Kinh Hoa Nghiêm
Đại Phương Quảng Phật
giảng giải
Phẩm Thứ 39
Hòa Thượng TUYÊN HÓA
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Minh Ðịnh
— o0o —
Phẩm Vào Pháp Giới
Phần 6
— o0o —
PHÓ THÁC THẬP HỒI HƯỚNG
=================================
21. TRƯỞNG GIẢ ƯU BÁT LA HOA
PHÓ THÁC THỨ 21 – CỨU HỘ TẤT CẢ CHÚNG SINH TƯỚNG HỒI HƯỚNG
Nhĩ thời, Thiện tài đồng tử nhân thiện tri thức giáo, bất cố thân mạng, bất trước tài bảo, bất lạc nhân chúng, bất đam ngũ dục, bất luyến quyến thuộc, bất trọng Vương vị
Nhờ thiện tri thức dạy bảo, Thiện Tài chẳng đoái thân mạng, chẳng ham của báu, chẳng thích nhơn chúng, chẳng mê ngũ dục, chẳng luyến quyến thuộc, chẳng trọng ngôi vua.
Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử do nhờ lời dạy của thiện tri thức, mà Ngài chẳng để ý gì đến thân tâm tánh mạng của mình, do đó có câu: “Vì pháp quên mình”. Ngài chẳng chấp tiền tài châu báu, cũng chẳng ưa thích mọi người đến chúc tụng mình, cũng chẳng đam mê cảnh giới năm dục: Tài, sắc, danh, ăn, ngủ, chẳng luyến ái quyến thuộc, cha me, anh em, chị em. Chẳng coi trọng ngôi vua.
Duy nguyện hóa độ nhất thiết chúng sanh, duy nguyện nghiêm tịnh chư Phật quốc độ, duy nguyện cúng dường nhất thiết chư Phật, duy nguyện chứng tri chư Pháp thật tánh, duy nguyện tu tập nhất thiết Bồ Tát Đại công đức hải, duy nguyện tu hành nhất thiết công đức chung vô thoái chuyển, duy nguyện hằng ư nhất thiết kiếp trung dĩ đại nguyện lực tu Bồ Tát hạnh, duy nguyện phổ nhập nhất thiết chư Phật chúng hội đạo tràng, duy nguyện nhập nhất tam muội môn phổ Hiện-Nhất-Thiết tam muội môn tự tại Thần lực, duy nguyện ư Phật nhất mao khổng trung kiến nhất thiết Phật tâm Vô yếm túc, duy nguyện đắc nhất thiết pháp trí tuệ quang minh năng trì nhất thiết chư Phật Pháp tạng. Chuyên cầu thử đẳng nhất thiết chư Phật Bồ Tát công đức.
Chỉ nguyện cứu độ tất cả chúng sanh, chỉ nguyện nghiêm tịnh tất cả Phật độ, chỉ nguyện cúng dường tất cả chư Phật, chỉ nguyện chứng biết thật tánh của các pháp, chỉ biết nguyện tu tập biển công đức lớn của tất cả của Bồ Tát, chỉ nguyện tu hành tất cả công đức trọn không thối chuyển, chỉ nguyện hằng ở trong tất cả kiếp dùng đại nguyện lực tu Bồ Tát hạnh, chỉ nguyện vào khắp tất cả chư Phật chúng hội đạo tràng, chỉ nguyện nhập một môn tam muội mà hiện khắp tất cả môn tam muội tự tại thần lực, chỉ nguyện ở trong một lỗ lông của Phật, thấy tất cả Phật tâm không nhàm đủ, chỉ nguyện được tất cả pháp trí huệ quang minh, có thể thọ trì pháp tạng của chư Phật. Thiện Tài chuyên cầu công đức của tất cả chư Phật và Bồ Tát như vậy, đi lần qua thành Quảng Ðại,
Giảng: Ngài chỉ nguyện hoá độ tất cả chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh lìa khổ được vui. Chỉ nguyện nghiêm tịnh cõi nước chư Phật. Chỉ nguyện cúng dường tất cả chư Phật. Chỉ nguyện chứng biết được bản thể thật tướng của tất cả các pháp. Chỉ nguyện tu tập biển đại công đức của tất cả Bồ Tát. Chỉ nguyện tu hành tất cả công đức, trọn không thối chuyển. Chỉ nguyện luôn ở trong tất cả kiếp, dùng sức đại nguyện tu Bồ Tát hạnh. Chỉ nguyện vào khắp đạo tràng chúng hội của tất cả chư Phật. Chỉ nguyện vào một môn tam muội, mà khắp thị hiện tự tại thần lực tất cả môn tam muội, do đó “Một làm vô lượng, vô lượng làm một”. Chỉ nguyện ở trong một lỗ chân lông của Phật, mà thấy được mười phương ba đời tất cả chư Phật, tâm cũng không cảm thấy nhàm đủ. Chỉ nguyện đắc được tất cả pháp trí huệ quang minh, để thọ trì pháp tạng của tất cả chư Phật.
Ngài chuyên tâm cầu công đức của tất cả chư Phật Bồ Tát như vậy, sau đó từ từ đi du hành, đến nước Quảng Đại.
Đây là đại nguyện hồi hướng thứ nhất, trưởng giả Ưu Bát La Hoa (hoa sen xanh) vì cứu hộ chúng sinh, mà lìa tướng chúng sinh hồi hướng tất cả công đức. Nước Quảng Đại, biểu thị chìa khoá đầu tiên đi vào thập hồi hướng rộng lớn. Vì hồi hướng chúng sinh, cho nên gọi là “lớn”. Hồi hướng bồ đề, nên gọi là “lớn”. Hồi hướng thật tế, nghĩa thông “rộng lớn”, biểu thị Phật cảnh vô cùng, ngang khắp pháp giới chúng sinh giới. “Buôn” nghĩa là bán, biểu thị hương chất tuy nhỏ, toả mùi cùng khắp; căn lành tuy nhỏ, hồi hướng khắp cùng. Hơn nữa, buôn hương, hoặc bán hương, cả hai đều được lợi ích của hương, biểu thị căn lành ta người đều có thể hồi hướng.
Ưu bát la hoa, nghĩa là hoa sen xanh, vì hoa sen mọc trong bùn mà không nhiễm bùn, giống như cứu hộ chúng sinh mà lìa tướng. Hoa sen xanh là hoa tốt nhất trong các loài hoa, vì cứu hộ mà vào sinh tử.
Trưởng giả Ưu Bát La Hoa phó thác thứ nhất cứu hộ tất cả chúng sinh lìa tướng chúng sinh hồi hướng, vì đại bi tăng thượng, nên cứu hộ chúng sinh. Do đại trí không chấp, nên lìa tướng chúng sinh. Bi trí không trụ, nên lấy đây mà lập tên.
Tiệm thứ du hành, chí quảng đại quốc, nghệ Trưởng-giả sở, đảnh lễ kỳ túc, nhiễu vô lượng tạp, hợp chưởng nhi lập, bạch ngôn:
Đến chỗ Trưởng giả Ưu Bát La Hoa, đảnh lễ chân Trưởng giả hữu nhiễu vô lượng vòng, chắp tay cung kính thưa rằng:
Giảng: Thiện Tài đồng tử đi đến chỗ trưởng giả Ưu Bát La Hoa, bèn đảnh lễ trưởng giả, rồi đi nhiễu vô lượng vòng, sau đó đứng chắp tay mà bạch rằng:
Thánh Giả! ngã dĩ tiên phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm, dục cầu nhất thiết Phật bình đẳng trí tuệ, dục mãn nhất thiết Phật vô lượng đại nguyện, dục tịnh nhất thiết Phật tối thượng sắc thân, dục kiến nhất thiết Phật thanh tịnh Pháp thân, dục tri nhất thiết Phật quảng đại trí thân, dục tịnh trì nhất thiết Bồ Tát chư hạnh, dục chiếu minh nhất thiết Bồ Tát tam muội, dục an trụ nhất thiết Bồ Tát tổng trì, dục trừ diệt nhất thiết sở hữu chướng ngại, dục du hành nhất thiết thập phương thế giới, nhi vị tri Bồ Tát vân hà học Bồ Tát hạnh, vân hà tu Bồ Tát đạo, nhi năng xuất sanh nhất thiết trí trí?
Bạch đức Thánh ! Con đã phát tâm Vô thượng Bồ đề muốn cầu trí huệ bình đẳng của tất cả Phật. Muốn đủ vô lượng đại nguyện của tất cả Phật. Muốn tịnh sắc thân tối thượng của tất cả Phật. Muốn thấy pháp thân thanh tịnh của tất cả Phật. Muốn biết trí thân quảng đại của tất cả Phật. Muốn tịnh trị những hạnh của tất cả Bồ Tát. Muốn chiếu sáng tam muội của tất cả Bồ Tát. Muốn an trụ tổng trì của tất cả Bồ Tát. Muốn diệt trừ tất cả chướng ngại. Muốn du hành tất cả thế giới mười phương. Mà con chưa biết thế nào học Bồ Tát hạnh, thế nào tu Bồ Tát đạo, để có thể xuất sanh Nhứt thiết chủng trí.
Giảng: “Đức Thánh! Con trước đã phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Con muốn cầu trí huệ bình đẳng của tất cả chư Phật. Con muốn viên mãn vô lượng đại nguyện của tất cả chư Phật đã phát. Con muốn hồi hướng tất cả căn lành để thanh tịnh sắc thân tối thượng của tất cả chư Phật, vì tất cả chư Phật đều có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, tốt đẹp không ai bằng. Con muốn thấy pháp thân thanh tịnh của tất cả chư Phật. Con muốn biết trí huệ thân rộng lớn của tất cả chư Phật. Con muốn tịnh trị các hạnh của tất cả Bồ Tát. Con muốn chiếu sáng tam muội của tất cả Bồ Tát. Con muốn an trụ tổng trì của tất cả Bồ Tát, tức là “tổng tất cả pháp, trì vô lượng nghĩa”. Con muốn trừ diệt tất cả hết thảy chướng ngại. Con muốn du hành tất cả mười phương thế giới, mà con chưa biết Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh? Làm thế nào tu Bồ Tát đạo? Để có thể sinh ra trí nhất thiết trí, mục đích của con là đắc được trí huệ tối cao, xin Ngài hãy khai thị cho con”.
Trưởng-giả cáo ngôn: Thiện tai! Thiện tai! Thiện nam tử! nhữ nãi năng phát A nậu Ta-la tam miệu tam Bồ-đề tâm.
Trưởng giả nói: Lành thay, Lành thay ! Thiện nam tử có thể phát tâm Vô thượng Bồ đề.
Giảng: Trưởng giả Ưu Bát La Hoa bảo rằng: “Lành thay! Lành thay! Thiện nam tử! Ngươi đã có thể phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Thiện nam tử! ngã thiện biệt tri nhất thiết chư hương, diệc tri điều hợp nhất thiết hương Pháp, sở vị: nhất thiết hương, nhất thiết thiêu hương, nhất thiết đồ hương, nhất thiết mạt hương.
Này thiện nam tử ! Ta khéo biết rõ tất cả những thứ hương, cũng biết phương pháp điều hiệp tất cả thứ hương. Như là tất cả thứ hương, tất cả hương đốt, tất cả hương thoa, tất cả hương bột.
Giảng: Thiện nam tử! Ta khéo phân biệt biết rõ tất cả các hương, đồng thời ta cũng biết điều hợp tất cả hương pháp. Đó là: Tất cả hương, tất cả hương đốt, tất cả hương thoa, tất cả hương bột.
Diệc tri như thị nhất thiết Hương Vương sở xuất chi xứ, hựu thiện liễu tri thiên hương, long hương, dạ xoa hương, Càn thát bà, A-tu-la, Ca Lâu La, khẩn-na-la, Ma hầu la già, nhân, phi nhân đẳng sở hữu chư hương.
Ta cũng biết chỗ xuất sanh tất cả thứ hương như vậy. Ta lại khéo biết Thiên hương, Long hương, Dạ Xoa hương, Càn Thát Bà hương, A Tu La hương, Ca Lâu La hương, Khẩn Na La hương, Ma Hầu La Già hương, Nhơn hương, Phi Nhơn hương.
Giảng: Ta cũng biết nơi sinh ra tất cả hương vương như vậy – tức là nhờ trí huệ và tánh tịnh làm nơi sinh.
Hương đốt ở đây, biểu thị lửa trí huệ, hay phát sinh vạn hạnh. Hương thoa, biểu thị người tu hành dùng tánh tịnh thuỷ điều hợp, để nghiêm sức pháp thân. Hương bột, biểu thị dùng trí huệ kim cang, phá tan tập khí xấu, khiến cho nó không thật.
Ta lại khéo biết rõ mỗi thứ hương Thiên Long bát bộ, tức là hương trời, hương rồng, hương Dạ Xoa, hương Càn Thát Bà, hương A Tu La, hương Ca Lâu La, hương Khẩn Na La, hương Ma Hầu La Già, hương người, chẳng phải người, hết thảy các hương.
Hựu thiện biệt tri trì chư bệnh hương, đoạn chư ác hương, sanh hoan hỉ hương, tăng phiền não hương, diệt phiền não hương, lệnh ư hữu vi sanh lạc trước hương, lệnh ư hữu vi sanh yếm ly hương, xả chư kiêu dật hương, phát tâm niệm Phật hương, chứng giải Pháp môn hương, Thánh sở thọ dụng hương, nhất thiết Bồ Tát sái biệt hương, nhất thiết Bồ Tát địa vị hương, như thị đẳng hương hình tướng sanh khởi, xuất hiện thành tựu, thanh tịnh an ổn, phương tiện cảnh giới, uy đức nghiệp dụng cập dĩ căn bản, như thị nhất thiết ngã giai liễu đạt.
Ta lại khéo biết các thứ hương trị bịnh. Như là hương dứt ác, hương sanh hoan hỷ, hương thêm phiền não, hương diệt phiền não, hương làm cho ở nơi pháp hữu vi sanh ưa mến, hương làm cho sanh lòng nhàm lìa pháp hữu vi, hương bỏ những kiêu mạn phóng dật, hương phát tâm niệm Phật, hương chứng hiểu pháp môn, hương Thánh thọ dụng, hương tất cả Bồ Tát sai biệt, hương tất cả địa vị Bồ Tát. Các thứ hương như vậy, hình tướng sanh khởi, xuất hiện thành tựu cảnh giới phương tiện thanh tịnh an ổn, oai đức nghiệp dụng và cùng căn bổn, ta đều biết rõ cả.
Giảng: Thiện nam tử! Ta lại khéo phân biệt biết hương chữa trị các bệnh (ví như bạch đàn hay trị bệnh nhiệt). Ta lại biết hương dứt tất cả các điều ác. Ta lại biết hương khiến cho tất cả chúng sinh sinh hoan hỉ. Ta lại biết hương khiến cho chúng sinh tăng trưởng phiền não. Ta lại biết hương diệt phiền não. Ta lại biết hương khiến cho đối với hữu vi sinh vui vẻ chấp trước. Ta lại biết hương khiến cho tất cả chúng sinh đối với hữu vi sinh tâm nhàm lìa. Ta lại biết hương khiến cho tất cả chúng sinh xả bỏ các kiêu ngạo phóng dật. Ta lại biết hương khiến cho tất cả chúng sinh phát tâm niệm Phật. Ta lại biết hương khiến cho tất cả chúng sinh chứng nhập hiểu biết pháp môn của Phật nói. Ta lại biết hương của bậc Thánh nhân thọ dụng, đây là chỉ quán chân như không phân biệt. Ta lại biết hương tất cả Bồ Tát sai biệt, đây là chỉ tam hiền thập Thánh sở tu thắng liệt. Ta lại biết hương tất cả Bồ Tát địa vị, đây là chỉ trí huệ Bồ Tát chứng được, có sâu cạn khác nhau, mà hương nầy có thể phân biệt được rất rõ ràng. Đủ thứ các hương như vậy, hình tướng và sinh khởi, xuất hiện và thành tựu, thanh tịnh và an ổn, phương tiện và cảnh giới, oai đức và nghiệp dụng, cùng với căn bản, tất cả tánh chất của hương như vậy, ta đều thấu rõ thông đạt”.
Những hương nầy đều là biểu pháp. Hương giới định huệ và từ bi, có thể xông người tu hành, khiến cho họ tăng trưởng căn lành, mà xả bỏ tập khí mao bệnh tích tụ từ vô thuỷ kiếp.
Thiện nam tử! nhân gian hữu hương, danh viết: tượng tạng, nhân long đấu sanh. Nhược thiêu nhất hoàn, tức khởi Đại hương vân di phước Vương đô, ư thất nhật trung vũ tế hương vũ. Nhược trước thân giả, thân tức kim sắc; nhược trước y phục, cung điện, lâu các, diệc giai kim sắc. Nhược nhân phong xuy nhập cung điện trung, chúng sanh khứu giả, thất nhật thất dạ hoan hỉ sung mãn, thân tâm khoái lạc, vô hữu chư bệnh, bất tướng xâm hại, ly chư ưu khổ, bất kinh bất bố, bất loạn bất nhuế, từ tâm tướng hướng, chí ý thanh tịnh.
Này thiện nam tử ! Ở nhơn gian có thứ hương tên là Tượng Tạng, nhơn rồng đấu nhau mà sanh. Nếu đốt một hoàn, liền nổi mây hương che trùm vương đô, trong bảy ngày mưa thơm pháy pháy. Nếu đeo trên thân thời thân thành màu chơn kim. Nếu giắt trong y phục, cung điện, lầu gác, cũng đều màu chơn kim. Nếu gió thổi vào trong cung điện, chúng sanh ngửi được, thời trọn bảy ngày đêm hoan hỷ thơ thới, khoái lạc không bịnh chẳng xâm hại nhau, lìa các ưu khổ, chẳng kinh chẳng sợ, chẳng loạn chẳng giận, thương mến nhau, chí ý thanh tịnh.
Giảng: Thiện nam tử! Tại nhân gian có hương tên là Tượng tạng, do rồng đấu tranh nhau mà sinh ra. Trong Kinh Lục Ba La Mật có nói: “Thiện ác huân với nhau, giống như hai con voi đấu nhau, kẻ yếu đi không quay lại, mất hết không đến đi”. Nếu đốt lên một viên hương Tượng tạng nầy, thì trong hư không lập tức sẽ nổi mây hương lớn, che trùm vương đô của nhà vua. Ở trong bảy ngày, mưa hương vũ nhỏ. Nếu mang hương đó trên thân, thì thân sẽ biến thành màu vàng thật. Nếu để hương đó trong y phục, hoặc trong cung điện, hoặc trong lầu các, thì cũng sẽ biến thành màu vàng thật. Nếu gió thổi hương đó vào trong cung điện, chúng sinh nào ngửi được mùi hương đó, thì bảy ngày bảy đêm, hoan hỉ tràn đầy, thân tâm an vui, không có các bệnh tật gì hết. Họ chẳng xâm hại nhau, lìa các khổ não lo lắng, chẳng có sự sợ hãi, chẳng mê loạn, chẳng sân hận. Họ đều dùng tâm từ đối đãi nhau, ý chí thanh tịnh không nhiễm.
Ngã tri thị dĩ nhi vi thuyết Pháp, lệnh kỳ quyết định phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm.
Ta biết như vậy rồi bèn vì họ mà thuyết pháp, cho họ quyết định phát tâm Vô thượng Bồ đề.
Giảng: Ta biết tình hình như vậy rồi, liền vì họ nói pháp, khiến cho họ quyết định phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”.
Bồ đề tâm nầy, tựa như Như Lai tạng, do tướng thiện ác công kích lẫn nhau mà sinh. Nếu đã phát tâm, thì liền nổi mây từ, mưa pháp vũ, cùng với tâm sở, khiến cho quy về chân tịnh. Được pháp hỉ lạc, lìa hoặc nghiệp khổ, dần dần từ bi, chí nguyện thuần tịnh.
Thiện nam tử! ma la da sơn xuất chiên đàn hương, danh viết: ngưu đầu; nhược dĩ đồ thân, thiết nhập hỏa khanh, hỏa bất năng thiêu.
Này thiện nam tử ! Núi Ma la Gia xuất sanh chiên đàn hương tên là Ngưu Ðầu. Nếu dùng hương này thoa trên thân, thời dầu vào hầm lửa cũng chẳng bị cháy.
Giảng: Thiện nam tử! Núi Ma La Gia sinh ra hương chiên đàn, tên là Ngưu đầu. Nếu có chúng sinh nào dùng hương nầy để thoa thân, rồi nhảy vào trong hầm lửa, thì lửa không thể đốt cháy được. Đây là biểu thị hương nhẫn, lửa sân không thể đốt cháy được.
Thiện nam tử! hải trung hữu hương, danh: Vô năng thắng; nhược dĩ đồ cổ cập chư loa bối, kỳ thanh phát thời, nhất thiết địch quân giai tự thoái tán.
Này thiện nam tử ! Trong biển có hương tên là Vô Năng Thắng, nếu đem thoa trống và các loa ốc, lúc phát tiếng lên thời tất cả quân địch đều tự thối tán.
Giảng: Thiện nam tử! Trong biển có một thứ hương, tên là Vô năng thắng. Nếu dùng hương nầy để thoa lên trống và các loa ốc, khi phát ra tiếng, thì tất cả quân địch đều tự thối lui tan rã. Đây là biểu thị hương tinh tấn, hay khiến cho quân ma lui tan.
Thiện nam tử! A na bà đạt đa trì biên xuất trầm thủy hương, danh: liên hoa tạng, kỳ hương nhất hoàn như ma tử Đại; nhược dĩ thiêu chi, hương khí phổ huân Diêm-phù-đề giới, chúng sanh văn giả, ly nhất thiết tội, giới phẩm thanh tịnh.
Này thiện nam tử ! Ở bên ao A Nậu Ðạt xuất sanh trầm thủy hương tên là Liên Hoa Tạng, nếu đốt chừng bằng hạt mè, thời hơi hương lan khắp Diêm Phù Ðề chúng sanh ngửi hương này thời lìa tất cả tội, giới phẩm thanh tịnh.
Giảng: Thiện nam tử! Bên hồ A Na Bà Đạt Đa (phía bắc núi Hy Mã Lạp Sơn), sinh ra một thứ hương trầm thuỷ, tên là Liên hoa tạng. Hương đó nếu đốt lên một viên lớn chừng bằng hạt mè, đừng khinh thường tác dụng của hương nầy, thì mùi hương đó sẽ xông khắp cõi Diêm Phù Đề, chúng sinh nào ngửi được mùi hương nầy, thì sẽ lìa khỏi tất cả tội, giới phẩm được thanh tịnh, nghiêm trì giới luật. Đây là biểu thị hương giới.
Thiện nam tử! tuyết sơn hữu hương, danh: A-lô-na; nhược hữu chúng sanh khứu thử hương giả, kỳ tâm quyết định ly chư nhiễm trước, ngã vi thuyết Pháp mạc bất giai đắc ly cấu tam muội.
Này thiện nam tử ! Núi Tuyết có hương tên là A Lô Na, nếu có chúng sanh ngửi hương này thời tâm họ quyết định lìa những nhiễm trước, ta vì họ mà thuyết pháp, tất cả đều được ly cấu tam muội.
Giảng: Thiện nam tử! Trong núi Tuyết có một thứ hương, tên là A Lô Na. Nếu có chúng sinh nào ngửi được hương nầy, thì tâm họ chắc chắn sẽ lìa khỏi các ô nhiễm và chấp trước. Ta sẽ vì họ thuyết pháp, họ đều sẽ đắc được tam muội ly cấu. Đây là biểu thị hương định, sớm khiến cho chúng sinh lìa khỏi dục nhiễm ô uế.
Thiện nam tử! La-sát giới trung hữu hương, danh: hải tạng, kỳ hương đãn vi Chuyển luân Vương dụng; nhược thiêu nhất hoàn nhi dĩ huân chi, Vương cập tứ quân giai đằng hư không.
Này thiện nam tử ! Trong cõi La Sát có thứ hương tên là Hải Tạng. Hương này chỉ có Chuyển Luân Vương được dùng. Nếu đốt một viên hương này để xông, thời Vương và bốn bộ binh đều bay đi trên không.
Giảng: Thiện nam tử! Trong cõi La Sát có một thứ hương, tên là Hải Tạng. Hương đó chỉ có Chuyển Luân Vương dùng. Nếu đốt lên một viên để xông, thì vua và bốn quân đều bay đi trong hư không. Đây là biểu thị hương huệ, dùng trí huệ chứng được lý không.
Thiện nam tử! thiện Pháp Thiên trung hữu hương, danh: tịnh trang nghiêm; nhược thiêu nhất hoàn nhi dĩ huân chi, phổ sử chư Thiên tâm niệm ư Phật.
Này thiện nam tử ! Trong Trời Thiện Pháp có thứ hương tên là Tịnh Trang Nghiêm, nếu đốt lên một viên, liền khiến khắp chư Thiên đều niệm Phật.
Giảng: Thiện nam tử! Trên cõi trời Thiện Pháp (trời Đao Lợi) có một thứ hương, tên là Tịnh trang nghiêm. Nếu đốt lên một viên để xông, thì khắp khiến cho tất cả chư Thiên, tâm đều niệm Phật.
Thiện nam tử! Tu dạ ma thiên hữu hương, danh: tịnh tạng; nhược thiêu nhất hoàn nhi dĩ huân chi, dạ ma thiên chúng mạc bất vân tập bỉ Thiên Vương sở nhi cọng thính pháp.
Này Thiện Nam Tử ! Trời Dạ Ma có thứ hương tên là Tịnh Tạng, nếu đốt lên một viên, thời tất cả trời Dạ Ma đều vân tập đến chỗ Dạ Ma Thiên Vương để nghe pháp.
Giảng: Thiện nam tử! Trên cõi trời Tu Dạ Ma có một thứ hương tên là Tịnh tạng. Nếu đốt lên một viên để xông, thì Thiên chúng trời Dạ Ma thảy đều vân tập đến trước chỗ vua trời, để cùng nghe vua trời nói diệu pháp.
Thiện nam tử! Đâu suất thiên trung hữu hương, danh: tiên đà bà; ư nhất sanh sở hệ Bồ-tát tọa tiền thiêu kỳ nhất hoàn, hưng Đại hương vân biến phước Pháp giới, phổ vũ nhất thiết chư cúng dường cụ, cúng dường nhất thiết chư Phật Bồ Tát.
Này thiện nam tử ! Trong trời Ðâu Suất có thứ hương tên là Tiên Ðà Bà, nếu đốt lên một viên trước chỗ ngồi của đức Nhứt sanh bổ xứ Bồ Tát, thời nổi mây hương lớn khắp pháp giới, khắp mưa tất cả những đồ cúng dường, để cúng dường tất cả chư Phật, Bồ Tát.
Giảng: Thiện nam tử! Trên cõi trời Đâu Suất có một thứ hương, tên là Tiên đà bà. Ở trước toà Bồ Tát còn một đời nữa sẽ thành Phật, đốt lên một viên thứ hương đó, thì sẽ nổi mây hương lớn, phủ khắp pháp giới, khắp mưa xuống tất cả các đồ cúng dường, để cúng dường tất cả chư Phật Bồ Tát. Đây là biểu thị hương pháp giới.
Thiện nam tử! thiện biến hóa thiên hữu hương, danh viết: đoạt ý; nhược thiêu nhất hoàn, ư thất nhật trung, phổ vũ nhất thiết chư trang nghiêm cụ.
Này thiện nam tử ! Cõi trời Thiện Biến Hóa có thứ hương tên là Ðoạt Ý nếu đốt lên một viên thời trong bảy ngày khắp mưa tất cả những đồ trang nghiêm.
Giảng: Thiện nam tử! Trên trời Thiện Biến Hoá có một thứ hương, tên là Đoạt ý. Nếu đốt lên một viên thứ hương nầy, thì trong bảy ngày, khắp mưa xuống tất cả các đồ trang nghiêm. Thứ hương nầy làm cho con người quên mất năng sở, nên gọi là Đoạt ý.
Thiện nam tử! ngã duy tri thử điều hoà hương Pháp. Như chư Bồ-Tát Ma-ha-tát, viễn ly nhất thiết chư ác tập khí, bất nhiễm thế dục, vĩnh đoạn phiền não chúng ma quyển tác, siêu chư hữu thú, dĩ trí tuệ hương nhi tự trang nghiêm, ư chư thế gian giai vô nhiễm trước, cụ túc thành tựu vô sở trước giới, tịnh vô trước trí, hành vô trước cảnh, ư nhất thiết xứ tất vô hữu trước, kỳ tâm bình đẳng, vô trước vô y
Này thiện nam tử ! Ta chỉ biết phương pháp điều hòa các thứ hương đây. Như chư đại Bồ Tát xa lìa tất cả tập khí của các pháp, chẳng nhiễm thế dục, dứt hẳn nơm rọ của chúng ma phiền não, thoát khỏi cõi hữu lậu, dùng hương trí huệ để tự trang nghiêm. Nơi các thế gian đều không nhiễm trước. Thành tựu đầy đủ giới vô trước, thanh tịnh trí vô trước, đi trong cảnh vô trước, ở tất cả xứ đều không chấp trước. Tâm của các Ngài bình đẳng, không chấp trước, không y tựa.
Giảng: Thiện nam tử! Ta chỉ biết điều hoà hương pháp nầy. Như các đại Bồ Tát xa lìa tất cả các tập khí ác, chẳng nhiễm năm dục thế gian. Vĩnh viễn dứt lưới phiền não chúng ma, vượt qua tất cả các cõi dục giới, sắc giới, vô sắc giới, dùng hương trí huệ để tự trang nghiêm. Các Ngài đối với tất cả thế gian đều chẳng nhiễm trước. Các Ngài thành tựu đầy đủ giới không chấp trước, thanh tịnh trí huệ không chấp trước, du hành cảnh giới không chấp trước. Tóm lại, các Ngài đối với tất cả mọi nơi, đều không còn chấp trước. Tâm của các Ngài đều bình đẳng, không chấp trước, không nương tựa, hoàn toàn tự tại.
Nhi ngã hà năng tri kỳ diệu hạnh? thuyết kỳ công đức? hiển kỳ sở hữu thanh tịnh giới môn? thị kỳ sở tác vô quá thất nghiệp? biện kỳ ly nhiễm thân, ngữ, ý hạnh?
Ta thế nào biết được diệu hạnh đó, nói được công đức đó, hiểu được giới môn thanh tịnh của các Ngài, thị được công hạnh không sai lầm của các Ngài làm, biện được thân khẩu ý lìa nhiễm của các Ngài.
Giảng: Mà ta làm sao biết được những diệu hạnh đó? Diễn nói được những công đức đó? Hiển bày hết thảy giới môn thanh tịnh đó? Thị hiện nghiệp làm không lỗi lầm đó? Biện được hạnh thân miệng ý lìa ô nhiễm đó? Cảnh giới của các Ngài thật là quá cao siêu, tôi chẳng bằng được, cho nên ngươi hãy đi về hướng nam tìm một vị thiện tri thức khác.
Thiện nam tử! ư thử Nam phương, hữu nhất đại thành, danh viết: lâu các; trung hữu thuyền sư, danh: Bà thí la. Nhữ nghệ bỉ vấn: Bồ Tát vân hà học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo?
Này thiện nam tử ! Phương Nam đây có một thành lớn tên là Lâu Các, trong thành có một người lái thuyền tên là Bà Thi La. Ngươi đến đó hỏi Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo ?
Giảng: Thiện nam tử! Ở hướng nam nầy, có một thành lớn tên là Lầu Các. Trong thành đó có vị thuyền sư, tên là Bà Thi La. Ngươi hãy đến đó hỏi: “Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh? Tu Bồ Tát đạo? Ngài sẽ vì ngươi và giải đáp”.
Thời, Thiện tài đồng tử đảnh lễ kỳ túc, nhiễu vô lượng tạp, ân cần chiêm ngưỡng, từ thoái nhi khứ.
Thiện Tài đồng tử đảnh lễ nơi chân Trưởng giả, Ưu Bát La Hoa, hữu nhiễu vô lượng vòng, ân cần chiêm ngưỡng từ tạ mà đi.
Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử đảnh lễ trưởng giả Ưu Bát La Hoa, đi nhiễu quanh vô lượng vòng, rồi ân cần chiêm ngưỡng, từ tạ mà đi về hướng nam tìm cầu vị thiện tri thức khác.
====================
22. THUYỀN SƯ BÀ THI LA
PHÓ THÁC THỨ 22 – BẤT HOẠI HỒI HƯỚNG
Nhĩ thời, Thiện tài đồng tử hướng lâu các thành, quan sát đạo lộ. Sở vị: quán đạo cao ti, quán đạo di hiểm, quán đạo tịnh uế, quán đạo khúc trực.
Tiệm thứ du hành, tác thị tư tánh: ngã đương thân cận bỉ thiện tri thức.
Giảng: Bấy giờ Thiện Tài đi về phía thành Lâu Các, quán sát đường sá. Như là xem đường cao thấp, xem đườngg bằng hiễm, đường sạch dơ, đường cong ngay.
Tự nghĩ rằng: Tôi phải thân cận thiện tri thức đó.
Lúc đó, Thiện Tài đồng tử đi về hướng thành Lầu Các. Lầu Các là biểu thị nhờ hồi hướng nầy, khiến cho tâm bồ đề càng tăng trưởng, bi trí nương nhau mà thù thắng thêm. Thiện Tài đồng tử trước hết quán sát đường xá. Đó là: Quán đường cao thấp chẳng bằng phẳng, quán sát đường nhỏ hẹp hoặc nguy hiểm, quán sát đường sạch hoặc dơ, quán sát đường cong hoặc thẳng.
Thiện Tài đồng tử từ từ du hành về hướng nam, bèn suy gẫm như vầy: “Ta nên gần gũi vị thiện tri thức nầy.
Thiện tri thức giả, thị thành tựu tu hành chư Bồ-tát đạo nhân, thị thành tựu tu hành Ba-la-mật đạo nhân, thị thành tựu tu hành nhiếp chúng sanh đạo nhân, thị thành tựu tu hành phổ nhập Pháp giới vô chướng ngại đạo nhân, thị thành tựu tu hành lệnh nhất thiết chúng sanh trừ ác tuệ đạo nhân, thị thành tựu tu hành lệnh nhất thiết chúng sanh ly kiêu mạn đạo nhân, thị thành tựu tu hành lệnh nhất thiết chúng sanh diệt phiền não đạo nhân, thị thành tựu tu hành lệnh nhất thiết chúng sanh xả chư kiến đạo nhân, thị thành tựu tu hành lệnh nhất thiết chúng sanh bạt nhất thiết ác thứ đạo nhân, thị thành tựu tu hành lệnh nhất thiết chúng sanh chí nhất thiết trí thành đạo nhân.
Thiện tri thức là nhơn thành tựu tu hành những đạo Bồ Tát, là nhơn thành tựu tu hành đạo Ba la mật, là nhơn thành tựu tu hành đạo nhiếp chúng sanh, là nhơn thành tựu tu hành đạo vào khắp pháp giới vô ngại, là nhơn thành tựu tu hành đạo khiến tất cả chúng sanh trừ ác huệ, là nhơn thành tựu tu hành đạo khiến các chúng sanh lìa kiêu mạn, là nhơn thành tựu tu hành đạo khiến các chúng sanh diệt trừ phiền não, là nhơn thành tựu tu hành đạo khiến tất cả chúng sanh bỏ những kiến chấp, là nhơn thành tựu tu hành đạo khiến các chúng sanh nhỗ tất cả gai ác độc, là nhơn thành tựu tu hành đạo khiến tất cả chúng sanh đến thành Nhứt thiết trí.
Giảng: Vì bậc thiện tri thức, là nhân tu hành thành tựu các Bồ Tát đạo, có nhân gần gũi thiện tri thức, mới có thể thành tựu quả Phật. Ngài là nhân tu hành thành tựu đạo Ba La Mật. Ngài là nhân tu hành thành tựu đạo nhiếp chúng sinh. Ngài là nhân tu hành thành tựu vào khắp pháp giới, với hư không dung làm một thể, không chướng ngại. Ngài là nhân tu hành thành tựu đạo khiến tất cả chúng sinh trừ ác huệ.
Thế nào là ác trí huệ? Ví như thế trí biện thông, trí huệ thế gian đều là ác trí huệ, bạn không cần dạy họ đánh bạc, họ nhìn là biết ngay, đó tức là ác huệ; bạn không cần dạy họ chửi người, mà họ tự nhiên biết; bạn không cần dạy họ đi lừa người khác, mà họ tự nhiên không thầy mà tự thông; bạn không cần dạy trẻ con nói dối, mà họ tự nhiên biết, đó tức là ác huệ; bạn vốn chẳng dạy họ sát sinh như thế nào? mà họ tự biết sát sinh, đó tức là ác huệ; bạn vốn chẳng dạy họ trộm cắp, mà họ tự biết đi trộm cắp, đó đều là ác huệ; cũng chẳng ai dạy họ tà dâm, mà họ cứ nghĩ tưởng việc tà dâm, đó tức là ác huệ; bạn cũng chẳng dạy họ uống rượu, mà họ tự biết uống rượu, đó đều là ác huệ. Nếu hay gần gũi thiện tri thức, thì sẽ trừ diệt được đủ thứ những tập khí mao bệnh nầy.
Thiện tri thức là nhân tu hành thành tựu đạo khiến tất cả chúng sinh lìa kiêu mạn. Ngài là nhân tu hành thành tựu đạo khiến tất cả chúng sinh diệt phiền não. Cho nên thiện tri thức rất là quan trọng, nếu bạn muốn tu hành Bồ Tát đạo, học tập hạnh của Bồ Tát tu, thì nhất định phải gần gũi thiện tri thức. Ngài là nhân tu hành thành tựu đạo khiến tất cả chúng sinh xả bỏ các kiến chấp. Là nhân tu hành thành tựu đạo khiến tất cả chúng sinh nhổ trừ tất cả gai ác độc. Gai ác độc tức là đố kị chướng ngại. Ngài là nhân tu hành thành tựu đạo khiến tất cả chúng sinh đến được thành nhất thiết trí.
Hà dĩ cố? ư thiện tri thức xứ, đắc nhất thiết thiện pháp cố; y thiện tri thức lực, đắc nhất thiết trí đạo cố. Thiện tri thức giả, nan kiến nan ngộ.
Tại sao vậy ? Vì ở chỗ thiện tri thức được tất cả thiện pháp. Vì nương sức thiện tri thức được đạo Nhứt thiết trí. Thiện tri thức rất là khó thấy khó gặp.
Giảng: Đây là nguyên nhân gì? Vì ở chỗ thiện tri thức, sẽ đắc được tất cả pháp lành. Vì nương vào lực đạo đức của thiện tri thức, sẽ đắc được đạo nhất thiết trí. Cho nên bậc thiện tri thức, không dễ gì gặp được. Do đó có câu: “Trăm ngàn vạn kiếp khó gặp được”.
Như thị tư duy. Tiệm thứ du hành, ký chí bỉ thành, kiến kỳ thuyền sư tại thành môn ngoại hải ngạn thượng trụ, bách thiên thương nhân cập dư vô lượng Đại chúng vi nhiễu, thuyết đại hải Pháp, phương tiện khai thị Phật công đức hải.
Thiện Tài đồng tử suy nghĩ như vậy, đi lần đến thành Lâu Các, thấy Bà Thi La đương đứng trên bở biển ở ngoài cửa thành. Trăm ngàn thương gia và vô lượng nhơn chúng vây quanh ông. Bà Thi La vì họ mà nói đại hải pháp phương tiện khai thị Phật công đức hải.
Giảng: Thiện Tài đồng tử suy gẫm như vậy, từ từ đi du hành về hướng nam. Thiện Tài đồng tử đi đến thành Lầu Các, Ngài nhìn thấy vị thuyền sư Bà Thi La đó đang ở ngoài cửa thành Lầu Các, ở trên bờ biển, có trăm ngàn thương nhân, cùng với vô lượng đại chúng vây quanh Ngài, lắng nghe Ngài nói pháp biển cả, phương tiện khai thị biển công đức của Phật.
Thiện Tài kiến dĩ, vãng nghệ kỳ sở, đảnh lễ kỳ túc, nhiễu vô lượng tạp, ư tiền hợp chưởng nhi tác thị ngôn:
Thiện Tài đến lễ chân Bà Thi La hữu nhiễu vô lượng vòng, chắp tay cung kính thưa rằng:
Giảng: Thiện Tài đồng tử thấy tình hình như vậy rồi, bèn đi đến đảnh lễ vị thuyền sư Bà Thi La, rồi đi nhiễu quanh vô lượng vòng, sau đó đứng ở trước cung kính chắp tay, mà bạch rằng:
Thánh Giả! ngã dĩ tiên phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm, nhi vị tri Bồ Tát vân hà học Bồ Tát hạnh? vân hà tu Bồ Tát đạo? ngã văn Thánh Giả thiện năng giáo hối, nguyện vi ngã thuyết!
Bạch đức Thánh ! Con đã phát tâm Vô thượng Bồ đề mà chưa biết Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo ? Con nghe đức Thánh khéo dạy bảo. Xin vì con mà nói.
Giảng: “Đức Thánh! Con trước đã phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, mà chưa biết Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh? Làm thế nào tu Bồ Tát đạo? Con nghe trưởng giả Ưu Bát La Hoa giới thiệu cho con nói đức Thánh Ngài khéo chỉ dạy chúng sinh, xin Ngài hãy vì con mà nói”.
Đây là Hồi Hướng Bất Hoại thứ hai. Vì đắc được tâm tin bất hoại, đem căn lành hồi hướng, nên gọi là bất hoại. Bà Thi La, dịch là “Tự tại”, biểu thị Ngài ở trong biển cả Phật pháp đã khéo thông đạt. Ở trong biển sinh tử khéo độ tất cả chúng sinh. Ngài đối với tất cả các pháp, đều tin sâu bất hoại, cho nên gọi là tự tại. Thành Lầu Các, là biểu thị do nhờ hồi hướng nầy, khiến cho tâm bồ đề càng tăng trưởng, đại bi và trí huệ hổ tương nương tựa mà thù thắng vượt qua.
Thuyền sư cáo ngôn: Thiện tai thiện tai! Thiện nam tử! nhữ dĩ năng phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm, kim phục năng vấn sanh đại trí nhân, đoạn trừ nhất thiết sanh tử khổ nhân, vãng nhất thiết trí đại bảo châu nhân,
Bà Thi La nói: Lành thay, lành thay ! Thiện nam tử đã có thể phát tâm Vô thượng Bồ đề nay lại có thể hỏi nhơn duyên sanh đại trí, nhơn duyên dứt trừ tất cả khổ sanh tử, nhơn duyên đến châu đại bửu nhất thiết trí.
Giảng: Thuyền sư Bà Thi La nói với Thiện Tài đồng tử rằng: “Lành thay lành thay! Thiện nam tử! Ngươi đã có thể phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, hiện nay ngươi lại có thể hỏi nhân sinh ra đại trí huệ. Nhân dứt trừ tất cả khổ sinh tử. Nhân đi đến đại châu báu nhất thiết trí.
Thành tựu bất hoại Ma-ha diễn nhân, viễn ly nhị thừa bố úy sanh tử trụ chư tịch tĩnh tam muội toàn nhân, thừa đại nguyện xa biến nhất thiết xứ hành Bồ Tát hạnh vô hữu chướng ngại thanh tịnh đạo nhân, dĩ Bồ Tát hạnh trang nghiêm nhất thiết vô năng hoại trí thanh tịnh đạo nhân, phổ quán nhất thiết thập phương chư Pháp giai vô chướng ngại thanh tịnh đạo nhân, tốc năng thú nhập nhất thiết trí hải thanh tịnh đạo nhân.
Nhơn duyên thành tựu đại thừa bất hoại. Nhơn duyên xa lìa sự bố úy sanh tử an trụ trong những vòng tam muội tịch tịnh của hàng Nhị thừa. Nhơn duyên ngồi xe đại nguyện đi khắp mọi nơi thật hành Bồ Tát hạnh vô ngại thanh tịnh. Nhơn duyên dùng Bồ Tát hạnh trang nghiêm nhất thiết trí thanh tịnh. Nhơn duyên quán sát khắp tất cả các pháp mười phương đều vô ngại thanh tịnh. Nhơn duyên mau có thể xu nhập biển nhất thiết trí thanh tịnh.
Giảng: Nhân thành tựu đại thừa bất hoại. Nhân xa lìa Thanh Văn Duyên Giác nhị thừa sợ hãi sinh tử. Nhãn quan và tâm lượng của các Ngài rất nhỏ hẹp, chỉ có mình thoát ly thôi, chẳng nguyện cứu độ chúng sinh, nên Phật quở các Ngài: “Thiêu nha bại chủng tự liễu hán”. Các Ngài trụ ở trong các vòng tam muội tịch tĩnh, mà chẳng muốn xuất định, chấp vào cảnh giới vắng lặng, mà ngươi Thiện Tài đồng tử hiện tại muốn xa lìa hạt giống hàng nhị thừa. Ngươi muốn nhân ngồi xe đại nguyện, khắp tất cả mọi nơi, hành Bồ Tát hạnh, đạo thanh tịnh không chướng ngại. Nhân dùng Bồ Tát hạnh trang nghiêm đạo thanh tịnh tất cả trí huệ không thể hoại. Nhân quán khắp tất cả mười phương các pháp, đạo thanh tịnh đều không chướng ngại. Nhân mau xu nhập đạo thanh tịnh biển nhất thiết trí”.
Thiện nam tử! ngã tại thử thành hải ngạn lộ trung, tịnh tu Bồ Tát đại bi tràng hành.
Này thiện nam tử ! Ta ở trong đường trên bờ biển ngoài cửa thành Lâu Các này mà tịnh tu hạnh Bồ Tát đại bi tràng.
Giảng: Thiện nam tử! Ta ở trong đường bờ biển thành nầy, thanh tịnh tu hành hạnh Bồ Tát đại bi tràng nầy.
Thiện nam tử! ngã quán Diêm-phù-đề nội bần cùng chúng sanh, vi nhiêu ích cố, tu chư khổ hạnh, tùy kỳ sở nguyện tất lệnh mãn túc. Tiên dĩ thế vật, sung mãn kỳ ý; phục thí pháp tài, lệnh kỳ hoan hỉ, lệnh tu phước hạnh, lệnh sanh trí đạo, lệnh tăng thiện căn lực, lệnh khởi Bồ-đề tâm, lệnh tịnh Bồ-đề nguyện, lệnh kiên đại bi lực, lệnh tu năng diệt sanh tử đạo, lệnh sanh bất yếm sanh tử hạnh, lệnh nhiếp nhất thiết chúng sanh hải, lệnh tu nhất thiết công đức hải, lệnh chiếu nhất thiết chư pháp hải, lệnh kiến nhất thiết chư Phật hải, lệnh nhập nhất thiết trí trí hải.
Này thiện nam tử ! Ta xe thấy chúng sanh nghèo cùng ở Diêm Phù Ðề này mà tu các khổ hạnh để lợi ích họ. Làm cho họ được thỏa mãn theo sở nguyện của họ. Trước đem thế lợi cho họ được đầy đủ rồi ban cho họ chánh pháp, cho họ hoan hỷ, cho họ tu phước hạnh, cho họ đạo sanh trí, cho họ thêm sức thiện căn, cho họ phát Bồ đề tâm, cho họ tịnh Bồ đề nguyện, cho họ vững chắc sức đại bi, cho họ tu đạo diệt sanh tử, cho họ chẳng nhàm hạnh sanh tử, cho họ nhiếp tất cả chúng sanh hải, cho họ tu tất cả công đức hải, cho họ chiếu rõ tất cả pháp hải, cho họ thấy tất cả Phật hải, cho họ vào Nhứt thiết chủng trí hải.
Giảng: Thiện nam tử! Ta quán sát chúng sinh bần cùng trong cõi Diêm Phù Đề, vì muốn lợi ích cho họ mà ta tu tất cả các khổ hạnh để hồi hướng cho họ. Tuỳ theo nguyện vọng của họ, đều khiến cho họ được đầy đủ. Trước hết ta dùng vật chất thế gian, để làm đầy đủ ý nguyện của họ, sau đó bố thí pháp tài, khiến cho họ hoan hỉ. Do đó có câu:
“Trước dùng câu dục móc
Sau khiến vào Phật trí”.
Ta khiến cho họ tu hành hạnh phước báo. Tại sao họ bần cùng? Đó là vì đời trước họ không gieo trồng ruộng phước, nên ta khuyên họ làm nhiều công đức, khiến cho phước báo của họ được viên mãn, thì sẽ chẳng còn chịu cảnh khốn khổ bần cùng nữa. Ta lại khiến cho họ sinh ra đạo trí huệ, khiến cho họ tăng trưởng sức căn lành, khiến cho họ sinh khởi tâm bồ đề, khiến cho họ thanh tịnh bồ đề nguyện, khiến cho họ kiên cố sức đại bi, khiến cho họ tu hành để diệt trừ đạo sinh tử, khiến cho họ sinh ra hạnh chẳng nhàm lìa sinh tử, khiến cho họ nhiếp thọ tất cả biển chúng sinh, khiến cho họ tu hành tất cả biển công đức, khiến cho họ chiếu thấu tất cả biển các pháp, khiến cho họ thấy được tất cả biển chư Phật, khiến cho họ vào biển trí huệ nhất thiết trí.
Thiện nam tử! ngã trụ ư thử, như thị tư duy, như thị tác ý, như thị lợi ích nhất thiết chúng sanh.
Này thiện nam tử ! Ta ở nơi đây suy gẫm như vậy, nghĩ tưởng như là, lợi ích như vậy, cho tất cả chúng sanh.
Giảng: Thiện nam tử! Ta trụ ở đây, suy gẫm như vậy, nghĩ như vậy, để lợi ích tất cả chúng sinh khổ não như vậy.
Thiện nam tử! ngã tri hải trung nhất thiết bảo châu, nhất thiết bảo xứ, nhất thiết bảo loại, nhất thiết bảo chủng. Ngã tri tịnh nhất thiết bảo, toản nhất thiết bảo, xuất nhất thiết bảo, tác nhất thiết bảo. Ngã tri nhất thiết bảo khí, nhất thiết bảo dụng, nhất thiết bảo cảnh giới, nhất thiết bảo quang minh. Ngã tri nhất thiết long cung xứ, nhất thiết dạ xoa cung xứ, nhất thiết bộ đa cung xứ, giai thiện hồi tị, miễn kỳ chư nạn. Diệc thiện biệt tri, tuyền phúc thiển thâm, ba đào viễn cận, thủy sắc hảo ác, chủng chủng bất đồng. Diệc thiện biệt tri, nhật nguyệt tinh tú vận hành độ số, trú dạ Thần bô, quỹ lậu duyên xúc. Diệc tri kỳ thuyền thiết mộc kiên thúy, ky quan sáp hoạt, thủy chi đại tiểu, phong chi nghịch thuận; như thị nhất thiết an nguy chi tướng vô bất minh liễu, khả hành tức hành, khả chỉ tức chỉ.
Này thiện nam tử ! Ta biết trong biển, tất cả đảo châu báu, tất cả chỗ có châu báu, tất cả loại châu báu, tất cả thứ châu báu. Ta biết trao dồi tất cả châu báu, xoi xỏ tất cả châu báu, sản xuất tất cả châu báu, làm tất cả châu báu. Ta biết tất cả bửu khí, tất cả bửu dụng, tất cả bửu cảnh giới, tất cả bửu quang minh. Ta biết tất cả chỗ cung điện của rồng, tất cả chỗ cung điện của Dạ Xoa, tất cả chỗ cung điện của Bộ Ða. Ta đều khéo xa tránh những chỗ đó để khỏi những tai nạn. Ta cũng biết rõ chỗ nước xoáy, chỗ cạn sâu sóng mòi xa gần, màu nước tốt xấu. Ta cũng biết rõ nhựt, nguyệt, tinh tú vận hành độ số, ngày đêm sớm chiều, thời tiết dài ngắn. Ta cũng biết rõ trên thuyền, sắt, gỗ, cứng chắc, mềm yếu, máy móc rít trơn, nước lớn nhỏ, gió nghịch thuận. Tất cả những sự tướng an nguy như vậy, ta đều biết rõ cả, nên đi thời đi, nên đậu thời đậu.
Giảng: Thiện nam tử! Ta biết tất cả châu báu trong biển, đây là chỉ sinh tử trong biển, thâm tịch bất động, nên gọi là châu báu. Tất cả nơi báu, tức là Như Lai tạng không chẳng không. Tất cả loại báu, tức là Hằng sa công đức. Tất cả thứ báu, tức là Phật tánh. Ta còn biết làm sạch tất cả báu, tức là tịnh giới Đầu Đà là năng tịnh. Mài dũa tất cả báu, đây là duyên khởi trí là năng mài dũa. Sản xuất tất cả báu, tức là dùng phát tâm nhất thiết trí làm sản xuất. Làm tất cả báu. Ta còn biết tất cả đồ báu, tất cả dụng báu, tất cả cảnh giới báu, tất cả quang minh báu. Báu là biểu thị trí huệ, do đó có câu: “Không vào biển sinh tử, thì không thể đắc được báu nhất thiết trí”.
Ta còn biết tất cả chỗ Long cung, tất cả chỗ Dạ Xoa cung, tất cả chỗ Bộ Đa cung, đây là chỉ tham sân si trong biển sinh tử, mà tôi đều khéo xa lánh chúng, để khỏi gặp đủ thứ các tai nạn của chúng. Ta cũng khéo phân biệt biết chỗ nước xoáy sâu cạn, sói mòn xa gần, màu nước tốt xấu, đủ thứ khác nhau.
Tâm thức con người cũng giống như dòng nước chảy mãi không ngừng, niệm niệm thay đổi, đầy đủ sinh trụ dị diệt bốn giai đoạn. Thức thứ bảy vọng tưởng như sóng trong biển không bao giờ ngừng. Trong thức thứ tám, hàm chứa tất cả hạt giống tập khí mao bệnh từ vô lượng kiếp đến nay. Cho nên sóng biển ba đào là chỉ tâm thức chúng sinh. Lại tuỳ thuận duyên thiện ác trong ngoài, nhan sắc tâm thuỷ cũng khác nhau. Nghịch lưu dưới mặt biển là chỉ dòng sinh tử không gián đoạn, niệm niệm sinh diệt, niệm niệm thay đổi. Thuyền sư Bà Thi La là người có đủ đại trí huệ, nên có thể đi vào dòng sinh tử ba đào, mà độ chúng sinh đến nơi bờ kia an toàn. Hạnh nan đắc thứ tám trong Phẩm Thập Hạnh có nói rằng: “Ví như thuyền sư, chẳng trụ bờ bên này, chẳng trụ bờ bên kia, chẳng trụ ở giữa dòng, thì có thể độ chúng sinh từ bờ bên này, đến bờ bên kia. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, chẳng trụ sinh tử, chẳng trụ Niết Bàn, cũng chẳng trụ trong dòng sinh tử, mà có thể độ chúng sinh từ bờ bên này, để lên bờ bên kia, an ổn không sợ hãi, nơi không có sầu lo”.
Thuyền sư Bà Thi La lại nói tiếp: “Ta cũng khéo phân biệt biết mặt trời mặt trăng tinh tú, vận hành độ số, mà tạo thành ban ngày, ban đêm, sớm trưa chiều, thời tiết dài ngắn khác nhau. Đây là biểu thị ta biết thời cơ chúng sinh chín mùi. Ta cũng biết loại thuyền nào làm bằng sắt, bằng gỗ, cứng chắc hay yếu kém, máy móc rít, hoặc trơn tru. Đây là biểu thị biết vạn hạnh khác nhau. Có phương tiện là cứng chắc, không có phương tiện là yếu kém. Chẳng tu hành là rít, hay tu hành là trơn tru. Nếu máy móc bị rít thì ta cho thêm dầu nhớt, thì sẽ đi vào biển thuận lợi hơn. Ta còn biết nước lớn, nước nhỏ, gió thuận, gió nghịch (Sinh tử hữu biên và vô biên, gió thuận nghịch (tám gió bốn thuận bốn nghịch). Tất cả những tướng an nguy như vậy, ta đều thấu rõ, nên đi thì đi, nên ngừng thì ngừng”.
Thiện nam tử! ngã dĩ thành tựu như thị trí tuệ, thường năng lợi ích nhất thiết chúng sanh.
Này thiện nam tử ! Ta dùng trí huệ đã thành tựu đó để thường lợi ích tất cả chúng sanh.
Giảng: Thiện nam tử! Ta đã thành tựu trí huệ như vậy, cho nên thường hay lợi ích tất cả chúng sinh
Thiện nam tử! ngã dĩ hảo thuyền vận chư thương chúng hành an ổn đạo, phục vi thuyết Pháp lệnh kỳ hoan hỉ, dẫn chí bảo châu dữ chư trân bảo hàm sử sung túc, nhiên hậu tướng lĩnh hoàn Diêm-phù-đề.
Này thiện nam tử ! Ta dùng thuyền tốt chở các thương gia đi đường yên ổn, lại thuyết pháp cho họ hoan hỷ. Ta đưa họ đến chỗ châu báu, cho họ đầy đủ châu báu. Rồi ta đưa họ về bổn xứ.
Giảng: Thiện nam tử! Ta dùng thuyền tốt để chuyên chở các người đi buôn, đi trên con đường an ổn. Sau đó lại vì họ thuyết pháp, khiến cho họ hoan hỉ, ta dẫn họ đến chỗ châu báu và tất cả các đồ trân quý, đều khiến cho họ được đầy đủ, sau đó, dẫn họ về cõi Diêm Phù Đề.
Thiện nam tử! ngã tướng đại thuyền như thị vãng lai, vị thủy lệnh kỳ nhất hữu tổn hoại.
Này thiện nam tử ! Ta đem thuyền lớn qua lại như vậy, chưa có lần nào bị tổn thất.
Giảng: Thiện nam tử! Ta dùng thuyền lớn (Phật pháp đại thừa) qua lại trong biển như vậy, chưa từng khiến một người nào tổn thất.
Nhược hữu chúng sanh đắc kiến ngã thân, văn ngã pháp giả, lệnh kỳ vĩnh bất bố sanh tử hải, tất đắc nhập ư nhất thiết trí hải, tất năng tiêu kiệt chư ái dục hải, năng dĩ trí quang chiếu tam thế hải, năng tận nhất thiết chúng sanh khổ hải, năng tịnh nhất thiết chúng sanh tâm hải, tốc năng nghiêm tịnh nhất thiết sát hải, phổ năng vãng nghệ thập phương đại hải, phổ tri nhất thiết chúng sanh căn hải, phổ liễu nhất thiết chúng sanh hạnh hải, phổ thuận nhất thiết chúng sanh tâm hải.
Nếu ai thấy thân ta, nghe ta thuyết pháp, thời họ trọn chẳng còn sợ biển sanh tử, mà được vào biển nhất thiêt trí, tất có thể tiêu diệt những biển ái dục, có thể dùng trí quang chiếu sáng biển tam thế, có thể làm hết biển khổ của tất cả chúng sanh, có thể làm sạch tâm hải của tất cả chúng sanh, có thể nghiêm tịnh tất cả sát hải, có thể qua đến khắp biển lớn mười phương, có thể biết khắp căn hải của tất cả chúng sanh, rõ biết khắp hạnh hải của tất cả chúng sanh, có thể thuận khắp tâm hải của tất cả chúng sanh.
Giảng: Nếu có chúng sinh thấy được thân ta, nghe được pháp của ta nói, thì ta sẽ khiến cho họ chẳng sợ hãi sự nguy hiểm trong biển sinh tử. Ta nhất định sẽ khiến cho họ được vào trong biển nhất thiết trí, họ chắc chắn sẽ tiêu cạn biển ái dục, không còn vọng tưởng ái dục điên đảo. Họ có thể dùng trí huệ quang minh chiếu sáng biển ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai. Có thể diệt hết biển khổ của tất cả chúng sinh. Có thể thanh tịnh biển tâm của tất cả chúng sinh. Sớm trang nghiêm thanh tịnh tất cả biển cõi. Khắp đi đến biển cả mười phương chư Phật. Khắp biết biển căn tánh của tất cả chúng sinh. Khắp thấu rõ biển hạnh của tất cả chúng sinh tu hành. Khắp tuỳ thuận biển tâm tất cả chúng sinh.
Thiện nam tử! ngã duy đắc thử đại bi tràng hạnh; nhược hữu kiến ngã cập dĩ văn ngã, dữ ngã đồng trụ, ức niệm ngã giả, giai tất bất không.
Này thiện nam tử ! Ta chỉ được đại bi tràng hạnh này. Nếu cò ai thấy ta, nghe đến ta, cùng ta đồng ở , nhớ tưởng đến ta, thời đều chẳng phí uổng.
Giảng: Thiện nam tử! Ta chỉ được hạnh đại bi tràng nầy, nếu có ai thấy ta, nghe lời ta, ở chung với ta và nghĩ nhớ đến ta, thì đều không luống qua, đều sẽ có cảm ứng.
Như chư Bồ-Tát Ma-ha-tát, thiện năng du thiệp sanh tử đại hải, bất nhiễm nhất thiết chư phiền não hải, năng xả nhất thiết chư vọng kiến hải, năng quán nhất thiết chư pháp tánh hải, năng dĩ tứ nhiếp nhiếp chúng sanh hải, dĩ thiện an trụ nhất thiết trí hải, năng diệt nhất thiết chúng sanh trước hải, năng bình đẳng trụ nhất thiết thời hải, năng dĩ thần thông độ chúng sanh hải, năng dĩ kỳ thời điều chúng sanh hải
Như chư đại Bồ Tát khéo du hành trong biển lớn sanh tử, chẳng nhiễm tất cả những biện phiền não, có thể bỏ tất cả những biển vọng kiến, có thể quán sát những biển pháp tánh, có thể dùng tứ nhiếp để nhiếp biển chúng sanh, đã khéo an trụ biển nhất thiết trí, có thể diệt trừ biển chấp trước của tất cả chúng sanh , có thể bình đẳng trụ nơi biển tất cả thời gian, có thể dùng thần thông độ biển chúng sanh, có thể theo thời nghi điều phục biển chúng sanh.
Giảng: Như các đại Bồ Tát khéo đi vào trong biển sinh tử, mà chẳng nhiễm tất cả các biển phiền não. Tuy ở trong sinh tử, mà dứt sinh tử, tuy ở trong phiền não mà chẳng còn phiền não. Các Ngài xả bỏ được tất cả các biển vọng kiến, hay quán sát tất cả các biển pháp tánh, hay dùng bốn pháp nhiếp, để nhiếp thọ tất cả biển chúng sinh, đã khéo an trụ biển nhất thiết trí, tiêu diệt được biển chấp trước của tất cả chúng sinh, hay bình đẳng trụ tất cả biển thời, không gian và thời gian, hay dùng thần thông độ khắp hết thảy biển chúng sinh, hay dùng hợp thời điều phục biển chúng sinh,
Nhi ngã vân hà năng tri năng thuyết bỉ công đức hạnh?
Ta thế nào biết được nói được công đức hạnh đó?
Giảng: Mà ta làm sao biết được, nói được tất cả những hạnh công đức đó?
Thiện nam tử! ư thử Nam phương, hữu thành danh: khả lạc; trung hữu Trưởng-giả, danh: vô thượng thắng. Nhữ nghệ bỉ vấn: Bồ Tát vân hà học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo?
Này thiện nam tử ! Phương Nam đây có thành tên là khả Lạc. Trong thành ấy có Trưởng giả tên là Vô Thượng Thắng. Ngươi đến đó hỏi Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, thế nào tu Bồ Tát đạo ?
Giảng: Thiện nam tử! Đi về hướng nam nầy, có một thành thị tên là Khả Lạc. Trong thành đó, có vị trưởng giả tên là Vô Thượng Thắng. Ngươi hãy đi đến đó hỏi: “Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh? Làm thế nào tu Bồ Tát đạo”?
Thời, Thiện tài đồng tử đảnh lễ kỳ túc, nhiễu vô lượng tạp, ân cần chiêm ngưỡng, bi khấp lưu lệ, cầu thiện tri thức tâm Vô yếm túc, từ thoái nhi khứ.
Thiện Tài đồng tử đảnh lễ nơi chân Bà Thi La, hữu nhiễu vô lượng vòng, buồn khóc rơi lệ, ân cần chiêm ngưỡng, tâm thiết tha cầu thiện tri thức từ ta mà đi.
Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử đảnh lễ thuyền sư Bà Thi La, đi nhiễu quanh bên phải vô lượng vòng, ân cần chiêm ngưỡng thiện tri thức, khóc lóc rơi lệ, không nỡ lìa xa, nhưng lại vì tâm cầu thiện tri thức không nhàm đủ, nên từ tạ thuyền sư Bà Thi La mà đi về hướng nam, để tìm cầu vị thiện tri thức khác.
============================
23. TRƯỞNG GIẢ VÔ THƯỢNG THẮNG
PHÓ THÁC THỨ 23 – ĐẲNG NHẤT THIẾT PHẬT HỒI HƯỚNG
Nhĩ thời, Thiện tài đồng tử khởi đại từ chu biến tâm, đại bi nhuận trạch tâm tướng tục bất đoạn, phước đức, trí tuệ nhị chủng trang nghiêm, xả ly nhất thiết phiền não trần cấu, chứng pháp bình đẳng, tâm vô cao hạ, bạt bất thiện thứ, diệt nhất thiết chướng, kiên cố tinh tấn dĩ vi tường tiệm, thậm thâm tam muội nhi tác viên uyển, dĩ tuệ nhật quang phá vô minh ám, dĩ phương tiện phong khai trí tuệ hoa, dĩ vô ngại nguyện sung mãn Pháp giới, tâm thường hiện nhập nhất thiết trí thành, như thị nhi cầu Bồ Tát chi đạo.
Lúc đó Thiện Tài phát tâm đại từ cùng khắp, tâm đại bi nhuần thấm tiếp nối không dứt, phước đức trí tuệ hai thứ trang nghiêm. Bỏ rời tất cả phiền não trần cấu, chứng pháp bình đẳng, tâm không cao hạ, nhổ gai bất thiện, diệt tất cả chướng, kiên cố tinh tấn dùng làm hào tường, thậm thâm tam muội làm vườn tược. Dùng mặt nhựt trí tuệ phá tối vô minh. Dùng gió phương tiện nở hoa trí tuệ. Dùng vô ngại nguyện sung mãn pháp giới. Tám thường hiện nhập thành nhất thiết trí. Như vậy mà cầu đạo Bồ Tát.
Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử sinh khởi tâm đại từ khắp cùng pháp giới, tâm đại bi thấm nhuần tất cả chúng sinh, tâm đó từ trong tự tánh của Ngài sinh ra liên tục không dứt. Ngài dùng phước đức và trí huệ hai thứ trang nghiêm để nghiêm sức chính mình. Xả bỏ xa lìa tất cả phiền não trần cấu, chứng nhập pháp tánh bình đẳng, trong tâm không có phân biệt cao thấp. Trong Kinh Kim Cang có nói:
“Là pháp bình đẳng, chẳng có cao thấp”.
Ngài nhổ trừ tất cả gai bất thiện, diệt trừ tất cả chướng ngại. Dùng sự kiên cố tinh tấn, dũng mãnh hướng về trước, dùng làm hào tường. Tam muội thâm sâu làm vườn tược. Dùng trí huệ ánh sáng mặt trời, chiếu phá đen tối vô minh. Dùng gió phương tiện, nở hoa trí huệ. Dùng đại nguyện vô ngại, đầy khắp pháp giới. Tâm Ngài thường thị hiện nhập vào thành nhất thiết trí. Thiện Tài đồng tử cầu Bồ Tát đạo như vậy
Vị thiện tri thức nầy là trưởng giả Vô Thượng Thắng, phó thác đẳng tất cả Phật hồi hướng, là đạo hồi hướng đồng với tất cả Như Lai ba đời. Tất cả chư Phật quán tất cả pháp bình đẳng, không phân biệt thiện ác, nên trong Kinh nói rằng: “Khi tu học đạo hồi hướng như vậy, thấy tất cả sắc, cho đến xúc pháp, hoặc tốt, hoặc xấu, không sinh thương ghét. Tâm được tự tại, không có các lỗi lầm. Rộng lớn thanh tịnh, hoan hỉ vui mừng. Lìa các phiền não, thân tâm nhu nhuyến, các căn mát mẻ là vậy”.
Tiệm thứ kinh lịch, đáo bỉ thành nội. Kiến vô thượng thắng tại kỳ thành Đông Đại trang nghiêm tràng Vô ưu lâm trung, vô lượng thương nhân, bách thiên Cư-sĩ chi sở vi nhiễu, lý đoạn nhân gian chủng chủng sự vụ; nhân vi thuyết Pháp, lệnh kỳ vĩnh bạt nhất thiết ngã mạn, ly ngã, ngã sở, xả sở tích tụ, diệt xan tật cấu, tâm đắc thanh tịnh, vô chư uế trược, hoạch tịnh tín lực, thường lạc kiến Phật, thọ trì Phật Pháp, sanh Bồ Tát lực, khởi Bồ Tát hạnh, nhập Bồ Tát tam muội, đắc Bồ Tát trí tuệ, trụ Bồ Tát chánh niệm, tăng Bồ Tát lạc dục.
Thiện Tài đi lần đến thành khả lạc, thấy Trưởng giả Vô Thượng Thắng ở nơi thành Ðông, trong rừng vô ưu đại trang nghiêm tràng, có vô lượng thương gia và năm ngàn cư sĩ vây quanh. Trưởng giả quản lý phán đoán những sự vụ nhơn gian. Rồi Trưởng giả lại nhơn đó vì đại chúng mà thuyết pháp. Làm cho họ khỏi hẳn tất cả ngã mạn, rời ngã và ngã sở, bỏ chỗ tích tụ, diệt tham xan tật đố, tâm được thanh tịnh không trược uế, được sức tịnh tín, thường thích thấy Phật thọ trì Phật pháp sanh Bồ Tát lực, khởi Bồ Tát hạnh, nhập Bồ Tát tam muội , được Bồ Tát trí huệ, trụ Bồ Tát chánh niệm, thêm Bồ Tát chí nguyện.
Giảng: Từ từ đi về hướng nam, đến thành Khả Lạc đó. Thiện Tài đồng tử thấy trưởng giả Vô Thượng Thắng đang ở trong rừng Đại trang nghiêm tràng vô ưu, phía đông của thành Khả Lạc, có vô lượng thương nhân và trăm ngàn cư sĩ cùng nhau vây quanh. Ngài biện lý đủ thứ sự việc nhân gian, rồi vì họ thuyết pháp, khiến cho họ vĩnh viễn diệt trừ tất cả ngã mạn, xa lìa sự chấp trước cái ta, buông bỏ được những gì của ta, xả lìa hết thảy tài sản tích tụ, diệt trừ trần cấu tham sẻn đố kị.
Chúng ta tu đạo tức là phải diệt trừ sự tham sẻn. Người của Vạn Phật Thành diệt được chút chút tâm tham sẻn, không thể nói là đã diệt hết. Vì người ở đây đều không tham tài, coi nhẹ vấn đề tiền bạc, chẳng có tâm tham, nhưng tâm đố kị vẫn còn chút chút, nếu chẳng còn tâm đố kị thì càng tốt. Bất cứ ai tốt hơn mình, thì nên vui mừng, đừng có tâm đố hiền kị năng. Nếu chẳng còn tâm tham sẻn, thì tâm đố kị cũng sẽ tiêu diệt, như vậy tâm mới được thanh tịnh, không có các uế trược. Đố kị tức là ô uế chẳng sạch sẽ, ngu si thì càng hỗn trược.
Thiện Tài đồng tử đắc được sức tin thanh tịnh, thường ưa thích được gặp Phật, thọ trì Phật pháp, sinh ra Bồ Tát lực, khởi Bồ Tát hạnh, chứng nhập Bồ Tát tam muội, đắc được Bồ Tát trí huệ, trụ Bồ Tát chánh niệm, tăng trưởng Bồ Tát lạc dục – tức là Phật pháp.
Rừng vô ưu, là nhân đồng Phật hồi hướng, cho nên chẳng có thương ghét. Thương nhân cùng vây quanh, dụ cho Phật làm thương chủ, Bồ Tát làm thương nhân, pháp tài ngoại ích, nên công quy về mình.
Nhĩ thời, Thiện tài đồng tử quán bỉ Trưởng-giả vi chúng thuyết Pháp dĩ, dĩ thân đầu địa, đảnh lễ kỳ túc, lương cửu nãi khởi, bạch ngôn: Thánh Giả! ngã thị Thiện Tài! ngã thị Thiện Tài! ngã chuyên tầm cầu Bồ Tát chi hạnh,
Thiện Tài thấy Trưởng giả Vô Thượng Thắng đã vì đại chúng thuyết pháp xong, liền đến đảnh lễ chân Trưởng giả giây lâu mới đứng dậy thưa rằng: Bạch đức Thánh ! Con là Thiện Tài. Con là Thiện Tài. Con chuyên tìm cầu hạnh Bồ Tát.
Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử quán sát vị trưởng giả đó, vì chúng sinh thuyết pháp xong rồi, bèn đảnh lễ vị trưởng giả sát đất, rất lâu mới đứng dậy, bạch rằng: “Đức Thánh! Con là Thiện Tài đây! Con là Thiện Tài đây! Con chuyên tìm cầu Bồ Tát hạnh.
Bồ Tát vân hà học Bồ Tát hạnh? Bồ Tát vân hà tu Bồ Tát đạo? tùy tu học thời, thường năng hóa độ nhất thiết chúng sanh, thường năng hiện kiến nhất thiết chư Phật, thường đắc thính văn nhất thiết Phật Pháp, thường năng trụ trì nhất thiết Phật Pháp, thường năng thú nhập nhất thiết pháp môn, nhập nhất thiết sát học Bồ Tát hạnh, trụ nhất thiết kiếp tu Bồ Tát đạo, năng tri nhất thiết Như Lai thần lực, năng thọ nhất thiết Như Lai hộ niệm, năng đắc nhất thiết Như Lai trí tuệ?
Bạch đức Thánh ! Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh ? Bồ Tát thế nào tu Bồ Tát đạo ? Lúc tu học thường có thể hóa độ tất cả chúng sanh, thường có thể hiện thấy tất cả chư Phật, thường được nghe tất cả Phật pháp, thường có thể trụ trì tất cả Phật pháp, thường có thể xu nhập tất cả pháp môn, vào tất cả cõi học Bồ Tát hạnh, trụ tất cả kiếp tu Bồ Tát đạo, có thể biết thần lực của tất cả Như Lai, có thể được tất cả Như Lai hộ niệm, có thể được tất cả Như Lai trí huệ.
Giảng: Con xin đức Thánh hãy vì con diễn nói Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh? Bồ Tát làm thế nào tu Bồ Tát đạo? Khiến cho con tuỳ lúc tu hành và học tập, thường hay giáo hoá độ thoát tất cả chúng sinh. Thường hay hiện thấy tất cả chư Phật. Thường được lắng nghe tất cả Phật pháp. Thường hay trụ trì tất cả Phật pháp. Thường hay xu nhập tất cả pháp môn. Vào tất cả cõi Phật, học Bồ Tát hạnh, trụ tất cả kiếp, tu Bồ Tát đạo, biết được tất cả thần lực của Như Lai, thọ được tất cả Như Lai hộ niệm, đắc được tất cả Như Lai trí huệ”.
Thời, bỉ Trưởng-giả cáo Thiện Tài ngôn: Thiện tai thiện tai! Thiện nam tử! nhữ dĩ năng phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm.
Trưởng giả Vô Thượng Thắng nói: Lành thay ! Lành thay ! Thiện nam tử đã có thể phát tâm Vô thượng Bồ đề.
Giảng: Lúc đó, vị trưởng giả Vô Thượng Thắng bảo Thiện Tài đồng tử rằng: “Lành thay! Lành thay! Thiện nam tử! Ngươi đã có thể phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Thiện nam tử! ngã thành tựu chí nhất thiết xứ Bồ Tát hạnh môn vô y vô tác Thần thông chi lực.
Này thiện nam tử ! Ta thành tựu “chí nhất thiết xứ Bồ Tát hạnh môn”, sức thần thông vô y vô tác.
Giảng: Thiện nam tử! Ta thành tựu môn Bồ Tát hạnh đến tất cả mọi nơi, đắc được sức thần thông không nương, không làm.
Thiện nam tử! vân hà vi chí nhất thiết xứ Bồ Tát hạnh môn?
Nay thiện nam tử ! Thế nào là “Chí nhất thiết xứ Bồ Tát hạnh môn ?”
Giảng: Thiện nam tử! Thế nào là môn Bồ Tát hạnh đến tất cả mọi nơi? Nay ta sẽ vi người giải thích nói”.
Thiện nam tử! ngã ư thử tam thiên đại thiên thế giới, dục giới nhất thiết chư chúng sanh trung, sở vị: nhất thiết tam thập tam thiên, nhất thiết Tu dạ ma Thiên, nhất thiết Đâu-Xuất-Đà Thiên, nhất thiết thiện biến hóa Thiên, nhất thiết tha hóa tự tại Thiên, nhất thiết Ma Thiên, cập dư nhất thiết Thiên, long, dạ xoa, La-sát sa, Cưu bàn trà, Càn thát bà, A-tu-la, Ca Lâu La, khẩn-na-la, Ma hầu la già, nhân dữ phi nhân, thôn doanh, thành ấp, nhất thiết trụ xứ chư chúng sanh trung nhi vi thuyết Pháp, lệnh xả phi pháp, lệnh tức tranh luận, lệnh trừ đấu chiến, lệnh chỉ phẫn cạnh, lệnh phá oán kết, lệnh giải hệ phược, lệnh xuất lao ngục, lệnh miễn bố úy, lệnh đoạn sát sanh nãi chí tà kiến nhất thiết ác nghiệp, bất khả tác sự giai lệnh cấm chỉ
Này thiện nam tử ! Ta ở tại Ðại Thiên thế giới này, trong tất cả chúng sanh nơi Dục giới. Những là tất cả Ðao Lợi Thiên, tất cả Tu Dạ Ma Thiêm, tất cả Ðâu Suất Ðà Thiên, tất cả Thiện Biến Hóa Thiên, tất cả Tha Hóa Tự Tại Thiên, tất cả Ma Thiên và tất cả chỗ ở của chư Thiên. Long, Dạ Xoa, La Sát, Cưu Bàn Trà, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, Nhơn và Phi Nhơn.
Giảng: Ta ở trong tất cả nơi đó mà vì tất cả các chúng sanh thuyết pháp, làm cho họ bỏ phi pháp dứt tranh luận, trừ chiến đấu, thôi giận tranh, phá oan kiết, mở trói buộc, khỏi lao ngục, thoát bố úy, không sát sanh nhẫn đến không tà kiến. Ðều làm cho họ cấm chỉ tất cả ác nghiệp những sự chẳng nên làm
Thiện nam tử! Ta ở trong ba ngàn đại thiên thế giới nầy, tất cả các chúng sinh trong dục giới. Đó là: Tất cả trời Tam Thập Tam (trời Đao Lợi), tất cả trời Tu Dạ Ma, tất cả trời Đâu Suất Đà, tất cả trời Thiện Biến Hoá, tất cả trời Tha Hoá Tự Tại, tất cả thiên ma và tất cả cõi trời khác. Rồng, Dạ Xoa, La Sát, Cưu Bàn Trà, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, người, chẳng phải người. Thôn xóm thành ấp, tất cả chỗ ở, trong tất cả chúng sinh, ta đều mà vì họ thuyết pháp.
Ta khiến cho tất cả chúng sinh xả bỏ pháp chẳng chánh đáng, do đó có câu: “Đừng làm các điều ác, hãy làm các điều lành”, khiến cho họ dứt tranh luận, khiến cho họ trừ đấu tranh, khiến cho họ ngừng phẫn nộ cạnh tranh, khiến cho họ phá tan cừu oán kết hận, khiến cho họ cởi mở trói buộc chẳng được tự tại, khiến cho họ thoát khỏi tù ngục ba cõi, khiến cho họ không sợ hãi, khiến cho họ dứt trừ sát sinh, cho đến tà kiến, tất cả đủ thứ ác nghiệp không thể làm, ta đều cấm họ đi làm.
Lệnh kỳ thuận hành nhất thiết thiện pháp, lệnh kỳ tu học nhất thiết kỹ nghệ, ư chư thế gian nhi tác lợi ích; vi kỳ phân biệt chủng chủng chư luận, lệnh sanh hoan hỉ, lệnh tiệm thành thục; tùy thuận ngoại đạo, vi thuyết thắng trí, lệnh đoạn chư kiến, lệnh nhập Phật Pháp.
Khiến họ thuận làm tất cả pháp lành, khiến họ học tất cả kỹ nghệ, làm lợi ích ở thế gian. Vì họ mà phân biệt các thứ luận cho họ hoan hỉ, cho họ lần lần thành thục. Tùy thuận ngoại đạo, vì họ mà giảng thắng trí, cho họ dứt kiến chấp, cho họ nhập Phật pháp. Nhẫn đến tất cả Phạm Thiên cõi Sắc, ta cũng vì họ mà nói pháp siêu thắng.
Giảng: Ngược lại, ta khiến cho họ tuỳ thuận tu hành tất cả pháp lành, khiến cho họ tu học tất cả kỹ năng công nghệ. Đối với tất cả các thế gian mà làm việc lợi ích, ta lại vì họ phân biệt đủ thứ các luận, khiến cho họ có mắt chọn pháp, phân biệt được thị phi, không còn lầm đường lạc lối. Khiến cho họ sinh tâm hoan hỉ, khiến cho họ dần dần thành thục. Đối với những chúng sinh tuỳ thuận ngoại đạo đó, ta vì họ nói trí huệ thù thắng, khiến cho họ bỏ mê về giác. Khiến cho họ dứt trừ tất cả tà tri tà kiến, khiến cho họ vào Phật pháp. Ta vì tất cả những chúng sinh đó nói pháp, cho đến tất cả cõi trời Phạm Thiên thuộc sắc giới, ta cũng vì họ nói Phật pháp cao siêu thù thắng.
Vì chúng Phạm Thiên hoan hỉ hưởng thọ phước trời, nên dễ dàng quên đi sự tu hành. Sự khoái lạc của họ chẳng phải rốt ráo, mà là hữu lậu, nên ta cũng giáo hoá họ, khiến cho họ bỏ trần hợp giác.
Nãi chí sắc giới nhất thiết phạm thiên, ngã diệc vi kỳ thuyết siêu thắng Pháp. Như ư thử tam thiên đại thiên thế giới, nãi chí thập phương thập bất khả thuyết bách thiên ức na-do-tha Phật sát vi trần số thế giới trung, ngã giai vi thuyết Phật Pháp, Bồ Tát Pháp, thanh văn Pháp, độc giác Pháp;
Như ở Ðại Thiên thế giới này, trong mười bất khả thuyết trăm ngàn ức na do tha Phật sát vi trần số thế giới, ta cũng vì tất cả chúng sanh mà giảng nói Phật pháp, Bồ Tát pháp, Thanh Văn pháp, Ðộc Giác pháp.
Giảng: Như trong ba ngàn đại thiên thế giới nầy, cho đến chúng sinh trong các thế giới nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết trăm ngàn ức Na do tha cõi Phật trong mười phương, ta đều vì họ nói pháp Phật, pháp Bồ Tát, pháp Thanh Văn, pháp Duyên Giác, pháp Độc Giác.
Thuyết địa ngục, thuyết địa ngục chúng sanh, thuyết hướng địa ngục đạo
Ta giảng nói địa ngục, chúng sanh địa ngục, nghiệp đạo hướng địa ngục.
Giảng: Nói địa ngục, nói địa ngục chúng sinh, nói nhân duyên đoạ hướng về đường địa ngục
Thuyết súc sanh, thuyết súc sanh sái biệt, thuyết súc sanh thọ khổ, thuyết hướng súc sanh đạo
Ta giảng nói súc sanh, súc sanh sai biệt, súc sanh thọ khổ, nghiệp đạo hướng súc sanh.
Giảng: Nói súc sinh, nói súc sinh đủ thứ sự khác nhau, nói tình hình súc sinh thọ khổ, nói nhân duyên đoạ hướng về đường súc sinh. Nhân duyên đoạ vào ba đường ác rất là nhiều, nhưng không lìa khỏi tham sân si. Nếu vẫn thường có tâm cừu hận phẫn nộ, thì sẽ đoạ vào địa ngục. Nếu tham mà không biết chán, thì sẽ đoạ vào đường ngạ quỷ. Nếu ngu si điên đảo, thì sẽ đoạ vào đường súc sinh.
Thuyết Diêm la Vương thế gian, thuyết Diêm la Vương thế gian khổ, thuyết hướng Diêm la Vương thế gian đạo
Ta giảng nói Diêm La Vương thế gian, khổ của Diêm La Vương thế gian, nghiệp đạo hướng Diêm La Vương thế gian.
Giảng: Ta lại vì tất cả những chúng sinh đó diễn nói Diêm La Vương thế gian, nói Diêm La Vương thế gian đầy dẫy bi não, thống khổ, nói nhân duyên đoạ vào đường Diêm La Vương thế gian.
Thuyết Thiên thế gian, thuyết Thiên thế gian lạc, thuyết hướng Thiên thế gian đạo
Ta giảng nói nhơn gian, khổ vui của nhơn gian, nghiệp đạo hướng nhơn gian.
Giảng: Lại nói trời thế gian, nói chúng sinh trời thế gian hưởng thọ phước trời khoái lạc an vui, nói nhân duyên thăng lên hướng về đường trời thế gian.
Thuyết nhân thế gian, thuyết nhân thế gian khổ lạc, thuyết hướng nhân thế gian đạo.
Ta giảng nói Thiên thế gian, vui của Thiên thế gian, nghiệp đạo hướng Thiên thế gian.
Giảng: Lại nói người thế gian, nói người thế gian đầy dẫy khổ vui, đại đa số là khổ nhiều vui ít, nhưng là nơi tu hành tốt nhất. Chúng sinh thấy nhiều sự thống khổ, mà phát tâm tu đạo, thoát khỏi hầm lửa. Lại nói nhân duyên hướng về đường người thế gian.
Vi dục khai hiển Bồ Tát công đức, vi lệnh xả ly sanh tử quá hoạn, vi lệnh tri kiến nhất thiết trí nhân chư diệu công đức, vi dục lệnh tri chư hữu thú trung mê hoặc thọ khổ, vi lệnh tri kiến vô chướng ngại Pháp, vi dục hiển thị nhất thiết thế gian sanh khởi sở nhân, vi dục hiển thị nhất thiết thế gian tịch diệt vi lạc, vi lệnh chúng sanh xả chư tưởng trước, vi lệnh chứng đắc Phật vô y Pháp, vi lệnh vĩnh diệt chư phiền não luân, vi lệnh năng chuyển Như Lai Pháp luân, ngã vi chúng sanh thuyết như thị pháp.
Ta thuyết pháp là vì muốn khai hiển công đức của Bồ Tát vì làm cho chúng sanh bỏ lìa khổ hoạn sanh tử, vì làm cho họ biết thấy những diệu công đức của nhất thiết trí, ví muốn cho họ biết trong các loài mê hoặc thọ khổ, vì cho họ thấy biết pháp không chướng ngại, vì muốn hiển thị sở nhơn sanh khởi thế gian, vì muốn hiển thị thế gian tịch diệt là vui, vì làm cho chúng sanh bỏ những chấp tưởng, vì làm cho họ chứng pháp vô y của Phật, vì làm cho họ diệt hẳn các phiền não, vì làm cho họ có thể chuyển Phật, pháp luân.
Giảng: Ta lại vì chúng sinh mà muốn khai hiển công đức Bồ Tát. Vì khiến cho họ xả lìa khổ hoạn sinh tử. Vì khiến cho họ thấy biết người nhất thiết trí các diệu công đức. Vì muốn khiến cho họ biết tình hình chúng sinh trong tam giới hai mươi lăm cõi mê hoặc thọ khổ. Vì khiến cho họ thấy biết diệu pháp không chướng ngại. Vì muốn khiến hiển bày tất cả nhân duyên sinh khởi của thế gian. Đó đều do nghiệp của chúng sinh khác nhau mà tạo thành. Ta lại vì muốn hiển bày tất cả thế gian tịch diệt là vui. Vì khiến cho chúng sinh xả bỏ tất cả vọng tưởng chấp trước, mà đắc được giải thoát. Vì khiến cho họ chứng được pháp của Phật không nương tựa tự tại. Vì khiến cho họ vĩnh viễn diệt trừ các vòng phiền não. Vì khiến cho họ chuyển được diệu pháp luân của Như Lai, khiến cho chánh pháp mãi mãi trụ nơi thế gian. Vì đủ thứ nhân duyên trên, cho nên ta vì chúng sinh nói pháp như vậy.
Vị trưởng giả Vô Thượng Thắng nầy do nhờ không nương không làm, cho nên có thể đến khắp mọi nơi, đến khắp là rộng của dụng. Không nương là thắng của thể. Tất cả chúng sinh nếu có thể nương vào thiên chân Phật tánh vốn có, thì cũng sẽ đắc được thần thông diệu dụng nầy, nên đức Phật ở dưới cội bồ đề, ngồi bốn mươi chín ngày, ban đêm thấy sao mai mà ngộ đạo, bèn thốt lên ba lần lành thay! Tất cả chúng sinh đều có đủ trí huệ đức tướng của Như Lai, nhưng vì vọng tưởng chấp trước, nên không thể chứng đắc.
Thiện nam tử! ngã duy tri thử chí nhất thiết xứ tu Bồ Tát hạnh thanh tịnh Pháp môn vô y vô tác thần thông chi lực.
Này thiện nam tử ! Ta chỉ biết pháp môn chí nhất thiết xứ tu Bồ Tát hạnh thanh tịnh, sức thần thông vô y vô tác.
Giảng: Thiện nam tử! Ta chỉ biết pháp môn tu Bồ Tát hạnh thanh tịnh đến tất cả mọi nơi nầy, sức thần thông không nương không làm.
Như chư Bồ-Tát Ma-ha-tát, cụ túc nhất thiết tự tại thần thông, tất năng biến vãng nhất thiết Phật sát, đắc phổ nhãn địa; tất văn nhất thiết âm thanh ngôn thuyết, phổ nhập chư Pháp trí tuệ tự tại, vô hữu quai tránh, dũng kiện vô bỉ, dĩ quảng trường thiệt xuất bình đẳng âm; kỳ thân diệu hảo, đồng chư Bồ-tát, dữ chư Như Lai cứu cánh vô nhị, vô hữu sái biệt; trí thân quảng đại, phổ nhập tam thế, cảnh giới vô tế, đồng ư hư không.
Như chư Bồ Tát đầy đủ tất cả thần thông tự tại, đều có thể đến khắp tất cả cõi Phật, được bậc phổ nhãn, đều nghe tất cả âm thanh ngôn thuyết, trí huệ tự tại vào khắp các pháp, không trái không sai, dũng kiện không ai bằng, dùng tướng lưỡi rộng dài nói bình đẳng, thân các Ngài diệu hảo cùng chư Như Lai rốt ráo không hai không khác, trí thân quảng đại vào khắp tam thế cảnh giới không ngắn mé đồng với hư không.
Giảng: Như các đại Bồ Tát đầy đủ tất cả thần thông tự tại, đều có thể đến khắp tất cả cõi Phật. Các Ngài đắc được bậc phổ nhãn, đều nghe được tất cả âm thanh lời nói. Các Ngài vào khắp các pháp, trí huệ tự tại, không có trái nghịch đấu tranh, dũng mãnh không sánh bằng. Cho nên dùng tướng lưỡi rộng dài, vang ra âm thanh bình đẳng, hướng về chúng sinh diễn nói diệu pháp. Thân các Ngài tốt đẹp, đồng với tất cả Bồ Tát, với các Như Lai rốt ráo không hai, không có khác biệt. Trí thân của các Ngài rộng lớn, vào khắp ba đời, cảnh giới của các Ngài không bờ mé, đồng với hư không,
Nhi ngã vân hà năng tri năng thuyết bỉ công đức hạnh?
Ta thế nào biết được nói được công đức hạnh đó.
Giảng: Đó là vì các Ngài dùng pháp giới làm thể, hư không làm dụng. Mà ta làm sao biết được, nói được, những hạnh công đức đó?
Thiện nam tử! ư thử Nam phương, hữu nhất quốc độ, danh viết: du na; kỳ quốc hữu thành, danh: Ca lăng Ca lâm; hữu Tì-kheo-ni, danh: sư tử tần thân.
Này thiện nam tử ! Phương Nam đây có một quốc độ tên là Thâu Na. Nước đó có thành tên là Ca Lăng Ca Lâm. Trong thành có Tỳ Kheo Ni tên là Sư Tử Tần Thân.
Giảng: Thiện nam tử! Ở hướng nam nầy, có một cõi nước, tên là Thâu Na. Nước đó có thành tên là Ca Lăng Ca Lâm. Trong thành đó có vị Tỳ Kheo Ni, tên là Sư Tử Tần Thân.
Nhữ nghệ bỉ vấn: Bồ Tát vân hà học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo?
Ngươi đến đó hỏi Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo ?
Giảng: Ngươi hãy đi đến đó hỏi: “Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh? Tu Bồ Tát đạo”?
Thời, Thiện tài đồng tử đảnh lễ kỳ túc, nhiễu vô lượng tạp, ân cần chiêm ngưỡng, từ thoái nhi khứ.
Thiện Tài đồng tử đảnh lễ chân Trưởng giả Vô Năng Thắng, hữu nhiễu vô lượng vòng, ân cần chiêm ngưỡng từ tạ mà đi.
Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử bèn đảnh lễ vị trưởng giả Vô Thượng Thắng, rồi đi nhiễu quanh vô lượng vòng, ân cần chiêm ngưỡng thiện tri thức, sau đó từ tạ mà đi về hướng nam, tìm cầu vị thiện tri thức khác.
===========================
24. TỲ KHEO NI SƯ TỬ TẦN THÂN
PHÓ THÁC THỨ 24 – HỒI HƯỚNG ĐẾN TẤT CẢ MỌI NƠI
Nhĩ thời, Thiện tài đồng tử tiệm thứ du hành, chí bỉ quốc thành, chu biến thôi cầu thử Tì-kheo-ni.
Thiện Tài đi lần đến thành Ca Lăng Ca Lâm tìm Tỳ Kheo Ni Sư Tử Tần Thân.
Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử từ từ đi du hành, đến nước Thâu Na, thành Ca Lăng Ca Lâm, bèn đi khắp nơi tìm cầu vị Tỳ Kheo Ni Sư Tử Tần Thân.
Hữu vô lượng nhân hàm cáo chi ngôn: Thiện nam tử! thử Tì-kheo-ni tại thắng quang Vương chi sở xả thí nhật quang viên trung thuyết Pháp lợi ích vô lượng chúng sanh.
Người trong thành bào rằng Tỳ Kheo Ni ấy hiện ở tại trong vườn Nhựt Quang của Thắng Quang Vương hỷ cúng, đương thuyết pháp lợi ích vô lượng chúng sanh.
Giảng: Có vô lượng người đều nói với Thiện Tài đồng tử rằng: “Thiện nam tử! Vị Tỳ Kheo Ni Sư Tử Tần Thân đó, đang ở chỗ vua Thắng Quang tiếp thọ sự bố thí cúng dường, ở trong vườn Nhựt Quang thuyết pháp lợi ích vô lượng chúng sinh”.
Vị thiện tri thức nầy là Tỳ Kheo Ni Sư Tử Tần Thân, phó thác thứ tư hồi hướng đến tất cả mọi nơi. Sư tử tần thân, biểu thị thư triển tự tại, vì chẳng chỗ nào mà chẳng đến. Tỳ Kheo Ni, biểu thị từ thuần tịnh, vì khiến cho khắp cùng. Nước tên là Thâu Na, dịch là “Dũng mãnh”. Biểu thị sức dũng mãnh, vì hay khiến cho căn lành chẳng đâu mà chẳng đến. Thành tên là rừng Ca Lăng Ca Lâm, dịch là “Hổ tương đấu tranh”, nghĩa là do đánh thắng mà lập thành. Biểu thị hồi hướng nguyện, do nhờ sức đại oai tin hiểu. Vì trí huệ rộng lớn không chướng ngại, khiến cho tu căn lành, chẳng chỗ nào mà chẳng đến.
Thời, Thiện tài đồng tử tức nghệ kỳ viên, chu biến quan sát. kiến kỳ viên trung hữu nhất Đại thọ, danh vi: mãn nguyệt, hình như lâu các, phóng đại quang minh chiếu nhất do-tuần; kiến nhất diệp thọ, danh vi: phổ phước, kỳ hình như cái, phóng Tì lưu ly cám thanh quang minh; kiến nhất hoa thọ, danh viết: hoa tạng, kỳ hình cao Đại, như Tuyết sơn Vương, vũ chúng hương khí vô hữu cùng tận, như Đao Lợi Thiên trung ba lợi chất đa la thọ.
Thiện Tài liền đến vườn Nhựt Quang. Thấy trong vườn có một đại thọ tên Mãn nguyệt, tàng cây như lâu các, phóng ánh sáng chiếu một do tuần. Thấy một diệp thọ tên Phổ Phúc, hình như cây lọng, phóng ánh sáng màu tỳ lưu ly xanh biếc. Thấy một hoa thọ tên Hoa tạng cao lớn hình như núi Tuyết, tuôn những hoa đẹp không cùng tận. Như cây Ba lợi chất đa la nơi cung trời Ðao Lợi.
Giảng: Bấy giờ, Thiện Tài đồng tử liền đi đến vườn Nhựt Quang đó, quán sát khắp bốn phía, thấy trong vườn đó, có một cây lớn tên là Mãn Nguyệt, hình dáng cây đó như lầu các, còn phóng đại quang minh, chiếu sáng chung quanh một do tuần.
Trong Vạn Phật Thành cũng có rất nhiều cây lớn, cũng phóng ra vô lượng quang minh. Cư sĩ họ Lưu có chụp rất nhiều tấm hình, lá đỏ, lá vàng và lá xanh. Bạn có thể nói những cây đó phóng ra quang minh, chẳng những chỉ chiếu một do tuần, thậm chí chiếu sáng mấy ngàn mấy trăm do tuần!
Thiện Tài đồng tử lại thấy một lá cây, tên là Phổ Phúc, hình dáng như cái lọng, phóng ra quang minh tỳ lưu ly xanh biếc. Lại thấy một hoa cây, tên là Hoa Tạng, hình dáng cao lớn, như núi Tuyết chúa, mưa xuống các hoa đẹp không cùng tận, như cây Ba lợi chất đa la trên cõi trời Đao Lợi.
Phục kiến hữu nhất cam lồ quả thọ, hình như kim sơn, thường phóng quang minh, chủng chủng chúng quả tất giai cụ túc; phục kiến hữu nhất ma-ni bảo thụ, danh: Tỳ Lô Giá Na tạng, kỳ hình vô bỉ, tâm Vương ma-ni bảo tối tại kỳ thượng, a-tăng-kì sắc tướng ma-ni bảo chu biến trang nghiêm. Phục hưũ y thọ, danh vi: thanh tịnh, chủng chủng sắc y thùy bố nghiêm sức; phục hưũ âm nhạc thọ, danh vi: hoan hỉ, kỳ âm mỹ diệu, qua chư Thiên nhạc; phục hưũ hương thọ, danh: phổ trang nghiêm, hằng xuất diệu hương, phổ huân thập phương, vô sở chướng ngại.
Lại thấy một cam lộ quả thọ, hình như tòa núi vàng thường phóng quang minh, sai trĩu những trái cam lộ. Lại thấy một ma ni bửu thọ tên Tỳ lô giá na tạng, hình đẹp không gì bằng, tâm vương ma ni bửu ở trên chót cây, vô số ma ni bửu trang nghiêm khắp cây. Lại thấy y thọ tên Thanh tịnh những y phục nhiều màu thòng rủ nghiêm sức. Lại có âm nhạc thọ tên Hoan hỷ, vang tiếng âm nhạc hơn cả nhạc trời. Lại có hương thọ tên Phổ trang nghiêm, hằng phát mùi thơm huân khắp mười phương không chướng ngại.
Giảng: Lại thấy có một quả cây cam lồ, hình dáng như núi vàng, thường phóng ra quang minh, đủ thứ các quả đẹp, đều đầy đủ. Lại thấy có một cây ma ni báu, tên là Tỳ lô giá na tạng, hình dáng không gì sánh bằng, tâm vương ma ni báu ở trên ngọn cây, có A tăng kỳ (vô lượng số) sắc tướng ma ni báu trang nghiêm khắp cùng. Lại thấy có cây y phục, tên là Thanh tịnh, có đủ thứ màu y phục, thòng rũ xuống nghiêm sức. Lại thấy có cây âm nhạc, tên là Hoan hỉ, phát ra tiếng rất hay đẹp, hơn hẳn các âm nhạc trên trời. Lại thấy có cây hương, tên là Phổ trang nghiêm, luôn vang ra diệu âm, xông khắp mười phương thế giới mà không chướng ngại.
Đoạn nầy nói về tám thứ cây rừng vô lậu, biểu thị do pháp hạnh vô lậu mà kiến lập. Trong phẩm Tịnh Danh Kinh Phật Đạo, có nói rằng:
“Tổng trì chi viên uyển
Vô lậu pháp lâm thụ
Giác ý tịnh diệu hoa
Giải thoát trí huệ quả
Bát giải chi dục trì
Định thuỷ thậm nhiên mãn
Bố dĩ thất tịnh hoa
Dục vô cấu nhân”.
Nghĩa là:
“Vườn hoa tổng trì nầy
Cây rừng pháp vô lậu
Hoa giác ý tịnh đẹp
Quả trí huệ giải thoát.
Tắm ao tám giải thoát
Nước định đầy trong suốt
Rải đầy hoa bảy tịnh
Tắm người không dơ nầy”.
Bài kinh văn nầy với đoạn kinh nầy có ý nghĩa giống nhau.
Viên trung phục hưũ tuyền lưu pha trì, nhất thiết giai dĩ thất bảo trang nghiêm, hắc chiên đàn nê ngưng tích kỳ trung, thượng diệu kim sa di bố kỳ để, bát công đức thủy cụ túc doanh mãn, ưu-bát-la hoa, ba-đầu-ma hoa, câu vật đầu hoa, phân đà lợi hoa biến phước kỳ thượng, vô lượng bảo thụ chu biến hành liệt.
Trong vườn lại có suối chảy, ao mát, tất cả đều bằng thất bửu trang nghiêm, bùn hắc chiên đàn chứa đọng trong đó, các chơn kim trải mặt đáy, toàn nước bát công đức. Hoa sen bốn màu xanh, vàng, đỏ, trắng phô trên mặt nước. Trong vường có vô lượng bửu thọ bày hàng khắp nơi.
Giảng: Trong vườn Nhựt Quang đó, lại có nước suối, sông chảy, ao mát, tất cả đều dùng bảy báu trang nghiêm, bùn hắc chiên đàn chứa đựng dưới đáy ao. Có cát vàng tốt đẹp rải khắp dưới đáy ao, trong ao nước tám công đức đầy đủ tràn đầy. Có hoa ưu bát la (hoa sen xanh), hoa ba đầu ma (hoa sen hồng), hoa câu vật đầu (hoa sen vàng), hoa phân đà lợi (hoa sen trắng), phủ khắp trên mặt ao. Lại có vô lượng cây báu khắp nơi thẳng hàng
Tám công đức là: Nhẹ mát mềm ngọt, sạch mà chẳng hôi, điều thông không bệnh, tức cũng là:
1. Trong suốt.
2. Thanh mát.
3. Ngon ngọt.
4. Nhẹ nhàng.
5. Thấm nhuần.
6. An hoà.
7. Trừ bệnh.
8. Tăng ích.
Chư bảo thụ hạ phu sư tử tọa, chủng chủng diệu bảo dĩ vi trang nghiêm, bố dĩ thiên y, huân chư diệu hương, thùy chư bảo tăng, thí chư bảo trướng, Diêm-phù kim võng di phước kỳ thượng, bảo đạc từ diêu xuất diệu âm thanh.
Mỗi gốc cây có một tòa sư tử, trang nghiêm với các thứ diệu bửu, dùng thiên y để trải, ướp bằng diệu hương, thòng những lụa báu, giăng những bửu trướng, vàng diêm phù đàn che phía trên, lạc báu chạm reo vang tiếng vi diệu.
Giảng: Dưới các cây báu có bày toà sư tử, trang nghiêm đủ thứ báu đẹp, y trời trải trên toà, được ướp các hương thơm, thòng xuống các lụa báu, bày các trướng báu, lưới bằng vàng Diêm Phù che phủ phía trên, linh báu khua nhau vang ra tiếng hay vi diệu. Hoặc
Hoặc hữu thụ hạ phu liên hoa tạng sư tử chi tọa, hoặc hữu thụ hạ phu Hương Vương ma-ni tạng sư tử chi tọa, hoặc hữu thụ hạ phu long trang nghiêm ma-ni Vương tạng sư tử chi tọa, hoặc hữu thụ hạ phu bảo sư tử tụ ma-ni Vương tạng sư tử chi tọa, hoặc hữu thụ hạ phu Tỳ Lô Giá Na ma-ni Vương tạng sư tử chi tọa, hoặc hữu thụ hạ phu thập phương Tỳ Lô Giá Na ma-ni Vương tạng sư tử chi tọa
Hoặc có gốc cây thiết tòa liên hoa tạng sư tử. Có gốc cây thiết tòa hương vương ma ni tạng sư tử. Có gốc cây thiết tòa long trang nghiêm ma ni vương tạng. Có gốc cây thiết tòa bửu sư tử tụ ma ni vương tạng. Có gốc cây thiết tòa tỳ lô giá na ma ni vương tạng sư tử. Có gốc cây thiết tòa thập phương tỳ lô giá na ma ni vương tạng sư tử.
Giảng: dưới cây có bày toà sư tử liên hoa tạng. Hoặc dưới cây có bày toà sư tử hương vương ma ni tạng. Hoặc dưới cây có bày toà sư tử long trang nghiêm ma ni vương tạng. Hoặc dưới cây có bày toà sư tử tụ ma ni vương tạng. Hoặc dưới cây có bày toà sư tử tỳ lô giá na ma ni vương tạng. Hoặc dưới cây có bày toà sư tử thập phương tỳ lô giá na ma ni vương tạng.
Kỳ nhất nhất tọa các hữu thập vạn bảo sư tử tọa châu táp vi nhiễu, nhất nhất giai cụ vô lượng trang nghiêm.
Mỗi sư tử tòa đều có mười vạn tòa báu vây quanh, đều đủ vô lượng thứ trang nghiêm.
Giảng: Mỗi mỗi toà sư tử đó, đều có mười vạn toà sư tử vây quanh, mỗi mỗi toà sư tử đó, đều đầy đủ vô lượng trang nghiêm. Mười vạn ức toà sư tử nầy, là đại biểu vạn hạnh của Bồ Tát.
Thử Đại viên trung chúng bảo biến mãn, do như đại hải bảo châu chi thượng. Ca lân đà y dĩ bố kỳ địa, nhu nhuyễn diệu hảo, năng sanh lạc xúc, đạo tức một túc, cử tức hoàn phục; vô lượng chư điểu xuất hòa nhã âm, bảo chiên đàn lâm thượng diệu trang nghiêm, chủng chủng hương khí thường vũ vô tận, do như Đế Thích Tạp hoa chi viên.
Trong vườn Nhựt Quang này, đầy những châu báu như bửu đảo ngoài đại hải. Dùng y ca lân đà trải mặt đất, y này rất êm diệu mềm mát. Ðạp lên thời lún bàn chân, dở chân thời hoàn lại. Có vô lượng thức chim vang tiếng hòa nhã. Rừng cây bửu chiên đàn rất trang nghiêm, thường tuôn diệu hoa vô tận, như vườn tạp hoa của Thiên Ðế Thích.
Giảng: Trong vườn Nhựt Quang đó, có các thứ báu đầy dẫy khắp nơi, như châu báu trong biển cả. Y ca lân đà trải trên mặt đất vườn hoa, mềm mại tốt đẹp, hay sinh ra sự ưa thích đạp lên. Chân đạp lên y trời nầy, thì dấu chân lún xuống, khi dở chân lên thì y lạ khôi phục như cũ. Thứ cảm giác nầy rất là thoải mái dễ chịu, giống như đạp lên tấm nệm mềm mại, có vô lượng các thứ chim hót, vang ra tiếng hoà nhã. Rừng chiên đàn báu đó, thù thắng trang nghiêm tốt đẹp, thường mưa xuống đủ thứ hoa, chẳng khi nào cùng tận. Giống như vườn hoa của trời Đế Thích, trong đó đầy dẫy các thứ tạp hoa
Vô bỉ Hương Vương phổ huân nhất thiết, do như Đế Thích thiện Pháp chi đường.
Hương vương vô tỷ thơm ngát khắp nơi, như Thiện Pháp Ðường của Thiên Ðế.
Giảng: Lại có vua hương thơm không đâu sánh bằng, xông khắp tất cả thế giới. Giống như Thiện Pháp đường của trời Đế Thích
Chư âm nhạc thọ, bảo Ta-la thụ, chúng bảo linh võng xuất diệu âm thanh, như Tự tại Thiên thiện khẩu Thiên nữ sở xuất Ca âm. Chư như ý thọ, chủng chủng diệu y thùy bố trang nghiêm, do như đại hải. Hữu vô lượng sắc bách thiên lâu các, chúng bảo trang nghiêm, như Đao Lợi Thiên cung thiện kiến đại thành. Bảo cái hà trương, như Tu-Di phong. quang minh phổ chiếu, như phạm vương cung.
Những cây âm nhạc, cây bửu đa la, những lưới linh báu, vang tiến vi diệu, như tiếng ca ngâm của Thiện Khẩu Thiên nữ ở cung trời Tự Tại. Những cây như ý thòng rũ các thứ y đẹp trang nghiêm rộng lớn như đại hải, có vô lượng màu sắc. Trăm ngàn lâu các trang nghiêm bằng châu báu, như thành Thiện Kiến ở Ðao Lợi Thiên cung. Lọng báu giăng rộng như đảnh núi Tu Di. Quang minh chiếu sáng như cung trời Phạm Vương.
Giảng: Lại có các cây âm nhạc, cây bảo đa la, lưới các linh báu, vang ra diệu âm, như trời Tự Tại, Thiên nữ Thiện Khẩu vang ra tiếng ca, khiến cho chúng sinh nghe được mà phát bồ đề tâm. Lại có các cây như ý, có đủ thứ y phục đẹp, thòng xuống trang nghiêm. Giống như biển cả, có vô lượng thứ màu, có trăm ngàn lầu các, có các báu trang nghiêm. Như cung trời Đao Lợi, đại thành Thiện Kiến, lọng báu giăng rộng như đỉnh Tu Di. Quang minh chiếu khắp, như cung điện Phạm Vương. Đủ thứ nghiêm sức trong đoạn Kinh văn nầy, là biểu thị sự trang nghiêm của Bồ Tát vạn hạnh.
Nhĩ thời, Thiện tài đồng tử kiến thử Đại viên vô lượng công đức, chủng chủng trang nghiêm, giai thị Bồ Tát nghiệp báo thành tựu, xuất thế thiện căn chi sở sanh khởi, cúng dường chư Phật công đức sở lưu, nhất thiết thế gian vô dữ đẳng giả, như thị giai tùng sư tử tần thân Tì-kheo-ni liễu Pháp như huyễn tập quảng đại thanh tịnh phước đức thiện nghiệp chi sở thành tựu.
Thiện Tài thấy vườn Nhựt Quang có số lượng công đức, vô lượng trang nghiêm. Ðâu là do công hạnh của Bồ Tất cảm thành, căn lành xuất thế phát khởi, cúng dường chư Phật sanh ra, tất cả thế gian không đâu sánh bằng. Ðây là do Tỳ Kheo Ni Sư Tử Tần Thân thấu rõ pháp như huyễn, chứa nhóm phước đức lành thanh tịnh quảng đại mà thành tựu cảnh vườn trang nghiêm này.
Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử thấy vô lượng công đức, đủ thứ sự trang nghiêm trong vườn hoa Nhựt Quang, đều do nghiệp báo quá khứ của Bồ Tát thành tựu, căn lành xuất thế sinh khởi, công đức cúng dường tất cả chư Phật chảy ra mà thành tựu, tất cả thế gian không ai bằng được. Đó đều do Tỳ Kheo Ni Sư Tử Tần Thân, thấu rõ tất cả pháp đều như huyễn, như hình bóng, hư vọng không thật, tích tập phước đức thiện nghiệp thanh tịnh rộng lớn mà thành tựu. Tuy Ngài đã thấu rõ các pháp thật tướng, quán tất cả pháp như không, nhưng Ngài vẫn không từ bỏ khổ nhọc giáo hoá chúng sinh. Vườn hoa trang nghiêm đó, là thành quả của Ngài tu hành.
Tam thiên đại thiên thế giới thiên long bát bộ, vô lượng chúng sanh, giai nhập thử viên nhi bất bách trách.
Thiên, Long, Bát Bộ vô lượng chúng sanh trong Ðại Thiên thế giới đều vào vườn này vẫn không chật hẹp.
Giảng: Dù cho trời rồng tám bộ chúng vô lượng chúng sinh, trong ba ngàn đại thiên thế giới, đều đi vào vườn hoa Nhựt Quang nầy, cũng chẳng thấy chật hẹp.
Hà dĩ cố? thử Tì-kheo-ni bất khả tư nghị uy thần lực cố.
Tai sao vậy ? Vì do oai thần bất tư nghì của Tỳ Kheo Ni Sư Tử Tần Thân này khiến nên như vậy.
Giảng: Tại sao vậy? Vì đó đều do sức oai thần không thể nghĩ bàn của vị Tỳ Kheo Ni nầy.
Đây là cảnh giới lớn nhỏ viên dung vô ngại, Ngài Thanh Lương quốc sư có giải thích môn rộng hẹp tự tại vô ngại trong Hoa Nghiêm Sớ Sao rằng:
“Quảng đại tức nhập ư vô gian,
Trần mao bao nạp nhi vô ngoại”.
“Quảng đại tức nhập ư vô gian”: Đây là đạo lý lớn có thể vào nhỏ. Vô gian, là nhỏ nhất, rộng lớn có thể đi vào chỗ nhỏ nhất, mà lớn chẳng thể nhỏ, nhỏ chẳng thể lớn, chỗ diệu là tại chỗ nầy. Núi Tu Di có thể để trong một hạt bụi, bốn biển có thể thu vào trong một lỗ chân lông. Đây là đạo lý môn rộng hẹp tự tại vô ngại.
“Trần mao bao nạp nhi vô ngoại”: Đây là đạo lý nhỏ có thể dung lớn. Vô ngoại là lớn nhất, nhưng một hạt bụi, một lỗ chân lông, có thể dung nạp thế giới rộng lớn, mà chẳng dư thừa lộ ra bên ngoài. Tóm lại, bất cứ lớn cỡ nào đều dung nạp trong đó. Trong Kinh Lăng Nghiêm có nói:
“Nơi đầu sợi lông, hiện cõi Bảo Vương”.
Phật ngồi trong một hạt bụi chuyển bánh xe pháp, ở nơi đầu sợi lông giảng kinh thuyết pháp, hết thảy vô lượng chúng sinh đều đến nghe pháp. Đây là cảnh giới vi diệu, chẳng phải phàm phu có thể tưởng tượng được. Đây là cảnh giới chư Phật Bồ Tát lấy pháp giới làm thể, hư không làm dụng, là thần thông tự tại:
“Lớn mà không ngoài, nhỏ mà không ở trong
Trong lớn hiện nhỏ, trong nhỏ hiện lớn”.
Nhĩ thời, Thiện Tài kiến sư tử tần thân Tì-kheo-ni biến tọa nhất thiết chư bảo thụ hạ Đại sư tử tọa, thân tướng đoan nghiêm, uy nghi tịch tĩnh, chư căn điều thuận, như Đại Tượng Vương; tâm vô cấu trược, như thanh tịnh trì; phổ tế sở cầu, như như ý bảo; bất nhiễm thế Pháp, do như liên hoa; tâm vô sở úy, như Sư tử Vương; hộ trì tịnh giới bất khả khuynh động, Như-Tu-Di-Sơn; năng lệnh kiến giả tâm đắc thanh lương, như diệu Hương Vương; năng trừ chúng sanh chư phiền não nhiệt, như tuyết sơn trung diệu chiên đàn hương; chúng sanh kiến giả, chư khổ tiêu diệt, như thiện kiến Dược-Vương; kiến giả bất không, như Bà lâu na Thiên; năng trưởng nhất thiết chúng thiện căn nha, như lương ốc điền.
Thiện Tài thấy Tỳ Kheo Ni này ngồi khắp trên tất cả tòa đại sư tử dưới những cội cây. Thân tướng đoan nghiêm, oai nghi tịch tịnh. Các căn điều thuận như đại tượng vương. Tâm không cấu trược như thanh tịnh địa. Khắp giúp ích chỗ cầu của mọi người như bửu châu như ý. Không nhiễm thế gian nhu hoa sen. Tâm vô úy như sư tử vương. Hộ trì tịnh giới vững vàng như núi Tu Di. Có thể làm cho người thấy lòng được thanh tịnh như diệu hương vương. Có thể trừ phiền não của chúng sanh như hương diệu chiên đàn trong núi Tuyết. Chúng sanh được thấy thời tiết khổ như Thiện Kiến Dược Vương. Người thấy chẳng luống uổng như Bà Lâu Na Thiên. Có thể sanh trưởng tất cả mầm thiện căn như ruộng phì nhiêu.
Giảng: Lúc đó, Thiện Tài chẳng những chỉ thấy vị Tỳ Kheo Ni Sư Tử Tần Thân, mà còn thấy vô số hoá thân đó, ngồi khắp trên toà sư tử dưới tất cả các cây báu, để vì chúng sinh nói đủ thứ diệu pháp, đây tức là pháp môn đến tất cả mọi nơi. Thân tướng của vị Tỳ Kheo Ni đó, đoan chánh trang nghiêm, bốn oai nghi tịch tĩnh, các căn điều hoà nhu thuận, như voi chúa lớn. Tâm của Ngài không có tư tưởng dơ bẩn ô trược, như ao thanh tịnh. Ngài cứu tế khắp chúng sinh có chỗ mong cầu, như châu báu như ý. Chẳng nhiễm pháp thế gian, như hoa sen mọc trong bùn mà chẳng nhiễm bùn. Tâm của Ngài không sợ hãi, vì Ngài không có quái ngại, nên xa lìa điên đảo mộng tưởng, mà chẳng sợ hãi, như sư tử chúa. Ngài hộ trì tịnh giới, do giới sinh định, không thể khuynh động, như núi Tu Di, Ngài hay khiến cho chúng sinh thấy được Ngài, thì tâm họ được mát mẻ, như vua hương thơm. Ngài hay trừ diệt được các phiền não nóng bức của tất cả chúng sinh, như hương thơm chiên đàn trong núi Tuyết. Chúng sinh thấy được Ngài, thì tất cả các khổ đều tiêu diệt, Ngài giống như vua thuốc thiện kiến, có thể điều trị tật bệnh thân tâm của chúng snh. Chúng sinh nào thấy được Ngài đều không luống qua, nhất định sẽ có cảm ứng, Ngài giống như Trời Bà Lâu Na (Đây là Thuỷ Thần, hay chưởng lý mưa nước và mây, hay làm mãn nguyện chúng sinh). Ngài hay sinh trưởng tất cả các mầm căn lành của tất cả chúng sinh, như ruộng phì nhiêu. Tại mỗi toà sư tử, chúng hội khác nhau, pháp môn Ngài nói ra cũng đều khác nhau.
Tại nhất nhất tọa, chúng hội bất đồng, sở thuyết pháp môn diệc các sái biệt; hoặc kiến xứ tọa, tịnh cư thiên chúng sở cọng vi nhiễu, Đại Tự tại Thiên tử nhi vi thượng thủ; thử Tì-kheo-ni vi thuyết Pháp môn, danh: vô tận giải thoát.
Tại mỗi tòa đại sư tử chúng hội không đồng nhau. Lời thuyết pháp cũng đều sai khác. Hoặc thấy chỗ thời chúng hội là Tịnh Cư Thiên, thượng thủ là Ðại Tự Tại Thiên Vương. Tỳ Kheo Ni này vì họ mà nói pháp môn Vô tận giả thoát.
Giảng: Hoặc Thiện Tài đồng tử thấy nơi toà sư tử của Tỳ Kheo Ni Sư Tử Tần Thân ngồi, có chúng Trời Tịnh Cư cùng nhau vây quanh bốn phía, vị Đại Tự Tại Thiên Tử làm thượng thủ. Vị Tỳ Kheo Ni đó, vì họ nói pháp môn tên là Vô tận giải thoát.
Trời Tịnh Cư là vị Trời cao nhất cõi Tứ Thiền thuộc sắc giới (Trời Ngũ Bất Hoàn), có năm tầng trời, là nơi sinh về của bậc Thánh chứng quả chẳng trở lại dục giới nữa, vì không có ngoại đạo ở chung, nên gọi là Tịnh cư. Năm tầng trời này là Trời Vô Phiền, Trời Vô Nhiệt, Trời Thiện Hiện, Trời Thiện Kiến, Trời Sắc Cứu Kính.
Hoặc kiến xứ tọa, chư phạm Thiên Chúng sở cọng vi nhiễu, ái lạc Phạm Vương nhi vi thượng thủ; thử Tì-kheo-ni vi thuyết Pháp môn, danh: Phổ môn sái biệt thanh tịnh ngôn âm luân.
Chỗ thời chúng hội là Phạm Thiên, Ái Lạc Phạm Vương làm thượng thủ. Tỳ Kheo Ni này vì họ mà nói pháp môn tên là Phổ môn sai biệt thanh tịnh ngôn âm luân.
Giảng: Hoặc thấy nơi toà sư tử của Tỳ Kheo Ni Sư Tử Tần Thân ngồi, có các chúng Phạm Thiên cùng nhau vây quanh, vị Ái Lạc Phạm Vương làm thượng thủ. Vị Tỳ Kheo Ni đó, vì họ nói pháp môn tên là Phổ môn khác biệt, thanh tịnh ngôn âm luân.
Phạm Thiên là vị Trời Sơ Thiền thuộc sắc giới, trời nầy không có dâm dục của dục giới, tịch tĩnh thanh tịnh, nên gọi là Phạm Thiên. Trời nầy có ba cõi trời, đó là Phạm Chúng Thiên, Phạm Phụ Thiên, Đại Phạm Thiên. Thông thường nói về Phạm Thiên là chỉ Đại Phạm Thiên Vương, tên là Thi Khí, ông ta tin sâu chánh pháp, mỗi khi có Phật ra đời, thì nhất định đến trước đức Phật để thỉnh Phật chuyển bánh xe pháp. Phạm Thiên ở đây không giống với Phạm Thiên của ngoại đạo nói.
Hoặc kiến xứ tọa, tha hóa tự tại thiên Thiên Tử, Thiên nữ sở cọng vi nhiễu, Tự tại Thiên Vương nhi vi thượng thủ; thử Tì-kheo-ni vi thuyết Pháp môn, danh: Bồ Tát thanh tịnh tâm.
Chỗ thời chúng hội là Tha Hóa Tự Tại Thiên Tử Thiên Nử, Tự Tại Thiên Vương làm thượng thủ. Tỳ Kheo Ni này vì họ mà nói pháp môn tên là Bồ Tát Thanh Tịnh Tâm.
Giảng: Hoặc thấy nơi toà sư tử của Tỳ Kheo Ni Sư Tử Tần Thân ngồi, có Thiên tử và Thiên nữ của cõi trời Tha Hoá Tự Tại cùng nhau vây quanh, Tự Tại Thiên Vương làm thượng thủ. Vị Tỳ Kheo Ni đó, vì họ nói pháp môn tên là Bồ Tát thanh tịnh tâm, khiến cho họ đắc được tâm thanh tịnh xuất thế, mà vượt thế gian tự tại. Cõi Trời nầy chẳng dùng sự biến hiện nhạc cụ của mình, mà giả hoá làm ra của cõi trời khác, tự tại du hí, nên gọi là Tha Hoá Tự Tại. Ở trên đỉnh của sáu cõi trời dục giới, Thiên ma ở giữa, với Trời Ma Hê Thủ La thuộc sắc giới, là thiên ma cùng nhau làm hại chánh pháp.
Hoặc kiến xứ tọa, thiện biến hóa Thiên Thiên Tử, Thiên nữ sở cọng vi nhiễu, thiện hóa Thiên Vương nhi vi thượng thủ; thử Tì-kheo-ni vi thuyết Pháp môn, danh: nhất thiết pháp thiện trang nghiêm.
Chỗ thời chúng hội là Thiện Biến Hóa Thiên Tử Thiên Nử, Thiện Hóa Thiên Vương làm thượng thủ. Tỳ Kheo Ni này vì họ mà nói pháp môn tên là Nhứt thiết pháp thiện trang nghiêm.
Giảng: Hoặc thấy nơi toà sư tử của Tỳ Kheo Ni Sư Tử Tần Thân ngồi, có Thiên tử và Thiên nữ của cõi trời Thiện Biến Hoá cùng nhau vây quanh, Thiện Hoá Thiên Vương làm thượng thủ. Vị Tỳ Kheo Ni đó, vì họ nói pháp môn tên là Tất cả pháp thiện trang nghiêm, khiến cho họ thấu hiểu, tuy nhạc cụ trang nghiêm, nhưng chẳng bằng thiện pháp trang nghiêm. Cõi trời nầy hay tự mình biến hoá nhạc cụ, mà tự vui chơi, nên gọi là hoá lạc, là cõi trời thuộc sáu cõi trời của dục giới.
Hoặc kiến xứ tọa, Đâu-Xuất-Đà Thiên Thiên Tử, Thiên nữ sở cọng vi nhiễu, Đâu suất thiên Vương nhi vi thượng thủ; thử Tì-kheo-ni vi thuyết Pháp môn, danh: tâm tạng toàn.
Chỗ thời chúng hội là Ðâu Suất Thiên Tử Thiên Nử, Ðâu Suất Thiên Vương làm thượng thủ. Tỳ Kheo Ni này vì họ mà nói pháp môn tên là Tâm tạng triền.
Giảng: Hoặc thấy nơi toà sư tử của Tỳ Kheo Ni Sư Tử Tần Thân ngồi, có Thiên tử và Thiên nữ của cõi trời Đâu Suất Đà cùng nhau vây quanh, Đâu Suất Thiên Vương làm thượng thủ. Vị Tỳ Kheo Ni đó, vì họ nói pháp môn tên là Tâm tạng triền, khiến cho họ quay về tâm Như Lai tạng, sẽ đắc được chân chánh hoan hỉ và đầy đủ. Cõi trời nầy là tầng trời thứ tư của dục giới, là Trời Tri Túc. Có nội viện và ngoại viện, ngoại viện là nơi chư Thiên hưởng lạc, nội viện là Bổ Xứ Bồ Tát, nơi ở của tối hậu thân Bồ Tát, thường từ đây hạ sinh xuống nhân gian để thành Phật, hiện nay là chỗ ở của Bồ Tát Di Lặc.
Hoặc kiến xứ tọa, Tu dạ ma Thiên Thiên Tử, Thiên nữ sở cọng vi nhiễu, dạ ma thiên Vương nhi vi thượng thủ; thử Tì-kheo-ni vi thuyết Pháp môn, danh: vô biên trang nghiêm.
Chỗ thời chúng hội là Dạ Ma Thiên Tử Thiên Nử, Dạ Ma Thiên Vương làm thượng thủ. Tỳ Kheo Ni này vì họ mà nói pháp môn tên là Vô biên trang nghiêm.
Giảng: Hoặc thấy nơi toà sư tử của Tỳ Kheo Ni Sư Tử Tần Thân ngồi, có Thiên tử và Thiên nữ cõi trời Tu Dạ Ma cùng nhau vây quanh, Dạ Ma Thiên Vương làm thượng thủ. Vị Tỳ Kheo Ni đó, vì họ nói pháp môn tên là Vô biên trang nghiêm, khiến cho họ khắp trang nghiêm pháp giới. Trời Dạ Ma dịch là “Thời phần”, nghĩa là tuỳ thời thọ lạc, là cõi trời thứ ba của sáu cõi trời dục giới. (Cõi trời nầy không có ánh sáng mặt trời, mặt trăng, dùng hoa nở làm ngày, hoa khép làm đêm).
Hoặc kiến xứ tọa, tam thập tam thiên Thiên Tử, Thiên nữ sở cọng vi nhiễu, Thích-đề-hoàn-nhân nhi vi thượng thủ; thử Tì-kheo-ni vi thuyết Pháp môn, danh: yếm ly môn.
Chỗ thời chúng hội là Ðao Lợi Thiên Tử Thiên Nử, Thích Ðề Hoàn Nhơn làm thượng thủ. Tỳ Kheo Ni này vì họ mà nói pháp môn tên là Yễm ly môn.
Giảng: Hoặc thấy nơi toà sư tử của Tỳ Kheo Ni Sư Tử Tần Thân ngồi, có Thiên tử và Thiên nữ trời Tam Thập Tam cùng nhau vây quanh, Thích Đề Hoàn Nhân làm thượng thủ. Vị Tỳ Kheo Ni đó, vì họ nói pháp môn tên là Nhàm lìa môn, khiến cho họ chẳng còn tham chấp năm dục, mà có thể nhàm lìa, cầu đạo vô thượng. Cõi trời nầy là trời Đao Lợi, là tầng trời thứ hai của dục giới, cung điện trên đỉnh núi Tu Di, Thiên chủ tên là Thích Đề Hoàn Nhân ở chính giữa. Ông ta có 32 Thiên thần, ở bốn phương của cõi trời Đao Lợi, cộng thành là 33 cung trời. Cõi trời nầy một ngày một đêm, thì ở nhân gian là một trăm năm.
Hoặc kiến xứ tọa, bách quang minh long Vương, Nan-đà long Vương, ưu-ba nan-đà long Vương, Ma na tư long Vương, y La Bạt-nan-đà long Vương, A na bà đạt đa long Vương đẳng long tử, Long nữ sở cọng vi nhiễu, sa già la long Vương nhi vi thượng thủ; thử Tì-kheo-ni vi thuyết Pháp môn, danh: Phật thần thông cảnh giới quang minh trang nghiêm.
Chỗ thời chúng hội là chư Long Tử Long Nử, Bá Quang Minh Long Vương, Nan Ðà Long Vương, Ưu Ba Nan Ðà Long Vương, Ma Na Tư Long Vương, Y La Bạt Nan Ðà Long Vương, A Na Bà Ðạt Ða Long Vương v.v… Ta Già Long Vương làm thượng thủ. Tỳ Kheo Ni này vì họ mà nói pháp môn tên là Phật thần thông cảnh giới quang minh trang nghiêm.
Giảng: Hoặc thấy nơi toà sư tử của Tỳ Kheo Ni Sư Tử Tần Thân ngồi, có Long tử và Long nữ của Bá Quang Minh Long Vương, Nan Đà (phước) Long Vương, Ưu Ba Nan Đà (thiện phước) Long Vương, Ma Na Tư (đại thân) Long Vương, Y La Bạt Nan Đà Long Vương, A Na Bà Đạt Đa (vô nhiệt) Long Vương .v.v… cùng nhau vây quanh, Ta Già La (hải long vương) Long Vương làm thượng thủ. Vị Tỳ Kheo Ni đó, vì họ nói pháp môn tên là Phật thần thông cảnh giới quang minh trang nghiêm.
Hoặc kiến xứ tọa, chư dạ xoa chúng sở cọng vi nhiễu, Tì sa môn Thiên Vương nhi vi thượng thủ; thử Tì-kheo-ni vi thuyết Pháp môn, danh: cứu hộ chúng sanh tạng.
Chỗ thời chúng hội là thần Dạ Xoa, Tỳ Sa Môn Thiên Vương làm thượng thủ. Tỳ Kheo Ni này vì họ mà nói pháp môn tên là Cứu hộ chúng sanh tạng.
Giảng: Hoặc thấy nơi toà sư tử của Tỳ Kheo Ni Sư Tử Tần Thân ngồi, có các chúng Dạ Xoa cùng nhau vây quanh, Tỳ Sa Môn Thiên Vương làm thượng thủ. Vị Tỳ Kheo Ni đó, vì họ nói pháp môn tên là Cứu hộ chúng sinh tạng, vì tánh Dạ Xoa thích phi không đoạt vật, nên vị Tỳ Kheo Ni khuyên họ phải hộ trì chúng sinh.
Hoặc kiến xứ tọa, Càn thát bà chúng sở cọng vi nhiễu, trì quốc càn thát bà vương nhi vi thượng thủ; thử Tì-kheo-ni vi thuyết Pháp môn, danh: vô tận hỉ.
Chỗ thời chúng hội là thần Càn Thát Bà, Trì Quốc Thiên Vương làm thượng thủ. Tỳ Kheo Ni này vì họ mà nói pháp môn tên là Vô tận hỷ.
Giảng: Hoặc thấy nơi toà sư tử của Tỳ Kheo Ni Sư Tử Tần Thân ngồi, có chúng Càn Thát Bà cùng nhau vây quanh, Trì Quốc Càn Thát Bà Vương làm thượng thủ. Vị Tỳ Kheo Ni đó vì họ nói pháp môn tên là Vô tận hỉ, vì chúng Càn Thát Bà hay tấu nhạc, để làm vui cho trời Đế Thích.
Hoặc kiến xứ tọa, A-tu-la chúng sở cọng vi nhiễu, La-hầu A-tu-la Vương nhi vi thượng thủ; thử Tì-kheo-ni vi thuyết Pháp môn, danh: tốc tật trang nghiêm Pháp giới trí môn
Chỗ thời chúng hội là A Tu La, La Hầu A Tu La Vương làm thượng thủ. Tỳ Kheo Ni này vì họ mà nói pháp môn tên là Tốc tật trang nghiêm pháp giới trí môn.
Giảng: Hoặc thấy nơi toà sư tử của Tỳ Kheo Ni Sư Tử Tần Thân ngồi, có chúng A Tu La cùng nhau vây quanh, Ma Hầu La Già Vương làm thượng thủ. Vị Tỳ Kheo Ni đó, vì họ nói pháp môn tên là Mau chóng trang nghiêm pháp giới trí môn, vì A Tu La lấy thiện huyễn làm trang nghiêm.
Hoặc kiến xứ tọa, Ca Lâu La chúng sở cọng vi nhiễu, tiệp trì Ca Lâu La Vương nhi vi thượng thủ; thử Tì-kheo-ni vi thuyết Pháp môn, danh: phố động chư hữu hải.
Chỗ thời chúng hội là Ca Lâu La, Thiệp Trì Ca Lâu La Vương làm thượng thủ. Tỳ Kheo Ni này vì họ mà nói pháp môn tên là Bố động chư hữu hải.
Giảng: Hoặc thấy nơi toà sư tử của Tỳ Kheo Ni Sư Tử Tần Thân ngồi, có chúng Ca Lâu La cùng nhau vây quanh, Thiệp Trì Ca Lâu La Vương làm thượng thủ. Vị Tỳ Kheo Ni đó, vì họ nói pháp môn tên là Bố động chư hữu hải. Ca Lâu La là chim đại bàng cánh vàng, khi xoè cánh ra thì sẽ chấn động biển cả, nên vị Tỳ Kheo Ni nầy giáo hoá chúng bố động chư hữu hải, để cứu chúng sinh sắp chết chìm.
Hoặc kiến xứ tọa, khẩn-na-la chúng sở cọng vi nhiễu, Đại thụ khẩn na la Vương nhi vi thượng thủ; thử Tì-kheo-ni vi thuyết Pháp môn, danh: Phật hạnh quang minh.
Chỗ thời chúng hội là Khẩn Na La, Ðại Thọ Khẩn Na La Vương làm thượng thủ. Tỳ Kheo Ni này vì họ mà nói pháp môn tên là Phật hạnh quang minh.
Giảng: Hoặc thấy nơi toà sư tử của Tỳ Kheo Ni Sư Tử Tần Thân ngồi, có chúng Khẩn Na La cùng nhau vây quanh, Đại Thụ Khẩn Na La Vương làm thượng thủ. Vị Tỳ Kheo Ni đó, vì họ nói pháp môn tên là Phật hạnh quang minh. Khẩn Na La là Thần ca, nên dùng Phật hạnh quang minh để phá chấp của họ, hơn nữa trên đầu của chúng có một cái sừng, nên cũng gọi là nghi Thần. Vị Tỳ Kheo Ni đó, khiến cho họ đồng Phật giác, lìa nghi quang minh.
Hoặc kiến xứ tọa, Ma hầu la già chúng sở cọng vi nhiễu, am la lâm Ma hầu la già Vương nhi vi thượng thủ; thử Tì-kheo-ni vi thuyết Pháp môn, danh: sanh Phật hoan hỉ tâm.
Chỗ thời chúng hội là Ma Hầu La Già, Am La Lâm Ma Hầu La Già Vương làm thượng thủ.Tỳ Kheo Ni này vì họ mà nói pháp môn tên là Sanh Phật hoan hỷ tâm.
Giảng: Hoặc thấy nơi toà sư tử của Tỳ Kheo Ni Sư Tử Tần Thân ngồi, có chúng Ma Hầu La Già (đại mãng xà) cùng nhau vây quanh, Am La Lâm Ma Hầu La Già Vương làm thượng thủ. Vị Tỳ Kheo Ni đó, vì họ nói pháp môn tên là Sinh tâm Phật hoan hỉ. Vì Ma Hầu La Già nhiều sân độc, nên vị Tỳ Kheo Ni đó, đối trị mao bệnh của họ, mà nói diệu pháp.
Hoặc kiến xứ tọa, vô lượng bách thiên nam tử, nữ nhân sở cọng vi nhiễu; thử Tì-kheo-ni vi thuyết Pháp môn, danh: thù thắng hạnh.
Chỗ thời chúng hội là vô lượng nam tử nữ nhơn. Tỳ Kheo Ni này vì họ mà nói pháp môn tên là Thù thắng hạnh.
Giảng: Hoặc thấy nơi toà sư tử của Tỳ Kheo Ni Sư Tử Tần Thân ngồi, có vô lượng trăm ngàn người nam và nữ cùng nhau vây quanh. Vị Tỳ Kheo Ni đó, vì họ nói pháp môn tên là Hạnh thù thắng, vì con người phần nhiều làm hạnh bất thiện, tuy có hạnh nhân nghĩa, cũng chẳng thù thắng, nên vị Tỳ Kheo Ni đó, khiến cho họ khởi thắng hạnh xuất thế.
Hoặc kiến xứ tọa, chư La-sát chúng sở cọng vi nhiễu, thường đoạt tinh khí Đại thọ La-sát Vương nhi vi thượng thủ; thử Tì-kheo-ni vi thuyết Pháp môn, danh: phát sanh bi mẫn tâm
Chỗ thời chúng hội là La Sát, Thường Ðoạt Tinh Khí Ðại Thọ La Sát Vương làm thượng thủ. Tỳ Kheo Ni này vì họ mà nói pháp môn tên là Phát sanh bi mẫn tâm.
Giảng: Hoặc thấy nơi toà sư tử của Tỳ Kheo Ni Sư Tử Tần Thân ngồi, có các chúng La Sát cùng nhau vây quanh, Thường Đoạt Tinh Khí Đại Thụ La Sát Vương làm thượng thủ. Vị Tỳ Kheo Ni đó, vì họ nói pháp môn tên là Phát sinh tâm bi mẫn. La Sát chẳng phải người, tánh tình thích hút đoạt tinh khí của con người, tàn hại chúng sinh. Hiện tại vị Tỳ Kheo Ni đó, giáo hoá chúng phải phát tâm thương xót, để cứu hộ chúng sinh.
Hiện tại chúng ta đang đả thiền thất tại Vạn Phật Thành (1979), mỗi người phải đem tinh thần chân chánh ra để ngồi thiền, đừng làm việc phô trương. Dụng công là bổn phận của mình, chứ chẳng phải là làm để cho người khác xem, phải chuyên tâm để đả thiền thất. Mỗi người hãy bớt nói chuyện, niệm Phật nhiều hơn, nam nữ đừng tụ lại một chỗ trong thiền đường, càng không thể nói chuyện bậy bạ, việc cần nói cũng nói, việc không cần nói cũng nói. Quy cụ của chúng ta vốn nghiêm khắc, các vị phải hiểu, tôi cũng không cần nói quy cụ gì. Đã nhiều năm rồi, nên biết lúc đả thiền thất, không thể mượn đề mục để nói, không có việc gì thì không nên nói, nếu việc không quan trọng thì càng không nên nói.
Hôm nay đả thiền thất tôi vốn không muốn nói khai thị, nhưng vì quý vị cứ nói chuyện với nhau quá nhiều, cũng không nên nói chuyện ở trong nhà cầu. Quý vị không nói chuyện ở tại Chánh điện, mà vào trong nhà cầu nói chuyện. Nhà cầu hôi thúi như vậy, có chuyện gì mà nói, lời nói ra cũng chẳng sạch sẽ. Chẳng những ở trong nhà cầu không nên nói chuyện, mà ở trai đường cũng không nên nói chuyện. Không nên nói tôi đã xuất gia được nhiều năm rồi, hoặc tôi là Tỳ Kheo, hoặc Tỳ Kheo Ni, thì có thể không giữ quy cụ. Quý vị làm Tỳ Kheo, hoặc Tỳ Kheo Ni không giữ quy cụ, thì thử hỏi những người khác làm sao họ giữ quy cụ? Quý vị tư cách càng lâu năm, thì càng phải giữ quy cụ, không thể nói tôi tư cách đã lâu năm, so với người mới xuất gia, muốn làm thế nào cũng được, đây là hoàn toàn sai lầm! Tư cách càng lâu năm, thì càng phải tôn trọng chính mình, đừng làm cho người khác khởi vọng tưởng, động ý niệm. Khi quý vị nói chuyện vô ích, trong khi người khác đang một lòng niệm Phật, nhìn thấy bạn nói chuyện thì họ cũng khởi vọng tưởng rằng : “Họ có thể nói chuyện, thì tôi cũng có thể nói chuyện”. Như vậy thì cùng nhau nói chuyện, mỗi người phải tự mình tôn trọng chính mình.
Chúng ta đến Vạn Phật Thành là để muốn tu đạo, chẳng phải đến đây để lãng phí thời gian, để chờ chết. Nếu chúng ta chẳng dụng công thì đến Vạn Phật Thành để làm gì? Chúng ta đến thế gian nầy để làm cái việc không tốt chăng? Thế gian muôn màu muôn vẻ, bạn có thể tuỳ tiện nhảy đầm, tuỳ tiện uống rượu, xem kịch, muốn làm gì thì làm. Tại sao phải chạy đến chỗ nầy để chịu khổ băng thiên tuyết địa? Đến chỗ nầy, nếu còn chẳng dụng công tu hành, thì thật là có lỗi với chính mình, cũng có lỗi với tổ tiên, sư trưởng, và Phật. Bạn đến đạo tràng, tại sao lại muốn giải đãi? chẳng dụng công? cũng có thể làm chướng ngại người khác dụng công. Cho nên điểm nầy, quý vị phải đặc biệt chú ý! Bất cứ sáng, tối, nếu không có việc gì cần thiết, thì đừng tuỳ tiện chạy lung tung, đừng chạy đến chỗ kia nhìn, đừng chạy đến chỗ nọ chơi. Nếu bạn có công việc thì có thể đi ra ngoài làm, nếu chẳng có công việc, thì không nên tuỳ tiện đi ra bên ngoài.
Lần nầy tôi đến, cảm giác rất vui, vui cái gì? Tôi nhìn thấy các con đường đều rất sạch sẽ, bụi bặm rác rến tích tụ đã mấy năm rồi, đều đã quét hốt sạch sẽ, cho nên tôi rất vui. Chúng ta luôn luôn giữ gìn cho sạch sẽ, thì đó mới là điều quan trọng. Đừng để đường xá dơ bẩn, thân mình cũng đừng để dơ bẩn, trong tâm cũng đừng để dơ bẩn, đầy bụng rồi đều là quỷ, cứ khởi vọng tưởng, đây là không thể được. Bên ngoài chúng ta quét dọn sạch sẽ, y phục mặc trên thân, nhất định phải sạch sẽ, phải có vệ sinh. Trước kia tôi thường mặc áo dày, áo dày đó tuy chưa từng giặt qua, nhưng cũng chẳng dơ mấy. Thời gian mặc rất lâu, chẳng những chẳng hôi, mà còn có mùi thơm. Nếu các vị mặc đồ chỉ có mùi thơm, chẳng có mùi hôi, thì không cần giặt. Áo dày đó, tôi mặc lúc còn thủ hiếu bên mộ của mẹ tôi, thủ hiếu xong thì áo đó cũng thành màu đen. Về sau rách từng chút, từng chút thì vá lại, tổng cộng vá hơn ba lớp. Khi tôi rời khỏi Chùa Nam Hoa, thì quên mang theo. Tôi cứ nghĩ rằng tương lai sẽ trở lại Chùa Nam Hoa, cuối cùng cũng không trở về được, tôi cũng không biết áo đó có còn hay không?
Cho nên chúng ta mỗi người, đều phải giữ gìn thân tâm của mình cho thanh tịnh. Trong tâm thanh tịnh, thì trên thân cũng thanh tịnh, nếu nhìn bên ngoài có chỗ nào không sạch, thì đừng ngại phát tâm lau giặt cho sạch, đừng có gì cũng chẳng màng, chỉ cần mỗi ngày sống là được, phải có trách nhiệm một chút.
Hoặc kiến xứ tọa, tín lạc Thanh văn thừa chúng sanh sở cọng vi nhiễu; thử Tì-kheo-ni vi thuyết Pháp môn, danh: thắng trí quang minh
Chỗ thời chúng hội là chúng sanh tin ưa Thanh Văn thừa. Tỳ Kheo Ni này vì họ mà nói pháp môn tên là Thắng trí quang minh.
Giảng: Hoặc thấy nơi toà sư tử của Tỳ Kheo Ni Sư Tử Tần Thân ngồi, có chúng sinh tin ưa Thanh Văn thừa (quán pháp bốn đế mà ngộ đạo) cùng nhau vây quanh. Vị Tỳ Kheo Ni đó, vì họ diễn nói pháp môn tên là Thắng trí quang minh, vì trí Thanh Văn nhỏ hẹp, nên diễn nói thắng trí quang minh.
Hoặc kiến xứ tọa, tín lạc duyên giác thừa chúng sanh sở cọng vi nhiễu; thử Tì-kheo-ni vi thuyết Pháp môn, danh: Phật công đức quảng đại quang minh.
Chỗ thời chúng hội là chúng sanh tin ưa Duyên Giác thừa. Tỳ Kheo Ni này vì họ mà nói pháp môn tên là Phật công đức quảng đại quang minh.
Giảng: Hoặc thấy nơi toà sư tử của Tỳ Kheo Ni Sư Tử Tần Thân ngồi, có chúng sinh tin ưa Duyên Giác thừa (quán pháp 12 nhân duyên mà ngộ đạo) cùng nhau vây quanh. Vị Tỳ Kheo Ni đó, vì họ mà diễn nói pháp môn tên là Công đức quang minh Phật rộng lớn.
Hoặc kiến xứ tọa, tín lạc Đại-Thừa chúng sanh sở cọng vi nhiễu; thử Tì-kheo-ni vi thuyết Pháp môn, danh: Phổ môn tam muội trí quang minh môn.
Chỗ thời chúng hội là những chúng sanh tin ưa Ðại thừa. Tỳ Kheo Ni này vì họ mà nói pháp môn tên là Phổ môn tam muội trí quang minh môn.
Giảng: Hoặc thấy nơi toà sư tử của Tỳ Kheo Ni Sư Tử Tần Thân ngồi, có chúng sinh tin ưa đại thừa cùng nhau vây quanh. Vị Tỳ Kheo Ni đó, vì họ nói pháp môn tên là Phổ môn tam muội trí quang minh môn.
Hoặc kiến xứ tọa, sơ phát tâm chư Bồ-tát sở cọng vi nhiễu; thử Tì-kheo-ni vi thuyết Pháp môn, danh: nhất thiết Phật nguyện tụ.
Chỗ thời chúng hội là sơ phát tâm Bồ Tát. Tỳ Kheo Ni này vì họ mà nói pháp môn tên là Nhứt thiết Phật nguyện tụ.
Giảng: Hoặc thấy nơi toà sư tử của Tỳ Kheo Ni Sư Tử Tần Thân ngồi, có các Bồ Tát sơ phát tâm cùng nhau vây quanh. Vị Tỳ Kheo Ni đó, vì họ nói pháp môn tên là Tất cả Phật nguyện tụ.
Hoặc kiến xứ tọa, đệ nhị địa chư Bồ-tát sở cọng vi nhiễu; thử Tì-kheo-ni vi thuyết Pháp môn, danh: ly cấu luân.
Chỗ thời chúng hội là đệ nhị địa Bồ Tát. Tỳ Kheo Ni này vì họ mà nói pháp môn tên là Ly cấu luân.
Giảng: Hoặc thấy nơi toà sư tử của Tỳ Kheo Ni Sư Tử Tần Thân ngồi, có các Bồ Tát địa thứ hai (Ly Cấu địa) cùng nhau vây quanh. Vị Tỳ Kheo Ni đó, vì họ nói pháp môn tên là Ly cấu luân, khiến cho họ trì giới thanh tịnh, xa lìa lỗi lầm ba nghiệp.
Hoặc kiến xứ tọa, đệ tam địa chư Bồ-tát sở cọng vi nhiễu; thử Tì-kheo-ni vi thuyết Pháp môn, danh: tịch tĩnh trang nghiêm.
Chỗ thời chúng hội là đệ tam địa Bồ Tát. Tỳ Kheo Ni này vì họ mà nói pháp môn tên là Tịch tịnh trang nghiêm.
Giảng: Hoặc thấy nơi toà sư tử của Tỳ Kheo Ni Sư Tử Tần Thân ngồi, có các Bồ Tát địa thứ ba (Phát Quang địa) cùng nhau vây quanh. Vị Tỳ Kheo Ni đó vì họ nói pháp môn tên là Tịch tĩnh trang nghiêm, vì Bồ Tát địa thứ ba tu tám thiền.
Hoặc kiến xứ tọa, đệ tứ địa chư Bồ-tát sở cọng vi nhiễu; thử Tì-kheo-ni vi thuyết Pháp môn, danh: sanh nhất thiết trí cảnh giới.
Chỗ thời chúng hội là đệ tứ địa Bồ Tát. Tỳ Kheo Ni này vì họ mà nói pháp môn tên là Sanh nhứt thiết trí cảnh giới.
Giảng: Hoặc thấy nơi toà sư tử của Tỳ Kheo Ni Sư Tử Tần Thân ngồi, có các Bồ Tát địa thứ tư (Diệm Huệ địa) cùng nhau vây quanh. Vị Tỳ Kheo Ni đó, vì họ nói pháp môn tên là Cảnh giới sinh nhất thiết trí, vì Bồ Tát địa thứ tư đã chứng được vô hành vô sanh hạnh huệ quang.
Hoặc kiến xứ tọa, đệ ngũ địa chư Bồ-tát sở cọng vi nhiễu; thử Tì-kheo-ni vi thuyết Pháp môn, danh: hương khí tạng.
Chỗ thời chúng hội là đệ ngũ địa Bồ Tát. Tỳ Kheo Ni này vì họ mà nói pháp môn tên là Diệu hoa tạng.
Giảng: Hoặc thấy nơi toà sư tử của Tỳ Kheo Ni Sư Tử Tần Thân ngồi, có các Bồ Tát địa thứ năm (Nan Thắng địa) cùng nhau vây quanh. Vị Tỳ Kheo Ni đó, vì họ nói pháp môn tên là Diệu hoa tạng. Diệu hoa tạng là chỉ mười thứ tâm tịnh bình đẳng. Trong Tấn Kinh có nói rằng: “Tịnh tâm hoa tạng”. Hoa tạng là chỉ dùng chân tục cả hai để tu, đối với nan đắc thắng, vì nhân duyên hàm tàng.
Hoặc kiến xứ tọa, đệ lục địa chư Bồ-tát sở cọng vi nhiễu; thử Tì-kheo-ni vi thuyết Pháp môn, danh: Tỳ Lô Giá Na tạng.
Chỗ thời chúng hội là đệ lục địa Bồ Tát. Tỳ Kheo Ni này vì họ mà nói pháp môn tên là Tỳ Lô Giá Na Tạng.
Giảng: Hoặc thấy nơi toà sư tử của Tỳ Kheo Ni Sư Tử Tần Thân ngồi, có các Bồ Tát địa thứ sáu (Hiện Tiền địa) cùng nhau vây quanh. Vị Tỳ Kheo Ni đó, vì họ nói pháp môn tên là Tỳ Lô Giá Na tạng. Vì Bồ Tát địa thứ sáu đầy đủ trí huệ phương tiện, nên trí huệ hiện tiền, chiếu khắp tất cả. Tỳ Lô Giá Na, dịch là quang minh chiếu khắp.
Hoặc kiến xứ tọa, đệ thất địa chư Bồ-tát sở cọng vi nhiễu; thử Tì-kheo-ni vi thuyết Pháp môn, danh: phổ trang nghiêm địa.
Chỗ thời chúng hội là đệ thất địa Bồ Tát. Tỳ Kheo Ni này vì họ mà nói pháp môn tên là Phổ trang nghiêm địa.
Giảng: Hoặc thấy nơi toà sư tử của Tỳ Kheo Ni Sư Tử Tần Thân ngồi, có các Bồ Tát địa thứ bảy (Viễn Hành địa) cùng nhau vây quanh. Vị Tỳ Kheo Ni đó, vì họ nói pháp môn tên là Phổ trang nghiêm địa. Vì Bồ Tát địa thứ bảy tu hạnh thù thắng, và tu tập tất cả bồ đề phần.
Hoặc kiến xứ tọa, đệ bát địa chư Bồ-tát sở cọng vi nhiễu; thử Tì-kheo-ni vi thuyết Pháp môn, danh: biến Pháp giới cảnh giới thân.
Chỗ thời chúng hội là đệ bát địa Bồ Tát, Tỳ Kheo Ni này vì họ mà nói pháp môn tên là Biến pháp giới cảnh giới thân.
Giảng: Hoặc thấy nơi toà sư tử của Tỳ Kheo Ni Sư Tử Tần Thân ngồi, có các Bồ Tát địa thứ tám (Bất Động địa) cùng nhau vây quanh. Vị Tỳ Kheo Ni đó, vì họ nói pháp môn tên là Cảnh giới thân khắp pháp giới. Vì Bồ Tát địa thứ tám chứng được vô sanh pháp nhẫn, nơi ba thế gian đều tự tại, đắc được nhẫn như không, mà niệm niệm nhập vào dòng pháp.
Hoặc kiến xứ tọa, đệ cửu địa chư Bồ-tát sở cọng vi nhiễu; thử Tì-kheo-ni vi thuyết Pháp môn, danh: vô sở đắc lực trang nghiêm.
Chỗ thời chùng hội là đệ cửu địa Bồ Tát. Tỳ Kheo Ni này vì họ mà nói pháp môn tên là Vô sở đắc lực trang nghiêm.
Giảng: Hoặc thấy nơi toà sư tử của Tỳ Kheo Ni Sư Tử Tần Thân ngồi, có các Bồ Tát địa thứ chín (Thiện Huệ địa) cùng nhau vây quanh. Vị Tỳ Kheo Ni đó vì họ nói pháp môn tên là Không chỗ đắc được sức trang nghiêm. Vì Bồ Tát địa thứ chín dùng vô sở đắc mà làm phương tiện, lực độ tăng khắp, đầy đủ biện tài, diễn nói tất cả pháp làm trang nghiêm.
Hoặc kiến xứ tọa, đệ Thập Địa chư Bồ-tát sở cọng vi nhiễu; thử Tì-kheo-ni vi thuyết Pháp môn, danh: vô ngại luân.
Chỗ thời chúng hội là đệ thập địa Bồ Tát.Tỳ Kheo Ni này vì họ mà nói pháp môn tên là Vô ngại luân.
Giảng: Hoặc thấy nơi toà sư tử của Tỳ Kheo Ni Sư Tử Tần Thân ngồi, có các Bồ Tát địa thứ mười (Pháp Vân địa) cùng nhau vây quanh. Vị Tỳ Kheo Ni đó, vì họ nói pháp môn tên là Vô ngại luân. Vì Bồ Tát địa thứ mười đã phá tan mười chướng, mười độ đã viên mãn, ba kỳ đã tròn đầy.
Hoặc kiến xứ tọa, chấp Kim Cương thần sở cọng vi nhiễu; thử Tì-kheo-ni vi thuyết Pháp môn, danh: Kim Cương trí Na-la-diên trang nghiêm.
Chỗ thời chúng hội là Chấp Kim Cang Thần.Tỳ Kheo Ni này vì họ mà nói pháp môn tên là Kim cang trí na la diên trang nghiêm.
Giảng: Hoặc thấy nơi toà sư tử của Tỳ Kheo Ni Sư Tử Tần Thân ngồi, có Chấp Kim Cang Thần cùng nhau vây quanh. Vị Tỳ Kheo Ni đó vì họ nói pháp môn tên là Kim cang trí na la diên trang nghiêm. Đây là chỉ Đẳng Giác Bồ Tát, kim cang là ví dụ định lực, có thể tán hoại trần tập, tức nói về Đẳng Giác, vì biểu minh nầy chẳng nhỏ.
Thiện tài đồng tử kiến như thị đẳng nhất thiết chư thú sở hữu chúng sanh dĩ thành thục giả, dĩ điều phục giả, kham vi Pháp khí, giai nhập thử viên, các ư tọa hạ vi nhiễu nhi tọa. Sư tử tần thân Tì-kheo-ni, tùy kỳ dục giải thắng liệt sái biệt nhi vi thuyết Pháp, lệnh ư A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề đắc Bất-thoái-chuyển.
Thiện Tài thấy khắp nơi, các loài, các chúng sanh đã thành thục, đã điều phục, kham làm pháp khí đều vào trong vườn này quây quần ngồi quanh dưới bửu tọa. Sư Tử Tần Thân Tỳ Kheo Ni tùy theo trí giải thắng liệt sai khác của họ mà vì họ thuyết pháp cho họ chẳng thối chuyển nơi Vô thượng Bồ đề .
Giảng: Thiện Tài đồng tử nhìn thấy hết thảy chúng sinh tất cả các cõi như vậy. những người đã thành thục, những người đã điều phục, bậc long tượng kham làm pháp khí, các Ngài đều vào vườn nầy. Ai nấy đều quây quần dưới toà sư tử mà ngồi. Tỳ Kheo Ni Sư Tử Tần Thân tuỳ căn tánh hiểu biết cao thấp khác nhau, mà vì họ diễn nói diệu pháp, khiến cho họ đắc được bất thối chuyển nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Hà dĩ cố? thử Tì-kheo-ni nhập phổ nhãn xả đắc Bát-nhã Ba-la-mật môn, thuyết nhất thiết Phật Pháp Bát-nhã Ba-la-mật môn, Pháp giới sái biệt Bát-nhã Ba-la-mật môn, tán hoại nhất thiết chướng ngại luân Bát-nhã Ba La mật môn, sanh nhất thiết chúng sanh thiện tâm Bát-nhã Ba-la-mật môn, thù thắng trang nghiêm Bát-nhã Ba-la-mật môn, vô ngại chân thật tạng Bát-nhã Ba La mật môn, Pháp giới viên mãn Bát-nhã Ba-la-mật môn, tâm tạng Bát-nhã Ba-la-mật môn, phổ xuất sanh tạng Bát-nhã Ba-la-mật môn, thử thập Bát-nhã Ba-la-mật môn vi thủ, nhập như thị đẳng vô số bách vạn Bát-nhã Ba-la-mật môn.
Tại sao vây ? Vì Tỳ Kheo Ni này nhập phổ nhãn xả, chứng được môn Bát Nhã Ba la mật, môn Bát Nhã Ba la mật diễn nói tất cả Phật pháp, môn Bát Nhã Ba la mật pháp giới sai biệt, môn Bát Nhã Ba la mật tán hoại tất cả chướng ngại, môn Bát Nhã Ba la mật sanh thiện tâm cho tất cả chúng sanh, môn Bát Nhã Ba la mật thù thắng trang nghiêm, môn Bát Nhã Ba la mật vô ngại chân thật tạng, môn Bát Nhã Ba la mật pháp giới viên mãn, môn Bát Nhã Ba la mật tâm tạng, môn Bát Nhã Ba la mật khắp xuất sanh tạng. Trong mười môn này, đầu tiên là Bát Nhã Ba la mật môn. Tỳ Kheo Ni này nhập vô số trăm ngàn môn Bát Nhã Ba la mật như vậy.
Giảng: Tại sao như vậy? Vì Tỳ Kheo Ni nầy nhập vào môn Bát Nhã Ba La Mật phổ nhãn xả được, nên có thể diễn nói môn Bát Nhã Ba La Mật tất cả Phật pháp. Môn Bát Nhã Ba La Mật pháp giới khác nhau. Môn Bát Nhã Ba La Mật tán hoại tất cả chướng ngại luân (đây là chỉ nghiệp chướng luân chuyển không ngừng nghỉ). Môn Bát Nhã Ba La Mật sinh tất cả chúng sinh thiện tâm. Môn Bát Nhã Ba La Mật thù thắng trang nghiêm. Môn Bát Nhã Ba La Mật chân thật tạng vô ngại. Môn Bát Nhã Ba La Mật pháp giới viên mãn. Môn Bát Nhã Ba La Mật tâm tạng. Môn Bát Nhã Ba La Mật phổ xuất sinh tạng. Ngài dùng mười môn Bát Nhã Ba La Mật nầy làm đầu, mà chứng nhập vào vô số trăm vạn môn Bát Nhã Ba La Mật như vậy.
Thử nhật quang viên trung sở hữu Bồ Tát cập chư chúng sanh, giai thị sư tử tần thân Tì-kheo-ni sơ khuyến phát tâm, thọ trì chánh pháp, tư tánh tu tập, ư A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề đắc Bất-thoái-chuyển.
Tất cả Bồ Tát và chúng sanh trong vườn Nhựt Quang đều là do Sư Tử Tần Thân Tỳ Kheo Ni khuyên phát tâm thọ trì chánh pháp tư duy tu tập, đều được bất thối chuyển nơi đạo Vô thượng Chánh giác.
Giảng: Hết thảy Bồ Tát và tất cả chúng sinh ở trong vườn Nhựt Quang đó, đều do Tỳ Kheo Ni Sư Tử Tần Thân khuyên họ ban đầu phát tâm, thọ trì chánh pháp, suy gẫm tu tập, được bất thối chuyển nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Thời, Thiện tài đồng tử kiến sư tử tần thân Tì-kheo-ni như thị viên lâm, như thị sàng tọa, như thị kinh hành, như thị chúng hội, như thị thần lực, như thị biện tài, phục văn bất khả tư nghị Pháp môn, quảng đại pháp vân nhuận trạch kỳ tâm, tiện sanh thị niệm: ngã đương hữu nhiễu vô lượng bách thiên tạp.
Thiện Tài đồng tử thấy khu vườn như vậy, bửu tòa như vậy, kinh hành như vậy, chúng hội như vậy, thần lực như vậy, biện tài như vậy. Lại nghe bất tư nghì pháp môn, pháp vân quảng đại nhuần thấm tâm mình, bèn nghĩ rằng tôi sẽ cung kính hữu nhiễu Tỳ Kheo Ni này vô lượng trăm ngàn vòng.
Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử thấy vườn rừng như vậy, giường toà như vậy, kinh hành như vậy, chúng hội như vậy, thần lực như vậy, biện tài như vậy của Tỳ Kheo Ni Sư Tử Tần Thân. Lại nghe được pháp môn không thể nghĩ bàn, được mây pháp rộng lớn thấm nhuần nơi tâm Ngài, bèn sinh ra ý niệm rằng: “Tôi nên đi nhiễu bên phải trăm ngàn vòng, để biểu thị sự tôn kính của mình”.
Thời, Tì-kheo-ni phóng đại quang minh, phổ chiếu kỳ viên chúng hội trang nghiêm.
Lúc đó Sư Tử Tần Thân Tỳ Kheo Ni phóng đại quang minh chiếu khắp khu vườn Nhựt Quang và chúng hội.
Giảng: Lúc đó, Tỳ Kheo Ni Sư Tử Tần Thân phóng đại quang minh, chiếu khắp khu vườn Nhựt Quang đó và đạo tràng chúng hội trang nghiêm.
Thiện tài đồng tử tức tự kiến thân, cập viên lâm trung sở hữu chúng thọ, giai tất hữu nhiễu thử Tì-kheo-ni, Kinh ư vô lượng bách thiên vạn tạp.
Thiện Tài liền thấy thân mình cùng tất cả bửu thọ trong vườn đều đồng thời hữu nhiễu Tỳ Kheo Ni này cả vô lượng trăm ngàn muôn vòng.
Giảng: Thiện Tài đồng tử lập tức thấy thân mình và tất cả các cây trong vườn rừng đó, thảy đều đi nhiễu bên phải Tỳ Kheo Ni đó, trải qua vô lượng trăm ngàn vạn vòng.
Vi nhiễu tất dĩ, Thiện tài đồng tử hợp chưởng nhi trụ, bạch ngôn: Thánh Giả! ngã dĩ tiên phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm, nhi vị tri Bồ Tát vân hà học Bồ Tát hạnh? Vân hà tu Bồ Tát đạo?
Hữu nhiễu xong, Thiện Tài chắp tay thưa rằng: Bạch đức Thánh ! Con đã phát tâm Vô thượng Bồ đề mà chưa biết Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, thế nào tu Bồ Tát đạo ?
Giảng: Đi nhiễu xong rồi, Thiện Tài đồng tử chắp tay đứng, mà bạch rằng: “Bạch đức Thánh! Con trước đã phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác rồi, mà chưa biết Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh? Làm thế nào tu Bồ Tát đạo?
Ngã văn Thánh giả thiện năng dụ hối, nguyện vi ngã thuyết!
Con nghe đức Thánh khéo dạy bảo, xin chỉ dạy cho.
Giảng: Con được trưởng giả Vô Thượng Thắng giới thiệu Ngài cho con, nói đức Thánh Ngài khéo chỉ dạy tất cả chúng sinh, xin hãy vì con mà diễn nói”.
Tì-kheo-ni ngôn: Thiện nam tử! ngã đắc giải thoát, danh: thành tựu nhất thiết trí.
Tỳ Kheo Ni nói: Này thiện nam tử ! Ta được môn giải thoát tên là thành tựu nhất thiết trí.
Giảng: Tỳ Kheo Ni Sư Tử Tần Thân nói : “Thiện nam tử! Ta đắc được giải thoát tên là Thành tựu nhất thiết trí”.
Thiện Tài ngôn: Thánh Giả! hà cố danh vi: thành tựu nhất thiết trí?
Thiện Tài thưa: Bạch đức Thánh ! Cớ sao gọi là thành tựu nhất thiết trí.
Giảng: Thiện Tài đồng tử nói: “Bạch đức Thánh! Tại sao tên là Thành tựu nhất thiết trí”?
Tì-kheo-ni ngôn: Thiện nam tử! thử trí quang minh, ư nhất niệm trung phổ chiếu tam thế nhất thiết chư pháp.
Tỳ Kheo Ni nói: Này thiện nam tử ! Quang minh của trí này, trong một niệm chiếu khắp tất cả tam thế Phật pháp.
Giảng: Tỳ Kheo Ni Sư Tử Tần Thân nói: “Thiện nam tử! Trí quang minh nầy, ở trong một niệm, chiếu khắp tất cả các pháp ba đời quá khứ hiện tại và vị lai”.
Thiện Tài bạch ngôn: Thánh Giả! thử trí quang minh cảnh giới vân hà?
Thiện Tài thưa: Bạch đức Thánh ! Quang minh của trí này, cảnh giới thế nào ?
Giảng: Thiện Tài đồng tử bạch rằng: “Đức Thánh! Cảnh giới trí quang minh nầy như thế nào”?
Tì-kheo-ni ngôn: Thiện nam tử! ngã nhập thử trí quang minh môn, đắc xuất sanh nhất thiết pháp tam muội Vương; dĩ thử tam muội cố, đắc ý sanh thân, vãng thập phương nhất thiết thế giới Đâu suất thiên cung nhất sanh sở hệ Bồ-tát sở, nhất nhất Bồ Tát tiền hiện bất khả thuyết Phật sát vi trần số thân, nhất nhất thân tác bất khả thuyết Phật sát vi trần số cúng dường.
Tỳ Kheo Ni nói: Này thiện nam tử ! Ta nhập môn trí quang minh này được xuất sanh nhất thiết pháp tam muội vương. Do tam muội này nên được ý sanh thân qua đến mười phương tất cả thế giới, chỗ của nhất sanh bổ xứ Bồ Tát nơi cung Ðâu Suất. Trước mỗi Bồ Tát, ta hiện bất khả thuyết Phật sát vi trần số thân. Mỗi thân dâng bất khả thuyết Phật sát vi trần số đồ cúng dường.
Giảng: Tỳ Kheo Ni Sư Tử Tần Thân nói: “Thiện nam tử! Khi ta nhập vào môn trí quang minh nầy, thì được sinh ra vua tam muội tất cả pháp. Nhờ tam muội nầy, nên được tuỳ ý mà sinh thân, đi đến tất cả thế giới trong mười phương chỗ nhứt sinh sở hệ Bồ Tát ở cung trời Đâu Suất. Ở trước mỗi vị Bồ Tát, ta đều hiện ra thân nhiều như số hạt bụi Bất khả thuyết cõi Phật. Mỗi mỗi thân, ta đều cúng dường nhiều như số hạt bụi Bất khả thuyết cõi Phật.
Sở vị: hiện Thiên Vương thân nãi chí nhân Vương thân, chấp Trì hoa vân, chấp trì man vân, thiêu hương, đồ hương cập dĩ mạt hương, y phục, anh lạc, tràng phan, tăng cái, bảo võng, bảo trướng, Bảo Tạng, bảo đăng, như thị nhất thiết chư trang nghiêm cụ, ngã giai chấp trì nhi dĩ cúng dường.
Như là hiện thân Thiên Vương nhẫn đến thân Nhơn Vương, cầm hoa vân, hương vân, y phục, anh lạc, bửu phan, bửu cái, bửu võng, bửu trướng, bửu tạng, bửu đăng, dâng lên cúng dường.
Giảng: Như là: Hiện thân Thiên Vương, cho đến thân ông vua, ta đều cầm mây hoa, cầm mây tràng hoa, hương đốt, hương thoa, hương bột, y phục, chuỗi ngọc, tràng phan, lụa lọng, lưới báu, phan báu, tạng báu, đèn báu, tất cả đủ thứ các đồ trang nghiêm như vậy, ta đều cầm dâng lên cúng dường chư Phật Bồ Tát.
Như ư trụ Đâu Suất cung Bồ Tát sở, như thị ư trụ thai, xuất thai, tại gia, xuất gia, vãng nghệ đạo tràng, thành đẳng chánh giác, chuyển chánh Pháp luân, nhập ư Niết-Bàn, như thị trung gian, hoặc trụ Thiên cung, hoặc trụ long cung, nãi chí hoặc phục trụ ư nhân cung, ư bỉ nhất nhất chư Như Lai sở, ngã giai như thị nhi vi cúng dường.
Như ở chỗ Bồ Tát nơi Ðâu Suất Thiên cung, nơi Bồ Tát trụ thai, xuất thai, tại gia, xuất gia, đến đạo tràng, thành chánh giác, chuyển pháp luân, nhập Niết bàn. Trong khoảng thời gian đó, hoặc ở Thiên cung, hoặc ở Long cung, nhẫn đến ở Nhơn cung, nơi mỗi mỗi đức Như Lai, ta đều cúng dường như vậy.
Giảng: Như chỗ Bồ Tát ở cung trời Đâu Suất, như vậy nơi Bồ Tát trụ thai, xuất thai, tại gia, xuất gia, đi đến đạo tràng, thành Đẳng Chánh Giác, chuyển bánh xe pháp, vào Niết Bàn, trong những thời gian như vậy. Hoặc các Ngài trụ ở cung Trời, hoặc trụ ở Long cung, cho đến hoặc lại trụ ở cung vua. Ở tại mỗi chỗ đạo tràng các Như Lai đó, ta đều dâng lên đủ thứ đồ cúng dường như vậy.
Nhược hữu chúng sanh, tri ngã như thị cúng dường Phật giả, giai ư A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề đắc Bất-thoái-chuyển
Nếu có chúng sanh nào biết ta cúng dường chư Phật như vậy, thời đều được chẳng thối chuyển nơi Vô thượng Bồ đề.
Giảng: Nếu có chúng sinh nào biết ta cúng dường chư Phật như vậy, thì họ đều được không thối chuyển nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Nhược hữu chúng sanh lai chí ngã sở, ngã tức vi thuyết Bát-nhã Ba-la-mật.
Nếu chúng sanh nào đến chỗ của ta, thời ta vì họ mà giảng nói Bát Nhã Ba la mật.
Giảng: Nếu có chúng sinh nào đi đến chỗ ta, thì ta liền vì họ diễn nói pháp môn Bát Nhã Ba La Mật”.
Thiện nam tử! ngã kiến nhất thiết chúng sanh, bất phân biệt chúng sanh tướng, trí nhãn minh kiến cố; thính nhất thiết ngữ ngôn, bất phân biệt ngữ ngôn tướng, tâm vô sở trước cố; kiến nhất thiết Như Lai, bất phân biệt Như Lai tướng, liễu đạt Pháp thân cố; trụ trì nhất thiết pháp luân, bất phân biệt Pháp luân tướng, ngộ pháp tự tánh cố; nhất niệm biến tri nhất thiết pháp, bất phân biệt chư Pháp tướng, tri Pháp như huyễn cố.
Này thiện nam tử ! Ta thấy tất cả chúng sanh, vì trí nhãn thấy rõ nên ta chẳng phân biệt chúng sanh tướng. Nghe tất cả ngữ ngôn, vì tâm không chấp trước nên ta chẳng phân biệt ngữ ngôn tướng.Thấy tất cả Như Lai, vì thấu rõ pháp thân nên ta chẳng phân biệt Như Lai tướng. Trụ trì tất cả pháp luân, vì ngộ pháp tự tánh nên ta chẳng phân biệt pháp luân tướng. Một niệm biết khắp tất cả pháp, vì biết pháp như huyễn nên ta chẳng phân biệt pháp tướng.
Giảng: Thiện nam tử! Ta thấy tất cả chúng sinh, mà chẳng phân biệt tướng chúng sinh, vì mắt trí huệ của ta nhìn thấy rõ. Ta nghe được tất cả lời nói, mà chẳng phân biệt tướng lời nói, vì tâm không chấp trước. Ta thấy tất cả Như Lai, mà chẳng phân biệt tướng Như Lai, vì ta thấu rõ thông đạt pháp thân Phật, đó là “Phật Phật đều giống nhau”. Ta trụ trì tất cả pháp luân, mà ta chẳng phân biệt tướng pháp luân, vì ta tỏ ngộ tất cả pháp đều từ tự tại sinh ra. Một niệm ta biết khắp tất cả pháp, mà chẳng phân biệt tướng các pháp, vì ta biết tất cả pháp hữu vi như mộng huyễn bọt bóng, như sương cũng như điện.
Thiện nam tử! ngã duy tri thử thành tựu nhất thiết trí giải thoát.
Này thiện nam tử ! Ta chỉ biết môn giải thoát thành tựu nhất thiết trí này.
Giảng: Thiện nam tử! Ta chỉ biết môn giải thoát thành tựu nhất thiết trí nầy.
Như chư Bồ-Tát Ma-ha-tát, tâm vô phân biệt, phổ tri chư Pháp, nhất thân đoan tọa, sung mãn Pháp giới, ư tự thân trung Hiện-Nhất-Thiết sát, nhất niệm tất nghệ nhất thiết Phật sở, ư tự thân nội phổ hiện nhất thiết chư Phật thần lực, nhất mao biến cử bất khả ngôn thuyết chư Phật thế giới, ư kỳ tự thân nhất mao khổng trung hiện bất khả thuyết thế giới thành hoại, ư nhất niệm trung dữ bất khả thuyết bất khả thuyết chúng sanh đồng trụ, ư nhất niệm trung nhập bất khả thuyết bất khả thuyết nhất thiết chư kiếp
Như chư đại Bồ Tát tâm vô phân biệt biết khắp các pháp, một thân ngồi yên mà đầy khắp cả pháp giới. Ở trong tự thân hiện tất cả cõi. Khoảng một niệm đến khắp tất cả chỗ Phật. Ở trong tự thân hiện khắp tất cả thần lực của chư Phật. Dùng một sợi lông đỡ khắp bất khả thuyết thế giới lên. Trong một lỗ lông nơi tự thân hiện bất khả thuyết thế giới thành hoại. Trong khoảng một niệm cùng với bất khả thuyết chúng sanh đồng ở. Trong khoảng một niệm nhập bất khả thuyết bất khả thuyết kiếp.
Giảng: Như các đại Bồ Tát, tâm các Ngài không phân biệt, biết khắp tất cả các pháp, một thân ngồi ngay thẳng, đầy khắp pháp giới. Trong thân của các Ngài, thị hiện tất cả cõi. Trong một niệm đều đi đến đạo tràng của tất cả chư Phật. Ở trong thân các Ngài, thị hiện khắp sức thần thông của tất cả chư Phật. Đầu sợi lông nâng khắp bất khả thuyết thế giới chư Phật. Trong một lỗ chân lông trên của thân các Ngài, thị hiện bất khả thuyết thế giới thành tựu và huỷ hoại. Ở trong một niệm, các Ngài cùng ở với bất khả thuyết bất khả thuyết chúng sinh. Ở trong một niệm, các Ngài vào bất khả thuyết bất khả thuyết tất cả các kiếp.
Nhi ngã vân hà năng tri năng thuyết bỉ công đức hạnh?
Ta thế nào biết được nói được công đức hạnh đó.
Giảng: Mà ta làm sao nói được những hạnh công đức đó? Ngươi hãy đi thỉnh cầu một vị thiện tri thức khác.
Thiện nam tử! ư thử Nam phương, hữu nhất quốc độ, danh viết: hiểm nan; thử quốc hữu thành, danh: bảo trang nghiêm; trung hữu nữ nhân, danh: Bà-tu-mật-đa.
Này thiện nam tử ! Phương Nam đây có một nước tên là Hiểm Nạn. Nước đó có thành tên là Bửu Trang Nghiêm. Trong thành ấy có một nử nhơn tên là Bà Tu Mật Ða.
Giảng: Thiện nam tử! Ở hướng nam nầy, có một nước tên là Hiểm Nạn. Nước đó có thành tên là Bảo Trang Nghiêm. Trong đó có người nữ tên Bà Tu Mật Đa.
Nhữ nghệ bỉ vấn: Bồ Tát vân hà học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo?
Ngươi đến đó hỏi Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, thế nào tu Bồ Tát đạo ?
Giảng: Ngươi hãy đến đó hỏi: “Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh? Làm thế nào tu Bồ Tát đạo”?
Thời, Thiện tài đồng tử đảnh lễ kỳ túc, nhiễu vô số tạp, ân cần chiêm ngưỡng, từ thoái nhi khứ.
Thiện Tài đồng tử đảnh lễ chân Sư Tử Tần Thân Tỳ Kheo Ni hữu nhiễu vô số vòng, ân cần chiêm ngưỡng từ tạ mà đi.
Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử bèn đảnh lễ vị Tỳ Kheo Ni Sư Tử Tần Thân, rồi đi nhiễu quanh vô lượng vòng, ân cần chiêm ngưỡng, từ tạ mà đi về hướng nam tìm cầu vị thiện tri thức khác.
=================
QUYỂN SÁU MƯƠI TÁM
— o0o —
25. NGƯỜI NỮ BÀ TU MẬT ĐA
PHÓ THÁC THỨ 25 – HỒI HƯỚNG VÔ TẬN CÔNG ĐỨC TẠNG
Nhĩ thời, Thiện tài đồng tử, Đại trí quang minh chiếu khải kỳ tâm, tư tánh quan sát kiến chư pháp tánh, đắc liễu tri nhất thiết ngôn âm đà-la-ni môn, đắc thọ trì nhất thiết pháp luân đà-la-ni môn, đắc dữ nhất thiết chúng sanh tác sở quy y đại bi lực, đắc quan sát nhất thiết pháp nghĩa lý quang minh môn, đắc sung mãn Pháp giới thanh tịnh nguyện, đắc phổ chiếu thập phương nhất thiết pháp trí quang minh, đắc biến trang nghiêm nhất thiết thế giới tự tại lực, đắc phổ phát khởi nhất thiết Bồ Tát nghiệp viên mãn nguyện. Tiệm thứ du hành, chí hiểm nan quốc bảo trang nghiêm thành, xứ xứ tầm mịch Bà-tu-mật-đa nữ.
Thiện Tài được đại trí quang minh soi mở tâm, tư duy quán sát thấy tánh của các pháp. Ðược môn đà la ni rõ biết tất cả ngôn âm. Ðược môn đà la ni thọ trì tất cả pháp luân. Ðược sức đại bi làm chỗ quy y cho tất cả chúng sanh. Ðược môn quang minh quán sát nghĩa lý của tất cả pháp. Ðược thanh tịnh nguyện sung mãn pháp giới. Ðược trí quang minh chiếu khắp mười phương tất cả pháp. Ðược sức tự tại khắp trang nhgiêm tất cả thế giới. Ðược viên mãn nguyện khắp phát khởi tất cả Bồ Tát hạnh. Thiện Tài đi lần đến nước Hiễm Nạn, thành Bửu Trang Nghiêm tìm Bà Tu Mật Ða nữ.
Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử được đại trí huệ quang minh của Tỳ Kheo Ni Sư Tử Tần Thân chiếu soi đến mà khai mở tâm, Ngài suy gẫm quán sát thấy được thật tánh của tất cả các pháp. Đắc được môn Đà la ni Biết rõ tất cả lời nói âm thanh. Đắc được môn Đà la ni Thọ trì tất cả pháp luân. Đắc được sức đại bi làm chỗ quy y của tất cả chúng sinh. Đắc được môn quang minh quán sát nghĩa lý tất cả các pháp. Đắc được nguyện thanh tịnh đầy khắp pháp giới. Đắc được trí huệ quang minh chiếu khắp tất cả pháp mười phương. Đắc được sức tự tại khắp trang nghiêm tất cả thế giới. Đắc được nguyện viên mãn khắp phát khởi tất cả Bồ Tát nghiệp.
Thiện Tài đồng tử từ từ đi du hành về hướng nam, đến thành Bảo Trang Nghiêm, nước Hiểm Nạn rồi, bèn đi khắp nơi tìm cầu người nữ Bà Tu Mật Đa.
Đây là phó thác thứ năm hồi hướng vô tận công đức tạng. Thiện tri thức tên là Bà Tu Mật Đa, dịch là “Thế hữu”, hoặc là “Thiên hữu”. Biểu thị Ngài tuỳ thuận thế sự trời người, mà phương tiện giáo hoá. Nước tên là Hiểm Nạn, biểu thị nghịch hạnh phi đạo, bậc dưới không thể làm được. Thành tên là Bảo Trang Nghiêm, biểu thị nghịch tuỳ thế hành, sinh ra vô tận công đức tạng.
Thành trung hữu nhân bất tri thử nữ công đức trí tuệ, tác như thị niệm:
Trong thành, những người chẳng biết công đức trí huệ của cô gái ấy nên nghĩ rằng:
Giảng: Có người ở trong thành đó, không biết công đức trí huệ của người nữ Bà Tu Mật Đa đó, cho nên họ nghĩ như vầy:
Kim thử Đồng tử, chư căn tịch tĩnh, trí tuệ minh liễu, bất mê bất loạn, đế thị nhất tầm, vô hữu bì giải, vô sở thủ trước, mục thị bất thuấn, tâm vô sở động, thậm thâm khoan quảng, do như đại hải; bất ưng ư thử Bà-tu-mật nữ, hữu tham ái tâm, hữu điên đảo tâm, sanh ư tịnh tưởng, sanh ư dục tưởng; bất ưng vi thử nữ sắc sở nhiếp.
Ðồng tử này thân căn tịch tịnh, trí huệ sáng suốt chẳng mê chẳng loạn, nhìn kỹ một tầm không lười mỏi, không chấp trước, mắt ngó chẳng nháy, tâm không táng động sâu rộng như đại hải. Người như vậy chẳng nên ở nơi cô gái Bà Ta Mật Ða mà có tâm tham ái, có tâm điên đảo, sanh tưởng là sạch, sanh tưởng ái dục. Chẳng nên bị nữ sắc cám dỗ.
Giảng: “Nay vị đồng tử nầy, xem ra rất là chân thật, các căn đều tịch tĩnh, trí huệ rất thông minh sáng suốt, không mê hoặc, không cuồng loạn, mắt có thể quán sát nhìn rõ một tầm, cũng không lười mỏi giải đãi, không có sự chấp trước, mắt nhìn không nháy, tâm không bị vật bên ngoài làm giao động, trí huệ rất là thâm sâu rộng lớn như biển cả. Không nên có tâm tham ái người nữ Bà Tu Mật Đa nầy, hoặc có tư tưởng điên đảo, nên sinh tư tưởng thanh tịnh, đừng sinh vọng tưởng dục niệm, đối với người nữ Bà Tu Mật Đa nầy, không nên bị sắc người nữ nầy nhiếp trì.
Thử Đồng tử giả, bất hành ma hạnh, bất nhập ma cảnh, bất một dục nê, bất bị ma phược, bất ưng tác xứ dĩ năng bất tác, hữu hà đẳng ý nhi cầu thử nữ?
Ðồng tử này chẳng làm hạnh ma, chẳng nhập ma cảnh, chẳng chìm nước bùn ái dục, chẳng bị ma trói, chỗ chẳng nên làm đã có thể chẳng làm. Sao lại có ý gì mà tìm cô gái này.
Giảng: Vị đồng tử nầy, nhất định chẳng tu hành hạnh của ma tu, cho nên không có ý niệm dâm dục, chẳng vào cảnh giới ma, chẳng bị chìm trong bùn lầy ái dục, chẳng bị quyến thuộc của ma trói buộc, không nên đến đây tìm người nữ nầy, đã có thể không làm việc dâm dục, vậy đến đây tìm người nữ Bà Tu Mật Đa nầy, có ý nghĩa gì”? Những người nầy đều hoài nghi, nên nói như thế. Đây là biểu thị kiến thức nông cạn mà hoài nghi, nên nghịch hạnh khó biết được.
Kỳ trung hữu nhân tiên tri thử nữ hữu trí tuệ giả, cáo Thiện Tài ngôn: Thiện tai thiện tai! Thiện nam tử! nhữ kim nãi năng thôi cầu tầm mịch Bà-tu-mật nữ, nhữ dĩ hoạch đắc quảng đại thiện lợi.
Có người đã biết công đức trí huệ của cô gái này bèn bảo Thiện Tài rằng: Lành thay, lành thay ! Nay thiện nam tử có thể tìm Bà Tu Mật Ða nữ. Thế là đã được lợi lành rộng lớn.
Giảng: Nhưng ở trong thành đó, có người trước đã biết người nữ nầy có đại trí huệ, là một vị Thánh nhân. Những người đó bảo Thiện Tài đồng tử rằng: “Lành thay! Lành thay! Thiện nam tử! Nay ngươi có thể đi tìm cầu người nữ Bà Tu Mật Đa nầy, là ngươi đã đắc được lợi lành rộng lớn.
Thiện nam tử! nhữ ưng quyết định cầu Phật quả vị, quyết định dục vi nhất thiết chúng sanh tác sở y hỗ, quyết định dục bạt nhất thiết chúng sanh tham ái độc tiễn, quyết định dục phá nhất thiết chúng sanh ư nữ sắc trung sở hữu tịnh tưởng.
Thiện nam tử nên quyết định cầu quả vì Phật, quyết định vì chúng sanh mà làm chỗ y tựa, quyết định muốn nhổ mũi tên độc tham ái cho tất cả chúng sanh, quyết định muốn phá những ý tưởng sạch sẽ đối với nữ sắc của tất cả chúng sanh.
Giảng: Thiện nam tử! Ngươi nên quyết định cầu quả vị Phật, quyết định muốn làm chỗ nương tựa của tất cả chúng sinh, quyết định muốn nhổ mũi tên độc tham ái của tất cả chúng sinh, quyết định muốn phá tan hết thảy tư tưởng tịnh về sắc đẹp nữ giới của tất cả chúng sinh. Chúng sinh điên đảo vô minh, cho rằng sắc đẹp là một vật thanh tịnh thù thắng, đây cũng như đem đồng nát luyện muốn thành vàng, họ nhiễm khổ làm vui, mà chẳng biết tham cầu sắc đẹp sẽ dẫn đến đoạ lạc vào vực sâu thống khổ. Ngươi nên trợ giúp họ nhìn thấu buông bỏ, xa lìa ái dục, trở về nguồn cội”.
Thiện nam tử! Bà-tu-mật nữ ư thử thành nội thị chân chi Bắc tự trạch trung trụ.
Này thiện nam tử ! Bà Tu Mật Ða nữ hiện ở nhà của cô tại chợ Bắc trong thành này.
Giảng: “Thiện nam tử! Người nữ Bà Tu Mật Đa đang ở trong nhà của cô ta, phía bắc chợ trong thành nầy”.
Chợ là biểu thị sự ồn ào phức tạp, phía bắc là chủ đối với diệt, nhà tức là rốt ráo không tịch. Biểu thị dục hạnh của người nữ Bà Tu Mật Đa nầy, nơi ồn ào thường vắng lặng, nên ở phía bắc của chợ. Đây là Bồ Tát đại quyền thị hiện, dùng trí huệ và từ bi thâm sâu rộng lớn, dùng pháp môn phương tiện khéo léo để giáo hoá chúng sinh, khiến cho họ bỏ trần hợp giác.
Thiện tài đồng tử văn thị ngữ dĩ, hoan hỉ dũng dược, vãng nghệ kỳ môn.
Thiện Tài vui mừng hớn hở đến cổng nhà Bà Tu Mật Ða nữ.
Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử nghe lời đó rồi, rất hoan hỉ vui mừng, lập tức đi đến nhà của người nữ Bà Tu Mật Đa.
Kiến kỳ trụ trạch quảng bác nghiêm lệ, bảo tường, bảo thụ cập dĩ bảo tiệm, nhất nhất giai hữu thập trọng vi nhiễu; kỳ bảo tiệm trung, hương thủy doanh mãn, kim sa bố địa, chư Thiên bảo hoa, ưu-bát-la hoa, ba-đầu-ma hoa, câu vật đầu hoa, phân đà lợi hoa biến phước thủy thượng
Thấy nhà này rộng rãi nghiêm lệ, tường báu, cây báu, hào báu, mỗi mỗi bao quanh mười lớp. Trong hào báu đầy đủ nước thơm, cát vàng trải đáy, những bửu hoa, bông sen bốn màu xanh, vàng, đỏ, trắng đua nở trên mặt nước.
Giảng: Thiện Tài đồng tử thấy nhà của người nữ Bà Tu Mật Đa, rất rộng lớn trang nghiêm đẹp đẽ. Mỗi thứ tường báu, cây báu, hào báu, bốn phía đều bao quanh mười lớp. Trong hào báu đó, nước thơm tràn đầy, cát vàng rải dưới đáy ao. Có các hoa báu của chư Thiên, hoa sen xanh (ưu bát la), hoa sen hồng (ba đầu ma), hoa sen vàng (câu vật đầu), hoa sen trắng (phân đà lợi), đều phủ khắp trên mặt nước.
Cung điện, lâu các xứ xứ phần bố, môn thát, song dũ tướng vọng gian liệt, hàm thí võng đạc, tất trí phiên tràng, vô lượng trân kì dĩ vi nghiêm sức; lưu ly vi địa, chúng bảo gian thác, thiêu chư trầm thủy, đồ dĩ chiên đàn, huyền chúng bảo linh, phong động thành âm, tán chư thiên hoa biến bố kỳ địa; chủng chủng nghiêm lệ bất khả xưng thuyết, chư trân bảo tạng kỳ số bách thiên, thập Đại viên lâm dĩ vi trang nghiêm.
Cung điện lâu các đều tráng lệ. Cửa nẻo thành hàng nối nhau. Ðều treo lạc, treo lưới đều treo phan, treo tràng. Vô lượng trân kỳ dùng để nghiêm sức. Ðất bằng lưu ly xen lẫn những châu báu. Xông trầm thủy, thoa chiên đàn. Treo những linh báu, gió rung trỗi nhạc. Rải những thiên hoa trải khắp mặt đất. Những sự trang nghiêm tráng lệ không thể tả hết. Những kho tàng trân bửu đến số trăm ngàn. Mười khu vườn lớn rất mực trang nghiêm.
Giảng: Cung điện lầu cát, rải rát các nơi, cửa lớn cửa sổ nối nhau thẳng hàng rất đẹp, đều treo lưới báu và treo lạc báu, nơi nơi đều treo tràng phan, có vô lượng thứ trân kỳ, dùng để nghiêm sức. Lưu ly làm đất, xen lẫn các báu. Lại đốt hương trầm thuỷ, thoa hương chiên đàn, treo các linh báu, gió động thành tiếng, vang lên âm nhạc. Lại rải các hoa trời đầy khắp mặt đất, đủ thứ nghiêm đẹp, không thể tả hết được. Các trân bảo tạng, số lượng nhiều hàng trăm ngàn. Có mười vườn rừng lớn dùng để trang nghiêm. Đây là biểu thị công đức đầy đủ của người nữ Bà Tu Mật Đa, nên hiển bày sự trang nghiêm tốt đẹp.
Nhĩ thời, Thiện Tài kiến thử nữ nhân, nhan mạo đoan nghiêm, sắc tướng viên mãn, bì phu kim sắc, mục phát cám thanh, bất trường bất đoản, bất thô bất tế, dục giới nhân, Thiên vô năng dữ bỉ; âm thanh mỹ diệu siêu chư phạm thế, nhất thiết chúng sanh sái biệt ngôn âm, tất giai cụ túc, vô bất giải liễu; thâm đạt tự nghĩa, thiện xảo đàm thuyết, đắc như huyễn trí, nhập phương tiện môn
Thiện Tài thấy Bà Tu Mật Ða nữ nhan mạo đoan nghiêm, sắc tướng viên mãn. Da màu chân kim. Tóc và mắt màu xanh biếc, chẳng dài ngắn, chẳng thô tế, tất cả hàng nhơn thiên cõi Dục không ai sánh bằng. Tiếng nói thanh tốt hơn trời Phạm thế. Tất cả ngôn âm sai biệt của tất cả chúng sanh đều biết đều hiểu.
Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử thấy người nữ Bà Tu Mật Đa, dung mạo rất đoan nghiêm đẹp đẽ, sắc tướng viên mãn, da màu vàng ròng. Mắt và tóc xanh biếc, không dài, không ngắn, không thô, không tế. Trời và người trong cõi dục, không ai sánh bằng. Âm thanh của cô ta hay đẹp, một khi chúng sinh nghe được âm thanh của cô ta, thì liền phát bồ đề tâm. Âm thanh của cô ta thậm chí còn hơn âm thanh của tất cả Phạm Thiên. Tất cả chúng sinh, đủ thứ tiếng nói khác nhau, cô ta thảy đều hoàn toàn đầy đủ, thảy đều thông đạt hiểu rõ. Cô ta minh bạch thấu đạt chữ nghĩa thâm sâu, học vấn uyên bác viên mãn. Cô ta khéo luận đàm, nghệ thuật diễn nói rất khéo léo. Cô ta đắc được trí huệ như huyễn, vào pháp môn phương tiện.
Chúng bảo anh lạc cập chư nghiêm cụ trang nghiêm kỳ thân, như ý ma-ni dĩ vi ảo quán nhi quan kỳ thủ
Trên thân của nữ nhơn này trang sức bằng những chuỗi ngọc báu và những đồ trang nghiêm. Ðầu đội mão như ý bửu châu.
Giảng: Có các chuỗi báu và các đồ nghiêm sức, để trang nghiêm thân cô ta. Như ý ma ni, dùng làm mão báu, để đội trên đầu của cô ta.
Phục hưũ vô lượng quyến thuộc vi nhiễu, giai cộng thiện căn đồng nhất hạnh nguyện, phước đức đại tạng cụ túc vô tận.
Lại có vô lượng quyến thuộc vây quanh, đều đồng thiện căn, đều đồng hạnh nguyện, phước đức vô tận.
Giảng: Lại có vô lượng quyến thuộc vây quanh cô ta, họ đều cùng trồng căn lành, đồng phát một hạnh nguyện. Họ đều đầy đủ phước đức đại bảo tạng vô tận.
Thời, Bà-tu-mật-đa nữ tùng kỳ thân xuất quảng đại quang minh, phổ chiếu trạch trung nhất thiết cung điện; ngộ tư quang giả, thân đắc thanh lương.
Bà Tu Mật Ða nữ, từ trên thân phóng quang minh quảng đại chiếu khắp cả nhà, tất cả cung điện. Người được ánh sáng này chiếu đến thời thân được mát mẻ.
Giảng: Lúc đó, từ trong thân của người nữ Bà Tu Mật Đa phóng ra quang minh rộng lớn, chiếu khắp tất cả cung điện trong nhà. Phàm là ai gặp được quang minh đó, thì thân được mát mẻ thư thái.
Nhĩ thời, Thiện Tài tiền nghệ kỳ sở, đảnh lễ kỳ túc, hợp chưởng nhi trụ, bạch ngôn: Thánh Giả! ngã dĩ tiên phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm, nhi vị tri Bồ Tát vân hà học Bồ Tát hạnh? vân hà tu Bồ Tát đạo?
Thiện Tài đến đảnh lễ chân Bà Tu Mật Ða nữ, chắp tay cung kính thưa rằng: Bạch đức Thanh ! Con đã phát tâm Vô thượng Bồ đề mà chưa biết thế nào học Bồ Tát hạnh, thế nào tu Bồ Tát đạo ?
Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đi đồng tử đi đến trước mặt người nữ Bà Tu Mật Đa đảnh lễ, sau đó đứng chắp tay bạch rằng: “Đức Thánh! Con trước đã phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, mà chưa biết Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh? Làm thế nào tu Bồ Tát đạo?
Ngã văn Thánh Giả thiện năng giáo hối, nguyện vi ngã thuyết!
Con nghe đức Thánh khéo dạy bảo, xin chỉ dạy cho.
Giảng: Con nghe Tỳ Kheo Ni Sư Tử Tần Thân giới thiệu Ngài cho con, nói đức Thánh Ngài khéo chỉ dạy tất cả chúng sinh, xin hãy vì con mà diễn nói”.
Bỉ tức cáo ngôn: Thiện nam tử! ngã đắc Bồ Tát giải thoát, danh: ly tham dục tế, tùy kỳ dục lạc nhi vi hiện thân.
Bà Tu Mật Ða nữ nói: Này thiện nam tử ! Ta được Bồ Tát giải thoát môn tên là “Ly tham dục tế”, tùy chỗ sở thích của chúng sanh mà hiện thân.
Giảng: Người nữ Bà Tu Mật Đa liền bảo Thiện Tài đồng tử rằng: “Thiện nam tử! Ta đắc được giải thoát Bồ Tát, tên là Lìa bờ mé tham dục”. Lìa bờ mé tham dục, phàm phu nhiễm dục. Nhị thừa thấy dục có thể lìa. Bồ Tát chẳng đoạn tham dục, mà được giải thoát. Trí rõ tánh không, giác ngộ rõ dục tức là đạo. Giống như nhiễm mà chẳng nhiễm, mới là rốt ráo lìa bờ mé tham dục.
Nhược Thiên kiến ngã, ngã vi Thiên nữ, hình mạo, quang minh thù thắng vô bỉ; như thị nãi chí nhân, phi nhân đẳng nhi kiến ngã giả, ngã tức vi hiện nhân, phi nhân nữ, tùy kỳ lạc dục giai lệnh đắc kiến.
Nếu người trời thấy ta, thì ta làm Thiên nữ, hình tướng quang minh, thù thắng không ai sánh bằng. Như vậy cho đến người, chẳng phải người, mà thấy ta, thì ta lập tức vì họ hiện thân người, chẳng phải người, tuỳ sự ưa muốn của họ, đều khiến cho họ được thấy.
Giảng: Người nữ Bà Tu Mật Đa lại nói: “Ta tuỳ thuận sự ưa muốn của chúng sinh, mà ta vì họ hiện thân. Nếu người trời thấy ta, thì ta thị hiện làm Thiên nữ, hình tướng dung mạo rất quang minh, thù thắng không ai sánh bằng. Như vậy cho đến người, chẳng phải người, mà thấy ta, thì ta lập tức vì họ hiện thân người, chẳng phải người, tuỳ thuận sự ưa muốn của họ, đều khiến cho họ được thấy”.
Nhược hữu chúng sanh dục ý sở triền lai nghệ ngã sở, ngã vi thuyết Pháp, bỉ văn Pháp dĩ, tức ly tham dục, đắc Bồ Tát Vô Trước cảnh giới tam muội
Nếu có người vì lòng dục mà đến tìm ta, gặp ta thuyết pháp, họ nghe pháp rồi thời hết tham dục được Bồ Tát vô trước cảnh giới tam muội.
Giảng: Nếu có chúng sinh, vì ý niệm dâm dục ràng buộc, đi đến chỗ đạo tràng của ta, thì ta vì họ nói pháp. Họ nghe pháp rồi, thì liền lìa khỏi tâm tham và dục niệm, đắc được tam muội cảnh giới Bồ Tát không chấp trước.
Nhược hữu chúng sanh tạm kiến ư ngã, tức ly tham dục, đắc Bồ Tát hoan hỉ tam muội
Nếu có chúng sanh tạm thấy ta thời lìa tham dục mà được Bồ Tát hoan hỷ tam muội.
Giảng: Nếu có chúng sinh, tạm thời thấy được ta, thì liền lìa khỏi tâm tham và dục niệm, đắc được tam muội Bồ Tát hoan hỉ.
Nhược hữu chúng sanh tạm dữ ngã ngữ, tức ly tham dục, đắc Bồ Tát vô ngại âm thanh tam muội
Nếu có chúng sanh tạm cùng ta nói chuyện, thời lìa tham dục mà được Bồ Tát vô ngại âm thanh tam muội.
Giảng: Nếu có chúng sinh, tạm thời nói chuyện với ta, thì liền lìa khỏi tâm tham và dục niệm, đắc được tam muội âm thanh Bồ Tát vô ngại.
Nhược hữu chúng sanh tạm chấp ngã thủ, tức ly tham dục, đắc Bồ Tát biến vãng nhất thiết Phật sát tam muội
Nếu có chúng sanh tạm cầm tay ta thời lìa tham dục mà được Bồ Tát tam muội đến khắp tất cả cõi Phật.
Giảng: Nếu có chúng sinh, tạm thời cầm tay ta, thì liền lìa khỏi tâm tham và dục niệm, đắc được tam muội Bồ Tát đến khắp tất cả cõi Phật.
Nhược hữu chúng sanh tạm thăng ngã tọa, tức ly tham dục, đắc Bồ Tát giải thoát quang minh tam muội
Nếu có chúng sanh tạm lên trên chỗ ngồi của ta, thời lìa tham dục mà được Bồ Tát giải thoát quang minh tam muội.
Giảng: Nếu có chúng sinh, tạm thời lên toà ngồi của ta, thì liền lìa khỏi tâm tham và dục niệm, đắc được tam muội Bồ Tát giải thoát quang minh.
Nhược hữu chúng sanh tạm quán ư ngã, tức ly tham dục, đắc Bồ Tát tịch tĩnh trang nghiêm tam muội
Nếu có chúng sanh tạm nhìn ta, thời lìa tham dục mà được Bồ Tát tịch tịnh trang nghiêm tam muội.
Giảng: Nếu có chúng sinh, tạm thời nhìn ta, thì liền lìa khỏi tâm tham và dục niệm, đắc được tam muội Bồ Tát tịch tĩnh trang nghiêm.
Nhược hữu chúng sanh kiến ngã tần thân, tức ly tham dục, đắc Bồ Tát tồi phục ngoại đạo tam muội
Nếu có chúng sanh thấy ta, thời lìa tham dục mà được Bồ Tát tồi phục ngoại đạo tam muội.
Giảng: Nếu có chúng sinh, thấy thân ta, thì liền lìa khỏi tâm tham và dục niệm, đắc được tam muội Bồ Tát hàng phục ngoại đạo.
Nhược hữu chúng sanh kiến ngã mục thuấn, tức ly tham dục, đắc Bồ Tát Phật cảnh giới quang minh tam muội
Nếu có chúng sanh thấy mắt nháy, thời lìa tham dục mà được Bồ Tát Phật cảnh giới quang minh tam muội.
Giảng: Nếu có chúng sinh, thấy mắt ta nháy, thì liền lìa khỏi tâm tham dục niệm, đắc được tam muội Bồ Tát Phật cảnh giới quang minh.
Nhược hữu chúng sanh bão trì ư ngã, tức ly tham dục, đắc Bồ Tát nhiếp nhất thiết chúng sanh hằng bất xả ly tam muội
Nếu có chúng sanh ôm ta, thời lìa tham dục mà được Bồ Tát tam muội nhiếp tất cả chúng sanh hằng chẳng bỏ lìa.
Giảng: Nếu có chúng sinh, ôm giữ ta, thì liền lìa khỏi tâm tham và dục niệm, đắc được tam muội Bồ Tát nhiếp thọ tất cả chúng sinh luôn không xả lìa”.
Cho nên cùng một sự việc, mà bậc Thánh nhân làm thì lìa khỏi tham dục, còn phàm phu đối với tình hình như vậy thì sinh ra tham dục. Cùng một người mà bậc Thánh nhân và phàm phu khác nhau. Cho nên người nữ Bà Tu Mật Đa tuy là người nữ, nhưng bất cứ là người nam, hoặc là người nữ nào, ôm giữ cô ta, thì chẳng những không còn tham dục, mà ngược lại đoạn dục.
Nhược hữu chúng sanh táp ngã thần vẫn, tức ly tham dục, đắc Bồ Tát tăng trưởng nhất thiết chúng sanh phước đức tạng tam muội.
Nếu chúng sanh nút môi ta, thời lìa tham dục mà được Bồ Tát tam muội tăng trưởng phước đức tạng cho tất cả chúng sanh.
Giảng: Cô ta nói tiếp: “Nếu có chúng sinh, hôn môi ta, thì liền lìa khỏi tham dục, đắc được tam muội Bồ Tát tăng trưởng tất cả chúng sinh phước đức tạng.
Phàm hữu chúng sanh thân cận ư ngã, nhất thiết giai đắc trụ ly tham tế, nhập Bồ Tát nhất thiết trí địa hiện tiền vô ngại giải thoát.
Phàm có chúng sanh nào thân cận ta, tất cả đều lìa tham dục mà được nhập Bồ Tát nhứt thiết trí hiện tiền giải thoát vô ngại.
Giảng: Phàm có chúng sinh nào, gần gũi ta, thì tất cả đều trụ được lìa khỏi bờ mé tham dục, nhập vào bậc Bồ Tát nhất thiết trí, hiện tiền giải thoát vô ngại”.
Thiện Tài bạch ngôn: Thánh Giả chủng hà thiện căn, tu hà phước nghiệp, nhi đắc thành tựu như thị tự tại?
Thiện Tài thưa: Ðức Thánh gieo căm lành gì, tu phước nghiệp gì mà được thành tựu tự tại như vậy ?
Giảng: Thiện Tài đồng tử hỏi: “Bạch đức Thánh! Ngài trồng căn lành gì, tu phước nghiệp gì, mà được thành tựu tự tại như vậy”?
Đáp ngôn: Thiện nam tử! ngã niệm quá khứ, hữu Phật xuất thế, danh vi: Cao Hạnh; kỳ Vương đô thành, danh viết: diệu môn.
Bà Tu Mật Ða nữ nói: Này thiện nam tử ! Ta nhớ thuở quá khứ có đức Phật hiệu Cao Hạnh. Ðô thành chủ của vua nước ấy tên là Sa Môn.
Giảng: Người nữ Bà Tu Mật Đa đáp rằng: “Thiện nam tử! Ta nhớ quá khứ có đức Phật ra đời, hiệu là Phật Cao Hạnh. Thành vương đô đó tên là Diệu Môn.
Thiện nam tử! bỉ Cao Hạnh Như Lai ai mẩn chúng sanh, nhập ư vương thành đạo bỉ môn khổn, kỳ thành nhất thiết tất giai chấn động, hốt nhiên quảng bác, chúng bảo trang nghiêm, vô lượng quang minh đệ tướng ánh triệt, chủng chủng bảo hoa tán bố kỳ địa, chư Thiên âm nhạc đồng thời câu tấu, nhất thiết chư Thiên sung mãn hư không.
Ðức Cao Hạnh Như Lai vào thành Sa Môn, chân Phật đạp lên ngạch cổng thành. Liền đó cả thành đều chấn động, bỗng trở nên rộng rãi, trang nghiêm với những châu báu, vô lượng quang minh chiếu suốt lẫn nhau. Những bửu hoa rải khắp mặt đất. Chư Thiên âm nhạc đồng thời hòa tấu tất cả chư Thiên sung mãn hư không.
Giảng: Thiện nam tử! Đức Như Lai Cao Hạnh đó, vì thương xót tất cả chúng sinh, mà đi vào thành vua, khi chân đức Phật đạp lên cổng thành Diệu Môn, thì tất cả trong thành đó thảy đều chấn động, hốt nhiên biến thành rộng lớn vô cùng. Có các thứ báu trang nghiêm thành Diệu Môn đó, vô lượng quang minh, chiếu thấu triệt lẫn nhau. Đủ thứ hoa báu, rải khắp mặt đất. Âm nhạc của chư Thiên đồng thời đều tấu lên, tất cả chư Thiên đầy khắp hư không.
Thiện nam tử! ngã ư bỉ thời, vi Trưởng-giả thê, danh viết: thiện tuệ; kiến Phật thần lực, tâm sanh giác ngộ, tức dữ kỳ phu vãng nghệ Phật sở, dĩ nhất bảo tiễn nhi vi cúng dường.
Thuở ấy ta là vợ Trưởng giả tên là Thiện Huệ, thấy thần lực của Phật, tâm liền giác ngộ. Ta cùng Trưởng giả đến chỗ Phật, dâng lên Phật một bửu tiền.
Giảng: Thiện nam tử! Lúc đó ta là vợ của ông trưởng giả giàu có, tên là Thiện Huệ. Ta thấy thần lực của đức Phật không thể nghĩ bàn như thế, bèn sinh tâm giác ngộ, mà xa lìa tham dục. Ta liền cùng với chồng của ta đi đến đạo tràng của đức Phật, đem một đồng tiền báu dâng lên cúng dường đức Phật.
Thị thời, Văn-thù-sư-lợi Đồng tử vi Phật thị giả, vi ngã thuyết Pháp, lệnh phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm.
Văn Thù Sự Lợi Ðồng Tử đương làm thị giả của đức Phật Cao Hạnh, vì ta mà thuyết pháp, khiến ta phát tâm Vô thượng Bồ đề.
Giảng: Lúc đó, Văn Thù Sư Lợi đồng tử làm thị giả cho đức Phật đó, vì ta nói pháp, khiến cho ta phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề”.
Chỗ nầy bố thí tiền báu có 2 ý nghĩa:
1. Một báu mà xả được, nên được lìa tham.
2. Một tiền tuy ít, nhưng dùng tâm bồ đề, nên thành tựu tự tại như vậy.
Trong Kinh Duy Ma Cật, phẩm Phật Đạo thứ tám có nói rằng: “Bồ Tát thị hiện hành tham dục, lìa các nhiễm trước .v.v… Thị hiện có thê thiếp thể nữ, mà thường xa lìa năm dục bùn lầy”. Lại nói: “Thị hiện thọ nơi năm dục, cũng lại hiện hành thiền, khiến ma tâm rối loạn, không thể được tuỳ tiện. Trong lửa sinh hoa sen, có thể là hi hữu. Tại dục mà hành thiền, hi hữu cũng như vậy. Hoặc hiện làm dâm nữ, dụ các người háo sắc, trước hết dùng câu dục móc, sau khiến vào Phật trí”. Người nữ Bà Tu Mật Đa đối với lửa dâm dục, mà chẳng động tâm, như hoa sen sinh trong bùn mà chẳng nhiễm bùn. Đây là Bồ Tát đại quyền thị hiện, dùng pháp môn phương tiện khéo léo “Lấy độc trị độc”, để dẫn dắt chúng sinh hướng về đạo giác ngộ.
Thiện nam tử! ngã duy tri thử Bồ Tát ly tham tế giải thoát. như chư Bồ-Tát Ma-ha-tát, thành tựu vô biên xảo phương tiện trí, kỳ tạng quảng đại, cảnh giới vô bỉ; nhi ngã vân hà năng tri năng thuyết bỉ công đức hạnh?
Này thiện nam tử ! Ta chỉ biết môn giải thoát Bồ Tát ly tham tế này. Như chư đại Bồ Tát thành tựu vô biên trí xảo phương tiện, công đức quảng đại, cảnh giới vô tỷ. Ta thế nào biết được nói được công đức hạnh đó.
Giảng: Thiện nam tử! Ta chỉ biết môn giải thoát Bồ Tát lìa bờ mé tham nầy. Như các đại Bồ Tát thành tựu vô biên trí huệ thiện xảo phương tiện, bảo tạng rộng lớn của các Ngài, cảnh giới các Ngài biết được không gì sánh bằng, mà ta làm sao biết được, nói được hạnh công đức đó? Ngươi hãy đi về hướng nam tìm cầu vị thiện tri thức khác.
Thiện nam tử! ư thử Nam phương hữu thành, danh: thiện độ; trung hữu Cư-sĩ, danh: tỳ sắt chi La, bỉ thường cúng dường chiên đàn tọa Phật tháp.
Này thiện nam tử ! Phương Nam đây có thành Thiện Ðộ. Trong thành ấy có Cư sĩ Tỳ Sắc Chi La. Ông ấy thường cúng dường tháp của đức Chiên Ðàn Tòa Như Lai.
Thiện nam tử! Ở hướng nam nầy, có thành thị tên là Thiện Độ. Trong thành đó có vị cư sĩ tên là Tỳ Sắc Chi La, vị đó thường cúng dường chiên đàn toà tháp Phật.
Nhữ nghệ bỉ vấn: Bồ Tát vân hà học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo?
Ngươi đến đó hỏi Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, thế nào tu Bồ Tát đạo?
Giảng: Ngươi hãy đi đến đó hỏi: “Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh? Làm thế nào tu Bồ Tát đạo? Ngài sẽ vì ngươi mà nói”.
Thiện tài đồng tử đảnh lễ kỳ túc, nhiễu vô lượng tạp, ân cần chiêm ngưỡng, từ thoái nhi khứ.
Thiện Tài đồng tử đảnh lễ chân Bà Tu Mật Ða nữ, hữu nhiễu vô lượng vòng, ân cần chiêm ngưỡng từ tạ mà đi.
Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử đảnh lễ người nữ Bà Tu Mật Đa, rồi đi nhiễu quanh vô lượng vòng, sau đó ân cần chiêm ngưỡng vị thiện tri thức, rồi từ tạ mà đi về hướng nam tìm cầu vị thiện tri thức khác.
=============================
26. CƯ SĨ TỲ SẮC CHI LA
PHÓ THÁC THỨ 26 – HỒI HƯỚNG VÀO TẤT CẢ CĂN LÀNH BÌNH ĐẲNG
Thời, Nhĩ thời, Thiện tài đồng tử tiệm thứ du hành, chí thiện độ thành, nghệ Cư-sĩ trạch, đảnh lễ kỳ túc, hợp chưởng nhi lập, bạch ngôn:
Bấy giờ Thiện Tài đi lần về phương Nam, đến thành Thiện Ðộ, vào nhà Cư sĩ Tỳ Sắc Chi La, đảnh lễ chân Cư sĩ, chắp tay thưa rằng:
Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử từ từ đi du hành về hướng nam, đến thành Thiện Độ, bèn đi đến nhà cư sĩ Tỳ Sắc Chi La, đảnh lễ vị cư sĩ đó rồi, đứng chắp tay mà bạch rằng:
Thánh Giả! ngã dĩ tiên phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm, nhi vị tri Bồ Tát vân hà học Bồ Tát hạnh? vân hà tu Bồ Tát đạo? ngã văn Thánh Giả thiện năng dụ hối, nguyện vi ngã thuyết!
Bạch đức Thánh ! Con đã phát tâm Vô thượng Bồ đề, mà chưa biết Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, thế nào tu Bồ Tát đạo ?Con nghe đức Thánh khéo dạy bảo, xin chỉ dạy cho.
Giảng: “Đức Thánh! Con trước đã phát tâm Vô Thượng Chánh Đắng Chánh Giác, mà con chưa biết Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh? Làm thế nào tu Bồ Tát đạo? Con nghe người nữ Bà Tu Mật Đa giới thiệu nói đức Thánh Ngài khéo dạy dỗ tất cả chúng sinh, xin hãy vì con mà nói.
Đây là hồi hướng vào tất cả căn lành bình đẳng thứ sáu. Thiện tri thức tên là Tỳ Sắc Chi La, dịch ra là “mặc khoả”, nghĩa là biểu thị bao nhiếp, tức là chỉ những gì Ngài cúng dường trong tháp, bao nhiếp tất cả Phật. Hoặc là nhiếp vào, nhiếp các căn lành, vào bình đẳng. Thành thị Thiện Độ, biểu thị không có một căn lành mà không độ đến rốt ráo bờ bên kia. Thường cúng dường tháp Phật, là căn lành tối thắng.
Cư-sĩ cáo ngôn: Thiện nam tử! ngã đắc Bồ Tát giải thoát, danh: bất bát Niết Bàn tế.
Cư sĩ nói: Này thiện nam tử ! Ta được môn Bồ Tát giải thoát tên là “Bất bát Niết bàn tế”.
Giảng: Cư sĩ Tỳ Sắc Chi La bảo Thiện Tài đồng tử rằng: “Thiện nam tử! Ta được Bồ Tát giải thoát tên là Chẳng vào bờ mé Niết Bàn”. Tức là rốt ráo các Như Lai chẳng vào bờ mé Niết Bàn. Cho nên trong Phẩm Xuất Hiện có nói rằng: “Như thật tế Niết Bàn, Như Lai Niết Bàn cũng như vậy”.
Thiện nam tử! ngã bất sanh tâm ngôn: như thị Như Lai dĩ Bát Niết Bàn, như thị Như Lai hiện Bát Niết Bàn, như thị Như Lai đương Bát Niết Bàn.
Này thiện nam tử ! Ta chẳng nghĩ rằng: Ðức Như Lai đó đã nhập Niết bàn, đức Như Lai đó hiện nhập Niết bàn, đức Như Lai đó sẽ nhập Niết bàn.
Giảng: Cư sĩ Tỳ Sắc Chi La lại nói tiếp: “Thiện nam tử! Ta chẳng sinh tâm niệm nói: Như Lai đã vào Niết Bàn như vậy. Như Lai hiện tại vào Niết Bàn như vậy. Như Lai tương lai sẽ vào Niết Bàn như vậy.
Ngã tri thập phương nhất thiết thế giới chư Phật Như Lai, tất cánh vô hữu Bát Niết Bàn giả, duy trừ vi dục điều phục chúng sanh nhi thị hiện nhĩ.
Ta biết mười phương tất cả thế giới chư Phật Như Lai rốt ráo không có đức Phật nào nhập Niết bàn, chỉ trừ ra khi vì điều phục chúng sanh mà thị hiện thôi.
Giảng: Vì ta biết chư Phật Như Lai mười phương tất cả thế giới, rốt ráo không có vào Niết Bàn, Phật luôn luôn tại thế gian, chỉ trừ vì muốn điều phục chúng sinh mà thị hiện vào Niết Bàn”. Tâm của vị cư sĩ nầy, là trên khế với thật tế, biết Phật thường trụ. Chư Phật muốn giáo hoá chúng sinh, nên thị hiện vào Niết Bàn.
Trong Kinh Pháp Hoa Phẩm Như Lai Thọ Lượng có nói rằng: “Nếu Phật ở lâu nơi đời, thì người phước mỏng, chẳng trồng căn lành, bần cùng hạ tiện, tham trước năm dục, nhập vào trong lưới ức tưởng vọng kiến. Nếu thấy Như Lai thường trụ không diệt, thì sẽ khởi kiêu mạn phóng túng, mà lười biếng giải đãi, không thể sinh tâm cung kính, tư tưởng khó gặp”. Cho nên Phật dùng phương tiện nói chư Phật ra đời khó được gặp, khiến cho chúng sinh nghe được, mà sinh tâm khó gặp, tâm nhớ mong hâm mộ, khát ngưỡng đối với Phật, bèn trồng xuống căn lành, cho nên Phật tuy chẳng thật diệt độ, mà nói diệt độ.
Trong Kinh Lăng Già có nói rằng: “Tất cả không Niết Bàn, không có Niết Bàn Phật, không có Phật Niết Bàn, xa lìa giác sở giác. Hoặc có, hoặc không có, cả hai thảy đều lìa. Mâu ni tịch tĩnh quán, đó là xa lìa sinh, đó gọi là chẳng chấp lấy, đời nầy đời sau tịnh”. Trong Kinh Hoa Nghiêm phẩm Kệ Tán trên cung trời Đâu Suất có nói rằng:
“Như Lai chẳng ra đời
Cũng chẳng vào Niết Bàn
Dùng đại nguyện lực xưa
Thị hiện pháp tự tại”.
Thiện nam tử! ngã khai chiên đàn tọa Như Lai tháp môn thời, đắc tam muội, danh: Phật chủng vô tận.
Này thiện nam tử ! Lúc ta mở cửa tháp của đức Chiên Ðàn Tòa Như Lai, ta liền được tam muội tên là “Phật chủng vô tận”.
Giảng: Thiện nam tử! Khi ta mở cửa tháp chiên đàn toà Như Lai, thì đắc được tam muội tên là Phật chủng vô tận.
Thiện nam tử! ngã niệm niệm trung nhập thử tam muội, niệm niệm đắc tri nhất thiết vô lượng thù thắng chi sự.
Này thiện nam tử ! Trong mỗi niệm ta nhập tam muội này, trong mỗi niệm ta biết được vô lượng sự thù thắng.
Giảng: Thiện nam tử! Ta ở trong niệm niệm, nhập vào tam muội Phật chủng vô tận nầy. Trong mỗi một niệm biết được tất cả vô lượng việc thù thắng.
Phật chủng vô tận, đó là Phật chủng từ duyên khởi, Phật duyên lý sinh, thấy lý rõ ràng, nên thấy Phật không diệt, dùng hoá thân Phật tức là thân pháp tánh hằng thường. Trong Kinh Pháp Hoa Phẩm Như Lai Thọ Lượng có nói rằng: “Vì chúng sinh nên phương tiện hiện Niết Bàn, mà thật chẳng diệt độ, thường ở đây nói pháp. Ta thường ở nơi đây, dùng các sức thần thông, khiến cho chúng sinh điên đảo, tuy gần mà chẳng thấy .v.v…. Ta thấy các chúng sinh, chìm nơi khổ não, nên chẳng vì hiện thân, khiến cho họ sinh khát ngưỡng, nhờ sự khát ngưỡng, mới xuất hiện thuyết pháp”.
Thiện Tài bạch ngôn: thử tam muội giả, cảnh giới vân hà?
Thiện Tài thưa: Bạch đức Thánh ! Tam muội đó, cảnh giới thế nào ?
Giảng: Thiện Tài đồng tử lại hỏi: “Cảnh giới tam muội nầy như thế nào”?
Cư-sĩ đáp ngôn: Thiện nam tử! ngã nhập thử tam muội, tùy kỳ thứ đệ, kiến thử thế giới nhất thiết chư Phật,
Cư sĩ nói: Nay thiện nam tử ! Ta nhập tam muội này, theo thứ đệ, thấy tất cả chư Phật ở thế giới này.
Giảng: Cư sĩ Tỳ Sắc Chi La đáp rằng: “Thiện nam tử! Khi ta nhập vào tam muội nầy, thì tuỳ theo thứ tự, thấy được tất cả chư Phật thế giới nầy.
Sở vị: Ca-diếp Phật, Câu Na Hàm Mâu Ni Phật, Câu Lưu Tôn Phật, thi khí Phật, Tỳ bà Thi Phật, đề xá Phật, phất sa Phật, vô thượng Thắng Phật, vô thượng liên hoa Phật
Như là thấy đức Ca Diếp Phật, Câu Na Hàm Mâu Ni Phật,Câu Lưu Tôn Phật, Thi Khí Phật, Tỳ Bà Thi Phật, Ðề Xá Phật, Phất Sa Phật, Vô Thượng Thắng Phật, Vô Thượng Liên Hoa Phật.
Giảng: Đó là: Phật Ca Diếp (ẩm quang), Phật Câu Na Hàm Mâu Ni (kim tịch), Phật Câu Lưu Tôn (đoạn tất cả phiền não), Phật Thi Khí (biến xứ), Phật Tỳ Bà Thi (thắng quán), Phật Đề Xá (hoả), Phật Phất Sa (viên mãn), Phật Vô Thượng Thắng, Phật Vô Thượng Liên Hoa .v.v…
Như thị đẳng nhi vi thượng thủ, ư nhất niệm khoảnh, đắc kiến bách Phật, đắc kiến thiên Phật, đắc kiến bách thiên Phật, đắc kiến ức Phật, thiên ức Phật, bách thiên ức Phật, A-dữu-đa ức Phật, na-do-tha ức Phật, nãi chí bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới vi trần số Phật
Trong khoảng một niệm, được thấy trăm đức Phật, ngàn đức Phật, thấy trăm ngàn đức Phật, thấy ức Phật ngàn ức Phật, thấy trăm ngàn ức Phật, thấy a giu đa ức Phật, thấy na do tha ức Phật. Nhẫn đến thấy bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới vi trần số Phật.
Giảng: Tất cả như vậy mà làm thượng thủ. Ta lại ở trong khoảng một niệm, thấy được trăm vị Phật, thấy được ngàn vị Phật, thấy được trăm ngàn vị Phật, thấy được ức vị Phật, thấy được ngàn ức vị Phật, thấy được trăm ngàn ức vị Phật, A giu đa ức vị Phật, Na do tha ức vị Phật, cho đến thấy được các vị Phật nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới. Ta đều thấy được tất cả có thứ tự như vậy”.
Như thị nhất thiết, thứ đệ giai kiến. Diệc kiến bỉ Phật, sơ thủy phát tâm, chủng chư thiện căn, hoạch thắng thần thông, thành tựu đại nguyện, tu hành diệu hạnh, cụ Ba-la-mật, nhập Bồ Tát địa, đắc thanh tịnh nhẫn, tồi phục ma quân, thành chánh đẳng giác, quốc độ thanh tịnh, chúng hội vi nhiễu, phóng đại quang minh, chuyển diệu pháp luân, thần thông biến hiện; chủng chủng sái biệt, ngã tất năng trì, ngã tất năng ức, tất năng quan sát, phân biệt hiển thị. Vị lai Di Lặc Phật đẳng nhất thiết chư Phật, hiện tại Tỳ Lô Giá Na Phật đẳng nhất thiết chư Phật, tất diệc như thị.
Cũng thấy chư Phật đó lúc mới phát tâm gieo những căn lành, được thắng thần thông, thành tựu đại nguyện, tu hành diệu hạnh, đủ ba la mật, nhập Bồ Tát địa, được thanh tịnh nhẫn, xô dẹp quân ma thành Ðẳng Chánh Giác, quốc độ thanh tịnh, chúng hội đạo tràng, phóng đại quang minh, chuyển diệu pháp luân, thần thông biến hiện nhiều thứ sai biệt. Ta đều có thể thọ trì, có thể ghi nhớ, có thể quán sát phân biệt hiển thị tất cả.
Giảng: Ta cũng thấy được các đức Phật đó, lúc ban đầu phát tâm, gieo trồng các căn lành, đắc được thần thông thù thắng, thành tựu đại nguyện thuở xưa phát ra, tu hành diệu hạnh của Phật tu, đầy đủ Ba La Mật. Vào Bồ Tát địa, đắc được thanh tịnh nhẫn, hàng phục thiên ma ngoại đạo, mà thành tựu Chánh Đẳng Chánh Giác. Cõi nước của các Ngài thanh tịnh, có chúng hội vây quanh, các Ngài phóng đại quang minh, chuyển bánh xe pháp vi diệu, thần thông biến hoá thị hiện, đủ thứ sự khác biệt. Ta đều thọ trì được, ta đều nghĩ nhớ được, ta đều quán sát phân biệt hiển bày được.
Như thử thế giới, thập phương thế giới sở hữu tam thế nhất thiết chư Phật, Thanh văn, độc giác, chư Bồ-tát chúng, tất diệc như thị.
Thuở vị lai đức Di Lặc Phật v.v.. tất cả chư Phật cũng như vậy. Thiện tại đức Tỳ Lô Giá Na Phật v.v.. tất cả chư Phật cũng như vậy. Như tại thế giới này, mười phương tất cả thế giới tất cả tam thế chư Phật, Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát cũng đều như vậy.
Giảng: Vị lai đức Phật Di Lặc và tất cả chư Phật, hiện tại đức Phật Tỳ Lô Giá Na và tất cả chư Phật, cũng đều như vậy. Chẳng những ở thế giới nầy như vậy, mà cho đến mười phương thế giới hết thảy ba đời tất cả chư Phật, Thanh Văn Duyên Giác, các chúng Bồ Tát, cũng đều như vậy.
Thiện nam tử! ngã duy đắc thử Bồ Tát sở đắc bất bát Niết Bàn tế giải thoát. Như chư Bồ-Tát Ma-ha-tát, dĩ nhất niệm trí phổ tri tam thế, nhất niệm biến nhập nhất thiết tam muội, Như Lai trí nhật hằng chiếu kỳ tâm, ư nhất thiết Pháp vô hữu phân biệt, liễu nhất thiết Phật tất giai bình đẳng, Như Lai cập ngã nhất thiết chúng sanh đẳng vô hữu nhị, tri nhất thiết pháp tự tánh thanh tịnh, vô hữu tư lự, vô hữu động chuyển, nhi năng phổ nhập nhất thiết thế gian, ly chư phân biệt, trụ Phật Pháp ấn, tất năng khai ngộ Pháp giới chúng sanh; nhi ngã vân hà năng tri năng thuyết bỉ công đức hạnh?
Này thiện nam tử ! Ta chỉ được môn Bồ Tát giải thoát “Bất bát Niết bàn tế” này. Như chư đại Bồ Tát dùng nhứt niệm trí biết khắp tam thế, một niệm vào khắp tất cả tam muội. Như Lai trí nhựt hằng chiếu tâm các Ngài. Nơi tất cả pháp không có phân biệt. Biết tất cả Phật thảy đều bình đẳng. Như Lai cùng ta và tất cả chúng sanh bìng đẳng không sai khác. Biết tất cả pháp tự tánh thanh tịnh, không tư lự, không động chuyển, mà có thể vào khắp tất cả thế gian, lìa những phân biệt, trụ Phật pháp ấn, đều có thể khai ngộ tất cả chúng sanh. Ta thế nào biết được nói được công đức hạnh đó.
Giảng: Thiện nam tử! Ta chỉ đắc được môn giải thoát Bồ Tát chẳng vào bờ mé Niết Bàn nầy. Như các đại Bồ Tát dùng một niệm trí huệ, biết khắp ba đời, quá khứ, hiện tại, vị lai. Một niệm vào khắp tất cả tam muội. Mặt trời trí huệ của Như Lai luôn chiếu sáng tâm các Ngài. Các Ngài đối với tất cả pháp không có phân biệt, thấu rõ tất cả chư Phật, thảy đều bình đẳng. Như Lai và ta, cùng với tất cả chúng sinh, bình đẳng không hai. Biết tất cả pháp, tự tánh thanh tịnh, không có tư lự, không có động chuyển, mà vào khắp tất cả thế gian. Xa lìa tất cả sự phân biệt, trụ nơi Phật pháp ấn, đều có thể khai ngộ, pháp giới hết thảy chúng sinh. Mà ta làm sao biết được, nói được, những hạnh công đức đó? Ngươi nên đi tìm cầu một vị thiện tri thức khác.
Thiện nam tử! ư thử Nam phương hữu sơn, danh: bổ đát lạc ca; bỉ hữu Bồ Tát, danh: Quán Tự Tại. Nhữ nghệ bỉ vấn: Bồ Tát vân hà học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo? tức thuyết tụng ngôn:
Này thiện nam tử ! Phương Nam đây có tòa núi tên là Bổ Ðát Lạc Ca. Núi ấy có Bồ Tát tên là Quán Tự Tại. Ngươi đến đó hỏi Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, thế nào tu Bồ Tát đạo? Cư sĩ liền nói kệ rằng:
Giảng: Thiện nam tử! Ở hướng nam nầy, có ngọn núi tên là Bổ Đát Lạc Ca, ở núi đó có vị Bồ Tát hiệu là Quán Tự Tại. Ngươi hãy đi đến đó hỏi: “Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh? Tu Bồ Tát đạo”? Cư sĩ Bổ Đát Lạc Ca bèn nói kệ rằng:
Hải thượng hữu sơn đa thánh hiền Trên biển có núi tên Thánh Hiền.
Chúng bảo sở thành cực thanh tịnh Châu báu làm thành rất thanh tịnh
Hoa quả thụ lâm giai biến mãn Hoa quả rừng cây đều sung mãn
Tuyền lưu trì chiểu tất cụ túc. Suối chảy ao mát đều đầy đủ.
“Trên biển có ngọn núi Bổ Đát Lạc Ca, ở đó có rất nhiều Thánh Hiền. Ngọn núi đó do các thứ báu thành tựu rất thanh tịnh. Hoa quả rừng cây đều đầy khắp. Suối nước chảy ao cong đều đầy đủ.
Dũng mãnh trượng phu Quán Tự Tại Dũng mãnh Trượng Phu Quán Tự Tại
Vi lợi chúng sanh trụ thử sơn Vì độ chúng sanh ở núi này
Nhữ ưng vãng vấn chư công đức Ngươi nên đến hỏi các công đức
Bỉ đương thị nhữ đại phương tiện. Bồ Tát sẽ dạy đại phương tiện.
Trượng phu dũng mãnh Quán Tự Tại, vì lợi ích tất cả chúng sinh mà ở núi đó. Ngươi nên đến hỏi các công đức, vị kia nhất định sẽ chỉ bảo cho ngươi pháp môn đại phương tiện”.
Thời, Thiện tài đồng tử đảnh lễ kỳ túc, nhiễu vô lượng tạp dĩ, ân cần chiêm ngưỡng, từ thoái nhi khứ.
Thiện Tài đồng tử đảnh lễ chân Cư sĩ Tỳ Sắc Chi La, hữu nhiễu vô lượng vòng, ân cần chiêm ngưỡng từ tạ mà đi.
Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử đảnh lễ vị cư sĩ Tỳ Sắc Chi La, rồi đi nhiễu quanh vô lượng vòng, ân cần chiêm ngưỡng vị thiện tri thức, sau đó từ tạ mà đi về hướng nam tìm cầu một vị thiện tri thức khác.
Chúng ta nên biết, người tu đạo và cư sĩ tại gia đều có Thánh nhân. Trong số đó, Thiện Tài đồng tử gặp những vị thiện tri thức, có Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, ưu bà tắc, ưu bà di, ngoại đạo, trưởng giả .v.v… biến hoá ra đủ thứ hình tướng, những vị đó đều là pháp thân Đại Sĩ, thị hiện giáo hoá chúng sinh. Cho nên các vị đừng cho rằng vị thiện tri thức nầy là thân cư sĩ, mà khinh thường họ. Giống như cư sĩ Duy Ma Cật, tuy là vị cư sĩ, nhưng trên thật tế, đã chứng được Thánh vị, vị cư sĩ Tỳ Sắc Chi La nầy cũng là cư sĩ, nhưng Ngài là pháp thân Đại Sĩ, Bồ Tát thị hiện, cho nên Ngài mới có thể giới thiệu cho Thiện Tài đồng tử đi gặp một vị đại Bồ Tát khác.
========================
27. BỒ TÁT QUÁN TỰ TẠI
PHÓ THÁC THỨ 27 – HỒI HƯỚNG TUỲ THUẬN TẤT CẢ CHÚNG SINH
Nhĩ thời, Thiện tài đồng tử nhất tâm tư tánh bỉ Cư-sĩ giáo, nhập bỉ Bồ Tát giải thoát chi tạng, đắc bỉ Bồ Tát năng tùy niệm lực, ức bỉ chư Phật xuất hiện thứ đệ, niệm bỉ chư Phật tướng tục thứ đệ, trì bỉ chư Phật danh hiệu thứ đệ, quán bỉ chư Phật sở thuyết diệu pháp, tri bỉ chư Phật cụ túc trang nghiêm, kiến bỉ chư Phật thành chánh đẳng giác, liễu bỉ chư Phật bất tư nghị nghiệp.
Lúc đó, Thiện Tài đồng tử nhất tâm tư duy lời dạy của Cư sĩ. Nhập tạng Bồ Tát giải thoát ấy. Ðược suất Bồ Tát tùy niệm ấy. Thọ trì thứ lớp danh hiệu của chư Phật ấy. Quán sát diệu pháp của chư Phật ấy nói. Biết chư Phật ấy đầy đủ trang nghiêm. Thấy chư Phật ấy thành Ðẳng Chánh Giác. Rõ bất tư nghì nghiệp của chư Phật ấy.
Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử một lòng suy gẫm lời dạy của vị cư sĩ Tỳ Sắc Chi La đó. Nhập vào tạng Bồ Tát giải thoát đó. Đắc được sức Bồ Tát có thể tuỳ niệm đó. Nghĩ nhớ chư Phật đó xuất hiện thứ tự, vị Phật nào đầu tiên, vị Phật nào cuối cùng. Lại niệm chư Phật đó liên tục thứ tự không dứt. Thọ trì thứ tự danh hiệu chư Phật đó. Mỗi vị Phật đều có danh hiệu khác nhau. Quán sát diệu pháp của chư Phật đó nói. Lại biết chư Phật đó đầy đủ trang nghiêm. Lại thấy chư Phật đó thành Chánh Đẳng Giác. Thấu rõ nghiệp thanh tịnh của chư Phật đó không thể nghĩ bàn, do đó có câu: “Khéo nơi trần lao làm Phật sự”.
Tiệm thứ du hành, chí ư bỉ sơn, xứ xứ cầu mịch thử đại Bồ-tát.
Thiện Tài đi lần đến núi Phổ Ðà tìm Bồ Tát Quán Tự Tại.
Giảng: Sau đó từ từ đi du hành về hướng nam, đi đến núi Bổ Đát Lạc Ca, bèn đi khắp nơi tìm cầu vị đại Bồ Tát Quán Tự Tại.
Đây là hồi hướng tuỳ thuận tất cả chúng sinh thứ bảy, biểu thị dùng tâm bình đẳng căn lành, tuỳ thuận lợi ích tất cả chúng sinh. Thiện tri thức tên là Quán Tự Tại, đây là ba nghiệp quy hướng, tất sáu thông phó duyên, nhiếp lợi khó nghĩ bàn, tên Quán Tự Tại, nhờ đó có thể khắp tuỳ thuận chúng sinh. Quán Tự Tại, hoặc là Quán Âm, tiếng phạm là Bà Lô Chỉ Đế. Vị đại Bồ Tát nầy quán cái gì mà được tự tại? Tức trong Tâm Kinh có nói rằng: “Bồ Tát Quán Tự Tại thực hành sâu vào Bát Nhã Ba La Mật Đa thời, chiếu thấy năm uẩn đều không, qua khỏi tất cả khổ ách”. Ngài dùng trí huệ Bát Nhã thâm sâu, chiếu thấu tất cả thật tướng các pháp, mà đắc được tự tại. Bồ Tát Quán Thế Âm tu pháp môn phản văn văn tự tánh, chứng được nhĩ căn viên thông, mà tầm thanh cứu khổ. Trong Kinh Pháp Hoa có nói rằng: “Nếu có vô lượng trăm ngàn vạn ức chúng sinh, thọ các khổ não, nghe đến Bồ Tát Quán Thế Âm đó, một lòng niệm danh hiệu của Ngài, thì Bồ Tát Quán Thế Âm đó lập tức quán âm thanh đó, đều được giải thoát”.
Bổ Đát Lạc Ca, dịch là “Cây hoa trắng nhỏ”, trên núi nhiều cây hương thơm nầy toả xa, ngửi được tất vui mừng.
Kiến kỳ Tây diện nham cốc chi trung, tuyền lưu oanh ánh, thụ lâm ống uất, hương thảo nhu nhuyễn, hữu toàn bố địa.
Trong gành đá phía Tây, suối chảy lóng lánh, rừng cây rậm rợp, cỏ thơm mềm nhuyễn trải mặt đất.
Giảng: Thiện Tài nhìn thấy trong hang núi cao, hiển bi cứu khổ ở phía tây, suối chảy trong suốt lóng lánh với nhau, giống như lưu ly, rừng cây rậm rạp, cỏ thơm mềm mại, vòng bên phải chung quanh nơi mặt đất, vật vô tình cũng đến nghe pháp!
Quán Tự Tại Bồ Tát ư Kim cương bảo thạch thượng kết già phu tọa, vô lượng Bồ Tát giai tọa bảo thạch cung kính vi nhiễu, nhi vi tuyên thuyết đại từ bi Pháp, lệnh kỳ nhiếp thọ nhất thiết chúng sanh.
Ðức Quán Tự Tại Bồ Tát ngồi kiết già trên tảng đá kim cang bửu. Xung quanh có vô lượng Bồ Tát cũng ngồi trên bửu thạch. Bồ Tát Quán Tự Tại vì chúng Bồ Tát mà tuyên nói pháp đại từ bi, khiến nhiếp thọ tất cả chúng sanh.
Giảng: Bồ Tát Quán Tự Tại ngồi kiết già trên đá báu kim cang, có vô lượng Bồ Tát đều ngồi trên đá báu, cung kính vây quanh. Bồ Tát Quán Tự Tại vì họ nói pháp môn đại từ bi, khiến cho họ nhiếp thọ tất cả chúng sinh.
Do đó có câu: “Từ hay ban vui, bi hay cứu khổ”, tức là ban cho chúng sinh tất cả sự an vui, nhổ trừ hết thảy khổ não của chúng sinh. Chúng ta người tu đạo nhất định phải luôn luôn có tâm từ bi, học tâm đại bi của Bồ Tát Quán Thế Âm, đối với bất cứ người nào cũng đều phải có tâm từ bi, không thể dùng tâm lượng nhỏ bé hẹp hòi, vì chúng ta đang tu đạo. Nếu tu đạo mà tâm lượng không lớn, thì vĩnh viễn tu không thành đạo, cho nên phải phóng tâm lượng cho rộng lớn.
Thiện Tài kiến dĩ, hoan hỉ dũng dược, hợp chưởng đế quán, mục bất tạm thuấn, tác như thị niệm: thiện tri thức giả, tức thị Như Lai; thiện tri thức giả, nhất thiết pháp vân; thiện tri thức giả, chư công đức tạng; thiện tri thức giả, nan khả trực ngộ; thiện tri thức giả, thập lực bảo nhân; thiện tri thức giả, vô tận trí cự; thiện tri thức giả, phước đức căn nha; thiện tri thức giả, nhất thiết trí môn; thiện tri thức giả, trí hải Đạo sư; thiện tri thức giả, chí nhất thiết trí trợ đạo chi cụ.
Thiện Tài xem thấy vui mừng hớn hở, chắp tay nhìn kỹ, mắt không nháy, tự nghĩ rằng: Thiện tri thức là Như Lai. Thiện tri thức là mây tất cả pháp. Thiện tri thức là tạng công đức. Thiện tri thức rất khó gặp. Thiện tri thức là nhơn duyên sanh Thập lực. Thiện tri thức là đuốc trí vô tận. Thiện tri thức là mầm gốc phước đức. Thiện tri thức là cửa Nhứt thiết trí. Thiện tri thức là trí hải Ðạo Sư. Thiện tri thức là công cụ trợ đạo đến Nhứt thiết trí.
Giảng: Thiện Tài đồng tử thấy cảnh tượng trang nghiêm đó rồi, tâm rất hoan hỉ vui mừng, chắp tay nhìn kỹ đại Bồ Tát, mắt chẳng tạm nháy, sau đó bèn nghĩ như vầy: “Bậc thiện tri thức là Như Lai. Bậc thiện tri thức là mây báu lớn tất cả pháp. Bậc thiện tri thức là tất cả tạng báu công đức. Bậc thiện tri thức trăm ngàn vạn kiếp khó gặp được. Bậc thiện tri thức là nhân đắc được mười lực báu. Bậc thiện tri thức là đuốc trí huệ vô tận. Bậc thiện tri thức là rễ mầm sinh trưởng phước đức. Bậc thiện tri thức là pháp môn nhất thiết trí. Bậc thiện tri thức là đạo sư biển trí huệ. Bậc thiện tri thức là đồ trợ đạo đến nhất thiết trí.
Tiện tức vãng nghệ đại Bồ-tát sở. Quán Tự Tại Bồ Tát dao kiến Thiện Tài, cáo ngôn:
Nghĩ xong, Thiện Tài đến chỗ Quán Tự Tại Bồ Tát. Bồ Tát thấy Thiện Tài liền nói:
Giảng: Thiện Tài đồng tử nghĩ như vậy rồi, bèn lập tức đi đến chỗ đại Bồ Tát Quán Tự Tại liền nói:
Thiện lai! nhữ phát Đại thừa ý phổ nhiếp chúng sanh, khởi chánh trực tâm chuyên cầu Phật Pháp, đại bi thâm trọng cứu hộ nhất thiết, Phổ Hiền diệu hạnh tướng tục hiện tiền, đại nguyện thâm tâm viên mãn thanh tịnh, cần cầu Phật Pháp tất năng lĩnh thọ, tích tập thiện căn hằng Vô yếm túc, thuận thiện tri thức bất vi kỳ giáo; tùng Văn-thù-sư-lợi công đức trí tuệ Đại hải sở sanh, kỳ tâm thành thục, đắc Phật thế lực; dĩ hoạch quảng đại tam muội quang minh, chuyên ý hy cầu thậm thâm diệu pháp, thường kiến chư Phật sanh đại hoan hỉ, trí tuệ thanh tịnh do như hư không, ký tự minh liễu phục vi tha thuyết, an trụ Như Lai trí tuệ quang minh.
Lành thay thiện nam tử ! Ngươi phát tâm Ðại thừa nhiếp khắp chúng sanh. Ngươi khởi tâm chánh trực chuyên cầu Phật pháp. Ngươi có đại bi thâm trọng cứu hộ tất cả. Phổ Hiền diệu hạnh nối tiếp hiện tiền. Ðại nguyện thâm tâm viên mãn thanh tịnh. Siêng cầu Phật pháp có thể lãnh thọ tất cả. Chứa nhóm thiện căn hằng không nhàm đủ. Ngươi thuận thiện tri thức chẳng trái lời dạy. Từ biển lớn công đức trí huệ của Văn Thù Sư Lợi mà sanh. Tâm ngươi thành thục được thế lực của Phật. Ðã được tam muội quang minh quản đại. Chuyên tâm mong cầu diệu pháp thậm thâm. Thường thấy chư Phật tâm rất hoan hỷ. Trí huệ thanh tịnh như hư không. Ðã tự sáng tỏa lại vì người mà diễn nói. An trụ trí huệ quang minh của Như Lai.
Giảng: Lúc đó, Bồ Tát Quán Tự Tại nhìn thấy Thiện Tài, bèn bảo rằng: “Lành thay thiện nam tử! Ngươi đã phát tâm đại thừa và chí nguyện, muốn nhiếp thọ khắp tất cả chúng sinh. Ngươi sinh khởi tâm chánh trực, do đó có câu: “Tâm thẳng là đạo tràng”, chuyên cầu Phật pháp. Tâm đại bi của ngươi sâu nặng, có thể cứu hộ tất cả chúng sinh. Ngươi tu diệu hạnh Phổ Hiền, hiện tiền liên tục ở trước mặt ngươi. Tâm đại nguyện và bồ đề thâm sâu của ngươi, đều viên mãn thanh tịnh. Ngươi siêng cầu Phật pháp, hoàn toàn đều lãnh thọ được. Ngươi tích tụ căn lành, luôn luôn không sinh tâm nhàm đủ. Ngươi thuận theo thiện tri thức, không trái lời dạy của thiện tri thức. Ngươi từ Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi sinh ra biển công đức trí huệ, ngươi tâm ý thành thục, đắc được thế lực của Phật. Ngươi đã đắc được tam muội quang minh rộng lớn, chuyên tâm cầu diệu pháp thâm sâu. Ngươi thường thấy được chư Phật, mà sinh tâm đại hoan hỉ. Trí huệ thanh tịnh của ngươi như hư không, tự mình đã minh bạch thấu rõ, lại vì chúng sinh khác nói an trụ trí huệ quang minh của Phật. Đây là hạnh Bồ Tát tự lợi lợi tha, tự giác giác tha.
Nhĩ thời, Thiện tài đồng tử đảnh lễ Quán Tự Tại Bồ Tát túc, nhiễu vô số tạp, hợp chưởng nhi trụ, bạch ngôn: Thánh Giả! ngã dĩ tiên phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm, nhi vị tri Bồ Tát vân hà học Bồ Tát hạnh? vân hà tu Bồ Tát đạo?
Lúc đó Thiện Tài đồng tử đảnh lễ chân Quán Tự Tại Bồ Tát, hữu nhiễu vô số vòng, chắp tay cung kính thưa rằng: Bạch đức Thánh ! Con đã phát tâm vô thượng Bồ đề, mà chưa biết Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, thế nào tu Bồ Tát đạo ?
Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử đảnh lễ Bồ Tát Quán Tự Tại, rồi đi nhiễu quanh bên phải vô lượng vòng, sau đó đứng chắp tay mà bạch rằng: “Đức Thánh! Con trước đã phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, mà chưa biết Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh? Làm thế nào tu Bồ Tát đạo?
Ngã văn Thánh Giả thiện năng giáo hối, nguyện vi ngã thuyết!
Con nghe đức Thánh khéo dạy bảo, xin chỉ dạy cho.
Giảng: Con nghe cư sĩ Tỳ Sắc Chi La giới thiệu Ngài cho con, nói đức Thánh Ngài khéo chỉ dạy tất cả chúng sinh, xin hãy vì con mà diễn nói”!
Bồ Tát cáo ngôn: Thiện tai thiện tai! Thiện nam tử! nhữ dĩ năng phát A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề tâm.
Bồ Tát nói: Lành thay ! Lành thay ! Này thiện nam tử ! Ngươi đã có thể phát tâm Vô thượng Bồ đề.
Giảng: Bồ Tát Quán Tự Tại bảo Thiện Tài đồng tử rằng: “Lành thay, lành thay! Thiện nam tử! Ngươi đã phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Thiện nam tử! ngã dĩ thành tựu Bồ Tát đại bi hạnh giải thoát môn.
Này thiện nam tử ! Ta đã thành tựu Bồ Tát đại bi hạnh giải thoát môn.
Giảng: Thiện nam tử! Ta đã thành tựu môn giải thoát Bồ Tát đại bi hạnh.
Thiện nam tử! ngã dĩ thử Bồ Tát đại bi hạnh môn, bình đẳng giáo hóa nhất thiết chúng sanh tướng tục bất đoạn.
Này thiện nam tử ! Ta dùng môn Bồ Tát đại bi hạnh này bình đẳng giáo hóa tất cả chúng sanh tiếp nối chẳng dứt.
Giảng: Thiện nam tử! Ta dùng môn Bồ Tát đại bi hạnh nầy, bình đẳng giáo hoá tất cả chúng sinh liên tục không ngừng”.
Bình đẳng giáo hoá, tức là đại bi. Dùng đồng thể đại bi, cho nên nói là bình đẳng. Liên tục không ngừng, tức là hạnh môn. Môn tức là phổ môn, biểu thị phổ môn thị hiện. Thiên Thai Trí Giả Đại Sư nói có mười phổ (khắp):
1. Từ bi phổ.
2. Hoằng thệ phổ.
3. Tu hành phổ.
4. Ly hoặc phổ.
5. Nhập pháp môn phổ.
6. Thần thông phổ.
7. Phương tiện phổ.
8. Thuyết pháp phổ.
9. Thành tựu chúng sinh phổ.
10. Cúng dường chư Phật phổ.
Thiện nam tử! ngã trụ thử đại bi hạnh môn, thường tại nhất thiết chư Như Lai sở, phổ Hiện-Nhất-Thiết chúng sanh chi tiền. Hoặc dĩ ố thí, nhiếp thủ chúng sanh; hoặc dĩ ái ngữ, hoặc dĩ lợi hành, hoặc dĩ đồng sự, nhiếp thủ chúng sanh; hoặc hiện sắc thân, nhiếp thủ chúng sanh; hoặc hiện chủng chủng bất tư nghị sắc Tịnh Quang minh võng, nhiếp thủ chúng sanh; hoặc dĩ âm thanh, hoặc dĩ uy nghi, hoặc vi thuyết Pháp, hoặc hiện thần biến, lệnh kỳ tâm ngộ nhi đắc thành thục; hoặc vi hóa hiện đồng loại chi hình, dữ kỳ cọng cư nhi thành thục chi.
Này thiện nam tử ! Ta trụ nơi môn đại bi hạnh này thường ở chỗ tất cả chư Phật, hiện khắp trước tất cả chúng sanh. Hoặc dùng bố thí, hoặc dùng ái ngữ, lợi hành, đồng sự để nhiếp thủ chúng sanh. Hoặc hiện sắc thân nhiếp thủ chúng sanh. Hoặc hiện những sắc bất tư nghì quang minh thanh tịnh để nhiếp thủ chúng sanh. Hoặc dùng âm thanh, hoặc dùng oai nghi, hoặc vì họ thuyết pháp, hoặc hiện thần biến, làm cho tâm họ tỏ ngộ mà được thành thục. Hoặc vì họ mà hiện thân đồng loại cùng họ ở chung mà thành thục họ.
Giảng: Bồ Tát Quán Tự Tại nói: “Thiện nam tử! Ta trụ môn hạnh đại bi nầy, thường ở chỗ đạo tràng của tất cả chư Phật, thị hiện khắp ở trước tất cả chúng sinh”.
Trong Kinh Lăng Nghiêm có nói về sự diệu dụng nhĩ căn viên thông của Bồ Tát Quán Tự Tại rằng: “Một là, trên hợp với bổn diệu giác tâm của mười phương chư Phật, với Phật Như Lai đồng một sức từ. Hai là, dưới hợp với tất cả sáu nẻo chúng sinh mười phương, với các chúng sinh đồng một bi ngưỡng”. Làm thế nào để vận dụng? Bồ Tát Quán Âm lại nói tiếp: “Hoặc ta bố thí vàng bạc châu báu để nhiếp lấy chúng sinh. Hoặc ta dùng lời ái ngữ để nhiếp lấy chúng sinh. Hoặc ta dùng lợi hành để nhiếp lấy chúng sinh. Hoặc ta dùng đồng sự để nhiếp lấy chúng sinh. Hoặc ta thị hiện sắc thân viên mãn để nhiếp lấy chúng sinh. Hoặc ta thị hiện đủ thứ lưới quang minh sắc tịnh không thể nghĩ bàn, để nhiếp lấy chúng sinh. Hoặc dùng âm thanh, hoặc dùng oai nghi để nhiếp lấy chúng sinh.
Cho nên người xuất gia chúng ta, lúc nào cũng đều phải có oai nghi, đắp y phải ngay ngắn chỉnh tề, đừng hiện ra vẻ lười biếng uể oải. Đắp y thì bày vai phải, chứ chẳng phải là bày vai trái. Cho nên chúng ta người xuất gia tu đạo mà oai nghi không tốt, thì làm cho người tại gia cũng không sinh tín tâm. Khi chúng ta niệm Phật, thì hai tay để ở trước bụng, chứ chẳng phải để thòng xuống đầu gối, đó là kiểu giải đãi, hai tay cũng không thể để hai tay vào túi áo, đó đều là chẳng có oai nghi. Oai nghi giáo tướng, “lễ nghi ba trăm, oai nghi ba ngàn”, nên nhất cử nhất động, lời nói việc làm đều phải có oai nghi. Nếu bạn chẳng có oai nghi, thì chẳng có oai đức, mà chẳng có oai đức, thì người ta không phục bạn. Nếu những chi tiết nhỏ mà làm không tốt, thì những chỗ lớn càng không thể viên mãn được. Cho nên mỗi vị xuất gia, phải hiểu rằng: “Oai nghi giáo tướng”. Bạn thấy Bồ Tát đều phải dùng đủ thứ oai nghi để giáo hoá chúng sinh, hà huống là chúng ta? một chút oai nghi của người bình thường đều chẳng có, thì làm sao làm người xuất gia? Do đó, các vị phải chú ý, đừng đắp y bên dài, bên ngắn, bên cao, bên thấp, không ngay ngắn.
Bồ Tát Quán Thế Âm lại nói: “Hoặc ta vì chúng sinh thuyết pháp. Hoặc ta thị hiện thần thông biến hoá, khiến cho tâm họ khai ngộ mà được thành thục, thành thục rồi thì sẽ được giải thoát. Hoặc ta vì họ hoá hiện thân hình đồng loại, cùng ở chung với họ, sau đó giáo hoá họ từng chút từng chút, khiến cho họ thành thục.
Trong Kinh Pháp Hoa có tường thuật rõ ràng Bồ Tát Quán Thế Âm thị hiện đủ thứ hình tướng để giáo hoá chúng sinh rằng: “Phật bảo Bồ Tát Vô Tận Ý ! Nếu có chúng sinh đáng dùng thân Phật độ được, thì Bồ Tát Quán Thế Âm liền hiện thân Phật để vì họ nói pháp, cho đến thị hiện thân Bích Chi Phật, thân Thanh Văn, thân Phạm Vương, Tự Tại Thiên Vương, Đại Tự Tại Thiên Vương, đồng nam, đồng nữ, Thiên Long bát bộ, cư sĩ phụ nữ .v.v…” Tổng cộng có 32 thứ tướng ứng thân, nhưng đại Bồ Tát Quán Âm, đều có thể thị hiện hoá thân vạn loại, nhiều vô cùng vô tận.
Thiện nam tử! ngã tu hành thử đại bi hạnh môn, nguyện thường cứu hộ nhất thiết chúng sanh; nguyện nhất thiết chúng sanh, ly hiểm đạo phố, ly nhiệt não phố, ly mê hoặc phố, ly hệ phược phố, ly sát hại phố, ly bần cùng phố, ly bất hoạt phố, ly ác danh phố, ly ư tử phố, ly Đại chúng phố, ly ác thú phố, ly hắc ám phố, ly Thiên di phố, ly ái biệt phố, ly oán hội phố, ly bức bách thân phố, ly bức bách tâm phố, ly ưu bi phố.
Này thiện nam tử ! Ta tu hành môn đại bi hạnh này, nguyện thường cứu hộ tất cả chúng sanh, nguyện tất cả chúng sanh khỏi sợ con đường hiểm, khỏi sợ nhiệt não, khỏi sợ mê hoặc, khỏi sợ trói buộc, khỏi sợ sát hại, khỏi sợ nghèo cùng, khỏi sợ chẳng sống, khỏi sợ tiếng xấu, khỏi sợ sự chết, khỏi sợ đại chúng, khỏi sợ ác thú, khỏi sợ tối tâm, khỏi sợ dời đổi, khỏi sợ ái biệt ly, khỏi sợ oán thù gặp, khỏi sợ thân bức bách, khỏi sợ tâm bức bách, khỏi sợ lo buồn.
Giảng: Thiện nam tử! Ta tu hành môn hạnh đại bi nầy, nguyện thường cứu hộ tất cả chúng sinh. Nguyện tất cả chúng sinh xa lìa sợ đường hiểm, xa lìa sợ nhiệt não, lìa sợ mê hoặc cuồng loạn, xa lìa sợ bị trói buộc, do đó : “Nếu lại có người, hoặc có tội, hoặc không có tội, bị gông cùm xiềng xích trói buộc thân họ, xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, thì đều đứt gãy, liền được giải thoát”. Tôi lại nguyện tất cả chúng sinh xa lìa sự sợ giết hại, xa lìa sợ bần cùng.
Do đó: “Cứu bảy nạn, quy ba độc, ứng hai cầu. Mười bốn không sợ hãi, mười chín thuyết pháp, ba mươi hai ứng thân”. Nếu chúng sinh hay dùng lời xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, thì liền được trừ diệt bảy nạn :
1. Lửa không cháy.
2. Nước không ngập chết.
3. Gió ác không thổi được.
4. Đao chặt không đứt.
5. Ác quỷ không nhìn.
6. Gông cùm lìa thân.
7. Oán tặc giải thoát.
Trong Kinh Pháp Hoa có nói rằng: “Nếu có người trì danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, nhảy vào trong lửa lớn, lửa không thể thiêu đặng, vì do sức oai thần của Bồ Tát. Nếu có nước lớn cuốn trôi, xưng danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, thì liền được vào chỗ cạn. Nếu có trăm ngàn vạn ức chúng sinh, vì tìm cầu vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, chân châu .v.v… vào trong biển lớn. Giả xử gió đen thổi thuyền của họ trôi vào nước quỷ La Sát. Trong đó, nếu có một người, xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, thì các người đó, đều được giải thoát khỏi nạn quỷ La Sát, do nhân duyên đó, mà được tên là Quán Thế Âm”.
Nếu có chúng sinh dùng thân lễ bái Bồ Tát Quán Thế Âm, thì sẽ viên mãn hai nguyện (tức là nếu muốn cầu con trai, thì sẽ sinh được con trai có phước đức trí huệ. Nếu muốn cầu con gái, thì sẽ sinh được con gái, có tướng mạo xinh đẹp).
Nếu có chúng sinh dùng ý xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, thì sẽ thanh tịnh ba độc, tức là trong Kinh Pháp Hoa có nói: “Nếu có chúng sinh nhiều dâm dục, thường niệm cung kính Bồ Tát Quán Thế Âm, thì sẽ lìa dục”. Nhiều sân hận, nhiều ngu si, cũng như thế, đó là ba nghiệp quy hướng.
Bồ Tát Quán Tự Tại lại tiếp tục nói: “Ta nguyện tất cả chúng sinh xa lìa sự sợ hãi chẳng sống, xa lìa sợ tên ác, xa lìa sợ sự chết, xa lìa sợ oai đức đại chúng, xa lìa sợ ba đường ác, xa lìa sợ địa ngục đen tối, xa lìa sợ dời đổi cõi ác, xa lìa sợ thương mà xa lìa, xa lìa sợ ghét mà gặp nhau, xa lìa sợ bệnh tật hành hạ thân, xa lìa sợ tâm căng thẳng, mà đến được nơi an ổn, xa lìa sợ khổ não bi ai.
Phục tác thị nguyện: nguyện chư chúng sanh, nhược niệm ư ngã, nhược xưng ngã danh, nhược kiến ngã thân, giai đắc miễn ly nhất thiết bố úy.
Ta lại phát nguyện: Nguyện tất cả chúng sanh hoặc nhớ đến ta, hoặc xưng tên ta, hoặc thấy thân ta, thời đều được khỏi tất cả sự bố úy.
Giảng: Ta lại nguyện như vầy: Nguyện tất cả chúng sinh, nếu nhớ tới ta, nếu gọi tên ta, nếu thấy được thân ta, thì đều được lìa khỏi tất cả sự sợ hãi.
Thiện nam tử! ngã dĩ thử phương tiện, lệnh chư chúng sanh ly bố úy dĩ, phục giáo lệnh phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm vĩnh Bất-thoái-chuyển.
Này thiện nam tử ! Ta dùng phương tiện này làm cho chúng sanh khỏi sự bố úy, lại dạy họ phát tâm Vô thượng Bồ đề trọn chẳng thối chuyển.
Giảng: Thiện nam tử! Ta dùng phương tiện nầy, khiến cho các chúng sinh lìa sợ hãi rồi, sau đó ta lại dạy họ, khiến cho họ phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, vĩnh viễn đắc được quả vị không thối chuyển.
Thiện nam tử! ngã duy đắc thử Bồ Tát đại bi hạnh môn.
Này thiện nam tử ! Ta chỉ được môn Bồ Tát đại bi hạnh này.
Giảng: Thiện nam tử! Ta chỉ được môn giải thoát hạnh đại bi của Bồ Tát nầy
Như chư Bồ-Tát Ma-ha-tát, dĩ tịnh Phổ Hiền nhất thiết nguyện, dĩ trụ Phổ Hiền nhất thiết hành, thường hành nhất thiết chư thiện Pháp, thường nhập nhất thiết chư tam muội, thường trụ nhất thiết vô biên kiếp, thường tri nhất thiết tam thế Pháp, thường nghệ nhất thiết vô biên sát, thường tức nhất thiết chúng sanh ác, thường trưởng nhất thiết chúng sanh thiện, thường tuyệt chúng sanh sanh tử lưu; nhi ngã vân hà năng tri năng thuyết bỉ công đức hạnh?
Như chư đại Bồ Tát đã thanh tịnh tất cả nguyện Phổ Hiền, đã an trụ tất cả hạnh Phổ Hiền, thường thật hành tất cả thiện pháp, thường nhập tất cả tam muội, thường trụ tất cả vô biên kiếp, thường biết tất cả tam thế pháp, thường đến tất cả vô biên cõi, thường dứt tất cả chúng sanh ác, thường lớn tất cả chúng sanh thiện, thường tuyệt dòng sanh tử của chúng sanh. Ta thế nào biết được nói được công đức hạnh đó.
Giảng: Như các đại Bồ Tát đã thanh tịnh tất cả đại nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền, đã trụ tất cả hạnh của Bồ Tát Phổ Hiền, thường thường tu hành tất cả các pháp lành. Thường thường nhập vào tất cả các tam muội. Thường thường an trụ tất cả vô biên kiếp. Thường thường biết tất cả pháp ba đời. Thường thường đi đến tất cả vô biên cõi. Thường thường ngừng tất cả chúng sinh ác. Thường thường tăng trưởng tất cả chúng sinh thiện. Thường thường dứt bặc dòng sinh tử của chúng sinh. Mà ta Quán Tự Tại làm sao biết được nói được những hạnh công đức đó?
Nhĩ thời, Đông phương hữu nhất Bồ Tát, danh viết: chánh thú, tùng không trung lai, chí Ta Bà thế giới luân vi sơn đảnh, dĩ túc án địa; kỳ Ta Bà thế giới lục chủng chấn động, nhất thiết giai dĩ chúng bảo trang nghiêm.
Bấy giờ phương Ðông có Bồ Tát tên là Chánh Thu từ hư không đến thế giới Ta Bà trên đảnh núi Luân Vi Sơn, Bồ Tát này lấy chân ấn đất. Ta bà thế giới chấn động sáu cách, biến thành thất bửu trang nghiêm.
Giảng: Lúc đó, ở phương đông có một vị Bồ Tát, hiệu là Chánh Thú, từ hư không đến, đến đỉnh núi Luân Vi thế giới Ta Bà. Dùng chân của Ngài ấn xuống mặt đất thế giới Ta Bà, thì thế giới Ta Bà nầy bèn phát sinh sáu thứ chấn động (Động, dũng, khởi, chấn, hống, kích). Khi mặt đất động, thì ta như đứa trẻ trong cái nôi, chẳng biết cái nôi động, cảm giác rất thoải mái, nên mặt đất động là biểu thị điềm lành, mà đây là sáu thứ chấn động, chỉ có người có thiên nhãn thông mới thấy biết được, còn phàm phu thì chẳng biết được. Tất cả đều dùng đủ thứ báu để trang nghiêm.
Chánh thú Bồ Tát phóng thân quang minh, ánh tế nhất thiết nhật, nguyệt, tinh, điện, thiên long bát bộ, thích, phạm, hộ thế sở hữu quang minh giai như tụ mặc
Chánh Thu Bồ Tát phóng ánh sáng nơi thân che chói tất cả mặt nhựt mặt nguyệt. Tất cả quang minh của Thiên, Long, Bát Bộ, Ðế Thích, Phạm Vương Hộ Thế đều như đống mực đen.
Giảng: Bồ Tát Chánh Thú phóng ra quang minh từ trên thân Ngài, chiếu thấu triệt tất cả. Mặt trời, mặt trăng, tinh tú, đèn điện, Thiên Long bát bộ, Trời Đế Thích, Phạm Thiên, Trời Hộ Thế, hết thảy quang minh của họ, đều như đống mực đen, không thể nào sánh với quang minh của Bồ Tát.
Kỳ quang phổ chiếu nhất thiết địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ, Diêm la Vương xứ, lệnh chư ác thú, chúng khổ giai diệt, phiền não bất khởi, ưu bi tất ly.
Quang minh của Bồ Tát chiếu khắp tất cả địa ngục, súc sanh, ngạ quỉ, Diêm La Vương, làm cho chúng sanh nơi ác đạo hết khổ, chẳng khởi phiền não, đều rời lo buồn.
Giảng: Quang minh của Bồ Tát Chánh Thú đó, chiếu đến khắp tất cả địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ, chỗ Diêm La Vương, khiến cho đủ thứ thống khổ trong các đường ác đều tiêu diệt hết, phiền não chẳng sinh khởi, sầu lo đều xa lìa hết.
Hựu ư nhất thiết chư Phật quốc độ, phổ vũ nhất thiết hoa hương, anh lạc, y phục, tràng cái; như thị sở hữu chư trang nghiêm cụ, cúng dường ư Phật.
Lại khắp tất cả Phật độ mưa tất cả hoa, hương anh lạc, y phục, tràng phan, bửu cái, những đồ trang nghiêm để cúng dường chư Phật.
Giảng: Vị Bồ Tát đó, lại ở trong tất cả cõi nước chư Phật, khắp mưa xuống tất cả hương hoa anh lạc y phục tràng lọng. Hết thảy tất cả các đồ trang nghiêm như vậy, đều dâng lên cúng dường đức Phật.
Phục tùy chúng sanh tâm chi sở lạc, phổ ư nhất thiết chư cung điện trung nhi hiện kỳ thân, lệnh kỳ kiến giả giai tất hoan hỉ, nhiên hậu lai nghệ Quán Tự Tại sở.
Lại tùy sở thích của các chúng sanh mà hiện thân khắp trong tất cả cung điện, ai thấy cũng đều hoan hỷ. Sau đó Chánh Thu Bồ Tát mới đến chỗ của Quán Tự Tại Bồ Tát.
Giảng: Ngài lại tuỳ tâm ưa thích của chúng sinh, mà hiện sắc thân của Ngài khắp trong tất cả các cung điện, khiến cho họ thấy được Ngài, đều sinh tâm hoan hỉ. Sau đó Bồ Tát Chánh Thú đi đến chỗ đạo tràng Bồ Tát Quán Tự Tại.
Thời, Quán Tự Tại Bồ Tát cáo Thiện Tài ngôn: Thiện nam tử! nhữ kiến chánh thú Bồ Tát lai thử hội bất?
Bạch ngôn: dĩ kiến.
Quán Tự Tại Bồ Tát bảo Thiện Tài rằng: Thiện nam tử! Ngươi thấy Chánh Thu Bồ Tát đến pháp hội chăng ?
Giảng: Thiện Tài bạch rằng: Dạ con đã thấy!
Lúc đó, Bồ Tát Quán Tự Tại bảo Thiện Tài rằng: “Thiện nam tử! Ngươi có thấy Bồ Tát Chánh Thú đến hội nầy chăng”?
Thiện Tài bạch rằng: “Dạ con đã nhìn thấy”!
Cáo ngôn: Thiện nam tử! nhữ khả vãng vấn: Bồ Tát vân hà học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo?
Ngươi nên đến hỏi Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, thế nào tu Bồ Tát đạo ?
Giảng: Bồ Tát Quán Tự Tại nói rằng: “Thiện nam tử! Ngươi hãy đi đến đó thưa hỏi: Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh? Tu Bồ Tát đạo? Ngài sẽ vì ngươi mà diễn nói”?
========================
28. BỒ TÁT CHÁNH THÚ
PHÓ THÁC THỨ 28 – HỒI HƯỚNG TƯỚNG CHÂN NHƯ
Nhĩ thời, Thiện tài đồng tử kính thừa kỳ giáo, cự tức vãng nghệ bỉ Bồ Tát sở, đảnh lễ kỳ túc, hợp chưởng nhi lập, bạch ngôn: Thánh Giả! ngã dĩ tiên phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm, nhi vị tri Bồ Tát vân hà học Bồ Tát hạnh? vân hà tu Bồ Tát đạo? Ngã văn Thánh Giả thiện năng giáo hối, nguyện vi ngã thuyết!
Thiện Tài đồng nữ tuân lời liền đến đảnh lễ chân Chánh Thu Bồ Tát, chắp tay cung kính thưa rằng: Bạch đức Thánh ! Con đã phát tâm Vô thượng Bồ đề mà chưa biết Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh thế nào tu Bồ Tát đạo ? Con nghe đức Thánh khéo dạy bảo xin chỉ dạy cho.
Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử cung kính tuân theo lời dạy của Bồ Tát Quán Tự Tại, bèn lập tức đi đến chỗ Bồ Tát Chánh Thú, đảnh lễ Bồ Tát Chánh Thú, rồi chắp tay đứng bạch rằng: “Đức Thánh! Con trước đã phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, mà chưa biết Bồ Tát làm thế nào tu Bồ Tát hạnh? Làm thế nào tu Bồ Tát đạo? Con được Bồ Tát Quán Tự Tại giới thiệu đức Thánh Ngài cho con, nói đức Thánh Ngài khéo chỉ dạy tất cả chúng sinh, xin Ngài hãy vì con mà diễn nói”.
Đây là hồi hướng tướng chân như thứ tám. Thiện tri thức là Bồ Tát Chánh Thú, chánh thú là biểu thị chánh pháp biến thú, giáo hoá chúng sinh, dùng trí huệ chánh thú tướng chân như. Ở trước miêu tả Ngài từ hư không đến, biểu thị thể trí huệ của Ngài không chỗ nương tựa, nên khế hợp với chân như. Đế, trên đỉnh Luân Vi, biểu thị chân như nương tựa vọng tưởng và mê hoặc mà hiển bày. Cõi túc động, biểu thị dùng định lực túc, trừ khử tạp ác. Chỗ nầy Bồ Tát Chánh Thú và Bồ Tát Quán Tự Tại ở trước, thị hiện đồng một đạo tràng, cho nên Thiện Tài đồng tử không cần giống như ở trước, hướng về một vị thiện tri thức cúi đầu đảnh lễ, đi nhiễu bên phải vô số vòng, sau đó từ biệt mà đi tìm một vị thiện tri thức khác. Đây là biểu thị không lìa khỏi tuỳ thuận chúng sinh, mà đắc được tướng chân như. Hơn nữa, trí huệ của Bồ Tát Chánh Thú sẽ hợp với đại bi của Bồ Tát Quán Tự Tại, mà thành tựu cảnh giới vô trụ thù thắng.
Chánh Thú Bồ Tát ngôn: Thiện nam tử! ngã đắc Bồ Tát giải thoát, danh: Phổ môn tốc tật hành.
Chánh Thu Bồ Tát nói: Này thiện nam tử ! Ta được Bồ Tát giải thoát môn tên là “phổ môn tốc tật hành “.
Giảng: Bồ Tát Chánh Thú nói: “Thiện nam tử! Ta đắc được giải thoát Bồ Tát, tên là Hạnh phổ môn mau chóng”. Mười phương không bờ mé, nên gọi là phổ môn. Một niệm vượt qua nhiều, nên gọi là mau chóng.
Thiện Tài ngôn: Thánh Giả! ư hà Phật sở đắc thử pháp môn? sở tòng lai sát, khứ thử kỷ hà? phát lai cửu như?
Thiện Tài thưa: Bạch đức Thánh ! Nơi đức Phật nào được phát môn này ? Cõi của đức Thánh cách đây bao xa ? Từ đó đến đây bao lâu ?
Giảng: Thiện Tài đồng tử lại hỏi: “Đức Thánh! Ngài từ chỗ đức Phật nào đắc được pháp môn nầy? Ngài từ cõi Phật nào đến đây? Cõi Phật đó cách đây bao xa? Ngài từ đó đến đây thời gian khoảng bao lâu?
Cáo ngôn: Thiện nam tử! thử sự nan tri, nhất thiết thế gian Thiên, nhân, A-tu-la, Sa Môn, Bà-la-môn đẳng sở bất năng liễu; duy dũng mãnh tinh tiến vô thoái vô khiếp chư Bồ-tát chúng, dĩ vi nhất thiết thiện hữu sở nhiếp, chư Phật sở niệm, thiện căn cụ túc, chí lạc thanh tịnh, đắc Bồ Tát căn, hữu trí tuệ nhãn, năng văn năng trì, năng giải năng thuyết.
Chánh Thu Bồ Tát nói: Này thiện nam tử ! Việc này khó biết. Tất cả thế gian không thể rõ được. Chỉ trừ chư Bồ Tát dũng mảnh tinh tấn không thối không khiếp, đã được tất cả thiện hữu nhiếp thọ, chư Phật hộ niệm, thiện căn đầy đủ, chí nguyện thanh tịnh được căn Bồ Tát có mắt trí huệ, có thể nghe, có thể thọ trì, có thể hiểu, có thể nói.
Giảng: Bồ Tát Chánh Thú đáp: “Thiện nam tử! Việc nầy không dễ gì biết được, tất cả thế gian, trời, người, A tu la, Sa Môn, tinh tấn tu giới định huệ, diệt trừ tham sân si, Bà La Môn tu hạnh thanh tịnh .v.v… họ đều không thể biết được cảnh giới áo diệu nầy. Chỉ có tất cả các chúng Bồ Tát dũng mãnh tinh tấn, không thối lùi, không sợ hãi, các Ngài đã được tất cả bạn lành nhiếp trì, được chư Phật hộ niệm, căn lành đầy đủ, ý chí ưa thích thanh tịnh, đắc được căn Bồ Tát, có con mắt trí huệ, mới nghe được, thọ trì được, hiểu được, diễn nói được”.
Thiện Tài ngôn: Thánh Giả! ngã thừa Phật thần lực, thiện tri thức lực, năng tín năng thọ, nguyện vi ngã thuyết!
Thiện Tài thưa: Bạch đức Thánh ! Con thừa thần lực của Phật, của thiện tri thức, có thể tin, có thể thọ. Xin Bồ Tát nói cho.
Giảng: Thiện Tài đồng tử nói: “Đức Thánh! Con nương thần lực của Phật, sức lực của thiện tri thức, con có thể tin được, tiếp thọ được, xin Ngài hãy vì con mà diễn nói”.
Chánh thú Bồ Tát ngôn: Thiện nam tử! ngã tùng Đông phương diệu tạng thế giới phổ thắng sanh Phật sở nhi lai thử độ, ư bỉ Phật sở đắc thử pháp môn, tòng bỉ phát lai dĩ Kinh bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số kiếp, nhất nhất niệm trung cử bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số bộ, nhất nhất bộ qua bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới vi trần số Phật sát. Nhất nhất Phật sát, ngã giai biến nhập, chí kỳ Phật sở, dĩ diệu cung cụ nhi vi cúng dường; thử chư cung cụ, giai thị vô thượng tâm sở thành, vô tác Pháp sở ấn, chư Như Lai sở nhẫn, chư Bồ-tát sở thán.
Bồ Tát nói: Này thiện nam tử ! Ta từ Ðông phương Diệu Tạng thế giới chỗ đức Khổ Thắng Sanh Phật mà đến cõi này. Ta được pháp môn này ở tại đức Phật ấy. Từ cõi ấy đến đây đã trải qua bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số kiếp. Trong khoảng mỗi niệm cất bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số bước. Mỗi bước qua khỏi bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số cõi Phật. Mỗi cõi Phật, ta đều vào khắp, đến chỗ Phật ngự để cúng dường. Những đồ cúng này đều do tâm vô thượng làm thành, pháp vô tác ấn nên, chư Như Lai hứa khả, chư Bồ Tát khen ngợi.
Giảng: Bồ Tát Chánh Thú nói: “Thiện nam tử! Ta từ phương đông thế giới Diệu Tạng, chỗ đạo tràng đức Phật Phổ Thắng Sanh đến thế giới Ta Bà nầy. Ở chỗ đức Phật Phổ Thắng Sanh, ta đắc được pháp môn Hạnh phổ môn mau chóng nầy. Ta từ đó đến nay, đã trải qua số kiếp nhiều như số hạt bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật. Ở trong mỗi niệm, ta đi qua số bước nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật. Mỗi mỗi bước, chẳng phải ta bước đi những bước nhỏ, mà là ta bước đi qua nhiều cõi Phật nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới. Mỗi mỗi cõi Phật, ta đều vào khắp, đến chỗ đức Phật, dâng lên đồ cúng dường tốt nhất. Các đồ cúng dường đó, đều do tâm báu vô thượng làm thành, ấn chứng công đức pháp tài không pháp làm nên, được tất cả chư Phật hứa khả, tất cả các Bồ Tát khen ngợi.
Thiện nam tử! ngã hựu phổ kiến bỉ thế giới trung nhất thiết chúng sanh, tất tri kỳ tâm, tất tri kỳ căn, tùy kỳ dục giải, hiện thân thuyết Pháp, hoặc phóng quang minh, hoặc thí tài bảo, chủng chủng phương tiện, giáo hóa điều phục, vô hữu hưu tức.
Này thiện nam tử ! Ta lại thấy khắp tất cả chúng sanh trong những thế giới ấy, đều biết tâm của họ, đều biết căn của họ, theo chỗ hiểu của họ mà hiện thân thuyết pháp. Hoặc phóng quang minh, hoặc ban cho của báu, dùng nhiều phương tiện giáo hóa điều phục không thôi nghỉ.
Giảng: Thiện nam tử! Ta lại thấy khắp tất cả chúng sinh trong thế giới đó, ta đều hoàn toàn biết hết tâm họ nghĩ, đều hoàn toàn biết hết căn tánh họ sâu hay cạn, tuỳ theo ưa muốn hiểu biết trong tâm của họ, mà ta hiện thân vì họ thuyết pháp. Hoặc ta phóng đại quang minh chiếu soi họ, khiến cho họ tội nghiệp tiêu trừ, căn lành tăng trưởng, hoặc ta bố thí tài bảo. Ta dùng đủ thứ pháp môn phương tiện, giáo hoá điều phục chúng sinh can cường, ngày đêm không ngừng nghỉ.
Như tùng Đông phương, Nam, Tây, Bắc phương, tứ duy, thượng, hạ, diệc phục như thị.
Như ở phương Ðông, chín phương kia cũng như vậy.
Giảng: Chẳng những ở phương đông là như thế, mà ở phương nam tây bắc, bốn hướng trên dưới, ta cũng giáo hoá chúng sinh như thế”.
Chỗ nầy Bồ Tát Chánh Thú tuy là trả lời Thiện Tài đồng tử, nói Ngài từ chỗ đức Phật Phổ Thắng Sanh đắc được môn giải thoát Hạnh phổ môn mau chóng nầy. Kỳ thật, Ngài là từ trí huệ vốn có của mình, cõi Như Lai tạng, phổ sinh vạn thiện, bổn giác mà đắc được. Cho nên đi được mau chóng khắp, biết tất cả pháp, chẳng lìa tâm tánh, vạn hạnh mau thành.
Thiện nam tử! ngã duy đắc thử Bồ Tát phổ tật hành giải thoát, năng tật chu biến đáo nhất thiết xứ.
Này thiện nam tử ! Ta chỉ được môn giải thoát Bồ Tát phổ tật hành này, có thể mau chóng đến tất cả xứ.
Giảng: Thiện nam tử! Ta chỉ đắc được môn giải thoát Bồ Tát hạnh phổ môn mau chóng nầy, mau chóng đến khắp tất cả mọi nơi.
Như chư Bồ-Tát Ma-ha-tát, phổ ư thập phương vô sở bất chí, trí tuệ cảnh giới đẳng vô sái biệt, thiện bố kỳ thân tất biến Pháp giới, chí nhất thiết đạo, nhập nhất thiết sát, tri nhất thiết pháp, đáo nhất thiết thế, bình đẳng diễn thuyết nhất thiết pháp môn, đồng thời chiếu diệu nhất thiết chúng sanh, ư chư Phật sở bất sanh phân biệt, ư nhất thiết xứ vô hữu chướng ngại
Như chư đại Bồ Tát, khắp mười phương không chỗ nào chẳng đến. Trí huệ cảnh giới đồng nhau không khác. Khéo bủa thân mình khắp pháp giới. Ðến tất cả đạo, vào tất cả cõi, biết tất cả pháp, đến tất cả thế, bình đẳng diễn thuyết tất cả pháp môn. Ðồng thời chiếu diệu tất cả chúng sanh. Ðối với chư Phật chẳng sanh phân biệt. Với tất cả chỗ không bị chướng ngại.
Giảng: Như các đại Bồ Tát trong khắp mười phương, chẳng chỗ nào mà chẳng đến. Cảnh giới trí huệ của các Ngài bình đẳng không khác biệt, khéo phân thân các Ngài khắp cùng pháp giới, các Ngài đến tất cả các nẻo, vào tất cả các cõi Phật, biết tất cả các pháp, đến tất cả thế giới, bình đẳng diễn nói tất cả pháp môn, đồng thời chiếu soi tất cả chúng sinh. Ở chỗ đạo tràng của chư Phật, chẳng sinh tâm phân biệt. Các Ngài ở tất cả mọi nơi, đều không có chướng ngại.
Nhi ngã vân hà năng tri năng thuyết bỉ công đức hạnh?
Ta thế nào biết được nói được công đức hạnh đó.
Giảng: Mà ta làm sao biết được nói được những hạnh công đức đó?
Thiện nam tử! ư thử Nam phương hữu thành, danh: đọa la bát để; kỳ trung hữu Thần, danh viết: Đại Thiên. Nhữ nghệ bỉ vấn: Bồ Tát vân hà học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo?
Này thiện nam tử ! Phương Nam đây có thành tên là Ðọa La Bát Ðể. Trong thành có vị thần tên là Ðại Thiện. Ngươi đến đó hỏi Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, thế nào tu Bồ Tát đạo ?
Giảng: Thiện nam tử! Ở hướng nam nầy, có một thành thị tên là Đoạ La Bát Để. Ở trong đó có vị Thần tên là Đại Thiên, ngươi hãy đi đến đó hỏi: “Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh? Làm thế nào tu Bồ Tát đạo”?
Thời, Thiện tài đồng tử đảnh lễ kỳ túc, nhiễu vô số tạp, ân cần chiêm ngưỡng, từ thoái nhi khứ.
Thiện Tài đồng tử đảnh lễ chân Chánh Thu Bồ Tát, hữu nhiễu vô số vòng, ân cần chiêm ngưỡng từ tạ mà đi.
Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử đảnh lễ Bồ Tát Chánh Thú, rồi đi nhiễu vô lượng vòng, ân cần chiêm ngưỡng từ tạ mà đi tìm cầu vị thiện tri thức khác.
=====================
29. THẦN ĐẠI THIÊN
PHÓ THÁC THỨ 29 HỒI HƯỚNG – KHÔNG BUỘC KHÔNG CHẤP GIẢI THOÁT
Nhĩ thời, Thiện tài đồng tử nhập Bồ Tát quảng đại hạnh, cầu Bồ Tát trí tuệ cảnh, kiến Bồ Tát thần thông sự, niệm Bồ Tát thắng công đức, sanh Bồ Tát đại hoan hỉ, khởi Bồ Tát kiên tinh tấn, nhập Bồ Tát bất tư nghị tự tại giải thoát, hành Bồ Tát công đức địa, quán Bồ Tát tam muội địa, trụ Bồ Tát tổng trì địa, nhập Bồ Tát đại nguyện địa, đắc Bồ Tát biện tài địa, thành Bồ Tát chư lực địa.
Bấy giờ Thiện Tài nhập Bồ Tát quảng đại hạnh, cầu Bồ Tát trí huệ cảnh, thấy Bồ Tát thần thông sự, niệm Bồ Tát thắng công đức, sanh Bồ Tát đại hoan hỷ, khởi Bồ Tát kiên tinh tấn, nhập Bồ Tát bất tư nghì tự tại giải thoát, hành Bồ Tát công đức, quán Bồ Tát tam muội, trụ Bồ Tát tổng trì, nhập Bồ Tát đại nguyện, được Bồ Tát biện tài, thành Bồ Tát lực.
Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử nhập vào hạnh rộng lớn của Bồ Tát, cầu cảnh giới trí huệ của Bồ Tát, thấy việc thần thông của Bồ Tát, nghĩ nhớ công đức thù thắng của Bồ Tát, sinh tâm đại hoan hỉ của Bồ Tát, khởi tinh tấn kiên cố của Bồ Tát, nhập vào tự tại giải thoát không thể nghĩ bàn của Bồ Tát, tu hành bậc công đức của Bồ Tát, quán sát bậc tam muội của Bồ Tát, an trụ bậc tổng trì của Bồ Tát, nhập vào bậc đại nguyện của Bồ Tát, đắc được bậc biện tài của Bồ Tát, thành tựu bậc các lực của Bồ Tát.
Tiệm thứ du hành, chí ư bỉ thành, thôi vấn Đại Thiên kim tại hà sở? nhân hàm cáo ngôn: tại thử thành nội, hiện quảng đại thân, vi chúng thuyết Pháp. Nhĩ thời, Thiện Tài chí đại thiên sở, đảnh lễ kỳ túc, ư tiền hợp chưởng nhi tác thị ngôn: Thánh Giả! ngã dĩ tiên phát A-nậu-đa-la-tam miểu tam-Bồ-đề tâm, nhi vị tri Bồ Tát vân hà học Bồ Tát hạnh? vân hà tu Bồ Tát đạo?
Bấy giờ, Thiện Tài đi đến chỗ vị Thần Đại Thiên, đảnh lễ rồi ở trước Ngài chắp tay mà bạch rằng: Đức Thánh! Con trước đã phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, mà chưa biết Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh? Làm thế nào tu Bồ Tát đạo?
Giảng: Sau đó, Thiện Tài từ từ đi du hành về hướng nam, đến thành Đoạ La Bát Để, bèn đi các nơi hỏi Thần Đại Thiên hiện đang ở chỗ nào? Người trong thành đều đáp rằng: “Ngài Đại Thiên đang ở trong thành đó, hiện thân rộng lớn, vì đại chúng nói pháp”.
Lúc đó, Thiện Tài đồng tử đi đến chỗ đạo tràng của vị thần Đại Thiên, đảnh lễ Ngài rồi, ở trước mặt Ngài chắp tay mà bạch rằng: “Đức Thánh! Con trước đã phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, mà chưa biết Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh? Làm thế nào tu Bồ Tát đạo?
Ngã văn Thánh Giả thiện năng giáo hối, nguyện vi ngã thuyết! Nhĩ thời, đại thiên trường thư tứ thủ, thủ tứ đại hải thủy tự tẩy kỳ diện, trì chư kim hoa dĩ tán Thiện Tài, nhi cáo chi ngôn:
Con nghe đức Thánh khéo dạy bảo. Xin chỉ dạy cho. Lúc đó Ðại Thiên đưa bốn tay hứng lấy nước tứ đại hải rửa mặt mình, cầm bông vàng rải trên mình Thiện Tài mà bảo rằng:
Giảng: Con nghe Bồ Tát Chánh Thú giới thiệu Ngài cho con, nói đức Thánh Ngài khéo chỉ dạy tất cả chúng sinh, xin hãy vì con mà diễn nói”.
Đây là hồi hướng không ràng buộc, không chấp giải thoát thứ chín, biểu thị chẳng bị tướng ràng buộc, chẳng chấp trước tướng, tác dụng tự tại. Thiện tri thức tên gọi là Thần Đại Thiên, vì Ngài thị hiện đại thân, nên không ràng buộc không chấp, trí huệ thanh tịnh nên tự tại, do đó tên là Thiên. Xưng lý phổ ứng, nên tên là Đại. Diệu dụng khó dò, nên tên là Thần. Đoạ La Bát Để, dịch là “hữu môn”, biểu thị có pháp môn vi diệu không ràng buộc nầy.
Lúc đó, Thần Đại Thiên dơ ra bốn tay dài, lấy nước bốn biển, tự rửa mặt mình. Bốn cánh tay, biểu thị bốn vô ngại giải thoát, cũng là bốn biện tài vô ngại (Pháp vô ngại biện, nghĩa vô ngại biện, từ vô ngại biện, nhạo thuyết vô ngại biện). Nước bốn biển, biểu thị thắng lưu pháp thuỷ. Thần Đại Thiên dùng nước biển tự rửa mặt Ngài, biểu thị tự lợi, dùng rửa thân tâm. Sau cầm các hoa bằng vàng, rải lên Thiện Tài, biểu thị lợi tha, cũng biểu thị dùng bốn pháp nhiếp, nhiếp lấy bốn chúng.
Sau đó Thần Đại Thiên bảo Thiện Tài đồng tử rằng:
Thiện nam tử! nhất thiết Bồ Tát, nan khả đắc kiến, nan khả đắc văn, hy xuất thế gian, ư chúng sanh trung tối vi đệ nhất, thị chư nhân trung phân đà lợi hoa, vi chúng sanh quy, vi chúng sanh cứu, vi chư thế gian tác an ẩn xứ, vi chư thế gian tác đại quang minh, thị mê hoặc giả an ổn chánh đạo; vi đại đạo sư, dẫn chư chúng sanh nhập Phật Pháp môn; vi Đại pháp tướng, thiện năng thủ hộ nhất thiết trí thành.
Này thiện nam tử ! Tất cả Bồ Tát khó được thấy, khó được nghe, ít hiện ra thế gian, là đệ nhất trong các chúng sanh, là bạch liên hoa trong loài người. Là chỗ nương về của chúng sanh, là chỗ cứu hộ của chúng sanh. Là chỗ an ổn của các thế gian. Là đại quang minh của các thế gian. Chỉ đường chánh an ổn cho kẻ mê lầm. Là đại Ðạo Sư dẫn các chúng sanh nhập Phật pháp môn. Là đại pháp tướng giỏi thủ hộ thành Nhứt thiết trí.
Giảng: “Thiện nam tử! Tất cả Bồ Tát chẳng những khó có thể thấy được, mà thậm chí cũng rất khó có thể nghe được danh hiệu của Bồ Tát. Các Ngài rất ít thị hiện ra đời. Ở trong chúng sinh, Ngài là bậc nhất, là đoá hoa sen trắng trong loài người. Là chỗ trở về của chúng sinh. Là người cứu hộ chúng sinh. Là nơi an ổn của các thế gian. Là đại quang minh tạng của các thế gian. Chỉ bày tất cả chúng sinh mê hoặc, khiến cho họ an ổn nơi con đường chánh đáng. Là đại Đạo Sư của chúng sinh, dẫn dắt tất cả chúng sinh vào cửa Phật pháp. Là tướng đại pháp, khéo giữ gìn thành nhất thiết trí huệ.
Bồ Tát như thị nan khả trực ngộ, duy thân, ngữ, ý vô quá thất giả, nhiên hậu nãi đắc kiến kỳ hình tượng, văn kỳ biện tài, ư nhất thiết thời thường hiện tại tiền.
Bồ Tát như vậy rất khó gặp gỡ được. Chỉ có người thân, khẩu, ý ba nghiệp không lỗi mới thấy được hình tượng của chư Bồ Tát và nghe biện tài của các Ngài thuyết pháp, tất cả thời gian thường hiện ra trước.
Giảng: Bồ Tát khó có thể gặp được như vậy, chỉ có người thân miệng ý không lỗi lầm, mới thấy được hình tướng Bồ Tát, nghe được biện tài vô ngại của Bồ Tát. Bất cứ lúc nào, Bồ Tát cũng thường thị hiện ra ở trước họ.
Thiện nam tử! ngã dĩ thành tựu Bồ Tát giải thoát, danh vi: vân võng.
Này thiện nam tử ! Ta đã thành tựu Bồ Tát giải thoát tên là “Vân Võng”.
Giảng: Thần Đại Thiên nói: “Thiện nam tử! Ta đã thành tựu môn giải thoát của Bồ Tát, tên là Lưới mây”.
Thiện Tài ngôn: Thánh Giả! vân võng giải thoát cảnh giới vân hà?
Thiện Tài thưa: Bạch đức Thánh ! Cảnh giới của “Vân Võng giải thoát” thế nào ?
Giảng: Thiện Tài đồng tử hỏi: “Đức Thánh! Cảnh giới giải thoát Lưới mây như thế nào”?
Nhĩ thời, đại thiên ư Thiện Tài tiền, thị hiện kim tụ, ngân tụ, lưu ly tụ, pha lê tụ, xa cừ tụ, mã não tụ, Đại diệm bảo tụ, ly cấu tạng bảo tụ, đại quang minh bảo tụ, phổ hiện thập phương bảo tụ, bảo quán tụ, bảo ấn tụ, bảo anh lạc tụ, bảo đang tụ, bảo xuyến tụ, bảo tỏa tụ, châu võng tụ, chủng chủng ma-ni bảo tụ, nhất thiết trang nghiêm cụ tụ, như ý ma ni tụ, giai như Đại sơn;
Lúc đó Ðại Thiên, ở trước Thiện Tài, thị hiện đống vàng, đống bạc, đống lưu ly, đống pha lê, đống xa cừ, đống mã não, đống hỏa diệm bửu, đống ly cấu tạng bửu, đống đại quang minh bửu, đống phổ hiền thập phương bửu, đống bửu quan, đống bửu ấn, đống bửu anh lạc, đống bửu đương, đống bửu xuyến, đống bửu tỏa, đống bửu châu võng, đống ma ni bửu, đống trang nghiêm cụ, đống như ý ma ni. Tất cả đếu lớn như núi to.
Giảng: Lúc đó, thần Đại Thiên ở trước Thiện Tài, thị hiện đống vàng tựa như núi, đống bạc cũng vậy, cho đến đống lưu ly, đống pha lê, đống xa cừ, đống mã não, đống diệm báu lớn, đống tạng báu lìa cấu, đống đại quang minh báu, đống phổ hiện thập phương báu, đống mão báu, đống ấn báu, đống chuỗi báu, đống ngọc châu báu đeo tai, đống vòng tay báu, đống vòng báu, đống lưới châu, đống đủ thứ ma ni báu, đống tất cả đồ trang nghiêm, đống ma ni như ý, đều cao như núi lớn.
Lưới mây, là biểu thị dùng lục độ đại bi, như mây che phủ thấm nhuần, như lưới la nhiếp chúng sinh.
Hựu phục thị Hiện-Nhất-Thiết hoa, nhất thiết man, nhất thiết hương, nhất thiết thiêu hương, nhất thiết đồ hương, nhất thiết y phục, nhất thiết tràng phiên, nhất thiết âm nhạc, nhất thiết ngũ dục ngu lạc chi cụ, giai như sơn tích; cập hiện vô số bách thiên vạn ức chư đồng nữ chúng.
Ðại Thiên lại thị hiện tất cả hoa, tất cả tràng hoa, tất cả hương, tất cả hương đốt, tất cả hương thoa, tất cả y phục, tất cả tràn phan, tất cả âm nhạc, tất cả đồ vui ngũ dục. Mỗi mỗi đều chứa cao như núi. Lại hiện vô số trăm ngàn vạn ức chúng đồng nữ.
Giảng: Thần Đại Thiên lại thị hiện tất cả hoa, tất cả tràng hoa, tất cả hương, tất cả hương đốt, tất cả hương thoa, tất cả y phục, tất cả tràng phan, tất cả âm nhạc, tất cả đồ năm dục (tài sắc danh ăn ngủ) vui thích, đều chất đống cao như núi. Ngài lại thị hiện ra vô số trăm ngàn vạn ức các chúng đồng nữ,
Nhi bỉ đại thiên cáo Thiện Tài ngôn: Thiện nam tử! khả thủ thử vật, cúng dường Như Lai, tu chư phước đức, tinh thí nhất thiết, nhiếp thủ chúng sanh, lệnh kỳ tu học đàn ba-la-mật, năng xả nan xả.
Ðại Thiên bảo Thiện Tài rằng: Này thiện nam tử ! Nên đem những vật này cúng dường đức Như Lai, tu các phước đức và thí cho chúng sanh để nhiếp thủ họ, cho họ tu học Ðàn Ba la mật, có thể xả được thứ khó xa.
Giảng: Sau đó thần Đại Thiên bảo Thiện Tài rằng: “Thiện nam tử! Ngươi hãy lấy những vật đó, dâng lên cúng dường chư Phật, tu các phước đức, và bố thí cho tất cả, để nhiếp lấy chúng sinh, cũng khiến cho họ tu học bố thí Ba La Mật, xả bỏ được vật khó xả bỏ.
Thiện nam tử! như ngã vi nhữ, thị hiện thử vật, giáo nhữ hành thí; vi nhất thiết chúng sanh tất diệc như thị, giai lệnh dĩ thử thiện căn huân tập, ư Tam Bảo sở, thiện tri thức sở, cung kính cúng dường, tăng trưởng thiện Pháp, phát ư vô thượng Bồ-đề chi ý.
Này thiện nam tử ! Như ta vì ngươi mà thị hiện những vật này, dạy ngươi làm việc bố thí, ta vì chúng sanh khác cũng như vậy. Ðều khiến dùng thiện că này để huân tập, cung kính cúng dường Tam bửu và thiện tri thức, thêm lớn pháp lành, phát tâm Vô thượng Bồ đề.
Giảng: Thiện nam tử! Như ta vì ngươi thị hiện đủ thứ những vật nầy, là dạy ngươi tu hành pháp môn bố thí. Ta vì tất cả chúng sinh, cũng đều như thế, đều khiến cho họ nhờ đủ thứ căn lành huân tập nầy, cung kính cúng dường Tam Bảo, thiện tri thức, sẽ tăng trưởng pháp lành, mà phát tâm vô thượng bồ đề.
Thiện nam tử! nhược hữu chúng sanh tham trước ngũ dục, tự phóng dật giả, vi kỳ thị hiện bất tịnh cảnh giới
Này thiện nam tử ! Nếu có chúng sanh tham chấp ngũ dục tự phóng dật, thời ta vì họ mà thị hiện cảnh giới bất tịnh.
Giảng: Thiện nam tử! Nếu có chúng sinh, tham chấp năm dục (tài, sắc, danh, ăn, ngủ, hoặc sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp), tự phóng dật, thì ta vì họ thị hiện cảnh giới bất tịnh, khiến cho họ thức tỉnh.
Nhược hữu chúng sanh sân khuể, kiêu mạn, đa tránh cạnh giả, vi kỳ thị hiện cực khả phố hình, như La-sát đẳng ẩm huyết đạm nhục; lệnh kỳ kiến dĩ, kinh khủng hoàng cụ, tâm ý điều nhu, xả ly oán kết.
Nếu có chúng sanh sân hận kiêu mạn nhiều cạnh tranh, thời ta vì họ mà thị hiện thân hình rất đáng sợ như La Sát uống huyết ăn thịt v.v…cho họ xem thấy mà kinh hãi, tâm ý điều nhu rời bỏ thù oán .
Giảng: Nếu có chúng sinh, có tâm sân hận, kiêu ngạo, ngã mạn, trong mắt chẳng coi ai ra gì, thường cạnh tranh với người khác, thì ta vì họ thị hiện thân hình rất đáng sợ, như La Sát .v.v… uống máu ăn thịt chúng sinh, khiến cho họ thấy rồi, bèn sợ hãi kinh hoàng, tâm ý biến thành điều phục nhu thuận, xả lìa oán kết.
Nhược hữu chúng sanh hôn trầm, lại nọa, vi kỳ thị hiện Vương, tặc, thủy, hỏa cập chư trọng tật; lệnh kỳ kiến dĩ, tâm sanh hoàng phố, tri hữu ưu khổ nhi tự miễn sách.
Nếu có chúng sanh hôn trầm lười biếng, thời ta vì họ mà thị hiện những nạn vua, giặc, nước, lửa và các bệnh tật, cho họ kinh sợ biết khổ lo để họ tự cố gắng.
Giảng: Nếu có chúng sinh, hôn trầm lười biếng, thì ta vì họ thị hiện phạm vương pháp, trộm cướp, nước dìm, nạn lửa, và tất cả các chứng bệnh nặng, khiến cho họ thấy rồi, bèn sinh tâm kinh hãi, biết trên thế gian có nhiều sầu khổ, mà tự mình cố gắng sách tấn dụng công tu hành, không còn phóng dật lười biếng nữa.
Dĩ như thị đẳng chủng chủng phương tiện, lệnh xả nhất thiết chư bất thiện hành, tu hành thiện Pháp; lệnh trừ nhất thiết Ba-la-mật chướng, cụ Ba-la-mật; lệnh siêu nhất thiết chướng ngại hiểm đạo, đáo Vô chướng xứ.
Ta dùng những phương tiện như vậy, khiến chúng sanh bỏ những hạnh bất thiện mà tu pháp lành, trừ tất cả chướng Ba la mật để đầy đủ Ba la mật. Khiến họ vượt khỏi tất cả đường hiểm chướng ngại mà đến chỗ vô ngại.
Giảng: Ta dùng đủ thứ pháp môn phương tiện như vậy, khiến cho họ xả bỏ tất cả các hạnh bất thiện, mà tu hành pháp lành. Khiến cho họ trừ khử được tất cả chướng ngại Ba La Mật, mà đầy đủ pháp Ba La Mật đến bờ kia. Khiến cho họ vượt qua tất cả đường hiểm chướng ngại, đến được nơi không chướng ngại.
Thiện nam tử! ngã duy tri thử vân võng giải thoát.
Này thiện nam tử ! Ta chỉ biết môn giải thoát Vân Võng này.
Giảng: Thiện nam tử! Ta chỉ biết pháp môn giải thoát Lưới mây nầy.
Như chư Bồ-Tát Ma-ha-tát, do như Đế Thích, dĩ năng tồi phục nhất thiết phiền não A-tu-la quân; do như Đại thủy, phổ năng tiêu diệt nhất thiết chúng sanh chư phiền não hỏa; do như mãnh hỏa, phổ năng càn kiệt nhất thiết chúng sanh chư ái dục thủy; do như Đại phong, phổ năng xuy đảo nhất thiết chúng sanh chư kiến thủ tràng; do như Kim cương, tất năng tồi phá nhất thiết chúng sanh chư ngã kiến sơn.
Như chư đại Bồ Tát dường như Ðế Thích đã có thể dẹp trừ tất cả quân A Tu La phiền não. Dường như đại thủy có thể khắp tiêu diệt lửa phiền não của tất cả chúng sanh. Dường như lửa mạnh có thể khô cạn nước ái dục của tất cả chúng sanh. Dường như đại phong có thể thổi ngã tràng kiến thủ của tất cả chúng sanh. Dường như Kim cang có thể phá vỡ núi ngã kiến của tất cả chúng sanh.
Giảng: Như các đại Bồ Tát, các Ngài giống như trời Đế Thích, đã hàng phục được tất cả quân A tu la phiền não. Giống như nước lớn, khắp tiêu diệt được các lửa phiền não của tất cả chúng sinh. Giống như lửa mạnh, khắp khô cạn các nước ái dục của tất cả chúng sinh. Giống như gió lớn, khắp thổi bay các tràng kiến chấp của tất cả chúng sinh. Giống như kim cương, đều phá tan được các núi ngã kiến của tất cả chúng sinh.
Nhi ngã vân hà năng tri năng thuyết bỉ công đức hạnh?
Ta thế nào biết được nói được công đức hạnh đó.
Giảng: Mà ta làm sao biết được, nói được những hạnh công đức đó? Ngươi hãy đi tìm một vị thiện tri thức khác.
Thiện nam tử! thử Diêm-phù-đề Ma kiệt đề quốc Bồ-đề trường trung, hữu chủ địa thần, kỳ danh: an trụ. Nhữ nghệ bỉ vấn: Bồ Tát vân hà học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo?
Này thiện nam tử ! Ở nước Ma Kiệt Ðề, trong Bồ đề tràng có Chủ Ðịa Hằng tên là An Trụ. Người đến đó hỏi Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, thế nào tu Bồ Tát đạo ?
Giảng: Thiện nam tử! Trong Bồ Đề Tràng nước Ma Kệt Đề (phía đông Ấn Độ) nam Diêm Phù Đề nầy, có một vị Chủ Địa Thần (cai quản đất đai), tên là An Trụ. Ngươi hãy đi đến chỗ vị đó hỏi: “Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh? Tu Bồ Tát đạo”?
Thời, Thiện tài đồng tử lễ đại thiên túc, nhiễu vô số tạp, từ thoái nhi khứ.
Thiện Tài đồng tử đảnh lễ chân thần Ðại Thiên, hữu nhiễu vô số vòng, từ tạ mà đi.
Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử đảnh lễ vị Thần Đại Thiên, rồi đi nhiễu vô lượng vòng, sau đó ân cần từ tạ mà đi về hướng nam tìm cầu một vị thiện tri thức khác.
=================================
30. ĐỊA THẦN AN TRỤ
PHÓ THÁC THỨ 30 HỒI HƯỚNG – VÀO PHÁP GIỚI VÔ LƯỢNG
Nhĩ thời, Thiện tài đồng tử tiệm thứ du hành, thú Ma kiệt đề quốc Bồ-đề trường nội an trụ Thần sở, bách vạn địa thần đồng tại kỳ trung, cánh tướng vị ngôn: thử lai Đồng tử tức thị Phật tạng, tất đương phổ vi nhất thiết chúng sanh tác sở y xứ, tất đương phổ hoại nhất thiết chúng sanh vô minh (cốc -hòa +noãn )tạng. Thử nhân dĩ sanh pháp Vương chủng trung, đương dĩ ly cấu vô ngại Pháp tăng nhi quan kỳ thủ, đương khai trí tuệ Đại trân bảo tạng, tồi phục nhất thiết tà luận dị đạo.
Thiện Tài qua nước Ma Kiệt Ðề nơi Bồ Ðề Tràng, chỗ của Ðịa Thần An Trụ cùng ở với trăm vạn Ðịa Thần. Chư Thần bảo nhau: Ðồng tử đến kia chính là Phật tạng. Tất sẽ vì khắp tất cả chúng sanh mà làm chỗ sở y. tất đã khắp phá vỡ lốt vỏ vô minh của tất cả chúng sanh. Người này đã sanh trong dòng Pháp Vương. Sẽ dùng lụa pháp vô ngại ly cấu để vấn đầu. Sẽ mở kho trí huệ trân bửu lớn. Sẽ xô dẹp tất cả tà luận dị đạo.
Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử từ từ đi du hành về hướng nam, đến nước Ma Kiệt Đề, trong Bồ Đề Tràng, chỗ vị Thần An Trụ.
Đây là hồi hướng thứ mười vào pháp giới vô lượng, biểu thị bình đẳng đem pháp giới căn lành, hồi hướng về pháp giới. Thiện tri thức tên là Địa Thần An Trụ. Địa là chỗ nương của vạn pháp, tức là nhập vào pháp giới. An trụ, tức nghĩa là tiến vào. Bồ đề tràng, tức là nhập vào pháp giới, cũng là xứ sở của bồ đề.
Có trăm vạn vị Địa Thần cùng ở trong Bồ Đề Tràng, bèn nói với nhau rằng: “Vị đồng tử nầy đến, tức là Phật tạng, Ngài sẽ khắp vì tất cả chúng sinh làm chỗ nương tựa, sẽ khắp phá vỡ lớp vỏ vô minh của tất cả chúng sinh. Người nầy đã sinh trong dòng dõi Pháp Vương, sẽ dùng lụa pháp lìa cấu vô ngại mà quấn trên đầu, Ngài sẽ khai mở đại trân bảo tàng trí huệ, hàng phục tất cả tà luận dị đạo của ngoại đạo”.
Thời, an trụ đẳng bách vạn địa thần, phóng đại quang minh, biến chiếu tam thiên đại thiên thế giới, phổ lệnh Đại địa đồng thời chấn hống, chủng chủng bảo vật xứ xứ trang nghiêm, ảnh khiết quang lưu đệ tướng giám triệt; nhất thiết diệp thọ câu thời sanh trưởng, nhất thiết hoa thọ hàm cọng khai phu, nhất thiết quả thọ mị bất thành thục, nhất thiết hà lưu đệ tướng quán chú, nhất thiết trì chiểu tất giai doanh mãn;
Lúc đó An Trụ và trăm vạn Ðịa Thần phóng quang minh lớn chiếu khắp cõi Ðại Thiên. Làm khắp đại địa đồng thời chấn động. Nơi nơi trang nghiêm với những bửu vật chói sáng lẫn nhau. Tất cả lá cây đồng thời sanh lớn, tất cả bông đồng thời đua nở, tất cả trái đồng thời chín, tất cả dòng nước chảy rót lẫn nhau,tất cả ao đầm đều đầy nước.
Giảng: Lúc đó, vị Địa Thần An Trụ cùng trăm vạn vị Địa Thần khác, phóng đại quang minh, chiếu khắp ba ngàn đại thiên thế giới, cũng khiến cho khắp đại địa đồng thời phát sinh chấn động. Có đủ thứ báu vật, trang nghiêm khắp nơi, hình bóng trong sạch hổ tương chiếu soi lẫn nhau. Ánh sáng nầy chiếu đến ánh sáng kia, ánh sáng kia chiếu đến ánh sáng nọ, hổ tương vô ngại. Tất cả lá cây đều cùng sinh trưởng, tất cả hoa đều cùng nở ra, tất cả trái cây đều cùng chín. Tất cả dòng sông đều chảy xuống lẫn nhau, liên tục không ngừng, tất cả ao đầm đều tràn đầy nước.
Vũ tế hương vũ biến sái kỳ địa, phong lai xuy hoa phổ tán kỳ thượng, vô số âm nhạc nhất thời câu tấu, Thiên trang nghiêm cụ hàm xuất mỹ âm; ngưu vương, Tượng Vương, Sư tử Vương đẳng, giai sanh hoan hỉ, dõng dược, hao hống, do như Đại sơn tướng kích xuất thanh; bách thiên phục tạng tự nhiên dũng hiện.
Trời mưa nước thơm rửa khắp mặt đất, gió thổi rải hoa khắp nơi. Vô số âm nhạc đồng thời trỗi. Ðồ trang nghiêm đều vang tiếng diệu. Những Ngư vương, Tượng vương, Sư tử vương v.v…đều vui mừng nhảy nhót rống gầm, như núi to chạm nhau vang tiếng lớn. Trăm ngàn tạng báu tự nhiên hiện lên.
Giảng: Lại mưa xuống nước thơm, tẩy rửa khắp mặt đất. Gió thổi hoa rải khắp trên mặt đất. Lại có vô số âm nhạc, đồng thời đều tấu lên. Đồ trang nghiêm cõi trời đều cùng vang ra tiếng hay. Trâu chúa, voi chúa, sư tử chúa .v.v… đều sinh tâm vui mừng, nhảy nhót gầm hú, như núi lớn chạm nhau vang ra tiếng, có trăm ngàn bảo tàng ngầm dưới đất tự nhiên hiện lên.
Thời, an tứ trụ địa Thần cáo Thiện Tài ngôn: thiện lai Đồng tử! nhữ ư thử địa tằng chủng thiện căn, ngã vi nhữ hiện, nhữ dục kiến bất?
An Trụ Ðịa Thần bảo Thiện Tài: Lành thay Ðồng tử ! Tại chỗ này ngươi đã từng gieo thiện căn. Ta vì ngươi mà hiện. Ngươi muốn thấy chăng ?
Giảng: Lúc đó, vị Địa Thần An Trụ bảo Thiện Tài rằng: “Thiện lai đồng tử! Ngươi ở tại chỗ nầy, đã từng trồng căn lành. Hiện nay ta vì ngươi thị hiện cảnh giới nầy, ngươi có muốn thấy chăng”?
Cảnh giới của Kinh Hoa Nghiêm, đa số là hiện ra ở trong định, cho nên thời thời vô cùng vô tận, đều là nhân duyên thị hiện. Chúng ta nghe kinh đều nên biết tất cả cảnh giới nầy, đều ở trong định thuyết pháp, trong định hiện ra, đây đều là không thể nghĩ bàn.
Nhĩ thời, Thiện Tài lễ địa thần túc, nhiễu vô số tạp, hợp chưởng nhi lập, bạch ngôn: Thánh Giả! duy nhiên! dục kiến.
Thiện Tài liền đảnh lễ chân Ðịa Thần, hữu nhiễu vô số vòng, chắp tay cung kính thưa rằng: Bạch đức Thánh ! Con muốn được thấy.
Lúc đó, Thiện Tài đảnh lễ vị Địa Thần, rồi đi nhiễu quanh vô số vòng, đứng chắp tay bạch rằng: “Đức Thánh! Dạ con muốn thấy, thuở xưa con gieo trồng căn lành tại chỗ nầy như thế nào”!
Thời, an tứ trụ địa Thần dĩ túc án địa, bách thiên ức a-tăng-kì Bảo Tạng tự nhiên dũng xuất, cáo ngôn:
Ðịa Thần lấy chân ấn đất, trăm ngàn ức vô số bửu tạng tự nhiên trồi lên. Rồi bảo rằng:
Giảng: Lúc đó, vị Địa Thần An Trụ dùng chân ấn xuống đất, thì có trăm ngàn ức A tăng kỳ bảo tàng, tự nhiên hiện lên, sau đó vị Địa Thần An Trụ bảo rằng:
Thiện nam tử! kim thử Bảo Tạng tùy trục ư nhữ, thị nhữ vãng tích thiện căn quả báo, thị nhữ phước lực chi sở nhiếp thọ, nhữ ưng tùy ý tự tại thọ dụng.
Này thiện nam tử ! Những bửu tàng này theo ngươi luôn. Ðây là quả báo do thiện căn thuở xưa của ngươi. Ðây là phước lực của ngươi nhiếp thọ. Ngươi nên tùy ý tự tại thọ dụng.
Giảng: “Thiện nam tử! Nay đủ thứ bảo tàng nầy sẽ đi theo ngươi, đó là quả báo căn lành thuở xưa của ngươi đã gieo trồng, là phước lực của ngươi nhiếp thọ, ngươi hãy tuỳ ý thọ dụng tự tại”.
Thiện nam tử! ngã đắc Bồ Tát giải thoát, danh: bất khả hoại trí tuệ tạng, thường dĩ thử pháp thành tựu chúng sanh.
Này Thiện nam tử ! Ta được Bồ Tát giải thoát tên là ” Bất khả hoại trí huệ tạng”, ta thường dùng pháp này để thành tựu chúng sanh.
Giảng: Thiện nam tử! Ta được môn giải thoát của Bồ Tát, tên là Tạng trí huệ không thể hoại. Ta thường dùng pháp môn nầy mà thành tựu chúng sinh.
Thiện nam tử! ngã ức tự tùng Nhiên Đăng Phật lai, thường tùy Bồ Tát, cung kính thủ hộ, quan sát Bồ Tát sở hữu tâm hành, trí tuệ cảnh giới, nhất thiết thệ nguyện, chư thanh tịnh hạnh, nhất thiết tam muội, quảng đại Thần thông, Đại tự tại lực, vô năng hoại pháp, biến vãng nhất thiết chư Phật quốc độ, phổ thọ nhất thiết chư Như Lai kí, chuyển ư nhất thiết chư Phật Pháp luân, quảng thuyết nhất thiết tu-đa-la môn, Đại pháp quang minh phổ giai chiếu diệu, giáo hóa điều phục nhất thiết chúng sanh, thị hiện nhất thiết chư Phật thần biến, ngã giai năng lĩnh thọ, giai năng ức trì.
Này Thiện nam tử ! Ta nhớ từ Phật Nhiên Ðăng đến nay, ta thường theo Bồ Tát cung kính thủ hộ, quán sát Bồ Tát chỗ có những tâm hành, cảnh giới trí huệ, tất cả thệ nguyện, những hạnh thanh tịnh, tất cả tam muội, thần thông quảng đại, thần lực tự tại, những pháp bất hoại, qua khắp tất cả Phật độ, được khắp tất cả Như Lai thọ ky,ù chuyển pháp luân của tất cả chư Phật, diễn rộng tất cả môn tu đa la, đại pháp quang minh soi sáng khắp nơi, giáo hóa điều phục tất cả chúng sanh, thị hiện thần biến của tất cả chư Phật. Tất cả những công đức như trên của Bồ Tát ta đều có thể lãnh thọ, đều có thể ghi nhớ.
Giảng: Thiện nam tử! Ta nhớ từ thuở đức Phật Nhiên Đăng đến nay, ta thường theo Bồ Tát cung kính giữ gìn các Ngài, quán sát hết thảy cảnh giới tâm hạnh trí huệ của Bồ Tát, tất cả thệ nguyện các hạnh thanh tịnh, tất cả tam muội, thần thông rộng lớn, sức đại tự tại, pháp không thể hoại. Ta đi đến khắp tất cả cõi nước chư Phật, được khắp tất cả các Như Lai thọ ký, chuyển bánh xe diệu pháp của tất cả chư Phật, rộng nói tất cả môn Tu Đa La (Kinh điển), đại pháp quang minh của ta, đều chiếu sáng khắp tất cả thế giới, giáo hoá điều phục tất cả chúng sinh, ta thị hiện thần thông biến hoá của tất cả chư Phật. Đủ thứ những cảnh giới như vậy, ta đều lãnh thọ được, đều hoàn toàn ghi nhớ thọ trì được” (đây là biểu thị trí bất hoại của vị Địa Thần, nên thường nhớ trì được).
Thiện nam tử! nãi vãng cổ thế, qua Tu-di sơn vi trần số kiếp, hữu kiếp danh: trang nghiêm, thế giới danh: nguyệt tràng, Phật hiệu: Diệu Nhãn, ư bỉ Phật sở đắc thử pháp môn.
Này thiện nam tử ! Thuở xưa quá Tu Di sơn vi trần số kiếp, có một kiếp tên Trang Nghiêm, thế giới tên Nguyệt Tràng, Phật hiệu Diệu Nhãn. Chính ở chỗ đức Phật Diệu Nhãn mà ta được pháp môn này.
Giảng: Thiện nam tử! Lại về thuở xưa, trải qua số kiếp nhiều như số hạt bụi núi Tu Di, trong đó có kiếp tên là Trang nghiêm, thế giới tên là Nguyệt Tràng, đức Phật hiệu là Diệu Nhãn. Ở chỗ đạo tràng của đức Phật đó, ta đắc được pháp môn Tạng trí huệ không thể hoại nầy.
Thiện nam tử! ngã ư thử Pháp môn, nhược nhập nhược xuất tu tập tăng trưởng, thường kiến chư Phật vị tằng xả ly, thủy tòng sơ đắc nãi chí hiền kiếp, ư kỳ trung gian, trực ngộ bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số Như Lai, ưng, chánh đẳng giác, tất giai thừa sự, cung kính cúng dường; diệc kiến bỉ Phật nghệ Bồ-đề tòa, hiện đại thần lực; diệc kiến bỉ Phật sở hữu nhất thiết công đức thiện căn.
Này thiện nam tử ! Ta ở nơi pháp môn này, hoặc nhập, hoặc xuất, tu tập tăng trưởng thường thấy chư Phật chưa từng bỏ rời. Từ lúc mới được nhẫn đến Hiền kiếp này, khoảng thới gian đó ta gặp bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số Như Lai Ðẳng Chánh Giác. Ta đều phụng thờ cung kính cúng dường. Ta cũng thấy chư Phật ngồi tòa Bồ đề hiện đại thần lực. Cũng thấy những công đức thiện căn của chư Phật.
Giảng: Thiện nam tử! Ta nơi pháp môn nầy, hoặc vào, hoặc ra, ta đều tu tập tăng trưởng căn lành, thường thấy được tất cả chư Phật, chưa từng xả lìa. Thuở xưa từ lúc ban đầu đắc được pháp môn nầy, cho đến hiền kiếp hiện tại, trong thời gian đó, ta gặp được các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật, ta đều hầu hạ, cung kính cúng dường các Ngài, ta cũng thấy các đức Phật đó đến toà bồ đề, thị hiện đại thần lực. Ta cũng thấy tất cả công đức căn lành của hết thảy các đức Phật đó.
Thiện nam tử! ngã duy tri thử bất khả hoại trí tuệ tạng Pháp môn.
Này thiện nam tử ! Ta chỉ biết pháp môn “Bất khả hoại trí huệ tạng” này.
Giảng: Thiện nam tử! Ta chỉ biết pháp môn tạng trí huệ không thể hoại nầy.
Như chư Bồ-Tát Ma-ha-tát thường tùy chư Phật, năng trì nhất thiết chư Phật sở thuyết, nhập nhất thiết Phật thậm thâm trí tuệ, niệm niệm sung biến nhất thiết pháp giới, đẳng Như Lai thân, sanh chư Phật tâm, cụ chư Phật Pháp, tác chư Phật sự
Như chư đại Bồ Tát thường theo chư Phật, có thể thọ trì tất cả lời dạy của chư Phật, vào trí huệ thậm thâm của chư Phật, mỗi niệm đầy khắp tất cả pháp giới, đồng thân Như Lai, sanh tâm chư Phật, đủ pháp chư Phật, làm những Phật sự.
Giảng: Như các đại Bồ Tát thường theo chư Phật, thọ trì pháp của tất cả chư Phật nói, vào biển trí huệ thâm sâu của tất cả chư Phật, niệm niệm đầy khắp tất cả pháp giới, thân các Ngài đồng với thân Như Lai, bình đẳng không hai, sinh ra tâm chư Phật, đầy đủ pháp của chư Phật, làm các đại Phật sự.
Nhi ngã vân hà năng tri năng thuyết bỉ công đức hạnh?
Ta thế nào biết được nói được công đức hạnh đó.
Giảng: Mà ta làm sao biết được, nói được những hạnh công đức đó?
Chúng ta sắp đả xong Phật thất nầy, trong thời gian nầy, có người rất dụng công niệm Phật, có người thì niệm cho có lệ, chẳng chịu dụng công. Người dụng công, thì sẽ trồng xuống rất nhiều căn lành, giống như Thiện Tài đồng tử, có rất nhiều bảo tàng tụ tập lại. Người chẳng dụng công, thì giống như một số phàm phu, chẳng có phước báo, cũng chẳng trồng căn lành. Cho nên mỗi năm đả thất, tôi sẽ vì các vị giảng khai thị, chẳng muốn nói đây có lợi ích gì. Vì khi nói với quý vị về lợi ích, thì quý vị sẽ tham lợi ích, mà chẳng chịu chân chánh dụng công. Đả thất là việc công của đạo tràng, cũng là pháp môn mà mỗi cá nhân nên dụng công tu hành. Cho nên một mặt thì ủng hộ đạo tràng, một mặt thì tài bồi căn lành của mình.
Kỳ niệm Phật nầy, tôi nhìn thấy có những người không biết chắp tay là đúng, hay buông tay là đúng? Nhất là những người mới chưa hiểu biết. Khi bắt đầu niệm Phật thì chắp tay, đến lúc đi quanh niệm Phật thì buông tay xuống để ở trước ngực, chứ chẳng phải là buông tay thòng xuống đầu gối, đây là một thứ oai nghi giáo tướng, khi tụng Kinh Di Đà, tụng đến sáu phương chư Phật, thì chắp tay lên, biểu thị sự cung kính. Tụng xong sáu phương chư Phật thì bỏ tay xuống. Đồng thời khi tán Di Đà, thì chắp tay lên, đây là sự việc đại khái. Những người nào đã hiểu rồi, thấy những người chưa hiểu thì nên nói cho họ biết, cũng không chịu nói, là thị ý buông tay. Vì nói nhiều thì cũng không tốt, mọi người tốt nhất là không nói, trừ phi có chuyện gì đặc biệt, thì có thể nói. Việc chẳng quan trọng, mọi người hãy một lòng dụng công niệm Phật. Do đó có câu:
“Ít nói lời thị phi
Niệm nhiều danh hiệu Phật.
Đánh được niệm đầu chết
Pháp thân bạn sống lại”.
Bạn chẳng chuyên nhứt dụng công, cứ phan duyên với người khác, nói chuyện với người khác, đó đều là phan duyên, điểm nầy mọi người phải biết, khi buổi tối làm đại hồi hướng, thì đều chắp tay lên, tất cung tất kính.
Thiện nam tử! thử Diêm-phù-đề Ma kiệt đề quốc Ca-tỳ la thành, hữu chủ dạ thần, danh: Bà san bà diễn để.
Này thiện nam tử ! Trong thành Ca Tỳ La có Chủ Dạ Thần tên là Bà San Bà Diễn Ðể.
Giảng: Thiện nam tử! Trong thành Ca Tỳ La, nước Ma Kiệt Đề Diêm Phù Đề nầy, có vị Chủ Dạ Thần tên là Bà San Bà Diễn Để,
Nhữ nghệ bỉ vấn: Bồ Tát vân hà học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo?
Ngươi đến đó hỏi Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, thế nào tu Bồ Tát đạo ?
Giảng: Ngươi hãy đi đến chỗ vị đó hỏi: “Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh? Làm thế nào tu Bồ Tát đạo? Vị ấy sẽ vì ngươi nói”.
Thiện tài đồng tử lễ địa thần túc, nhiễu vô số tạp, ân cần chiêm ngưỡng, từ thoái nhi khứ.
Thiện Tài đồng tử đảnh lễ chân Ðịa Thần hữu nhiễu vô số vòng, ân cần chiêm ngưỡng từ tạ mà đi.
Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử đảnh lễ vị Địa Thần An Trụ, rồi đi nhiễu bên phải vô lượng vòng, ân cần chiêm ngưỡng vị thiện tri thức, sau đó từ tạ mà đi về hướng nam tìm cầu vị thiện tri thức khác.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét