại thì bị tất cả cảnh giới làm lay chuyển, mà chẳng chuyển được cảnh giới, đó tức là ngu si. Chìa khóa là tại chỗ này, dễ như trở bàn tay.
Tự tại là gì ? Tức là chẳng có phiền não. Vì đầy đủ trí huệ chân chánh, đắc được chân chánh an vui. Sự an vui này không thể nghĩ bàn, luôn luôn được tự tại, luôn luôn có trí huệ. Do đó có câu :
‘’Thức tự tự tánh thường sinh trí huệ
Thức tự tự tánh vốn không giao động
Thức tự tự tánh vốn là thanh tịnh
Thức tự tự tánh hay sinh vạn pháp.’’
Ðây là cảnh giới không thể nghĩ bàn. Có nghĩa là :
‘’Không ngờ tự tánh thường sinh trí huệ
Không ngờ tự tánh vốn chẳng giao động
Không ngờ tự tánh vốn là thanh tịnh
Không ngờ tự tánh hay sinh vạn pháp.’’
Ðắc được cảnh giới trí huệ tự tại không thể nghĩ bàn, thì pháp nói ra, lời lẽ phát ra, đều chẳng có chướng ngại. Cho nên nói được đại trí huệ, thì sẽ được tự tại. Ðược đại tự tại, thì được đại biện tài. Ðược đại biện tài, thì nói pháp vô ngại. Nói pháp vô ngại thì giáo hóa được chúng sinh, khiến cho họ phát tâm bồ đề, trên cầu Phật đạo, dưới độ chúng sinh, khiến cho họ tu sáu độ vạn hạnh, sẽ đắc được trí huệ tự tại.
Muốn đắc được ngũ nhãn lục thông, thì phải làm thế nào ? Thứ nhất phải bố thí, thứ hai phải giữ giới, thứ ba phải nhẫn nhục, thứ tư phải tinh tấn, thứ năm phải thiền định, có năm điều kiện này rồi, thì sẽ đắc được cảnh giới ngũ nhãn lục thông.
Như thị nhất thiết giai tự tại, Như vậy tất cả đều tự tại
Dĩ Phật Hoa Nghiêm tam muội lực, Dùng Phật hoa nghiêm sức tam muội.
Ðây là nửa bài kệ. Do đó :
‘’Thí giới nhẫn nhục tinh tấn thiền,
Phương tiện trí huệ các công đức.
Tất cả tự tại khó nghĩ bàn,
Hoa Nghiêm tam muội sức thần thông.’’
Giống như trí huệ lời lẽ vô ngại, các độ thần thông tự tại, đó tức là tam muội hoa nghiêm của Phật. Dùng nhân hoa vạn hạnh để trang nghiêm quả đức vô thượng, vào tam muội hoa nghiêm. Dùng sức tam muội hoa nghiêm của Phật, mà có thể ở trong một hạt bụi chuyển bánh xe pháp, giáo hóa chúng sinh.
Nhất vi trần trung nhập tam muội, Trong một hạt bụi vào tam muội
Thành tựu nhất thiết vi trần định, Thành tựu tất cả hạt bụi định
Nhi bỉ vi trần diệc bất tăng, Mà hạt bụi đó cũng không tăng
Ư nhất phổ hiện nan tư sát. Trong đó khắp hiện nan tư cõi.
Giảng: Phật ở trong một hạt bụi vào chánh định hoa nghiêm, mà thành tựu tất cả hạt bụi tam muội. Nghĩa là trong mỗi hạt bụi, đều vào tam muội hoa nghiêm, mà hạt bụi đó cũng không lớn ra, cũng chẳng tăng thêm, song, trong một hạt bụi khắp hiện ra cõi Phật không thể nghĩ bàn. Cảnh giới này là cảnh giới hoa nghiêm, nhất chân pháp giới, chẳng phải chúng ta phàm phu nghĩ đến được.
Bỉ nhất trần nội chúng đa sát Trong hạt bụi đó, nhiều cõi nước
Hoặc hữu hữu Phật hoặc vô Phật, Có bụi có Phật, hoặc không Phật
Hoặc hữu tạp nhiễm hoặc thanh tịnh Hoặc là tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh
Hoặc hữu quảng đại hoặc hiệp tiểu, Hoặc là rộng lớn, hoặc nhỏ hẹp.
Giảng: Trong một hạt bụi đó, hiện ra vô lượng vô biên các cõi Phật. Trong mỗi cõi nước, hoặc có Phật đang ở đó nói pháp, giáo hóa chúng sinh, hoặc chẳng có Phật ở đó nói pháp, giáo hóa chúng sinh. Hoặc thị hiện thế giới tạp nhiễm (giống như thế giới Ta Bà), hoặc thị hiện thế giới thanh tịnh (giống như thế giới Cực Lạc). Hoặc có thế giới rộng lớn, hoặc có thế giới nhỏ hẹp. Hiển hiện ra đủ thứ cõi nước khác nhau, đó là cảnh giới không thể nghĩ bàn.
Hoặc phục hưũ thành hoặc hữu hoại, Hoặc lại có thành, hoặc có hoại
Hoặc hữu chánh trụ hoặc bàng trụ, Hoặc có chánh trụ, hoặc bàng trụ
Hoặc như khoáng dã nhiệt thời diệm Hoặc như khoáng dã nhiệt thời diệm
Hoặc như Thiên thượng nhân đà võng. Hoặc như lưới Nhân đà trên trời.
Giảng: Hoặc có thế giới đang là kiếp thành, hoặc có thế giới đang là kiếp hoại, hoặc có thế giới chánh pháp đang trụ thế, hoặc có thế giới bàng pháp (bàng pháp tức là thời đại tượng pháp hoặc thời đại mạt pháp) đang trụ thế. Hoặc thị hiện ra thế giới giống như dương diệm khoáng dã (mùa xuân, trông xa đại địa, có một thứ khí nóng như lửa). Hoặc thị hiện ra thế giới giống như lưới Đà la trên trời (trước điện của trời Ðế Thích có một thứ lưới la tràng, dùng châu báu làm thành, lỗ lỗ thông nhau, ánh sáng chiếu nhau, đồ dùng để trang nghiêm). Cảnh giới như thế cũng không thể nghĩ bàn.
Như nhất trần trung sở thị hiện, Như trong một bụi đều hiện ra
Nhất thiết vi trần tất diệc nhiên. Tất cả hạt bụi cũng như thế
Thử Đại danh xưng chư Thánh nhân Đó đại danh xưng các Thánh nhân
Tam muội giải thoát thần thông lực, Tam muội giải thoát sức thần thông.
Giảng: Chẳng những ở trong một hạt bụi, thị hiện đủ thứ thế giới, mà ở trong tất cả hạt bụi cũng thị hiện ra đủ thứ thế giới. Cùng nhau hiện ra mười phương cõi nước chư Phật đều giống như nhau, ở trong các cõi Phật giáo hóa chúng sinh. Chư Phật Bồ Tát đó đều có đại danh xưng, đều đầy đủ sức tam muội giải thoát thần thông.
Nhược dục cúng dường nhất thiết Phật Nếu muốn cúng dường tất cả Phật
Nhập vu tam muội khởi thần biến, Vào trong tam muội hiện thần biến
Năng dĩ nhất thủ biến tam thiên Chỉ dùng một tay khắp tam thiên
Phổ cúng nhất thiết chư Như Lai. Cúng khắp tất cả các Như Lai.
Giảng: Nếu như muốn cúng dường mười phương tất cả chư Phật ba đời, thì trước hết vào trong định, hiển hiện đủ thứ thần thông biến hóa. Bồ Tát đều có sức đại thần thông, có thể dùng một tay đầy khắp ba ngàn đại thiên thế giới, khắp cúng dường mười phương tất cả các Như Lai.
Thập phương sở hữu thắng diệu hoa, Mười phương hết thảy hoa thắng diệu
Đồ hương mạt hương vô giá bảo, Hương đốt hương bột báu vô giá
Như thị giai tùng thủ trung xuất, Như vậy đều từ trong tay ra
Cúng dường đạo thụ chư tối thắng. Cúng dường chư Phật đồ tối thắng.
Giảng: Bồ Tát trong một tay, chảy ra đủ thứ hoa báu thù thắng vi diệu, đến mười phương chư Phật để cúng dường. Hoặc dùng hương đốt và hương bột, cùng với hương báu vô giá đều từ trong tay Thánh nhân đại danh xưng chảy ra, để cúng dường chư Phật dưới bồ đề đạo tràng.
Vô giá bảo y tạp diệu hương, Y báu vô giá tạp diệu hương
Bảo tràng phan cái giai nghiêm hảo, Tràng phan lọng báu đều nghiêm đẹp
Chân kim vi hoa bảo vi trướng, Vàng thật làm hoa, báu làm màn
Mạc bất giai tùng chưởng trung vũ. Thảy đều từ trong tay tuôn ra.
Giảng: Lại dùng y báu vô giá, đủ thứ hương thơm vi diệu để cúng dường chư Phật. Lại dùng đủ thứ tràng báu và đủ thứ phan lọng báu để trang nghiêm đẹp đẽ đạo tràng. Và còn dùng vàng thật làm hoa rất đẹp, lại dùng các báu làm màn, hết thảy tất cả đồ trang nghiêm đều từ trong tay Bồ Tát tuôn ra.
Thập phương sở hữu chư diệu vật, Mười phương hết thảy các vật quý
Ưng khả phụng hiến vô thượng tôn, Đều dâng lên cúng dường vô thượng
Chưởng trung tất vũ vô bất bị, Trong tay tuôn ra đều đầy đủ
Bồ-đề thụ tiền trì cúng Phật. Trước cội bồ đề dâng cúng Phật.
Giảng: Trong mười phương thế giới, hết thảy tất cả diệu báu vô giá, đều dâng lên cúng mười phương các đức Phật. Từ trong tay Bồ Tát tuôn ra các báu giống như mưa, chẳng có thứ gì mà chẳng đủ, đều đến trước đạo tràng cội bồ đề, để dâng lên cúng dường Ðức Phật.
Thập phương nhất thiết chư kĩ nhạc Mười phương tất cả các kỹ nhạc
Chung cổ cầm sắt phi nhất loại, Đồng trống cầm sắt chẳng một loại
Tất tấu hòa nhã diệu âm thanh Đều tấu lên tiếng hay hòa nhã
Mĩ bất tùng ư chưởng trung xuất. Đâu chẳng từ trong tay tuôn ra.
Giảng: Trong mười phương thế giới hết thảy tất cả kỹ nhạc, nào là tiếng đồng, tiếng trống, tiếng đàn cầm, tiếng đàn sắt, chẳng phải dùng mỗi thứ một loại để cúng dường Phật, mà là dùng đủ thứ âm nhạc để cúng dường Phật. Hết thảy nhạc cụ diễn tấu lên tiếng rất hay hòa nhã, rất êm tai, khiến cho người nghe rất hoan hỷ. Hết thảy tiếng hay hòa nhã đều từ trong tay Bồ Tát tuôn ra.
Thập phương sở hữu chư tán tụng Mười phương hết thảy sự khen tụng
Xưng thán Như Lai thật công đức, Ca ngợi công đức của Như Lai
Như thị chủng chủng diệu ngôn từ Như vậy đủ thứ lời lẽ hay
Giai tùng chưởng nội nhi khai diễn. Đều từ trong tay mà diễn tấu.
Giảng: Trong mười phương thế giới, hết thảy tất cả sự khen tụng đều ca ngợi công đức chân thật của Như Lai. Giống như đủ thứ lời lẽ hay đó, đều từ trong bàn tay Bồ Tát tuôn ra, giống như diễn tấu âm nhạc không khác.
Bồ Tát hữu thủ phóng Tịnh Quang Tay phải Bồ Tát phóng tịnh quang
quang trung hương thủy tùng không vũ, Trong quang nước thơm từ không mưa
phổ sái thập phương chư Phật thổ, Khắp nhuần mười phương các cõi Phật
cúng dường nhất thiết chiếu thế đăng. Cúng dường tất cả Chiếu Thế Đăng.
Giảng: Bồ Tát dùng tay phải phóng ra quang minh thanh tịnh, trong quang minh tuôn ra đủ thứ nước thơm, giống như từ hư không mưa xuống, thấm nhuần khắp mười phương các cõi nước chư Phật, để cúng dường tất cả các Như Lai. Chiếu Thế Ðăng tức là Phật.
Hựu phóng quang minh diệu trang nghiêm Lại phóng quang minh diệu trang nghiêm
Xuất sanh vô lượng bảo liên hoa, Sinh ra vô lượng hoa sen báu
Kỳ hoa sắc tướng giai thù diệu, Hoa đó sắc tướng đều thù diệu
Dĩ thử cúng dường ư chư Phật. Dùng để cúng dường các đức Phật.
Giảng: Bồ Tát lại phóng quang minh không thể nghĩ bàn, tốt đẹp trang nghiêm các cõi nước chư Phật. Lại sinh ra vô lượng hoa sen báu đẹp. Nhan sắc và hình tướng của hoa sen đó rất thù thắng đặc biệt, dùng hoa báu đó để cúng dường mười phương chư Phật.
Hựu phóng quang minh hoa trang nghiêm Lại phóng quang minh hoa trang nghiêm
Chủng chủng hương khí tập vi trướng, Đủ thứ hoa đẹp tụ làm màn
Phổ tán thập phương chư quốc độ Khắp rải mười phương các cõi nước
Cúng dường nhất thiết Đại Đức tôn. Cúng dường tất cả Đấng Đại Đức.
Giảng: Bồ Tát lại phóng ra đại quang minh, trong quang minh lại hiện ra đủ thứ hoa đẹp, để trang nghiêm cõi nước chư Phật. Dùng đủ thứ diệu hoa tụ tập thành màn báu. Một màn báu lại sinh ra vô lượng màn báu, khắp rải mười phương các cõi nước, để cúng dường mười phương các Như Lai. Ðấng Ðại Ðức tức là Phật.
Hựu phóng quang minh hương trang nghiêm Lại phóng quang minh hương trang nghiêm
Chủng chủng diệu hương tập vi trướng Đủ thứ hương thơm tụ làm màn
Phổ tán thập phương chư quốc độ Khắp rải mười phương các cõi nước
Cúng dường nhất thiết Đại Đức tôn. Cúng dường tất cả Đấng Đại Đức.
Giảng: Bồ Tát lại phóng ra quang minh, trong quang minh đó, lại hiện ra đủ thứ hương thơm để trang nghiêm các cõi Phật. Dùng đủ thứ hương thơm kết tập làm màn báu, một màn báu sinh ra vô lượng màn báu, khắp rải tất cả mười phương các cõi Phật, để cúng dường mười phương các Như Lai.
Hựu phóng quang minh mạt hương nghiêm, Lại phóng quang hương bột trang nghiêm
Chủng chủng mạt hương tụ vi trướng, Đủ thứ hương bột tụ làm màn
Phổ tán thập phương chư quốc độ, Khắp rải mười phương các cõi nước
Cúng dường nhất thiết Đại Đức tôn. Cúng dường tất cả Đấng Đại Đức.
Giảng: Bồ Tát lại phóng ra một thứ quang minh, trong quang minh lại hiện ra đủ thứ hương bột để trang nghiêm cõi nước chư Phật. Dùng đủ thứ hương bột tụ tập thành màn báu, một màn báu sinh ra vô lượng màn báu, rải khắp mười phương các cõi nước chư Phật, để cúng dường tất cả chư Phật.
Hựu phóng quang minh y trang nghiêm Lại phóng quang minh y trang nghiêm
Chủng chủng danh y tập vi trướng, Đủ thứ y báu tụ làm màn
Phổ tán thập phương chư quốc độ Khắp rải mười phương các cõi nước
Cúng dường nhất thiết Đại Đức tôn. Cúng dường tất cả Đấng Đại Đức.
Giảng: Bồ Tát lại phóng ra một thứ quang minh, trong quang minh lại hiện ra đủ thứ y báu để trang nghiêm cõi nước chư Phật. Dùng đủ thứ y phục tốt đẹp quý báu tụ tập thành màn báu, một màn báu sinh ra vô lượng màn báu, rải khắp mười phương các cõi nước chư Phật, để cúng dường tất cả chư Phật.
Hựu phóng quang minh bảo trang nghiêm Lại phóng quang châu báu trang nghiêm
Chủng chủng diệu bảo tập vi trướng, Đủ thứ báu đẹp tụ thành màn
Phổ tán thập phương chư quốc độ, Khắp rải mười phương các cõi nước
Cúng dường nhất thiết Đại Đức tôn. Cúng dường tất cả Đấng Đại Đức.
Giảng: Bồ Tát lại phóng ra một thứ quang minh, trong quang minh lại hiện ra đủ thứ báu đẹp, để trang nghiêm cõi nước chư Phật. Dùng đủ thứ báu đẹp tụ tập thành màn báu, một màn báu sinh ra vô lượng màn báu, rải khắp mười phương các cõi nước chư Phật, để cúng dường tất cả chư Phật.
Hựu phóng quang minh liên trang nghiêm, Lại phóng quang minh hoa trang nghiêm
Chủng chủng liên hoa tập vi trướng, Đủ thứ hoa sen tụ thành màn
Phổ tán thập phương chư quốc độ Khắp rải mười phương các cõi nước
Cúng dường nhất thiết Đại Đức tôn. Cúng dường tất cả Đấng Đại Đức.
Giảng: Bồ Tát lại phóng ra một thứ quang minh, trong quang minh lại hiện ra đủ thứ hoa sen đẹp, để trang nghiêm cõi nước chư Phật. Dùng đủ thứ hoa sen vi diệu tụ tập thành màn báu, một màn báu sinh ra vô lượng màn báu, rải khắp mười phương các cõi nước chư Phật, để cúng dường tất cả các Như Lai.
Hựu phóng quang minh anh trang nghiêm, Lại phóng quang minh chuỗi trang nghiêm
Chủng chủng diệu anh tập vi trướng, Đủ thứ chuỗi ngọc tụ thành màn
Phổ tán thập phương chư quốc độ, Khắp rải mười phương các cõi nước
Cúng dường nhất thiết Đại Đức tôn. Cúng dường tất cả Đấng Đại Đức.
Giảng: Bồ Tát lại phóng ra một thứ quang minh, trong quang minh lại hiện ra đủ thứ chuỗi báu, để trang nghiêm cõi nước chư Phật. Dùng đủ thứ chuỗi báu tụ tập thành màn báu, một màn báu sinh ra vô lượng màn báu, rải khắp mười phương các cõi nước chư Phật, để cúng dường tất cả các Như Lai.
Hựu phóng quang minh tràng trang nghiêm Lại phóng quang minh tràng trang nghiêm
Kỳ tràng huyến hoán bị chúng sắc, Tràng đó rực rỡ đủ màu sắc
Chủng chủng vô lượng giai thù hảo Đủ thứ vô lượng đều thù đẹp
Dĩ thử trang nghiêm chư Phật thổ. Dùng để trang nghiêm các cõi Phật.
Giảng: Bồ Tát lại phóng ra một thứ quang minh, trong quang minh lại hiện ra đủ thứ tràng báu, để trang nghiêm cõi nước chư Phật. Tràng báu đó sáng rực rỡ, phóng ra ánh sáng đủ thứ màu sắc. Có đủ thứ vô lượng tràng báu thù thắng tốt đẹp, để trang nghiêm các cõi nước chư Phật.
Chủng chủng tạp bảo trang nghiêm cái, Đủ thứ các báu trang nghiêm lọng
Chúng diệu tăng phan cọng thùy sức, Các phan lụa đẹp cùng giăng bủa
Ma-ni bảo đạc diễn Phật âm, Chuông lắc ma ni diễn Phật âm
Chấp trì cúng dường chư Như Lai. Cầm để cúng dường các Như Lai.
Giảng: Dùng đủ thứ bảy báu để trang nghiêm lọng báu, treo ở trên hư không. Lại có rất nhiều phan lọng đẹp bằng lụa, giăng bủa thòng rũ xuống làm nghiêm sức. Dùng báu ma ni làm chuông lắc, vang ra âm thanh vi diệu để diễn nói âm thanh của Phật. Bồ Tát cầm những đồ trang nghiêm đó để cúng dường mười phương ba đời tất cả các Như Lai.
Thủ xuất cung cụ nan tư nghị Tay tuôn đồ cúng khó nghĩ bàn
Như thị cúng dường nhất Đạo sư, Như vậy cúng dường một Đạo Sư
Nhất thiết Phật sở giai như thị, Tất cả chỗ Phật đều như vậy
Đại sĩ tam muội thần thông lực. Đó thần thông tam muội Đại sĩ.
Giảng: Tay của Bồ Tát tuôn ra đủ thứ đồ cúng dường, thật là không thể nghĩ bàn ! Như các thứ đồ cúng dường đã nói ở trên, là cúng dường một đấng Ðạo Sư. Song, trong mười phương thế giới, hết thảy chỗ Phật đều trang nghiêm cúng dường như vậy. Ðó là đại nguyện lực của Bồ Tát Phổ Hiền thành tựu, tu được sức thần thông tam muội, mới có cảnh giới không thể nghĩ bàn như thế.
Bồ-tát trụ tại tam muội trung Bồ Tát trụ ở trong tam muội
Chủng chủng tự tại nhiếp chúng sanh, Đủ thứ tự tại nhiếp chúng sinh
Tất dĩ sở hạnh công đức Pháp, Đều nhờ pháp công đức tu hành
Vô lượng phương tiện nhi khai dụ. Vô lượng phương tiện mà dẫn dắt.
Giảng: Bồ Tát trụ ở trong tam muội Phổ Hiền thì vào định này. Dùng đủ thứ tự tại thần thông lực, để nhiếp thọ tất cả chúng sinh. Hoàn toàn nhờ tu hành đủ thứ công đức diệu pháp của Bồ Tát Phổ Hiền đại nguyện vương và dùng vô lượng phương tiện pháp môn để mở bày dẫn dắt chúng sinh, khiến cho họ phát tâm bồ đề.
Hoặc dĩ cúng dường Như Lai môn Hoặc dùng môn cúng dường Như Lai
Hoặc dĩ nan tư bố thí môn, Hoặc dùng môn nan tư bố thí
Hoặc dĩ Đầu-đà trì giới môn Hoặc dùng môn trì giới đầu đà
Hoặc dĩ ất động kham nhẫn môn. Hoặc dùng môn kham nhẫn bất động.
Giảng: Hoặc khiến cho chúng sinh rộng tu cúng dường, phát tâm cúng dường mười phương chư Phật. Hoặc dùng pháp môn bố thí, vì chúng sinh nói pháp, khiến cho chúng sinh xan tham không xả bỏ, phát tâm từ bi mà bố thí cứu giúp chúng sinh. Hoặc dùng pháp môn đầu đà (khổ hạnh) mười hai giới, để giáo hóa chúng sinh, khiến cho giữ giới tu hành, chẳng hủy phạm giới luật. Hoặc dùng pháp môn kham nhẫn bất động, để vì chúng sinh nói pháp. Gặp chúng sinh thích nóng giận, thì vì họ nói pháp chẳng động lửa vô minh (không nổi nóng), tức là không thể nhẫn cũng phải nhẫn, không thể chịu cũng phải chịu, tức cũng là nghịch đến thuận thọ, đó là pháp bảo vô thượng.
Chúng ta người tu đạo, tức là tu nhẫn những gì người không nhẫn được, chịu những gì người không chịu được, như thế mới tu hành được. Thậm chí có người mắng, có người đánh, đều phải nhẫn chịu. Cũng có thể là chư Phật Bồ Tát đến khảo nghiệm, đặc ý hiện ra cảnh giới đó; đây gọi là ‘’cửa ải trước mặt.’’ Qua được cửa ải này, thì đắc được thọ dụng. Qua chẳng được cửa ải này, thì đương nhiên chẳng đắc được thọ dụng. Bất cứ gặp cảnh giới gì, đều phải kham chịu nhẫn nại, dùng pháp môn này để giáo hóa chúng sinh. Khiến cho chúng sinh chẳng còn lửa vô minh thì sẽ không nổi giận.
Mười hai hạnh đầu đà là :
1). Ở nơi A lan nhã (chỗ vắng vẻ).
2). Thường khất thực.
3). Thứ lớp khất thực.
4). Ăn ngày một bữa (ngọ).
5). Ăn tiết lượng.
6). Sau ngọ không uống nước trái cây, hoặc nước có chất bổ.
7). Mặc y phấn tảo (vải lượm may thành y).
8). Chỉ có ba y.
9). Ở giữa mả cao.
10). Nghỉ dưới cây (ở dưới gốc cây chỉ ba đêm, lại đổi chỗ khác).
11). Ngồi giữa trời.
12). Chỉ ngồi không nằm (đêm ngủ ngồi).
Ðó là mười hai giới tu khổ hạnh.
Hoặc dĩ khổ hạnh tinh tấn môn Hoặc dùng môn khổ hạnh tinh tấn
Hoặc dĩ tịch tĩnh Thiền định môn, Hoặc dùng môn thiền định vắng lặng
Hoặc dĩ quyết liễu trí tuệ môn, Hoặc dùng môn quyết rõ trí huệ
Hoặc dĩ sở hạnh phương tiện môn. Hoặc dùng môn tu hành phương tiện.
Giảng: Chúng ta hiện tại đả thiền thất. Chạy hương là điều phục thân, ngồi hương là điều phục tâm. Ðây là phương pháp tu hành, cũng là cơ sở tu hành. Nếu cơ sở tốt, thì bất cứ lúc nào cũng đều có thể tham thiền đả tọa, chẳng bị không gian và thời gian hạn chế. Ai có thể ngồi mà không ngủ (trừ khi thời gian ngủ), thì tu hành sẽ thành tựu.
Hoặc dùng pháp môn khổ hạnh tinh tấn, để vì chúng sinh nói pháp. Khiến cho người tu khổ hạnh, chẳng màng lưng ê chân đau, chẳng màng ngủ đủ hay không, một lòng một dạ tinh tấn, như vậy sẽ có sự thành tựu. Song, chẳng dễ gì phá xập cửa ải này, cũng chẳng dễ gì vào được cửa này. Tuy chẳng dễ, song, nhất định cũng phải phá xập cửa ải này, phải tiến vào cửa này. Cho nên cần phải tu môn khổ hạnh tinh tấn, chẳng những thân tin tấn, mà tâm cũng phải tinh tấn. Thân tinh tấn tức là siêng tu giới định huệ. Tâm tinh tấn tức là tiêu diệt tham sân si. Tôi thường nói với các vị phương pháp ngồi thiền :
‘’Tất cả là khảo nghiệm
Xem bạn làm thế nào?
Trước mắt mà chẳng biết
Phải luyện lại từ đầu.’’
Hoặc dùng pháp môn thiền định vắng lặng, để vì chúng sinh nói pháp. Vắng lặng là vắng lặng chẳng động. Do đó có câu :
‘’Chân không chẳng ta, người
Đại đạo không hình tướng.’’
Không ta, không người, không chúng sinh, không thọ mạng, bốn tướng, tâm cũng không, pháp cũng không. Tâm không chẳng chấp ta, pháp không chẳng chấp pháp, chẳng có chấp trước gì hết, tức là vắng lặng.
Thiền định là danh từ nửa Trung Hoa, nửa Ấn Ðộ. Thiền là thiền na, là tiếng Phạn. Tam muội dịch là định, định là tiếng Tàu, hợp lại gọi là thiền định. Thiền na tam muội dịch là ‘’tư duy tu.’’ Dùng phương pháp tư duy để tu hành, còn dịch là tĩnh lự, tức là làm cho vọng tưởng tạp niệm thanh tịnh. Lúc đó tư lự chẳng còn nữa, thì tâm thanh ý định. Tâm thanh như nước hiện trăng; ý định như trời không mây; tức là cảnh giới:
‘’Thiên đàm hữu thủy thiên đàm nguyệt
Vạn lý vô vân vạn lý thiên.’’
Nghĩa là :
‘’Ngàn đầm có nước ngàn đầm trăng hiện
Vạn dặm không mây vạn dặm trời xanh.’’
Hoặc dùng pháp môn quyết rõ trí huệ, để vì chúng sinh nói pháp. Quyết rõ tức là chẳng hoài nghi, có tánh quyết định. Bằng không thì chẳng biết rõ ràng, chẳng biết xử lý thế nào mới đúng, liền khởi hồ nghi. Hồ nghi là gì ? Hồ ly có tâm nghi, mùa đông hồ ly qua sông thì đi trên băng, rất cẩn thận chú ý, đi một bước thì ngừng lại nghe thử băng có tiếng gì không. Nếu có tiếng thì biết băng mỏng, dễ rớt xuống sông, bèn đổi đường đi. Người có trí huệ, gặp việc thì có sức phán đoán, quyết định làm sao thì làm như vậy, tuyệt đối chẳng có hai tâm ba ý, càng không thay đổi chủ ý, do đó ‘’quán triệt thủy chung.’’
Hoặc dùng pháp môn phương tiện, để vì chúng sinh nói pháp, tức cũng là pháp môn phương tiện khéo léo. Bồ Tát dùng phương tiện tu hành của mình, để giáo hóa chúng sinh. Tại sao Bồ Tát phải tu hành đủ thứ pháp môn ? Vì muốn độ khắp chúng sinh thoát khỏi biển khổ, cho nên tu đủ thứ pháp môn để độ quần mê.
Ở trên là Bồ Tát dùng sức tam muội Hoa Nghiêm, dùng pháp môn sáu độ để nhiếp thọ chúng sinh, khiến cho chúng sinh lìa khổ được vui, chấm dứt sinh tử.
Hoặc dĩ phạm trụ Thần thông môn Hoặc dùng môn phạm trụ thần thông
Hoặc dĩ tứ nhiếp lợi ích môn, Hoặc dùng môn tứ nhiếp lợi ích
Hoặc dĩ phước trí trang nghiêm môn Hoặc dùng môn phước trí trang nghiêm
Hoặc dĩ nhân duyên giải thoát môn Hoặc dùng môn nhân duyên giải thoát.
Giảng: Hoặc dùng pháp môn phạm trụ thần thông, để vì chúng sinh nói pháp. Phạm là thanh tịnh. Nếu tu hạnh thanh tịnh thì chẳng có pháp nhiễm ô. Chẳng có nhiễm ô thì đắc được thần thông. Thần thông là gì ? Tức là biến hóa vô cùng, tùy theo ý muốn đi độ chúng sinh, khiến cho họ sinh niềm tin.
Hoặc dùng pháp môn bốn pháp nhiếp, để vì chúng sinh nói pháp. Bốn pháp nhiếp tức là :
1). Bố thí.
2). Ái ngữ.
3). Lợi hành.
4). Ðồng sự.
Bồ Tát rất thương xót chúng sinh, chẳng đâu mà không đến. Gặp chúng sinh san tham, thì nói pháp môn bố thí. Bồ Tát đều hòa nhan duyệt sắc đối với chúng sinh, khiến cho chúng sinh đối với Bồ Tát có cảm thọ hòa mục mà gần gũi, do đó chuyên nói lời từ ái, khiến cho chúng sinh có hảo cảm, trong sự bất tri bất giác mà được sự cảm hóa, phát tâm bồ đề. Tông chỉ của Bồ Tát là tất cả vì người chẳng vì mình. Thà mình chịu thiệt thòi, mà để cho chúng sinh chiếm tiện nghi, đắc được lợi ích. Tục ngữ có nói :
‘’Thiệt thòi là chiếm tiện nghi.’’
Câu này rất có ý nghĩa, là lời Kinh nghiệm.
Bồ Tát vì muốn độ chúng sinh mà dùng phưong tiện. Chẳng những Bồ Tát dùng, mà có lúc Phật cũng dùng. Ví như câu chuyện tay không độ em bé, đó là phương tiện. Một ngày nọ, Phật đi khất thực, thấy một em bé bò đến gần miệng giếng. Tình hình rất nguy hiểm, trong lúc thập tử nhất sinh, thì Phật bèn nói với em bé :
– ‘’Này con ! Trong tay ta có kẹo, hãy mau bò qua đây ăn kẹo.’’ Ðứa bé nghe nói có kẹo ăn, thì bò lại, khỏi rớt xuống giếng. Tuy trong tay Phật chẳng có kẹo, song, vì cứu mạng sống của đứa bé, đó tức là pháp môn phương tiện khéo léo.
Bồ Tát muốn độ chúng sinh có duyên, bèn thị hiện cùng thân phận, và cùng làm một công việc. Do đó, Bồ Tát phát nguyện vào trong sáu nẻo chúng sinh, gần gũi chúng sinh, lấy thân làm khuôn phép, làm mô phạm, khiến cho họ phát tâm, bỏ ác hướng thiện.
Hoặc dùng pháp môn phước trí trang nghiêm, để vì chúng sinh nói pháp. Người tu đạo phải phước huệ cùng tu, thì mới viên mãn thành tựu. Do đó:
‘’Tu phước chẳng tu huệ,
Làm voi mang chuỗi ngọc;
Tu huệ chẳng tu phước,
Làm La Hán ôm bát không.’’
Thuở xưa Phật đã từng:
‘’Ba A Tăng Kỳ kiếp tu phước huệ
Trăm kiếp trồng tướng tốt.’’
Cho nên phước cũng đầy đủ, huệ cũng đầy đủ, gọi là đấng Lưỡng Túc Tôn.
Hoặc dùng pháp môn nhân duyên giải thoát, để vì chúng sinh nói pháp. Bồ Tát quán sát nhân duyên của chúng sinh, đáng dùng pháp môn gì độ được, thì dùng pháp môn đó để vì họ nói pháp, khiến cho chúng sinh đắc được giải thoát.
Hoặc dĩ căn lực chánh đạo môn, Hoặc dùng môn căn lực chánh đạo
Hoặc dĩ Thanh văn giải thoát môn, Hoặc dùng môn Thanh Văn giải thoát
Hoặc dĩ độc giác thanh tịnh môn, Hoặc dùng môn Độc Giác thanh tịnh
Hoặc dĩ Đại-Thừa tự tại môn. Hoặc dùng môn đại thừa tự tại.
Giảng: Hoặc dùng năm căn, năm lực, bốn chánh cần, bốn niệm xứ, bốn như ý túc, bảy bồ đề phần, tám chánh đạo, đó là ba bảy phẩm trợ đạo, để vì chúng sinh nói pháp, đó là pháp môn tiểu thừa.
Hoặc dùng pháp môn Thanh Văn giải thoát, để vì chúng sinh nói pháp. Pháp Thanh Văn tức là pháp bốn đế, khổ tập diệt đạo, đó là pháp môn A La Hán đắc được.
Hoặc dùng pháp môn Độc Giác thanh tịnh, để vì chúng sinh nói pháp, tức là pháp mười hai nhân duyên. Pháp này là có lưu chuyển và hoàn diệt hai cửa. Người tu đạo phải quán sát môn hoàn diệt, tu hành thành công thì chấm dứt sinh tử. Ðó là pháp môn thanh tịnh Bích Chi Phật đắc được.
Hoặc dùng pháp môn đại thừa tự tại, để vì chúng sinh nói pháp, tức là pháp sáu độ, cũng là pháp Bồ Tát, Bồ Tát là tự giác giác tha, tự độ độ tha, tự lợi lợi tha. Ðó là pháp môn Bồ Tát đắc được.
Hoặc dĩ vô thường chúng khổ môn Hoặc dùng môn vô thường các khổ
Hoặc dĩ vô ngã thọ giả môn, Hoặc dùng môn không ta thọ mạng
Hoặc dĩ ất tịnh ly dục môn, Hoặc dùng môn bất tịnh ly dục
Hoặc dĩ diệt tận tam muội môn. Hoặc dùng môn diệt tận tam muội.
Giảng: Hoặc dùng môn vô thường các khổ, để vì chúng sinh nói pháp, thế giới tất cả đều là vô thường, thay đổi không ngừng, chẳng tồn tại vĩnh viễn, vì vậy nên nói là khổ (khổ khổ, hoại khổ, hành khổ), lại có tám thứ khổ (sinh, già, bệnh, chết, thương xa lìa, ghét gặp nhau, cầu chẳng được, năm ấm), và còn có vô lượng vô biên thứ khổ.
Hoặc dùng pháp môn không ta thọ mạng, để vì chúng sinh nói pháp, không ta tức là chẳng tồn tại cái ta. Ðừng vì cái túi da hôi thối này, mà bôn ba lăng xăng, đừng vì nó mà bận rộn. Ðến lúc nó chẳng giúp cho bạn, ngược lại phủi tay áo mà đi. Thọ mạng tức là có thân ta tồn tại, thương mến nó, bảo vệ nó, khiến cho nó sống lâu. Trong Kinh Kim Cang có nói : ‘’Không tướng ta, không tướng người, không tướng chúng sinh, không tướng thọ mạng.’’ Dùng bốn pháp môn đó để giáo hóa chúng sinh.
Hoặc dùng pháp môn bất tịnh lìa dục, để vì chúng sinh nói pháp. Nói với chúng sinh đừng có dục niệm bất tịnh, nên khử dục đoạn ái, thì mới chấm dứt sinh tử, thoát khỏi ba cõi. Chúng ta người tu đạo, thường tu quán bất tịnh, quán tưởng chín lỗ thường chảy ra đồ bất tịnh, dụng pháp môn này để giáo hóa chúng sinh.
Hoặc dùng pháp môn diệt tận tam muội, để vì chúng sinh nói pháp, diệt tận tức là tiêu diệt sạch tất cả vọng tưởng. Ba độc, tập khí đều tiêu diệt sạch. Ðắc được diệt tận định rồi, thì sẽ thoát khỏi tam giới hai mươi lăm cõi (Dục giới có mười bốn, Sắc giới có bảy, Vô Sắc giới có bốn), dùng pháp môn này để giáo hóa chúng sinh.
Bồ Tát dùng hai mươi pháp môn vừa nói ở trên, để giáo hóa chúng sinh, mỗi một môn đều là pháp môn không hai.
Tùy chư chúng sanh bệnh bất đồng Tùy các chúng sinh bệnh khác nhau
Tất dĩ pháp dược nhi đối trì Đều dùng thuốc pháp để đối trị
Tùy chư chúng sanh tâm sở lạc Tùy tâm ưa thích của chúng sinh
Tất dĩ phương tiện nhi mãn túc Đều dùng phương tiện làm mãn nguyện.
Giảng: Vì chúng sinh có tám vạn bốn ngàn mao bệnh, cho nên Phật nói tám vạn bốn ngàn pháp môn để đối trị. Tùy theo bệnh khác nhau của chúng sinh, mà Phật dùng thuốc pháp theo bệnh cho thuốc, khi thuốc đến thì bệnh lành. Và tùy theo tâm ưa thích của tất cả chúng sinh, hoàn toàn dùng phương tiện pháp môn, để làm mãn nguyện sự nguyện vọng của họ, không khiến cho chúng sinh thất vọng.
Tùy chư chúng sanh hạnh sái biệt, Tùy các chúng sinh hạnh khác nhau
Tất dĩ thiện xảo nhi thành tựu. Đều dùng khéo léo mà thành tựu
Như thị tam muội thần thông tướng, Như vậy tam muội thần thông tướng
Nhất thiết Thiên Nhân mạc năng trắc. Tất cả trời người không dò được.
Giảng: Trong mười đại nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền, có một nguyện ‘’Luôn thuận chúng sinh,’’ tức cũng là tùy thuận tâm nguyện của tất cả chúng sinh, mà khiến cho họ được mãn nguyện. Bất cứ loại hạnh nghiệp nào, các Ðức Phật Bồ Tát đều dùng phương tiện khéo léo, để thành tựu hành vi của tất cả chúng sinh. Như tam muội và thần thông đã nói ở trên, các trời người đều không thể dò lường, mà thấu rõ cảnh giới như thế được.
Hữu diệu tam muội danh tùy lạc Có diệu tam muội tên Tùy lạc
Bồ-tát trụ thử phổ quan sát, Bồ Tát trụ vào khắp quán sát
Tùy nghi thị hiện độ chúng sanh Tùy cơ thị hiện độ chúng sinh
Tất sử hoan tâm tùng pháp hóa. Đều khiến hoan hỷ từ pháp hóa.
Giảng: Lại có một thứ tam muội tên là tam muội Tùy Lạc, tức là tùy thuận ưa thích của chúng sinh, mà đắc được diệu định. Bồ Tát hành Bồ Tát đạo, trụ ở trong tam muội tùy lạc, khắp quán sát tâm chúng sinh ưa thích, để tùy căn cơ mà giáo hóa chúng sinh. Ðáng dùng nhân duyên gì độ được, thì Bồ Tát dùng pháp đó để giáo hóa. Hoặc đáng hiện thân gì độ được, thì Bồ Tát thị hiện thân đó để độ. Hoàn toàn khiến cho chúng sinh sanh tâm hoan hỷ, y pháp tu hành, đắc được pháp hóa của Phật.
Kiếp trung cơ cận tai nan thời Trong kiếp đói khát tỵ nạn thời
Tất dữ thế gian chư lạc cụ, Đều hiện thế gian các đồ vui
Tùy kỳ sở dục giai lệnh mãn, Tùy theo ý muốn đều khiến đủ
Phổ vi chúng sanh tác nhiêu ích. Khắp vì chúng sinh làm lợi ích.
Giảng: Trong kiếp hoặc có ba nạn nhỏ : Ðói khát, ôn dịch, đao binh. Hoặc có ba nạn lớn : Lửa, nước, gió. Lúc có tất cả tai nạn, thì Bồ Tát bèn hiển đại thần thông, hiện ra thế gian tất cả những đồ vui, tùy theo ý muốn của chúng sinh, đều khiến cho đầy đủ. Khắp vì chúng sinh làm lợi ích, khiến cho họ được an lạc.
Hoặc dĩ ẩm thực thượng hảo vị, Hoặc dùng ăn uống ngon bậc nhất
Bảo y nghiêm cụ chúng diệu vật, Y báu nghiêm sức các vật quý
Bãi chí Vương vị giai năng xả, Cho đến ngôi vua đều thí xả
Lệnh hảo thí giả tất tùng hóa. Khiến người ưa thí theo chánh pháp.
Giảng: Vì chúng sinh thích ăn vật ngon, ở nhà đẹp, mặc đồ mới, cho nên Bồ Tát hiểu rõ tâm lý của chúng sinh, hoặc dùng thức ăn uống ngon bậc nhất, hoặc dùng y báu tốt đẹp quý giá nhất, hoặc dùng các vật chất đáng giá nhất, cho đến ngôi vua đều thí cho người, tuyệt đối chẳng xan tham. Như vậy khiến cho người ưa bố thí hướng về Bồ Tát mà học theo, để tu pháp môn bố thí. Bố thí có vô lượng công đức, nhưng phải ba luân thể không. Chẳng chấp trước vật bố thí và người bố thí, chẳng chấp trước người thọ nhận. Ai ai cũng bố thí, ai ai cũng không xan tham, thì gia đình sẽ hạnh phúc, xã hội sẽ an ninh.
Bây giờ nói về chuyện xả bỏ ngôi vua : Thời xưa ở Trung Quốc, có hai vị hiền nhân, tức là Bá Di và Thúc Tề là hai anh em, hai người họ rất là khiêm nhường, chẳng tranh với đời. Cha của hai vị đó là Cô Trúc Quân, đem ngôi vua truyền cho con thứ là Thúc Tề, song, Thúc Tề lại nhường cho người anh nói :
– ‘’Phải truyền ngôi vua cho trưởng tử, đó là việc thiên kinh địa nghĩa, cũng là lý danh chánh ngôn thuận. Tôi là con thứ, sao lại nhận ngôi vua ư‘’?
– Bá Di nói : ‘’Em có tài năng trị nước, có thể lo cho nhân dân hạnh phúc. Tôi rất ngu si không khéo về quản lý nước nhà. Em thừa kế ngôi vua là thích đáng nhất.’’
Hai anh em nhường qua đẩy lại, đều chẳng muốn kế thừa ngôi vua. Kết quả anh em hai người bỏ đi trốn, núp ẩn trong núi làm ẩn sĩ, chẳng màng triều chánh. Về sau, Chu Võ Vương điếu dân phạt tội, đánh vua trụ nhà Ân. Anh em hai người đến trước Chu Võ Vương can rằng : ‘’Ông là tôi thần, không thể phạt vua.’’ Chu Võ Vương vì giải cứu nhân dân trong cảnh khổ dầu sôi lửa bỏng, chẳng nghe lời khuyên can của Bá Di và Thúc Tề, bèn tiêu diệt bạo quân vô đạo vua Trụ, đổi làm nhà Chu. Bá Di, Thúc Tề thề rằng chẳng ăn ngũ cốc nhà Chu, vẫn ở núi Thủ Dương ăn rau cỏ. Chu Võ Vương thỉnh mời hai người về trợ giúp trị lý quốc gia, ba lần thỉnh mời không được. Chu Võ Vương sai người lên núi Thủ Dương phá hết sạch rau cỏ, để uy hiếp họ chẳng còn thức ăn, thì nhất định sẽ xuống núi. Không ngờ anh em hai người chết đói ở núi Thủ Dương. Do đó có câu :
‘’Ðói chết là việc nhỏ
Thất tiết là việc lớn.’’
Mạnh Tử nói :
‘’Giàu sang mà không dâm
Nghèo hèn mà không đổi
Uy vũ mà không khuất
Đó mới là đại trượng phu.’’
Tức là nói, giàu sang phú quý mà không làm cho người mình tâm ý phóng đãng, nghèo hèn bần cùng mà không khiến cho người mình thay đổi tiết tháo. Sức oai vũ mà không khiến cho người chí khí khuất phục. Nếu có sự biểu hiện như thế, tức là khí khái của đại trượng phu. Bá Di và Thúc Tề có tiết tháo như thế, cho nên hiền danh lưu lại vạn cổ.
Hoặc dĩ tướng hảo trang nghiêm thân, Hoặc dùng tướng tốt trang nghiêm thân
Thượng diệu y phục bảo anh lạc, Y phục đẹp nhất chuỗi ngọc báu
Hoa man vi sức hương đồ thể, Tràng hoa nghiêm sức hương thoa thân
Uy nghi cụ túc độ chúng sanh. Đầy đủ oai nghi độ chúng sinh.
Giảng: Hoặc dùng thân tướng tốt trang nghiêm, mặc y phục đẹp nhất, mang chuỗi báu quý giá nhất, đầu tóc thơm thù thắng nhất, dùng nước thơm trầm hương bột thoa thân, dùng đủ thứ để trang nghiêm thân. Tại sao ? Vì oai nghi đầy đủ, thì mới có thể độ hóa chúng sinh, khiến cho chúng sinh có cảm tình, tin pháp nói ra là chân thật. Nếu tướng mạo chẳng đàng hoàng, chẳng trang nghiêm, thì chẳng có ai muốn đến gần, nói pháp chẳng ai đến nghe.
Nhất thiết thế gian sở hảo thượng Tất cả thế gian ưa thích nhất
Sắc tướng nhan dung cập y phục, Sắc tướng dung nhan và y phục
Tùy ưng phổ hiện khiếp kỳ tâm, Tùy ứng phổ hiện khiến mãn nguyện
Tỉ lạc sắc giả giai tùng đạo. Khiến kẻ ưa sắc đều theo đạo.
Giảng: Tất cả chúng sinh thế gian hoan hỷ ưa thích, đó là sắc tướng viên mãn, dung nhan mỹ lệ, quần áo đẹp đẽ. Do đó, Bồ Tát tùy thuận tâm chúng sinh mà khắp hiện tất cả vật, khiến cho chúng sinh hoan hỷ. Cũng khiến cho chúng sinh ưa thích sắc tướng phát tâm bồ đề, tu vô thượng đạo, sớm chứng quả Phật. Bốn bài kệ ở trên là dùng bố thí để nhiếp thọ chúng sinh.
Ca-lăng-tần-già mỹ diệu âm, Tiếng mỹ diệu Ca lăng tần già
Câu chỉ La đẳng diệu âm thanh, Các tiếng hòa hợp hay vi diệu
Chủng chủng Phạm Âm giai cụ túc, Đủ thứ phạm âm đều đầy đủ
Tùy kỳ tâm lạc vi thuyết Pháp. Tùy tâm ưa thích mà nói pháp.
Giảng: Ca lăng tần già dịch là “chim tiên”. Tiếng của nó rất thanh nhã hay vô cùng, người nghe tiếng đó, bèn sinh tâm niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Nó cũng gọi là chim cực lạc, hoặc chim tiếng hay.
Trong Kinh A Di Ðà có nói : ‘’Nước đó thường có đủ thứ chim kỳ diệu đủ màu, nào là chim bạch hạc, khổng tước, anh vũ, xá lợi, ca lăng tần già, cộng mệnh. Các chim đó, ngày đêm sáu thời, hót tiếng hòa nhã.’’
Các tiếng hòa hợp hay vi diệu, nghe rất êm tai. Còn có đủ thứ tiếng phạm âm thanh tịnh, đều đầy đủ viên mãn. Mười phương các Ðức Phật Bồ Tát, tùy thuận tâm ưa thích của chúng sinh, mà vì chúng sinh nói pháp, khiến cho chúng sinh nghe được âm thanh hay, thì sẽ phát tâm bồ đề.
Bát vạn tứ thiên chư Pháp môn Tám vạn bốn ngàn các pháp môn
Chư Phật dĩ thử độ chúng sanh, Chư Phật dùng đây độ chúng sinh
Bỉ diệc như kỳ sái biệt Pháp, Bồ Tát cũng dùng pháp khác biệt
Tùy thế sở nghi nhi hóa độ. Tùy thuận thế gian mà hóa độ.
Giảng: Phật pháp có tám vạn bốn ngàn pháp môn, môn nào cũng đều là đệ nhất, chứ chẳng phải là đệ nhị. Pháp môn nào hợp với chúng sinh thì là đệ nhất. Vì chúng sinh vô lượng, cho nên Phật nói pháp môn cũng vô lượng. Mười phương chư Phật dùng tám vạn bốn ngàn pháp môn, để độ chúng sinh, tùy thuận căn tánh của chúng sinh mà nói pháp khác nhau. Tùy thuận pháp thế gian, mà dùng phương pháp tốt nhất để giáo hóa chúng sinh, khiến cho họ phát tâm bồ đề, thành tựu Phật quả. Tóm lại, đáng dùng pháp gì độ được, thì nói pháp đó để độ, đây tức là pháp môn phương tiện. Ở trên là dùng ái ngữ (lời dịu dàng) để nhiếp thọ chúng sinh.
Chúng sanh khổ lạc lợi suy đẳng Chúng sinh khổ vui lợi suy thảy
Nhất thiết thế gian sở tác pháp, Tất cả các pháp thế gian làm
Tất năng ưng hiện đồng kỳ sự Thảy đều ứng hiện những đồng sự
Dĩ thử phổ độ chư chúng sanh. Dùng đây phổ độ các chúng sinh.
Giảng: Chúng sinh có cảm thọ khổ, vui, lợi, suy .v.v… đây là thuộc về tám gió. Tám gió tức là: Khen, chê, lợi, suy, được, mất, khổ, vui. Khen, lợi, được, vui là cảnh thuận. Chê, suy, mất, khổ, là cảnh nghịch, nếu trong cảnh nghịch mà chẳng động tâm, thì có thể chứng minh có công phu định lực.
1). Khen : Tức là khen ngợi. Dùng lời lẽ hoặc văn tự để tán thán khen ngợi, khiến cho người nghe sinh tâm hoan hỷ.
2). Chê : Tức là chỉ trích. Dùng lời lẽ nóng lạnh để phê bình chỉ trích, khiến cho người nghe chẳng vui.
3). Lợi : Tức là lợi ích, đắc được lợi lộc.
4). Suy : Tức là suy bại.
5). Ðược : Ðắc được tài vật, danh thơm tiếng tốt.
6). Mất : Mất mát những gì mình đã có.
7). Khổ : Là thống khổ, thân tâm bị thống khổ.
8). Vui : Tức là vui vẻ. Thân tâm cảm thọ sung sướng vui mừng.
Thế gian là như thế. Người xấu thì cũng có người khen ngợi họ. Người tốt thì cũng có người hủy báng họ. Có người khen thì vui mừng, đó là bị gió khen thổi động. Có người hủy báng thì chẳng vui, đó là bị gió hủy báng thổi động. Tám gió này thổi con người lay động phải sụp đổ. Tô Ðông Pha nói : ‘’Tám gió thổi không lay.’’ Chúng ta người tu đạo, tức là tu tâm chẳng lay động. Nếu tám gió thổi không lay, thì có biện pháp. Lúc đó, vàng ở trước mặt cũng chẳng biến đổi khí tiết; sắc đẹp ở trước mặt cũng chẳng động tâm, đó là tám gió thổi không lay.
Vào đời Tống, cư sĩ Tô Ðông Pha có nghiên cứu nhiều về Phật pháp. Ông ta chẳng phải là ‘’khẩu đầu thiền’’ văn tự Bát Nhã, mà là rất dụng công tham thiền. Một ngày nọ, đang lúc ngồi thiền thì thấy được cảnh giới, cảm thấy mình hiện ra pháp thân, đến mười phương thế giới lễ lạy chư Phật. Lại thấy chư Phật thân phóng đại quang minh, chiếu khắp ba ngàn đại thiên thế giới. Lại thấy chư Phật ngồi trên tòa hoa sen báu màu tía, mà mình cũng ngồi ở trên tòa hoa sen. Ông ta cảm thấy mình tám gió cũng thổi chẳng động, do đó làm bài kệ :
‘’Khể thủ Thiên Trung Thiên
Hào quang chiếu đại thiên.
Bát phong suy bất động
Đoan tọa tử liên hoa.’’
Cho rằng đây chắc là kệ khai ngộ, bèn sai kẻ hầu cận mang đến Trấn Giang Kim Sơn Tự, thỉnh Thiền sư Phật Ấn ấn chứng. Không ngờ Thiền sư Phật Ấn phê bốn chữ trên bài kệ rằng :
– ‘’Ðánh dấm, đánh dấm.’’ Ðem nguyên bài kệ đưa lại người mang về, chứ chẳng nói câu gì hết.
Tô Ðông Pha xem xong thì lửa vô minh nổi lên cao đến ba trượng, ông ta nổi giận nói :
– ‘’Ðâu có lý này ! Ðây là kệ khai ngộ, mà lại nói là đánh dấm.’’ Do đó, bèn qua sông tìm đến Thiền sư Phật Ấn.
Ðến trước cửa chùa Kim Sơn, thì Thiền sư Phật Ấn đang ở đó cười, cười lớn nói :
– ‘’Tô học sĩ ! Tám gió thổi không lay, mà bị hai chữ ”Đánh dấm” thổi bay qua sông. Xin hỏi, đây là khai ngộ gì‘’? Tô Ðông Pha cảm thấy đây thật có lý, bụng đầy lửa tức tối, chẳng tiêu mà diệt, thừa nhận mình chưa tu đến hỏa hầu. Câu chuyện này nói về tri hành (biết và làm) chẳng hợp nhất, chẳng có ích gì.
Hết thảy tất cả thế gian là pháp hữu vi, chư Phật Bồ Tát đều ứng hiện được, để cùng thọ khổ vui, được mất, khen chê, lợi suy .v.v… với chúng sinh. Dùng đủ thứ phương pháp đồng sự để khắp giáo hóa tất cả chúng sinh.
Nhất thiết thế gian chúng khổ hoạn Tất cả thế gian các khổ hoại
Thâm quảng vô nhai như đại hải, Sâu rộng không bờ như biển cả
Dữ bỉ đồng sự tất năng nhẫn Đồng sự với họ đều nhẫn được
Lệnh kỳ lợi ích đắc an lạc. Khiến họ lợi ích được an lạc.
Giảng: Tất cả thế gian có các khổ não hoạn nạn, chẳng có bờ bến. Như biển cả sâu rộng không thể dò, không thể lường được. Bồ Tát thị hiện thọ khổ với chúng sinh, bất cứ khổ như thế nào, đều nhẫn chịu được hết, khiến cho chúng sinh ở trong khổ hoạn chẳng cảm thấy khổ, mà đắc được an lạc, thoát khỏi tất cả khổ hoạn, mà đắc được bình an khoái lạc vĩnh viễn. Ở trên là nói về đạo lý đồng sự.
Nhược hữu bất thức xuất ly Pháp, Nếu họ không biết pháp thoát ra
Bất cầu giải thoát ly huyên hội, Không cầu giải thoát lìa quên loạn
Bồ Tát vi hiện xả quốc tài, Bồ Tát vì hiện bỏ quốc tài
Thường lạc xuất gia tâm tịch tĩnh. Thường ưa xuất gia tâm vắng lặng.
Giảng: Nếu như chúng sinh, chẳng nhận thức phương pháp thoát khỏi biển khổ, cũng chẳng muốn tìm cầu pháp môn giải thoát, thì cũng không lìa khỏi sự hay quên và hôn loạn. Bồ Tát vì họ mà thị hiện xả bỏ tất cả tài vật châu báu. Giống như Phật Thích Ca Mâu Ni, Ngài vốn là thái tử, tương lai kế thừa ngôi vua, lại có thể làm Chuyển Luân Thánh Vương, bảy báu thường theo mình. Song, Ngài cam nguyện xả bỏ ngôi vua mà xuất gia tu đạo, nội tâm vắng lặng, chẳng bị cảnh bên ngoài làm lay dộng.
Gia thị tham ái hệ phược sở, Nhà là nơi tham ái trói buộc
Dục sử chúng sanh tất miễn ly, Dục khiến chúng sinh chẳng lìa được
Cố thị xuất gia đắc giải thoát, Nên bày xuất gia được giải thoát
Ư chư dục lạc vô sở thọ. Nơi các dục lạc chẳng chỗ thọ.
Giảng: Nhà là nơi chúng sinh tham ái, cũng là nơi bị trói buộc, khiến cho chúng sinh chẳng được tự tại giải thoát. Bồ Tát vì khiến cho chúng sinh lìa khỏi sự trói buộc, được tự tại mà độ chúng sinh xuất gia tu đạo. Bồ Tát thị hiện tám tướng thành đạo, đắc được chân chánh giải thoát. Ðối với cảnh giới lấy khổ làm vui, Bồ Tát chẳng tham luyến.
Bồ Tát thị hạnh thập chủng hạnh Bồ Tát bày mười thứ hạnh tu
Diệc hạnh nhất thiết Đại nhân pháp Cũng tu tất cả pháp đại nhân
Chư tiên hàng đẳng tất vô dư Các tiên tu thảy đều không thừa
Vi dục lợi ích chúng sanh cố. Vì muốn lợi ích các chúng sinh.
Giảng: Bồ Tát thị hiện tu hành, phải tu mười thứ hạnh thanh tịnh, cũng phải tu năm thứ pháp đại nhân. Tất cả đạo của các tiên tu hành đều viên mãn. Tại sao ? Vì muốn lợi ích cho tất cả chúng sinh.
Mười thứ thanh tịnh lợi hành, phân ra có nương ngoài thanh tịnh và nương trong thanh tịnh. Nương ngoài thanh tịnh có năm :
1). Không tội lợi hành.
2). Không chuyển lợi hành.
3). Thứ lớp lợi hành.
4). Khắp hành lợi hành.
5). Như ứng lợi hành.
Nương trong thanh tịnh có năm :
1). Tất cả Bồ Tát đối với tất cả chúng sinh khởi tâm từ bi rộng lớn, ý lạc hiện tiền mà hành lợi hành.
2). Tất cả Bồ Tát, đối với tất cả chúng sinh, làm nghĩa lợi, chỉ thọ tất cả đại khổ não, nhưng tâm chẳng nhàm mỏi, ngược lại sinh tâm hoan hỷ sâu xa, mà hành lợi hành.
3). An nơi tối thắng bậc đệ nhất tài, mà tự khiêm nhường, như con như tôi tớ, lìa kiêu ngạo, mà hành lợi hành.
4). Tâm Bồ Tát chẳng nhiễm ái, chẳng hư ngụy, là chân thật, là từ mẫn mà hành lợi hành.
5). Khởi tâm từ tất kính chẳng thối chuyển mà hành lợi hành.
Năm thứ pháp đại nhân :
1). Nơi nghĩa chân thật, khuyên dẫn chúng sinh.
2). Lúc đúng thời, khuyên dẫn chúng sinh.
3). Nơi năng hành nhiếp thắng diệu nghĩa, khuyên dẫn chúng sinh.
4). Nhu nhuyến khuyên dẫn hữu tình.
5). Từ tâm khuyên dẫn hữu tình.
Nhược hữu chúng sanh thọ vô lượng, Nếu có chúng sinh thọ vô lượng
Phiền não vi tế lạc cụ túc, Phiền não vi tế vui đầy đủ
Bồ Tát ư trung đắc tự tại, Bồ Tát trong đó tự tại nhất
Thị thọ lão bệnh tử chúng hoạn. Bày thọ già bệnh chết các hoạn.
Giảng: Nếu như có chúng sinh sống rất lâu dài. Tại sao sống lâu dài ? Vì ít phiền não nên thường sinh an vui, đó là bí quyết sống lâu, do đó có câu :
‘’Từ xưa thần tiên chẳng pháp nào khác
Rộng sinh hoan hỷ chẳng sầu muộn.’’
Bồ Tát đối với bốn tướng mà đắc được tự tại, nhậm vận mà tu. Bồ Tát thị hiện già khổ, bệnh khổ, chết khổ đủ thứ hoạn nạn, khiến cho chúng sinh sống lâu đừng sinh tâm tự mãn, phải biết vẫn còn sinh tử, do đó mà phát tâm bồ đề, cầu đạo vô thượng.
Hoặc hữu tham dục sân khuể si, Hoặc có tham dục sân hận si
Phiền não mãnh hỏa thường sí nhiên, Phiền não lửa dữ thường thiêu đốt
Bồ Tát vi hiện lão bệnh tử, Bồ Tát vì hiện già bệnh chết
Lệnh bỉ chúng sanh tất điều phục. Khiến chúng sinh đó đều điều phục.
Giảng: Hoặc có chúng sinh vì tâm tham dục quá nặng, tâm sân hận cũng nhiều, cho nên ngu si. Loại chúng sinh đó, phiền não rất nhiều, lợi hại như lửa dữ, luôn luôn thiêu đốt thân họ. Bồ Tát vì chúng sinh mà thị hiện già, bệnh, chết, các thứ khổ, để cảnh tỉnh, khiến cho chúng sinh khó điều, khó phục, xả lìa tâm tham sân si ba độc. Khiến cho họ diệt trừ tám trói buộc : Không hổ, không thẹn, hôn trầm, trạo cử, làm ác, đố kỵ, thùy miên, xan tham, khiến cho tâm thanh tịnh, chẳng có tạp niệm.
Như Lai thập lực vô sở úy, Phật có mười lực vô sở úy
Cập dĩ thập bát bất cộng pháp, Và có mười tám pháp bất cộng
Sở hữu vô lượng chư công đức, Hết thảy vô lượng các công đức
Tất dĩ thị hiện độ chúng sanh. Đều dùng thị hiện độ chúng sinh.
Giảng: Phật có mười lực, cho nên có bốn vô sở uý (bốn điều không sợ hãi) và mười tám pháp bất cộng. Hết thảy tất cả vô lượng công đức, dùng mười lực, bốn vô sở uý, mười tám pháp bất cộng, làm trợ duyên để thị hiện độ chúng sinh.
Mười lực là :
1). Trí lực biết xứ phi xứ.
2). Trí lực biết nghiệp báo ba đời.
3). Trí lực biết thiền giải thoát tam muội.
4). Trí lực biết các căn thắng liệt.
5). Trí lực biết đủ thứ giải.
6). Trí lực biết đủ thứ giới.
7). Trí lực biết tất cả chí xứ đạo.
8). Trí lực biết thiên nhãn vô ngại.
9). Trí lực biết túc mạng vô lậu.
10). Trí lực biết vĩnh đoạn tập khí.
Bốn vô sở úy là :
1). Nhất thiết trí vô sở úy.
2). Lậu sạch vô sở uý.
3). Nói chướng đạo vô sở úy.
4). Nói đạo hết khổ vô sở uý, tức cũng là hóa tâm của họ chẳng khiếp sợ, cho nên là vô sở uý.
Mười tám pháp bất cộng, tức là chẳng cùng với Bồ Tát và nhị thừa, vì các Ngài chưa đạt đến cảnh giới này. Phật đầy đủ phước huệ, đạt đến cảnh giới chí chân, chí thiện, chí mỹ.
Mười tám pháp bất cộng là :
1). Thân không lỗi.
2). Miệng không lỗi.
3). Ý không lỗi.
4). Không tưởng gì khác.
5). Tâm đều ở trong định.
6). Ðều biết mình xả.
7). Dục không diệt.
8). Tinh tấn không diệt.
9). Niệm không diệt.
10). Huệ không diệt.
11). Giải thoát không diệt.
12). Giải thoát tri kiến không diệt.
13). Tất cả thân nghiệp làm theo trí huệ.
14). Tất cả khẩu nghiệp làm theo trí huệ.
15). Tất cả ý nghiệp làm theo trí huệ.
16). Trí huệ biết đời quá khứ không chướng ngại.
17). Trí huệ biết đời vị lai không ngại.
18). Trí huệ biết đời hiện tại không ngại.
Nay nói ra danh từ mười lực, bốn bốn vô sở úy, mười tám pháp bất cộng. Nếu muốn nghiên cứu tỉ mỉ, thì hãy nghiên cứu trong Phật học tự điển.
Kí tâm giáo giới cập thần túc, Ký tâm giáo giới và thần túc
Tất thị Như Lai tự tại dụng, Đó là Như Lai tự tại dụng
Bỉ chư đại sĩ giai thị hiện, Các Đại Sĩ đó đều thị hiên
Năng sử chúng sanh tận điều phục. Hay khiến chúng sinh điều phục hết.
Giảng: Phật thọ ký cho chúng sinh, nói trước vào lúc nào sẽ thành Phật. Phàm là chúng sinh có tâm, đều có thể thành Phật. Phật dùng đủ thứ giáo giới để giáo hóa chúng sinh, khiến cho chúng sinh đừng làm các điều ác, làm các điều lành. Hoặc dùng thần túc thông để giáo hóa chúng sinh. Tóm lại, Phật từ bi thương xót để giảng nói đạo lý, khiến cho chúng sinh y theo pháp tu hành. Các đại Bồ Tát cũng đều thị hiện pháp môn đó, để giáo hóa chúng sinh, vì khiến cho chúng sinh cang cường đều được điều phục.
Bồ Tát chủng chủng phương tiện môn, Bồ Tát đủ thứ môn phương tiện
Tùy thuận thế Pháp độ chúng sanh, Tùy thuận pháp đời độ chúng sinh
Thí như liên hoa bất trước thủy, Ví như hoa sen chẳng dính nước
Như thị tại thế lệnh thâm tín. Như vậy nơi đời khiến tin sâu.
Giảng: Bồ Tát dùng đủ thứ pháp môn phương tiện, tùy thuận pháp thế gian để độ thoát tất cả chúng sinh. Lục Tổ Huệ Năng có nói :
‘’Phật pháp tại thế gian
Chẳng lìa thế gian giác
Lìa đời cầu bồ đề
Ví như tìm sừng thỏ’’.
Tức cũng là đạo lý này. Chư Phật Bồ Tát giáo hóa chúng sinh, giống như hoa sen, tuy sống ở trong bùn, mà chẳng nhiễm bùn, rất thanh tịnh chẳng nhiễm ô. Ðạo lý như đã nói ở trước, khiến cho chúng sinh thế gian, tin sâu Phật pháp, chẳng khởi hoài nghi, mà hay tu hành thì sẽ thành Phật. Tám bài kệ ở trên là nói về đạo lý lợi hành.
Nhã tư uyên tài văn trung Vương Là vua thi nhân bậc văn tài
Ca vũ đàm thuyết chúng sở hân, Ca múa luận bàn mọi người thích
Nhất thiết thế gian chúng kĩ thuật, Tất cả kỹ thuật của thế gian
Thí như huyễn sư vô bất hiện. Ví như huyễn sư đều hiện đủ.
Giảng: Các Ngài biết làm thơ, văn chương, ai ai cũng đều hoan hỷ đọc tụng. Giống như Bàng Thống của thời đại Tam Quốc, ông ta có thiên tài:
‘’Mắt nhìn mười hàng chữ
Tai nghe trăm người nói.’’
Thời gian người ta nhìn một hàng chữ, thì ông ta nhìn mười hàng. Có một trăm người nói cùng một lúc, chẳng những ông ta nghe rất rõ ràng, mà còn biết người nào nói lời gì, đó tức là vua văn tài.
Ca là ca xướng, xướng ca khúc về Phật, khiến cho người nghe sinh tâm cung kính, mà quy y Tam Bảo. Múa chân dậm chân, tay múa chân dậm là một kỹ thuật đặc biệt trong nghi thức. Luận bàn là đàm luận, chẳng gì mà không biết, phân tích sự lý, đầu đầu thị đạo, nói có lý lẽ, âm thanh trong trẻo, khiến cho người nghe sinh tâm hoan hỷ thích nghe, có cảm giác :
‘’Nghe một buổi luận đàm
Hơn mười năm đọc sách.’’
Bồ Tát thị hiện tất cả đủ thứ kỹ thuật của thế gian, ví như nhà huyễn thuật, chẳng có gì mà không làm được. Từ không hóa có, từ có hóa không, biến hóa khó dò, ảo diệu vô cùng.
Hoặc vi Trưởng-giả ấp trung chủ Hoặc làm trưởng giả chủ trong ấp
Hoặc vi cổ khách thương nhân đạo, Hoặc làm thương mại chủ buôn bán
Hoặc vi Quốc Vương cập đại thần, Hoặc làm ông vua và đại thần
Hoặc tác lương y thiện chúng luận. Hoặc làm lương y nhà hùng biện.
Giảng: Bồ Tát hoặc thị hiện trưởng giả giàu có, hoặc làm chủ nhân trong thành, hoặc thị hiện làm lãnh tụ thương mại, người buôn đi khắp nơi mua sắm hàng hóa; người bán thì mở tiệm bán một chỗ cố định. Hoặc thị hiện làm vua một nước, hoặc thị hiện làm đại thần, hoặc thị hiện làm lương y, hoặc nhà hùng biện.
Vào đời nhà Minh, có vị đại học sĩ tên là Tống Liêm, ông ta dùng máu để biên Kinh Hoa Nghiêm, đó là Bồ Tát hóa thân. Biên chép Kinh Hoa Nghiêm và các Kinh khác đều có công đức không thể nghĩ bàn. Có người biên chép Kinh Hoa Nghiêm phóng thần quang năm màu, chiếu sáng khắp phòng. Có người biên chép Kinh Hoa Nghiêm mẹ con tỏa hào quang, thần nhân hộ pháp. Ðó đều là điềm lành cảm ứng đạo giao.
Hoặc ư khoáng dã tác đại thọ, Hoặc nơi hoang dã làm cây to
Hoặc vi lương dược chúng Bảo Tạng, Hoặc làm thưốc hay các bảo tạng
Hoặc tác bảo châu tùy sở cầu Hoặc làm châu báu tùy sở cầu
Hoặc dĩ chánh đạo thị chúng sanh. Hoặc dùng chánh đạo bày chúng sinh.
Giảng: Hoặc Bồ Tát ở nơi khoáng dã, hóa làm cây đại thụ to lớn, hoặc hóa làm thuốc hay. Như nhân sâm, tức là thuốc hay. Nhân sâm sinh ở trong núi sâu, chỗ người không đến được. Tại sao ? Vì nhân sâm bị người thấy một lần, thì sẽ ẩn tàng dưới đất sáu mươi năm, chẳng trồi lên. Tại sao gọi là nhân sâm ? Vì hình của nó như thân người, có tứ chi. Ngàn năm lão sâm. Nếu có thể lớn thành tám lạng, thì có thể thành hình người, thứ sâm này có công hiệu cải tử hồi sinh. Bồ Tát hoặc thị hiện làm bảo tạng, như mỏ vàng bạc, mỏ đá quý, mỏ kim cương .v.v… Hoặc làm châu như ý, tùy tâm mong cầu. Hoặc dùng pháp chánh đạo, để khai thị mở bày cho chúng sinh.
Nhược kiến thế giới thủy thành lập Nếu thấy thế giới mới thành lập
Chúng sanh vị hữu tư thân cụ, Chúng sinh chưa có vật cần dùng
Thị thời Bồ Tát vi công tượng Lúc đó Bồ Tát làm công thợ
Vi chi thị hiện chủng chủng nghiệp. Vì họ bày ra đủ thứ nghề.
Giảng: Khi thế giới vừa mới thành lập, thì con người chưa có cơm ăn, chưa có quần áo mặc, chưa có nhà cửa ở, cùng ở ngoài đồng trống, tất cả súc sinh và người làm bạn, chẳng hại nhau. Mùa hè thì dùng lá cây che thân, mùa đông thì dùng da thú che thân. Mùa hè ở trên cây, mùa đông ở trong động. Con người lúc đó chưa có đồ dùng cho thân. Bồ Tát mới thị hiện ra đủ thứ công nhân, dạy họ làm ruộng, dạy họ làm nhà, dạy họ dệt vải, dạy họ đủ thứ kỹ thuật cần trong cuộc sống. Lại thị hiện đủ thứ hành nghiệp, khiến cho học sinh học tập, khiến cho họ an cư lạc nghiệp, đời sống an ổn thì họ sẽ phát tâm bồ đề, học vô thượng đạo.
Bất tác bức não chúng sanh vật Chẳng làm vật bức não chúng sinh
Đãn thuyết lợi ích thế gian sự Chỉ nói việc lợi ích thế gian
Chú thuật dược thảo đẳng chúng luận Các luận chú thuật và cỏ thuốc
Như thị sở hữu giai năng thuyết. Như vậy hết thảy đều nói rành.
Giảng: Những gì Bồ Tát làm, đều là hành vi lương thiện. Ngài dạy chúng sinh cải tà theo chánh, chứ chẳng làm việc bức não chúng sinh, cũng chẳng làm công cụ sát hại chúng sinh. Bồ Tát chỉ nói việc có lợi ích cho chúng sinh thế gian, hoặc dạy chúng sinh pháp thuật tụng Kinh, trì chú, hoặc dạy chúng sinh biết cỏ thuốc, hoặc dạy chúng sinh tất cả lý luận học vấn. Nhưng công xảo minh vừa nói ở trên, là dạy chúng sinh, khiến cho họ đều hiểu biết.
Người xuất gia tu đạo phải nghiên cứu sự học về năm minh :
1). Thanh minh : Minh bạch ngôn ngữ văn tự.
2). Công xảo minh : Minh bạch kỹ thuật về tất cả công nghệ.
3). Y phương minh : Minh bạch y học thường thức, hiểu lý của bệnh, biết tánh của thuốc.
4). Nhân minh : Minh bạch đạo lý chánh tà thật giả.
5). Nội minh : Minh bạch bản tánh của tâm tánh ta, người.
Năm học này là quá trình phải tu.
Nhất thiết Tiên nhân thù thắng hạnh, Tất cả tiên nhơn hạnh thù thắng
Nhân thiên đẳng loại đồng tín ngưỡng, Trời người các loài cùng tín ngưỡng
Như thị nan hành khổ hạnh Pháp Như vậy khó hành pháp khổ hạnh
Bồ Tát tùy ưng tất năng tác. Bồ Tát tùy ứng đều làm được.
Giảng: Hết thảy tất cả thiên nhơn, các Ngài đều tu khổ hạnh thù thắng, có người tu khổ hạnh chẳng ăn thức ăn nấu chín, có người tu khổ hạnh chẳng ăn năm vị, có người ăn cỏ xanh và lá cây để duy trì mạng sống, đó đều là hạnh thù thắng, đó là một số người làm không được, cho nên người trời và người nhân gian đều tín ngưỡng sự tu hành của họ. Pháp khổ hạnh khó hành như vậy, Bồ Tát quán sát nhân duyên của chúng sinh, tùy thời mà ứng hiện đủ thứ khổ hạnh, để cảm hóa chúng sinh phát tâm bồ đề.
Hoặc tác ngoại đạo xuất gia nhân Hoặc làm người xuất gia ngoại đạo
Hoặc tại sơn lâm tự cần khổ, Hoặc trong rừng núi tự cần khổ
Hoặc lộ hình thể vô y phục, Hoặc lõa hình thể chẳng y phục
Nhi ư bỉ chúng tác sư trưởng. Mà trong chúng đó làm sư trưởng.
Giảng: Bồ Tát thị hiện đủ thứ khổ hạnh ngoại đạo để giáo hóa tất cả ngoại đạo, khiến cho họ bỏ tà về chánh, bỏ trần hợp giác, cho nên Bồ Tát có lúc thị hiện người xuất gia ngoại đạo. Hoặc ở trong rừng núi, tự trồng tự ăn, chuyên cần tu khổ hạnh, tự lực cánh sinh, chẳng hóa duyên bên ngoài. Hoặc lõa thể chẳng mặc quần áo, chẳng có mọi sự chấp trước. Hoặc làm sư truyền của ngoại đạo, để dạy kẻ ngoại đạo tu hành như thế nào, phát bồ đề tâm như thế nào.
Hoặc hiện tà mạng chủng chủng hạnh Hoặc hiện tà mạng đủ thứ hạnh
Tập hành phi pháp dĩ vi thắng, Tập làm phi pháp cho là thắng
Hoặc hiện Phạm-chí chư uy nghi Hoặc hiện Phạm Chí các oai nghi
Ư bỉ chúng trung vi thượng thủ. Mà trong chúng đó làm thượng thủ.
Giảng: Bồ Tát có lúc thị hiện tà mạng đủ thứ hạnh, tức cũng là tiêu dị hiện kỳ, cao thanh hiển oai, nói việc lành dữ họa phước. Giống như phê bát tự, coi tướng bói quẻ, xem phong thủy .v.v… đều ở trong năm tà mạng, tập làm việc bất hợp pháp, cho là thù thắng. Hoặc thị hiện Phạm Chí tu hạnh thanh tịnh, đủ thứ các oai nghi. Ở trong các chúng đó làm thượng thủ, làm lãnh tụ.
Hoặc thọ ngũ nhiệt tùy nhật chuyển Hoặc chịu ngũ nhiệt phơi dưới nắng
Hoặc trì ngưu cẩu cập lộc giới, Hoặc giữ giới bò chó và nai
Hoặc trước hoại y phụng sự hỏa Hoặc mặc y rách phụng thờ lửa
Vi hóa thị đẳng tác Đạo sư. Vì độ chúng kia làm sư trưởng.
Giảng: Bồ Tát có lúc thị hiện ngoại đạo chịu ngũ nhiệt, dùng lửa đốt thân, hoặc xông mũi. Hoặc phơi nắng dưới ánh mặt trời. Hoặc thị hiện ngoại đạo giữ giới bò, giới chó và giới nai. Ngoại đạo có thiên nhãn thông, thấy được bò, chó, nai sau khi chết sinh lên trời, họ cho rằng học cách sống của bò, chó, nai, thì có thể sinh về trời, cho nên giữ giới bò, chó, nai, thì ăn cỏ xanh, chẳng ăn cơm, thế người giữ cửa, ngủ ở ngoài nhà. Nhưng chẳng biết bò, chó, nai, kiếp trước tu quả lành sinh về trời, tại đời này chịu xong quả báo làm bò, chó, nai, thì lập tức được sinh về trời. Những kẻ ngoại đạo đó, chẳng minh bạch luật nhân quả tiền nhân hậu quả.
Hoặc thị hiện ngoại đạo mặc đồ rách rưới, cho rằng có thể hết khổ thêm vui. Hoặc thị hiện ngoại đạo lạy lửa, cho rằng lửa là chân thần. Bồ Tát vì giáo hóa những ngoại đạo tà tri tà kiến đó, mà thị hiện đồng loại làm sư trưởng để giáo hóa họ phát tâm bồ đề.
Hoặc hữu thị yết chư Thiên miếu Hoặc hiện yết kiến miếu chư Thiên
Hoặc phục thị nhập hằng hà thủy Hoặc lại hiện vào nước sông Hằng
Thực căn quả đẳng tất thị hành Ăn rễ quả thảy đều làm được
Ư bỉ thường tư dĩ thắng Pháp. Nơi đó thường nghĩ pháp tối thắng.
Giảng: Bồ Tát hoặc thị hiện ngoại đạo, đi yết kiến lạy miếu của chư Thiên. Hoặc thị hiện ngoại đạo ẩn dưới sông Hằng, nhưng nước chẳng làm chết đặng; nhảy vào trong lửa dữ, cũng chẳng thiêu chết được. Hoặc ăn nhành cây rễ cỏ và các thứ trái cây. Bồ Tát đều thị hiện đủ thứ khổ hạnh, khiến cho kẻ ngoại đạo tu tà tri tà kiến, thấy pháp tối thắng của Bồ Tát tu.
Hoặc hiện tồn cứ hoặc kiều túc Hoặc hiện ngồi xổm hoặc co chân
Hoặc ngọa thảo cức cập hôi thượng Hoặc nằm cỏ gai hoặc trên tro
Hoặc phục ngọa xử cầu xuất ly Hoặc nằm trên chày cầu giải thoát
Nhi ư bỉ chúng tác sư thủ. Mà trong chúng đó làm sư trưởng.
Giảng: Bồ Tát thị hiện ngoại đạo, tu khổ hạnh ngồi chồm hổm suốt ngày không động. Hoặc co chân mà đứng, suốt ngày chẳng dời. Hoặc lõa thể nằm trên cỏ có gai (bây giờ còn có nằm trên giường đinh), hoặc nằm ở trên tro nóng, hoặc nằm trên chày nhọn. Tại sao phải như thế ? Vì muốn cầu thoát khỏi ba cõi, cho nên tu đủ thứ khổ hạnh. Bồ Tát vì những thứ ngoại đạo đó, mà làm sư truyền, hiện ra thần thông cao hơn họ, khiến cho họ kính phục mà tín ngưỡng, khiến cho họ bỏ tà về chánh mà phát tâm bồ đề.
Như thị đẳng loại chư ngoại đạo Như vậy đủ thứ các ngoại đạo
Quán kỳ ý giải dữ đồng sự, Quán hiểu tâm họ và đồng sự
Sở thị khổ hạnh thế mĩ kham Thị hiện khổ hạnh đời chẳng kham
Lệnh bỉ kiến dĩ giai điều phục. Khiến họ thấy rồi đều điều phục.
Giảng: Các thứ ngoại đạo như đã nói, Bồ Tát quán sát minh bạch tâm của họ, đồng sự với họ, tu đủ thứ khổ hạnh, nhưng cao minh hơn họ. Những khổ hạnh đó chẳng phải người thế gian kham nhẫn chịu đựng được, khiến cho ngoại đạo thấy công phu như thế rồi đều bị điều phục, bèn bỏ khổ hạnh vô ích của họ mà tu thiền định chánh tông, như thế rất lợi ích đối với thân tâm không thể nghĩ bàn.
Chúng sanh mê hoặc bẩm tà giáo Chúng sinh mê hoặc bẩm tà giáo
Trụ ư ác kiến thọ chúng khổ, Trụ nơi ác kiến thọ các khổ
Vi kỳ phương tiện thuyết diệu pháp Vì dùng phương tiện nói diệu pháp
Tất lệnh đắc giải chân thật đế. Đều khiến hiểu rõ nghĩa chân thật.
Giảng: Chúng sinh là do các duyên hòa hợp mà sinh. Chúng sinh có mười hai loài. Chúng sinh vì có vô minh mà sinh mê hoặc, do đó:
‘’Khởi hoặc, tạo nghiệp, thọ báo.’’
Ðây tức là nói đạo lý trồng nhân lành kết quả lành, trồng nhân ác kết quả ác, nhân thế nào quả thế ấy. Ðời nay thọ nhận là do đời trước tạo ra. Ðời nay làm thì đời sau chịu. Do đó có câu :
‘’Muốn biết nhân đời trước
Hãy xem đời này thọ
Muốn biết quả vị lai,
Xem mình đang làm gì.’’
Ðời trước trồng nhân tà tri tà kiến, thì đời này bẩm tà giáo, tín ngưỡng bàng môn tả đạo, trụ ở trong ác kiến, thọ đủ thứ quả khổ.
Bồ Tát vì khiến ngoại đạo sinh tư tưởng chánh tri chánh kiến, bèn dùng pháp môn phương tiện khéo léo để giáo hóa, vì họ nói đủ thứ diệu pháp, khiến cho họ hiểu rõ đạo lý chân chánh thực tại, không còn vào rừng tà kiến nữa.
Hoặc biên chú ngữ thuyết Tứ đế Hoặc biên chú ngữ nói bốn đế
Hoặc thiện mật ngữ thuyết Tứ đế Hoặc thiện mật ngữ nói bốn đế
Hoặc nhân trực ngữ thuyết Tứ đế Hoặc nhân trực ngữ nói bốn đế
Hoặc Thiên mật ngữ thuyết Tứ đế, Hoặc thiên mật ngữ nói bốn đế.
Giảng: Vì chúng sinh ở trong mê hoặc, cho nên Bồ Tát dùng đủ thứ phương pháp, để nói đạo lý khổ tập diệt đạo bốn đế, khiến cho chúng sinh bỏ mê về giác. Hoặc dùng biên chú ngữ để nói bốn đế. Ở nam Ấn Ðộ có nước Biên, nhân dân nước đó bẩm tánh thuần chất, lời nói ra trở thành thần chú. Nếu nước láng giềng đếm xâm chiếm, thì chẳng dùng binh gậy, chỉ dùng lời thì phá tan, cho nên gọi là biên chú ngữ. Hoặc dùng thiện mật ngữ để nói pháp bốn đế, hoặc dùng nhân trực ngữ để nói pháp bốn đế, hoặc dùng thiên mật ngữ để nói pháp bốn đế.
Phân biệt văn tự thuyết Tứ đế Phân biệt văn tự nói bốn đế
Quyết định nghĩa lý thuyết Tứ đế, Quyết định nghĩa lý nói bốn đế
Thiện phá ư tha thuyết Tứ đế Khéo phá ngoại đạo nói bốn đế
Phi ngoại sở động thuyết Tứ đế, Ngoại đạo chẳng động nói bốn đế.
Giảng: Hoặc dùng văn tự khác nhau, để nói khổ tập diệt đạo bốn đế, hoặc dùng quyết định (chân thật) nghĩa lý, để nói pháp bốn đế. Dùng đủ thứ nghĩa lý để phá đạo lý bàng môn tả đạo, để nói pháp bốn đế. Hoặc dùng lý luận chẳng phải ngoại đạo làm lay động được, để nói pháp bốn đế.
Hoặc bát bộ ngữ thuyết Tứ đế, Hoặc lời bát bộ nói bốn đế
Hoặc nhất thiết ngữ thuyết Tứ đế Hoặc tất cả lời nói bốn đế
Tùy bỉ sở giải ngữ ngôn âm Tùy lời lẽ tiếng họ hiểu được
Vi thuyết Tứ đế lệnh giải thoát. Vì nói bốn đế khiến giải thoát.
Giảng: Hoặc dùng lời lẽ của trời rồng tám bộ, để nói pháp khổ tập diệt đạo bốn đế. Hoặc dùng tất cả lời lẽ, để nói pháp bốn đế. Tuy nhiên:
‘’Phật dùng một âm để nói pháp
Chúng sinh theo loài đều hiểu được.’’
Song, vẫn có những chúng sinh chẳng hiểu hết hoàn toàn, hoàn toàn minh bạch thì chiếu thấy các pháp thật tướng, chẳng minh bạch thì chỉ biết ít phần đạo lý của pháp. Cho nên phải tùy thuận lời lẽ âm thanh chúng sinh minh bạch, để nói pháp bốn đế, khiến cho chúng sinh đắc được giải thoát.
Sở hữu nhất thiết chư Phật Pháp Hết thảy tất cả các Phật pháp
Giai như thị thuyết vô bất tận, Đều nói như vậy đâu chẳng hết
Tri ngữ cảnh giới bất tư nghị, Biết cảnh giới lời không nghĩ bàn
Thị danh thuyết Pháp tam muội lực. Tên là thuyết pháp tam muội lực.
Giảng: Hết thảy tất cả các Phật pháp, giống như dùng đủ thứ lời lẽ để nói pháp bốn đế. Cũng dùng đủ thứ lời lẽ âm thanh để nói tất cả pháp. Ðạo lý nói ra đều chí thiện chí mỹ, chẳng có nơi nào mà chẳng hết hoàn toàn. Bồ Tát biết cảnh giới của tất cả lời lẽ, đều là không thể nghĩ bàn, danh từ đó gọi là thuyết pháp tam muội lực.
Hữu thắng tam muội danh an lạc Có thắng tam muội tên An lạc
Năng phổ cứu độ chư quần sanh Hay khắp cứu độ các quần sinh
Phóng đại quang minh bất tư nghị Phóng đại quang minh không nghĩ bàn
Lệnh kỳ kiến giả tất điều phục Khiến cho người thấy đều điều phục.
Giảng: Mười phương chư Phật Bồ Tát, có tam muội thù thắng tên là tam muội An lạc, hay ở trong định đến mười phương thế giới, để khắp cứu độ tất cả chúng sinh, khiến cho họ được an lạc. Lại phóng ra quang minh không thể nghĩ bàn, khắp chiếu chúng sinh, do đó: ‘’Phật quang phổ chiếu.’’ Phàm là chúng sinh thấy được đại quang minh đó, đều bị điều phục, phát tâm bồ đề, hướng về Phật đạo.
Sở phóng quang minh danh thiện hiện Quang minh phóng ra tên Thị hiện
Nhược hữu chúng sanh ngộ thử quang, Nếu có chúng sinh gặp quang này
Tất lệnh hoạch ích bất đường quyên Tất được lợi ích chẳng luống uổng
Nhân thị đắc thành vô thượng trí. Do đó được thành vô thượng trí.
Giảng: Mười phương chư Phật Bồ Tát, do tại nhân địa tu hành và phát nguyện lực, nên phóng ra quang minh không thể nghĩ bàn, tên gọi là tam muội thị hiện. Giả như có chúng sinh gặp được đại quang minh đó, thì chắc chắn sẽ được lợi ích, chẳng luống qua. Chúng sinh thấy được quang minh đó, đều đắc được trí huệ vô thượng.
Bỉ quang thị hiện ư chư Phật, Quang đó thị hiện nơi chư Phật
Thị Pháp thị tăng thị chánh đạo, Hiện pháp hiện Tăng hiện chánh đạo
Diệc thị Phật tháp cập hình tượng Cũng hiện tháp Phật và hình tượng
Thị cố đắc thành thử quang minh. Do đó được thành quang minh này.
Giảng: Ở trong quang minh đó, thị hiện mười phương chư Phật, lại thị hiện tất cả tôn pháp của chư Phật nói, lại thị hiện tất cả hiền Thánh Tăng của chư Phật hóa độ, lại thị hiện chánh pháp của chư Phật giáo hóa chúng sinh, và tháp cùng với hình tượng của chư Phật, đều thị hiện ra ở trong quang minh. Vì nhân duyên đó mà quang minh chiếu soi, tận hư không biến pháp giới.
Hựu phóng quang minh danh chiếu diệu Lại phóng quang minh tên Chiếu diệu
Ánh tế nhất thiết chư thiên quang, Sáng lấp tất cả quang chư Thiên
Sở hữu ám chướng mĩ bất trừ Hết thảy chướng ngại thảy đều trừ
Phổ vi chúng sanh tác nhiêu ích. Khắp vì chúng sinh làm lợi ích.
Giảng: Lại phóng ra đại quang minh tên là tam muội chiếu diệu. Quang minh đó chiếu sáng che lấp hết tất cả ánh sáng của chư Thiên, hết thảy chỗ đen tối chướng ngại đều trừ sạch hết, khắp vì chúng sinh mà làm lợi ích.
Thử quang giác ngộ nhất thiết chúng Quang đó giác ngộ tất cả chúng
Lệnh chấp đăng minh cúng dường Phật, Khiến cầm đèn sáng cúng dường Phật
Dĩ đăng cúng dường chư Phật cố, Do dùng đèn cúng dường chư Phật
Đắc thành thế trung vô thượng đăng. Được thành vô thượng đăng trong đời.
Giảng: Quang minh chiếu diệu đó, chiếu thân chúng sinh, khiến cho họ giác ngộ mà phát tâm bồ đề, cầm đèn sáng đến cúng dường chư Phật. Do dùng đèn dầu để cúng dường mười phương chư Phật, mà được thành tựu trí huệ vô thượng trong đời. Vì đèn đại biểu cho quang minh, quang minh tức là trí huệ. Muốn được trí huệ quang minh, thì cúng dường đèn dầu ở trước Phật.
Nhiên chư du đăng cập tô đăng, Thắp các đèn dầu và đèn tô
Diệc nhiên chủng chủng chư minh cự Cũng thắp đủ thứ các đuốc sáng
Chúng hương diệu Dược Thượng bảo chúc Các hương thơm, thuốc hay, nến báu
Dĩ thị cúng Phật hoạch thử quang. Dùng để cúng Phật được quang này.
Giảng: Hoặc thắp tất cả đèn dầu và đèn tô, hoặc tất cả đuốc sáng, dùng những ánh sáng đó để cúng dường Phật. Hoặc dùng đủ thứ hương báu, đủ thứ thuốc hay, đủ thứ nến báu. Dùng đủ thứ đồ cúng để cúng dường Phật, thì sẽ đắc được quang minh chiếu sáng đó, mà được vô lượng vô biên trí huệ.
Hựu phóng quang minh danh tế độ, Lại phóng quang minh tên Tế độ
Thử quang năng giác nhất thiết chúng, Quang đó giác ngộ tất cả chúng
Lệnh kỳ phổ phát Đại thệ tâm, Khiến họ phát được tâm thệ nguyện
Độ thoát dục hải chư quần sanh. Độ thoát quần sinh trong biển dục.
Giảng: Lại phóng ra đại quang minh tên là tam muội tế độ. Quang minh đó hay độ chúng sinh từ bờ sinh tử bên này, qua sông phiền não, đưa đến bờ Niết Bàn bên kia. Tức cũng là nguyện thứ nhất trong bốn nguyện lớn ‘’Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ.’’ Chúng sinh nhiều vô lượng vô biên, chúng ta phải phát nguyện, độ tất cả chúng sinh thoát khỏi biển khổ, đắc được an lạc. Phát nguyện chẳng phải niệm niệm trong miệng, mà phải cung hành thực tiễn thì mới được. Chúng ta phải nghĩ ‘’Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ.’’ Chúng ta đã độ chưa ? Chúng ta độ chúng sinh, hay là bị chúng sinh độ ? Chúng ta chuyển được cảnh giới, hay là bị cảnh giới chuyển ? Mình có tùy duyên không đổi, không đổi tùy duyên, có định lực chân chánh đó chăng ? Những vấn đề này thời khắc phải phản tỉnh.
Quang minh đó hay giác ngộ tất cả chúng sinh, tức cũng là ‘’Phiền não vô biên thệ nguyện đoạn.’’ Nếu giác ngộ thì mới nhận thức được phiền não, mới chuyển phiền não thành bồ đề được. Nếu chẳng giác ngộ thì chẳng chuyển được, cho nên phải giác ngộ. Giác ngộ cái gì ? Giác ngộ phiền não của sinh tử. Phiền não tức là vô minh, bồ đề tức là trí huệ, tu đạo tức là phá vô minh, cầu trí huệ.
Quang minh đó hay khiến chúng sinh phát tâm thệ nguyện, tức cũng là ‘’Pháp môn vô lượng thệ nguyện học.’’ Phát thệ nguyện để học Phật pháp, thì mới đoạn trừ được phiền não, chứng được đạo quả bồ đề. Nếu không phát thệ nguyện, thì không thể vào sâu tạng Kinh, cũng không được trí huệ như biển.
Nếu độ thoát biển dục của các quần sinh, thì sẽ thành Phật, tức cũng là ‘’Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.’’ Khiến cho chúng sinh chưa trồng căn lành, thì trồng căn lành, chúng sinh đã trồng căn lành, thì làm cho tăng trưởng, chúng sinh căn lành đã tăng trưởng, thì khiến cho chín mùi, chúng sinh căn lành đã chín mùi, thì khiến cho giải thoát. Vì căn tánh của chúng sinh khác nhau, ý nghĩ khác nhau, sở thích khác nhau, cho nên phải quán sát căn cơ mà nói pháp, vì người mà nói pháp thì mới có hiệu quả. Ví như căn cơ tiểu thừa thì khiến cho họ hồi tiểu hướng đại, nhưng chẳng phải là việc dễ dàng. Căn khí đại thừa khiến cho họ học pháp tiểu thừa, cũng chẳng phải là việc dễ dàng. Phật nói tất cả pháp, là đối với căn cơ của tất cả chúng sinh mà nói. Nếu chẳng có tất cả căn cơ, thì cũng chẳng dùng tất cả pháp. Căn cơ là tâm của chúng sinh.
Chúng ta chúng sinh đều trôi nổi bất định ở trong biển dục. Khi minh bạch thì nổi lên, muốn thoát khỏi biển dục. Khi hồ đồ thì chìm xuống, chẳng muốn thoát khỏi biển dục. Cho nên Phật Bồ Tát muốn độ thoát biển dục các quần sinh, sớm thành Phật đạo.
Nhược năng phổ phát Đại thệ tâm Nếu hay phát được tâm thệ nguyện
Độ thoát dục hải chư quần sanh, Độ thoát quần sinh trong biển dục
Tức năng việt độ tứ bộc lưu, Thời vượt qua được bốn dòng nước
Thị đạo Vô ưu giải thoát thành. Sẽ đến thành vô ưu giải thoát.
Giảng: Nếu như khắp phát được tâm đại thệ nguyện, lại muốn độ thoát hết thảy pháp giới tất cả chúng sinh, nhất là các quần sinh ở trong biển dục. Vì họ tham luyến hồng trần, cho nên chẳng dễ gì thoát khỏi biển dục. Nếu độ thoát được biển dục, thì sẽ vượt qua khỏi bốn dòng nước mà đạt đến thành giải thoát không sầu không lo.
Dòng nước là ví dụ, nghĩa là nguy hiểm giống như dòng nước chảy mạnh, sẽ làm chết người. Tam giới hai mươi lăm cõi tức là dòng nước.
Dòng nước có bốn thứ :
1). Dục lưu : Dục niệm lợi hại giống như dòng nước.
2). Kiến lưu : Tức là kiến hoặc tam giới, cũng là ngũ kiến (thân kiến, biên kiến, kiến thủ kiến, giới thủ kiến, tà kiến), cũng là tướng ta chấp ta. Ðó giống như dòng nước, khiến cho chúng sinh phiêu lưu trong biển dục, chẳng được thoát khỏi.
3). Hữu lưu : Chúng sinh hữu tình lưu chuyển không ngừng trong biển dục sinh tử của tam giới, quả báo có sinh thì có diệt, vĩnh viễn không ngừng nghỉ, giống như dòng nước.
4). Vô minh lưu : Vô minh là gốc rễ của điên đảo. Ví như nói chánh pháp mà họ chẳng muốn nghe, còn nói tà pháp thì họ rất thích nghe, đó tức là dòng nước vô minh. Phiêu lưu bất định trong biển dục, nên không thể đến được bờ kia. Nếu chẳng có tà tri tà kiến, thì chẳng có vô minh phiền não, thì chẳng có tất cả dục niệm, thì chẳng có tất cả chấp trước, sẽ đạt đến thành vô ưu giải thoát.
Ư chư hạnh lộ Đại thủy xứ Nơi các đường đi có nước lớn
Tạo lập kiều lương cập thuyền phiệt, Tạo lập cầu đò và thuyền bè
Hủy hoại hữu vi tán tịch tĩnh, Chê bai hữu vi khen vắng lặng
Thị cố đắc thành thử quang minh. Do đó được thành quang minh này.
Giảng: Bồ Tát hành Bồ Tát đạo, thì nơi nơi chí tại lợi ích chúng sinh, cho đến nơi chúng sinh đi qua như sông lớn, hoặc sông nhỏ đều làm cầu và thuyền bè, để cho người đi qua. Chê bai hữu vi tức là nói pháp hữu vi không thể dứt sinh tử, không thể thoát khỏi ba cõi. Khen ngợi vắng lặng (thiền định), tức là nói pháp vô vi, mới đắc được giải thoát, mới thành tựu đạo nghiệp. Vì đời đời kiếp kiếp hành Bồ Tát đạo, cho nên đắc được thành tựu quang minh này.
Hựu phóng quang minh danh diệt ái Lại phóng quang minh tên Diệt ái
Thử quang năng giác nhất thiết chúng Quang này giác ngộ tất cả chúng
Lệnh kỳ xả ly ư ngũ dục Khiến họ xả lìa nơi năm dục
Chuyên tư giải thoát diệu pháp vị. Chuyên nghĩ vị diệu pháp giải thoát.
Giảng: Lại phóng ra đại quang minh tên là tam muội diệt ái. Quang minh đó hay tiêu diệt tất cả ái dục. Chúng sinh chấp trước tức là ái dục. Vì có dục nam tham nữ ái, cho nên không thể dứt sinh tử. Quang minh đó hay khiến chúng sinh giác ngộ ái là gốc rễ sinh tử, lại hay khiến cho chúng sinh xả lìa tài, sắc, danh, ăn, ngủ, vui năm dục, lại có thể nói là lìa sắc, thanh, hương, vị, xúc, năm trần. Năm thứ dục này chi phối chúng sinh điên đảo. Nếu xả lìa năm dục, thì chẳng có gì để chấp trước, chuyên nghĩ pháp môn giải thoát, thì sẽ đắc được vị diệu pháp, cảnh giới này không thể nghĩ bàn, hay lìa khổ được vui, chấm dứt sinh tử.
Nhược năng xả ly ư ngũ dục Nếu xả lìa được nơi năm dục
Chuyên tư giải thoát diệu pháp vị, Chuyên nghĩ vị diệu pháp giải thoát
Tức năng dĩ Phật cam lồ vũ Thì hay dùng Phật pháp cam lồ
Phổ diệt thế gian chư khát ái. Khắp diệt các khát ái thế gian.
Giảng: Nếu như xả lìa được năm dục, mà chuyên nhất để tu pháp môn thiền định, thì sẽ đắc được vị diệu pháp giải thoát, thì hay dùng cam lồ pháp vũ của Phật, khắp diệt tất cả ái của thế gian. Ái này giống như đói khát cần, thật khiến cho người không thể nhẫn thọ. Song, thấm nhuần được mưa pháp cam lồ của Phật, thì dần dần sẽ tiêu trừ phiền não ái, mà thoát khỏi biển dục, đạt đến cảnh giới mát mẻ.
Huệ thí trì tỉnh cập tuyền lưu Bố thí ao giếng và suối nước
Chuyên cầu vô thượng Bồ-đề đạo, Chuyên cầu đạo bồ đề vô thượng
Hủy hoại ngũ dục tán Thiền định Chê bai năm dục khen thiền định
Thị cố đắc thành thử quang minh. Do đó được thành quang minh này.
Giảng: Bồ Tát tu đủ thứ bố thí, đối với mọi người đều có ân huệ, lợi ích tất cả. Hoặc đào ao và giếng nước uống, khiến cho người đi đường có nước giải khát. Hoặc đào suối nước, khiến cho chúng tắm rửa bụi bặm trong thân tâm, khiến cho thân tâm thanh tịnh. Tại sao phải như thế ? Vì muốn lợi ích chúng sinh, muốn tài bồi công đức cho mình, cũng là cầu đạo bồ đề vô thượng.
Hoặc chê bai năm dục, vì năm dục rất có hại đối với người tu đạo, cho nên phải xả lìa nó. Hoặc khen ngợi diệu pháp thiền định, vì thiền định là lối tắt mau khai ngộ nhất. Do đó phải tinh tấn tham thiền, một giây một phút cũng luống qua. Vì tu bố thí, xả bỏ năm dục, mà thành tựu quang minh diệt ái này.
Hựu phóng quang minh danh hoan hỉ Lại phóng quang minh tên Hoan hỷ
Thử quang năng giác nhất thiết chúng, Quang này giác ngộ tất cả chúng
Lệnh kỳ ái mộ Phật Bồ-đề, Khiến họ ái mộ Phật bồ đề
Phát tâm nguyện chứng vô sư đạo. Phát tâm nguyện chứng đạo vô sư.
Giảng: Lại phóng ra đại quang minh tên là hoan hỷ tam muội. Bất cứ loại chúng sinh nào, được quang minh này chiếu đến, thì liền sinh tâm hoan hỷ. Quang minh này hay khiến cho tất cả chúng sinh giác ngộ, phát tâm bồ đề và hay khiến cho chúng sinh ái mộ Phật bồ đề. Chữ ‘’ái‘’ này là ái mộ, chẳng phải chữ ‘’ái‘’ đã nói ở trước, đó là tham ái tài sắc danh thực thùy năm dục; đây là ái mộ Phật Pháp Tăng Tam Bảo. Ái năm dục là ái nhiễm ô, ái Tam Bảo là ái thanh tịnh.
Phải lập chí phát tâm nguyện chứng đạo vô sư, tức cũng là vô sư tự thông, chẳng cần thầy dạy, tự mình minh bạch đạo lý. Ðạo này do kiền, thành, hằng, ba chữ để siêng tu giới định huệ, để tiêu diệt tham sân si, như vậy mới có sự thành tựu.
Tạo lập Như Lai đại bi tượng, Tạo lập tượng đại bi Như Lai
Chúng tướng trang nghiêm tọa hoa tọa, Các tướng trang nghiêm ngồi tòa sen
Hằng thán tối thắng chư công đức Luôn khen các công đức tối thắng
Thị cố đắc thành thử quang minh. Do đó được thành quang minh này.
Giảng: Ai muốn được tướng tốt trang nghiêm, thì phải dùng hương hoa để cúng dường Phật, hoặc tu sửa làm chùa, tạo tượng Phật. Trang nghiêm tượng Phật, tức là trang nghiêm chính mình, cho nên phải tạo tượng đại bi Như Lai. Tạo tượng trang nghiêm ba mươi hai tướng tám mươi vẻ đẹp, ngồi trên tòa sen, lại phải luôn luôn khen ngợi công đức thù thắng của chư Phật, vì nhân duyên đó mà được quang minh hoan hỷ này.
Hựu phóng quang minh danh ái lạc Lại phóng quang minh tên Ái lạc
Thử quang năng giác nhất thiết chúng, Quang đó giác ngộ tất cả chúng
Lệnh kỳ tâm lạc ư chư Phật Khiến tâm họ thích các đức Phật
Cập dĩ lạc Pháp lạc chúng tăng Và thích ưa pháp thích chúng Tăng.
Giảng: Lại phóng quang minh tên là ái lạc. Quang minh đó hay giác ngộ tất cả chúng sinh, khiến cho họ bỏ mê về giác, cải tà quy chánh mà phát tâm bồ đề. Quang minh đó hay khiến tâm chúng sinh an vui, hoan hỷ mười phương chư Phật, mười phương tôn pháp, mười phương hiền Thánh Tăng. Vì tâm sinh hoan hỷ mà an lạc, bèn quy y Tam Bảo, cung kính Tam Bảo, gần gũi Tam Bảo, cúng dường Tam Bảo, đây là điều kiện Phật giáo đồ phải đầy đủ.
Nhược thường tâm lạc ư chư Phật Nếu tâm thường thích các đức Phật
Cập dĩ lạc Pháp lạc chúng tăng, Và thích tôn pháp thích chúng Tăng
Tức tại Như Lai chúng hội trung Tức trong chúng hội của Như Lai
Đãi thành vô thượng thâm pháp nhẫn. Sớm thành thâm pháp nhẫn vô thượng.
Giảng: Nếu như tâm luôn luôn ưa thích các Ðức Phật, pháp của chư Phật nói, tuyên dương Hiền Thánh Tăng của Phật pháp, thì sẽ có tư cách tham gia tất cả pháp hội của Như Lai, mà được thấy Phật, lại được nghe pháp. Hoặc gần gũi thiện tri thức và bạn hiền, như vậy lập tức sẽ thành tựu pháp nhẫn sâu xa vô thượng. Tất cả pháp đều nhẫn thọ được, đều y pháp tu hành, thì cách Phật đạo không xa mấy.
Khai ngộ chúng sanh vô hữu lượng Khai ngộ chúng sinh vô số lượng
Phổ sử niệm Phật pháp tăng bảo Đều khiến niệm Phật Pháp Tăng bảo
Cập thị phát tâm công đức hạnh Và bày phát tâm tu công đức
Thị cố đắc thành thử quang minh. Do đó được thành quang minh này.
Giảng: Bồ Tát vì khiến cho chúng sinh, từ trong mê mộng sớm giác ngộ, cho nên khai ngộ chúng sinh nhiều đến vô số lượng. Khiến cho chúng sinh minh bạch pháp môn niệm Phật niệm Pháp niệm Tăng là khai ngộ. Bồ Tát lại chỉ bày cho chúng sinh phát tâm bồ đề như thế nào, tu đạo như thế nào, làm việc lành như thế nào, làm công đức như thế nào, nói rất rõ ràng. Nếu y pháp tu hành, thì sẽ chấm dứt sinh tử, thành tựu được quang minh này.
Hựu phóng quang minh danh phước tụ, Lại phóng quang minh tên Phước tụ
Thử quang năng giác nhất thiết chúng, Quang này giác ngộ tất cả chúng
Lệnh hành chủng chủng vô lượng thí Khiến tu đủ thứ vô lượng thí
Dĩ thử nguyện cầu vô thượng đạo. Dùng đây nguyện cầu đạo vô thượng.
Giảng: Lại phóng ra đại quang minh tên là phước tụ. Quang minh đó hay tụ tất cả phước lại. Phước là từ đâu đến ? Tức là từ bố thí mà đến. Hay bố thí thì có công đức, thì có phước báo. Quang minh đó hay giác ngộ tất cả chúng sinh, khiến cho họ tu đủ thứ vô lượng pháp môn bố thí, đem công đức bố thí đó, nguyện cầu đạo vô thượng, tức cũng là thành Phật.
Thiết đại thí hội vô già hạn Lập hội đại bố thí vô hạn
Hữu lai cầu giả giai mãn túc, Ai đến cầu xin đều thỏa mãn
Bất lệnh kỳ tâm hữu sở phạp Chẳng khiến tâm họ có thiếu thốn
Thị cố đắc thành thử quang minh. Do đây được thành quang minh này.
Giảng: Thiết lập pháp hội đại bố thí. Vô hạn, bất cứ gì cũng đều bố thí, chẳng có hạn lượng, muốn bao nhiêu thì được bấy nhiêu. Có cầu tất ứng, đều khiến cho họ thỏa mãn, chẳng khiến tâm của họ cảm giác thiếu thốn. Do nhân duyên đó mà thành tựu quang minh phước tụ.
Hựu phóng quang minh danh cụ trí, Lại phóng quang minh tên Đủ trí
Thử quang năng giác nhất thiết chúng, Quang này giác ngộ tất cả chúng
Lệnh ư nhất pháp nhất niệm trung, Khiến cho trong một pháp một niệm
Tất giải vô lượng chư Pháp môn. Đều hiểu vô lượng các pháp môn.
Giảng: Lại phóng đại quang minh tên là đủ trí, tức cũng là quang minh đầy đủ nhất thiết trí huệ. Quang minh đó, hay khiến chúng sinh chưa giác ngộ thì sẽ giác ngộ. Khiến cho tất cả chúng sinh, từ minh bạch một pháp mà minh bạch tất cả các pháp. Trong một niệm biết đạo lý:
‘’Một làm vô lượng, vô lượng làm một.’’
Do một pháp môn mà thấu hiểu vô lượng pháp môn, do đó cảnh giới:
‘’Một thông tất cả đều thông.’’
Vì chư chúng sanh phân biệt Pháp Vì các chúng sinh phân biệt pháp
Cập dĩ quyết liễu chân thật nghĩa, Và dùng quyết rõ nghĩa chân thật
Thiện thuyết pháp nghĩa vô khuy giảm Khéo nói nghĩa pháp chẳng khuyết giảm
Thị cố đắc thành thử quang minh. Do đây được thành quang minh này.
Giảng: Bồ Tát vì tất cả chúng sinh, mà phân biệt đạo lý các pháp thật tướng, khiến cho chúng sinh minh bạch nghĩa chân thật của Phật pháp. Dùng đủ thứ pháp phương tiện, khéo nói nghĩa lý của diệu pháp, chẳng có thiếu khuyết giảm bớt. Dùng phương pháp vào sâu ra cạn, nói rõ nghĩa lý Kinh điển, do nhân duyên đó nên đắc được quang minh đủ trí này.
Hựu phóng quang minh danh tuệ đăng, Lại phóng quang minh tên Huệ đăng
Thử quang năng giác nhất thiết chúng, Quang này giác ngộ tất cả chúng
Lệnh tri chúng sanh tánh không tịch Khiến biết tánh chúng sinh vắng lặng
Nhất thiết chư pháp vô sở hữu. Tất cả các pháp không chỗ có.
Giảng: Lại phóng ra đại quang minh tên là huệ đăng. Quang minh đó hay giác ngộ chúng sinh vô minh, khiến cho tất cả chúng sinh, biết tánh chúng sinh vốn không sinh không diệt, vốn đầy đủ trí huệ đức tướng Như Lai. Tất cả các pháp vốn vắng lặng. Do đó:
‘’Các pháp do duyên sinh
Các pháp do duyên diệt.’’
Tất cả các pháp chẳng có một thật thể, đều là không, chẳng chỗ có.
Diễn thuyết chư pháp không vô chủ Diễn nói các pháp không vô chủ
Như huyễn như diễm thủy trung nguyệt, Như huyễn như diệm trăng trong nước
Nãi chí do như mộng ảnh tượng Cho đến giống như mộng bóng hình
Thị cố đắc thành thử quang minh. Do đây được thành quang minh này.
Giảng: Bồ Tát diễn nói vô thường, khổ, không, vô ngã, tất cả các pháp, đều là vắng lặng, chẳng có một thật thể để chủ tể. Tất cả pháp tức là phương pháp, cũng là pháp phương tiện. Vì chúng sinh chấp trước, cho nên mới nói đủ thứ pháp môn phương tiện, để phá tất cả chấp trước của chúng sinh. Pháp hữu vi như huyễn chẳng thật, như dương diệm đại địa mùa xuân, như mặt trăng trong nước, như hình bóng trong gương, đều chẳng thật thể. Lại như hình bóng trong mộng, hư vọng không thật. Bồ Tát hết lòng khuyên dạy chúng sinh đừng chấp trước pháp hữu vi. Do nhân duyên đó mà đắc được quang minh huệ đăng.
Hựu phóng quang danh pháp tự tại Lại phóng quang tên pháp tự tại
Thử quang năng giác nhất thiết chúng Quang đó giác ngộ tất cả chúng
Lệnh đắc vô tận Đà-la-ni Khiến được vô tận đà la ni
Tất trì nhất thiết chư Phật Pháp. Đều trì tất cả các Phật pháp.
Giảng: Lại phóng ra quang minh tên là pháp tự tại. Nơi tất cả các pháp, đắc được tự tại viên dung vô ngại. Quang minh đó, hay giác ngộ tất cả chúng sinh chẳng tự tại, mà khiến cho họ đắc được tự tại, đắc được vô tận đà la ni. Ðà la ni dịch là tổng trì, tức là ‘’Tổng tất cả pháp, trì vô lượng nghĩa’’, tức cũng là tổng trì thân khẩu ý ba nghiệp thanh tịnh, thì hoàn toàn tu trì tất cả pháp của Phật.
Cung kính cúng dường trì pháp giả, Người cung kính cúng dường trì pháp
Cấp thị thủ hộ chư hiền thánh, Cung cấp thủ hộ các Thánh hiền
Dĩ chủng chủng pháp thí chúng sanh, Dùng đủ thứ pháp thí chúng sinh
Thị cố đắc thành thử quang minh. Do đây được thành quang minh này.
Giảng: Người cung kính tu trì Phật pháp, người cúng dường tu trì Phật pháp. Phát tâm trợ giúp đạo tràng làm việc, tức là cung cấp; lại phát tâm thủ hộ các Thánh hiền Tăng. Dùng đủ thứ pháp thí cho chúng sinh, khiến cho họ minh bạch đạo lý của pháp, để cải ác hướng thiện mà phát tâm bồ đề. Do nhân duyên đó, nên đắc được quang minh pháp tự tại này.
Hựu phóng quang minh danh năng xả, Lại phóng quang minh tên Năng xả
Thử quang giác ngộ xan chúng sanh, Quang đó giác ngộ chúng sinh sẻn
Lệnh tri tài bảo tất phi thường, Khiến biết tài bảo đều không thường
Hằng lạc huệ thí tâm Vô Trước. Luôn ưa bố thí tâm không chấp.
Giảng: Lại phóng ra đại quang minh tên là năng xả, tức cũng là quang minh bố thí, hay khiến cho chúng sinh xan tham, phát tâm bố thí, giác ngộ tất cả tài bảo chẳng phải là vật vĩnh viễn không hoại, do đó thường ưa thích bố thí cho tất cả chúng sinh. Song, chẳng có người bố thí, vật thí, người nhận, ba thứ chấp trước, mới là thật bố thí. Do đó: ‘’Làm thiện vui nhất,’’ sự an lạc này chẳng gì sánh bằng.
Xan tâm nan điều nhi năng điều, Tâm sẻn khó điều mà điều được
Giải tài như mộng như phù vân, Hiểu tài như mộng như mây trôi
Tăng trưởng huệ thí thanh tịnh tâm, Tăng trưởng tâm bố thí thanh tịnh
Thị cố đắc thành thử quang minh. Do đây được thành quang minh này.
Giảng: Chúng sinh tâm xan tham chẳng dễ gì điều phục, song, bị quang minh năng xả chiếu đến, thì sẽ chuyển biến thành tâm bố thí. Hiểu rõ tài vật như mộng, như mây trôi. Khổng Tử có nói :
‘’Phú quý với tôi như mây trôi’’.
Tức là nói phú quý giống như mây trôi trên trời, chẳng có tánh vĩnh cửu, thời khắc sẽ tan biến. Người sau chịu ảnh hưởng tư tưởng này, mới sinh ra tâm lý không cưỡng cầu, do đó:
‘’Phú quý như hoa trong nước
Công danh như sương trên ngói’’.
Phải việc gì cũng tri túc. Tư tưởng của nhà nho là :
‘’Việc biết tri túc tâm thường lạc.
Ðến chỗ không cầu phẩm tự cao.’’
Khổng tử lại nói : ‘’Phú quý mà cầu được, thì dù là việc cầm roi, tôi cũng làm. Nếu chẳng chỗ cầu, thì tôi làm theo điều tôi thích.’’ Ý nghĩa là nếu như phú quý có thể cầu, thì tuy là việc đánh xe thấp hèn, tôi cũng nguyện ý đi làm. Nhưng nếu phú quý không thể nào cầu được, thì tôi làm điều tôi hoan hỷ. Ví như thích đánh đàn thì đánh, thích đánh cờ thì đánh, thích viết chữ thì viết, thích họa thì họa. Tư tưởng của nhà Nho có chỗ giống Phật giáo, nhưng Phật giáo chủ trương từ bi, chẳng có tâm tham mà phải bố thí. Chủ trương cứu giúp chúng sinh, thương xót chúng sinh. Bất quá nhà Nho là pháp thế gian, cầu làm toàn nhân. Phật giáo là pháp xuất thế, cầu làm bậc giác ngộ, tức cũng là cầu có đại trí huệ.
Quang minh năng xả đó, hay khiến chúng sinh tâm bố thí tăng trưởng, mà đắc được tâm thanh tịnh không nhiễm. Bồ Tát tại nhân địa tu đủ thứ pháp môn bố thí, triển chuyển giáo hóa chúng sinh tu pháp môn bố thí, do nhân duyên đó mà đắc được quang minh năng xả.
Hựu phóng quang minh danh trừ nhiệt, Lại phóng quang minh tên Trừ nhiệt
Thử quang năng giác hủy cấm giả, Quang đó giác ngộ người phạm giới
Phổ sử thọ trì thanh tịnh giới, Khiến cho họ trì giới thanh tịnh
Phát tâm nguyện chứng vô sư đạo. Phát tâm nguyện chứng đạo vô sư.
Giảng: Lại phóng ra đại quang minh tên là trừ nhiệt, tức cũng là trì giới. Quang minh đó chiếu khắp chúng sinh, hay tiêu trừ bệnh nhiệt khổ phiền não. Lại khiến cho chúng sinh phạm giới, sinh tâm giác ngộ, phát tâm giữ giới. Phàm là chúng sinh chẳng giữ gìn giới luật đều vì ngu si, vô minh quá nặng, mê hoặc quá sâu, cho nên có đủ thứ nhiễm ô chẳng thanh tịnh. Người tại gia giữ năm giới tức là không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu.
Quang minh đó, hay khiến cho người phạm giới khôi phục lại giới thể thanh tịnh, mà giữ gìn giới luật, phát tâm nguyện chứng được đạo vô sư, tức cũng là Phật đạo. Các bạn không thể giải thích theo chữ nghĩa, cho rằng đạo vô sư tức là chẳng có thầy chỉ dạy, thì có thể thành tựu đạo nghiệp. Giải thích như thế là tà tri tà kiến, hoàn toàn sai lầm, sai mười vạn tám ngàn dặm. Người tu đạo nhất định phải lạy thầy, thì mới học được pháp chân chánh, tức cũng là chánh tri chánh kiến. Nếu chẳng có thiện tri thức chỉ dạy, thì tu mù luyện đui, lãng phí công phu. Cuối cùng vẫn đọa vào địa ngục, song, mình vẫn không biết cho nên phải lạy thiện tri thức làm thầy, thì mới có thể thành tựu Phật đạo.
Khuyến dẫn chúng sanh thọ trì giới, Khuyên dắt chúng sinh thọ trì giới
Thập thiện nghiệp đạo tất thanh tịnh, Thập thiện đạo nghiệp đều thanh tịnh
Hựu lệnh phát hướng Bồ-đề tâm Lại khiến phát tâm hướng bồ đề
Thị cố đắc thành thử quang minh. Do đó được thành quang minh này.
Giảng: Bồ Tát khuyên dẫn dắt chúng sinh thọ trì giới luật thanh tịnh, làm cho mười điều thiện của thân khẩu ý ba nghiệp hoàn toàn được thanh tịnh. Lại vì khiến cho chúng sinh trì giới phát tâm hồi hướng, hồi tiểu hướng đại, hồi sự hướng lý, hồi nhân hướng quả. Lại phát tâm bồ đề, trên cầu Phật đạo, dưới độ chúng sinh, vì tu đủ thứ hạnh môn, cho nên được quang minh trừ nhiệt này.
Hựu phóng quang minh danh nhẫn nghiêm Lại phóng quang minh tên Nhẫn nghiêm
Thử quang giác ngộ sân khuể giả Quang đó giác ngộ kẻ sân hận
Lệnh bỉ trừ sân ly ngã mạn Khiến họ trừ sân lìa ngã mạn
Thường lạc nhẫn nhục nhu hòa Pháp Thường thích pháp nhẫn nhục nhu hòa.
Giảng: Lại phóng ra đại quang minh, tên là nhẫn nghiêm, tức cũng là nhẫn nhục. Dùng nhẫn nhục để trang nghiêm pháp thân thanh tịnh, quang minh đó hay giác ngộ tất cả chúng sinh có tâm sân hận, tức cũng là chúng sinh có vô minh rất nặng. Vô minh là gốc tạo nghiệp, do đó ‘’Lửa vô minh, thần cọp dữ, đó là gốc tội nghiệp kiếp trước.’’ Cọp vốn đã lợi hại rồi, nếu nó thành thần thì càng thêm lợi hại ! Một khi con người nổi giận lên, thì chẳng sợ bất cứ cái gì, cho đến cọp cũng chẳng sợ. Nổi giận lên thì có phiền não, cho nên chúng ta người tu đạo, quan trọng nhất là đừng nổi giận. Người xưa có nói :
‘’Ngàn ngày nhặt củi
Một đóm lửa nhỏ thiêu sạch.’’
Vất vả khổ cực ngàn ngày đi nhặt củi, bị một chút lửa mà thiêu sạch hết. Cũng có nghĩa là công phu tu hành bao nhiêu năm, một khi nổi giận, thì thiêu sạch hết công đức đã tu. Do đó:
‘’Một đốm lửa nhỏ
Thiêu sạch hết rừng công đức’’.
Tại sao chúng ta phải nổi giận ? Vì có vô minh. Làm thế nào phá được vô minh ? Thì phải tu pháp môn nhẫn nhục. Nếu có ai đến mắng bạn, đến đánh bạn, đến phỉ báng bạn, đến nhục mạ bạn, thì đừng động tâm, ngược lại hãy nghĩ đây là báo ứng. Thời khắc hồi quang phản chiếu, cầu nơi chính mình. Như vậy thì lửa vô minh sẽ từ từ đè nén xuống, dần dần giảm bớt, đến trình độ trong tro hết lửa, thì việc lớn sẽ hóa nhỏ, việc nhỏ chẳng còn nữa.
Quang minh này hay khiến cho chúng sinh có tâm sân hận, tu pháp môn nhẫn nhục Ba la mật, tiêu trừ nóng giận, lìa khỏi ngã mạn. Thường sinh an lạc mà nhẫn nhục được, thì tánh tình sẽ biến thành nhu hòa. Các bạn xem ! Răng thì cứng lưỡi thì mềm; con người đến tuổi già thì răng rụng hết, còn lưỡi thì vẫn tồn tại. Ðây tức là đạo lý nhu khắc cương (mềm chế cứng), cho nên nhẫn nhục là pháp môn trên hết.
Chúng sanh bạo ác nan khả nhẫn Chúng sinh bạc ác khó nhẫn được
Vì Bồ-đề cố tâm bất động, Vì bồ đề nên tâm không động
Thường lạc xưng dương nhẫn công đức Thường thích khen ngợi công đức nhẫn
Thị cố đắc thành thử quang minh. Do đó được thành quang minh này.
Giảng: Gặp được kẻ ác thô bạo chẳng cứ đạo lý, thì rất khó nhẫn được, nhưng cũng phải nhẫn thọ, do đó:
‘’Khó nhẫn nhẫn được, đó là thật nhẫn.’’
Tức cũng là nhẫn là cao, hòa là quý. Tại sao phải nhẫn ? Vì muốn chứng bồ đề, cho nên tâm chẳng động, chẳng động tức là nhẫn, nhẫn tức là định. Thiền định tức là tu thân không động, tâm không động. Mới đắc được cảnh giới như như bất động, liễu liễu thường minh.
Phải luôn luôn khen ngợi công đức nhẫn nhục, gì là công đức ? Tức là người ta nhẫn không được mà bạn nhẫn được, người ta chịu không được mà bạn chịu được, người ta không thể tu mà bạn tu được, người ta không thể làm mà bạn làm được, đó tức là công đức. Có người nói : Chùa Kim Sơn quá khổ ! Ngày ăn một bữa, sáng cũng đói, tối cũng đói, thật chịu chẳng được. Còn đả thiền thất thì sáng sớm ba giờ đã ngồi hương, tối mười hai giờ đêm mới nghỉ, thật là nhẫn thọ chẳng đặng. Ðó tức là biểu hiện nhẫn thọ không đặng. Nếu nhẫn chịu được, thì đắc được quang minh nhẫn nhục.
Hựu phóng quang minh danh dũng mãnh Lại phóng quang minh tên Dũng mãnh
Thử quang giác ngộ lãn đọa giả, Quang đó giác ngộ kẻ lười biếng
Lệnh bỉ thường ư Tam Bảo trung Khiến họ thường ở trong Tam Bảo
Cung kính cúng dường vô bì yếm. Cung kính cúng dường chẳng nhàm mỏi.
Giảng: Lại phóng ra đại quang minh tên là dũng mãnh, tức cũng là tinh tấn. Quang minh đó hay khiến chúng sinh lười biếng giác ngộ, sinh tâm dũng mãnh tinh tấn, siêng tu Phật đạo. Ðối với Tam Bảo thường khởi tâm cung kính và tâm cúng dường, chẳng lúc nào mỏi mệt, nhàm chán.
Người học Phật pháp phải càng ngày càng tinh tấn, không thể có tâm lười biếng, cũng không thể giải đãi, càng không thể phóng dật. Phải luôn giữ quy cụ, ngày đêm sáu thời luôn tinh tấn. Chúng ta đời này tại sao phải chịu khổ ? Vì kiếp trước chẳng tu hành. Ðời này lại không tu hành, thì đời sau càng khổ. Ðây tức là đạo lý Phật giáo cơ bản nhất, hy vọng mọi người chú ý ! Hãy mau tu hành !
Nhược bỉ thường ư Tam Bảo trung Nếu họ thường ở trong Tam Bảo
Cung kính cúng dường vô bì yếm, Cung kính cúng dường chẳng nhàm mỏi
Tức năng siêu xuất tứ ma cảnh Thì sẽ thoát khỏi cảnh bốn ma
Tốc thành vô thượng Phật Bồ-đề. Sớm thành Phật bồ đề vô thượng.
Giảng: Nếu như thường ở trong Tam Bảo sinh tâm cung kính và cúng dường, chẳng có tư tưởng và hành vi nhàm mỏi, thì sẽ thoát khỏi ma năm ấm, ma phiền não, ma chết, thiên ma, bốn cảnh giới ma chướng, thì sớm sẽ thành tựu đạo quả Phật bồ đề vô thượng.
Người tu đạo phải có tâm từ bi, có tư tưởng ta, người, đồng một thể. Tóm lại, tức là vô duyên đại từ, đồng thể đại bi. Người ta tốt tức là mình tốt, người ta xấu tức là mình xấu. Hy vọng ai ai cũng đắc được lợi ích, ai ai cũng đều thành Phật. Ai ai cũng đều giỏi hơn mình, tốt hơn mình, đó mới là bản hoài của người tu đạo. Nếu chẳng có tâm đố kỵ chướng ngại, thì sớm sẽ thành tựu đạo nghiệp. Nếu có chút tâm đố kỵ chướng ngại, thì cách Phật đạo mười vạn tám ngàn dặm, do đó ‘’Sai một ly, đi ngàn dặm.’’
Khuyến hóa chúng sanh lệnh tấn sách Khuyên hóa chúng sinh khiến tấn sách
Thường cần cúng dường ư Tam Bảo Thường siêng cúng dường nơi Tam Bảo
Pháp dục diệt thời chuyên thủ hộ, Lúc pháp muốn diệt chuyên giữ gìn
Thị cố đắc thành thử quang minh. Do đó được thành quang minh này.
Giảng: Khuyên nhủ dạy bảo chúng sinh nhàm mỏi, khiến cho họ tinh tấn, khiến cho họ cảnh sách. Giống như lúc đả thiền thất, nếu có ai ngủ, hoặc phạm quy cụ, thì nhất định phải đánh hương bản. Người bị đánh chẳng những chẳng có tâm sân hận, mà ngược lại càng thêm tinh tấn tu hành, đó tức là cảnh sách. Do đó, trên hương bản biên hai chữ cảnh sách. Ðánh bạn tức là cảnh sách bạn, dạy bạn giữ quy cụ. Bất cứ ai vào trong đạo tràng đều phải giữ quy cụ.
Còn phải thường cúng dường Tam Bảo, phát nguyện vào thời đại mạt pháp, phải chuyên tâm giữ gìn Tam Bảo, ủng hộ Tam Bảo, khiến cho pháp đừng diệt. Phật pháp vừa đến tây phương, làm thế nào khiến Phật pháp đừng tiêu diệt, cho nên mọi người phải nỗ lực để bảo vệ Phật pháp. Do nhân duyên đó, mà thành tựu được quang minh dũng mãnh.
Hựu phóng quang minh danh tịch tĩnh Lại phóng quang minh tên Tịch tĩnh
Thử quang năng giác loạn ý giả, Quang đó giác ngộ kẻ loạn tâm
Lệnh kỳ viễn ly tham khuể si, Khiến họ xa lìa tham sân si
Tâm bất động dao nhi chánh định. Tâm chẳng giao động mà chánh định.
Giảng: Lại phóng ra đại quang minh, tên là tịch tĩnh, tức cũng là thiền định. Thiền định là đối trị mao bệnh tán loạn. Quang minh đó, hay khiến cho chúng sinh tâm loạn tình mê được giác ngộ, xa lìa tham sân si ba độc, tức cũng là khiến cho chúng sinh có dục niệm, có vô minh, có sân hận, gặp được cảnh giới dẫn dụ mà chẳng động tâm. Ðây là đắc được công phu chánh định, tức cũng chuyển được cảnh giới.
Xả ly nhất thiết ác tri thức, Xả lìa tất cả ác trí thức
Vô nghĩa đàm thuyết tạp nhiễm hạnh, Luận đàm vô nghĩa hạnh tạp nhiễm
Tán thán Thiền định A-lan-nhã Khen ngợi thiền định A lan nhã
Thị cố đắc thành thử quang minh. Do đây được thành quang minh này.
Giảng: Có chánh định thì nhận thức được thiện tri thức. Gì là thiện tri thức ? Tức là chẳng có tâm chấp trước, chẳng có tâm tham, chẳng ích kỷ, chẳng tư lợi, chẳng đố kỵ, chẳng chướng ngại, chẳng cống cao, ngã mạn. Tất cả đều nghĩ về người, chẳng những thiện về thân mình, mà cũng thiện về thiên hạ, khiến cho tất cả chúng sinh đều hiểu rõ Phật pháp nghĩa chân thật, đầy đủ chánh tri chánh kiến.
Có định lực thì xả lìa được ác tri thức. Gì là ác tri thức ? Tức là người ích kỷ tư lợi, đố kỵ chướng ngại, cống cao ngã mạn, tất cả chỉ vì nghĩ riêng mình mà chẳng nghĩ đến kẻ khác, có lợi thì tranh, không lợi thì nhường. Chẳng có tâm đạo đức, cũng chẳng có tâm đồng tình. Sự hiểu biết đều là tà tri tà kiến, khiến cho người sinh tư tưởng nhiễm ô, khiến cho tâm chẳng thanh tịnh.
Thiện tri thức chẳng nói pháp vô nghĩa, chẳng luận về hạnh tạp nhiễm, càng không bàn về tất cả tà pháp; chỉ khen ngợi thiền định là diệu pháp môn khai ngộ. A lan nhã là nơi yên tĩnh tu hành. Do nhân duyên đó, cho nên đắc được quang minh tịch tĩnh.
Hựu phóng quang minh danh tuệ nghiêm Lại phóng quang minh tên Huệ nghiêm
Thử quang giác ngộ ngu mê giả, Quang đó giác ngộ kẻ ngu mê
Lệnh kỳ chứng đế giải duyên khởi, Khiến họ chứng đế hiểu duyên khởi
Chư căn trí tuệ tất thông đạt. Các căn trí huệ đều thông đạt.
Giảng: Lại phóng ra đại quang minh tên là huệ nghiêm, tức cũng là trí huệ, dùng trí huệ để trang nghiêm. Quang minh đó hay giác ngộ tất cả chúng sinh ngu si, khiến cho họ chứng được chân lý pháp bốn đế, lại khiến cho họ hiểu rõ đạo lý tánh duyên khởi, khiến cho sáu căn trí huệ thông đạt vô ngại, đây tức là cảnh giới sáu căn dùng với nhau.
Nhược năng chứng đế giải duyên khởi, Nếu chứng bốn đế hiểu duyên khởi
Chư căn trí tuệ tất thông đạt, Các căn trí huệ đều thông đạt
Tức đắc nhật đăng tam muội Pháp, Sẽ được pháp tam muội Nhựt đăng
Trí tuệ quang minh thành Phật quả. Trí huệ quang minh thành Phật quả.
Giảng: Nếu như chứng được pháp bốn đế, hiểu rõ pháp mười hai nhân duyên, thì sáu căn trí huệ sẽ thông đạt vô ngại, thì sẽ đắc được pháp tam muội nhựt đăng, để chiếu khắp tất cả chúng sinh. Có trí huệ quang minh, thì chẳng bao lâu sẽ thành quả vị Phật.
Quốc tài cập kỷ giai năng xả, Quốc tài thân mình đều xả được
Vì Bồ-đề cố cầu chánh pháp, Vì bồ đề nên cầu chánh pháp
Văn dĩ chuyên cần vi chúng thuyết, Nghe rồi chuyên khuyên vì họ nói
Thị cố đắc thành thử quang minh. Do đây được thành quang minh này.
Giảng: Trước khi chưa thành Phật, thì phải thực hành đạo Bồ Tát, đem tài sản đất nước nhà cửa và thân tâm tánh mạng của mình, đều bố thí cho chúng sinh. Tại sao ? Vì cầu bồ đề chánh pháp, đem pháp bốn đế, pháp mười hai nhân duyên, pháp lục độ vạn hạnh mình đã nghe được, chuyên nhất khuyên vì chúng sinh mà nói, do nhân duyên đó, mà được thành quang minh huệ nghiêm. Ở trên là phóng ra đại quang minh sáu độ.
Hựu phóng quang minh danh Phật tuệ, Lại phóng quang minh tên Phật huệ
Thử quang giác ngộ chư hàm thức, Quang đó giác ngộ các hàm thức
Lệnh kiến vô lượng vô biên Phật Khiến thấy vô lượng vô biên Phật
Các các tọa bảo liên hoa thượng. Thảy đều ngồi trên hoa sen báu.
Giảng: Lại phóng ra đại quang minh tên là Phật huệ, tức cũng là trí huệ của Phật. Quang minh đó hay giác ngộ tất cả chúng sinh, khiến cho họ thấy được vô lượng vô biên chư Phật. Hết thảy chư Phật đều ngồi kiết già trên hoa sen báu lớn.
Tán Phật uy đức cập giải thoát Khen Phật oai đức và giải thoát
Thuyết Phật tự tại vô hữu lượng, Nói Phật tự tại vô số lượng
Hiển thị Phật lực cập thần thông, Hiển bày Phật lực và thần thông
Thị cố đắc thành thử quang minh. Do đây được thành quang minh này.
Giảng: Lại khen ngợi oai đức và đạo giải thoát vi diệu của chư Phật, rộng nói tự tại thần lực và đạo giải thoát vô thượng của chư Phật, đều là vô lượng vô biên. Ở trong quang minh lại hiển bày đủ thứ phương tiện và đủ thứ thần thông diệu dụng. Bởi nhân duyên đó, nên được thành quang minh Phật huệ.
Hựu phóng quang minh danh vô úy Lại phóng quang minh tên Vô úy
Thử quang chiếu xúc khủng bố giả Quang đó chiếu đến kẻ sợ hãi
Phi nhân sở trì chư độc hại, Kẻ ác cầm giữ các độc hại
Nhất thiết giai lệnh tật trừ diệt. Hết thảy đều khiến sớm tiêu trừ.
Giảng: Lại phóng ra đại quang minh tên là vô úy. Quang minh đó hay chiếu đến chúng sinh sợ hãi, khiến cho họ chẳng có các độc hại. Quang minh đó hay làm cho kẻ ác chẳng có nhân tánh hại người, cầm vũ khí giết người, hoặc thuốc độc hại người, đều sớm tiêu trừ sạch.
Năng ư chúng sanh thí vô úy Nơi các chúng sinh thí vô úy
Ngộ hữu não hại giai khuyến chỉ, Gặp kẻ não hại khuyên dừng lại
Chửng tế ách nạn cô cùng giả Cứu người hiểm nạn cô bần cùng
Dĩ thị đắc thành thử quang minh. Do đây được thành quang minh này.
Giảng: Hay khiến chúng sinh rộng bố thí pháp vô úy, gặp kẻ muốn não loạn thương hại chúng sinh, thì khuyên họ dừng lại hành vi đó, phải cứu giúp người cô độc, nguy hiểm, khốn khổ bần cùng. Bởi nhân duyên đó, mà được thành tựu quang minh vô úy.
Hựu phóng quang minh danh an ổn, Lại phóng quang minh tên an ổn
Thử quang năng chiếu tật bệnh giả Quang đó chiếu đến kẻ bệnh tật
Lệnh trừ nhất thiết chư khổ thống, Khiến trừ tất cả các thống khổ
Tất đắc chánh định tam muội lạc. Đều được vui chánh định tam muội.
Giảng: Lại phóng ra đại quang minh tên là an ổn. Quang minh đó hay chiếu phá tất cả bệnh tật của chúng sinh, khiến cho họ tiêu trừ tất cả thống khổ, đều đắc được an vui chánh định chánh thọ.
Thí dĩ lương dược cứu chúng hoạn hí dùng thuốc hay cứu các bệnh
Diệu bảo duyên mạng hương đồ thể Diệu báu sống lâu hương thoa thân
Tô du nhũ mật sung ẩm thực Dầu tô sữa mật làm ăn uống
Dĩ thị đắc thành thử quang minh. Do đây được thành quang minh này.
Giảng: Nếu như hay bố thí đủ thứ thuốc hay, để cứu đủ thứ chứng bệnh, theo bệnh cho thuốc, giải trừ thống khổ, tức là diệu báu, có thể sống lâu. Hoặc dùng hương thoa thân, hoặc dùng dầu tô thắp đèn, hoặc dùng sữa, mật làm thức ăn uống. Như thế mới đắc được quang minh an ổn.
Bệnh tật của chúng sinh, tức là tham, sân, si, mạn, nghi, năm thứ bệnh nhiệt độc, dùng thuốc pháp bốn đế, mười hai nhân duyên, sáu độ, để đối trị thì chắc chắn thuốc đến sẽ lành bệnh, do đó ‘’theo bệnh cho thuốc.’’ Ví như chứng bệnh nhiệt, thì phải uống thuốc có tánh mát mẻ; chứng bệnh hàn, thì phải uống thuốc có tánh nhiệt.
Hựu phóng quang minh danh kiến Phật Lại phóng quang minh tên Thấy Phật
Thử quang giác ngộ tướng một giả, Quang đó giác ngộ kẻ sắp chết
Lệnh tùy ức niệm kiến Như Lai Khiến họ nhớ niệm thấy Như Lai
Mạng chung đắc sanh kỳ tịnh quốc. Mạng chung được sinh về tịnh độ.
Giảng: Lại phóng ra đại quang minh tên là thấy Phật. Ở trong quang minh thấy được mười phương tất cả chư Phật. Quang minh đó hay giác ngộ chúng sinh sắp chết, khiến cho họ tùy thời nhớ niệm Phật A Di Ðà, để niệm danh hiệu Phật. Chỉ cần nhất tâm bất loạn, niệm mười tiếng danh hiệu Phật, thì có thể vãng sinh về cõi Tây Phương Cực Lạc Thế Giới.
Kiến hữu lâm chung khuyến niệm Phật Thấy người lâm chung khuyên niệm Phật
Hựu thị tôn tượng lệnh chiêm kính, Lại bày Thánh tượng khiến chiêm kính
Tỉ ư Phật sở thâm quy ngưỡng, Khiến nơi chỗ Phật sâu quy ngưỡng
Thị cố đắc thành thử quang minh. Do đây được thành quang minh này.
Giảng: Nếu thấy người lúc lâm chung, thì khuyên họ niệm Phật, khiến cho họ có thể vãng sinh về cõi nước thanh tịnh. Tại sao hiện tại chúng ta phải niệm Phật ? Tức là huấn luyện lúc lâm chung còn nhớ mà niệm Phật, mới có thể vãng sinh về thế giới Cực Lạc, hoặc thế giới Phương Ðông.
Có người nói :
– ‘’Vậy, bình thường chúng ta không cần niệm Phật, đợi đến lúc lâm chung thì hãy niệm Phật không được chăng‘’?
– Không thể được, vì: ‘’Bình thường không thắp hương, lúc chết ôm chân Phật,’’ thì đã quá muộn màng. Vì con người vào giờ phút cuối cùng, hay hoang mang lo âu sợ sệt, hoặc lưu luyến con cái, thì sẽ quên niệm Phật. Cho nên lúc bình thường hãy niệm Phật cho nhiều, khiến cho tâm thanh tịnh, phiền não quét sạch, tất cả buông xả, chẳng chấp trước thứ gì, thì đến lúc lâm chung, tâm tịnh không phiền não, một lòng một dạ cầu sinh Tây Phương, thì chắc chắn sẽ được Tây Phương Tam Thánh cầm đài sen vàng đến tiếp dẫn.
Con người lúc lâm chung thì thần chí không tịnh, không thể niệm Phật, hoặc thỉnh chư Tăng đến trợ niệm, hoặc thỉnh thiện tri thức đến trợ niệm, hoặc thỉnh bạn bè đến trợ niệm. Như thế sẽ khiến cho người lâm chung sinh tâm bồ đề, trong một niệm hoạch được vô lượng công dụng, có công đức không thể nghĩ bàn.
Hoặc trong phòng bệnh nhân bày Thánh Tượng (Phật A Di Ðà, Bồ Tát Quán Thế Âm, Bồ Tát Thế Chí), khiến cho người lâm chung chiêm ngưỡng cung kính, thì khi mạng chung cũng sẽ sinh về Tây Phương Tịnh Ðộ. Khiến cho bệnh nhân đến chỗ Phật để quy y Phật, cung kính lễ bái, tu hành như thế, thì sẽ đắc được quang minh thấy Phật.
Hựu phóng quang minh danh lạc Pháp Lại phóng quang minh tên Lạc pháp
Thử quang năng giác nhất thiết chúng, Quang đó giác ngộ tất cả chúng
Lệnh ư chánh pháp thường hân lạc Khiến nơi chánh pháp thường an lạc
Thính văn diễn thuyết cập thư tả. Lắng nghe diễn nói và biên chép.
Giảng: Lại phóng ra đại quang minh tên là lạc pháp. Quang minh đó hay giác ngộ tất cả chúng sinh, khiến cho người nghe chánh pháp thường sinh tâm hoan hỷ, đắc được cảnh giới vui thiền định làm thức ăn, niềm vui của pháp tràn đầy. Quang minh đó lại khiến cho chúng sinh hoan hỷ Phật pháp, bất cứ ở đâu có người giảng Kinh thuyết pháp, thì đều đến tham gia. Phải biết nghe Kinh có lợi ích diệu không thể tả, sau khi nghe rồi thì phải diễn nói hoặc biên chép.
Pháp dục tận thời năng diễn thuyết Lúc pháp sắp diệt hay diễn nói
Lệnh cầu Pháp giả ý sung mãn, Khiến người cầu pháp ý sung mãn
Ư pháp ái lạc cần tu hành, Nơi pháp ưa thích siêng tu hành
Thị cố đắc thành thử quang minh. Do đây được thành quang minh này.
Giảng: Vào thời đại mạt pháp, nên đem chánh pháp đã được nghe, diễn nói cho chúng sinh nghe, hoặc biên chép cho chúng sinh xem, khiến cho chúng sinh thấy nghe, để đắc được pháp ích mãn ý. Ðối nơi pháp sinh tâm ưa thích, thì sẽ siêng năng tu hành. Tu hành thì phải quán triệt thủy chung, không thể ‘’một ngày nóng mười ngày lạnh,’’ tu hành như thế thì chẳng đắc được lợi ích. Vì muốn nghe pháp, diễn nói, tu hành, biên chép, ấn tống .v.v… nên đắc được quang minh pháp lạc.
Hựu phóng quang minh danh Diệu-Âm Lại phóng quang minh tên Diệu âm
Thử quang khai ngộ chư Bồ-tát, Quang đó khai ngộ các Bồ Tát
Năng lệnh tam giới sở hữu thanh, Hay khiến hết thảy tiếng ba cõi
Văn giả giai thị Như Lai âm. Người nghe đều là tiếng Như Lai.
Giảng: Lại phóng ra đại quang minh tên là diệu âm. Tất cả âm thanh thế gian đều biến thành diệu âm. Vào đời Tống, Tô Ðông Pha đã từng nói :
‘’Kê thanh tận thị quảng trường thiệt
Sơn sắc vô phi thanh tịnh thân.’’
Tiếng suối nước chảy, đều là đang diễn nói diệu âm; núi xanh tất cả màu sắc, đều là diệu thân thanh tịnh. Quang minh đó hay khiến cho tất cả Bồ Tát khai ngộ. Bồ Tát mới phát tâm bồ đề, thấy được quang minh này, thì sẽ đắc được trí huệ biện tài vô ngại. Quang minh này lại khiến cho hết thảy tất cả tiếng của ba cõi, khiến cho chúng sinh nghe được đều là diệu âm của Như Lai.
Dĩ Đại âm thanh xưng tán Phật, Dùng âm thanh lớn khen ngợi Phật
Cập thí linh đạc chư âm nhạc Và thí linh chuông các âm nhạc
Phổ sử thế gian văn Phật âm, Khắp khiến thế gian nghe tiếng Phật
Thị cố đắc thành thử quang minh. Do đây được thành quang minh này.
Giảng: Khi Bồ Tát tại nhân địa tu hành sáu độ vạn hạnh, thì thường dùng âm thanh lớn, để khen ngợi công đức của mười phương ba đời tất cả chư Phật, và bố thí linh báu, chuông báu cùng tất cả âm nhạc, khiến cho khắp tất cả chúng sinh thế gian nghe được diệu âm của Phật. Do đủ thứ hạnh môn tu hành tại nhân địa, mà đắc được quang minh diệu âm này.
Hựu phóng quang danh thí cam lồ Lại phóng quang tên Thí cam lồ
Thử quang khai ngộ nhất thiết chúng Quang đó khai ngộ tất cả chúng
Lệnh xả nhất thiết phóng dật hạnh Khiến xả tất cả hạnh phóng dật
Cụ túc tu tập chư công đức. Tu tập đầy đủ các công đức.
Giảng: Lại phóng ra đại quang minh tên là thí cam lồ. Quang minh đó hay khai ngộ tất cả chúng sinh, hay giải trừ đói khát và phiền não, lại hay xả lìa tất cả hành vi phóng dật (chẳng giữ quy cụ), mà y giáo phụng hành. Không phóng dật thì tinh tấn. Tinh tấn thì tu tập đầy đủ tất cả công đức. Người tu đạo, không thể theo tham sân si đi làm việc điên đảo, nhất định phải tinh tấn dũng mãnh tiến về trước.
Thuyết hữu vi Pháp phi an ổn Nói pháp hữu vi chẳng an ổn
Vô lượng khổ não tất sung biến, Vô lượng khổ não đều đầy dẫy
Hằng lạc xưng dương tịch diệt lạc Luôn thích khen ngợi vui vắng lặng
Thị cố đắc thành thử quang minh. Do đây được thành quang minh này.
Giảng: Vì chúng sinh diễn nói pháp hữu vi, nói đây chẳng phải là pháp an ổn. Tại sao ? Vì pháp này là hư vọng không thật. Ví như công danh phú quý đều là tạm thời. Giống như hoa ở trong gương, trăng ở dưới nước đều hư vọng chẳng chân thật. Ðừng bị công danh phú quý hư vọng làm lay động, hãy nhận thức tất cả hết thảy đều là vô thường, khổ, không, vô ngã. Hết thảy pháp hữu vi đều có vô lượng khổ não. Lớn là quốc gia, nhỏ là gia đình, cũng đều có khổ não. Ai ai cũng đều có khổ não, ví như làm quan thì có khổ não làm quan, buôn bán thì có khổ não về buôn bán, đi học thì có khổ não về đi học. Tóm lại, chẳng có ai mà chẳng có khổ não, cho nên vô lượng khổ não đều đầy dẫy. Phải luôn an vui mà hoan hỷ khen ngợi pháp vắng lặng là vui, đó tức là niềm vui thiền định, chẳng phải nhân gian tìm được, cũng chẳng cách gì hình dung được. Vì khen ngợi tán thán vui vắng lặng, cho nên đắc được quang minh thí cam lồ.
Hựu phóng quang minh danh tối thắng Lại phóng quang minh tên Tối thắng
Thử quang khai ngộ nhất thiết chúng, Quang đó khai ngộ tất cả chúng
Lệnh ư Phật sở phổ thính văn, Khiến ở chỗ Phật khắp nghe được
Giới định trí tuệ tăng thượng Pháp. Giới định trí huệ pháp tăng thượng.
Giảng: Lại phóng ra đại quang minh tên là tối thắng. Quang minh đó hay khai ngộ tất cả chúng sinh, khiến cho chúng sinh có tâm tham, sẽ sinh tâm bố thí, có tâm sân sẽ sinh tâm từ bi, khiến cho chúng sinh có tâm si, sẽ sinh trí huệ. Quang minh đó hay biến đổi tư tưởng của chúng sinh, khiến cho tham thì chẳng tham, sân thì chẳng sân, si thì chẳng si. Tất cả đều bỏ mê về với giác ngộ, cải ác làm lành, có công dụng như thế. Khiến cho chúng sinh đều phát tâm bồ đề, ở trong đạo tràng của Phật, khắp nghe tất cả các pháp, tu tập giới, định, huệ, ba học vô lậu, đó là pháp tăng thượng, hay tăng trưởng căn lành.
Thường lạc xưng dương nhất thiết Phật, Luôn thích khen ngợi tất cả Phật
Thắng giới thắng định thù thắng tuệ, Thắng giới thắng định huệ thù thắng
Như thị vi cầu vô thượng đạo Như vậy vì cầu đạo vô thượng
Thị cố đắc thành thử quang minh. Do đây được thành quang minh này.
Giảng: Phải luôn luôn ưa thích khen ngợi tán thán ba lậu vô học thù thắng, của mười phương ba đời tất cả chư Phật. Giới là gì? Tức là ngừa ác phòng quấy, không làm các điều ác, siêng làm các điều thiện. Ðịnh là gì ? Tức là tâm chẳng động. Như như chẳng động, sáng suốt rõ ràng, chẳng bị cảnh vật bên ngoài làm giao động, nhận thức tự tánh vốn có. Huệ là gì ? Tức là trí huệ Bát Nhã. Phân biệt thiện ác, biện rõ thị phi. Chẳng bị điên đảo mê hoặc, chẳng bị cảnh giới lay chuyển. Tóm lại, chẳng làm việc hồ đồ, toàn làm chuyện sáng suốt, đó tức là phương pháp cầu đạo vô thượng. Do nhân duyên đó, mà đắc được quang minh tối thắng.
Hựu phóng quang minh danh bảo nghiêm, Lại phóng quang minh tên Bảo nghiêm
Thử quang năng giác nhất thiết chúng, Quang đó khai ngộ tất cả chúng
Lệnh đắc Bảo Tạng vô cùng tận, Khiến được bảo tạng vô cùng tận
Dĩ thử cúng dường chư Như Lai. Dùng để cúng dường các Như Lai.
Giảng: Lại phóng ra đại quang minh tên là bảo nghiêm. Quang minh đó hay giác ngộ tất cả chúng sinh, khiến cho họ đắc được bảo tạng chẳng cùng tận, bèn dùng bảo tạng đó để cúng dường các Như Lai. Do đó có câu :
‘’Ðời này phú quý là nhân gì ?
Ðời trước đem tiền làm Phật vàng
Ðời này nghèo cùng là nhân gì ?
Ðời trước chẳng chịu cứu người nghèo
Ðời này xinh đẹp là nhân gì ?
Ðời trước mua hương đèn cúng Phật
Ðời này xấu xí là nhân gì ?
Ðời trước thân nhơ ở trước Phật
Ðời này ngu si là nhân gì ?
Ðời trước gian xảo khi người lành
Ðời này trí huệ là nhân gì ?
Ðời trước ấn tống các Kinh Phật.’’
Ðây đều là báo ứng và chiêu cảm của tiền nhân hậu quả.
Bây giờ nói về một câu chuyện bỏn xẻn thành tánh nết : Thuở xưa có một ông phú hộ, một xu cũng chẳng chịu bố thí, rất bỏn xẻn đối với mọi người. Ông ta có bốn người con. Vì ông ta thương yêu tài, cho nên thằng con lớn, ông đặt tên là Vàng, thằng con thứ hai tên là Bạc, thằng thứ ba tên là Đá Quý, thằng thứ tư tên là Nghiệp Chướng. Ba người con đều đậu đại học. Ông anh cả đậu bằng tiến sĩ, ông thứ hai đậu thạc sĩ, ông thứ ba đậu bằng học sĩ, đều kết hôn sinh con đẻ cái, sự nghiệp đều thành tựu vẻ vang. Chỉ có đứa em út, chỉ học đến tiểu học, chẳng kết hôn, chẳng có chức nghiệp. Tại sao ? Vì bố anh ta chẳng thích anh ta, do đó chịu đủ thứ thiệt thòi. Song, anh ta rất có hiếu, rất nghe lời của cha, còn ba ông anh tuy là có học vấn, nhưng chẳng nghe lời bố.
Ông đó tuổi già nhiều bệnh, thì tự biết rằng bệnh đã đến lúc nguy kịch, chẳng còn hy vọng gì nữa. Cảm thấy một mình đi xuống âm phủ thì quá cô đơn, muốn đem theo một đứa con đi làm bạn cho vui. Do đó bèn kêu thằng anh cả đến để thương lượng :
– ‘’Vàng con ! Chúng ta cha con có cảm tình rất mật thiết, con có thể cùng đi theo cha không‘’?
Thằng anh cả nghe rồi thì sửng sốt, chẳng nể nang gì nói :
– ‘’Cha chết chẳng có quan hệ gì đến con ! Con chưa hưởng thụ xong vinh hoa phú quý, con không thể nào đi được ! Con không đi.’’
Ðại phú ông rất thương tâm, bèn gọi thằng con thứ hai đến nói :
– ‘’Bạc con ! Cha sắp chết, con có thể cùng đi với cha chăng‘’?
Không ngờ thằng Bạc trừng mắt nói :
– ‘’Cha thật là hồ đồ, con tuổi còn trẻ như thế này, mà làm sao đi theo chết với cha chứ ! Con muốn sống một cuộc sống sung sướng, con không đi với cha.’’
Ðại phú ông buồn rầu thảm não, chẳng cách gì hơn. Còn thằng con thứ ba mà ông cũng rất thương nó, muốn thương lượng thử nó có chịu đi với mình chăng. Do đó bèn kêu thằng con thứ ba đến và nói :
– ‘’Ðá Quý con ! Con là đứa con mà ba thương nhất (học về Kinh tế học), có thể nào con cùng đi với ba xuống âm phủ làm cố vấn tinh tế cho ba không‘’?
Thằng con thứ ba nghe Kinh hồn thất sắc nói :
– ‘’Ba à ! Không thể được đâu ! Tuy con học về kinh tế, nhưng sở học còn chưa phát huy hết, con muốn ở lại thế gian học thêm nữa, để tốt nghiệp tiến sĩ, trở thành nhà đại tư bản của thế giới. Xin lỗi, bây giờ con không thể đi cùng với ba xuống âm phủ, tha thứ cho con tội bất hiếu.’’
Ðại phú ông quá thất vọng buồn bã vô cùng. Trong lúc đó thì đứa con thứ tư, người cha chẳng kêu đến, mà anh ta quyết chí theo cha, cha ở đâu thì anh ở đó, làm theo nguyện vọng của cha, đại phú ông lúc đó vui mừng rơi lệ nói :
– ‘’Nghiệp Chướng con ! Ba thật tình xin lỗi con, chẳng để cho con học đại học, cũng chẳng cho con thành gia lập nghiệp, ba đối đãi với con rất bạc bẽo. Hy vọng con tha thứ tâm thiên lệch của ba.’’ Nói xong thì tay không ra đi, chỉ có thằng Nghiệp Chướng theo ông ta đi. Do đó :
‘’Vạn thứ chẳng mang theo được
Chỉ có nghiệp theo mình.’’
Lúc người chết, gì cũng chẳng mang theo đặng, chỉ có nghiệp chướng đi theo. Lúc còn sống làm nghiệp thiện, thì có nghiệp thiện; lúc còn sống làm nghiệp ác, thì có nghiệp ác. Vàng, bạc, đá quý, đều chẳng đi, chỉ nghiệp chướng hoan hỷ đi theo thọ báo.
Ðời người trên thế gian, tất cả đều như huyễn như hóa, hư vọng không thật, cho nên tất cả đừng cho là thật. Nếu cho là thật thì càng hồ đồ, chẳng cho là thật thì càng minh bạch. Minh bạch nhiều thì hồ đồ ít, thì chẳng làm việc điên đảo mộng tưởng.
Chúng ta người tu đạo thì tu cái gì ? Tức là tu tâm không tham sân si. Ðừng tham mà không biết chán, đừng tham vui năm dục, đừng nóng giận, tất cả đều phải nhẫn nại. Người tu hành mà không thể nhẫn nại, chẳng có công phu nhẫn nại, thì tất cả pháp môn, bất cứ tu hành đến trình độ nào, cũng chẳng thành tựu, đồng thời sẽ càng biến thành ngu si.
Dĩ chư chủng chủng thượng diệu bảo Dùng đủ thứ diệu báu vô thượng
Phụng thí ư Phật cập Phật tháp, Dâng lên cúng Phật và tháp Phật
Diệc dĩ huệ thí chư bần phạp, Cũng bố thí cho các kẻ nghèo
Thị cố đắc thành thử quang minh. Do đây được thành quang minh này.
Giảng: Dùng tất cả thứ diệu báu vô thượng, để cúng dường Phật và kiến lập tháp Phật. Lại dùng tất cả châu báu bố thí cho kẻ nghèo, để giúp đỡ tất cả người nghèo khổ, khiến cho họ đắc được lợi ích. Do nhân duyên đó mà đắc được quang minh bảo nghiêm.
Hựu phóng quang minh danh hương nghiêm Lại phóng quang minh tên Hương nghiêm
Thử quang năng giác nhất thiết chúng, Quang đó giác ngộ tất cả chúng
Lệnh kỳ văn giả duyệt khả ý, Khiến người ngửi được tâm vui mừng
Quyết định đương thành Phật công đức. Quyết định sẽ thành công đức Phật.
Giảng: Lại phóng ra đại quang minh tên là hương nghiêm. Quang minh đó hay giác ngộ tất cả chúng sinh, khiến cho chúng sinh ngửi được hương vị đó, thì tâm sinh vui mừng, quyết định sẽ thành tựu công đức của Phật.
Nhân thiên diệu hương dĩ đồ địa Trời người dùng hương thơm thoa đất
Cúng dường nhất thiết tối thắng chủ, Cúng dường tất cả đấng Tối Thắng
Diệc dĩ tạo tháp cập Phật tượng, Cũng tạo tháp Phật và tượng Phật
Thị cố đắc thành thử quang minh. Do đây được thành quang minh này.
Giảng: Trời, người dùng hương thơm để thoa đất. Tại sao ? Vì trang nghiêm để cúng dường tất cả đấng Tối Thắng, tức cũng là Phật. Cũng tạo tháp báu trang nghiêm, cũng tạo tượng Phật trang nghiêm, để cúng dường Phật. Do nhân duyên đó, cho nên đắc được quang minh hương nghiêm.
Hựu phóng quang danh tạp trang nghiêm, Lại phóng quang tên Tạp trang nghiêm
Bảo tràng phan cái vô ương số, Tràng phan lọng báu vô số lượng
Phần hương tán hoa tấu chúng nhạc, Đốt hương rải hoa tấu âm nhạc
Thành ấp nội ngoại giai sung mãn. Thành ấp trong ngoài đều đầy dẫy.
Giảng: Lại phóng quang minh tên là tạp trang nghiêm. Có tràng báu, phan báu, lọng báu, có nhiều vô lượng số. Lại đốt lên đủ thứ hương thơm, lại rải khắp đủ thứ hoa báu, lại diễn tấu đủ thứ âm nhạc để cúng dường Phật, để trang nghiêm chỗ Ðức Phật. Trong thành ngoài ấp đều đầy dẫy các thứ báu nghiêm sức.
Bổn dĩ vi diệu kĩ nhạc âm Lại dùng âm kỹ nhạc vi diệu
Chúng hương hương khí tràng cái đẳng Các hương hoa đẹp tràng lọng thảy
Chủng chủng trang nghiêm cúng dường Phật Đủ thứ trang nghiêm cúng dường Phật
Thị cố đắc thành thử quang minh. Do đây được thành quang minh này.
Giảng: Lại dùng đủ thứ âm kỹ nhạc vi diệu không thể nghĩ bàn, đủ thứ hương thơm, hoa quý, tràng báu, lọng báu .v.v… đủ thứ sự trang nghiêm để cúng dường Phật. Vì nhân duyên đó, cho nên đắc được thành tựu quang minh tạp trang nghiêm.
Hựu phóng quang minh danh nghiêm khiết Lại phóng quang minh tên Nghiêm khiết
Lệnh địa bình thản do như chưởng, Khiến đất bằng phẳng như bàn tay
Trang nghiêm Phật tháp cập kỳ xứ Trang gnhiêm tháp Phật và đạo tràng
Thị cố đắc thành thử quang minh. Do đây được thành quang minh này.
Giảng: Lại phóng đại quang minh tên là nghiêm khiết. Quang minh đó chiếu soi đến đâu, thì khiến cho đất nơi đó bằng phẳng như bàn tay, chẳng có chỗ nào lồi lõm, hay khiến tạo tháp báu và đạo tràng của Phật. Do nhân duyên đó, cho nên đắc được quang minh nghiêm khiết.
Hựu phóng quang minh danh đại vân Lại phóng quang minh tên Đại vân
Năng khởi hương vân vũ hương thủy Hay nổi mây thơm mưa nước thơm
Dĩ thủy sái tháp cập đình viện Dùng nước rưới tháp và chùa viện
Thị cố đắc thành thử quang minh. Do đây được thành quang minh này.
Giảng: Lại phóng đại quang minh tên là đại vân (mây lớn). Quang minh đó hay nổi mây thơm để mưa xuống nước thơm. Dùng nước thơm để rưới lên tháp báu và chùa viện. Do công đức đó, mà đắc được quang minh đại vân.
Hựu phóng quang minh danh nghiêm cụ Lại phóng quang minh tên Nghiêm cụ
Lệnh lỏa hình giả đắc thượng phục, Khiến người lõa thể được y phục
Nghiêm thân diệu vật nhi vi thí Vật tốt nghiêm thân thí cho họ
Thị cố đắc thành thử quang minh. Do đây được thành quang minh này.
Giảng: Lại phóng đại quang minh tên là nghiêm cụ. Quang minh đó hay khiến cho chúng sinh lõa thể chẳng có quần áo mặc, thì được quần áo đẹp. Dùng đủ thứ vật quý giá trang nghiêm thân bố thí cho chúng sinh. Do thực hành hạnh bố thí như thế, cho nên được thành quang minh nghiêm cụ.
Hựu phóng quang minh danh thượng vị Lại phóng quang minh tên Thượng vị
Năng lệnh cơ giả hoạch mỹ thực, Hay khiến kẻ đói được ăn ngon
Chủng chủng trân soạn nhi vi thí, Đủ thứ cỗ quý đem bố thí
Thị cố đắc thành thử quang minh. Do đây được thành quang minh này.
Giảng: Lại phóng đại quang minh tên là thượng vị. Quang minh đó hay khiến cho chúng sinh đói khát, được thức ăn ngon. Lại dùng đủ thứ thức ăn uống thượng hạng cúng dường Tam Bảo, bố thí chúng sinh. Do nhân duyên đó, cho nên được thành quang minh thượng vị.
Hựu phóng quang minh danh Đại tài, Lại phóng quang minh tên Đại tài
Lệnh bần phạp giả hoạch Bảo Tạng, Khiến kẻ bần cùng được bảo tàng
Dĩ vô tận vật thí Tam Bảo, Dùng vật vô tận cúng Tam Bảo
Thị cố đắc thành thử quang minh. Do đây được thành quang minh này.
Giảng: Lại phóng đại quang minh tên là đại tài. Quang minh đó hay khiến cho chúng sinh bần cùng đắc được bảo tàng. Dùng của cải vô tận để cúng dường Tam Bảo, bố thí cho chúng sinh. Do nhân duyên đó, cho nên được quang minh đại tài.
Hựu phóng quang danh nhãn thanh tịnh Lại phóng quang tên Mắt thanh tịnh
Năng lệnh manh giả kiến chúng sắc, Hay khiến kẻ mù thấy các sắc
Dĩ đăng thí Phật cập Phật tháp, Dùng đèn cúng Phật và tháp Phật
Thị cố đắc thành thử quang minh. Do đây được thành quang minh này.
Giảng: Lại phóng ra đại quang minh tên là mắt thanh tịnh. Quang minh đó, hay khiến cho chúng sinh mù mắt nhìn thấy được đủ thứ màu sắc. Vì dâng đèn cúng dường Phật và tháp Phật, cho nên đắc được đại quang minh này.
Một trong mười đệ tử lớn của Ðức Phật, có thiên nhãn thông đệ nhất, đó là tôn giả A Nậu Lâu Ðà, là em bà con với Ðức Phật. Sau khi tôn giả xuất gia rồi, vì lười biếng, cho nên thường hay ngủ. Một ngày nọ, Phật đang nói pháp thì tôn giả ngủ gục, cho nên bị Phật quở. Tôn giả sinh tâm hổ thẹn, phát nguyện không ngủ. Do đó dũng mãnh tinh tấn, bảy ngày bảy đêm không ngủ, sau đó hai mắt bị mù. Tuy nhìn không thấy, nhưng vẫn tinh tấn, cho nên chứng được thiên nhãn thông, được gọi là thiên nhãn đệ nhất.
Chúng ta mỗi người toàn thân có tám vạn bốn ngàn lỗ chân lông, trong mỗi lỗ chân lông đều có con mắt. Trong mỗi bàn tay đều có con mắt, đáng tiếc không thể mở đặng. Tại sao ? Vì không tu hành, nếu chân thật tu hành, nhân duyên thành thục thì sẽ khai mở, nhìn thấy tất cả sự vật.
Hựu phóng quang danh nhĩ thanh tịnh, Lại phóng quang tên Tai thanh tịnh
Năng lệnh lung giả tất thiện thính, Hay khiến kẻ điếc đều được nghe
Cổ nhạc ngu Phật cập Phật tháp Trống nhạc cúng Phật và tháp Phật
Thị cố đắc thành thử quang minh. Do đây được thành quang minh này.
Giảng: Lại phóng ra đại quang minh tên là tai thanh tịnh. Quang minh đó, hay khiến cho kẻ điếc nghe được tất cả âm thanh rõ ràng. Dùng âm nhạc của trống để dâng cúng Phật và tháp Phật. Do nhân duyên đó, cho nên được thành tựu quang minh tai thanh tịnh.
Hựu phóng quang danh tỳ thanh tịnh Lại phóng quang tên Mũi thanh tịnh
Tích vị văn hương giai đắc văn, Xưa chưa ngửi hương đều được ngửi
Dĩ hương thí Phật cập Phật tháp Dùng hương cúng Phật và tháp Phật
Thị cố đắc thành thử quang minh. Do đây được thành quang minh này.
Giảng: Lại phóng ra đại quang minh tên là mũi thanh tịnh. Quang minh đó hay khiến cho chúng sinh xưa chưa được ngửi hương vị, đều ngửi được hương vị, dùng hương để cúng dường Phật và tháp Phật. Do nhân duyên đó, cho nên được thành tựu quang minh mũi thanh tịnh.
Hựu phóng quang danh thiệt thanh tịnh Lại phóng quang tên Lưỡi thanh tịnh
Năng dĩ mỹ âm xưng tán Phật, Hay dùng tiếng hay khen ngợi Phật
Vĩnh trừ thô ác bất thiện ngữ, Vĩnh trừ lời thô ác bất thiện
Thị cố đắc thành thử quang minh. Do đây được thành quang minh này.
Giảng: Lại phóng ra đại quang minh tên là lưỡi thanh tịnh. Quang minh đó hay dùng tiếng hay để khen ngợi công đức của chư Phật. Vì vĩnh viễn tiêu trừ lời thô ác chẳng thiện, cho nên được thành tựu quang minh lưỡi thanh tịnh.
Hựu phóng quang danh thân thanh tịnh Lại phóng quang tên Thân thanh tịnh
Chư căn khuyết giả lệnh cụ túc, Các căn ai thiếu khiến đầy đủ
Dĩ thân lễ Phật cập Phật tháp, Dùng thân lễ Phật và tháp Phật
Thị cố đắc thành thử quang minh. Do đây được thành quang minh này.
Giảng: Lại phóng ra đại quang minh tên là thân thanh tịnh. Quang minh đó hay khiến cho chúng sinh nào sáu căn không đủ, thì đều được đầy đủ, chẳng thiếu khuyết. Vì dùng thân lễ Phật và tháp Phật, có công đức đó, cho nên được thành tựu quang minh thân thanh tịnh.
Hựu phóng quang danh ý thanh tịnh, Lại phóng quang tên Ý thanh tịnh
Lệnh thất tâm giả đắc chánh niệm, Khiến kẻ mất tâm được chánh niệm
Tu hành tam muội tất tự tại, Tu hành tam muội đều tự tại
Thị cố đắc thành thử quang minh. Do đây được thành quang minh này.
Giảng: Lại phóng ra đại quang minh tên là ý thanh tịnh. Quang minh đó, hay khiến cho chúng sinh phát cuồng đắc được chánh niệm, chẳng còn nghĩ tưởng hồ đồ, tán loạn, hoặc tinh thần hoảng hốt. Vì tu hành chánh định chánh niệm, hoàn toàn đều tự tại, cho nên đắc được quang minh ý thanh tịnh.
Sáu bài kệ ở trên là nói về mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, sáu căn thanh tịnh. Sáu bài kệ dưới đây là nói về sắc, thanh, hương, vị, súc, pháp, sáu trần thanh tịnh. Lúc điên đảo, thì sáu căn đối với sáu trần phát sinh tác dụng. Khi giác ngộ, thì sáu căn dối với sáu trần chẳng khởi tác dụng. Nói tóm lại, dụng được sáu căn sáu trần, thì sẽ giác ngộ; chẳng dụng được sáu căn sáu trần, thì mê hoặc. Do đó:
‘’Giác ngộ là Phật, mê hoặc là chúng sinh.’’
Nếu chẳng bị sáu trần lay chuyển, mà chuyển được sáu trần, tức là sáu căn thanh tịnh, như vậy sẽ đắc được cảnh giới sáu căn dụng với nhau, cảnh giới đó thật là diệu không thể tả ! Con mắt nói được, lỗ tai nhìn được sự vật, lỗ mũi ngửi được, lưỡi thân ý ba căn cũng đầy đủ tác dụng của sáu căn. Làm thế nào để có được cảnh giới sáu căn dùng với nhau, trước hết phải khiến cho sáu căn thanh tịnh, không bị sáu trần làm lay chuyển, thì tự nhiên sẽ được dụng với nhau. Song, phải hạ một phen khổ công phu thì mới được thành tựu.
Hựu phóng quang danh sắc thanh tịnh Lại phóng quang tên sắc thanh tịnh
Lệnh kiến nan tư chư Phật sắc Khiến thấy Phật sắc không nghĩ bàn
Dĩ chúng diệu sắc trang nghiêm tháp Dùng các sắc đẹp trang nghiêm tháp
Thị cố đắc thành thử quang minh. Do đây được thành quang minh này.
Giảng: Lại phóng ra đại quang minh tên là sắc thanh tịnh. Quang minh đó, hay khiến cho tất cả chúng sinh thấy được sắc tướng của chư Phật không thể nghĩ bàn. Dùng các sắc đẹp để trang nghiêm tháp Phật. Vì minh bạch đạo lý này, cho nên thành tựu quang minh sắc thanh tịnh để giáo hóa chúng sinh.
Hựu phóng quang danh thanh thanh tịnh, Lại phóng quang tên thanh thanh tịnh
Lệnh tri thanh tánh bổn không tịch, Khiến biết thanh tánh vốn vắng lặng
Quán thanh duyên khởi như cốc hưởng, Quán thanh duyên khởi như tiếng vang
Thị cố đắc thành thử quang minh. Do đây được thành quang minh này.
Giảng: Lại phóng ra đại quang minh tên là thanh thanh tịnh. Quang minh đó hay khiến cho tất cả chúng sinh biết tự tánh của tiếng vốn là vắng lặng, đừng trầm mê ở trong thanh trần, nên thấu suốt tiếng là do nhân duyên mà khởi. Ví như đạo lý trong hang động truyền thanh, hay ở trong núi niệm lớn tiếng ‘’Nam Mô A Di Ðà Phật,’’ thì trong hang núi cũng vang lại tiếng ‘’ Nam mô A Di Ðà Phật,’’ đó là tiếng hồi lại. Do minh bạch đạo lý này, cho nên thành tựu quang minh thanh thanh tịnh để giáo hóa chúng sinh.
Hựu phóng quang danh hương thanh tịnh, Lại phóng quang tên hương thanh tịnh
Lệnh chư xú uế tất hương khiết, Khiến chỗ hôi dơ đều thơm sạch
Hương thủy tẩy tháp Bồ-đề thụ, Nước thơm rưới tháp cây bồ đề
Thị cố đắc thành thử quang minh. Do đây được thành quang minh này.
Giảng: Lại phóng ra đại quang minh tên là hương thanh tịnh. Quang minh đó hay khiến cho tất cả chỗ hôi dơ đều biến thanh thơm tho trong sạch. Dùng nước thơm để rưới tượng Phật và tháp Phật, để tưới lên cây bồ đề. Do công đức nhân duyên đó, mà được thành tựu quang minh hương thanh tịnh, để giáo hóa chúng sinh.
Hựu phóng quang danh vị thanh tịnh Lại phóng quang tên vị thanh tịnh
Năng trừ nhất thiết vị trung độc, Hay trừ tất cả vị trúng độc
Hằng cúng Phật tăng cập phụ mẫu, Luôn cúng Phật Tăng và cha mẹ
Thị cố đắc thành thử quang minh. Do đây được thành quang minh này.
Giảng: Lại phóng ra đại quang minh tên là vị thanh tịnh. Quang minh đó hay tiêu trừ tất cả độc tố ở trong vị, khiến cho biến thành vị cam lồ, vừa ngọt vừa thơm, chẳng những không có độc, mà có dinh dưỡng, ăn vào có thể khai mở trí huệ. Luôn luôn dùng thức ăn uống thượng hạng, để cúng dường Tam Bảo và cha mẹ. Do có công đức này, cho nên được thành tựu quang minh vị thanh tịnh, để giáo hóa chúng sinh.
Hựu phóng quang danh xúc thanh tịnh, Lại phóng quang tên xúc thanh tịnh
Năng lệnh ác xúc giai nhu nhuyễn, Hay khiến ác xúc đều nhu nhuyến
Đao mâu kiếm kích tùng không vũ, Đao mâu kiếm kích từ không mưa
Giai lệnh biến tác hương khí man. Đều khiến biến thành tràng hoa đẹp.
Giảng: Lại phóng ra đại quang minh tên là xúc thanh tịnh. Quang minh đó hay khiến cho chúng sinh ác xúc đều buông xả hết tất cả sự chấp trước về hoan hỷ ưa thích, như vậy sẽ được nhu nhuyến. Ác xúc có thể biến thành lợi khí giết người, thiện xúc hay biến thành hoa thơm mềm mại. Cho nên tham xúc trần rất nguy hiểm lợi hại thống khổ, giống như đao mác cắt thân, kiếm kích hại thân. Ðao mác, kiếm kích từ trên không rơi xuống, giống như mưa. Song quang minh đó, hay khiến binh khí hại người biến thành tràng hoa đẹp. Chẳng những không thể hại người, ngược lại làm đồ trang sức.
Thời xưa đánh nhau thì dùng mâu thuẫn để làm vũ khí. Mâu là công, binh nhọn đâm người. Thuẫn là thủ, công cụ dùng ngăn cản mâu. Tâm lý người làm cái mâu bén nhọn, bất cứ cái thuẫn như thế nào cũng ngăn cản không được. Tâm lý người làm cái thuẫn, là nghĩ muốn làm cái thuẫn cho thật bền chắc, bất cứ cái mâu gì cũng đâm chẳng lủng. Làm cái mâu thì muốn giết người, làm cái thuẫn thì muốn bảo vệ người.
Tại sao lại có sự việc như vậy ? Vì chấp trước về sự xúc trần. Thậm chí giữa nam nữ rất dễ phát sinh quan hệ xúc trần nhất. Cảnh thuận thì phát sinh tình ái, cảnh nghịch thì phát sinh can qua (cái mộc, cái mác). Nếu chẳng chấp trước xúc trần, buông xả tất cả, thì hóa can qua thành ngọc lụa.
Thời xưa, có người bán binh khí đi khắp nơi tuyên truyền cái mâu của họ bán bén nhọn như thế nào, bất cứ cái thuẫn nào cũng đỡ không được. Lại tuyên truyền cái thuẫn của họ bán, cứng chắc như thế nào, bất cứ cái mâu gì cũng đâm chẳng lủng. Lúc đó, có người hỏi ông ta : ‘’Dùng mâu để công thuẫn; dùng thuẫn để đỡ mâu, vậy phải làm thế nào‘’? Từ đó mà có câu ‘’Mâu thuẫn.’’
Dĩ tích tằng ư đạo lộ trung Bởi xưa từng ở giữa đường xá
Đồ hương tán hoa bố y phục, Thoa hương, rải hoa, bày y phục
Nghênh tống Như Lai lệnh đạo thượng, Nghênh đón Như Lai đi trên đó
Thị cố kim hoạch quang như thị. Do đây nay được quang như vậy.
Giảng: Làm thế nào khiến cho xúc trần thanh tịnh ? Vì thuở xưa đã từng làm cầu, làm đường, khiến cho người đi được phương tiện. Hoặc ở giữa đường thoa hương, rải hoa, bày y phục nghênh đón chư Phật bước đi trên đó. Tại sao ? Vì sợ chân Phật đạp trên bùn dơ chân. Do có công đức như thế, cho nên được thành tựu quang minh xúc thanh tịnh, để giáo hóa chúng sinh.
Thuở xưa, lúc Phật Thích Ca Mâu Ni làm Ma Nạp Tiên Nhân, chuyên tu khổ hạnh. Một ngày nọ, thấy Phật Nhiên Đăng từ phía trước đi lại. Phật Thích Ca Mâu Ni thấy phía trước có vũng bùn, sợ rằng chân Phật đạp lên bùn nhơ chân, bèn đi đến chỗ vũng bùn nằm xuống, dùng y phục và đầu tóc của mình trải trong vũng bùn, thỉnh Phật đi qua. Phật Nhiên Ðăng bèn nói : ‘’Lành thay ! Lành thay ! Ông như vậy, ta cũng như vậy.’’ Do đó, bèn thọ ký cho Phật Thích Ca Mâu Ni : ‘’Ông ở đời sau sẽ thành Phật, hiệu là Thích Ca Mâu Ni.’’
Hựu phóng quang danh Pháp thanh tịnh, Lại phóng quang tên pháp thanh tịnh
Năng lệnh nhất thiết chư mao khổng, Hay khiến tất cả các lỗ lông
Tất diễn diệu pháp bất tư nghị, Đều diễn diệu pháp không nghĩ bàn
Chúng sanh thính giả hàm hân ngộ. Chúng sinh nghe được đều vui ngộ.
Giảng: Lại phóng ra đại quang minh tên là pháp thanh tịnh. Quang minh đó hay khiến cho tất cả trong các lỗ chân lông đều chuyển đại pháp luân, diễn nói diệu pháp vô thượng không thể nghĩ bàn. Hết thảy chúng sinh nghe được diệu pháp đó đều vui mà khai ngộ.
Nhân duyên sở sanh vô hữu sanh, Nhân duyên sinh ra chẳng có sinh
Chư Phật Pháp thân phi thị thân, Pháp thân chư Phật chẳng phải thân
Pháp tánh thường trụ như hư không, Pháp tánh thường trụ như hư không
Dĩ thuyết kỳ nghĩa quang như thị. Nhờ nói nghĩa này quang như vậy.
Giảng: Tỳ Kheo Mã Thắng nói :
‘’Các pháp do duyên sinh
Các pháp do duyên diệt
Phật ta đại Sa môn
Thường hay nói như vậy.’’
Vì các pháp chẳng sinh chẳng diệt, cho nên nhân duyên sinh ra pháp đều là vắng lặng. Trong Trung Luận có nói :
‘’Nhân duyên sinh ra pháp
Ta nói tức là không
Tên cũng là giả danh
Tên cũng nghĩa trung đạo.’’
Cho nên nói nhân duyên sinh ra chẳng có sinh.
Pháp thân của chư Phật cũng là vô tướng, đừng dùng có tướng để thấy pháp thân của Phật. Trong Kinh Kim Cang có nói :
‘’Nếu dùng sắc thấy ta
Dùng âm thanh cầu ta
Người đó tu tà đạo
Chẳng thấy được Như Lai.’’
Vì pháp thân là vô tướng, tức nhiên là vô tướng, thì sao lại có thân thể ? Cho nên pháp thân là vô tại vô bất tại. Vì vậy mà nói pháp thân chư Phật chẳng phải thân. Bổn tánh của pháp là thường trụ không sinh không diệt, đồng như hư không. Tuy pháp tánh như hư không, song luôn luôn diễn nói đạo lý diệu pháp, diệu nghĩa của hư không, cho nên đắc được quang minh là như vậy.
Như thị đẳng bỉ quang minh môn, Môn quang minh ví như vậy thảy
Như Hằng hà sa vô hạn số, Như cát sông Hằng chẳng số lượng
Tất tùng đại tiên mao khổng xuất, Đều từ lỗ lông Đại Tiên ra
Nhất nhất tác nghiệp các sái biệt. Hết thảy tạo nghiệp đều khác nhau.
Giảng: Giống như đủ thứ các môn quang minh đã ví như ở trước, nhiều như số cát sông Hằng, chẳng có số lượng. Tuy nói không hết, song, đều từ trong lỗ lông của Ðại Tiên (Phật) phóng ra, hết thảy tất cả nghiệp tạo ra cũng khác nhau.
Như nhất mao khổng sở phóng quang, Như quang phóng ra một lỗ lông
Vô lượng vô số như hằng sa, Vô lượng số như cát sông Hằng
Nhất thiết mao khổng tất diệc nhiên Tất cả lỗ lông đều như vậy
Thử thị đại tiên tam muội lực. Đó là tam muội của Đại Tiên.
Giảng: Ví như từ trong một lỗ chân long, phóng ra tất cả quang minh nhiều vô lượng vô biên, giống như số cát của sông Hằng. Chẳng những một lỗ lông phóng quang như thế, mà hết thảy tất cả lỗ lông đều như vậy, phóng ra đủ thứ quang minh đều khác nhau. Cảnh giới vi diệu như thế, là do sức tam muội của Phật gia trì, khiến cho Bồ Tát phóng ra đủ thứ quang minh, để giáo hóa đủ loại chúng sinh.
Như kỳ bổn hạnh sở đắc quang Như bổn hạnh trên được quang minh
Tùy bỉ tú duyên đồng hành giả, Tùy họ túc duyên đồng tu hành
Kim phóng quang minh cố như thị, Nay phóng quang minh nên như vậy
Thử thị đại tiên trí tự tại. Đây là Đại Tiên trí tự tại.
Giảng: Ở trước nói về các Bồ Tát phóng ra đủ thứ quang minh, dùng đủ thứ sức tam muội, để giáo hóa chúng sinh. Trong lỗ lông của chư Phật, lại phóng ra vô lượng vô biên quang minh, để giác ngộ chúng sinh. Quang minh đó, có chúng sinh thấy được, có chúng sinh chẳng thấy được. Tại sao ? Vì có quan hệ túc duyên hoặc hiện nhân. Cho nên, chúng sinh có trí huệ thì thấy được quang minh của Phật, chúng sinh ngu si thì chẳng thấy được quang minh của Phật.
Túc duyên có bốn thứ: Xưa đồng nghiệp, ưa thích tu hành, hay hoan hỷ và chỉ thấy làm.
1). Xưa đồng nghiệp : Vào thuở xưa, sống chung với Phật, cùng làm công việc, cho nên đời này được thấy quang minh của Phật.
2). Ưa thích tu hành : Khi Phật ở tại nhân địa tu hành đủ thứ khổ hạnh. Tuy nhiên mình không thể tu hành, song ưa thích mà khen ngợi, có túc duyên đó, mà thấy được của Phật.
3). Hay hoan hỷ : Hay hoan hỷ làm công đức. Ví như có người làm chùa, thì đem tiền đem sức ra, trợ giúp làm chùa. Có người làm đạo tràng, thì đem hết khả năng để giúp cho hoàn thành, đây mới có thể thấy được quang minh của Phật.
4). Chỉ thấy làm : Thuở xưa thấy được chư Phật Bồ Tát tại nhân địa tu các hạnh môn, tuy chẳng đồng nghiệp, chẳng ưa thích làm như thế, chẳng có hoan hỷ, song cũng chẳng phản đối. Như vậy cũng có cơ hội thấy được quang minh của Phật.
Hiện nhân có ba thứ : Tu phước rộng, cúng nhiều Phật và cầu Phật quả.
1). Tu phước rộng : Tức là tu ruộng phước rộng lớn, cúng dường Tam Bảo, cứu giúp chúng sinh. Tức cũng là ‘’Không làm các điều ác, làm các điều thiện.’’ hay tu ruộng phước, thì thấy được quang minh của Phật.
2). Cúng nhiều Phật : Phải cung kính cúng dường mười phương ba đời tất cả chư Phật, có công đức đó, cũng thấy được quang minh của Phật.
3). Cầu Phật quả : Mục đích tu đạo chẳng phải cầu phước báo trời người, mà là vì cầu Phật quả vô thượng. Như vậy cũng thấy được quang minh của Phật.
Có bảy thứ duyên xa nhân gần, mới thấy được quang minh của chư Phật. Nếu chẳng đầy đủ bảy thứ nhân duyên này, thì không thể thấy được quang minh của Phật. Không thấy được quang minh của Phật, có ba nguyên nhân, là ba nguyên nhân nào ?
1). Phàm ngu : Người phàm ngu thì chẳng có cơ hội thấy được quang minh của Phật. Tại sao ? Vì chẳng có trí huệ, cho nên chẳng nhận ra quang minh của Phật.
2). Tà tin ngoại đạo : Vì tin tà tri tà kiến luận bậy của ngoại đạo. Người này chẳng thấy được quang minh của Phật.
3). Liệt giải nhị thừa : Thanh Văn và Duyên Giác, tuy tu hành Phật pháp, nhưng chẳng thấu hiểu Phật pháp chân thật nghĩa, cho nên cũng chẳng thấy quang minh của Phật. Ba hạng người này giống như người mù không có mắt, chẳng biết quang minh của Phật như thế nào. Chúng ta là một phần tử trong ba hạng người này, cho nên chẳng thấy được quang minh của Phật. Nghĩ muốn thấy quang minh của Phật, tuy chẳng có túc duyên, nhưng tu hiện nhân, cũng có thể thấy được quang minh của Phật.
Hiện tại Phật phóng quang minh, có người thấy được, có người chẳng thấy được. Người thấy được là vì có nhân duyên như vừa nói, đó là đắc được trí huệ tự tại của viên mãn đại giác kim tiên, và cảnh giới thần thông diệu dụng biểu hiện.
Vãng tích đồng tu ư phước nghiệp Thuở xưa cùng tu các phước nghiệp
Cập hữu ái lạc năng tùy hỉ, Và có ưa thích hay hoan hỷ
Kiến kỳ sở tác diệc phục nhiên Thấy họ thực hành cũng làm theo
Bỉ ư thử quang hàm đắc kiến. Do đó thấy được quang minh này.
Giảng: Vào thuở xưa, Phật vì cầu Phật quả Vô thượng chánh đẳng chánh giác mà đã từng xả thân mà không tiếc. Vì tu phước tu huệ mà nhẫn điều người khác nhẫn không được, nhường điều người khác không thể nhường. Vì tu khổ hạnh người khác tu không được, làm công đức người khác không làm được, cho nên thành tựu Phật quả khó thành.
Ðương thời chúng sinh có duyên, thọ hành vi cảm động của Phật, cũng cùng tu phước nghiệp, ưa thích hạnh môn của Phật tu, tùy hỷ khen ngợi công đức của Phật. Vì có túc duyên đó, cho nên thấy được quang minh của Phật. Ðó là cảnh giới thần thông tự tại của Phật.
Nhược hữu tự tu chúng phước nghiệp Nếu ai tự tu các phước nghiệp
Cúng dường chư Phật vô ương số, Cúng dường chư Phật vô lượng số
Ư Phật công đức thường nguyện cầu, Nơi công đức Phật thường nguyện cầu
Thị thử quang minh sở khai giác. Được quang minh này hay giác ngộ.
Giảng: Nếu như có chúng sinh tự tu đủ thứ phước nghiệp, trước hết phải bắt đầu cúng dường chư Phật, phải cúng dường chư Phật không có số lượng. Không cần đến mười phương để cúng dường. Do đó:
‘’Phật tức là tâm, tâm tức là Phật.’’
Nếu như có tâm chí thành khẩn thiết, để cúng dường Phật, thì Phật sẽ tiếp thọ sự cúng dường của bạn. Phật ở đâu ? Phật thì tận hư không khắp pháp giới, vô tại vô bất tại. Nếu thành tâm cúng dường, thì nơi nơi đều có Phật, chẳng thành tâm cúng dường thì ở đây cũng chẳng có Phật.
Khi chúng ta lạy Phật, thì phải tất cung tất kính, không thể dương đông vọng tây, càng không nên phô diễn. Một mặt lễ Phật, một mặt khởi vọng tưởng, nghĩ tưởng đâu đâu ! Như vậy thì làm sao có cảm ứng đạo giao ? Cho nên khi lễ Phật phải niệm bài kệ này :
‘’Năng lễ sở lễ tánh không tịch
Cảm ứng đạo giao nan tư nghì
Ngã thử đạo tràng như đế châu
Thập phương chư Phật ảnh hiện trung
Ngã thân ảnh hiện chư Phật tiền
Ðầu diện tiếp túc quy mạng lễ.’’
Chúng ta là chúng sinh năng lễ lạy chư Phật Bồ Tát, chúng ta sở lễ lạy là mười phương chư Phật Bồ Tát; hai chủng tánh này đều không tịch. Có người nói : ‘’Nếu là không tịch thì chúng ta không cần lạy Phật.’’ Tư tưởng này là sai lầm. Ðây là nói bản tánh là không, nhưng muốn chứng đắc pháp vô vi, thì trước hết phải từ pháp hữu vi mà thực hành. Khi chưa chứng được lý không, thì không thể tồn tại tư tưởng không chánh đáng, phải thấu rõ chân không là từ diệu hữu sinh ra. Tuy tánh là không tịch, nhưng trong khoảng giữa có cảm ứng đạo giao. Sự cảm ứng đạo giao này không thể nghĩ bàn ! Bạn lễ Phật thì Phật nhận lễ, làm tăng thêm phước huệ của bạn. Tức nghĩa là nói, lạy Phật là cảm, nhận lễ là ứng, như vậy tức là đạo giao. Ðạo tràng của con giống như châu như ý của trời Ðế Thích, bất cứ gì cũng đều hiện ra. Pháp thân của chư Phật Bồ Tát đều hiện ra trong châu như ý. Hiện tại con lễ Phật, thân của con hiện ở trước mười phương chư Phật. Ðầu mặt của con rờ chân Phật, đó là thực hành quy mạng lễ. Hiện tại xin mọi người chú ý. Khi lạy Phật thì hãy chuyên tâm, sẽ có cảnh giới cảm ứng đạo giao không thể nghĩ bàn.
Ðối với hết thảy công đức của Phật, chúng ta phải phát nguyện, hướng về Phật mà học tập, thành tựu công đức mà Phật đã thành tựu. Phàm là công đức của Phật tu, chúng ta đều phải làm được. Vì hay tự tu các phước nghiệp, hay cúng dường mười phương vô lượng chư Phật, nguyện cầu công đức của Phật, cho nên quang minh này, hay khiến giác ngộ, toại tâm mãn nguyện.
Thí như sanh manh bất kiến nhật Ví như kẻ mù chẳng thấy trời
Phi vi vô nhật xuất thế gian, Chẳng phải mặt trời chẳng mọc lên
Chư hữu mục giả tất minh kiến Những người có mắt đều thấy rõ
Các tùy sở vụ tu kỳ nghiệp. Tùy theo phận mình tu phước nghiệp.
Giảng: Quang minh của chư Phật phóng ra, chiếu soi tất cả chúng sinh, song có chúng sinh thấy được, có chúng sinh chẳng thấy được. Tại sao ? Vì chúng sinh có trí huệ mới thấy được quang minh của Phật; chúng sinh chẳng có trí huệ, thì chẳng thấy được quang minh của Phật. Giống như kẻ mù, một khi sinh ra mà chẳng có mắt, vốn chẳng thấy mặt trời, chứ chẳng phải không có mặt trời xuất hiện ra thế gian, tất cả những người có mắt, đều thấy được ánh sáng của mặt trời. Ðây là tùy theo sự tu phước nghiệp của mỗi người, mà thấy được quang minh của Phật.
Đại sĩ quang minh diệc như thị, Quang minh Đại Sĩ cũng như vậy
Hữu trí tuệ giả giai tất kiến, Người có trí huệ đều thấy được
Phàm phu tà tín liệt giải nhân, Phàm phu tin tà người hiểu cạn
Ư thử quang minh mạc năng đổ. Nơi quang minh này chẳng thấy được.
Giảng: Quang minh của Bồ Tát phóng ra, cũng như ánh sáng mặt trời. Người có căn lành lớn, trí huệ lớn, thì đều thấy được quang minh này. Hết thảy phàm phu ngu si, tin tà giáo ngoại đạo, người nhị thừa hiểu cạn, tuy họ chứng quả, nhưng trí huệ chưa đủ, do đó:
‘’Có mắt chẳng thấy Lô Xá Na
Có tai chẳng nghe giáo viên đốn.’’
Ba hạng người này chẳng thấy được quang minh này.
Ma-ni cung điện cập liễn thừa Cung điện ma ni và xe kiệu
Diệu bảo linh hương dĩ đồ oánh, Báu đẹp hương thơm dùng thoa sáng
Hữu phước đức giả tự nhiên bị, Người có phước đức tự nhiên đủ
Phi vô đức giả sở năng xứ. Người không phước đức không ở được.
Giảng: Cung điện dùng ma ni làm thành, xe kiệu đều dùng báu đẹp và hương thơm để trang nghiêm, để thoa sáng. Cung điện và xe kiệu này, người có phước đức thì tự nhiên đầy đủ. Nhưng người không có phước đức thì chẳng ở được.
Đại sĩ quang minh diệc như thị, Quang minh Đại Sĩ cũng như vậy
Hữu thâm trí giả hàm chiếu xúc, Người có trí sâu đều chiếu đến
Tà tín liệt giải phàm ngu nhân Người phàm ngu tin tà hiểu cạn
Vô hữu năng kiến thử quang minh. Không thể thấy được quang minh này.
Giảng: Quang minh của Bồ Tát phóng ra cũng như vậy, chiếu đến người có trí huệ. Phàm là người tin tà giáo ngoại đạo, tin tà không tin chánh, tri kiến chẳng chánh đáng, ích kỷ lại tự lợi, chẳng có chánh tri chánh kiến, thì hoàn toàn là tà tri tà kiến. Hàng nhị thừa hiểu cạn, tức cũng là Thanh Văn Duyên Giác, các Ngài chưa chân chánh thấu hiểu Phật pháp. Người phàm phu ngu si cũng chẳng có trí huệ, chẳng minh bạch Phật pháp. Ba hạng người này không thể thấy được quang minh này.
Nhược hữu văn thử quang sái biệt Nếu ai nghe quang này khác nhau
Năng sanh thanh tịnh thâm tín giải, Hay sinh tin hiểu sâu thanh tịnh
Vĩnh đoạn nhất thiết chư nghi võng, Dứt hẳn tất cả các lưới nghi
Tốc thành vô thượng công đức tràng. Sớm thành tràng công đức vô thượng.
Giảng: Nếu như có người thấy được quang minh này, có đủ thứ khác nhau, mà hay sinh tâm tin hiểu sâu thanh tịnh, thì vĩnh viễn đoạn trừ tất cả lưới nghi hoặc. Nếu có tâm hoài nghi, thì chẳng tương ưng với Phật pháp, chẳng có tâm hoài nghi, thì sớm sẽ thành tựu tràng công đức Phật quả vô thượng.
Hữu thắng tam muội năng xuất hiện, Có thắng tam muội hay xuất hiện
Quyến thuộc trang nghiêm giai tự tại, Quyến thuộc trang nghiêm đều tự tại
Nhất thiết thập phương chư quốc độ, Tất cả mười phương các cõi nước
Phật tử chúng hội vô luân thất. Phật tử chúng hội không sánh kịp.
Giảng: Có quang minh thù thắng tam muội xuất hiện, chiếu soi hết thảy quyến thuộc, đều trang nghiêm tự tại. Trong mười phương tất cả cõi nước chư Phật, đệ tử của Phật, trong pháp hội của Phật không thể nào sánh kịp, công đức đó vô lượng vô biên.
Hữu diệu Liên Hoa Quang trang nghiêm Có diệu hoa sen quang trang nghiêm
Lượng đẳng tam thiên Đại Thiên giới, Lượng đồng ba ngàn cõi đại thiên
Kỳ thân đoan tọa tất sung mãn Thân Phật ngồi thẳng khắp hoa sen
Thị thử tam muội thần thông lực. Do sức thần thông tam muội này.
Giảng: Có một hoa sen lớn vi diệu, phóng ra đủ thứ quang minh để trang nghiêm, hoa sen đó lớn cỡ nào ? Lớn bằng ba ngàn đại thiên thế giới, Phật ngồi kiết già ngay thẳng trên hoa sen báu lớn đó, là do sức thần thông tam muội.
Phục hưũ thập sát vi trần số Lại có mười cõi số hạt bụi
Diệu hảo liên hoa sở vi nhiễu, Hoa sen xinh đẹp bao chung quanh
Chư Phật tử chúng ư trung tọa, Các chúng Phật tử ngồi trên đó
Trụ thử tam muội uy thần lực. Trụ sức oai thần tam muội này.
Giảng: Lại có hoa sen xinh đẹp, nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật bao chung quanh bốn phía hoa sen báu lớn đó. Hết thảy đệ tử của Phật đều ngồi thẳng trên hoa sen đó, trụ ở trong sức đại oai thần tam muội quang minh đó.
Tú thế thành tựu thiện nhân duyên, Ðời xưa thành tựu nhân duyên lành
Cụ túc tu hành Phật công đức, Tu hành đầy đủ công đức Phật
Thử đẳng chúng sanh nhiễu Bồ Tát Các chúng sinh đó quanh Bồ Tát
Tất cọng hợp chưởng quán vô yếm. Cùng nhau chắp tay nhìn không chán.
Giảng: Những đời xưa thành tựu nhân duyên lành, đã tu hành viên mãn đầy đủ công đức Phật. Những chúng sinh đó vây quanh Bồ Tát phóng quang, toàn thể cùng nhau chắp tay lại để chiêm ngưỡng Bồ Tát, mà chẳng nhàm mỏi. Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni trong quá khứ đã cúng dường tất cả chư Phật, hướng về Phật cúng hoa, đã từng dùng một chân đứng ỏ trước Phật, biểu thị tâm cung kính, đứng bảy ngày bảy đêm mà chẳng biết mỏi mệt.
Thí như minh nguyệt tại tinh trung, Ví như trăng sáng trong tinh tú
Bồ Tát xứ chúng diệc phục nhiên, Bồ Tát trong chúng cũng như thế
Đại sĩ sở hạnh Pháp như thị, Pháp Đại Sĩ tu hành cũng vậy
Nhập thử tam muội uy thần lực. Vào sức oai thần tam muội này.
Giảng: Giống như trăng sáng ở trong hư không, sáng hơn các vì sao. Bồ Tát ở trong biển đại chúng hội cũng như thế. Pháp của Bồ Tát tu hành cũng như vậy, vào trong sức đại oai thần quang minh tam muội này.
Như ư nhất phương sở thị hiện, Như sự thị hiện ở một phương
Chư Phật tử chúng cọng vi nhiễu, Các chúng Phật tử cùng vây quanh
Nhất thiết phương trung tất như thị, Tất cả các phương đều như vậy
Trụ thử tam muội uy thần lực. Trụ sức oai thần tam muội này.
Giảng: Như Phật thị hiện ở một phương, hết thảy Phật tử đều cùng nhau vây quanh Phật, chẳng những một phương là như thế, mà mười phương thế giới cũng đều như vậy, đều trụ ở trong sức đại oai thần quang minh tam muội viên dung vô ngại này.
Hữu thắng tam muội danh phương võng, Có thắng tam muội tên phương võng
Bồ-tát trụ thử quảng khai thị, Bồ Tát trụ đây rộng khai thị
Nhất thiết phương trung phổ hiện thân Trong tất cả phương đều hiện thân
Hoặc hiện nhập định hoặc tùng xuất. Hoặc hiện nhập định hoặc xuất định.
Giảng: Có tam muội thù thắng tên là phương võng, hết thảy Bồ Tát đều trụ ở trong tam muội phương võng, rộng khai thị cho tất cả chúng sinh, khiến cho họ giác ngộ. Trong mười phương thế giới, Bồ Tát đều hiện thân, diễn nói diệu pháp. Hoặc hiện tướng nhập định, hoặc hiện tướng xuất định, dùng đủ thứ tam muội để giáo hóa mười phương chúng sinh.
Hoặc ư Đông phương nhập chánh định Hoặc ở phương đông nhập chánh định
Nhi ư Tây phương tùng định xuất. Mà ở phương tây từ định xuất
Hoặc ư Tây phương nhập chánh định, Hoặc ở phương tây nhập chánh định
Nhi ư Đông phương tùng định xuất. Mà ở phương đông từ định xuất.
Giảng: Công phu tu tập thiền định, ban đầu đắc được cảnh giới khinh an. Khinh an là gì ? Tức là cảm giác không người, không ta, không chúng sinh, không thọ mạng, tâm chẳng tham sân si, hết thảy tất cả đều ngừng lại, ví mhư mạch máu dừng lại, tim cũng dừng lại, ý niệm cũng dừng lại. Lúc đó, giống như lượm được một chìa khóa, mở tung cánh cửa ra. Sau khi cửa được mở ra rồi, thì trí huệ hiện tiền. Cảnh giới khinh an này, chỉ là phương tiện trình độ trước khi sắp nhập định mà thôi, tức cũng là trung đạo lý thể của thất tình hỷ, nộ, ai, cụ, ái, ác, dục, chẳng phát sinh.
Trung đạo tức là chân không, cũng là diệu hữu hay hòa hợp với chân không, thì sẽ sinh ra diệu hữu; hay hòa hợp với diệu hữu tức cũng là chân không. Lúc đó, chẳng rơi vào không, cũng chẳng rơi vào có, do đó ‘’chẳng rơi vào hai bên.’’
Tôi còn nhớ, lúc tôi mười sáu tuổi, thì đã từng làm một bài kệ :
‘’Việc muốn tinh thông
Phải dụng khổ công.
Công phu đến rồi
Tâm tự nhiên thông.’’
Bất cứ là việc gì, nghĩ muốn tinh thong, thì phải hạ một phen khổ công phu, đừng tham cầu hưởng thụ, đừng sợ khổ, đừng sợ khó, khi công phu đến nhà, thì trong sự yên lặng tự nhiên sẽ hiểu, đây là mấy câu tu thiền rất quan trọng.
Có vị Bồ Tát, hoặc ở phương đông ngồi thiền nhập chánh định, song vị Bồ Tát đó ở phương tây mà xuất định.
Hoặc có Bồ Tát ở phương tây nhập chánh định, song ở phương đông mà xuất định. Ðây tức là ‘’Không nhập mà chẳng tự được vậy.’’ Toại tâm mãn nguyện, biến hóa vô cùng, do đó: ‘’Tùy duyên không đổi, không đổi tùy duyên.’’ Nhập định là diệu không thể tả, xuất định cũng là diệu không thể tả. Cho nên đông tây nam bắc, bốn hướng, trên dưới, ở trong định đều có thể đi khắp mọi nơi, đây tức là tam muội phương võng, tùy tâm biến hóa, cảm ứng đạo giao.
Hoặc ư dư phương nhập chánh định Hoặc ở phương khác nhập chánh định
Nhi ư dư phương tùng định xuất. Hoặc ở phương khác từ định xuất
Như thị nhập xuất biến thập phương Nhập xuất như vậy khắp mười phương
Thị danh Bồ Tát tam muội lực Đó gọi Bồ Tát tam muội lực.
Giảng: Hoặc ở phương khác nhập chánh định, lại ở phương khác mà xuất định. Cảnh giới xuất nhập định không thể nghĩ bàn như thế, đầy khắp mười phương. Vì đó là sức tam muội phương võng của Bồ Tát, cho nên mới có được cảnh giới như thế.
Tận ư Đông phương chư quốc độ Tận cùng phương đông các cõi nước
Sở hữu Như Lai vô số lượng Hết thảy Như Lai vô lượng số
Tất hiện kỳ tiền phổ thân cận Đều hiện trước Phật gần gũi khắp
Trụ ư tam muội tịch bất động. Trụ nơi tam muội yên chẳng động.
Giảng: Tận cùng phương đông, có vô lượng các cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, trong mỗi cõi Phật, có một vị Phật, cho nên số lượng vị Phật cũng nhiều vô lượng như số cát sông Hằng. Bồ Tát ở trong định đều hiện ở trước chư Phật, đến khắp hết phương đông để gần gũi tất cả vô lượng chư Phật, nhưng vẫn đang ngồi nhập định, trụ ở trong tam muội, chỗ ngồi vắng lặng chẳng động, cảnh giới này thật là không thể nghĩ bàn.
Nhi ư Tây phương chư thế giới, Rồi ở phương tây các thế giới
Nhất thiết chư Phật Như Lai sở, Tất cả chỗ chư Phật Như Lai
Giai hiện tùng ư tam muội khởi, Đều hiện từ tam muội xuất định
Quảng tu vô lượng chư cúng dường. Rộng tu cúng dường vô lượng Phật.
Giảng: Ở phương tây, hết thảy tất cả thế giới ở trong tất cả đạo tràng của chư Phật, Bồ Tát đều thị hiện từ tam muội xuất định, rộng tu cúng dường chư Phật, cúng dường chư Pháp, cúng dường chư Tăng.
Tận ư Tây phương chư quốc độ, Tận cùng phương tây các cõi nước
Sở hữu Như Lai vô số lượng, Hết thảy Như Lai vô lượng số
Tất hiện kỳ tiền phổ thân cận, Đều hiện trước Phật gần gũi khắp
Trụ ư tam muội tịch bất động. Trụ nơi tam muội yên chẳng động.
Giảng: Bồ Tát có thể tận cùng phương tây, tất cả các cõi nước chư Phật, hết thảy chư Phật cũng vô lượng vô biên, cũng có thể hiện ở trước đạo tràng chư Phật, để gần gũi chư Phật, cúng dường chư Phật. Tuy nhiên như vậy, mà Bồ Tát vẫn ở trong tam muội, vắng lặng chẳng động.
Nhi ư Đông phương chư thế giới, Rồi ở phương đông các thế giới
Nhất thiết chư Phật Như Lai sở, Tất cả chỗ chư Phật Như Lai
Giai hiện tùng ư tam muội khởi, Đều hiện từ tam muội xuất định
Quảng tu vô lượng chư cúng dường. Rộng tu cúng dường vô lượng Phật.
Giảng: Ở phương đông, hết thảy tất cả thế giới chư Phật, trong tất cả đạo tràng của chư Phật, Bồ Tát đều hiện từ trong tam muội xuất định, rộng tu cúng dường vô số vô lượng Tam Bảo.
Như thị thập phương chư thế giới, Như vậy mười phương các thế giới
Bồ Tát tất nhập vô hữu dư, Bồ Tát đều vào chẳng sót thừa
Hoặc hiện tam muội tịch bất động, Hoặc hiện tam muội yên chẳng động
Hoặc hiện cung kính cúng dường Phật. Hoặc hiện cung kính cúng dường Phật.
Giảng: Mười phương thế giới như vậy, đều cùng nhau cúng dường xoay vòng. Bồ Tát ở trong định cúng dường chư Phật, ở trong định xuất cũng cúng dường chư Phật, cho nên nói Bồ Tát đều vào khắp không sót thừa, hoặc hiện ra tam muội vắng lặng chẳng động, hoặc hiện ra cung kính chư Phật, cúng dường chư Phật.
Ư nhãn căn trung nhập chánh định Ở trong căn mắt nhập chánh định
Ư sắc trần trung tùng định xuất Ở nơi sắc trần từ định xuất
Thị hiện sắc tánh bất tư nghị, Thị hiện sắc tánh không nghĩ bàn
Nhất thiết Thiên Nhân mạc năng tri. Tất cả trời người không biết được.
Giảng: Người có định lực thì chuyển được cảnh giới, mà chẳng bị cảnh giới chuyển, mắt tai mũi lưỡi thân ý, đối với sắc thanh hương vị xúc pháp sáu trần, trong khoảng giữa lại sanh ra sáu thức, song, sáu thức đó, có tác dụng khác nhau, nên có thể làm loạn tạo phản. Song, trợ giúp người tu đạo, hành đạo bồ đề, chứng quả bồ đề, cũng là tác dụng của sáu căn và sáu thức này.
Bồ Tát tu pháp tam muội phương võng, thì ở trong căn mắt nhập chánh định, chẳng bị sắc trần chuyển. Do đó :
‘’Mắt thấy hình sắc trong chẳng có
Tai nghe chuyện đời tâm chẳng hay.’’
Và nữa :
‘’Thấy việc hiểu việc lìa thế gian
Thấy người mê việc đọa trầm luân.’’
Chẳng bị mắt lay chuyển, chẳng bị sắc trần lay chuyển, đây tức là trong con mắt nhập chánh định, ở trong sắc trần từ định xuất, nhập định xuất định, chẳng bị cảnh giới lay chuyển, thường ở trong định kiên cố, chẳng lúc nào mà không định. Hay thị hiện sắc tánh, có cảnh giới không thể nghĩ bàn, cho nên các trời người đều không thể biết được.
Ư sắc trần trung nhập chánh định Ở trong sắc trần nhập chánh định
Ư nhãn khởi định tâm bất loạn, Nơi mắt xuất định tâm chẳng loạn
Thuyết nhãn vô sanh vô hữu khởi, Nói mắt không sinh không có diệt
Tánh không tịch diệt vô sở tác. Tánh không vắng lặng chẳng tác dụng.
Giảng: Ở trong sắc trần từ định xuất, lại có thể ở trong sắc trần nhập chánh định. Ðây là căn trần vô ngại, viên dung với nhau, cho nên ở trong con mắt xuất định mà tâm chẳng loạn. Nghĩa là chẳng bị cảnh giới chuyển mà chuyển được cảnh giới, nói con mắt vốn chẳng chỗ sinh cũng chẳng khởi diệt, vì tánh không vắng lặng, cho nên chẳng có tác dụng.
Ư nhĩ căn trung nhập chánh định, Ở trong căn tai nhập chánh định
Ư thanh trần trung tùng định xuất, Ở trong thanh trần từ định xuất
Phân biệt nhất thiết ngữ ngôn âm, Phân biệt tất cả tiếng lời lẽ
Chư Thiên thế nhân mạc năng tri. Chư Thiên loài người không biết được.
Giảng: Bồ Tát có thể ở trong căn tai nhập chánh định, lại có thể ở trong thanh trần từ định xuất, phân biệt được tất cả tiếng nói lời lẽ, cảnh giới không thể nghĩ bàn này, do đó chư Thiên và loài người đều không thể biết được.
Ư thanh trần trung nhập chánh định Ở trong thanh trần nhập chánh định
Ư nhĩ khởi định tâm bất loạn, Nơi tai xuất định tâm chẳng loạn
Thuyết nhĩ vô sanh vô hữu khởi, Nói tai không sinh chẳng có diệt
Tánh không tịch diệt vô sở tác. Tánh không vắng lặng chẳng tác dụng.
Giảng: Ở trong thanh trần nhập chánh định, ở trong lỗ tai từ định xuất, mà tâm chẳng tạp loạn, vẫn ở trong định. Nói lỗ tai vốn chẳng chỗ sinh, cũng chẳng có khởi diệt, vì tánh không vắng lặng, cho nên chẳng có tác dụng.
Ư Tỳ căn trung nhập chánh định Ở trong căn mũi nhập chánh định
Ư hương trần trung tùng định xuất, Ở trong hương trần từ định xuất
Phổ đắc nhất thiết thượng diệu hương, Khắp được tất cả hương thượng diệu
Chư Thiên thế nhân mạc năng tri. Chư Thiên loài người chẳng biết được.
Giảng: Bồ Tát ở trong căn mũi nhập chánh định, lại ở trong hương trần từ định xuất, khắp được tất cả hương thơm vô thượng, hết thảy chư Thiên và loài người đều không thể biết được.
Ư hương trần trung nhập chánh định, Ở trong hương trần nhập chánh định
Ư tỳ khởi định tâm bất loạn, Nơi mũi xuất định tâm chẳng loạn
Thuyết tỳ vô sanh vô hữu khởi, Nói mũi không sinh chẳng có diệt
Tánh không tịch diệt vô sở tác. Tánh không vắng lặng chẳng tác dụng.
Giảng: Ở trong hương trần nhập chánh định, ở trong lỗ mũi xuất chánh định, mà tâm chẳng tạp loạn, vẫn ở trong định. Nói lỗ mũi vốn chẳng chỗ sinh, cũng chẳng khởi diệt, vì tánh không vắng lặng, cho nên chẳng có tác dụng.
Ư thiệt căn trung nhập chánh định Ở trong căn lưỡi nhập chánh định
Ư vị trần trung tùng định xuất, Ở trong vị trần từ định xuất
Phổ đắc nhất thiết chư thượng vị, Khắp được tất cả vị vô thượng
Chư Thiên thế nhân mạc năng tri. Chư Thiên loài người chẳng biết được.
Giảng: Bồ Tát ở trong căn lưỡi nhập chánh định, lại có thể ở trong vị trần từ định xuất. Khắp được tất cả diệu vị vô thượng, hết thảy chư Thiên và loài người đều không thể biết được.
Ư vị trần trung nhập chánh định, Ở trong vị trần nhập chánh định
Ư thiệt khởi định tâm bất loạn, Nơi lưỡi xuất định tâm chẳng loạn
Thuyết thiệt vô sanh vô hữu khởi, Nói lưỡi không sinh chẳng có diệt
Tánh không tịch diệt vô sở tác. Tánh không vắng lặng chẳng tác dụng.
Giảng: Ở trong vị trần nhập chánh định, ở trong căn lưỡi xuất chánh định, mà tâm chẳng tạp loạn, vẫn ở trong định. Nói căn lưỡi vốn chẳng chỗ sinh, cũng chẳng có khởi diệt, vì tánh không vắng lặng, cho nên chẳng có tác dụng.
Ư thân căn trung nhập chánh định Ở trong căn thân nhập chánh định
Ư xúc trần trung tùng định xuất Ở trong xúc trần từ định xuất
Thiện năng phân biệt nhất thiết xúc Khéo hay phân biệt tất cả xúc
Chư Thiên thế nhân mạc năng tri. Chư Thiên loài người chẳng biết được.
Giảng: Bồ Tát có thể ở trong căn thân nhập chánh định, lại có thể ở trong xúc trần từ định xuất. Khéo hay phân biệt tất cả xúc tánh, hết thảy chư Thiên và người đời đều không thể biết được.
Ư xúc trần trung nhập chánh định, Ở trong xúc trần nhập chánh định
Ư thân khởi định tâm bất loạn, Nơi thân xuất định tâm chẳng loạn
Thuyết thân vô sanh vô hữu khởi, Nói thân không sinh chẳng có diệt
Tánh không tịch diệt vô sở tác. Tánh không vắng lặng chẳng tác dụng.
Giảng: Ở trong xúc trần nhập chánh định, ở trong căn thân xuất chánh định, mà tâm chẳng tạp loạn, vẫn ở trong định. Nói thân vốn chẳng chỗ sinh, cũng chẳng khởi diệt, vì tánh không vắng lặng, cho nên chẳng có tác dụng.
Ư ý căn trung nhập chánh định Ở trong căn ý nhập chánh định
Ư pháp trần trung tùng định xuất, Ở trong pháp trần từ định xuất
Phân biệt nhất thiết chư pháp tướng Phân biệt tất cả các pháp tướng
Chư Thiên thế nhân mạc năng tri. Chư Thiên loài người chẳng biết được.
Giảng: Bồ Tát có thể ở trong căn ý nhập chánh định, lại có thể ở trong pháp trần từ định xuất, hay phân biệt tất cả các pháp tướng, hết thảy chư Thiên và người đời đều không thể biết được.
Ư pháp trần trung nhập chánh định Ở trong pháp trần nhập chánh định
Tùng ý khởi định tâm bất loạn, Từ ý xuất định tâm chẳng loạn
Thuyết ý vô sanh vô hữu khởi, Nói ý không sinh chẳng có diệt
Tánh không tịch diệt vô sở tác. Tánh không vắng lặng chẳng tác dụng.
Giảng: Ở trong pháp trần nhập chánh định, từ căn ý xuất chánh định mà tâm chẳng tạp loạn, vẫn ở trong định. Nói căn ý vốn chẳng chỗ sinh, cũng chẳng có khởi diệt, vì tánh không vắng lặng, cho nên chẳng có tác dụng.
Ở trên là về các căn và các trần chẳng có chướng ngại, viên dung với nhau. Vào tam muội chánh định, y báo vô ngại, chánh báo vô ngại, cảnh giới y chánh hai báo cùng nhau vô ngại.
Đồng tử thân trung nhập chánh định Trong thân đồng tử nhập chánh định
Tráng niên thân trung tùng định xuất, Trong thân tráng niên từ định xuất
Tráng niên thân trung nhập chánh định Trong thân tráng niên nhập chánh định
Lão niên thân trung tùng định xuất Trong thân lão niên từ định xuất.
Giảng: Bồ Tát có thể ở khắp mọi nơi nhập chánh định, tất cả thời nhập chánh định, tất cả cảnh giới nhập chánh định, đây là cảnh giới đó đây vô ngại, viên dung với nhau, do đó:
‘’Một nhập tất cả nhập
Tất cả nhập một nhập.’’
Ở thân đồng nam, hoặc ở thân đồng nữ, nhập chánh định, thì ở trong thân tráng niên từ định xuất. Ở trong thân tráng niên nhập chánh định, thì ở trong thân lão niên từ định xuất. Ðây là cảnh giới đó đây vô ngại, ta, người vô ngại, y, chánh vô ngại.
Lão niên thân trung nhập chánh định Trong thân lão niên nhập chánh định
Thiện nữ thân trung tùng định xuất Trong thân thiện nữ từ định xuất
Thiện nữ thân trung nhập chánh định, Trong thân thiện nữ nhập chánh định
Thiện nam thân trung tùng định xuất. Trong thân thiện nam từ định xuất.
Giảng: Bồ Tát ở trong thân lão niên nhập chánh định, thì ở trong thân thiện nữ từ định xuất. Ở trong thân thiện nữ nhập chánh định, thì ở trong thân thiện nam từ định xuất.
Thiện nam thân trung nhập chánh định, Trong thân thiện nam nhập chánh định
Tì-kheo-ni thân tùng định xuất. Thân Tỳ Kheo Ni từ định xuất
Tì-kheo-ni thân nhập chánh định, Thân Tỳ Kheo Ni nhập chánh định
Tỳ-kheo thân trung tùng định xuất. Trong thân Tỳ Kheo từ định xuất.
Giảng: Bồ Tát ở trong thân thiện nam nhập chánh định, thì ở trong thân Tỳ Kheo Ni từ định xuất. Ở trong thân Tỳ Kheo Ni nhập chánh định, thì ở trong thân Tỳ Kheo từ định xuất.
Tỳ-kheo thân trung nhập chánh định, Trong thân Tỳ Kheo nhập chánh định
Học vô học thân tùng định xuất Thân học vô học từ định xuất
Học vô học thân nhập chánh định, Thân học vô học nhập chánh định
Bích Chi Phật thân tùng định xuất. Thân Bích Chi Phật từ định xuất.
Giảng: Bồ Tát ở thân Tỳ Kheo nhập chánh định, rồi ở trong thân hữu học vô học từ định xuất. Ở trong thân hữu học vô học nhập chánh định, rồi ở trong thân Bích Chi Phật từ định xuất.
A La Hán phân làm bốn quả vị : Sơ quả A La Hán gọi là kiến đạo vị, nhị và tam quả A La Hán gọi là chứng đạo vị, ở trên là hữu học vị, tứ quả A La Hán là vô học vị. Hữu học vị tức là còn có chỗ học, có chỗ tu. Vô học vị tức là chẳng còn chỗ học, chẳng còn chỗ tu. Lúc đó, những gì cần làm đã xong, chẳng còn thọ thân sau nữa.
Bích Chi Phật dịch là Duyên Giác. Có Phật ở đời, mà ngộ đạo thì gọi là Duyên Giác, vì tu pháp mười hai nhân duyên mà giác ngộ. Bậc ngộ đạo lúc không có Phật ở đời gọi là Ðộc Giác, vì tự tu hành ở trong rừng sâu núi thẳm, ‘’Xuân quán trăm hoa nở, thu quán lá vàng rơi,’’ quán sát sự sinh diệt, tất cả đều vô thường mà giác ngộ.
Bích Chi Phật thân nhập chánh định, Thân Bích Chi Phật nhập chánh định
Hiện Như Lai thân tùng định xuất. Hiện thân Như Lai từ định xuất
Ư Như Lai thân nhập chánh định, Nơi thân Như Lai nhập chánh định
Chư Thiên thân trung tùng định xuất. Trong thân chư Thiên từ định xuất.
Giảng: Bồ Tát ở trong thân Bích Chi Phật nhập chánh định, hiện ra thân Như Lai từ định xuất. Ở trong thân Phật nhập chánh định, ở trong thân chư Thiên từ định xuất. Cảnh giới này chẳng phải chư Thiên và phàm phu biết được.
Chư Thiên thân trung nhập chánh định, Trong thân chư Thiên nhập chánh định
Đại long thân trung tùng định xuất. Trong thân đại long từ định xuất
Đại long thân trung nhập chánh định, Trong thân đại long nhập chánh định
Dạ xoa thân trung tùng định xuất. Trong thân Dạ Xoa từ định xuất.
Giảng: Bồ Tát ở trong thân chư Thiên nhập chánh định, ở trong thân đại long từ định xuất. Ở trong thân đại long nhập chánh định, ở trong thân Dạ Xoa từ định xuất, trời, rồng và Dạ Xoa cùng nhau vô ngại, viên dung với nhau, cảnh giới này vi diệu không thể nghĩ bàn.
Dạ xoa thân trung nhập chánh định, Trong thân Dạ Xoa nhập chánh định
Quỷ thần thân trung tùng định xuất. Trong thân quỷ thần từ định xuất
Quỷ thần thân trung nhập chánh định, Trong thân quỷ thần nhập chánh định
Nhất mao khổng trung tùng định xuất. Trong một lỗ lông từ định xuất.
Giảng: Bồ Tát ở trong thân Dạ Xoa nhập chánh định, ở trong thân quỷ thần từ định xuất. Ở trong thân quỷ thần nhập chánh định, ở trong một lỗ chân lông từ định xuất.
Nhất mao khổng trung nhập chánh định, Trong một lỗ lông nhập chánh định
Nhất thiết mao khổng tùng định xuất. Tất cả lỗ lông từ định xuất
Nhất thiết mao khổng nhập chánh định, Tất cả lỗ lông nhập chánh định
Nhất mao đoan đầu tùng định xuất Nơi đầu sợi lông từ định xuất.
Giảng: Bồ Tát ở trong một lỗ chân lông nhập chánh định, rồi có thể ở trong tất cả lỗ lông từ định xuất. Trong tất cả lỗ lông nhập chánh định, có thể ở nơi đầu một sợi lông từ định xuất. Ðây là cảnh giới:
‘’Nơi đầu sợi lông hiện cõi Bảo vương
Ngồi trong hạt bụi chuyển bánh xe pháp.’’
Nhất mao đoan đầu nhập chánh định, Nơi đầu sợi lông nhập chánh định
Nhất vi trần trung tùng định xuất. Trong một hạt bụi từ định xuất
Nhất vi trần trung nhập chánh định, Trong một hạt bụi nhập chánh định
Nhất thiết trần trung tùng định xuất. Trong tất cả bụi từ định xuất.
Giảng: Bồ Tát nơi đầu một sợi lông nhập chánh định, ở trong một hạt bụi từ định xuất. Ở trong một hạt bụi nhập chánh định, ở trong tất cả hạt bụi từ định xuất. Ðây là cảnh giới y, chánh hai báo vô ngại. Ðầu sợi lông là chánh báo, một hạt bụi là y báo.
Nhất thiết trần trung nhập chánh định, Trong tất cả bụi nhập chánh định
Kim cương địa trung tùng định xuất Trong kim cang địa từ định xuất
Kim cương địa trung nhập chánh định, Trong kim cang địa nhập chánh định
Ma-ni thọ thượng tùng định xuất. Trên cây ma ni từ định xuất.
Giảng: Bồ Tát ở trong tất cả hạt bụi nhập chánh định, ở trong kim cang địa từ định xuất. Ở trong kim cang địa nhập chánh định, trên cây ma ni báu từ định xuất.
Ma-ni thọ thượng nhập chánh định, Trên cây ma ni nhập chánh định
Phật quang minh trung tùng định xuất Trong quang minh Phật từ định xuất
Phật quang minh trung nhập chánh định, Trong quang minh Phật nhập chánh định
Ư hà hải trung tùng định xuất. Ở trong sông biển từ định xuất.
Giảng: Bồ Tát ở trên cây ma ni báu nhập chánh định, ở trong quang minh Phật từ định xuất. Ở trong quang minh Phật nhập chánh định, ở trong sông biển từ định xuất.
Ư hà hải trung nhập chánh định Ở Trong sông biển nhập chánh định
Ư hỏa đại trung tùng định xuất. Ở trong hỏa đại từ định xuất
Ư hỏa đại trung nhập chánh định, Ở trong hỏa đại nhập chánh định
Ư phong khởi định tâm bất loạn. Nơi gió xuất định tâm chẳng động.
Giảng: Bồ Tát ở trong sông biển nhập chánh định, ở trong hỏa đại từ định xuất. Ở trong hỏa đại nhập chánh định, ở trong phong đại xuất chánh định mà tâm chẳng tạp loạn, như như bất động, liễu liễu thường minh.
Ư phong đại trung nhập chánh định, Ở Trong phong đại nhập chánh định
Ư địa đại trung tùng định xuất. Ở trong địa đại từ định xuất
Ư địa đại trung nhập chánh định, Ở trong địa đại nhập chánh định
Ư Thiên cung điện tùng định xuất. Nơi cung điện trời từ định xuất.
Giảng: Bồ Tát ở trong phong đại nhập chánh định, ở trong địa đại từ định xuất. Ở trong địa đại nhập chánh định, ở cung điện trời từ định xuất.
Ư Thiên cung điện nhập chánh định, Nơi cung điện trời nhập chánh định
Ư không khởi định tâm bất loạn. Nơi không xuất định tâm chẳng loạn.
Giảng: Bồ Tát ở trong cung điện trời nhập chánh định, ở trong không xuất chánh định mà tâm chẳng tạp loạn, đó đều là cảnh giới y chánh hai báo cùng nhau vô ngại.
Thị danh vô lượng công đức giả, Đó gọi bậc vô lượng công đức
Tam muội tự tại nan tư nghị, Tam muội tự tại khó nghĩ bàn
Thập phương nhất thiết chư Như Lai, Mười phương tất cả các Như Lai
Ư vô lượng kiếp thuyết bất tận. Trong vô lượng kiếp nói không hết.
Giảng: Ðó đều là tam muội làm vô lượng công đức mà thành tựu. Những tam muội đó đều tự tại vô ngại, cảnh giới không thể nghĩ bàn. Mười phương ba đời tất cả chư Phật, đều cùng nhau diễn nói pháp này, trong vô lượng kiếp cũng nói không hết được.
Nhất thiết Như Lai hàm cọng thuyết, Tất cả Như Lai đều cùng nói
Chúng sanh nghiệp báo nan tư nghị, Nghiệp báo chúng sinh không nghĩ bàn
Chư long biến hóa Phật tự tại, Các rồng biến hóa Phật tự tại
Bồ Tát thần lực diệc nan tư. Thần lực Bồ Tát cũng khó nghĩ.
Giảng: Mười phương tất cả chư Phật đều nói pháp này, nhân quả nghiệp báo của chúng sinh không thể nghĩ bàn. Biến hóa của các rồng có sức tự tại thần thông của Phật, sức thần thông của Bồ Tát cũng là không thể nghĩ bàn.
Rồng có sức thần thông, có thể biến hóa thân lớn, đầy khắp hư không; có thể biến hóa thân nhỏ, như một hạt bụi. Lúc hiện lúc ẩn, biến hóa vô cùng. Rồng ở tại nhân địa thì tu hành ‘’Thừa cấp giới hoãn.’’ Rất cấp thiết tu pháp đại thừa, rất tinh tấn để cầu được thần thông. Song, chẳng chú trọng về giới luật, chẳng nhận chân giữ gìn giới luật, cho nên đọa làm súc sinh, làm thân rồng.
Dục dĩ thí dụ nhi hiển thị, Muốn dùng ví dụ để hiển bày
Chung vô hữu dụ năng dụ thử, Nhưng không có dụ để dụ này
Nhiên chư trí tuệ thông đạt nhân Song bậc trí huệ thông đạt được
Nhân ư thí cố giải kỳ nghĩa. Do ví dụ nên hiểu nghĩa này.
Giảng: Hai thứ thần lực này, muốn dùng ví dụ để hiển bày cho rõ ràng, nhưng chẳng có ví dụ nào để ví dụ cảnh giới thần thông biến hóa này. Song, người có trí huệ sẽ thông đạt, vì dùng ví dụ, cho nên thấu rõ được nghĩa lý này.
Thanh văn tâm trụ bát giải thoát, Thanh Văn tâm trụ tám giải thoát
Sở hữu biến hiện giai tự tại, Hết thảy biến hiện đều tự tại
Năng dĩ nhất thân hiện đa thân, Hay dùng một thân hiện nhiều thân
Phục dĩ đa thân vi nhất thân. Lại dùng nhiều thân làm một thân.
Giảng: Thanh Văn chấp vào tám giải thoát, tức là giải thoát khỏi sự ràng buộc của tám thứ thiền định, hết thảy biến hóa thị hiện cũng rất tự tại, hay dùng một thân mà hiện ra nhiều thân, lại từ nhiều thân biến làm một thân. Ngàn biến vạn hóa, không thể hết được, cảnh giới này không thể nghĩ bàn.
Tám giải thoát là :
1). Trong có sắc tưởng quán ngoại sắc giải thoát.
2). Trong không sắc tưởng quán ngoại sắc giải thoát.
3). Tịnh giải thoát thân tác chứng cụ túc trụ.
4). Không vô biên xứ giải thoát.
5). Thức vô biên xứ giải thoát.
6). Vô sở hữu xứ giải thoát.
7). Phi tưởng phi phi tưởng xứ giải thoát.
8). Diệt thọ tưởng định thân tác chứng cụ túc trụ.
Ư hư không trung nhập hỏa định Ở trong hư không nhập hỏa định
Hàng trụ tọa ngọa tất tại không Đi đứng nằm ngồi trong hư không
Thân thượng xuất thủy thân hạ hỏa Trên thân ra nước dưới thân lửa
Thân thượng xuất hỏa thân hạ thủy. Trên thân ra lửa dưới thân nước.
Giảng: A La Hán ở trong hư không có thể nhập hỏa định, đi đứng nằm ngồi đều ở trong hư không, hiện ra mười tám biến. Trên thân ra nước dưới thân ra lửa; hoặc trên thân ra lửa dưới thân ra nước. Sự biến hóa này không thể nghĩ bàn.
Như thị giai ư nhất niệm trung, Như vậy đều ở trong một niệm
Chủng chủng tự tại vô biên lượng. Đủ thứ tự tại vô biên lượng
Bỉ bất cụ túc đại từ bi, Họ chẳng đầy đủ đại từ bi
Bất vì chúng sanh cầu Phật đạo, Chẳng vì chúng sinh cầu Phật đạo.
Giảng: Giống như mười tám biến thần thông, ở trong một niệm đều có thể hiện ra. Mà có đủ thứ tự tại thần thông lực, nhiều vô lượng vô biên. Vì A La Hán chẳng đầy đủ tâm đại từ bi, họ là tự liễu hán, chỉ biết vì mình cầu giải thoát, mà chẳng vì chúng sinh nói pháp cầu Phật đạo.
Thượng năng hiện thử nan tư sự Còn hiện được việc khó nghĩ đó
Huống Đại nhiêu ích tự tại lực. Huống đại nhiêu ích tự tại lực.
Giảng: A La Hán còn có thể hiện ra cảnh giới không thể nghĩ bàn như thế, hà huống là Bồ Tát phát tâm đại bồ đề để lợi ích cho tất cả chúng sinh, càng có đại tự tại thần thông lực, càng không thể nghĩ bàn.
Thí như nhật nguyệt du hư không Ví như trời trăng trên hư không
ảnh tượng phổ biến ư thập phương, Hình bóng khắp hết thảy mười phương
tuyền trì pha trạch khí trung thủy, Trong nước suối hồ ao đàm chậu
chúng bảo hà hải mĩ bất hiện. Các báu sông biển thảy đều hiện.
Giảng: Bồ Tát thời khắc phát tâm đại bi, lợi ích chúng sinh. Giống như mặt trời mặt trăng trong hư không, hình bóng của nó khắp hết thảy trong mười phương thế giới. Phàm là nơi có nước suối, đầm, ao, hồ, chậu, hoặc trong các báu, hoặc ở trong sông biển, đều hiện ra hình bóng mặt trời mặt trăng, do đó có câu :
‘’Ngàn đầm có nước ngàn đầm có mặt trăng
Vạn dặm không mây vạn dặm trời xanh.’’
Nói tóm lại, chỗ nào có nước thì hiện ra hình bóng mặt trời mặt trăng, chẳng có nơi nào mà chẳng hiện. Nếu tâm của chúng ta thanh tịnh, thì hình bóng Phật Bồ Tát cũng sẽ hiện ra.
Bồ Tát sắc tượng diệc phục nhiên Sắc tượng Bồ Tát cũng như thế
Thập phương phổ hiện bất tư nghị, Khắp hiện mười phương không nghĩ bàn
Thử giai tam muội tự tại Pháp Đó đều tam muội pháp tự tại
Duy hữu Như Lai năng chứng liễu. Chỉ có Như Lai chứng biết được.
Giảng: Sắc tượng của Bồ Tát giống như hình bóng mặt trời mặt trăng, trong mười phương thế giới, khắp hiện ra cảnh giới không thể nghĩ bàn. Ðó tức là pháp tam muội tự tại của Bồ Tát đắc được. Chư Thiên và phàm phu không thể thấu rõ cảnh giới này, chỉ có Phật mới chứng biết rõ cảnh giới này.
Như tịnh thủy trung tứ binh tượng Như trong nước sạch hình bốn binh
Các các biệt dị vô giao tạp, Hết thảy khác nhau chẳng xen tạp
Kiếm kích hồ thỉ loại thậm đa Kiếm kích cung tên rất nhiều loại
Khải trụ xa dư phi nhất chủng. Mão giáp xe cộ chẳng phải một.
Giảng: Giống như trong nước sạch, hiển hiện ra voi, ngựa, xe, binh, hình bóng của bốn thứ. Tuy nhiên mỗi thứ có hình bóng khác nhau, song rõ ràng chẳng có xen tạp. Bốn thứ binh đó, có tay cầm kiếm báu, có tay cầm kích, có tay cầm cung tên, có tay cầm mâu thuẫn, nhiều thứ nhiều loại chẳng giống nhau. Có thân mặc giáp, đầu đội mão, đó là bảo vệ thân thể ? Có người đứng ở trên chiến xa, một xe có bốn binh lính, mặt hướng về bốn phương để nghinh địch. Ở xa thì dùng tên bắn, gần thì dùng kiếm đâm. Trong bài điếu cổ chiến trường có nói :
‘’Bạch nhận giao hề bảo đao trảm
Lưỡng quân xúc hề sinh tử quyết.’’
Ðó là hình dung sự tàn khốc của chiến tranh.
Tùy kỳ sở hữu tướng sái biệt Tùy theo hết thảy tướng khác nhau
Mạc bất giai ư thủy trung hiện Thảy đều hiện ra ở trong nước
Nhi thủy bổn tự vô phân biệt Mà nước vốn chẳng có phân biệt
Bồ Tát tam muội diệc như thị. Tam muội Bồ Tát cũng như vậy.
Giảng: Bốn thứ hình binh, tùy theo hết thảy các hình tướng mà có sự khác nhau, thảy đều hiện ra ở trong nước. Song, bổn thể của nước chẳng có phân biệt. Vì nước là vô tâm, cho nên chẳng phân biệt đây là binh voi, kia là binh ngựa .v.v… tam muội của Bồ Tát hiện cũng cùng đạo lý ấy.
Hải trung hữu Thần danh Thiện Âm Trong biển có thần tên Thiện Âm
Kỳ âm phổ thuận hải chúng sanh, Tiếng đó thuận chúng sinh trong biển
Sở hữu ngữ ngôn giai biện liễu Hết thảy lời nói đều hiểu rõ
Lệnh bỉ nhất thiết tất hoan duyệt. Khiến cho tất cả đều vui mừng.
Giảng: Trong biển có vị thần biển tên là Thiện Âm. Âm thanh của vị thần đó, khắp tùy thuận tất cả chúng sinh ở trong biển. Chúng sinh trong biển rất nhiều loại, hết thảy lời nói, vị thần đó đều thấu hiểu rõ ràng ý của họ, khiến cho tất cả chúng sinh đều sinh tâm hoan hỷ vui mừng.
Bỉ Thần cụ hữu tham khuể si, Thần đó có đủ tham sân si
Do năng thiện giải nhất thiết âm, Mà còn khéo hiểu tất cả tiếng
Huống phục tổng trì tự tại lực, Hà huống tổng trì tự tại lực
Nhi bất năng lệnh chúng hoan hỉ! Sao không thể khiến chúng hoan hỷ.
Giảng: Vị thần biển đó, chưa đoạn sạch tâm tham sân si, mà còn hiểu rõ tất cả tiếng nói và lời lẽ. Hà huống là Bồ Tát có sức thần thông tổng trì tự tại, sao không thể khiến cho tất cả chúng sinh sanh tâm hoan hỷ ? Bồ Tát hành Bồ Tát đạo, nơi nơi đều khiến cho chúng sinh hoan hỷ.
Hữu nhất phụ nhân danh biện tài Có một phụ nữ tên Biện Tài
Phụ mẫu cầu Thiên nhi đắc sanh, Cha mẹ cầu trời mà sinh nàng
Nhược hữu ly ác lạc chân thật Nếu ai lìa ác thích chân thật
Nhập bỉ thân trung sanh diệu biện. Nhập vào thân nàng sinh diệu biện.
Giảng: Có một phụ nữ tên là Biện Tài. Cô ta khéo về biện luận, có thiên tài biện tài vô ngại thao thao bất tuyệt. Chẳng những cô ta khéo về biện luận, mà cũng giáo hóa cho kẻ khác cũng được biện tài vô ngại. Cha mẹ của cô ta khẩn cầu Phạm Thiên mà sinh ra cô ta.
Nếu như có ai nghĩ muốn lìa khỏi ba đường ác, hoan hỷ ưa thích pháp chân thật, hướng về cô ta học theo, thì nhất định sẽ sinh ra biện tài vi diệu. Tức cũng là khiến cho người ngu si sẽ sinh ra trí huệ. Ðó tức là nói pháp lợi sinh, khiến cho chúng sinh được lợi ích.
Bỉ hữu tham dục sân khuể si, Nàng có tham dục sân hận si
Do năng tùy hàng dữ biện tài, Còn cho người theo được biện tài
Hà huống Bồ Tát cụ trí tuệ, Hà huống Bồ Tát đủ trí huệ
Nhi bất năng dữ chúng sanh ích! Sao không thể cho chúng lợi ích.
Giảng: Phụ nữ biện tài đó, cô ta là người phàm phu bình thường, chứ chẳng phải là Thánh nhân. Vốn chưa đoạn trừ tham dục, sân hận và ngu si, cô ta còn tâm niệm tham dục, tâm hận người, lửa vô minh, song cô ta có bản lãnh biện tài vô ngại. Ai theo học hạnh cô ta, hoặc gần gũi cô ta, thì người đó sẽ được cô ta truyền thọ pháp biện tài vô ngại. Hà huống là Bồ Tát hành Bồ Tát đạo, tất cả đều lợi ích chúng sinh; Bồ Tát đã đoạn trừ tham sân si, lại đầy đủ đại trí huệ, đại bi tâm, sao không thể ban cho chúng sinh lợi ích ? Bồ Tát nhất định sẽ ban cho chúng sinh lợi ích, Bồ Tát là vì người chẳng vì mình, tất cả đều nghĩ về chúng sinh, chẳng có chút xí đồ.
Thí như huyễn sư tri huyễn pháp Ví như huyễn sư biết pháp huyễn
Năng hiện chủng chủng vô lượng sự Hay hiện đủ thứ vô lượng sự
Tu du thị tác nhật nguyệt tuế Chốc lát hiện làm ngày tháng năm
Thành ấp phong nhiêu Đại An lạc. Thành ấp phong phú đại an lạc.
Giảng: Ví như nhà ma thuật, ông ta khéo biết pháp ma thuật. Tuy nhiên hư vọng không thật, song một số người thấy sẽ tin cho là thật. Nhà ma thuật đó, hay biến hóa ra đủ thứ sự vật không thể nghĩ bàn. Có thể khiến cho trong một sát na biến thành thời gian dài. Ví như ông ta dùng thuật thôi miên khiến cho bạn ngủ, khoảng một hai giây đồng hồ mà bạn cảm thấy đã trôi qua mấy mươi năm, giống như trong giấc mộng phát tài, giàu có bốn biển, đắc được đại an lạc.
Huyễn sư cụ hữu tham khuể si, Huyễn sư có đủ tham sân si
Do năng huyễn lực duyệt thế gian, Còn huyễn hóa được vui thế gian
Huống phục Thiền định giải thoát lực, Huống chi sức thiền định giải thoát
Nhi bất năng lệnh chúng hoan hỉ! Sao không thể khiến chúng hoan hỷ.
Giảng: Vị huyễn thuật đó là phàm phu, còn tham sân si ba độc. Song, ông ta còn có thể dùng sức huyễn thuật để khiến cho người thế gian sinh tâm hoan hỷ. Hà huống là Bồ Tát lại có sức thiền định giải thoát, sao không thể khiến cho chúng sinh sanh tâm hoan hỷ ? Bồ Tát hành Bồ Tát đạo, nơi nơi đều vì lợi ích chúng sinh, thì nhất định sẽ khiến cho chúng sinh được hoan hỷ.
Thiên A-tu-la đấu chiến thời Khi trời A tu la đánh nhau
Tu La bại nục nhi thoái tẩu, Tu la bị bại bỏ chạy trốn
Binh trượng xa dư cập đồ lữ, Binh khí xe cộ và quân lính
Nhất thời thoán nặc mạc đắc kiến. Cùng nhau trốn mất không thấy được.
Giảng: A tu la có bốn thứ sinh : Hóa sinh là A tu la trên trời, thai sinh là A tu la ở nhân gian, noãn sinh là A tu la súc sinh, thấp sinh là A tu la ngạ quỷ. A tu la có khi thuộc về ba đường lành (trời, người, A tu la), có khi thuộc về bốn đường ác (A tu la, súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục). Trong sáu nẻo thì nơi nào cũng có A tu la.
A tu la là gì ? Nói một cách ngắn gọn, phàm là kẻ ưa đấu tranh, tức là A tu la. Giống như quan binh trong quân đội luôn luôn đấu tranh, đó là Thiên tánh A tu la. Giống như bọn thổ phỉ trong bọn cướp, dùng bạo lực đi chiếm đoạt của cải người khác, đó là ác tánh A tu la.
A tu la trên trời thường đánh nhau với trời Ðế Thích. Tại sao ? Vì ma A tu la muốn thống lãnh chư Thiên (trời Ðao Lợi), cho nên muốn lật đổ trời Ðế Thích, để làm Thiên chúa. Song, đa số đều thất bại bỏ chạy. A tu la đem hết thảy binh khí như xe cộ, quân lính, cùng nhau ẩn trốn, chẳng để lại dấu tích, khiến cho Ðế Thích chẳng cách chi tìm được.
Bỉ hữu tham dục sân khuể si, Tu la có tham dục sân si
Thượng năng biến hóa bất tư nghị, Còn biến hóa được không nghĩ bàn
Huống trụ thần thông vô úy Pháp, Huống bậc trụ thần thông vô úy
Vân hà bất năng hiện tự tại! Sao lại không thể hiện tự tại.
Giảng: A tu la trên trời còn có tâm tham sân si, chưa hoàn toàn đoạn trừ; tuy sinh lên trên trời, vẫn còn có tâm đấu tranh. Chúng còn có thể biến hóa ra cảnh giới không thể nghĩ bàn, hà huống là Bồ Tát trụ tại thần thông pháp vô sở úy, sao lại không thể hiện ra tự tại thần thông ? Bồ Tát chắc chắn sẽ hiện ra tự tại thần thông diệu dụng.
Thích-đề-hoàn-nhân hữu Tượng Vương, Thích Đề Hoàn Nhân có voi chúa
Bỉ tri Thiên Chủ dục hành thời, Lúc nó biết Thiên chủ muốn đi
Tự hóa tác đầu tam thập tam, Tự hóa làm ba mươi hai đầu
Nhất nhất lục nha giai cụ túc Mỗi đầu sáu ngà đều đầy đủ.
Giảng: Thích Ðề Hoàn Nhân tức là Ðế Thích. Ðế Thích có con voi chúa, tuy nó là voi nhưng có thần thông, biết được Thích Ðề Hoàn Nhân muốn đi, thì lúc đó nó tự động đi đến trước mặt và biến hóa ra ba mươi hai cái đầu, mỗi cái đầu có đủ ba mươi sáu cái ngà.
Nhất nhất nha thượng thất trì thủy, Trên mỗi ngà có bảy ao nước
Thanh tịnh hương khiết trạm nhiên mãn. Mỗi ao đầy nước thơm trong sạch
Nhất nhất thanh tịnh trì thủy trung, Trong mỗi ao nước thơm trong sạch
Các thất liên hoa diệu nghiêm sức. Có bảy hoa sen nghiêm sức đẹp.
Giảng: Trên mỗi ngà đầu con voi đều có bảy ao nước. Nước đó trong sạch thơm tho, sâu và đầy. Trong mỗi ao nước trong sạch đều có bảy đóa hoa sen báu, để trang nghiêm ao báu đó.
Bỉ chư nghiêm sức liên hoa thượng, Trên mỗi hoa sen nghiêm sức đó
Các các hữu thất Thiên ngọc nữ, Đều có bảy ngọc nữ cõi trời
Tất thiện kỹ nghệ tấu chúng nhạc, Khéo nghề đờn ca tấu âm nhạc
Nhi dữ Đế Thích tướng ngu lạc. Thảy đều vui chơi với Đế Thích.
Giảng: Trên mỗi hoa sen nghiêm sức trong ao, đều có bảy ngọc nữ cõi trời, ở trên hoa sen biểu diễn hòa tấu đủ thứ âm nhạc, hoặc đờn ca cùng vui chơi với trời Ðế Thích, khiến cho Ðế Thích sinh tâm hoan hỷ.
Bỉ tượng hoặc phục xả bổn hình, Voi đó hoặc lại bỏ hình cũ
Tự hóa kỳ thân đồng chư Thiên, Tự hóa ra thân như chư Thiên
Uy nghi tiến chỉ tất tề đẳng, Oai nghi đi đứng đều chỉnh tề
Hữu thử biến hiện thần thông lực. Nó có thần thông biến như vậy.
Giảng: Voi chúa đó, hoặc lại bỏ hình tướng cũ, tự hóa ra thân hình giống như chư Thiên, oai nghi đi đứng đều chỉnh tề như chư Thiên. Nó có sức thần thông biến hóa như thế.
Bỉ hữu tham dục sân khuể si, Voi có tham dục sân hận si
Thượng năng hiện thử chư thần thông, Còn hiện được thần thông như vậy
Hà huống cụ túc phương tiện trí, Hà huống bậc đủ trí phương tiện
Nhi ư chư định bất tự tại! Mà trong các định chẳng tự tại.
Giảng: Voi chúa đó còn có tham dục sân hận si mê, mà còn có thể hiện ra thần thông biến hóa như thế, hà huống là Bồ Tát đầy đủ trí phương tiện. Sao lại ở trong định chẳng tự tại ư ? Nhất định sẽ đắc được tam muội du hí, tất cả đều ở trong tự tại.
Như A-tu-la biến tác thân, Như A tu la biến hóa thân
Đạo Kim cương tế hải trung lập, Chân đứng trong biển kim cang tế
Hải thủy chí thâm cận kỳ bán, Nước biển sâu thẳm đến nửa thân
Thủ cọng Tu-Di chánh tề đẳng. Đầu cao ngang bằng núi Tu Di.
Giảng: A tu la cũng có thần thông, biến hóa ra thân thể, chân đứng ở trong biển kim cang tế; nước biển tuy sâu, nhưng chỉ ngập đến nửa thân, còn đầu thì ngang bằng núi Tu Di.
Bỉ hữu tham dục sân khuể si, Tu la có tham dục sân si
Thượng năng hiện thử đại thần thông, Còn hiện được đại thần thông đó
Huống phục ma oán chiếu thế đăng, Huống phục ma oán chiếu thế đăng
Nhi vô tự tại uy thần lực! Chẳng có tự tại oai thần lực !
Giảng: A tu la chưa hoàn toàn phá trừ tham sân si, lại có tâm dâm dục quá nặng. Vì thuở xưa tu pháp đại thừa, cho nên có đại thần thông. Hà huống là bậc Bồ Tát hay hàng phục tất cả thiên ma ngoại đạo, lại hay tiêu trừ tất cả oán địch, trở thành đèn sáng chiếu soi thế gian, khiến cho thế giới đen tối hiện ra ánh sáng, lại chẳng có tự tại đại oai thần lực chăng ? Nhất định các Ngài sẽ có đại oai thần lực đó.
Thiên A-tu-la cọng chiến thời, Lúc trời, A tu la đánh nhau
Đế Thích thần lực nan tư nghị, Thần lực Đế Thích không nghĩ bàn
Tùy A-tu-la quân chúng số, Tùy số quân lính A tu la
Hiện thân đẳng bỉ nhi dữ địch. Hiện thân đồng số để đánh nhau.
Giảng: Khi Ðế Thích và A tu la đánh nhau, thì sức thần thông của trời Ðế Thích không thể nghĩ bàn. Tuỳ theo số lượng quân lính của A tu la bao nhiêu, thì ông ta sẽ hiện ra bấy nhiêu, để đánh với quân A tu la, cuối cùng sẽ đánh bại A tu la và A tu la bỏ chạy.
Tại sao A tu la thường đánh nhau với trời Ðế Thích ? Vì thuở xưa trời Ðế Thích nghĩ muốn phản đối họ, hoàn toàn tiêu diệt, cho nên thường đánh nhau với người, do nhân duyên đó, mà có A tu la đến gây phiền phức ông ta, đến đánh ông ta. Thuở xưa ông ta tu đủ thứ công đức, cho nên có thần thông, ông ta hiểu rằng oán cừu nên giải không nên kết, là chân đế của hòa bình, do đó ông ta kết hôn với con gái của vua A tu la. Như vậy sẽ hóa can qua thành ngọc lụa.
Chư A-tu-la phát thị niệm: Các A tu la nghĩ như vầy :
Thích-đề-hoàn-nhân lai hướng ngã, Thích đề hoàn nhân đến đánh ta
Tất thủ ngã thân ngũ chủng phược. Tất sẽ bắt ta trói tay chân
Do thị bỉ chúng tất ưu tụy. Do đó họ đều sinh lo sợ.
Giảng: Có rất nhiều A tu la sinh ra ý niệm như vầy : Thích Ðề Hoàn Nhân đến để đánh ta, thì nhất định phải dũng mãnh tác chiến, nếu đánh bại thì Thích Ðề Hoàn Nhân tất sẽ bắt ta trói lại. Do đó A tu la đều sinh tâm lo âu sợ hãi.
Đế Thích hiện thân hữu thiên nhãn Đế Thích hiện thân có ngàn mắt
Thủ trì Kim Cương xuất hỏa diệm, Tay cầm kim cang tuôn lửa ngọn
Bị giáp trì trượng cực uy nghiêm, Mặc giáp cầm gậy rất oai nghiêm
Tu La vọng kiến hàm thoái phục. Tu la xa thấy đều bỏ chạy.
Giảng: Khi trời Ðế Thích và A tu la đánh nhau, thì trời Ðế Thích hiện ra thân hình ngàn mắt, tay cầm chùy báu kim cang, chùy báu phóng ra lửa ngọn, thân mặc áo giáp, đầu đội mũ sắt, tay cầm gậy rất là uy nghi. Binh lính A tu la một khi thấy trời Ðế Thích uy nghi như thế, thì sinh tâm sợ hãi, liền bỏ chạy trốn mà bị hàng phục.
Bỉ dĩ vi tiểu phước đức lực, Đế Thích nhờ chút phước đức nhỏ
Do năng tồi phá Đại oán địch, Còn phá tan được oán địch lớn
Hà huống cứu độ nhất thiết giả, Hà huống bậc cứu độ tất cả
Cụ túc công đức bất tự tại Đầy đủ công đức chẳng tự tại !
Giảng: Phước đức của Thích Ðề Hoàn Nhân rất nhỏ, song cũng phá tan được đại quân địch A tu la xâm phạm. Hà huống là Bồ Tát hay cứu độ tất cả chúng sinh, đã đầy đủ viên mãn hết thảy công đức, sao lại không đắc được tự tại tam muội ? Công đức của Bồ Tát vĩ đại nhất, nhất định sẽ được đại tự tại.
Đao Lợi Thiên trung hữu Thiên cổ, Trên trời Đao Lợi có trống trời
Tùng Thiên nghiệp báo nhi sanh đắc Do nghiệp báo trời mà sinh ra
Tri chư Thiên Chúng phóng dật thời, Khi biết các chúng trời phóng dật
Không trung tự nhiên xuất thử âm. Trong không tự nhiên vang tiếng rằng:
Giảng: Trời Ðao Lợi dịch là trời Ba Mươi Ba. Hướng đông có tám trời, hướng nam có tám trời, hướng tây có tám trời, hướng bắc có tám trời, chính giữa có một trời, hợp lại là Ba Mươi Ba trời, trong Ba Mươi Ba trời đó, có cái trống trời không có hình tướng, chỉ nghe tiếng của nó mà chẳng thấy hình, đó là nghiệp báo của người trời chiêu cảm ra, mới sinh ra cái trống trời đó. Người trời thường ở trong thiền định, luôn luôn yên tĩnh chẳng có tạp niệm, nếu khi nào phóng dật thì trống trời chẳng đánh mà kêu, từ trên không tự nhiên vang ra tiếng cảnh cáo nói : ‘’Người tu hành không thể có vọng tưởng’’!
Nhất thiết ngũ dục tất vô thường, Tất cả năm dục đều vô thường
Như thủy tụ mạt tánh hư ngụy, Như bọt nước tự tánh như ngụy
Chư hữu như mộng như dương diệm, Các cõi như mộng như ánh nắng
Diệc như phù vân thủy trung nguyệt. Cũng như mây trôi trăng trong nước.
Giảng: Tất cả tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn ngon, ngủ nhiều, năm dục này đều là vô thường, giống như bọt nước tích tụ lại, đều là hư ngụy chẳng thật, vốn chẳng có thật thể. Tất cả pháp hữu vi, như mộng huyễn bọt bóng, lại giống như ánh nắng, cũng giống như mây trôi trong hư không, lại giống như mặt trăng trong nước, đều là hư vọng, không thể tham luyến.
Phóng dật vi oán vi khổ não, Phóng dật là oán là khổ não
Phi cam lồ đạo sanh tử kính, Là đường sinh tử chẳng mát mẻ
Nhược hữu tác chư phóng dật hạnh Nếu ai làm các hạnh phóng dật
Nhập ư tử diệt đại ngư khẩu. Đi vào miệng cá lớn sinh tử.
Giảng: Phóng dật tức là chẳng giữ quy cụ. Người tu hành đi đứng nằm ngồi bốn đại oai nghi, đều phải giữ quy cụ. Ví như khi ngồi thiền, thì phải ngồi ngay ngắn. Nếu ngả về trước, nghiêng về sau đều là phóng dật. Không thể nhiếp thân tâm, vọng tưởng trùng trùng cũng là phóng dật. Cho nên Bồ Tát Phổ Hiền nói : « Hãy nhớ vô thường, đừng có phóng dật.’’ Phóng dật tức là oán tặc, cũng là gốc khổ não, chẳng phải là đạo tràng cam lồ mát mẻ, cũng chẳng phải tu lối tắt sinh tử. Tóm lại, chẳng phải là đạo tràng pháp môn chấm dứt sinh tử, nếu như có ai làm đủ thứ hành vi phóng dật, thì tương lai sẽ bị cá lớn trong biển nuốt, hoặc bị quỷ vô thường bắt đi.
Thế gian sở hữu chúng khổ bản Hết thảy các gốc khổ thế gian
Nhất thiết Thánh nhân giai yếm hoạn Tất cả Thánh nhân đều nhàm sợ
Ngũ dục công đức diệt hoại tánh Ngũ dục tánh diệt hoại công đức
Nhữ ưng ái lạc chân thật Pháp. Ông nên ưa thích pháp chân thật.
Giảng: Từ cái trống trời vang ra âm thanh, là diễn nói hết thảy tất cả gốc rễ khổ của thế gian, tức là do năm dục (cũng có thể nói là sắc thanh hương vị xúc) mà sinh ra. Cho nên tất cả Thánh nhân, đều không hoan hỷ vui năm dục mà sinh nhàm chán, năm dục là tánh diệt hoại công đức. Một khi có chút công đức, thì bị nó phá hoại, các vị đại chúng phải chú ý ! Nên ưa thích pháp chân thật, đừng tham cầu vui năm dục.
Tam thập tam thiên văn thử âm Trời Ba Mươi Ba nghe tiếng đó
Tất cọng lai thăng thiện pháp đường, Cùng nhau đi đến diệu pháp đường
Đế Thích vì thuyết vi diệu Pháp, Đế Thích vì họ nói diệu pháp
Hàm lệnh thuận tịch trừ tham ái. Đều khiến thuận theo trừ tham ái.
Giảng: Chúng trời Ba Mươi Ba nghe được trống trời tự nhiên nói pháp, thì mọi người tự động cùng nhau đi đến Diệu Pháp Ðường, đạo tràng của Thích Ðề Hoàn Nhân, lắng nghe trời Ðế Thích diễn nói pháp thâm sâu vi diệu, khiến cho chư Thiên đều y pháp tu hành, trừ khử tham ái.
Bỉ âm vô hình bất khả kiến Tiếng đó vô hình chẳng thấy được
Do năng lợi ích chư Thiên Chúng, Mà hay lợi ích các Thiên chúng
Huống tùy tâm lạc hiện sắc thân, Huống tùy tâm thích hiện sắc thân
Nhi bất tế độ chư quần sanh! Mà không tế độ các quần sinh.
Giảng: Các Thiên chúng tuy nghe được tiếng trống trời tự nhiên phát ra, song nhìn chẳng thấy hình tướng cái trống trời. Trống trời còn có thể lợi ích các Thiên chúng, hà huống là Bồ Tát hay tùy tâm ưa thích mà hiện ra sắc thân, lẽ nào không thể cứu tế độ thoát các quần sinh ư ? Những Bồ Tát hành Bồ Tát đạo đó, nhất định sẽ phát tâm đại từ đại bi để phổ độ chúng sinh, rộng cứu chúng sinh, tuyệt đối chẳng có vấn đề. Việc làm của Bồ Tát là cứu chúng sinh lìa khổ được vui, chấm dứt sinh tử, khiến cho chúng sinh đắc được thường, lạc, ngã, tịnh, bốn đức Niết Bàn.
Thiên A-tu-la cọng đấu thời Khi trời, A tu la đánh nhau
Chư Thiên phước đức thù thắng lực Nhờ phước đức chư Thiên thù thắng
Thiên cổ xuất âm cáo kỳ chúng: Trống trời vang tiếng bảo chúng trời
Nhữ đẳng nghi ưng vật ưu bố! Các ông không nên có kinh sợ.
Giảng: A tu la thường đánh nhau với trời Ðế Thích, lúc đánh nhau thì nhờ chư Thiên có phước đức thù thắng, cho nên trống trời tự nhiên bèn vang ra tiếng, bảo các chúng trời rằng : ‘’Các ông mọi người, phải cố gắng đánh, đừng có sinh tâm sợ hãi, các ông nhất định sẽ thắng lợi. A tu la nhất định sẽ thua.’’ Trống trời luôn luôn cổ lệ binh trời, tướng trời, khiến cho họ dũng cảm đánh địch, mà đắc được sự thắng lợi.
Chư Thiên văn thử sở cáo âm Chư Thiên nghe được tiếng trống đó
Tất Trừ ưu úy tăng ích lực. Đều hết lo sợ thêm sức lực
Thời A-tu-la tâm chấn cụ Lúc đó A tu la tâm khiếp sợ
Sở tướng binh chúng hàm thoái tẩu. Hết thảy binh tướng đều bỏ chạy.
Giảng: Tất cả các chúng trời nghe được tiếng trống trời vang ra, thì liền giải trừ tâm lo sợ, mà tăng thêm sức chiến đấu, dũng khí thêm vạn bội, hướng về trước giết địch. Lúc đó, binh tướng A tu la nghe được tiếng trống trời, thì ngược lại sinh tâm sợ hãi, hết thảy binh tướng A tu la đều bỏ chạy.
Cam lồ diệu định như Thiên cổ, Cam lồ diệu định như trống trời
Hằng xuất hàng ma tịch tĩnh âm, Luôn vang tiếng hàng ma vắng lặng
Đại bi ai mẫn Cứu nhất thiết, Đại bi thương xót cứu tất cả
Phổ sử chúng sanh diệt phiền não. Khắp khiến chúng sinh diệt phiền não.
Giảng: Bồ Tát tu cam lồ diệu định, giống như trống trời, luôn vang ra âm thanh vắng lặng hàng ma. Bồ Tát có tâm đại bi, có tâm thương xót cứu hộ chúng sinh, khắp khiến cho hết thảy chúng sinh, hoàn toàn tiêu diệt trừ sạch vô minh phiền não, thân tâm thanh tịnh.
Kinh văn ở trên là dạy chúng ta nơi nơi đoạn trừ phiền não, song chúng ta nơi nơi đi tìm phiền não, tương phản lại với nghĩa của kinh, quay lưng lại với đạo mà bỏ chạy, càng chạy càng xa nhà, chẳng biết hồi đầu, do đó :
‘’Biển khổ vô biên hồi đầu là bờ.’’
Khi nào biết quay trở lại, thì sẽ trở về cội nguồn, tức cũng là đồng chân nhập đạo, chứng quả giải thoát.
Đế Thích phổ ưng chư Thiên nữ, Thiên đế khắp ứng các Thiên nữ
Cửu thập hữu nhị na-do-tha, Chín mươi hai Na do tha thân
Lệnh bỉ các các tâm tự vị Khiến họ ai nấy tâm tự bảo
Thiên Vương độc dữ ngã ngu lạc. Vua trời chỉ vui chơi với ta.
Giảng: Trời Ðế Thích khắp ứng sự yêu cầu của các Thiên nữ, vui chơi cùng với họ. Có bao nhiêu Thiên nữ ? Có chín mươi hai Na do tha Thiên nữ. Trời Ðế Thích có thần thông, từ một thân mà biến hóa ra chín mươi hai Na do tha thân, khiến cho những Thiên nữ đó ai nấy đều tự nghĩ : Trời Ðế Thích chỉ vui chơi với mình ta thôi.
Như Thiên nữ trung thân phổ ưng Như khắp ứng với các Thiên nữ
Thiện pháp đường nội diệc như thị, Trong Thiện Pháp Đường cũng như vậy
Năng ư nhất niệm hiện thần thông, Hay trong một niệm hiện thần thông
Tất chí kỳ tiền vi thuyết Pháp. Đều đến trước họ mà nói pháp.
Giảng: Trời Ðế Thích ứng hiện ra chín mươi hai Na do tha thân, vui chơi với chín muơi hai Na do tha Thiên nữ, khiến cho họ đều sinh tâm hoan hỷ, trời Ðế Thích ở tại Thiện Pháp Ðường, diễn nói diệu pháp cũng như thế, hay khiến cho tất cả chúng sinh cảm giác, chỉ vì họ một người mà nói pháp, bèn sinh tâm vui mừng. Trời Ðế Thích trong một niệm hiện ra đại thần thông, biến hóa vô lượng thân, đến ở trước tất cả chư Thiên để vì họ nói diệu pháp.
Đế Thích cụ hữu tham khuể si, Đế Thích có đủ tham sân si
Năng lệnh quyến thuộc tất hoan hỉ, Hay khiến quyến thuộc đều hoan hỷ
Huống đại phương tiện thần thông lực, Huống bậc phương tiện đại thần thông
Nhi bất năng lệnh nhất thiết duyệt! Mà không thể khiến tất cả vui !
Giảng: Trời Ðế Thích còn đầy dẫy tham sân si, song ông ta còn có thể làm cho hết thảy Thiên nữ quyến thuộc đều sinh hoan hỷ. Hà huống là Bồ Tát đại phương tiện đại thần thông, sao lại không thể khiến cho tất cả chúng sinh đều vui mừng ? Bồ Tát có tâm đại từ bi thì nhất định sẽ khiến cho chúng sinh đắc được sự vui vẻ !
Tha-Hoá Tự-Tại lục Thiên Vương, Tha Hóa Tự Tại Đại Thiên Vương
Ư dục giới trung đắc tự tại, Ở trong dục giới được tự tại
Dĩ nghiệp hoặc khổ vi quyến võng Dùng nghiệp cảm khổ làm rọ lưới
Hệ phược nhất thiết chư phàm phu. Trói buộc tất cả các phàm phu.
Giảng: Tha Hóa Tự Tại Thiên Vương ở trên đỉnh trời dục giới, tức cũng là tầng trời thứ sáu. Ông ta ở trong dục giới đắc được tự tại, song tư tưởng của ông ta chẳng thanh tịnh, có tâm niệm dâm dục. Ông ta lợi dụng chúng sinh khởi hoặc, tạo nghiệp, thọ báo, để làm rọ lưới, trói buộc tất cả phàm phu ngu si vào trong lưới sinh tử mà chẳng được giải thoát.
Bỉ hữu tham dục sân khuể si, Ông ta có tham dục sân si
Do ư chúng sanh đắc tự tại, Với chúng sinh còn được tự tại
Huống cụ thập chủng tự tại lực, Huống bậc được mười lực tự tại
Nhi bất năng lệnh chúng đồng hành! Sao không thể khiến chúng cùng tu !
Giảng: Tha Hóa Tự Tại Thiên Vương chẳng những ông ta còn tâm dâm dục, mà cũng còn tâm ba độc tham sân si. Song, ông ta còn có thần thông, hay bắt phàm phu bỏ vào trong lưới sinh tử, hà huống là Bồ Tát đầy đủ mười thứ lực tự tại, sao không thể khiến cho tất cả chúng sinh cùng tu hành với nhau ? Nhất định sẽ được.
Tam thiên thế giới Đại Phạm Vương, Ba ngàn thế giới vua Đại Phạm
Nhất thiết phạm thiên sở trụ xứ, Chỗ ở của tất cả Phạm Thiên
Tất năng hiện thân ư bỉ tọa, Thảy đều hiện thân ngồi trước họ
Diễn sướng vi diệu Phạm Âm thanh. Diễn xướng tiếng Phạm âm vi diệu.
Giảng: Vua Ðại Phạm quản lý ba ngàn đại thiên thế giới, ông ta có thể trong một niệm, hiện thân ngồi ở trước hết thảy chỗ ở của tất cả Phạm Thiên, để diễn xướng tất cả tiếng Phạm âm vi diệu không thể nghĩ bàn, vì họ mà chuyển bánh xe pháp, giáo hóa họ tinh tấn tu thiền định.
Bỉ trụ thế gian phạm đạo trung, Vua Phạm Vương kia ở thế gian
Thiền định thần thông thượng như ý, Thiền định thần thông còn như ý
Huống xuất thế gian vô hữu thượng, Huống bậc tu hành pháp xuất thế
Ư Thiền giải thoát bất tự tại! Nơi thiền giải thoát chẳng tự tại !
Giảng: Ðại Phạm Thiên Vương, ông ta ở trong sắc giới tu hành đạo thanh tịnh, công phu thiền định và thần thông diệu dụng của ông ta còn toại tâm như ý, hà huống là Bồ Tát tu hành pháp xuất thế, đối với thiền định giải thoát chẳng lẽ không được tự tại ? Nhất định sẽ được tự tại.
Ma hề thủ la trí tự tại, Ma Hê Thủ La trí tự tại
Đại hải long vương hàng vũ thời, Lúc đại hải Long Vương mưa xuống
Tất năng phân biệt số kỳ tích, Đều phân biệt được số giọt mưa
Ư nhất niệm trung giai biện liễu. Ở trong một niệm đều biết rõ.
Giảng: Ma Hê Thủ La là vua trời Ðại Tự Tại Thiên, ông ta ở trên đỉnh trời sắc giới, tức cũng là trời Sắc Cứu Kính. Trí huệ của ông ta rất tự tại, toại tâm như ý, biến hóa vô cùng. Khi Ðại Hải Long Vương mưa xuống, thì bao nhiêu giọt nước mưa, chỉ trong một niệm ông ta đều biết rất rõ ràng.
Vô lượng ức kiếp cần tu học, Vô lượng ức kiếp siêng tu học
Đắc thị vô thượng Bồ-đề trí, Đắc được trí vô thượng bồ đề
Vân hà bất ư nhất niệm trung, Sao không thể ở trong một niệm
Phổ tri nhất thiết chúng sanh tâm! Khắp biết tất cả tâm chúng sinh.
Giảng: Bồ Tát tu Bồ Tát đạo, trong vô lượng kiếp đều siêng tu học tập Phật pháp, đắc được trí huệ vô thượng bồ đề. Sao không thể ở trong một niệm, khắp biết tất cả tâm chúng sinh.
Chúng sanh nghiệp báo bất tư nghị, Nghiệp báo chúng sinh không nghĩ bàn
Dĩ Đại phong lực khởi thế gian, Dùng sức gió lớn khởi thế gian
Cự hải chư sơn Thiên cung điện, Biển rộng các núi cung điện trời
Chúng bảo quang minh vạn vật chủng. Các báu quang minh vạn loài vật.
Giảng: Vì chúng sinh khởi hoặc, tạo nghiệp, thọ báo, cho nên ở trong sáu nẻo luân hồi chuyển qua chuyển lại, vĩnh viễn không ngừng. Nghiệp báo đó không thể nghĩ bàn. Dùng sức gió nghiệp lớn, sinh ra tất cả pháp thế gian. Có biển rộng lớn, lại có núi to lớn và tất cả cung điện trời, các báu quang minh, vạn loài vật .v.v… đều là gió nghiệp tạo thành.
Diệc năng hưng vân hàng Đại vũ, Cũng hay nổi mây trút mưa lớn
Diệc năng tán diệt chư vân khí, Cũng hay tan diệt các mây khí
Diệc năng thành thục nhất thiết cốc, Cũng hay thành thục các ngũ cốc
Diệc năng an lạc chư quần sanh. Cũng hay an lạc các quần sinh.
Giảng: Sức gió nghiệp lớn đó, cũng hay nổi lên tất cả các mây lớn, trút xuống các trận mưa lớn. Cũng hay tan diệt tất cả mây khí, cũng hay thành thục tất cả ngũ cốc đủ loại, cũng hay dạy tất cả chúng sinh đắc được an lạc, phát tâm bồ đề, siêng tu Phật đạo, rộng độ chúng sinh.
Phong bất năng học Ba-la-mật Gió không thể học Ba La Mật
Diệc bất học Phật chư công đức, Cũng không học các công đức Phật
Do thành bất khả tư nghị sự, Mà thành việc không thể nghĩ bàn
Hà huống cụ túc chư nguyện giả! Hà huống bậc đầy đủ các nguyện.
Giảng: Sức gió nghiệp, tuy hay thành tựu vạn sự vạn vật của thế gian, nhưng không thể học tập pháp môn Ba La Mật, cũng không thể học tập tất cả công đức tu hành của Phật. Song, nó hay thành tựu những sự vật đó không thể nghĩ bàn. Hà huống là Bồ Tát đầy đủ tất cả đại nguyện ? Các Ngài phát bốn thệ nguyện lớn và tất cả các nguyện khác, những Bồ Tát đó càng thành tựu việc không thể nghĩ bàn.
Nam tử nữ nhân chủng chủng thanh, Người nam người nữ đủ thứ tiếng
Nhất thiết điểu thú chư âm thanh, Tất cả các tiếng của chim thú
Đại hải xuyên lưu lôi chấn thanh, Tiếng biển cả nước chảy sấm chớp
Giai năng xưng duyệt chúng sanh ý. Đều khiến chúng sinh vui hoan hỷ.
Giảng: Người nam có tiếng của người nam, người nữ có tiếng của người nữ, người già có tiếng của người già, người trẻ có tiếng của người trẻ. Ðủ thứ tiếng đều có thể phân biệt rõ ràng. Tiếng của tất cả phi cầm điểu thú đều khác nhau. Tiếng của biển cả, tiếng suối chảy cũng khác nhau. Tiếng sấm chớp, có tiếng lớn tiếng nhỏ cũng khác nhau. Song, mỗi thứ tiếng đều khiến cho chúng sinh sanh tâm vui vẻ hoan hỷ.
Huống phục tri thanh tánh như hưởng Huống bậc biết tiếng tánh như vang
Đãi đắc vô ngại diệu biện tài, Đắc được diệu biện tài vô ngại
Phổ ưng chúng sanh nhi thuyết Pháp, Khắp ứng chúng sinh mà nói pháp
Nhi bất năng lệnh thế gian hỉ! Sao không thể khiến thế gian vui !
Giảng: Bồ Tát hành Bồ Tát đạo, lại còn biết tiếng tánh như vang, đã đắc được diệu biện tài tam muội vô ngại, khắp ứng tất cả cơ duyên chúng sinh mà diễn nói tất cả diệu pháp, để giáo hóa chúng sinh, sao Ngài không thể khiến cho thế gian tất cả chúng sinh hoan hỷ ? Nhất định tất cả đều hoan hỷ.
Hải hữu hy kì Thù đặc Pháp, Biển có pháp lạ lùng đặc thù
Năng vi nhất thiết bình đẳng ấn, Hay vì tất cả bình đẳng ấn
Chúng sanh bảo vật cập xuyên lưu, Chúng sinh báu vật và dòng nước
Phổ tất bao dung vô sở cự. Thảy đều bao dung chẳng cự tuyệt.
Giảng: Biển cả tuy là vô tình chúng sinh, nhưng có diệu pháp lạ lùng đặc thù. Nó hay hải ấn phát quang, làm tất cả bình đẳng ấn, hết thảy tất cả vạn vật đều bình đẳng ấn ở trong biển. Tức là tất cả chúng sinh và tất cả báu vật đều ấn ở trong biển, cùng với tất cả dòng nước lớn nhỏ đều chảy vào trong biển cả, mà biển đều dung nạp hết, vĩnh viễn chẳng cự tuyệt.
Vô tận Thiền định giải thoát giả Bậc vô tận thiền định giải thoát
Vi ình đẳng ấn diệc như thị, Là bình đẳng ấn cũng như vậy
Phước đức trí tuệ chư diệu hạnh, Phước đức trí huệ các diệu hạnh
Nhất thiết phổ tu Vô yếm túc. Tất cả đều tu chẳng nhàm đủ.
Giảng: Bồ Tát đắc được vô tận thiền định trí huệ và giải thoát, hay bình đẳng giáo hóa tất cả chúng sinh, mà chẳng có tâm phân biệt, giống như biển cả chẳng cự tuyệt, dù là dòng nước nhỏ. Bồ Tát tu Bồ Tát đạo, tu tất cả phước đức, tu tất cả trí huệ. Do đó ‘’Phước huệ cùng tu.’’ Tu phước là lợi ích người, tu huệ là lợi ích mình. Nếu chỉ có lợi người mà chẳng biết lợi mình, thì có phước mà chẳng có huệ; nếu chỉ biết lợi mình mà chẳng biết lợi người, thì có huệ mà chẳng có phước. Làm thế nào để lợi mình mà tu huệ ? Tức là nghiên cứu tất cả kinh điển, do đó ‘’Vào sâu tạng kinh, trí huệ như biển.’’ Làm thế nào để lợi người mà tu phước ? Tức là trong phạm vi khả năng của mình, mà làm hết mình. Phàm là việc có lợi cho chúng sinh, thì làm hết mình, không tính toán báo đáp, hoặc có xí đồ khác. Tóm lại, chỉ biết hoằng pháp lợi sinh, mà chẳng có tâm danh văn lợi dưỡng.
Bồ Tát siêng tu tất cả trí huệ Bát Nhã, lục độ vạn hạnh. Tám vạn bốn ngàn pháp môn, mỗi môn đều tu viên mãn, thì chẳng lúc nào biết nhàm chán và biết đủ, bất cứ lúc nào cũng đều siêng tu giới định huệ, sẽ diệt tham sân si.
Đại hải long vương du hí thời, Khi đại hải Long Vương du hí
Phổ ư chư xứ đắc tự tại, Khắp thảy mọi nơi đều tự tại
Hưng vân sung biến tứ thiên hạ, Nổi mây đầy khắp bốn thiên hạ
Kỳ vân chủng chủng trang nghiêm sắc: Mây đó đủ thứ màu trang nghiêm.
Giảng: Long vương ở trong biển, lúc du hí thần thông, thì khắp hết thảy mọi nơi đều đắc được tự tại. Nổi mây đầy khắp một tứ thiên hạ, tức cũng là Ðông Thắng Thần Châu, Nam Thiệm Bộ Châu, Tây Ngưu Hóa Châu, Bắc Câu Lư Châu. Mây nổi lên trong bốn thiên hạ đó, có đủ thứ màu sắc trang nghiêm vi diệu, rất mỹ lệ.
Đệ lục tha hóa tự tại thiên Trời Tha Hóa Tự Tại thứ sáu
Ư bỉ vân sắc như chân kim, Nơi đó mây màu như vàng thật
Hoá Lạc Thiên thượng xích-châu sắc. Trên trời Hóa Lạc màu châu đỏ
Đâu-Xuất-Đà Thiên sương tuyết sắc. Trời Đâu Suất Đà màu sương tuyết.
Giảng: Trời dục giới thứ sáu, gọi là trời Tha Hóa Tự Tại, ở cõi trời đó màu mây nổi lên giống như màu vàng thật. Mây nổi lên ở trên trời Hóa Lạc màu giống như châu đỏ. Màu mây nổi lên ở trời Ðâu Suất, giống như màu sương tuyết.
Dạ ma thiên thượng lưu ly sắc. Trên trời Dạ Ma màu lưu ly
Tam thập tam thiên mã não sắc. Trời Ba Mươi Ba màu mã não
Tứ vương thiên thượng pha lê sắc. Trời Tứ Thiên Vương màu pha lê
Đại hải thủy thượng Kim cương sắc. Trên nước biển cả màu kim cang.
Giảng: Trời Dạ Ma là tầng trời thứ ba của dục giới, màu mây nổi lên giống như màu lưu ly. Màu mây nổi lên ở trên trời Ba Mươi Ba, giống như màu mã não. Màu mây nổi lên ở trên trời Tứ Thiên Vương giống như pha lê. Màu mây nổi lên ở trên nước biển cả, giống như kim cang.
Khẩn-na-la trung diệu hương sắc. Trong Khẩn na la màu diệu hương
Chư long trụ xứ liên hoa sắc. Chỗ các rồng ở màu hoa sen
Dạ xoa trụ xứ bạch nga sắc. Chỗ Dạ Xoa ở màu hạc trắng
A-tu-la trung sơn thạch sắc. Trong A tu la màu núi đá.
Giảng: Chỗ Khẩn na la ở màu mây nổi lên giống như màu diệu hương. Chỗ các rồng ở, màu mây nổi lên giống như màu hoa sen. Chỗ Dạ Xoa ở, màu mây nổi lên giống như màu hạc trắng. Chỗ A tu la ở, màu mây nổi lên giống như màu núi đá.
Uất đan việt xứ kim diệm sắc. Nơi Uất Đơn Việt màu vàng lửa
Diêm-phù-đề trung thanh bảo sắc. Cõi Diêm phù đề màu xanh báu
Dư nhị thiên hạ tạp trang nghiêm, Hai thiên hạ kia tạp trang nghiêm
Tùy chúng sở lạc nhi ưng chi. Tùy họ ưa thích mà ứng hiện.
Giảng: Nơi Bắc Câu Lư Châu, màu mây nổi lên giống như màu vàng lửa. Nơi Nam Thiệm Bộ Châu, màu mây nổi lên giống như màu xanh báu. Ðông Thắng Thần Châu và Tây Ngưu Hóa Châu, hai nơi này màu mây nổi lên là màu tạp trang nghiêm. Ðó đều là tùy thuận sự ưa thích của chúng sinh, mà ứng hiện ra các thứ mây màu sắc khác nhau.
Hựu phục tha hóa tự tại thiên, Và lại trời Tha Hóa Tự Tại
Vân trung điện diệu như nhật quang. Trong mây chớp sáng như nhật quang
Hoá Lạc Thiên thượng như nguyệt quang. Trên trời Hóa Lạc như nguyệt quang
Đâu suất thiên thượng Diêm-phù kim Trên trời Đâu Suất vàng Diêm Phù.
Giảng: Ðại hải Long vương có đại thần thông, nổi mây lớn khắp nơi, màu sắc của mây đều khác nhau, lại hiện ra đại quang minh khắp mọi nơi. Trong mây của trời Tha Hóa Tự Tại, ánh chớp sáng giống như ánh nắng mặt trời. Trong mây ở trên trời Hóa Lạc, chớp sáng giống như ánh sáng mặt trăng. Trong mây trên trời Ðâu Suất, ánh chớp sáng giống như ánh sáng vàng cõi Diêm phù.
Dạ ma thiên thượng kha tuyết sắc. Trên trời Dạ Ma màu kha tuyết
Tam thập tam thiên kim diệm sắc. Trời Ba Mươi Ba màu vàng lửa
Tứ vương thiên thượng chúng bảo sắc. Trời Tứ Thiên Vương màu các báu
Đại hải chi trung xích-châu sắc. Ở trong biển cả màu châu đỏ.
Giảng: Trong mây ở trên trời Dạ Ma, ánh chớp sáng giống như màu kha tuyết. Trong mây ở trên trời Ba Mươi Ba, ánh chớp sáng giống như màu vàng lửa. Trong mây trên trời Tứ Thiên Vương, ánh chớp sáng giống như màu các báu. Trong mây ở trong biển, chớp sáng giống như màu châu đỏ.
Khẩn-na-la giới lưu ly sắc. Cõi Khẩn na la màu lưu ly
Long Vương trụ xứ Bảo Tạng sắc. Chỗ Long vương ở màu bảo tạng
Dạ xoa sở trụ pha lê sắc. Chỗ Dạ Xoa ở màu pha lê
A-tu-la trung mã não sắc. Cõi A tu la màu mã não.
Giảng: Chỗ của Khẩn na la ở, trong mây ánh chớp là màu lưu ly. Chỗ của Long vương ở, trong mây ánh chớp là màu bảo tạng. Chỗ của Dạ Xoa ở, trong mây ánh chớp là màu pha lê. Chỗ của A tu la ở, ánh chớp là màu mã não.
Uất đan việt cảnh hỏa châu sắc. Cõi Uất Đơn Việt màu hỏa châu
Diêm-phù-đề trung đế thanh sắc. Trong Diêm phù đề màu đế thanh
Dư nhị thiên hạ tạp trang nghiêm, Hai thiên hạ kia tạp trang nghiêm
Như vân sắc tướng điện diệc nhiên. Như màu sắc mây chớp cũng vậy.
Giảng: Ở Bắc Câu Lư Châu, trong mây chớp sáng là màu hỏa châu. Cõi Nam Thiệm Bộ Châu, trong mây chớp sáng là màu đế thanh. Ở Ðông Thắng Thần Châu và Tây Ngưu Hóa Châu, trong mây hai châu đó, chớp sáng là màu xen tạp trang nghiêm, giống như màu sắc của mây, tùy thuận tâm ưa thích của chúng sinh mà hiện ra đủ thứ màu chớp sáng.
Tha hóa lôi chấn như Phạm Âm. Tha hóa sấm nổ như Phạm âm
Hoá Lạc Thiên trung đại cổ âm. Trong trời Hóa Lạc tiếng trống trời
Đâu suất thiên thượng Ca xướng âm. Trên trời Đâu Suất tiếng ca xướng
Dạ-Ma Thiên thượng Thiên nữ âm. Trên trời Dạ Ma tiếng Thiên nữ.
Giảng: Màu mây do đại hải Long vương nổi lên, màu chớp sáng, cho đến tiếng phát ra đều khác nhau. Do đó trên thế giới vạn sự vạn vật đều đang diễn nói diệu pháp. Nói nhân quả người tại sao làm người ? Chó tại sao làm chó ? Con người là do trong quá khứ, làm việc người, cho nên làm người. Chó là do trong quá khứ, làm việc chó, cho nên làm chó. Các loại khác cũng cùng đạo lý ấy.
Chúng ta người tu hành, phải biết rõ nhân quả, không thể sai nhân quả. Nhất định phải tin nhân quả báo ứng, là chuyện thiên chân vạn thật, tơ hào chẳng sai. Nên nhớ ! Không thể tùy tiện nói thị phi bậy bạ, hoặc không giữ quy cụ, đó là sai nhân quả, tương lai nhất định sẽ đọa vào địa ngục chẳng nghi ngờ gì hết.
Tiếng sấm ở trên trời Tha Hóa Tự Tại, giống như tiếng Phạm âm. Tiếng sấm ở trên trời Hóa Lạc như tiếng trống trời. Tiếng trống trên trời Ðâu Suất như tiếng ca xướng. Tiếng sấm trên trời Dạ Ma như tiếng Thiên nữ.
Ư bỉ tam thập tam thiên thượng, Ở trên trời Ba Mươi Ba kia
Như khẩn-na-la chủng chủng âm. Tiếng như Khẩn na la đủ loại
Hộ thế tứ vương chư Thiên sở, Chỗ chư Thiên Tứ Vương hộ đời
Như Càn thát bà sở xuất âm. Tiếng như Càn thát bà nói ra.
Giảng: Tiếng ở trên trời Ðao Lợi giống như Khẩn na la tấu lên đủ thứ pháp nhạc trang nghiêm. Âm thanh đó, hay khiến cho chúng sinh khởi tâm niệm Phật, niệm pháp, niệm Tăng. Tiếng trên trời Tứ Thiên Vương, giống như tiếng nhạc của Càn thát bà tấu lên, hay khiến cho người nghe đều sinh tâm vui thích.
Hải trung lưỡng sơn tướng kích thanh. Trong biển tiếng như hai núi chạm
Khẩn-na-la trung tiêu địch thanh. Trong Khẩn na la tiếng tiêu địch
Chư long thành trung tần già thanh. Trong thành Long Vương tiếng Tần già
Dạ xoa trụ xứ Long nữ thanh. Chỗ Dạ Xoa ở tiếng Long nữ.
Giảng: Tiếng ở trong biển, giống như hai núi chạm nhau. Tiếng ở trong Khẩn na la giống như tiếng tiêu địch. Tiếng ở trong thành Long vương, giống như tiếng chim Tần Già hát. Tiếng chỗ Dạ Xoa ở, giống như tiếng của Long nữ ca xướng.
A-tu-la Trung Thiên cổ thanh. Trong A tu la tiếng trống trời
Ư nhân đạo trung hải triều thanh. Ở trong loài người tiếng hải triều.
Giảng: Tiếng ở trong A tu la, giống như tiếng trống trời. Tiếng ở trong cõi người, giống như tiếng hải triều. Cùng một tiếng sấm mà các cõi nghe đều khác nhau. Ðó là nghiệp báo của chúng sinh khác nhau, cho nên tiếng ở mỗi cõi đều khác nhau.
Tha-Hoá Tự-Tại vũ diệu hương, Tha Hóa Tự Tại mưa diệu hương
Chủng chủng Tạp hoa vi trang nghiêm. Đủ thứ tạp hoa làm trang nghiêm
Hoá Lạc Thiên vũ Ta-la hoa, Trời Tha Hóa mưa hoa đa la
Mạn đà la hoa cập trạch hương. Hoa mạn đà la và rưới hương.
Giảng: Trên trời Tha Hóa Tự Tại thường mưa diệu hương và đủ thứ tạp hoa để làm trang nghiêm. Trên trời Hóa Lạc thường mưa hoa đa la, hoa mạn đà la và rưới hương hoa để trang nghiêm.
Đâu suất thiên thượng vũ ma-ni Trên trời Đâu Suất mưa ma ni
Cụ túc chủng chủng bảo trang nghiêm, Đầy đủ các thứ báu trang nghiêm
Kế trung bảo châu như nguyệt quang, Bảo châu trong tóc như nguyệt quang
Thượng diệu y phục chân kim sắc. Y phục thượng hạng màu vàng thật.
Giảng: Trên trời Ðâu Suất thường mưa ma ni, đầy đủ các thứ báu để trang nghiêm, trong búi tóc có châu báu, phóng ra ánh sáng như ánh sáng mặt trăng. Có quần áo đẹp đẽ thượng hạng màu vàng thật, rực rỡ chói mắt, rất mỹ lệ.
Dạ-Ma trung vũ tràng phan cái, Trời Dạ Ma mưa tràng phan lọng
Hoa man đồ hương diệu nghiêm cụ, Tràng hoa hương thoa đồ nghiêm sức
Xích trân châu sắc thượng hảo y, Y thượng hạng màu trân châu đỏ
Cập dĩ chủng chủng chúng kĩ nhạc. Cùng với đủ thứ các kỹ nhạc.
Giảng: Trên trời Dạ Ma thường mưa tràng báu, phan báu, lọng báu .v.v… lại có đủ thứ tràng hoa, lại có đủ thứ hương thoa, lại có đủ thứ đồ dụng cụ trang nghiêm vi diệu, lại có đủ thứ y tốt đẹp thượng hạng màu trân châu đỏ, lại có đủ thứ kỹ nhạc, để trang nghiêm trời Dạ Ma.
Tam thập tam thiên như ý châu Trời Đao Lợi mưa châu như ý
Kiên hắc trầm thủy chiên đàn hương, Hương trầm thủy chiên đàn đen chắc
Uất kim kê La đa ma đẳng, Uất kim, kê la, và đa ma
Hương khí hương thủy tướng tạp vũ. Hoa đẹp nước thơm cùng mưa xuống.
Giảng: Trên trời Ba Mươi Ba thường mưa châu như ý, lại có hương trầm thủy chiên đàn màu đen kiên cố, lại có hương uất kim, hương kê la, hương đa ma .v.v… lại có hoa đẹp và nước thơm, ở trong hư không thường cùng nhau mưa xuống để trang nghiêm trời Ðao Lợi.
Hộ thế thành trung vũ mỹ thiện, Trong thành hộ thế mưa thức ngon
Sắc hương vị cụ tăng trưởng lực Sắc hương vị đủ sức tăng trưởng
Diệc vũ nan tư chúng diệu bảo Cũng mưa châu báu khó nghĩ bàn
Tất thị long Vương chi sở tác. Thảy đều do Long vương làm ra.
Giảng: Trong thành trời Tứ Thiên Vương thường mưa thức ăn ngon, sắc hương vị đều đầy đủ, làm cho ăn nhiều, khiến cho tăng thêm sức lực. Thức ăn ngon đó có dinh dưỡng, lại có vị thơm ngon. Tuy nhiên chúng chẳng được ăn, nhưng hiện tại giảng đến đoạn kinh này, nên cảm thấy rất no nê. Tại sao ? Vì thiền duyệt vi thực, pháp hỷ sung mãn. Cũng mưa xuống đủ thứ châu báu vi diệu không thể nghĩ bàn. Cảnh giới đó đều do đại hải Long Vương hiện thần thông biến hóa ra.
Hựu phục ư bỉ Đại hải trung, Và lại ở trong biển cả kia
Chú vũ bất đoạn như xa trục, Mưa rào chẳng dứt như trục xe
Phục vũ vô tận đại bảo tạng Lại mưa vô tận đại bảo tạng
Diệc vũ chủng chủng trang nghiêm bảo. Cũng mưa đủ thứ báu trang nghiêm.
Giảng: Lại ở trong biển cả, thường mưa rào chẳng dứt, giống như trục xe quay đi quay lại cũng chẳng dừng nghỉ. Lai mưa xuống vô tận đại bảo tạng, cũng mưa đủ thứ báu trang nghiêm, giống như là trời mưa xuống, từ trên không rơi xuống, số nhiều như nước mưa.
Khẩn-na-la giới vũ anh lạc, Cõi Khẩn na la mưa anh lạc
Chúng sắc liên hoa y cập bảo, Y màu hoa sen và các báu
Bà lợi sư ca mạt lợi hương, Hương bà lợi sư ca, mạt lợi
Chủng chủng nhạc âm giai cụ túc. Các thứ âm nhạc đều đầy đủ.
Giảng: Thế giới Khẩn na la thường mưa anh lạc, lại có y phục đủ thứ màu hoa sen và báu đẹp. Lại có hương bà lợi sư ca và hương mạt lợi, lại có đủ thứ âm nhạc, tất cả đều đầy đủ viên mãn.
Chư long thành trung vũ xích-châu Trong thành loài rồng mưa châu đỏ
Dạ xoa thành nội quang ma-ni. Trong thành Dạ Xoa mưa ma ni
A-tu-la trung vũ binh trượng, Cõi A tu la mưa binh gậy
Tồi phục nhất thiết chư oán địch. Hàng phục tất cả các oán địch.
Giảng: Trong thành loài rồng thường mưa châu đỏ. Trong thành Dạ Xoa thường mưa báu ma ni. Cõi A tu la thường mưa binh gậy, hay hàng phục tất cả kẻ oán địch.
Uất đan việt trung vũ anh lạc, Trong Uất Đơn Việt mưa anh lạc
Diệc vũ vô lượng thượng diệu hoa. Cũng mưa vô lượng hoa thượng diệu
Phất Bà Cồ da nhị thiên hạ, Phất Bà, Cù Gia hai thiên hạ
Tất vũ chủng chủng trang nghiêm cụ. Đều mưa đủ thứ đồ trang nghiêm.
Giảng: Trong Bắc Câu Lư Châu thường mưa anh lạc vi diệu, cũng mưa vô lượng hoa quý thượng diệu. Ở Ðông Thắng Thần Châu và Tây Ngưu Hóa Châu thường mưa đủ thứ đồ trang nghiêm vi diệu.
Diêm-phù-đề vũ thanh tịnh thủy, Diêm phù đề mưa nước trong sạch
Vi tế duyệt trạch Thường-ứng-thời Thấm nhuần tất cả thường phải thời
Trưởng dưỡng chúng hoa cập quả dược Nuôi lớn các hoa quả cây thuốc
Thành thục nhất thiết chư lúa mạ Thành thục tất cả các lúa mạ.
Giảng: Ở cõi Nam Thiệm Bộ Châu thường mưa nước trong sạch, mưa đúng thời đúng lúc, thấm nhuần tất cả vạn vật, khiến cho người hoan hỷ. Sự mưa đó hay nuôi lớn tất cả hoa quả, thuốc và ngũ cốc .v.v… thành thục tất cả lúa mạ. Ở nơi nào mưa xuống các báu vật, đó là do nghiệp của chúng sinh chiêu cảm ra mà thành tựu, mới có cảnh giới như thế.
Chúng ta nghiên cứu Phật pháp thì phải tin nghĩa lý. Nghĩa lý viên mãn tức là Phật nói, nghĩa lý không viên mãn tức là ma nói. Ðây là pháp tuyển chọn tốt nhất, đừng nghiên cứu câu kinh văn này là Phật nói, câu văn kinh kia là đệ tử nói. Mạnh Tử có nói : ‘’Tận tín thư, tắc bất như vô thư.’’ Tại sao Mạnh Tử phải nói như thế ? Vì trong Kinh Thư có ghi rằng : ‘’Vũ Vương phạt Trụ, huyết lưu phiêu chử.‘’ Vua Vũ đánh vua Trụ, là kẻ trí đánh kẻ vô trí, thì có việc máu chảy, chùy nổi trôi chăng ! Cho nên tin sách chẳng bằng đừng có sách, chúng ta có thể nói như vầy : ‘’Tận tin kinh, tắc bất như vô kinh.’’ Trong mỗi bộ kinh điển, nghĩa lý quan trọng nhất chỉ có chút chút. Có thể nhớ nghĩa lý quan trọng trong đầu óc, thì đủ dùng rồi. Bất cứ bộ kinh điển nào đều có giá trị của nó, chỉ cần biết tánh quan trọng, thì đó là điều cần thiết nhất, đừng có nuốt trựng không nhai, ăn mà chẳng biết mùi vị. Tục ngữ có nói : ‘’Tham nhiều thì nhai chẳng nát.’’ Ăn nhiều không tiêu thì có ích gì.
Khi Phật sắp vào Niết Bàn, có vị đệ tử hỏi Phật rằng: ‘’Thế Tôn ! Ngài nói những kinh điển đó, làm thế nào‘’? Phật nói : ‘’Ta chưa từng nói một chữ, kinh điển từ đâu đến‘’? Phật nói pháp bốn mươi chín năm, hơn ba trăm hội, sao lại chẳng nói một chữ ? Vậy, chẳng phải là Phật nói dối chăng ? Chẳng phải ! Ý nghĩa ở đây là dạy người đừng chấp trước vào kinh điển, bảo người phải quét tất cả pháp, phải lìa tất cả tướng, chẳng chấp trước tất cả hình tướng.
Như thị vô lượng diệu trang nghiêm Như vậy vô lượng diệu trang nghiêm
Chủng chủng vân điện cập lôi vũ, Đủ thứ mây chớp và sấm mưa
Long Vương tự tại tất năng tác, Long vương tự tại đều làm được
Nhi thân bất động vô phân biệt. Mà thân chẳng động chẳng phân biệt.
Giảng: Vô lượng sự trang nghiêm như vừa nói ở trên, đều là biểu hiện trang nghiêm cõi Phật, có đủ thứ mây, chớp, sấm, mưa .v.v… đó đều là thần thông tự tại của đại hải Long Vương biến hóa ra. Những cảnh giới đó đều làm được mà bổn thân chẳng động, lại chẳng phân biệt mà thành tựu được những cảnh giới vi diệu trang nghiêm như thế.
Vạn sự vạn vật trên thế gian đều đang diễn nói diệu pháp, do đó ‘’Nước chảy hoa nở, gió thổi vi vu‘’, đều đang diễn pháp âm, nếu nhận thức được, tức là diệu pháp. Tất cả sự vật, hiển hiện tinh tế, hay thô, đều đang nói pháp. Nếu chẳng minh bạch diệu pháp này, tức là pháp Phật nói ra cũng chẳng nhận thức. Cổ đức có nói :
‘’Trúc biếc xanh tươi, đều là chân như
Hoa vàng héo úa, đâu chẳng Bát Nhã.’’
Ðây tức là vô tình nói pháp. Tôi thường nói : ‘’Ai nói pháp có đạo lý, thì tôi tin người đó; ai nói pháp chẳng có đạo lý, thì tôi chẳng tin họ. Tôi thì tin chân lý, chẳng tin văn tự, văn tự chỉ là công cụ hiển lý.‘’
Bỉ ư thế giới hải trung trụ Long vương ở trong biển thế giới
Thượng năng hiện thử nan tư lực, Còn hiện được sức khó nghĩ đó
Huống nhập pháp hải cụ công đức, Huống vào biển pháp đủ công đức
Nhi bất năng vi Đại thần biến! Mà không thể hiện đại thần biến.
Giảng: Long vương ở trong biển thế giới, mà còn có thể hiện ra cảnh giới không thể nghĩ bàn như thế, có sức lực như thế. Hà huống là Bồ Tát hành Bồ Tát đạo, vào sâu tạng kinh, đắc được trí huệ như biển, đã vào trong biển pháp, lại đầy đủ công đức của chư Phật, sao không thể hiện đại thần thông biến hóa ? Nhất định sẽ có thần thông diệu dụng.
Bỉ chư Bồ-tát giải thoát môn, Môn giải thoát của các Bồ Tát
Bỉ chư Bồ-tát giải thoát môn, Tất cả ví dụ không hiển được
Ngã kim dĩ thử chư thí dụ Nay tôi dùng các ví dụ này
Lược thuyết ư kỳ tự tại lực Lược nói về thần lực tự tại.
Giảng: Môn giải thoát của tất cả Bồ Tát tu, dùng hết thảy tất cả ví dụ, cũng không thể hiển lộ rõ ràng được, cũng chẳng cách chi nói hết được. Bồ Tát Hiền Thủ nói : ‘’Hiện tại tôi dùng ví dụ này, chẳng qua là nói sơ lược về sức thần thông tự tại mà thôi‘’!
Đệ nhất trí tuệ quảng đại tuệ, Trí huệ bậc nhất huệ rộng lớn
Chân thật trí tuệ vô biên tuệ, Trí huệ chân thật huệ vô biên
Thắng tuệ cập dĩ thù thắng tuệ, Thắng huệ cùng với huệ thù thắng
Như thị pháp môn kim dĩ thuyết. Pháp môn như vậy nay đã nói.
Giảng: Bồ Tát có trí huệ đệ nhất, hoặc trí huệ rộng lớn, mới minh bạch đạo lý này, người có trí huệ chân thật, hoặc trí huệ vô biên, thì mới tin đạo lý này. Bậc có trí huệ đặc thắng, hoặc trí huệ thù thắng, thì mới hiểu rõ đạo lý này, các pháp môn trí huệ như đã nói ở trên, hiện tại tôi đã nói xong.
Thử pháp hy hữu thậm kì đặc Pháp này ít có rất kỳ đặc
Nhược nhân văn dĩ năng nhẫn khả, Nếu người nghe rồi hay nhẫn được
Năng tín năng thọ năng tán thuyết, Hay tin hay thọ hay khen nói
Như thị sở tác thậm vi nạn. Làm được như vậy rất là khó.
Giảng: Pháp này là pháp rất ít có, cũng là pháp kỳ đặc. Nếu như có người nghe được pháp này, thì hay nhẫn nơi tâm, ngộ vô sinh pháp nhẫn, chẳng có tơ hào tâm hoài nghi, hay tin pháp này, tiếp thọ pháp này, khen ngợi pháp này. Nếu làm được như thế là một việc khó khăn ít có.
Thế gian nhất thiết chư phàm phu, Thế gian tất cả các phàm phu
Tín thị pháp giả thậm nan đắc, Người tin pháp này rất khó được
Nhược hữu cần tu thanh tịnh phước, Nếu người siêng tu phước thanh tịnh
Dĩ tích nhân lực nãi năng tín. Nhờ nhân lành xưa mới tin được.
Giảng: Thế gian tất cả các phàm phu ngu si, nếu hay tin pháp vi diệu này, thì rất là khó được. Nếu như có người siêng tu phước thanh tịnh, thì đều là nhờ sức nhân và công đức tu hành thuở xưa, cho nên mới tin được diệu pháp này.
Nhất thiết thế giới chư quần sanh, Tất cả thế gian các quần sinh
Thiểu hữu dục cầu Thanh văn thừa, Ít người muốn cầu Thanh Văn thừa
Cầu độc giác giả chuyển phục thiểu Người cầu Độc Giác lại càng ít
Thú Đại-Thừa giả thậm nan ngộ. Người hướng đại thừa rất khó gặp.
Giảng: Hết thảy tất cả các quần sinh của thế gian, rất ít người muốn cầu Thanh Văn thừa. Người cầu Ðộc Giác lại càng ít. Người thú hướng đại thừa thì càng ít lại ít, rất khó gặp được.
Thú Đại-Thừa giả do vi dịch, Người hướng đại thừa còn là dễ
Năng tín thử pháp bội cánh nan, Tin được pháp này càng khó hơn
Huống phục trì tụng vi nhân thuyết, Huống lại trì tụng vì người nói
Như pháp tu hành chân thật giải! Như pháp tu hành hiểu chân thật.
Giảng: Người hướng về đại thừa, khó gặp khó thấy, cho là dễ dàng đi, song tin pháp của Bồ Tát Phổ Hiền nói, thì càng khó hơn. Tin là chuyện chẳng dễ dàng, hà huống có thể trì tụng, lại có thể vì người giải nói, đó lại càng khó hơn. Hay y theo pháp tu hành và hiểu rõ nghĩa lý chân thật thì lại càng khó hơn.
Hữu dĩ tam thiên Đại Thiên giới, Nếu người đem ba ngàn thế giới
Đảnh đái nhất kiếp thân bất động Đội đầu một kiếp thân chẳng động
Bỉ chi sở tác vị vi nan Việc người đó làm chưa là khó
Tín thị pháp giả nãi vi nan. Người tin pháp này mới là khó.
Giảng: Nếu như có người, đem ba ngàn đại thiên thế giới, đội trên đầu, trải qua thời gian một kiếp mà thân chẳng động, đây vốn là việc không thể được. Làm như thế cũng chưa cho rằng khó, song người tin pháp này mới là rất khó. Vì đạo lý Kinh Hoa Nghiêm mà Bồ Tát Phổ Hiền nói quá vi diệu, cho nên khiến cho người không thể tin được.
Hữu dĩ thủ kình thập Phật sát, Có người tay bưng mười cõi nước
Tận ư nhất kiếp không trung trụ, Đứng trong hư không suốt một kiếp
Bỉ chi sở tác vị vi nan Việc làm người đó chưa là khó
Năng tín thử pháp nãi vi nan. Tin được pháp này mới là khó.
Giảng: Nếu như có người dùng tay để bưng mười cõi Phật thế giới, đứng ở trong hư không suốt thời gian một kiếp mà thân chẳng lay động. Việc làm đó vốn chẳng thể làm được, song việc làm đó chẳng phải là khó. Tin được pháp này mới là khó nhất. Vì diệu pháp không thể nghĩ bàn này, cảnh giới quá huyền diệu, chẳng phải sức trí huệ của một số phàm phu đạt đến được, cho nên không thể tin được.
Thập sát trần số chúng sanh sở Số chúng sinh mười cõi hạt bụi
Tất thí lạc cụ Kinh nhất kiếp, Đều thí đồ vui suốt một kiếp
Bỉ chi phước đức vị vi thắng Phước đức làm đó chưa là thắng
Tín thử pháp giả vi tối thắng. Người tin pháp này là tối thắng.
Giảng: Nếu như có người, ở trước các chúng sinh nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật, bố thí cho mỗi người đồ vật mà họ ưa thích, trải qua thời gian một kiếp. Phước đức đó là vô lượng vô biên, song vẫn chưa phải là tối thù thắng. Phước đức tin diệu pháp này mới là tối thù thắng. Tóm lại, phước đức tin pháp này thù thắng hơn, so với bố thí trăm ngàn vạn ức lần.
Thập sát trần số Như Lai sở Nơi Như Lai mười cõi hạt bụi
Tất giai thừa sự tận nhất kiếp, Đều kính cúng dường suốt một kiếp
Nhược ư thử phẩm năng tụng trì Nếu nơi phẩm này hay trì tụng
Kỳ phước tối thắng qua ư bỉ. Được phước tối thắng hơn người kia.
Giảng: Nếu như có người ở trước các Ðức Như Lai, nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật, tại mỗi vị Phật cúng dường bốn việc :
1). Thức ăn uống.
2). Y, áo.
3). Ðồ dùng.
4). Thuốc men, để thừa sự nơi Phật, cung kính Phật, gần gũi Phật. Như vậy trải qua thời gian một kiếp, đã gieo trồng xuống rất nhiều phước báo. Nhưng nếu có người hay trì tụng kệ Phẩm Hiền Thủ này, thì được phước đức tối thù thắng hơn, là cúng dường mười phương ba đời tất cả chư Phật.
Nhĩ thời, Hiền Thủ Bồ-tát thuyết thử kệ dĩ, thập phương thế giới lục phản chấn động, ma cung ẩn tế, ác đạo hưu tức. thập phương chư Phật phổ hiện kỳ tiền, các dĩ hữu thủ nhi ma kỳ đảnh, đồng thanh tán ngôn: Thiện tai! Thiện tai! khoái thuyết thử pháp! ngã đẳng nhất thiết tất giai tùy hỉ.
Giảng: Bấy giờ, Bồ Tát Hiền Thủ nói kệ này rồi, thì mười phương thế giới đều có sáu thứ chấn động, cung ma ẩn khuất, các đường ác dừng nghỉ. Mười phương chư Phật khắp hiện ở trước Bồ Tát Hiền Thủ, đều dùng tay phải xoa đầu, đồng thanh khen ngợi rằng : Lành thay ! Lành thay ! Ông khéo nói pháp này, chúng ta tất cả thảy đều tùy hỷ.
Lúc đó, Bồ Tát Hiền Thủ nói bài kệ ở trên xong rồi, thì trong mười phương thế giới đều có sáu thứ chấn động, tức là chấn, hống, kích, đây là thuộc về tiếng. Ðộng, dũng, khởi, đây là thuộc về hình. Sáu thứ hiện tượng này biểu thị sự trang nghiêm. Lúc đó cung điện của ma vương cũng ẩn khuất đi. Ba đường ác cũng dừng nghỉ. Mười phương chư Phật cùng hiện khắp ở trước Bồ Tát Hiền Thủ. Mỗi vị Phật đều dơ tay phải sắc vàng lên xoa đỉnh đầu Bồ Tát Hiền Thủ, khác miệng cùng lời khen ngợi rằng : ‘’Lành thay ! Lành thay ! Ông khéo nói pháp này, chúng ta mọi người thảy đều tùy hỷ.’
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét