Phẩm Thập Nhẫn

Kinh Hoa Nghiêm

Đại Phương Quảng Phật

giảng giải

Phẩm Thứ 29

Hòa Thượng TUYÊN HÓA
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Minh Ðịnh

— o0o —

PHẨM THẬP NHẪN

 

Ở trước đã giảng về thập định và thập thông, bây giờ giảng về thập nhẫn. Có định lực rồi mới có thần thông. Muốn có thần thông thì phải nhẫn, nhẫn được thì mới có định lực, đây là sự tác dụng với nhau, như kiền ba chân, thiếu một không đứng vững được.

Chữ nhẫn được cấu tạo bởi chữ tâm và chữ đao, trên chữ tâm có chữ đao. Giống như tâm bị đao cắt rất đau đớn, nhưng phải nhẫn chịu, không thể nổi nóng. Tâm đau đớn không dễ gì nhẫn chịu được, nhưng không thể nhẫn cũng phải nhẫn, do đó :

« Nhẫn những gì người khác không nhẫn được ».

Khi con người chưa gặp cảnh giới, thì tự mình cho rằng mình nhẫn được, nhẫn cũng nhẫn được, nhường cũng nhường được, song khi cảnh giới đến, thì không nhận thức được. Nhẫn cũng nhẫn không được, nhường cũng không nhường được, chạy theo vô minh, càng chạy thì cách chân lý càng xa, do đó trí huệ không thể hiện tiền được.

Phẩm này là phẩm thứ ba mươi chín trong Kinh Hoa Nghiêm, thuộc về phẩm thứ ba mươi chín, nên gọi là Phẩm Thập Nhẫn thứ ba mươi chín.

 

Nhĩ thời, Phổ Hiền Bồ Tát cáo chư Bồ-tát ngôn:

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng nhẫn, nhược đắc thử nhẫn, tức đắc đáo ư nhất thiết Bồ Tát vô ngại nhẫn địa, nhất thiết Phật pháp vô ngại vô tận.

Bấy giờ, Bồ Tát Phổ Hiền bảo các Bồ Tát rằng :

Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười thứ nhẫn, nếu đắc được nhẫn nầy, thì sẽ đắc được bậc vô ngại nhẫn của tất cả Bồ Tát, tất cả Phật pháp, vô ngại vô tận.

Giảng: Sau khi nói Phẩm Thập Thông rồi, thì lúc đó, Bồ Tát Phổ Hiền quán sát nhân duyên đại chúng trong pháp hội, nên nói pháp gì thì nói pháp đó. Quán căn cơ đại chúng rồi, đúng là nên nói pháp môn thập nhẫn, cho nên Bồ Tát Phổ Hiền bèn nói với hết thảy Bồ Tát trong pháp hội rằng :

Các vị đệ tử của Phật ! Vị đại Bồ Tát này tu hành hạnh Bồ Tát, tích tập đủ thứ căn lành, viên mãn lục độ vạn hạnh, Ngài phải tu hành pháp môn mười thứ nhẫn này. Nếu đắc được mười thứ nhẫn nầy, thì sẽ đắc được quả vị vô ngại nhẫn của tất cả Bồ Tát, đối với tất cả Phật pháp, viên dung vô ngại, viên mãn vô tận

 

Hà giả vi thập? sở vị: âm thanh nhẫn, thuận nhẫn, Vô sanh Pháp nhẫn, như huyễn nhẫn, như diễm nhẫn, như mộng nhẫn, như hưởng nhẫn, như ảnh nhẫn, như hóa nhẫn, như không nhẫn.

Những gì là mười ? Đó là : Âm thanh nhẫn, thuận nhẫn, vô sanh pháp nhẫn, như huyễn nhẫn, như diệm nhẫn, như mộng nhẫn, như vang nhẫn, như ảnh nhẫn, như hoá nhẫn, như không nhẫn.

Giảng: Những gì là mười thứ nhẫn ? Tức là :

1. Âm thanh nhẫn : Bất cứ là âm thanh tốt, hoặc âm thanh không tốt; âm thanh chánh đáng, hoặc âm thanh không chánh đáng; âm thanh thanh tịnh, hoặc âm thanh không thanh tịnh. Phàm là thuộc về tất cả âm thanh, đều phải nhẫn thọ, thậm chí khiến cho bạn thọ không được cũng phải nhẫn. Nhẫn không được mới phải nhẫn, thọ không được mới phải thọ. Nếu thọ được, hà tất phải nhẫn ? Giống như ở chợ náo nhiệt, tất cả tiếng nói khiến cho bạn tâm phiền ý loạn, lúc đó, bạn nghe mà không nghe, không bị chi phối, thì mới có định lực. Do đó : « Giữa chợ náo nhiệt mà tu hành », trải qua sự khảo nghiệm, mới có thể tăng tấn đạo nghiệp.

2. Thuận nhẫn : Tức cũng là nghịch nhẫn. Bất cứ là thuận hoặc là nghịch, đều phải nhẫn thọ. Thuận nhẫn là cảnh giới bạn hoan hỉ, giống như bạn hoan hỉ nhảy múa, nghe được tiếng âm nhạc thì thân thể càng không tự chủ được bèn đứng dậy nhảy. Nghịch nhẫn là cảnh giới bạn không hoan hỉ, giống như người mà bạn nhàm chán, mà họ lại đến tìm bạn để nhiễu loạn, cho nên thuận nghịch đều phải nhẫn. Vì muốn học Phật pháp, cho nên thọ người khinh khi, chịu người phỉ báng, chịu người mắng chưởi, chịu người đánh đập, đều phải nhẫn thọ. Do đó : « Nhẫn là báu vô giá », nhẫn được mới có thể thành đạo. Có người nói : « Tôi không muốn tu hành, vì tu hành quá khổ, không thể ăn nhiều, không thể mặc nhiều, không thể ngủ nhiều, tôi thật chịu không được, tôi muốn hoàn tục » ! Người có tư tưởng như thế, không thể chấp nhận được. Chúng ta tham thiền đả toạ, tức là tu công phu nhẫn, phải chịu chân đau, phải chịu lưng ê, nhẫn đến cực điểm, thì sẽ có tin tức.

3. Vô sanh pháp nhẫn : Nói đơn giản là không thấy có chút pháp sanh, cũng không thấy có chút pháp diệt, nhẫn thọ nơi tâm. Tức cũng là cảnh giới đoạn, thường, nhị kiến đều mất, ngã pháp hai chấp không sanh.

4. Như huyễn nhẫn : Tất cả pháp thế gian như huyễn như hoá, không thể nhận cho là chân thật. Nếu nhận cho là chân thật, thì liền bị cảnh giới chuyển, phải biết cảnh giới là hư huyễn không thật, cho nên đừng chấp trước. Nếu không chấp trước, tất cả đều buông bỏ được, thì sẽ được giải thoát.

5. Như diệm nhẫn : Khi mùa xuân, ở xa nhìn đại địa có hình tướng sóng nước, đến gần nhìn thì không có, đó tức là hiện tượng dương diệm. Tất cả sự vật thế gian, cũng giống như dương diệm, tuy có hình nhưng không thật thể, đừng có cho nó là chân thật, bằng không, thì tự mình cầu khổ não mà thôi.

6. Như mộng nhẫn : Người ở trong mộng, vừa làm quan, vừa phát tài, vừa có vợ đẹp, cảm thấy đời người rất là mỹ mãn, khi tỉnh dậy thì vẫn không có gì cả. Biết đời người như mộng, nếu nhẫn thọ được, thì không có phiền não.

7. Như vang nhẫn : Vang là do tiếng mà phát ra, nếu không có âm thanh, thì cũng không có tiếng vang, vì tiếng vang chẳng có thật thể. Chúng ta xem tất cả sự việc thế gian như tiếng vang mà nhẫn thọ, thì tự nhiên sẽ đắc được tự tại.

8. Như ảnh nhẫn : Phải xem tất cả hết thảy đều giống như ảnh. Do đó :« Hoa trong gương, trăng dưới nước ».
Nhìn tựa như có, kỳ thật là không, cái gì cũng không có. Hiểu được đạo lý này, thì sẽ không chấp trước.

9. Như hoá nhẫn : Tất cả thế gian đều biến hoá mà có, bổn lai chẳng có, hốt nhiên mà có, đây là hiện tượng biến hoá. Giống như nhà huyễn thuật, trong không biến có, trong có hoá không. Nếu quán thấy được như vậy, thì không có phiền não.

10. Như không nhẫn : Tất cả đều không, không có thật thể. Trong Kinh Kim Cang có nói :

“Tất cả pháp hữu vi
Như mộng huyễn bọt bong
Như sương cũng như điện
Hãy quán sát như vậy”.
Quán sát được như vậy, thì sẽ được không nhẫn.

 

Thử thập chủng nhẫn, tam thế chư Phật dĩ thuyết, kim thuyết, đương thuyết.

Đó là mười thứ nhẫn, ba đời chư Phật đã nói, đang nói, và sẽ nói.

Giảng: Pháp môn mười thứ nhẫn này, chư Phật đời quá khứ đã nói, chư Phật đời hiện tại đang nói, chư Phật đời vị lai sẽ nói. Ba đời chư Phật đều nói pháp môn này, để giáo hoá chúng sinh, khiến cho chúng sinh sớm lìa khỏi biển khổ, cùng lên bờ bên kia.

— o0o —

THỨ NHẤT, ÂM THANH NHẪN

Phật tử! vân hà vi Bồ-Tát Ma-ha-tát âm thanh nhẫn? vị văn chư Phật sở thuyết chi Pháp bất kinh, bất bố, bất úy, thâm tín ngộ giải, ái lạc thú hướng, chuyên tâm ức niệm, tu tập an trụ.

Phật tử! Thế nào là âm thanh nhẫn của đại Bồ Tát? Đó là nghe pháp của chư Phật nói, chẳng kinh, chẳng sợ, chẳng hãi. Tin sâu ngộ hiểu, ưa thích hướng đến, chuyên tâm nghĩ nhớ, tu tập an trụ.

Giảng: Bồ Tát Phổ Hiền lại gọi một tiếng các vị đệ tử của Phật! Thế nào là âm thanh nhẫn của đại Bồ Tát tu? Tức là nghe được pháp của mười phương chư Phật nói, không kinh hãi, không sợ sệt. Tin sâu pháp của chư Phật nói, giác ngộ thấu hiểu pháp của chư Phật nói. Ưa thích Phật pháp, hướng về Phật pháp, chuyên tâm nhất chí để nghĩ nhớ. Tức cũng là đọc tụng Kinh Hoa Nghiêm Đại Phương Quảng Phật, hoặc đọc tụng Kinh Đại Phật Đỉnh Thủ Lăng Nghiêm, hoặc đọc tụng Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, hoặc đọc tụng Kinh Kim Cang Bát Nhã, chỉ cần chuyên tâm để tụng, thì nhất định sẽ thuộc lòng. Tuy thuộc lòng, nhưng vẫn phải y pháp tu hành, bằng không, cũng giống như ca hát, không có lợi ích gì. Ví như trong Kinh nói : “Không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu”. Đây là năm giới lớn căn bản. Phàm là Phật giáo đồ, đều phải giữ gìn, không được phạm giới, song có người biết rõ mà cố phạm, như vậy lại có ích gì? Do đó : “Tri hành hợp nhất”, mới có lợi ích. Cho nên đối với pháp của chư Phật nói, chẳng những phải nghĩ nhớ, mà còn phải tu tập, còn phải an trụ.

 

Thị danh: Bồ-Tát Ma-ha-tát đệ nhất âm thanh nhẫn.

Đó gọi là âm thanh nhẫn thứ nhất của đại Bồ Tát.

Giảng: Đó tức là pháp môn nhẫn thứ nhất của đại Bồ Tát tu, gọi là âm thanh nhẫn.

 

— o0o —

THỨ HAI, THUẬN NHẪN

Phật tử! vân hà vi Bồ-Tát Ma-ha-tát thuận nhẫn? vị ư chư Pháp, tư tánh quan sát, bình đẳng vô vi, tùy thuận liễu tri, lệnh tâm thanh tịnh, chánh trụ tu tập, thú nhập thành tựu.

Phật tử! Thế nào là thuận nhẫn của đại Bồ Tát? Đó là đối với các pháp, tư duy quán sát, bình đẳng không trái, tuỳ thuận biết rõ, khiến cho tâm thanh tịnh, chánh trụ tu tập, hướng nhập thành tựu.

Giảng: Bồ Tát Phổ Hiền lại gọi một tiếng các vị đệ tử của Phật! Thế nào là thuận nhẫn của đại Bồ Tát tu? Tức là nói đối với tất cả các pháp, phải tư duy, phải quán sát. Phải bình đẳng để tư duy và quán sát, không thể trái với tất cả Phật pháp, phải tuỳ thuận tất cả Phật pháp, phải biết rõ tất cả Phật pháp. Bất cứ học Phật pháp gì, đều phải khiến cho tâm thanh tịnh, không tạp nhiễm, không có ý niệm không chánh đáng. Chánh trụ nơi Phật pháp, tu tập Phật pháp. Như vậy thì sẽ hướng nhập Phật pháp, thành tựu Phật pháp.

 

Thị danh: Bồ-Tát Ma-ha-tát đệ nhị thuận nhẫn.

Đó gọi là thuận nhẫn thứ hai của đại Bồ Tát.

Giảng: Đó tức là pháp môn nhẫn thứ hai của đại Bồ Tát tu, gọi là thuận nhẫn.

 

— o0o —

THỨ BA, VÔ SINH PHÁP NHẪN

Phật tử! vân hà vi Bồ-Tát Ma-ha-tát Vô sanh Pháp nhẫn?

Phật tử! thử Bồ-Tát Ma-ha-tát bất kiến hữu thiểu Pháp sanh, diệc bất kiến hữu thiểu pháp diệt. Hà dĩ cố?

Phật tử! Thế nào là vô sanh pháp nhẫn của đại Bồ Tát?

Phật tử! Đại Bồ Tát này, chẳng thấy có chút pháp sanh, cũng chẳng thấy có chút pháp diệt. Tại sao

Giảng: Bồ Tát Phổ Hiền lại gọi một tiếng các vị đệ tử của Phật! Thế nào là vô sanh pháp nhẫn của đại Bồ Tát tu?

Các vị đệ tử của Phật! Vị đại Bồ Tát này, chẳng thấy có chút pháp sanh ra, cũng chẳng thấy có chút pháp tiêu diệt đi. Không sanh không diệt, nhẫn thọ nơi tâm. Lý do tại sao?

 

Nhược vô sanh tức vô diệt, nhược vô diệt tức vô tận, nhược vô tận tức ly cấu, nhược ly cấu tức vô sái biệt, nhược vô sái biệt tức vô xứ sở, nhược vô xứ sở tức tịch tĩnh, nhược tịch tĩnh tức ly dục, nhược ly dục tức vô tác, nhược vô tác tức vô nguyện, nhược vô nguyện tức vô trụ, nhược vô trụ tức vô khứ vô lai.

Vì nếu không sanh thì không diệt, nếu không diệt thì không cùng tận. Nếu không cùng tận thì lìa cấu bẩn. Nếu lìa cấu bẩn thì không có sự sai biệt. Nếu không có sự sai biệt, thì không xứ sở. Nếu không xứ sở thì tịch tĩnh. Nếu tịch tĩnh thì lìa dục. Nếu lìa dục thì không tạo tác. Nếu không tạo tác thì không có nguyện. Nếu không có nguyện thì không chỗ trụ. Nếu không chỗ trụ thì không đến không đi.

Giảng: Vì nếu như không có sanh thì không có diệt, nếu không có diệt thì không cùng tận. Nếu không cùng tận thì lìa khỏi tất cả nhiễm ô cấu bẩn. Nếu lìa khỏi tất cả trần cấu thì không có sự phân biệt. Nếu không có sự phân biệt, thì không có một xứ sở nào. Nếu không có một xứ sở nào thì rốt ráo tịch tĩnh. Nếu rốt ráo tịch tĩnh thì lìa khỏi tài, sắc, danh, ăn, ngủ, năm dục niệm. Nếu lìa khỏi tất cả dục niệm thì chẳng có tạo tác. Nếu chẳng có tạo tác thì chẳng có nguyện. Nếu chẳng có nguyện thì chẳng có chỗ trụ. Nếu không có chỗ trụ thì không đến không đi.

 

Thị danh: Bồ-Tát Ma-ha-tát đệ tam Vô sanh Pháp nhẫn.

Đó gọi là vô sanh pháp nhẫn thứ ba của đại Bồ Tát.

Giảng: Đó tức là pháp môn nhẫn thứ ba của đại Bồ Tát tu, gọi là vô sanh pháp nhẫn.

 

— o0o —

THỨ TƯ, NHƯ HUYỄN NHẪN

Phật tử! vân hà vi Bồ-Tát Ma-ha-tát như huyễn nhẫn?

Phật tử! thử bồ tát Ma-ha tát tri nhất thiết pháp, giai tất như huyễn, tùng nhân duyên khởi, ư nhất pháp trung giải đa Pháp, ư đa Pháp trung giải nhất pháp.

Phật tử! Thế nào là như huyễn nhẫn của đại Bồ Tát?

Phật tử! Đại Bồ Tát này, biết tất cả pháp thảy đều như huyễn. Do nhân duyên khởi, ở trong một pháp hiểu nhiều pháp, ở trong nhiều pháp hiểu một pháp.

Giảng: Bồ Tát Phổ Hiền lại gọi một tiếng các vị đệ tử của Phật! Thế nào là như huyễn nhẫn của đại Bồ Tát tu?

Các vị đệ tử của Phật! Vị đại Bồ Tát này, biết tất cả các pháp, đều như huyễn như hoá, do nhân duyên sinh khởi. Ở trong một thứ pháp, thấu hiểu được nhiều thứ pháp; ở trong nhiều thứ pháp, thấu hiểu được một thứ pháp. Do đó :
“Một tức tất cả, tất cả tức một”.
Đó là cảnh giới một nhiều vô ngại, nhiều một viên dung.

 

Thử Bồ Tát tri chư Pháp như huyễn dĩ, liễu đạt quốc độ, liễu đạt chúng sanh, liễu đạt Pháp giới, liễu đạt thế gian bình đẳng, liễu đạt Phật xuất hiện bình đẳng, liễu đạt tam thế bình đẳng, thành tựu chủng chủng thần thông biến hóa.

Bồ Tát này, biết các pháp như huyễn rồi, thấu đạt cõi nước, thấu đạt chúng sinh, thấu đạt pháp giới, thấu đạt thế gian bình đẳng, thấu đạt Phật xuất hiện bình đẳng, thấu đạt ba đời bình đẳng, thành tựu đủ thứ thần thông biến hoá.

Giảng: Vị đại Bồ Tát này, biết tất cả các pháp, đều là hư huyễn. Tức thấu đạt tất cả cõi nước cũng là hư huyễn, thấu đạt tất cả chúng sinh cũng là hư huyễn, thấu đạt tất cả pháp giới cũng là hư huyễn, thấu đạt tất cả thế gian là bình đẳng, thấu đạt Phật xuất hiện là bình đẳng, thấu đạt ba đời là bình đẳng. Thành tựu đủ thứ thần thông biến hoá, đều là hư huyễn.

 

Thí như huyễn, phi tượng, phi mã, phi xa, phi bộ, phi nam, phi nữ, phi đồng nam, phi đồng nữ, phi thọ, phi diệp, phi hoa, phi quả, phi địa, phi thủy, phi hỏa, phi phong, phi trú, phi dạ, phi nhật, phi nguyệt, phi bán nguyệt, phi nhất nguyệt, phi nhất niên, phi bách niên, phi nhất kiếp, phi đa kiếp, phi định, phi loạn, phi thuần, phi tạp, phi nhất, phi dị, phi quảng, phi hiệp, phi đa, phi thiểu, phi lượng, phi vô lượng, phi thô, phi tế, phi thị nhất thiết chủng chủng chúng vật. Chủng chủng phi huyễn, huyễn phi chủng chủng, nhiên do huyễn cố, thị hiện chủng chủng sái biệt chi sự.

Ví như huyễn, chẳng phải voi, chẳng phải ngựa. Chẳng phải xe, chẳng phải đi bộ. Chẳng phải nam, chẳng phải nữ. Chẳng phải đồng nam, chẳng phải đồng nữ. Chẳng phải cây, chẳng phải lá, chẳng phải hoa, chẳng phải quả. Chẳng phải đất, chẳng phải nước, chẳng phải lửa, chẳng phải gió. Chẳng phải ban ngày, chẳng phải ban đêm. Chẳng phải ngày, chẳng phải tháng, chẳng phải nửa tháng, chẳng phải một tháng, chẳng phải một năm, chẳng phải trăm năm, chẳng phải một kiếp, chẳng phải nhiều kiếp. Chẳng phải định, chẳng phải loạn. Chẳng thuần, chẳng tạp. Chẳng một, chẳng khác. Chẳng rộng, chẳng hẹp. Chẳng nhiều, chẳng ít. Chẳng lượng, chẳng vô lượng. Chẳng thô, chẳng tế. Chẳng phải tất cả đủ thứ các vật đó, đủ thứ chẳng phải huyễn, huyễn chẳng phải đủ thứ, vì do huyễn, mà thị hiện đủ thứ sự việc khác biệt.

Giảng: Ví như huyễn biến hiện ra con voi, chẳng phải là con voi thật. Huyễn biến hiện ra con ngựa, chẳng phải là ngựa thật. Huyễn biến hiện ra xe, chẳng phải là xe thật. Huyễn biến hiện ra đi bộ, chẳng phải là đi bộ thật. Huyễn hoá hiện ra người nam, huyễn hoá ra người nữ, huyễn hoá ra đồng nam, huyễn hoá ra đồng nữ, đều chẳng phải người nam thật, người nữ thật, đồng nam thật, đồng nữ thật. Huyễn hoá ra cây, huyễn hoá ra lá, huyễn hoá ra hoa, huyễn hoá ra quả, đều chẳng phải là cây thật, lá thật, hoa thật, quả thật. Huyễn biến hiện ra đất, chẳng phải đất đai thật. Huyễn biến hiện ra nước, chẳng phải là nước thật. Huyễn biến hiện ra lửa, chẳng phải là lửa thật. Huyễn biến hiện ra gió, chẳng phải là gió thật. Huyễn biến hiện ra ban ngày, chẳng phải là ban ngày thật, huyễn biến hiện ra ban đêm, chẳng phải là ban đêm thật. Huyễn biến hiện ra ngày, chẳng phải là ngày thật. Huyễn biến hiện ra tháng, chẳng phải là tháng thật. Huyễn biến hiện ra nửa tháng, huyễn biến hiện ra một tháng, huyễn biến hiện ra một năm, huyễn biến hiện ra trăm năm, huyễn biến hiện ra một kiếp, huyễn biến hiện ra nhiều kiếp, đều chẳng phải thật. Huyễn hiện ra định, huyễn hiện ra loạn, huyễn hiện ra thuần, huyễn hiện ra tạp, huyễn hiện ra một, huyễn hiện ra khác, đều chẳng phải thật. Tóm lại, phàm là hư huyễn hiện ra đều chẳng chân thật.

Bồ Tát biết tất cả các pháp như huyễn, cho nên không chấp trước, cũng chẳng chấp trước rộng, cũng chẳng chấp trước hẹp, cũng chẳng chấp trước nhiều, cũng chẳng chấp trước ít, cũng chẳng chấp trước có số lượng, cũng chẳng chấp trước không có số lượng. Cũng chẳng chấp trước pháp thô, cũng chẳng chấp trước pháp tế. Cũng chẳng chấp trước tất cả đủ thứ sự vật. Đủ thứ chẳng phải hư huyễn, hư huyễn chẳng phải đủ thứ. Do vì hư huyễn, cho nên thị hiện đủ thứ sự vật khác nhau.

 

Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, quán nhất thiết thế gian như huyễn, sở vị: nghiệp thế gian, phiền não thế gian, quốc độ thế gian, Pháp thế gian, thời thế gian, thú thế gian, thành thế gian, hoại thế gian, vận động thế gian, tạo tác thế gian.

Đại Bồ Tát cũng lại như thế, quán tất cả thế gian như huyễn. Đó là: Nghiệp thế gian, phiền não thế gian, cõi nước thế gian, pháp thế gian, thời thế gian, thú thế gian, thành thế gian, hoại thế gian, vận động thế gian, tạo tác thế gian.

Giảng: Đại Bồ Tát cũng tình hình như vậy, Ngài quán sát tất cả thế gian, đều là hư huyễn. Đó là:

1. Nghiệp thế gian.
2. Phiền não thế gian.
3. Cõi nước thế gian.
4. Pháp thế gian.
5. Thời thế gian.

6. Thú thế gian.
7. Thành thế gian.
8. Hoại thế gian.
9. Vận động thế gian.
10. Tạo tác thế gian.

Mười thứ thế gian này, đều là hư huyễn, chẳng phải chân thật.

 

Bồ-Tát Ma-ha-tát quán nhất thiết thế gian như huyễn thời, bất kiến chúng sanh sanh, bất kiến chúng sanh diệt. Bất kiến quốc độ sanh, bất kiến quốc độ diệt. Bất kiến chư Pháp sanh, bất kiến chư pháp diệt. Bất kiến quá khứ khả phân biệt, bất kiến vị lai hữu khởi tác, bất kiến hiện tại nhất niệm trụ. Bất quan sát Bồ-đề, bất phân biệt Bồ-đề. Bất kiến Phật xuất hiện, bất kiến Phật Niết-Bàn. Bất kiến trụ đại nguyện, bất kiến nhập chánh trụ, bất xuất bình đẳng tánh.

Khi đại Bồ Tát quán tất cả thế gian như huyễn, thì chẳng thấy chúng sinh sinh, chẳng thấy chúng sinh diệt. Chẳng thấy cõi nước sinh, chẳng thấy cõi nước diệt. Chẳng thấy các pháp sinh, chẳng thấy các pháp diệt. Chẳng thấy quá khứ có thể phân biệt, chẳng thấy vị lai có khởi tác, chẳng thấy hiện tại một niệm trụ. Chẳng quán sát bồ đề, chẳng phân biệt bồ đề. Chẳng thấy Phật xuất hiện, chẳng thấy Phật vào Niết bàn. Chẳng thấy trụ nguyện lớn, chẳng thấy vào chánh vị, chẳng xuất tánh bình đẳng.

Giảng: Khi đại Bồ Tát quán sát tất cả thế gian như huyễn, thì chẳng thấy có chúng sinh sinh, cũng chẳng thấy có chúng sinh diệt. Chẳng thấy có cõi nước sinh, cũng chẳng thấy có cõi nước diệt. Chẳng thấy có các pháp sinh, cũng chẳng thấy có các pháp diệt. Chẳng thấy pháp quá khứ có thể phân biệt, cũng chẳng thấy pháp vị lai có sự khởi tác, cũng chẳng thấy pháp hiện tại ở trong một niệm có chỗ trụ. Vì hết thảy tất cả đều do hư huyễn thành tựu. Bồ Tát đối với tất cả các pháp chẳng có tất cả sự chấp trước, hành sở vô sự, cho nên chẳng thấy quá khứ, chẳng có sự phân biệt quá khứ. Chẳng thấy vị lai, chẳng có tác khởi vị lai. Chẳng thấy hiện tại, chẳng có một niệm chấp trước hiện tại.

Bồ Tát chẳng quán sát bồ đề, nhưng tu hạnh bồ đề. Do đó :

“Chỉ hỏi trồng trọt
Đừng hỏi thu hoạch”.

Khi mùa xuân trì làm ruộng, nỗ lực trồng trọt, mà không hỏi mùa thu thu hoạch như thế nào, đó là tư tưởng của người nông dân. Bồ Tát chẳng những không quán sát bồ đề, mà cũng không phân biệt bồ đề. Bồ Tát chẳng chấp trước vào Phật xuất hiện ra đời, cũng chẳng chấp trước vào Phật nhập Niết Bàn, cũng chẳng chẳng chấp trước vào đại nguyện của bậc Đẳng giác và Diệu giác trụ. Do đó :

“Quét tất cả pháp, lìa tất cả tướng”.

Cũng chẳng chấp trước vào thấy chứng được quả vị Phật, cũng chẳng chấp trước vào tánh bình đẳng. Tóm lại, gì cũng chẳng chấp trước.

 

Thị Bồ Tát tuy thành tựu Phật quốc độ, tri quốc độ vô sái biệt. Tuy thành tựu chúng sanh giới, tri chúng sanh vô sái biệt. Tuy phổ quán Pháp giới, nhi an trụ pháp tánh tịch nhiên bất động. Tuy đạt tam thế bình đẳng, nhi bất vi phân biệt tam thế Pháp. Tuy thành tựu uẩn, xứ, nhi vĩnh đoạn sở y. Tuy độ thoát chúng sanh, nhi liễu tri Pháp giới bình đẳng vô chủng chủng sái biệt. Tuy tri nhất thiết pháp viễn ly văn tự bất khả ngôn thuyết, nhi thường thuyết Pháp biện tài vô tận. Tuy bất thủ trước hóa chúng sanh sự, nhi bất xả đại bi, vi độ nhất thiết chuyển ư Pháp luân. Tuy vi khai thị quá khứ nhân duyên, nhi tri nhân duyên tánh vô hữu động chuyển.

Bồ Tát đó, tuy thành tựu cõi Phật, biết cõi nước không khác biệt. Tuy thành tựu cõi chúng sinh, biết chúng sinh không khác biệt. Tuy quán khắp pháp giới, mà an trụ pháp tánh, tịch nhiên bất động. Tuy đạt được ba đời bình đẳng, mà chẳng trái phân biệt pháp ba đời. Tuy thành tựu uẩn xứ, mà dứt hẳn chỗ nương tựa. Tuy độ thoát chúng sinh, mà biết rõ pháp giới bình đẳng, không có đủ thứ sự khác biệt. Tuy biết tất cả pháp xa lìa văn tự, không thể nói được, mà thường thuyết pháp, biện tài vô tận. Tuy chẳng chấp trước, việc giáo hoá chúng sinh, mà chẳng bỏ đại bi, vì độ tất cả mà chuyển bánh xe pháp. Tuy vì khai thị nhân duyên quá khứ, mà biết tánh nhân duyên không có động chuyển.

Giảng: Vị Bồ Tát đó, tuy thành tựu cõi nước chư Phật, biết cõi nước không có sự phân biệt. Tuy thành tựu cõi chúng sinh, biết chúng sinh không có sự phân biệt. Loài người chúng ta, tuy có chủng tộc khác nhau, ngôn ngữ khác nhau, văn tự khác nhau, phong tục khác nhau, nhưng mọi người đều là con người. Bồ Tát tuy quán sát khắp tất cả pháp giới, mà vẫn ở tại cõi nước của mình, an trụ trong pháp tánh, tịch nhiên bất động. Tuy Bồ Tát thấu đạt được ba đời đều là bình đẳng, mà chẳng trái phân biệt pháp ba đời.

Tuy Bồ Tát thành tựu năm uẩn, mười hai xứ, mười tám giới, mà dứt hẳn chỗ nương tựa thế giới. Giống như Bồ Tát có thể phá một phần vô minh cuối cùng, thì có thể thành Diệu giác, nhưng Bồ Tát không phá một phần vô minh này, vẫn hoà quang hỗn tục, ở trong chúng sinh giáo hoá chúng sinh, làm mô phạm cho chúng sinh. Ngài khiến cho chúng sinh sinh ra tư tưởng như vầy: “Bạn có thể khai ngộ, tôi cũng có thể khai ngộ. Bạn chứng được ngũ nhãn lục thông, tôi cũng có thể chứng được ngũ nhãn lục thông”, có sự tác dụng như thế.

Nếu hiện thân khác nhau, hoặc màu da nhan sắc khác nhau, thì tâm chúng sinh sẽ khởi hảo cảm tác dụng, sẽ dễ dàng giáo hoá. Cho nên Bồ Tát ở trong mỗi chủng tộc, hiện thân giống như vậy để vì chúng sinh thuyết pháp, khiến cho mỗi chủng tộc sinh ra tâm lý tự hào rằng: “Trong chủng tộc chúng ta cũng có người tu đạo, cũng có người thành đạo”. Do đó bèn phát bồ đề tâm, như vậy sẽ khiến cho chúng sinh có sự hy vọng, mà chẳng tuyệt vọng. Bồ Tát dụng tâm khổ cực như vậy, nghĩ hết biện pháp để giáo hoá chúng sinh. Bồ Tát vì hằng thuận chúng sinh, mà làm việc chúng sinh ưa thích, nhưng tuyệt đối không chấp trước, đó tức là cảnh giới của Bồ Tát.

Tuy Bồ Tát độ thoát tất cả chúng sinh, mà biết rõ pháp giới là bình đẳng, chúng sinh tức là Phật, Phật tức là chúng sinh, không có đủ thứ mọi sự phân biệt. Có người nói: “Đạo lý này tôi không tin”, tin hay không tin đều là Phật giáo, vì tánh của bạn và tánh của Phật, chẳng có sự phân biệt, là một thể, chẳng phải vấn đề bạn tin hay không tin, bạn tin hay không tin đều chẳng có quan hệ gì cả.

Tôi thường nói: “Hôm nay bạn không tin Phật, tôi đợi bạn ngày mai. Ngày mai bạn cũng không tin, thì tôi đợi bạn ngày mốt. Ngày mốt bạn cũng không tin Phật, thì tôi đợi bạn một năm, hoặc một đời, thậm chí nhiều đời, cho đến một đại kiếp, cuối cùng sẽ có một ngày bạn sẽ tin Phật”. Tại sao? Vì Phật giáo là tận hư không khắp pháp giới, nếu bạn chạy ra ngoài hư không được, thì bạn không cần tin Phật. Nếu bạn có thể chạy ra ngoài pháp giới được, thì cũng không cần tin Phật, chỉ e rằng bạn không có bản lãnh như thế, cho nên bạn sớm sẽ tin Phật.

Tuy Bồ Tát biết tất cả các pháp xa lìa tất cả văn tự, không lời lẽ để nói, do đó: “Ngôn ngữ đạo đoạn”, tức là lời nói đã dứt bặc, chẳng còn gì để nói. Bản thể của pháp là chẳng lập ngôn ngữ, chẳng lập văn tự. Pháp tuy nhiên không thể nói, nhưng Phật Bồ Tát lại luôn luôn thuyết pháp, có cảnh giới biện tài vô tận, thao thao bất tuyệt, đạo lý nói ra đều là chánh tri chánh kiến, chẳng phải cường từ đoạt lý, không có ai bắt bẻ được.

Tuy Bồ Tát chẳng chấp trước việc giáo hoá chúng sinh, mà chẳng xả bỏ tâm đại bi, vì độ tất cả mà chuyển bánh xe pháp. Có người hỏi: “Thế nào là chuyển bánh xe pháp?” Bạn không minh bạch thì có thể đến Kim Sơn Thánh Tự để tham quan. Kim Sơn Thánh Tự hằng ngày chuyển bánh xe pháp (giảng kinh thuyết pháp). Chuyển đến chuyển lui, chuyển ra Kim Luân Thánh Tự (tại Los Angeles), lại chuyển ra một Như Lai Tự (tại Vạn Phật Thánh Thành). Càng chuyển càng nhiều, tương lai hoằng dương Phật pháp đến toàn thế giới.

Tuy Bồ Tát khai thị tất cả chúng sinh, khiến cho họ biết nhân duyên và quả báo đời quá khứ, mà Ngài cũng biết nhân duyên là tánh không, chẳng có một thể nào cả, cho nên chẳng động chuyển.

 

Thị danh: Bồ-Tát Ma-ha-tát đệ tứ như huyễn nhẫn.

Đó gọi là như huyễn nhẫn thứ tư của đại Bồ Tát.

Giảng: Đó tức là pháp môn nhẫn thứ tư của đại Bồ Tát tu, gọi là như huyễn nhẫn.

 

— o0o —

THỨ NĂM, NHƯ DIỆM NHẪN

Phật tử! vân hà vi Bồ-Tát Ma-ha-tát như diễm nhẫn?

Phật tử! thử bồ tát Ma-ha tát tri nhất thiết thế gian đồng ư dương diệm. Thí như dương diệm, vô hữu phương sở, phi nội, phi ngoại, phi hữu, phi vô, phi đoạn, phi thường, phi nhất sắc, phi chủng chủng sắc diệc phi vô sắc, đãn tùy thế gian ngôn thuyết hiển thị. Bồ Tát như thị như thật quan sát, liễu tri chư Pháp, hiện chứng nhất thiết, lệnh đắc viên mãn.

Phật tử! Thế nào là như diệm nhẫn của đại Bồ Tát?

Phật tử! Đại Bồ Tát này, biết tất cả thế gian giống như dương diệm. Ví như dương diệm, không có phương sở, không trong, không ngoài, chẳng có, chẳng không, chẳng đoạn, chẳng thường, chẳng một sắc, chẳng đủ thứ sắc, nhưng tuỳ thế gian lời nói hiển bày. Bồ Tát như vậy, quán sát như thật, biết rõ các pháp, hiện chứng tất cả, khiến cho được viên mãn.

Giảng: Bồ Tát Phổ Hiền lại gọi một tiếng các vị đệ tử của Phật! Thế nào là như diệm nhẫn của đại Bồ Tát tu? Các vị đệ tử của Phật! Vị đại Bồ Tát này, Ngài biết hết thảy tất cả pháp thế gian giống như dương diệm, ở xa nhìn tựa như có, đến gần nhìn thì không có, là hư vọng không thật, nó chẳng có xứ sở nhất định, chẳng có nơi đến, cũng chẳng có nơi đi. Nói nó có chăng? Ở gần nhìn thì chẳng có; nói nó chẳng có chăng? Ở xa nhìn thì tựa như vũng nước. Dương diệm cũng chẳng phải đoạn, cũng chẳng phải thường, không thể nói nó là đoạn diệt, vì nó tuỳ thời có thể không có, nó cũng chẳng phải một thứ sắc, cũng chẳng phải đủ thứ sắc, cũng chẳng phải chẳng có sắc. Nhưng Bồ Tát tuỳ thuận chúng sinh thế gian, mà dùng lời nói để hiển bày.

Bồ Tát dùng lý thể chân thật, trí huệ chân chánh để quán cảnh giới này, thấu rõ đạo lý thật tướng của tất cả các pháp, hiện chứng tất cả quả vị, chẳng những khiến cho mình được viên mãn bồ đề, cũng khiến cho tất cả chúng sinh đều được viên mãn bồ đề, đó tức là tinh thần tự giác giác tha của Bồ Tát.

 

Thị danh: Bồ-Tát Ma-ha-tát đệ ngũ như diễm nhẫn.

Đó gọi là như diệm nhẫn thứ năm của đại Bồ Tát.

Giảng: Đó tức là pháp môn nhẫn thứ năm của đại Bồ Tát tu, gọi là như diệm nhẫn.

 

— o0o —

THỨ SÁU, NHƯ MỘNG NHẪN

Phật tử! vân hà vi Bồ-Tát Ma-ha-tát như mộng nhẫn?

Phật tử! thử bồ tát Ma-ha tát tri nhất thiết thế gian như mộng. Thí như mộng, phi thế gian, phi ly thế gian, phi dục giới, phi sắc giới, phi vô sắc giới, phi sanh, phi một, phi nhiễm, phi tịnh, nhi hữu thị hiện.

Phật tử! Thế nào là như mộng nhẫn của đại Bồ Tát?

Phật tử! Bồ Tát nầy, biết tất cả thế gian như mộng. Ví như mộng, chẳng phải thế gian, chẳng phải lìa thế gian, chẳng phải dục giới, chẳng phải sắc giới, chẳng phải vô sắc giới, chẳng sinh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh, mà có sự thị hiện.

Giảng: Bồ Tát Phổ Hiền lại gọi một tiếng các vị đệ tử của Phật! Thế nào là như mộng nhẫn của đại Bồ Tát tu? Các vị đệ tử của Phật! Vị Bồ Tát nầy, Ngài biết tất cả thế gian như giấc mộng, chẳng có thật thể.

Khi chúng ta nằm mộng, chẳng biết là đang nằm mộng. Ở trong mộng, vừa thăng quan, vừa phát tài, vợ đẹp thiếp xinh, con cái đầy nhà, đời sống vinh hoa phú quý, hưởng thọ vui sướng, cảnh giới trong mộng như là thật, không biết rằng đó là mộng. Họ ở trong mộng rất là tuyệt vời, nếu có người nói với họ rằng: “Bạn đang nằm mộng! Đó chẳng phải là thật, đều là giả”, thì người đó nhất định không tin. Đợi khi họ tỉnh mộng rồi, chẳng cần ai nói với họ đó là mộng, họ cũng biết là đã nằm mộng. Cho nên nói thế gian giống như mộng, nhưng mộng chẳng phải là thế gian, cũng chẳng phải lìa thế gian, mộng cũng chẳng phải trời dục giới, cũng chẳng phải trời sắc giới, cũng chẳng phải trời vô sắc giới, vì nó là mộng, mộng chẳng sinh, cũng chẳng diệt. Cảnh giới của mộng chẳng phải nhiễm ô, chẳng phải thanh tịnh, nhưng có lúc ở trong mộng lạy Phật, tụng Kinh, ngồi thiền, đó là mộng thanh tịnh. Có lúc ở trong mộng nhảy đầm, uống rượu, ca hát, đó là mộng nhiễm ô, nhưng mộng đều có sự thị hiện.

Mộng có năm thứ:

1. Vì thân thể không điều hoà, nếu khí nóng nhiều, thì ở trong mộng sẽ thấy lửa, hoặc mộng thấy màu đỏ.

2. Nếu khí lạnh nhiều, thì ở trong mộng sẽ thấy nước, hoặc mộng thấy màu trắng.

3. Nếu khí gió nhiều, thì ở trong mộng sẽ thấy bay, hoặc mộng thấy màu đen, đó là hiện tượng sinh lý.

4. Lại mộng thấy sự việc, nhiều khi do suy nghĩ nhớ tưởng, do đó: “Ngày nghĩ việc gì, thì đêm nằm mộng thấy”.

5. Hoặc dự cảm mộng, muốn khiến cho biết việc tương lai, do đó: “Dự điềm cảm ứng”. Năm thứ mộng này đều không sự thật, mà là vọng kiến.

 

Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, tri nhất thiết thế gian tất đồng ư mộng, vô hữu biến dị cố, như mộng tự tánh cố, như mộng chấp trước cố, như mộng tánh ly cố, như mộng bổn tánh cố, như mộng sở hiện cố, như mộng vô sái biệt cố, như mộng tưởng phân biệt cố, như mộng giác thời cố.

Đại Bồ Tát cũng lại như thế, biết tất cả thế gian đều giống như mộng, vì chẳng có thay đổi, vì tự tánh như mộng, vì chấp trước như mộng, vì tánh lìa như mộng, vì bổn tánh như mộng, vì sở hiện như mộng, vì vô sai biệt như mộng, vì tưởng phân biệt như mộng, vì giác thời như mộng.

Giảng: Đại Bồ Tát cũng tình hình như vậy, biết tất cả thế gian đều giống như mộng. Do đó:

“Nhân sinh nhất trường mộng
Nhân tử mộng nhất trường
Mộng lý thân vinh quý
Mộng tỉnh tại cùng hương.

Triều triều thị tác mộng
Bất giác mộng hoàn lương
Mộng trung nhược bất tỉnh
Uổng tác mộng nhất trường”.

Nghĩa là:
Đời người một giấc mộng
Chết đi mộng một giấc
Trong mộng thấy giàu sang
Tỉnh mộng vẫn nghèo sơ.

Ngày ngày đang nằm mộng
Không biết đó là mộng
Trong mộng nếu không tỉnh
Uổng thay một giấc mộng.

Vì mộng chẳng có biến đổi, chẳng có tự tánh, do hư vọng mà sinh, hư vọng mà diệt. Nếu chấp trước mộng tốt, chấp trước mộng không tốt, sẽ sinh ra sự chấp trước. Mộng là lìa khỏi tự tánh, vì bản tánh của mộng là hư vọng, cho nên trong mộng hiện ra đều không thật tại. Mộng và mộng chẳng có sự phân biệt với nhau. Mộng là do tưởng phân biệt mà có, đến lúc mộng giác ngộ thì mới biết tất cả là vô thường, là hư vọng. Mộng chẳng giác ngộ, cảm thấy là chân thật, con người từ lúc sinh đến lúc chết, một đời hồ đồ, chẳng có tỉnh táo, nếu chẳng phải đang nằm mộng, vậy thì đang làm gì?

Người chân chánh minh bạch Phật pháp, thì đắc được đại trí huệ, lúc đó, trong mộng tỉnh dậy, quay đầu nhìn lại, thì con người tại thế gian nhiều khổ quá, khổ khổ não não, tranh tranh náo náo, một ngày đến tối, tuý sinh mộng tử, chẳng biết tu hành, đợi đến lúc sắp chết thì, thật là đáng thương xót! Do đó:

“Biển khổ không bờ
Quay đầu là bến”.

Tôi khuyên các vị, lúc còn trẻ khoẻ mạnh, nên phát tâm tu hành, đừng để thời gian trôi qua lãng phí, do đó:

“Đừng đợi đến già mới học đạo
Mộ phần đa số người tuổi trẻ”.

 

Thị danh: Bồ-Tát Ma-ha-tát đệ lục như mộng nhẫn.

Đó là như mộng nhẫn thứ sáu của đại Bồ Tát.

Giảng: Đó tức là pháp môn nhẫn thứ sáu của đại Bồ Tát tu, gọi là như mộng nhẫn.

 

— o0o —

THỨ BẢY, NHƯ VANG NHẪN

Phật tử! vân hà vi Bồ-Tát Ma-ha-tát như hưởng nhẫn?

Phật tử! thử bồ tát Ma-ha tát văn Phật thuyết Pháp, quán chư pháp tánh, tu học thành tựu, đáo ư bỉ ngạn. Tri nhất thiết âm thanh, tất đồng ư hưởng, vô lai vô khứ, như thị thị hiện.

Phật tử! Thế nào là như vang nhẫn của đại Bồ Tát?

Phật tử! Đại Bồ Tát nầy, nghe Phật thuyết pháp, quán các pháp tánh, tu học thành tựu, đến nơi bờ kia, biết tất cả âm thanh, đều giống như vang, không đến, không đi, thị hiện như vậy.

Giảng: Bồ Tát Phổ Hiền lại gọi một tiếng các vị đệ tử của Phật! Thế nào là như vang nhẫn của đại Bồ Tát tu? Các vị đệ tử của Phật! Vị đại Bồ Tát này, Ngài luôn luôn lắng nghe chư Phật diễn nói tất cả các pháp, dùng trí huệ để quán sát pháp tánh của tất cả các pháp, y pháp để tu học, thành tựu pháp môn tu hành, đến được Niết Bàn bờ bên kia. Bồ Tát biết hết thảy tất cả âm thanh, đều giống như tiếng vang, chẳng đến, cũng chẳng đi, đó đều là thị hiện mà thôi.

 

Phật tử! thử Bồ-Tát Ma-ha-tát quán Như Lai thanh, bất tùng nội xuất, bất tùng ngoại xuất, diệc bất tùng ư nội ngoại nhi xuất. Tuy liễu thử thanh phi nội, phi ngoại, phi nội ngoại xuất, nhi năng thị hiện thiện xảo danh cú, thành tựu diễn thuyết.

Phật tử! Đại Bồ Tát nầy, quán tiếng Như Lai, chẳng từ trong ra, chẳng từ ngoài ra, cũng chẳng từ trong ngoài mà ra. Chỉ biết tiếng đó, chẳng trong, chẳng ngoài, chẳng trong ngoài ra, mà có thể thị hiện khéo léo danh từ câu văn, thành tựu diễn nói.

Giảng: Các vị đệ tử của Phật! Vị đại Bồ Tát nầy, Ngài có thể quán sát âm thanh của Phật phát ra, chẳng phải từ bên trong phát ra, cũng chẳng phải từ bên ngoài phát ra, cũng chẳng phải ở trung gian trong ngoài phát ra. Tuy Bồ Tát biết rõ âm thanh đó, chẳng phải từ bên trong bên ngoài phát ra, nhưng có thể thị hiện khéo léo danh từ câu văn, thành tựu để diễn nói tất cả các pháp.

 

Thí như cốc hưởng, tùng duyên sở khởi, nhi dữ pháp tánh vô hữu tướng vi, lệnh chư chúng sanh tùy loại các giải nhi đắc tu học. Như Đế Thích phu nhân A-tu-la nữ, danh viết: xá chi, ư nhất âm trung xuất thiên chủng âm, diệc bất tâm niệm lệnh như thị xuất.

Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, nhập vô phân biệt giới, thành tựu thiện xảo tùy loại chi âm, ư vô biên thế giới trung hằng chuyển pháp luân.

Ví như tiếng vang hang động, do duyên mà khởi, với pháp tánh chẳng có trái nhau, khiến cho các chúng sinh, tuỳ loại đều hiểu, mà được tu học.

Như phu nhân của trời Đế Thích, con gái của vua A tu la, tên là Xá Chi. Ở trong một tiếng, mà vang ra ngàn thứ tiếng, tâm cũng chẳng nghĩ làm ra như vậy.

Đại Bồ Tát cũng lại như thế, vào cõi không phân biệt, thành tựu thiện xảo tuỳ loại tiếng. Ở trong vô biên thế giới, luôn chuyển bánh xe pháp.

Giảng: Ví như hang động truyền thanh, tiếng nói trong hang núi sẽ hồi lại. Trong hang động lớn tiếng niệm « Nam Mô A Di Đà Phật », tích tắc sẽ dội lại tiếng « Nam Mô A Di Đà Phật », đó tức là như vang ứng tiếng. Cảnh giới này là do nhân duyên mà khởi, song với pháp tánh bổn lai chẳng trái với nhau. Thứ tiếng đó, khiến cho tất cả chúng sinh tuỳ loại đều hiểu được, dù nói với bất cứ loài chúng sinh nào, nghe được đều hiểu rõ ràng, đều y theo pháp tu hành.

Giống như phu nhân của trời Đế Thích, cô ta là con gái của vua A tu la, tên là Xá Chi. Cô ta ở trong một thứ tiếng, phát ra ngàn thứ tiếng. Đó là tự nhiên biến hoá ra, chẳng phải do tâm cô ta nghĩ làm ra tiếng ấy. Tóm lại, không cần tâm nghĩ, mà có thể thành tựu tiếng đó. Nếu dùng tâm để nghĩ, thì thành vọng tưởng, do đó :

« Vô tâm là cảm ứng,
Có tâm là vọng tưởng ».

Đủ thứ tiếng êm tai của cô Xá Chi, khiến cho ai ai cũng đều hoan hỉ thưởng thức.

Đại Bồ Tát cũng lại như thế, chứng được cảnh giới không phân biệt, thành tựu thiện xảo tiếng tuỳ loại, để giáo hoá chúng sinh. Tóm lại, Bồ Tát đến nơi nào giáo hoá chúng sinh, thì dùng ngôn ngữ ở địa phương đó để nói pháp, hoặc giáo hoá loại chúng sinh nào, thì dùng ngôn ngữ của loài chúng sinh đó để thuyết pháp. Ví như, thấy ngựa thì dùng lời nói của ngựa để thuyết pháp, thấy bò thì dùng lời nói bò để thuyết pháp. Bồ Tát ở trong vô biên thế giới, thường chuyển bánh xe diệu pháp, không có lúc nào ngừng nghỉ.

 

Thử Bồ Tát thiện năng quan sát nhất thiết chúng sanh, dĩ quảng trường thiệt tướng nhi vi diễn thuyết, kỳ thanh vô ngại, biến thập phương độ, lệnh tùy sở nghi, văn Pháp các dị. Tuy tri thanh vô khởi nhi phổ hiện âm thanh, tuy tri vô sở thuyết nhi quảng thuyết chư Pháp. Diệu-Âm bình đẳng, tùy loại các giải, tất dĩ trí tuệ nhi năng liễu đạt.

Bồ Tát nầy khéo hay quán sát tất cả chúng sinh, dùng tướng lưỡi rộng dài mà vì họ diễn nói, âm thanh đó vô ngại, khắp mười phương cõi nước, khiến tuỳ sở nghi, nghe pháp đều khác nhau. Tuy biết tiếng không khởi mà khắp hiện âm thanh. Tuy biết vô sở thuyết mà diễn nói các pháp, diệu âm bình đẳng, tuỳ loại đều hiểu được, đều dùng trí huệ mà thấu đạt được.

Giảng: Vị đại Bồ Tát nầy, Ngài khéo hay quán sát nhân duyên của tất cả chúng sinh, mà vì chúng sinh thuyết pháp (dùng tướng lưỡi rộng dài, tức là thuyết pháp). Ngài quán sát căn tánh, nên nói pháp gì, thì nói pháp đó. Do đó : « Quán cơ thí giáo, vì người thuyết pháp ». Bồ Tát dùng tướng lưỡi rộng dài, mà vì chúng sinh diễn nói tất cả diệu pháp, âm thanh đó viên dung vô ngại, khắp cùng mười phương cõi nước chư Phật, Bồ Tát tuỳ căn cơ mà vì họ nói pháp, chúng sinh đợi diệu pháp nầy để khai thị. Do đó :

« Bồ Tát một tiếng diễn nói pháp,
Chúng sinh theo loài đều hiểu được »,

Đó tức là đạo lý nghe pháp đều khác nhau. Ngộ nghĩa lý cũng có sâu có cạn, có nhiều có ít. Đây chẳng phải là tâm Bồ Tát thiên lệch, mà là quan hệ tâm lượng lớn nhỏ của chúng sinh. Chúng sinh tâm lượng lớn, thì được nhiều hơn một chút; chúng sinh tâm lượng nhỏ thì ít hơn một chút. Đó là vấn đề tâm lượng lớn nhỏ của chúng sinh, chứ chẳng phải tâm phân biệt của Bồ Tát. Bồ Tát có tư tưởng vô duyên đại từ, đồng thể đại bi, một luật bình đẳng giống nhau, không phân biệt xa gần dày mỏng, đều là chúng sinh mà Ngài phải độ.

Tuy Bồ Tát biết âm thanh chẳng khởi chẳng diệt, nhưng khắp cùng hết thảy thế giới, mà hiện hiện ra âm thanh, vì chúng sinh thuyết pháp. Tuy Bồ Tát biết vô ngôn thuyết tướng, vô văn tự tướng, vô tâm duyên tướng, cho dù tâm tưởng niệm cũng không còn, hà huống có thể nói ra ? Bổn lai ngôn ngữ tánh không, nói mà không nói. Tuy nhiên biết vô sở thuyết, nhưng vẫn phải đối với tất cả chúng sinh diễn nói tất cả các pháp, khiến cho chúng sinh nghe pháp khai ngộ. Âm thanh vi diệu của Bồ Tát diễn nói pháp môn bình đẳng, chúng sinh tuỳ theo loài đều hiểu được. Hết thảy chúng sinh đều vận dụng trí huệ mà thấu đạt được đạo lý thật tướng của các pháp.

 

Thị danh: Bồ-Tát Ma-ha-tát đệ thất như hưởng nhẫn.

Đó là như vang nhẫn thứ bảy của đại Bồ Tát.

Giảng: Đó tức là pháp môn nhẫn thứ bảy của đại Bồ Tát tu, gọi là như vang nhẫn.

 

— o0o —

THỨ TÁM, NHƯ ẢNH NHẪN

Phật tử! vân hà vi Bồ-Tát Ma-ha-tát như ảnh nhẫn? Phật tử! thử bồ tát Ma-ha tát, phi ư thế gian sanh, phi ư thế gian một. phi tại thế gian nội, phi tại thế gian ngoại. phi hành ư thế gian, phi bất hành thế gian. phi đồng ư thế gian, phi dị ư thế gian. phi vãng ư thế gian, phi bất vãng thế gian. phi trụ ư thế gian, phi bất trụ thế gian. phi thị thế gian, phi xuất thế gian.

Phật tử! Thế nào là như ảnh nhẫn của đại Bồ Tát? Phật tử! Đại Bồ Tát nầy, chẳng sinh ở thế gian, chẳng diệt ở thế gian. Chẳng ở trong thế gian, chẳng ở ngoài thế gian. Chẳng tu hành ở thế gian, chẳng phải chẳng tu hành ở thế gian. Chẳng đồng nơi ở thế gian, chẳng khác nơi ở thế gian. Chẳng qua lại ở thế gian, chẳng phải chẳng qua lại ở thế gian. Chẳng trụ ở thế gian, chẳng phải chẳng trụ ở thế gian. Chẳng phải là thế gian, chẳng phải là xuất thế gian.

Giảng: Bồ Tát Phổ Hiền lại gọi một tiếng các vị đệ tử của Phật! Thế nào là như ảnh nhẫn của đại Bồ Tát tu? Các vị đệ tử của Phật! Vị đại Bồ Tát nầy, chẳng phải sinh tại thế gian, chẳng phải diệt tại thế gian, cũng chẳng phải ở trong thế gian, cũng chẳng phải ở ngoài thế gian.Đó là tự tại của Bồ Tát, vô câu vô thúc, vô quái vô ngại, cho nên chẳng giống với phàm phu.

Bồ Tát cũng chẳng phải tu hành tại thế gian, cũng chẳng phải chẳng tu hành tại thế gian, chẳng phải đồng nơi ở thế gian, chẳng phải khác nơi ở thế gian, chẳng phải qua lại ở thế gian, chẳng phải chẳng qua lại nơi thế gian, chẳng phải trụ nơi thế gian, chẳng phải chẳng trụ nơi thế gian, cũng chẳng phải tu pháp nhập thế, cũng chẳng phải tu pháp xuất thế gian, tức là ở giữa nhập thế xuất thế, xuất thế nhập thế.

 

Phi tu Bồ Tát hạnh, phi xả ư đại nguyện. phi thật, phi bất thật. Tuy thường hành nhất thiết Phật Pháp, nhi năng biện nhất thiết thế gian sự, bất tùy thế gian lưu, diệc bất trụ pháp lưu.

Chẳng tu hành Bồ Tát hạnh, chẳng xả bỏ đại nguyện, chẳng thật, chẳng không thật. Tuy thường hành tất cả Phật pháp, mà làm được tất cả việc thế gian, chẳng tuỳ theo dòng thế gian, cũng chẳng trụ dòng pháp.

Giảng: Bồ Tát tuy tu hành Bồ Tát hạnh, nhưng cũng chẳng chấp trước Bồ Tát hạnh, cũng chẳng xả bỏ đại nguyện của Bồ Tát. Pháp môn của Bồ Tát tu, Ngài cũng chẳng chấp trước là thật, cũng chẳng chấp là chẳng thật, tất cả đều không chấp trước. Bồ Tát tuy thường tu hành hết thảy tất cả Phật pháp, mà biện lý được tất cả việc thế gian, cũng chẳng xả tục đế thế gian, mà tu chân đế. Tuy tu chân đế, mà chẳng lìa tục đế thế gian. Ngài làm sở vô sự, pháp thế gian tức là pháp xuất thế gian, pháp xuất thế gian tức là pháp thế gian. Chẳng có mọi sự phân biệt và mọi sự chấp trước. Bồ Tát tuy xử lý tất cả tục đế pháp thế gian, nhưng Ngài vẫn tuỳ duyên bất biến, chẳng có chấp trước. Lại có thể bất biến tuỳ duyên, chẳng chấp trước vào dòng pháp.

 

Thí như nhật nguyệt, nam tử, nữ nhân, xá trạch, sơn lâm, hà tuyền đẳng vật,

Ví như mặt trời mặt trăng, người nam người nữ, nhà cửa núi rừng, sông suối các thứ vật.

Giảng: Giống như mặt trời và mặt trăng. Lại giống như người nam và người nữ. Lại giống như nhà cửa và núi rừng, lại giống như sông ngòi và suối chảy các thứ vật.

 

Ư du, ư thủy, ư thân, ư bảo, ư minh kính đẳng thanh tịnh vật trung nhi hiện kỳ ảnh.

Đều hiện bóng ở trong vật thanh tịnh, như trong dầu, trong nước, trong thân, trong châu báu, trong gương sáng.

Giảng: Phàm là vật thanh tịnh, thì đều hiện ra hình bóng của nó, như ở trong dầu, ở trong nước, ở trong thân, ở trong châu báu, ở trong gương sáng.

 

Ảnh dữ du đẳng, phi nhất, phi dị, phi ly, phi hợp, ư xuyên lưu trung diệc bất phiêu độ, ư trì tỉnh nội diệc bất trầm một, tuy hiện kỳ trung, vô sở nhiễm trước.

Bóng và dầu .v.v… chẳng một, chẳng khác, chẳng lìa, chẳng hợp. Trong dòng nước chảy cũng chẳng bị trôi đi, ở trong ao giếng cũng chẳng bị chìm mất. Tuy hiện ở trong đó, mà không chấp trước.

Giảng: Bóng và dầu .v.v… các thứ vật, chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng lìa khỏi, chẳng hợp lại. Bóng và dầu ở trong nước cũng chẳng trôi đi, ở trong ao giếng cũng chẳng chìm đắm. Tuy nhiên hiện ở trong đó, bóng và dầu đều không chấp trước.

 

Nhiên chư chúng sanh, tri ư thử xứ hữu thị ảnh hiện, diệc tri bỉ xứ vô như thị ảnh. Viễn vật, cận vật tuy giai ảnh hiện, ảnh bất tùy vật nhi hữu cận viễn.

Các chúng sinh biết ở nơi đây có bóng đó hiện, cũng biết ở nơi kia không có bóng như vậy. Vật xa, vật gần, tuy đều hiện bóng, bóng chẳng tuỳ vật mà có gần xa.

Giảng: Ở trước có nói tất cả chúng sinh biết ở nơi đây có bóng nầy hiện ra, cũng biết ở nơi kia chẳng có bóng như vậy. Vật xa và vật gần, tuy đều hiện bóng, nhưng bóng chẳng tuỳ vật mà có gần xa, nghĩa là vật có gần xa, mà bóng chẳng có gần xa.

 

Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, năng tri tự thân cập dĩ tha thân, nhất thiết giai thị trí chi cảnh giới, bất tác nhị giải, vị tự, tha biệt, nhi ư tự quốc độ, ư tha quốc độ, các các sái biệt, nhất thời phổ hiện.

Đại Bồ Tát cũng lại như thế, biết thân mình và thân họ, tất cả đều là cảnh giới của trí, không cho là hai, rằng mình và họ khác nhau, mà nơi cõi nước mình, nơi cõi nước họ đều khác biệt, một thời hiện khắp.

Giảng: Đại Bồ Tát cũng tình hình như thế, biết tâm thân của mình và tâm thân của người khác, tất cả đều vì có trí huệ, mới biết có cảnh giới như thế. Thân mình và thân họ, không cho đó là hai, nói rằng thân mình và thân họ có sự phân biệt, mà đối với cõi nước của mình ở, đối với cõi nước của họ ở đều khác biệt, một thời hiện ra khắp đủ thứ cõi nước.

 

Như chủng tử trung, vô hữu căn nha, hành tiết, chi diệp, nhi năng sanh khởi như thị đẳng sự. Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, ư vô nhị Pháp trung phân biệt nhị tướng, thiện xảo phương tiện, thông đạt vô ngại.

Như trong hạt giống, không có rễ mầm thân đốt nhánh lá, mà hay sinh ra các việc như thế. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, ở trong pháp không hai, phân biệt hai tướng, phương tiện khéo léo, thông đạt vô ngại.

Giảng: Giống như ở trong hạt giống, vốn chẳng có rễ, mầm, thân, đốt, nhánh, lá .v.v… mà hay sinh ra các việc như thế. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, ở trong pháp không hai, miễn cưỡng phân biệt có hai tướng, vốn chẳng có hai tướng, nhưng dùng phương tiện khéo léo để nói thành hai tướng, thông đạt đạo lý hai mà chẳng hai, chẳng hai mà hai, viên dung vô ngại.

 

Thị danh: Bồ-Tát Ma-ha-tát đệ bát như ảnh nhẫn.

Đó là như ảnh nhẫn thứ tám của đại Bồ Tát.

Giảng: Đó tức là pháp môn nhẫn thứ tám của đại Bồ Tát, gọi là như ảnh nhẫn.

— o0o —

THỨ CHÍN, NHƯ HOÁ NHẪN

Bồ-Tát Ma-ha-tát thành tựu thử nhẫn, tuy bất vãng nghệ thập phương quốc độ, nhi năng phổ Hiện-Nhất-Thiết Phật sát. Diệc bất ly thử, diệc bất đáo bỉ, như ảnh phổ hiện, sở hạnh vô ngại. lệnh chư chúng sanh kiến sái biệt thân, đồng ư thế gian kiên thật chi tướng, nhiên thử sái biệt tức phi sái biệt, biệt dữ bất biệt vô sở chướng ngại.

Thử Bồ Tát tùng ư Như Lai chủng tánh nhi sanh, thân, ngữ cập ý thanh tịnh vô ngại, cố năng hoạch đắc vô biên sắc tướng thanh tịnh chi thân.

Đại Bồ Tát thành tựu nhẫn nầy, tuy chẳng qua đến mười phương cõi nước, mà có thể hiện khắp tất cả cõi Phật, cũng chẳng lìa đây, cũng chẳng đến kia. Như bóng hiện khắp, sở hành vô ngại, khiến cho các chúng sinh thấy thân khác nhau. Đồng tướng kiên thật nơi thế gian, mà đây khác biệt tức chẳng khác biệt, khác và chẳng khác không có chướng ngại. Bồ Tát nầy, từ nơi chủng tánh Như Lai mà sinh ra, thân lời và ý thanh tịnh vô ngại, nên đắc được thân vô biên sắc tướng thanh tịnh.

Giảng: Đại Bồ Tát thành tựu nhẫn nầy, sắc thân của Ngài tuy chẳng qua đến mười phương cõi nước, mà có thể hiện khắp tất cả cõi Phật, cũng chẳng lìa khỏi cõi nước của mình ở, cũng chẳng đến cõi nước chư Phật. Giống như bóng hiện khắp mọi nơi có ánh sáng, Bồ Tát hành pháp môn nầy, có thần thông tự tại thiên biến vạn hoá, do đó mà sở hành vô ngại, khiến cho tất cả chúng sinh nhìn thấy được thân Bồ Tát khác nhau, đồng như tướng kiên thật nơi thế gian. Tuy nhiên sự khác nhau đó, nhưng vẫn là một dạng. Giống nhau và khác nhau, chẳng có sự chướng ngại, do đó : « Viên dung vô ngại », có thể nói là giống, cũng có thể nói là khác.

Vị Bồ Tát nầy, từ nơi chủng tánh của Phật mà sinh ra, thân cũng thanh tịnh, lời cũng thanh tịnh và ý cũng thanh tịnh, ba nghiệp thanh tịnh, chẳng có chướng ngại, bởi vậy, cho nên đắc được diệu sắc thân vô biên sắc tướng thanh tịnh.

 

Phật tử! vân hà vi Bồ-Tát Ma-ha-tát như hóa nhẫn? Phật tử! thử bồ tát Ma-ha tát tri nhất thiết thế gian giai tất như hóa.

Phật tử! Thế nào là như hoá nhẫn của đại Bồ Tát ? Phật tử! Đại Bồ Tát nầy, biết tất cả thế gian thảy đều như hoá.

Giảng: Bồ Tát Phổ Hiền lại gọi một tiếng các vị đệ tử của Phật! Thế nào là như hoá nhẫn của đại Bồ Tát tu? Các vị đệ tử của Phật! Ngài biết tất cả thế gian đều như hoá mà có, chẳng thật.

 

Sở vị: nhất thiết chúng sanh ý nghiệp hóa, giác tưởng sở khởi cố. Nhất thiết thế gian chư hạnh hóa, phân biệt sở khởi cố. Nhất thiết khổ lạc điên đảo hóa, vọng thủ sở khởi cố. Nhất thiết thế gian bất thật Pháp hóa, ngôn thuyết sở hiện cố. Nhất thiết phiền não phân biệt hóa, tưởng niệm sở khởi cố.

Đó là : Tất cả chúng sinh ý nghiệp hoá, vì giác tưởng khởi lên. Tất cả thế gian các hành vi hoá, vì phân biệt khởi lên. Tất cả khổ vui điên đảo hoá, vì vọng chấp lấy sở khởi. Tất cả thế gian chẳng thật pháp hoá, vì lời nói sở hiện. Tất cả phiền não phân biệt hoá, vì tưởng nhớ khởi lên.

Giảng: Tất cả chúng sinh ý nghiệp chẳng thanh tịnh mà có biến hoá. Giống như chúng ta hôm nay muốn làm việc này, ngày mai lại muốn làm việc khác; hôm nay muốn xuất gia tu đạo, ngày mai lại muốn hoàn tục kết hôn, đó tức là ý nghiệp hoá. Ý chẳng nhất định, chẳng có định lực, giữ yên không được, vẫn tuỳ thuận ý nghiệp biến hoá khởi lên. Đó tức là giác quán các ác khởi lên. Giác nầy, chẳng phải là giác tốt, mà là ngu giác, tức cũng là nghĩ muốn biết thế nào là ngu si ? Sao lại có thể đoạ địa ngục ? Sao lại không thể giữ quy cụ ? Giác tưởng nầy tức là tà tri tà kiến. Có tà tri tà kiến rồi, thì sẽ chi phối bạn điên đảo, hồ đồ, cho nên tu đạo chẳng dễ dàng.

Chúng ta người tu đạo, phải nhận thức rõ ràng sáu tên tặc (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân,ý), đừng chạy theo chúng, vì chúng hay tạo ra cho bạn rất nhiều phiền não, khiến cho bạn sinh phiền não, khiến cho bạn sinh ra vô minh. Cho nên người tu đạo, phải có chánh tri chánh kiến, lúc nào cũng phải nghĩ đến tu hành như thế nào, thành tựu đạo nghiệp như thế nào? Nghĩ tưởng như thế tức là chánh tri chánh kiến. Có chánh tri chánh kiến thì sẽ nghĩ tưởng thông suốt, sẽ buông bỏ đặng, không còn chấp trước, do đó : « Tâm không quái ngại ». Nếu cứ nghĩ tà tri tà kiến thì làm gì cũng không tự chủ được, mà tuỳ theo cảnh giới chuyển. Khi bị cảnh giới chuyển thì sẽ điên đảo. Các vị ! Phải đặc biệc chú ý ! Đừng bị cảnh giới chuyển, mà phải chuyển cảnh giới, chìa khoá tu đạo là tại chỗ này.

Thế gian tất cả hết thảy các hành vi hoá, tức cũng là hết thảy tất cả hành vi của chúng sinh. Tại sao thế gian có những hành vi khác nhau như thế ? Vì do trong tâm của chúng sinh phân biệt mà sinh ra. Chúng sinh thế gian lấy khổ làm vui, lấy vui làm khổ. Vui là nhân của khổ, khổ là quả của vui. Cho nên người tu đạo phải tu khổ hạnh, thì tương lai sẽ đắc được khoái lạc chân chánh (Thường, lạc, ngã, tịnh, bốn đức Niết Bàn). Người không tu hành chỉ tạm thời được khoái lạc, nhưng phải thọ khổ sở lâu dài. Tại sao phải đoạ địa ngục ? Vì tham đồ khoái lạc của thế gian. Tại sao phải sinh về trời ? Vì khi tu hành thì thọ khổ. Chúng sinh chẳng minh bạch đạo lý này, cứ làm những việc điên đảo, chỉ tham đồ khoái lạc trước mắt, chẳng cầu khoái lạc vĩnh cửu. Chúng sinh ngu si, chẳng muốn tạm thời thọ khổ, mà muốn thọ khổ vĩnh viễn, đây tức là điên đảo hoá. Lấy giả làm thật, lấy thật làm giả, nhận giặc làm con, đó là do vọng chấp lấy sở sinh khởi.

Tất cả hết thảy thế gian đều chẳng thật tại, đều là huyễn hoá, đó là do lời nói biểu hiện. Phàm là do lời nói sở hiện, thì đều không rốt ráo, cho nên nói chẳng phải là thật pháp. Người thế gian đều chạy theo sau phiền não, có phiền não rồi, thì có sự phân biệt; có phân biệt rồi, thì liền có phiền não. Tại sao có phiền não ? Vì có vọng tưởng, có vọng tưởng rồi thì liền có phân biệt, cho nên nói do vọng niệm khởi lên.

 

Phục hưũ thanh tịnh điều phục hóa, vô phân biệt sở hiện cố. Ư tam thế bất chuyển hóa, vô sanh bình đẳng cố. Bồ Tát nguyện lực hóa, quảng đại tu hành cố. Như Lai đại bi hóa, phương tiện thị hiện cố. Chuyển pháp luân phương tiện hóa, trí tuệ vô úy biện tài sở thuyết cố.

Lại có thanh tịnh điều phục hoá, vì không phân biệt sở hiện. Nơi ba đời không chuyển hoá, vì vô sanh bình đẳng. Bồ Tát nguyện lực hoá, vì tu hành rộng lớn. Như Lai đại bi hoá, vì phương tiện thị hiện. Chuyển pháp luân phương tiện hoá, vì trí huệ vô uý biện tài sở thuyết.

Giảng: Lại có một sự biến hoá thanh tịnh điều phục chúng sinh, giáo hoá chúng sinh, đó là do chẳng có tâm phân biệt biểu hiện. Tại sao ở trong ba đời không thể chuyển hoá ? Vì có pháp môn vô sanh bình đẳng. Bồ Tát dùng đại nguyện đại lực để giáo hoá chúng sinh. Làm thế nào để đắc được đại nguyện đại lực ? Vì phát bồ đề tâm rộng lớn, chân thật tu hành. Phật có tâm đại bi, nhổ sạch khổ của chúng sinh, dùng đủ thứ phương tiện khéo léo để thị hiện, giáo hoá chúng sinh, phát bồ đề tâm, tu vô thượng đạo. Thường chuyển diệu pháp luân, phương tiện giáo hoá chúng sinh. Người có đại trí huệ, mới chuyển được bánh xe pháp. Còn cần phải có tinh thần đại vô uý, cần phải có cảnh giới biện tài vô ngại, mới có thể giảng kinh thuyết pháp, khiến cho chúng sinh đắc được lợi ích Phật pháp.

 

Bồ Tát như thị liễu tri thế gian, xuất thế gian hóa, hiện chứng tri, quảng đại tri, vô biên tri, như sự tri, tự tại tri, chân thật tri, phi hư vọng kiến sở năng khuynh động, tùy thế sở hạnh diệc bất thất hoại.

Bồ Tát như vậy, biết rõ thế gian, xuất thế gian hoá. Biết hiện chứng, biết rộng lớn, biết vô biên, biết như việc, biết tự tại, biết chân thật, chẳng hư vọng thấy có thể khuynh động được, tuỳ sở hành thế gian, cũng chẳng hoại mất.

Giảng: Bồ Tát biết rõ huyễn hoá của thế gian và xuất thế gian rồi, biết hiện chứng, biết rộng lớn, biết vô biên, biết như việc, biết tự tại, biết chân thật, chẳng phải kiến giải hư vọng có thể khuynh động được, nghĩa là không thể lay động được. Bồ Tát tuy nhiên tuỳ thuận tục đế của thế gian để xử lý tất cả mọi việc, nhưng vẫn không hoại chân đế. Tuy thuận nơi sự, mà chẳng ngại nơi lý; tuy thuận nơi lý, mà chẳng ngại nơi sự. Sự lý viên dung, chân giả chẳng hai, cho nên mới nói cũng chẳng hư hoại mất. Sự bất hoại nầy, có thể nói bất hoại tục đế, do đó « Chân chẳng lìa tục », lại có thể nói chẳng hoại chân đế, do đó « Tục chẳng lìa chân ».

 

Thí như hóa, bất tùng tâm khởi, bất tùng tâm Pháp khởi, bất tùng nghiệp khởi, bất thọ quả báo, phi thế gian sanh, phi thế gian diệt, bất khả tùy trục, bất khả lãm xúc, phi cữu trụ, phi tu du trụ, phi hành thế gian, phi ly thế gian, bất chuyên hệ nhất phương, bất phổ chúc chư phương, phi hữu lượng, phi vô lượng, bất yếm bất tức, phi bất yếm tức, phi phàm, phi Thánh, phi nhiễm, phi tịnh, phi sanh, phi tử, phi trí, phi ngu, phi kiến, phi bất kiến, phi y thế gian, phi nhập Pháp giới, phi hiệt tuệ, phi trì độn, phi thủ, phi bất thủ, phi sanh tử, phi Niết-Bàn, phi hữu, phi vô hữu.

Ví như hoá, chẳng từ tâm khởi, chẳng từ tâm pháp khởi, chẳng từ nghiệp khởi, chẳng thọ quả báo. Chẳng phải thế gian sinh, chẳng phải thế gian diệt, chẳng thể theo đuổi, chẳng thể xúc chạm, chẳng thể ở lâu, chẳng thể ở giây lát, chẳng hành thế gian, chẳng lìa thế gian, chẳng chuyên về một phương, chẳng thuộc khắp các phương, chẳng hữu lượng, chẳng vô lượng, chẳng nhàm, chẳng nghỉ, chẳng phải không nhàm nghỉ, chẳng phàm, chẳng Thánh, chẳng nhiễm, chẳng tịnh, chẳng sinh, chẳng chết, chẳng trí, chẳng ngu, chẳng thấy, chẳng không thấy, chẳng nương thế gian, chẳng vào pháp giới, chẳng thông minh, chẳng đần độn, chẳng lấy chẳng không lấy, chẳng sinh tử, chẳng Niết Bàn, chẳng có, chẳng không có.

Giảng: Giống như biến hoá, biến hoá là từ không hoá có, từ có hoá không, biến hoá vô cùng. Tuy nhiên là tâm khiến nó biến hoá, nhưng hoá ở đây chẳng phải tâm, cho nên nói hoá chẳng từ tâm khởi, cũng chẳng phải từ tâm pháp khởi, cũng chẳng phải từ nghiệp khởi, cũng chẳng thọ quả báo gì hết. Chẳng phải từ thế gian sinh ra, cũng chẳng phải từ thế gian diệt. Biến hoá ở đây, vốn chẳng có, không thể theo đuổi, không thể xúc chạm. Biến hoá ở đây, chẳng phải ở lâu, chẳng phải ở tạm, chẳng phải hành nơi thế gian, chẳng phải lìa nơi thế gian. Biến hoá ở đây, chẳng chuyên về một phương, cũng chẳng khắp thuộc về nhiều phương. Chẳng phải hữu lượng, chẳng phải vô lượng. Cũng chẳng nhàm mỏi, cũng chẳng nghỉ ngơi. Chẳng phải chẳng nhàm mỏi, chẳng phải chẳng nghỉ ngơi. Biến hoá ở đây, cũng chẳng thuộc về phàm phu, cũng chẳng thuộc về Thánh nhân. Cũng chẳng thuộc về pháp nhiễm, cũng chẳng thuộc về pháp tịnh. Biến hoá ở đây, cũng chẳng có sinh, cũng chẳng có chết. Cũng chẳng phải trí huệ, cũng chẳng phải ngu si. Chẳng phải thấy, cũng chẳng phải chẳng thấy. Biến hoá ở đây, cũng chẳng phải nương thế gian mà sinh, cũng chẳng phải vào pháp giới. Chẳng phải thuộc về thông minh, chẳng phải thuộc về ngu si. Cũng chẳng lấy, cũng chẳng không lấy. Biến hoá ở đây, cũng chẳng thuộc về sinh tử, cũng chẳng thuộc về Niết Bàn. Cũng chẳng thuộc về có, cũng chẳng thuộc về chẳng có.

 

Bồ Tát như thị thiện xảo phương tiện, hành ư thế gian tu Bồ Tát đạo, liễu tri thế Pháp, phần thân hóa vãng. Bất trước thế gian, bất thủ tự thân, ư thế, ư thân vô sở phân biệt. Bất trụ thế gian, bất ly thế gian. Bất trụ ư Pháp, bất ly ư Pháp. Dĩ Bổn Nguyện cố, bất khí xả nhất chúng sanh giới, bất điều phục thiểu chúng sanh giới. Bất phân biệt Pháp. phi bất phân biệt, tri chư pháp tánh vô lai vô khứ, tuy vô sở hữu nhi mãn túc Phật Pháp, liễu Pháp như hóa phi hữu phi vô.

Bồ Tát phương tiện khéo léo như vậy, tu hành nơi thế gian, tu Bồ Tát đạo. Biết rõ pháp thế gian, phân thân hoá vãng, chẳng chấp thế gian, chẳng thủ lấy thân mình. Nơi thế gian, nơi thân mình, không có phân biệt. Chẳng trụ thế gian, chẳng lìa thế gian, chẳng trụ nơi pháp, chẳng lìa nơi pháp.

Vì nhờ nguyện xưa, mà chẳng xả bỏ một cõi chúng sinh nào, chẳng điều phục ít cõi chúng sinh, chẳng phân biệt pháp, chẳng phải không phân biệt. Biết các pháp tánh, không đến, không đi. Tuy không chỗ có, mà đầy đủ Phật pháp, biết rõ pháp như hoá, chẳng có, chẳng không.

Giảng: Bồ Tát giống như sự biến hoá như vậy, dùng đủ thứ pháp môn phương tiện khéo léo, tu hành nơi thế gian hành Bồ Tát đạo. Biết rõ tất cả pháp thế gian, hay phân thân hoá vãng đến mười phương cõi nước chư Phật. Tại mười phương thế giới, chẳng trụ vào nơi thế gian, cũng chẳng chấp lấy thân thể của mình. Chẳng có ngã chấp, chẳng có pháp chấp, cho nên đối với pháp thế gian, đối với thân tướng của mình, chẳng có sự phân biệt. Cũng chẳng trụ vào thế gian, cũng chẳng lìa khỏi thế gian. Cũng chẳng trụ nơi pháp tướng, cũng chẳng lìa khỏi pháp tướng.

Bồ Tát nhờ vào nguyện lực xưa kia của mình đã phát, cho nên chẳng xả bỏ một cõi chúng sinh nào, chẳng điều phục ít cõi chúng sinh. Chẳng phân biệt nơi pháp, cũng chẳng phải chẳng phân biệt pháp. Biết tất cả pháp tánh, chẳng có một thể tánh, chẳng từ đâu đến, cũng chẳng đi về đâu. Tuy nhiên pháp tánh là không chỗ có, nhưng vẫn dùng phương tiện khéo léo để diễn nói diệu pháp của chư Phật nói, khiến cho tất cả chúng sinh đều đầy đủ Phật pháp. Bồ Tát biết rõ đạo lý của tất cả các pháp, như huyễn như hoá, chẳng có chẳng không.

 

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát như thị an trụ như hóa nhẫn thời, tất năng mãn túc nhất thiết chư Phật Bồ-đề chi đạo, lợi ích chúng sanh.

Phật tử ! Khi đại Bồ Tát an trụ như hoá nhẫn như vậy, thì đều được đầy đủ đạo bồ đề của tất cả chư Phật, lợi ích chúng sinh.

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Khi đại Bồ Tát an trụ như hoá nhẫn như vậy, thì Ngài được đầy đủ đạo bồ đề của tất cả chư Phật tu, hay lợi ích tất cả chúng sinh.

 

Thị danh: Bồ-Tát Ma-ha-tát đệ cửu như hóa nhẫn.

Đó gọi là như hoá nhẫn thứ chín của đại Bồ Tát.

Giảng: Đó tức là pháp môn nhẫn thứ chín của đại Bồ Tát tu, gọi là như hoá nhẫn.

 

— o0o —

THỨ MƯỜI, NHƯ KHÔNG NHẪN

Bồ-Tát Ma-ha-tát thành tựu thử nhẫn, phàm hữu sở tác tất đồng ư hóa, thí như hóa sĩ, ư nhất thiết Phật sát vô sở y trụ, ư nhất thiết thế gian vô sở thủ trước, ư nhất thiết Phật Pháp bất sanh phân biệt, nhi thú Phật Bồ-đề vô hữu giải quyện, tu Bồ Tát hạnh ly chư điên đảo, tuy vô hữu thân nhi Hiện-Nhất-Thiết thân, tuy vô sở trụ nhi trụ chúng quốc độ, tuy vô hữu sắc nhi phổ hiện chúng sắc, tuy bất trước thật tế nhi minh chiếu pháp tánh bình đẳng viên mãn.

Đại Bồ Tát thành tựu nhẫn này, phàm có làm gì, đều giống như hoá. Ví như hoá sĩ, ở trong tất cả cõi Phật không chỗ nương trụ, ở trong tất cả thế gian không có thủ trước, đối với tất cả Phật pháp không sinh phân biệt, mà hướng về Phật bồ đề không có lười mỏi.

Tu Bồ Tát hạnh, lìa các điên đảo. Tuy không có thân, mà hiện tất cả thân. Tuy không chỗ ở, mà ở các cõi nước. Tuy không có sắc, mà hiện khắp các sắc. Tuy chẳng chấp thật tế, mà chiếu rõ pháp tánh, bình đẳng viên mãn.

Giảng: Khi đại Bồ Tát thành tựu thứ nhẫn nầy, thì bất cứ làm gì cũng đều giống như huyễn hoá, cho nên chẳng chấp trước, chẳng bị cảnh giới chuyển. Ví như hoá sĩ, đối với tất cả cõi nước chư Phật không chỗ nương trụ. Tại sao ? Vì nó là biến hoá. Cõi nước biến hoá không thể nương tựa, không thể an trụ. Đối với tất cả thế gian không thủ trước. Tại sao ? Vì nó là biến hoá. Thế gian biến hoá, không thể chấp, không thể trước, mà là độc lập. Đồi với tất cả Phật pháp chẳng sinh phân biệt, nhưng hướng về Phật bồ đề chẳng có khi nào giải đãi. Chẳng giống như phàm phu chúng ta, tu hành hai ngày rưỡi, cảm thấy chẳng thành tựu, thì bỏ sự tu hành, hoặc giải đãi. Mọi người phải biết đạo lý không tu thì không đắc. Do đó : « Ông tu ông đắc, bà tu bà đắc », nghĩa là ai chịu thật tâm tu hành, thì người đó đến được cảnh vui bờ bên kia. Tu hành Bồ Tát hạnh, mới xa lìa tất cả điên đảo mộng tưởng.

Bồ Tát vốn là người không, pháp không, chẳng chấp trước cái ta, chẳng chấp trước pháp. Tức nhiên chẳng chấp trước cái ta, vậy là chẳng có thân. Tuy nhiên chẳng có thân, nhưng vẫn thị hiện tất cả thân. Tuy không chỗ ở, mà vẫn ở trong mười phương cõi nước chư Phật. Tuy chẳng chấp trước về sắc, mà vẫn hiện khắp trong các sắc. Tuy nhiên chẳng chấp vào thật tế lý thể, mà trí huệ quang minh chiếu khắp pháp tánh, vừa bình đẳng, vừa viên mãn.

 

Phật tử! thử Bồ-Tát Ma-ha-tát ư nhất thiết Pháp vô sở y chỉ, danh: giải thoát giả. Nhất thiết quá thất tất giai xả ly, danh: điều phục giả. Bất động bất chuyển, phổ nhập nhất thiết Như Lai chúng hội, danh: thần thông giả. ư vô sanh pháp dĩ đắc thiện xảo, danh: vô thoái giả. Cụ nhất thiết lực, Tu-Di, thiết vi bất năng vi chướng, danh: vô ngại giả.

Phật tử ! Đại Bồ Tát này, nơi tất cả pháp, không chỗ y chỉ, gọi là bậc giải thoát. Tất cả lỗi lầm, thảy đều xả lìa, gọi là bậc điều phục. Chẳng động chẳng chuyển, vào khắp tất cả chúng hội của Như Lai, gọi là bậc thần thông. Nơi pháp vô sanh, đã được khéo léo, gọi là bậc không thối chuyển. Đủ tất cả lực, Tu Di Thiết Vi không thể làm chướng ngại được, gọi là bậc vô ngại.

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Vị đại Bồ Tát này, đối với tất cả các pháp, không chỗ y chỉ, vì chẳng còn chấp trước, cho nên pháp cũng không nương tựa. Có người nói : « Tôi phải học Bồ Tát, chẳng y chỉ vào pháp. Tôi chẳng cần học Phật pháp, vì tôi đối với tất cả pháp, không chỗ y chỉ ». Kiến giải của bạn thật là cao minh, nhưng trí huệ của bạn vẫn không đủ, vẫn là ngu si. Tại sao ? Vì Bồ Tát đã minh bạch tất cả các pháp, nên hay thủ nơi pháp, hay dùng nơi pháp. Pháp với pháp là viên dung vô ngại, cho nên Ngài chẳng y chỉ nơi pháp. Phải biết Bồ Tát phương tiện dụng pháp, giống như dụng nước, khoang đào hướng đông thì chảy hương đông; khoang đào hướng tây, thì chảy hướng tây. Lúc nào dùng, thì lúc đó có, do đó :

« Lấy không hết, dùng không cạn ».

Bồ Tát có cảnh giới biện tài vô ngại, hỏi gì thì biết đó, có hỏi thì đáp, đạo lý bạn không hiểu mà Ngài hiểu. Nếu bạn đạt đến trình độ nầy, thì mới có thể không y chỉ vào pháp. Hiện tại bạn một pháp cũng không thông : Thế nào là chân như ? Thế nào là thật tướng ? Vẫn không hiểu rõ ràng. Đã không minh bạch, không biết, thì nên y vào pháp tu hành. Nếu vào sâu được tạng kinh, thì trí huệ như biển, lúc đó, mới có thể không y chỉ vào pháp.

Bồ Tát đối với tất cả các pháp, không chỗ y chỉ, đây tức là Bồ Tát giải thoát. Vì ngã pháp cả hai đều không, cho nên đối với tất cả lỗi lầm thảy đều xả lìa, đây tức là Bồ Tát điều phục. Điều phục gì ? Điều phục thân, điều phục tâm, điều phục tất cả lỗi lầm. Bồ Tát chẳng động chẳng chuyển (chẳng động bổn toà), mà đến khắp đạo tràng chúng hội của mười phương chư Phật, nghe kinh nghe pháp, đây tức là Bồ Tát thần thông. Bồ Tát đối với vô sanh pháp nhẫn, đã đắc được phương tiện khéo léo, để giáo hoá chúng sinh, đây tức là Bồ Tát bất thối. Bất thối cái gì ? Bất thối chuyển quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Bồ Tát đầy đủ tất cả sức lực, dù núi Tu Di và núi Thiết Vi, cũng không thể chướng ngại được, sức lực nầy phá hoại được vật kiên cố, vào sâu được chất kim cang. Tóm lại, bất cứ vật gì, cũng không chướng ngại được, đây là Bồ Tát vô ngại.

 

Phật tử! vân hà vi Bồ-Tát Ma-ha-tát như không nhẫn?

Phật tử ! Thế nào là như không nhẫn của đại Bồ Tát ?

Giảng: Bồ Tát Phổ Hiền lại gọi một tiếng các vị đệ tử của Phật ! Thế nào là như không nhẫn của đại Bồ Tát tu ? Làm thế nào xem tất cả như hư không ? Hư không chẳng có hình chất, chẳng có chướng ngại. Hư không là không chẳng có gì hết, cũng là chẳng có gì mà không có. Thoạt nhìn chẳng có gì hết, phân tích lại thì cái gì cũng có, đó là đạo lý chân không diệu hữu.

 

Phật tử! thử bồ tát Ma-ha tát liễu nhất thiết pháp giới do như hư không, dĩ vô tướng cố. Nhất thiết thế giới do như hư không, dĩ vô khởi cố. Nhất thiết pháp do như hư không, dĩ vô nhị cố. Nhất thiết chúng sanh hạnh do như hư không, vô sở hành cố. Nhất thiết Phật do như hư không, vô phân biệt cố. Nhất thiết Phật lực do như hư không, vô sái biệt cố. Nhất thiết Thiền định do như hư không, tam tế bình đẳng cố. Sở thuyết nhất thiết pháp do như hư không, bất khả ngôn thuyết cố. Nhất thiết Phật thân do như hư không, Vô Trước vô ngại cố. Bồ Tát như thị, dĩ như hư không phương tiện, liễu nhất thiết pháp giai vô sở hữu.

Phật tử ! Đại Bồ Tát này, thấu rõ tất cả pháp giới, như hư không, vì vô tướng. Tất cả thế giới, như hư không, vì không khởi. Tất cả pháp như hư không, vì không hai. Tất cả chúng sinh hành như hư không, vì vô sở hành. Tất cả Phật như hư không, vì không phân biệt. Tất cả Phật lực như hư không, vì không khác biệt. Tất cả thiền định như hư không, vì ba đời bình đẳng. Sở thuyết tất cả pháp như hư không, vì không thể nói. Tất cả thân Phật như hư không, vì vô trước vô ngại. Bồ Tát dùng phương tiện như hư không như vậy, thấu rõ tất cả pháp đều không chỗ có.

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Vị đại Bồ Tát này, Ngài tu pháp môn như không nhẫn, biết rõ chín cảnh giới dưới đây :
1. Biết rõ tất cả pháp giới, giống như hư không, vì pháp giới chẳng có hình tướng.
2. Biết rõ tất cả thế giới, giống như hư không, vì chẳng có sinh khởi.
3. Biết rõ tất cả Phật pháp, giống như hư không, vì pháp chẳng có một, cũng chẳng có hai.
4. Biết rõ hành vi của tất cả chúng sinh, giống như hư không, vì hành vô sở hành.
5. Biết rõ tất cả chư Phật, giống như hư không. Vì chẳng có phân biệt giữa Phật, chúng sinh và pháp.
6. Biết rõ tất cả Phật lực, giống như hư không, vì chẳng có gì khác nhau.
7. Biết rõ tất cả thiền định, giống như hư không, vì ba đời (quá khứ, vị lai, hiện tại) đều là bình đẳng.
8. Biết rõ chư Phật nói tất cả pháp, giống như hư không, vì bổn thể của pháp không thể nói.
9. Biết rõ thân của tất cả chư Phật, giống như hư không, vì chẳng có chấp trước và chẳng có chướng ngại.

Các vị phải hiểu rõ ý nghĩa « giống như hư không ». Bổn lai chẳng phải hư không, giả tưởng nó là hư không, thì giống như hư không, vì nó chẳng phải hư không, bạn nghĩ nó là hư không, cho nên phải nhẫn. Bạn muốn nhận thức cảnh giới này, thì nhận thức được, đó tức là nhẫn.

Bồ Tát biết rõ tất cả đều là hư không, dùng pháp môn phương tiện như hư không, để minh bạch tất cả pháp, bổn lai đều là không chỗ có; không chỗ có tức là không. Tức nhiên là không, thì không còn có pháp chấp và ngã chấp. Ngã chấp và pháp chấp đều không còn nữa, thì đó chẳng phải hư không, thì là gì ?

 

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát dĩ như hư không nhẫn trí liễu nhất thiết pháp thời, đắc như hư không thân, thân nghiệp, đắc như hư không ngữ, ngữ nghiệp, đắc như hư không ý, ý nghiệp.

Phật tử ! Đại Bồ Tát dùng trí như hư không nhẫn, khi thấu rõ tất cả pháp, thì đắc được thân, thân nghiệp như hư không, đắc được lời, lời nghiệp như hư không, đắc được ý, ý nghiệp như hư không.

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát dùng trí huệ như hư không nhẫn, khi thấu đạt tất cả pháp, thì đắc được thân như hư không, bất cử ở trong tĩnh, hoặc ở trong động, đều chẳng thể đắc được thân tướng, vì không thể đắc được thân tướng, cho nên thân cũng chẳng có nghiệp. Đắc được lời như hư không, vì không có lời để nói, cho nên lời cũng chẳng có nghiệp. Đắc được ý như hư không, vì không chấp trước, cho nên ý cũng chẳng có nghiệp.

 

Thí như hư không, nhất thiết pháp y bất sanh bất một. Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, nhất thiết pháp thân bất sanh bất một.

Thí như hư không, bất khả phá hoại. Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, trí tuệ chư lực bất khả phá hoại.

Thí như hư không, nhất thiết thế gian chi sở y chỉ nhi vô sở y. Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, nhất thiết chư pháp chi sở y chỉ nhi vô sở y.

Thí như hư không, vô sanh, vô diệt, năng trì nhất thiết thế gian sanh, diệt. Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, vô hướng, vô đắc, năng thị hướng, đắc, phổ sử thế gian tu hành thanh tịnh.

Ví như hư không, tất cả pháp nương tựa chẳng sinh, chẳng diệt. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, tất cả pháp thân không sinh, không diệt.

Ví như hư không, không thể phá hoại. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, trí huệ các lực không thể phá hoại.

Ví như hư không, chỗ nương tựa của tất cả thế gian, mà không chỗ nương tựa. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, chỗ nương tựa của tất cả các pháp, mà không chỗ nương tựa.

Ví như hư không, không sinh không diệt, hay giữ gìn tất cả thế gian sinh diệt. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, không hướng, không đắc, hay thị hiện hướng đắc, khiến khắp thế gian tu hành thanh tịnh.

Giảng: Ví như hư không, tuy là chỗ nương tựa của tất cả pháp, nhưng không sinh không diệt. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, tất cả pháp thân cũng không sinh không diệt.

Ví như hư không, không thể phá hoại được. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, trí huệ và mười lực của Bồ Tát, không thể phá hoại được.

Ví như hư không, tuy là chỗ nương tựa của tất cả thế gian, nhưng hư không không chỗ nương tựa, chẳng có chấp trước.

Ví như hư không, tuy không sinh cũng không diệt, nhưng hay giữ gìn tất cả thế gian sinh diệt. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, tuy chẳng có sở hướng, chẳng có sở đắc, nhưng hay thị hiện sở hướng sở đắc, khiến khắp hết thảy chúng sinh tất cả thế gian, tu hành pháp môn thanh tịnh.

 

Thí như hư không, vô phương, vô ngung, nhi năng hiển hiện vô biên phương, ngung. Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, vô nghiệp, vô báo, nhi năng hiển thị chủng chủng nghiệp, báo.

Thí như hư không, phi hành, phi trụ, nhi năng thị hiện chủng chủng uy nghi. Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, phi hành, phi trụ, nhi năng phân biệt nhất thiết chư hạnh.

Thí như hư không, phi sắc, phi phi sắc, nhi năng thị hiện chủng chủng chư sắc. Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, phi thế gian sắc, phi xuất thế gian sắc, nhi năng thị Hiện-Nhất-Thiết chư sắc.

Thí như hư không, phi cữu, phi cận, nhi năng cửu trụ, Hiện-Nhất-Thiết vật. Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, phi cữu, phi cận, nhi năng cửu trụ, hiển thị Bồ Tát sở hạnh chư hạnh.

Ví như hư không, không vuông, không góc, mà hay hiển hiện vô biên vuông góc. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, không nghiệp, không báo, mà hay hiển bày đủ thứ nghiệp báo.

Ví như hư không, chẳng đi, chẳng đứng, mà hay thị hiện đủ thứ oai nghi. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, chẳng đi, chẳng đứng, mà phân biệt được tất cả các hành.

Ví như hư không, chẳng có sắc, chẳng không sắc, mà hay thị hiện đủ thứ các sắc. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, chẳng thế gian sắc, chẳng xuất thế gian sắc, mà hay thị hiện tất cả các sắc.

Ví như hư không, chẳng lâu, chẳng gần, mà hay ở lâu, hiện tất cả vật. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, chẳng lâu, chẳng gần, mà hay ở lâu, hiển bày các hạnh của Bồ Tát tu hành.

Giảng: Ví như hư không, tuy không có vuông, cũng không có góc, mà hay hiển hiện vô biên vuông và góc. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, tuy bổn thân không có nghiệp, cũng không có báo, mà hay hiển bày đủ thứ nghiệp và báo.

Ví như hư không, tuy chẳng có đi, cũng chẳng có đứng, mà hay thị hiện đủ thứ oai nghi. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, tuy chẳng cần đi đến chỗ nào, cũng chẳng cần đứng ở chỗ nào, mà phân biệt được tất cả hạnh môn của sở hành.

Ví như hư không, tuy chẳng phải sắc, cũng chẳng phải không sắc, mà hay thị hiện đủ thứ tất cả các sắc. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, tuy chẳng phải nhan sắc thế gian, cũng chẳng phải nhan sắc xuất thế gian, mà hay thị hiện tất cả các sắc pháp.

Ví như hư không, nói nó là xa chăng ? bên cạnh chúng ta có hư không. Nói nó gần chăng ? dơ tay ra nắm chẳng được hư không, cho nên nói hư không chẳng phải xa, cũng chẳng phải gần, mà hư không hay trụ lâu dài, không lúc nào bị phá hoại. Tại sao ? Vì nó là hư không, không có gì cả, làm sao phá hoại được ? Chúng ta phải chú ý chỗ này. Tại sao chúng ta có vô minh, có phiền não ? vì chúng ta chẳng giống như hư không, do đó :

« Tự tánh như hư không,
Chân vọng tại kỳ trung;
Ngộ triệt bổn lai thể,
Nhất thông nhất thiết thông ».

Nghĩa là :
Tự tánh như hư không
Chân vọng ở bên trong
Thấu triệt thể xưa nay
Một thông tất cả đều thông.

Hư không chẳng những trụ lâu dài, mà còn hay hiện ra tất cả sự vật. Nhỏ như hạt bụi, lơ lửng trong hư không; lớn như sơn hà đại địa, nhà cửa phòng ốc, đều bao quát ở trong hư không, không cách chi phá hoại được hư không. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, cũng chẳng xa, cũng chẳng gần, mà thường trụ lâu ở đời, hiển bày tất cả hạnh của Bồ Tát tu hành.

 

Thí như hư không, phi tịnh, phi uế, bất ly tịnh, uế. Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, phi chướng, phi Vô chướng, bất ly chướng, Vô chướng.

Thí như hư không, nhất thiết thế gian giai hiện kỳ tiền, phi hiện nhất thiết thế gian chi tiền. Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, nhất thiết chư pháp giai hiện kỳ tiền, phi hiện nhất thiết chư pháp chi tiền.

Thí như hư không, phổ nhập nhất thiết, nhi vô biên tế. Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, phổ nhập chư Pháp, nhi Bồ Tát tâm vô hữu biên tế.

Ví như hư không, chẳng sạch, chẳng dơ, chẳng lìa sạch dơ. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, chẳng chướng, chẳng không chướng, chẳng lìa chướng, không chướng.

Ví như hư không, tất cả thế gian đều hiện ra ở trước, chẳng hiện ở trước tất cả thế gian. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, tất cả các pháp đều hiện ra ở trước, chẳng hiện ra trước tất cả các pháp.

Ví như hư không, vào khắp tất cả mà không bờ mé. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, vào khắp các pháp, mà tâm Bồ Tát không có bờ mé.

Giảng: Ví như hư không, nó sạch chăng? Cũng chẳng phải. Nó dơ bẩn chăng? lại chẳng phải, nhưng hư không chẳng lìa sạch và dơ. Hiện tại tuy không khí bị ô nhiễm, nhưng hư không vẫn sạch. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, không thể nói chẳng có chướng ngại, lại không thể nói chẳng phải không có chướng ngại, tại sao? Vì chẳng lìa khỏi chướng ngại, cho nên không có chướng ngại.

Ví như hư không, tuy tất cả thế gian đều hiện ra ở trước hư không, nhưng chẳng phải hư không hiện ra ở trước tất cả thế gian. Tại sao? Vì hư không chẳng có gì cả, làm sao có thể hiện? Đại Bồ Tát cũng lại như thế, tuy tất cả các pháp đều hiện ra ở trước Bồ Tát, nhưng Bồ Tát không thể hiện ra trước tất cả các pháp.

Ví như hư không, tuy vào khắp tất cả, mà không có bờ mé. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, vào khắp các pháp thật tướng, mà tâm nguyện của Bồ Tát không có bờ mé, không có giới hạn.

 

Hà dĩ cố? Bồ Tát sở tác như hư không cố. Vị sở hữu tu tập, sở hữu nghiêm tịnh, sở hữu thành tựu giai tất bình đẳng, nhất thể, nhất vị, nhất chủng, phần lượng như hư không, thanh tịnh biến nhất thiết xứ.

Như thị chứng tri nhất thiết chư pháp, ư nhất thiết Pháp vô hữu phân biệt, nghiêm tịnh nhất thiết chư Phật quốc độ, viên mãn nhất thiết vô sở y thân, liễu nhất thiết phương vô hữu mê hoặc, cụ nhất thiết lực bất khả tồi hoại, mãn túc nhất thiết vô biên công đức, dĩ đáo nhất thiết thậm thâm Pháp xứ, thông đạt nhất thiết Ba-la-mật đạo, phổ tọa nhất thiết Kim cương chi tọa, phổ phát nhất thiết tùy loại chi âm, vi nhất thiết thế gian chuyển ư Pháp luân vị tằng thất thời.

Tại sao? Vì những gì Bồ Tát làm, giống như hư không. Những sự tu tập, những sự nghiêm tịnh, những sự thành tựu, thảy đều bình đẳng. Một thể, một vị, một thứ phân lượng, như hư không thanh tịnh khắp tất cả mọi nơi. Chứng biết tất cả các pháp như vậy, nơi tất cả pháp, không có sự phân biệt.

Nghiêm tịnh tất cả cõi nước chư Phật, viên mãn tất cả không chỗ nương tựa thân, thấu rõ tất cả phương hướng, không có sự mê hoặc. Đủ tất cả các lực, không thể phá hoại. Đầy đủ vô biên tất cả công đức, đã đến được nơi thâm sâu của tất cả các pháp. Thông đạt tất cả đạo Ba la mật, ngồi khắp tất cả toà kim cương, phát ra khắp tất cả âm thanh tuỳ loại. Vì tất cả thế gian chuyển bánh xe pháp, chưa từng thất thời.

Giảng: Những tình hình như vậy là do duyên cớ gì? Vì những gì Bồ Tát làm đều giống như hư không. Những sự tu tập, những sự nghiêm tịnh, những sự thành tựu, đều giống như hư không, đều là bình đẳng. Một thể (thể tánh chân như thật tướng), một vị (vị giải thoát), một thứ phân lượng, thanh tịnh giống như hư không, đầy khắp tất cả mọi nơi, chứng biết tất cả các pháp như vậy, đều thấu rõ được, đối với tất cả các pháp chẳng có sự phân biệt.

Bồ Tát hay trang nghiêm thanh tịnh tất cả cõi nước chư Phật, viên mãn tất cả không chỗ nương tựa thân. Thấu rõ tất cả phương hướng, chẳng có lúc nào mê hoặc. Đầy đủ tất cả sức lực, không thể bị phá hoại. Đầy đủ tất cả vô biên công đức, đã đến được chỗ tất cả pháp thâm sâu vi diệu. Thông đạt tất cả đạo Ba la mật đến bờ kia, ngồi khắp tất cả bảo toà kim cang, phát ra khắp tất cả âm thanh tuỳ loại đều hiểu được, khắp vì tất cả chúng sinh thế gian, chuyển bánh xe pháp, không khi nào thất thời.

 

Thị danh: Bồ-Tát Ma-ha-tát đệ thập như không nhẫn.

Đó là như không nhẫn thứ mười của đại Bồ Tát.

Giảng: Đó tức là pháp môn nhẫn thứ mười của đại Bồ Tát tu, gọi là như không nhẫn.

 

Bồ-Tát Ma-ha-tát thành tựu thử nhẫn, đắc vô lai thân, dĩ vô khứ cố. Đắc vô sanh thân, dĩ vô diệt cố. Đắc vô động thân, dĩ vô hoại cố. Đắc bất thật thân, ly hư vọng cố. Đắc nhất tướng thân, dĩ vô tướng cố. Đắc vô lượng thân, Phật lực vô lượng cố. Đắc bình đẳng thân, đồng như tướng cố. Đắc vô sái biệt thân, đẳng quán tam thế cố. Đắc chí nhất thiết xứ thân, Tịnh nhãn đẳng chiếu vô chướng ngại cố. Đắc ly dục tế thân, tri nhất thiết pháp vô hợp tán cố.

Đại Bồ Tát thành tựu nhẫn nầy, đắc được thân không đến, vì thân không đi. Đắc được thân không sinh, vì không diệt. Đắc được thân bất động, vì không hoại. Đắc được thân chẳng thật, vì lìa hư vọng. Đắc được thân một tướng, vì vô tướng. Đắc được thân vô lượng, vì Phật lực vô lượng. Đắc được thân bình đẳng, vì đồng như tướng. Đắc được thân vô sai biệt, vì bình đẳng quán ba đời. Đắc được thân đến tất cả mọi nơi, vì mắt tịnh bình đẳng chiếu không chướng ngại. Đắc được thân lìa dục tế, vì biết tất cả pháp không hợp tan.

Giảng: Đại Bồ Tát thành tựu mười thứ nhẫn này rồi, lại đắc được mười hai thứ thân, thậm chí đắc được vô lượng vô biên sắc thân. Phàm phu chúng ta tại sao không có sắc thân như thế? Vì chúng ta không thể nhẫn. Tại sao không thể nhẫn? Vì chúng ta cho rằng tất cả thế gian đều là chân thật, cho nên không thể nhẫn. Giả như bị người mắng một câu, thì chịu không được; giả như bị người nói một câu, thì nhẫn không được.

Như có người nói: “Người nào đó là chó!” thì người này chắc chắn sẽ không vui, sao bạn lại mắng người? Giả thiết ban đầu tên gọi của con người là chó, tên gọi chó là người. Hiện tại giả như có người nói bạn là người, thì bạn cũng chẳng vui, bèn sinh ra phiền não, tại sao mắng tôi là người! Cho nên nói danh từ là giả danh. Vì giả danh, nên nhìn không thấu suốt, buông bỏ chẳng đặng, nên nói là mắng tôi, mắng bạn, mắng họ, có nhiều phiền não như thế. Nhưng nếu chẳng chấp trước cái tôi, thì chẳng chấp trước về thân, cũng chẳng có tâm chấp trước, chẳng có mọi sự chấp trước. Lúc đó, có người mắng tôi, thì tôi xem như họ ca hát để thưởng thức, nghĩ được như vậy thì chẳng có phiền não.

Chúng ta học Phật pháp là học chữ nhẫn này. Tôi thường nói:

“Nhẫn là báu vô giá
Mọi người đối không tốt
Nếu thường hay nhẫn được
Mọi việc đều tốt đẹp”.

Nhẫn này là nhẫn những gì người khác không nhẫn được, thọ những điều người khác thọ không được, ăn những gì người khác không ăn được, mặc những gì người khác không mặc được, pháp môn này phải thật hành chân thật, không phải chỉ nói suông là được. Do đó có câu:

“Bồ Tát sợ nhân không sợ quả
Phàm phu sợ quả không sợ nhân”.

Khi Bồ Tát tại nhân địa, làm bất cứ chuyện gì, cũng đều rất cẩn thận, sợ sai lầm nhân quả. Khi Ngài thọ quả báo thì rất hoan hỉ tiếp thọ, không một lời than oán. Phàm phu khi trồng nhân thì chẳng sợ gì cả, tuỳ tiện có thể giết người phóng lửa. Nói với người những lời tệ bạc, mắng chưởi người, hoặc ác ý phê bình người. Khi thọ quả báo thì mới cảm thấy đáng sợ. Có người nói: “Tại sao tôi phải khổ thế này?” Là vì trước kia bạn đã trồng xuống nhân này, cho nên phải thọ quả này.

Thế giới hiện nay, tại sao các nơi phát sinh tai nạn? Vì chúng sinh khởi hoặc, tạo nghiệp, thọ quả báo. Người chẳng hiểu nhân quả, bất cứ sự việc gì cũng đều đấu với người, tranh với người, càng đấu tranh thì oán cừu càng sâu, càng tranh thì thị phi càng nhiều. Chúng ta người học Phật pháp, nên nhớ! Nên nhớ! Không thể đấu với người, càng không thể tranh với người. Do đó: “Tranh thì chẳng đủ, nhường thì có dư”, thiệt thòi tức là chiếm tiện nghi, đây là nói về kinh nghiệm.

Bồ Tát thành tựu nhẫn này:
1. Đắc được thân không từ đâu đến, vì không chỗ đi, tức cũng là không đến không đi.
2. Đắc được thân không sinh, vì chẳng có diệt. Có sinh thì có diệt, nếu chẳng có sinh, thì cũng chẳng có diệt.
3. Đắc được thân bất động, vì chẳng có hoại. Tức nhiên chẳng hoại, sao lại có động?
4. Đắc được thân không thật, vì lìa khỏi hư vọng. Bồ Tát cảm thấy thân thể của mình chẳng phải thật tại, cho nên lìa khỏi hư vọng.
5. Đắc được thân một tướng, vì vô tướng. Bồ Tát không còn tướng ta, thậm chí một tướng cũng không có.
6. Đắc được thân vô lượng, vì Phật lực vô lượng.
7. Đắc được thân bình đẳng, vì đồng như tướng, cho nên chẳng có sự bất bình đẳng.
8. Đắc được thân vô sai biệt, vì bình đẳng quán ba đời không phân biệt. Đời quá khứ, đời vị lai, đời hiện tại, chẳng có thân bất đồng.
9. Đắc được thân đến tất cả mọi nơi, vì mắt tịnh bình đẳng chiếu không chướng ngại. Bồ Tát vì tu hành Bồ Tát đạo, cho nên đắc được sắc thân thiên biến vạn hoá, đến đâu cũng không có sự hạn chế.

Phàm là nơi nào có duyên với Bồ Tát, Bồ Tát đều thị hiện thân đến độ chúng sinh, thân lớn như cõi Phật, thân nhỏ như hạt bụi. Tại sao? Vì Bồ Tát đắc được thiên nhãn, nhục nhãn, pháp nhãn, huệ nhãn thanh tịnh. Dùng bốn thứ mắt thanh tịnh này để chiếu khắp, mà chẳng có mọi sự chướng ngại gì. Thanh tịnh tức là trong tâm chẳng có tư tưởng nhiễm ô, tức cũng là chẳng có niệm tham, chẳng có niệm dục, chẳng có niệm dâm, như thế tức là đắc được mắt pháp thanh tịnh (thanh tịnh pháp nhãn). Mắt pháp thanh tịnh này, hay quán sát tận hư không khắp pháp giới, hết thảy tất cả mọi nơi, có chúng sinh nào đáng được độ, thì Bồ Tát liền thị hiện thân trước họ để độ họ.

Một số người khi chưa đắc được mắt pháp thanh tịnh, khi tụng kinh thì cần nhìn kinh để tụng. Người đắc được con mắt pháp thanh tịnh, khai mở mắt pháp thanh tịnh, quán sát tận hư không khắp pháp giới đều là đạo tràng, đều là chúng hội. Mười phương chư Phật, đang ở đó giảng kinh thuyết pháp; mười phương Bồ Tát, đang ở đó giảng kinh thuyết pháp. Cảnh giới này thật là không thể nghĩ bàn! Người mắt pháp thanh tịnh muốn niệm kinh, tụng kinh, có thể nhìn một cái thì thấu rõ tất cả các pháp thật tướng, không cần mở kinh ra để tụng, để đọc.

Ai muốn khai mở mắt pháp thanh tịnh? Thì phải thâm nhập kinh tạng, trí huệ như biển, thì chẳng có mọi sự chướng ngại. Người đắc được mắt pháp thanh tịnh, nhìn bất cứ cái gì thì thông suốt cái đó, nhìn thấu suốt qua tường luôn, mà không bị chướng ngại, cách núi lớn cũng nhìn thấu suốt được. Tóm lại, bất cứ sự vật gì, cũng không cản che được.

Người đắc được mắt pháp thanh tịnh, quán sát trong tâm người khác đang nghĩ gì, đều biết được rõ ràng, nhưng không cần nói với họ: “Ê! Hiện tại tôi biết bạn đang nghĩ gì”, như vậy thì mọi người chẳng dám gần gũi bạn. Tại sao? Vì sợ bạn biết được hết bí mật của họ, cho nên phải hoà quang hỗn tục giống như họ. Giống như có bảo châu, phải cất ở trong túi áo, không thể cầm ra cho người xem. Nếu khoe rằng: “Bảo châu của tôi, giá trị vô cùng”, khi bị kẻ trộm biết được, nhất định sẽ bị trộm mất. Do đó, phải cẩn thận, giữ bí mật, thì mới bình an vô sự, hoà bình với nhau.

Có mắt pháp thanh tịnh, tuy nhiên không bị người lấy trộm đi, nhưng có người sinh tâm đố kị: “Sao tôi chẳng có? Tôi xuất gia đã nhiều năm, dụng công tu đạo, nghiêm trì giới luật, ngày ăn một bữa (trưa), ngủ ngồi. Tại sao chẳng có cảnh giới này? Tại sao họ lại có?” Do đó, trong tâm không được vui, đứng ngồi không yên, chẳng phải từ vị, là đố kị hoặc là chướng ngại? Chính mình cũng không biết rõ, rốt ráo tại sao, cũng chẳng biết. Cho nên phải hoà quang, ôn hoà, biểu hiện bên ngoài phải giống như họ.

Đừng khoe khoang phô trương trí huệ của mình, đừng hiển lộ ra ngoài, như thế thì chẳng có sự phân tranh. Họ và bạn giống nhau thì họ chẳng sinh đố kị, chẳng sinh chướng ngại. Các bạn sẽ không tin tại sao có người đố kị tôi, chướng ngại tôi? Vì tôi và họ chẳng giống nhau. Họ cảm thấy tôi là người kỳ quái, ngày chỉ ăn một bữa, ngủ ngồi, hằng ngày đắp y, do đó họ nói: “Người này quá ngu si! Ngày ăn một bữa, làm sao có thể ngủ ngồi? Làm sao có thể chịu được? Hằng ngày đắp y, thật là mệt quá”! Hoặc nói: “Ở đó khổ quá, con người chịu không nổi, không biết là thật hay là giả?” Hoặc nói: “Đại khái không phải như thế đâu”! Tóm lại, những gì tôi làm đều chẳng đúng, ăn một bữa cũng chẳng đúng, ngủ ngồi cũng chẳng đúng, mặc y cũng chẳng đúng, họ phê bình như thế.

Chẳng những tôi tu khổ như thế, mà tôi giáo hoá đệ tử người Mỹ cũng tu khổ như thế. Họ lại phê bình nói: “Thật là hại chết người”! Có một lần, vị Thầy nọ đến tham quan Phật giáo Giảng Đường (tiền thân Kim Sơn Thiền Tự), phát hiện khoảng hai ba mươi cái hộp bằng gỗ, không biết là để dùng làm gì? Buổi tối nhìn thấy những thanh niên người Mỹ, sau khi làm khoá lễ buổi tối xong, giống như chim về tổ, mỗi người ngồi trên hộp gỗ ngủ. Lúc đó, vị Thầy đó mới biết hộp gỗ dùng để làm gì, bèn nói với tôi:

– “Ai da, Thầy thật là hại người chết! Sao lại ngược đãi họ như vậy, Thầy thật là không đúng!”

– Tôi nói: “Tôi chẳng có dạy chúng như thế, mà là chúng muốn như thế”. Tôi không cách chi giải thích với ông ta.

Người xuất gia, nên lúc nào cũng đắp y thì mới hiện tướng Tỳ Kheo. Hiện tại người xuất gia, tự mình không đắp y, còn nói người khác đắp y là không đúng. Các vị hãy nhìn xem! Chạy đi đến nơi nào đây? Đừng nói bổn lai diện mục của tự tánh chẳng nhận thức được, dù lông da trên bổn lai diện mục cũng không nhận thức được. Bên ngoài thấy được bổn lai diện mục đều không biết được, lấy phải làm trái, lấy trái làm phải; lấy đen làm trắng, lấy trắng làm đen, như vậy làm sao giáo hoá người? Chẳng những người tại gia phê bình như thế, mà người xuất gia cũng công khai nói: “Mặt y là không đúng”. Có tư tưởng như thế, thật khiến cho người đau lòng. Chẳng có cách gì giảng chân lý với họ, càng giảng chân lý thì họ càng không tin, ngược lại còn nói: “Bạn mới là giả”. Phật giáo chẳng phải thật đau lòng lắm sao! Chúng sinh tướng tức là như thế.

10. Đắc được thân lìa dục tế, phải lìa khỏi hành vi dâm dục, vì dâm dục tức là nguồn gốc của sinh tử. Tại sao chúng ta sinh rồi lại chết? Chết rồi lại sinh? Là vì có dâm dục. Có ý niệm dâm dục thì có sinh tử. Lìa ý niệm dâm dục thì sinh tử chấm dứt. Có người nói: “Tôi đã dứt trừ ý niệm dâm dục”. Bạn nói đã dứt trừ ý niệm dâm dục, nó vẫn đang ẩn tàng bên trong, chính bạn chẳng biết mà thôi. Ý niệm dâm dục ở trong thức thứ tám, chẳng biết có bao nhiêu, e rằng còn cao hơn là núi Thái sơn, vì núi Thái sơn là do từng hạt bụi tích tập mà thành, do đó: “Do ít tích luỹ thành cao lớn”. Dâm dục trong tâm của bạn còn nhiều hơn là những hạt bụi của núi Thái sơn, bất quá mình chẳng phát hiện được mà thôi. Nếu bạn thật không còn ý niệm dâm dục, thì khi bạn đi đường, giầy không dính đất, không có âm thanh. Có cảnh giới này, thì mới chứng minh bạn đã lìa khỏi dâm dục.

Thế nào là thân lìa dục tế? Tức là biết tất cả pháp, chẳng có hợp, cũng chẳng có tan. Rất tự nhiên, chẳng phải tạo tác, chẳng phải miễn cưỡng. Có người hỏi: “Thế nào là hợp? Thế nào là tan?” Nói tóm lại, kết hôn tức là hợp, ly hôn tức là tan. Phật pháp đang ở bên cạnh của bạn, chứ chẳng lìa khỏi bạn mười vạn tám ngàn dặm. Giảng Phật pháp ở bên ngoài, giảng tới giảng lui, có ích lợi gì? Đối với các bạn nghe kinh, chẳng có ích lợi thật tế nào cả. Cho nên tôi giảng kinh, chỉ nói về ăn cơm, mặc y, ngủ nghỉ, tức là đạo lý này. Các bạn hiểu được rõ ràng, thì sẽ chứng được quả Thánh. Còn hiểu không rõ ràng, hồ đồ tới, hồ đồ lui, khi chết lại bị hồ đồ che đậy. Một đời đều hồ đồ, nghe kinh cũng nghe không rõ ràng. Tại sao? Vì tôi giảng hồ đồ, cho nên các vị nghe không rõ ràng. Hiện tại tôi thành thật nói với các vị, tức là điều này.

 

Đắc hư không vô biên tế thân, phước đức tạng vô tận như hư không cố. Đắc vô đoạn vô tận pháp tánh bình đẳng biện tài thân, tri nhất thiết pháp tướng duy thị nhất tướng, Vô tánh vi tánh như hư không cố. Đắc vô lượng vô ngại âm thanh thân, vô sở chướng ngại như hư không cố.

Đắc cụ túc nhất thiết thiện xảo thanh tịnh Bồ Tát hạnh thân, ư nhất thiết xứ giai vô chướng ngại như hư không cố. Đắc nhất thiết Phật Pháp hải thứ đệ tướng tục thân, bất khả đoạn tuyệt như hư không cố. Đắc nhất thiết Phật sát trung hiện vô lượng Phật sát thân, ly chư tham trước như hư không vô biên cố. Đắc thị Hiện-Nhất-Thiết tự tại Pháp vô hưu tức thân, như hư không đại hải vô biên tế cố. Đắc nhất thiết bất khả hoại kiên cố thế lực thân, như hư không nhậm trì nhất thiết thế gian cố. Đắc chư căn minh lợi như Kim cương kiên cố bất khả hoại thân, như hư không nhất thiết kiếp hỏa bất năng thiêu cố. Đắc trì nhất thiết thế gian lực thân, trí tuệ lực như hư không cố.

Đắc được thân hư không, không bờ mé, vì phước đức tạng vô tận như hư không.

Đắc được thân pháp tánh bình đẳng biện tài vô tận không dứt, vì biết tất cả pháp tướng, chỉ là một tướng, không tánh làm tánh, như hư không.

Đắc được thân âm thanh vô lượng vô ngại, vì không gì chướng ngại như hư không.

Đắc được thân đầy đủ tất cả thiện xảo thanh tịnh Bồ Tát hạnh, vì ở tất cả mọi nơi đều không chướng ngại như hư không.

Đắc được thân tất cả biển Phật pháp thứ lớp liên tục, vì không thể đoạn tuyệt như hư không.

Đắc được thân trong tất cả cõi Phật hiện vô lượng cõi Phật, vì lìa các tham chấp như hư không vô biên.

Đắc được thân thị hiện tất cả pháp tự tại không nghỉ ngơi, vì biển cả không bờ mé như hư không.

Đắc được thân kiên cố thế lực tất cả không thể hoại, vì như hư không giữ gìn tất cả thế gian.

Đắc được thân các căn sáng lợi như kim cang kiên cố không thể hoại, vì như hư không tất cả kiếp lửa không thể thiêu đốt.

Đắc được thân sức lực giữ gìn tất cả thế gian, vì sức trí huệ như hư không.

Giảng:

11. Bồ Tát lại đắc được thân hư không, không bờ mé, vì phước đức tạng nhiều chẳng cùng tận, giống như hư không.

12. Bồ Tát lại đắc được thân pháp tánh bình đẳng biện tài vô tận không dứt, vì biết tất cả pháp tướng, đều là một tướng. Một tướng tức là vô tướng, là chẳng có tướng, là vắng lặng, là tịch diệt. Pháp là vô tánh làm tánh, căn bản không cách chi có thể nói, giống như hư không.

13. Bồ Tát lại đắc được thân âm thanh vô lượng vô ngại, cũng có thể nói thân của Ngài chẳng có số lượng, chẳng có chướng ngại; lại có thể nói âm thanh của Ngài chẳng có số lượng, chẳng có chướng ngại, tại sao? Vì chẳng cách chi có thể chướng ngại được âm thanh của Ngài và thân thể của Ngài, cho nên nói giống như hư không.

14. Bồ Tát lại đắc được thân đầy đủ tất cả thiện xảo thanh tịnh Bồ Tát hạnh, vì bất cứ ở đâu đều không chướng ngại giống như hư không.

15. Bồ Tát lại đắc được thân tất cả biển Phật pháp thứ lớp liên tục, vì không thể đoạn tuyệt giống như hư không.

16. Bồ Tát lại đắc được thân trong tất cả cõi Phật thị hiện vô lượng cõi Phật, vì lìa khỏi tất cả niệm tham và mọi sự chấp trước, giống như hư không.

17. Bồ Tát lại đắc được thân thị hiện tất cả pháp tự tại không nghỉ ngơi, tại sao? Vì giống như hư không, giống như biển cả, chẳng có bờ mé.

18. Bồ Tát lại đắc được thân thế lực kiên cố tất cả không thể hoại, tại sao? Vì giống như hư không, hay giữ gìn tất cả thế gian.

19. Bồ Tát lại đắc được thân các căn sáng lợi kiên cố như kim cang không thể hoại, tại sao? Vì giống như hư không, bất cứ gặp đại kiếp lửa gì, đều không thể bị thiêu đốt.

20. Bồ Tát lại đắc được thân sức lực giữ gìn tất cả thế gian, tại sao? Vì sức trí huệ giống như hư không.

 

Phật tử! thị danh Bồ-Tát Ma-ha-tát thập chủng nhẫn.

Phật tử! Đó là mười thứ nhẫn của đại Bồ Tát.

Giảng: Các vị đệ tử của Phật! Đó tức là pháp môn mười thứ nhẫn của đại Bồ Tát tu.

Ở Trung Quốc là lấy nghề nông lập quốc, nhân dân đều biết đạo lý mùa xuân gieo giống, mùa hạ trồng trọt, mùa thu thu hoạch, mùa đông cất vào kho. Một năm bốn mùa, mọi người đều ấm no, không bị khổ đói lạnh. Nếu như có người, mùa xuân không gieo trồng, mùa hạ không trồng trọt, thì khi đến mùa thu, ngồi ở trong nhà, muốn thu hoạch ngũ cốc, lương thực, không thể nào có được. Chúng ta tu hành cũng giống như làm ruộng, trước hết làm việc lành trong ruộng phước, khi việc thiện làm đến lúc viên mãn, thì tất cả mọi vấn đề, sẽ tự nhiên giải quyết được hết.

Tôi đến nước Mỹ hoằng dương Phật pháp, vì cứu chúng sinh lìa khổ được vui, cho nên hằng ngày giảng kinh thuyết pháp, khiến cho họ khai mở trí huệ, biết rõ nhân quả báo ứng, là vạn lần sự thật. Cho nên phải nhớ không thể sai lầm nhân quả, bằng không sẽ đoạ vào địa ngục, vĩnh viễn không được thân người. Nhưng tôi chưa nói với các vị, nghe kinh có ích lợi gì. Nghe kinh là hiểu biết về chân lý, minh bạch đạo lý mà mình chưa hiểu. Thấu hiểu rồi, thì mới y pháp tu hành, đắc được khoái lạc chân chánh. Do đó: “Tin hiểu hành chứng”, chiếu theo bốn giai đoạn này mà hướng về trước, thì sẽ đến được chỗ rốc ráo.

Chúng ta hiểu rõ vấn đề này, thì phải coi trọng Phật giáo, phải ủng hộ Phật giáo, khiến cho Phật giáo ngày càng phát triển, tục Phật huệ mạng, là trách nhiệm của Phật giáo đồ.

Bất cứ tôn giáo nào, cũng đều tạo hạnh phúc cho chúng sinh, chẳng phải mang phiền não đến cho chúng sinh. Chúng ta đối với bất cứ tôn giáo nào, đừng có tâm thành kiến, phê bình các tôn giáo khác không cao minh như Phật giáo. Chúng ta phải dùng câu: “Đạo với hành, đừng trái nhau”, làm nguyên tắc. Phải tích tập nghĩa lý của tất cả tôn giáo lại với nhau, nghiên cứu triệt để, lấy chỗ dài bổ xung chỗ ngắn, phát dương quang đại, hướng về trước tiến tới, bằng không, sẽ bị thời đại đào thải đi.

Có người hỏi tôi: “Ngài là giáo gì?” Tôi là chân lý giáo, tôi là nhân giáo, tôi là chúng sinh giáo, tôi là đại chúng giáo. Vì chúng sinh là do con người thành, con người có thể thành Phật, cho nên Phật giáo có thể gọi là nhân giáo, cũng có thể gọi là chúng sinh giáo.

Phật giáo là tận hư không, khắp pháp giới. Chúng ta phải thừa nhận tất cả tôn giáo, đều là một bộ phận thuộc về Phật giáo, nhưng tất cả tôn giáo, họ không thừa nhận là Phật giáo, đó là chuyện của họ, đừng hỏi làm gì. Chúng ta phải mở tâm lượng cho rộng lớn, bao la vạn hữu. Tận hư không, khắp pháp giới, đều là biểu hiện của chân lý.

Các vị chú ý! Từ nay về sau đừng có phân biệt đó đây các tôn giáo khác. Họ phân biệt chúng ta đó đây, nhưng chúng ta không phân biệt họ đó đây, phải làm như thế thì sẽ không có việc gì xảy ra, bằng không “Ông nói ông có lý, bà nói bà có lý”, tranh luận với nhau, chẳng có ý nghĩa gì hết. Chân lý không sợ khảo nghiệm, khoa học càng tiến bộ, thì chứng minh Phật giáo càng chính xác. Do đó: “Vàng thật thì không sợ lửa”, càng luyện thì càng sáng, sáng lạn chói mắt.

 

Nhĩ thời, Phổ Hiền Bồ-Tát Ma-ha-tát dục trọng tuyên kỳ nghĩa nhi thuyết tụng ngôn:

Bấy giờ, đại Bồ Tát Phổ Hiền, muốn thuật lại nghĩa này, mà nói bài kệ rằng.

Giảng: Lúc đó, Bồ Tát Phổ Hiền muốn tường thuật lại nghĩa lý Thập nhẫn đã nói ở trên, bèn dùng một trăm lẻ bảy bài kệ, để biểu đạt ý nghĩa. Một trăm bài kệ trước, phân làm mười đoạn, mỗi đoạn có mười bài kệ, nói về mười thứ nhẫn. Bảy bài kệ sau là kết hỉ.

 

Thí như thế hữu nhân, Như trong đời có người
Văn hữu bảo tạng xứ Nghe chỗ có kho báu
Dĩ kỳ khả đắc cố, Vì có thể hưởng được
Tâm sanh đại hoan hỉ. Nên lòng rất vui mừng.

Giảng: Ví như trên thế gian, có hạng người như vầy: Nghe được người nhà nói: “Ở dưới đất chỗ đó có kho báu, nếu đào được kho báu nầy, thì có thể giàu nhất thiên hạ”. Người đó cho rằng có cơ hội, thì sẽ được kho báu đó, nên trong tâm rất là vui mừng, vì kho báu giúp cho họ muốn gì được nấy, làm cho họ toại tâm mãn nguyện.

 

Như thị đại trí tuệ Cũng vậy, đại trí huệ
Bồ Tát chân Phật tử, Bồ Tát chơn phật tử
Thính văn chư Phật Pháp Ðược nghe các phật pháp
Thậm thâm tịch diệt tướng Tướng thậm thâm tịch diệt,

Giảng: Bồ Tát có đại trí huệ, mới là đệ tử chân chánh của Phật. Ngài hay nghe được tất cả pháp của chư Phật nói, pháp đó đều là tướng tịch diệt thâm sâu vô thượng, do đó:

“Chư hành vô thường
Là pháp sinh diệt
Sinh diệt diệt rồi
Tịch diệt vi lạc”.

Nghĩa là:
Các hành vô thường
Là pháp sinh diệt
Sinh diệt diệt rồi
Tịch diệt là vui.

 

Văn thử thâm pháp thời Lúc nghe thâm pháp nầy
Kỳ tâm đắc an ổn Trong tâm được an ổn
Bất kinh diệc bất bố, Chẳng kinh cũng chẳng hãi
Diệc bất sanh khủng úy. Cũng chẳng sanh sợ sệt.

Giảng: Khi Bồ Tát nghe được pháp Bát Nhã thâm sâu, thì tâm của Ngài đắc được sự đại an ổn, cũng không kinh hãi, cũng không sợ sệt. Hay được an ổn như vậy, thì mới vào sâu được tạng kinh, đắc được trí huệ rộng lớn như biển cả.

 

Đại sĩ cầu Bồ-đề, Ðại Sĩ cầu bồ đề
Văn tư quảng đại âm, Nghe tiếng quảng đại nầy
Yâm tịnh năng kham nhẫn, Tâm tịnh hay kham nhẫn
Ư thử vô nghi hoặc. Nơi đây không nghi lầm.

Giảng: Đại sĩ tức là đại Bồ Tát. Đại sĩ là bậc đã phát tâm bồ đề (Trên cầu Phật đạo, dưới độ chúng sinh), cầu đạo bồ đề. Nghe được pháp âm rộng lớn thâm sâu đó, thì trong tâm rất thanh tịnh, kham nhẫn được pháp môn này, mà đắc được pháp môn này không có sự nghi hoặc.

 

Yự niệm dĩ văn thử Tự nghĩ: do nghe được
Yhậm thâm vi diệu Pháp, Pháp thậm thâm vi diệu
Đ ương thành nhất thiết trí Sẽ thành nhứt thiết trí
Nhân thiên đại đạo sư. Nhơn Thiên Ðại Ðạo Sư.

Giảng: Bồ Tát tự nghĩ nhờ nghiên cứu, tự mình nghe được pháp vị diệu thâm sâu nầy, tương lai sẽ thành tựu nhất thiết trí huệ, mà làm đại Đạo Sư của trời và người, tức cũng là thành Phật, Phật là sư biểu của trời người.

 

Bồ Tát văn thử âm, Bồ Tát nghe tiếng nầy
Kỳ tâm đại hoan hỉ, Trong lòng rất hoan hỉ
Phát sanh kiên cố ý Phát sanh ý kiên cố
Nguyện cầu chư Phật Pháp. Nguyện cầu các phật pháp

Giảng: Bồ Tát nghe được pháp âm vi diệu thâm sâu vô thượng nầy, trong tâm sinh đại hoan hỉ, phát sinh ý chí kiên cố, nguyện cầu pháp vi diệu của chư Phật nói.

 

Dĩ lạc Bồ-đề cố, Vì mến thích bồ đề
Kỳ tâm tiệm điều phục, Nên tâm lần điều phục
Lệnh tín ích tăng trưởng, Lòng tin thêm tăng trưởng
Ư Pháp vô vi báng. Không trái chê chánh pháp.

Giảng: Vì nhờ Bồ Tát hoan hỉ ưa thích bồ đề giác đạo, cho nên tâm của Ngài dần dần được điều phục, khiến cho tín tâm ngày càng tăng trưởng. Đối với Phật pháp không trái ngược, không phỉ báng, mà ủng hộ Phật pháp, tuyên dương Phật pháp.

 

Thị cố văn thử âm, Thế nên nghe tiếng nầy
Kỳ tâm đắc kham nhẫn, Nơi lòng được kham nhẫn
An trụ nhi bất động, An trụ vững chẳng động.
Tu hành Bồ Tát hạnh. Tu hành hạnh Bồ Tát.

Giảng: Do nhờ nhân duyên, nên nghe được pháp âm này, mà tâm của Ngài đắc được sự kham nhẫn, an trụ vào cảnh giới kham nhẫn, nên tâm không bị lay động, để tu tập Bồ Tát hạnh lục độ vạn hạnh.

 

Vi cầu Bồ-đề cố, Vì cầu đạo bồ đề
Chuyên hành hướng bỉ đạo Chuyên tu hướng về đó
Tinh tấn vô thoái chuyển, Tinh tấn không thối chuyển
Bất xả chúng thiện ách. Chẳng bỏ những thiện nghiệp.

Giảng: Bồ Tát tu hành Bồ Tát đạo, vì cầu đạo vô thượng bồ đề, chuyên tâm nhất chí để tu hành, hướng về đạo bồ đề, lúc nào cũng tinh tấn, chẳng thối chuyển Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, cũng không xả bỏ tất cả nghiệp thiện.

 

Dĩ cầu Bồ-đề cố, Vì cầu đạo bồ đề
Kỳ tâm vô khủng úy, Trong lòng không sợ hãi
Văn Pháp tăng dũng mãnh, Nghe pháp thêm dũng mãnh
Cúng Phật lệnh hoan hỉ. Cúng Phật khiến hoan hỉ.

Giảng: Bồ Tát nhờ cầu bồ đề, cho nên ngày đêm tinh tấn không giải đãi. Trong tâm của Bồ Tát chẳng sinh tâm kinh hãi sợ sệt, cũng chẳng sợ Phật đạo lâu xa, chỉ một lòng tinh tấn hướng về trước. Nghe được pháp của chư Phật nói, tâm sẽ thêm dũng mãnh tinh tấn. Bồ Tát thường hay đến cõi nước chư Phật mười phương, để cúng dường chư Phật, thừa sự chư Phật, khiến cho chư Phật sinh đại hoan hỉ.

 

Như hữu Đại phước nhân, Như có người đại phước
Hoạch đắc chân kim tạng, Gặp được kho chơn kim
Tùy thân sở ưng phục, Theo thân chỗ nên đeo
Tạo tác trang nghiêm cụ. Chế tạo đồ trang nghiêm.

Giảng: Giống như có người có phước báo lớn, đắc được kho vàng thật, bèn đem vàng thật làm các thứ đồ trang nghiêm, để mang trên thân, dùng để cúng dường Tam Bảo.

 

Bồ Tát diệc như thị, Bồ Tát cũng như vậy
Văn thử thậm thâm nghĩa, Nghe nghĩa thậm thâm này.
Tư tánh tăng trí hải, Tư duy thêm trí huệ
Dĩ tu tùy thuận Pháp. Ðể tu pháp tùy thuận.

Giảng: Bồ Tát cũng như thế, nghe được nghĩa lý pháp thâm sâu này, Ngài bèn tư duy tu hành, để tăng thêm trí huệ rộng lớn như biển cả, còn tu hành pháp môn tuỳ thuận chúng sinh.

 

Pháp hữu diệc thuận tri, Pháp hữu cũng thuận biết,
Pháp vô diệc thuận tri, Pháp vô cũng thuận biết,
Tùy bỉ Pháp như thị, Tùy pháp đó như vậy
Như thị tri chư Pháp. Như vậy biết các pháp.

Giảng: Pháp có tướng, Bồ Tát cũng biết, pháp không tướng, Bồ Tát cũng biết. Tuỳ thuận tất cả pháp để tu hành, có vô sinh pháp nhẫn, tuỳ thuận các pháp, biết rõ tất cả các pháp thật tướng.

 

Thành tựu thanh tịnh tâm, Thành tựu tâm thanh tịnh
Minh triệt đại hoan hỉ, Minh triệt rất hoan hỷ
Tri Pháp tùng duyên khởi, Biết pháp theo duyên khởi
Dũng mãnh cần tu tập. Dũng mãnh siêng tu tập.

Giảng: Làm thế nào để được tâm thanh tịnh? Tức là siêng tu lục độ vạn hạnh, thực hành đạo của Bồ Tát tu. Như vậy mới viên mãn công đức, thành tựu tâm thanh tịnh. Thành tựu rồi, mới thấu triệt được, sau đó sẽ sinh tâm đại hoan hỉ. Biết tất cả các pháp, là do nhân duyên sinh. Tuy thấu triệt là không, nhưng chẳng chấp trước vào không, mà dũng mãnh tinh tấn, siêng năng tu tập.

 

Bình đẳng quán chư Pháp, Bình đẳng quán các pháp
Liễu tri kỳ tự tánh, Biết rõ tự tánh đó
Bất vi Phật pháp tạng, Chẳng trái phật pháp tạng
Phổ giác nhất thiết pháp. Biết khắp tất cả pháp.

Giảng: Dùng tâm bình đẳng để quán sát tất cả các pháp, thấu suốt biết rõ tự tánh của các pháp, chẳng trái ngược với pháp tạng của chư Phật, giác ngộ khắp đạo lý của tất cả các pháp.

 

Chí lạc thường kiên cố, Chí nguyện thường kiên cố
Nghiêm tịnh Phật Bồ-đề, Nghiêm tịnh Phật bồ đề
Bất động như Tu-Di Bất động như Tu Di
Nhất tâm cầu chánh giác. Nhứt tâm cầu chánh giác.

Giảng: Chí nguyện tâm hoan hỉ phải thường hoan hỉ, như kim cang không bị phá hoại. Trang nghiêm thanh tịnh giác đạo của Phật, chẳng lay chẳng động, vững vàn như núi Tu Di, một lòng một dạ dùng pháp môn cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

 

Dĩ phát tinh tấn ý, Do phát tâm tinh tấn
Phục tu tam muội đạo, Lại tu đạo tam muội
Vô lượng kiếp cần hành Vô lượng kiếp siêng làm
Vị tằng hữu thoái thất. Chưa từng có thối thất.

Giảng: Vì phát nguyện ý chí dũng mãnh tinh tấn, cho nên lại siêng tu đạo tam muội. Từ vô lượng kiếp đến nay, siêng năng tu hành, chưa từng khi nào thối chuyển Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

 

Bồ Tát sở nhập Pháp, Pháp của Bồ Tát nhập
Thị Phật sở hạnh xứ, Là chỗ đi của Phật
Ư thử năng liễu tri, Nơi đây rõ biết được
Kỳ tâm vô yếm đãi. Thời không lòng lười chán.

Giảng: Pháp môn mà Bồ Tát chứng nhập, tức là chỗ hành của Phật. Đối với pháp môn này, sau khi thấu rõ hiểu biết rồi, thì tâm chẳng sinh nhàm mỏi, cũng chẳng sinh giải đãi, lúc nghe kinh cũng không ngủ gục. Tại sao muốn buồn ngủ? Vì tâm cầu pháp không chân thật, không minh bạch tánh trọng yếu của sự cầu pháp, cho nên bị cảnh giới hôn trầm lay chuyển, mà sinh ra tâm nhàm mỏi. Nếu thành khẩn cầu pháp, thì tuyệt đối không ngủ gục, nhất định tập trung tinh thần để nghe kinh, trong tâm cũng chẳng có mọi vọng tưởng.

 

Như vô đẳng sở thuyết, Như lời chư Phật dạy
Bình đẳng quán chư Pháp, Bình đẳng quán các pháp
Phi bất bình đẳng nhẫn, Chẳng phải nhẫn bất đẳng.
Năng thành bình đẳng trí. Thành được trí bình đẳng.

Giảng: Như pháp của Phật nói, dạy chúng sinh dùng tâm bình đẳng để quán sát tất cả các pháp, lại dạy chúng sinh bình đẳng nhẫn thọ tất cả những gì không thể nhẫn, không thể nhẫn cũng phải cố gắng nhẫn, thì sẽ thành tựu bình đẳng trí huệ.

 

Tùy thuận Phật sở thuyết, Tùy thuận lời Phật nói
Thành tựu thử nhẫn môn, Thành tựu môn pháp nầy
Như pháp nhi liễu tri, Biết rõ đúng như pháp
Diệc bất phân biệt Pháp. Cũng chẳng phân biệt pháp.

Giảng: Tuỳ thuận đạo lý của Phật nói, thì thành tựu pháp môn nhẫn nầy. Ý nghĩa chữ « như » là nhứt như, không phải nhị như. Nhứt như nhất thiết như, nhất thiết như tức là chẳng có gì mà không biết. « Như giả » tức là tất cả đều tự tại, tất cả đều hợp với pháp. Biết rõ đều như pháp, không tạo tác, chẳng có hành vi miễn cưỡng. Trong như pháp, vốn chẳng có pháp phân biệt.

 

Tam thập tam thiên trung, Trong Tam Thập Tam Thiên
Sở hữu chư Thiên Tử, Có bao nhiêu Thiên Tử
Cộng đồng nhất khí thực Cùng đồng ăn một bát
Sở thực các bất đồng. Ðồ ăn đều khác nhau.

Giảng: Trên cõi trời Tam Thập Tam (trời Đao Lợi), hết thảy tất cả các Thiên tử, tuy nhiên mọi người cùng ăn cơm trong một cái bát, nhưng mùi vị thức ăn đều khác nhau, mặn, ngọt, đắng, cay, chua, năm vị tuỳ theo sự ưa thích của mỗi người mà có, mùi vị này là tự nhiên.

 

Sở thực chủng chủng thực Ðồ ăn riêng nhiều món
Bất tùng thập phương lai Chẳng từ mười phương đến
Như kỳ sở tu nghiệp, Ðúng theo nghiệp đã tu
Tự nhiên hàm tại khí. Tự nhiên hiện trong bát.

Giảng: Các Thiên tử dùng đủ thứ thức ăn uống, chẳng phải từ mười phương đến, đều do nghiệp thiện của mình tu, mà đắc đước quả báo thức ăn ngon, tự nhiên đều hiện ra trong bát của mình. Người trời nghĩ quần áo thì quần áo đến, nghĩ thức ăn thì thức ăn đến, nghĩ cái gì thì có cái đó, đó là quả báo của người trời.

 

Bồ Tát diệc như thị, Bồ Tát cũng như vậy
Quan sát nhất thiết pháp, Quán sát tất cả pháp
Tất tùng nhân duyên khởi, Ðều từ nhơn duyên khởi
Vô sanh cố vô diệt, Vô sanh nên vô diệt,

Giảng: Bồ Tát cũng lại như thế, quán sát tất cả các pháp, đều từ nhân duyên mà sinh ra. Vì không sinh, nên không diệt. Pháp là tự nhiên mà sinh, tự nhiên mà diệt, chẳng có miễn cưỡng.

 

Vô diệt cố vô tận, Vô diệt nên vô tận,
Vô tận cố vô nhiễm, Vô tận nên vô nhiễm,
Ư thế biến dị pháp, Nơi pháp biến dị kia
Liễu tri vô biến dị, Biết rõ không biến dị.

Giảng: Vì không sinh, nên không diệt. Vì không diệt nên không cùng tận. Vì vô tận nên chẳng nhiễm ô. Đối với pháp thành trụ hoại không biến đổi, Bồ Tát biết rõ là hư vọng, không thật tại. Tức nhiên là không thật, thì còn có gì thay đổi ?

 

Vô dị tức vô xứ, Không đổi thời không xứ
Vô xứ tức tịch diệt, Không xứ thời tịch diệt,
Kỳ tâm vô nhiễm trước Trong lòng không nhiễm trước
Nguyện độ chư quần sanh. Nguyện độ các chúng sanh.

Giảng: Tức nhiên chẳng có biến đổi, thì chẳng có xứ sở, vì chẳng có xứ sở, cho nên chỉ có tướng tịch diệt. Trong tâm của Bồ Tát chẳng có tất cả pháp nhiễm ô, cũng chẳng có tâm chấp trước tất cả pháp. Nguyện lực của Bồ Tát là độ tất cả chúng sinh lìa khổ được vui, chấm dứt sinh tử.

 

Chuyên niệm ư Phật Pháp, Chuyên niệm nơi phật-pháp
Vị thường hữu tán động Chưa từng có tán động
Nhi dĩ bi nguyện tâm, Mà dùng tâm bi nguyện
Phương tiện hành ư thế. Phương tiện đi trong đời.

Giảng: Bồ Tát chú trọng về Phật pháp. Phật pháp thì không sinh không diệt, không dơ không sạch, không tăng không giảm, cho nên chẳng có tán động. Bồ Tát dùng tâm đại bi nguyện, để độ thoát tất cả chúng sinh thế gian, khiến cho họ lìa khỏi biển khổ. Dùng pháp môn thiện xảo phương tiện, để giáo hoá tất cả chúng sinh thế gian, khiến cho họ phát bồ đề tâm, cầu vô thượng đạo, đến thẳng bờ bên kia.

 

Cần cầu ư thập lực, Siêng cầu nơi thập lực
Xứ thế nhi bất trụ, Ở đời mà chẳng trụ,
Vô khứ diệc vô lai, Không đi cũng không đến
Phương tiện thiện thuyết pháp. Phương tiện khéo thuyết pháp.

Giảng: Bồ Tát hành Bồ Tát đạo, vì siêng cầu mười thứ lực của Phật, tuy nhiên ở tại thế gian, nhưng lại chẳng trụ nơi thế gian. Tại sao ? Vì cảnh giới của Bồ Tát đắc được, đã đạt đến trình độ không đi, cũng không đến, Bồ Tát dùng pháp môn phương tiện khéo léo, để vì chúng sinh thuyết pháp.

 

Thử nhẫn tối vi thượng, Nhẫn nầy là trên hết
Liễu Pháp vô hữu tận, Biết pháp là vô tận
Nhập ư chân Pháp giới, Vào nơi chơn pháp giới
Thật diệc vô sở nhập. Thiệt cũng không sở nhập.

Giảng: Pháp môn nhẫn Ba la mật này, là pháp cao hơn hết. Bồ Tát thấu rõ tất cả các pháp, đều chẳng cùng tận. Chứng được lý thể chân pháp giới, thật ra không chỗ chứng, cũng không chỗ vào.

 

Bồ-tát trụ thử nhẫn, Bồ Tát trụ nhẫn nầy
Phổ kiến chư Như Lai, Thấy khắp các Như Lai
Đồng thời dữ thọ kí, Ðồng thời thọ ký cho
Tư danh thọ Phật chức. Gọi là thọ Phật chức.

Giảng: Bồ Tát trụ cảnh giới vô sinh pháp nhẫn, thấy khắp mười phương chư Phật, đồng thời thọ ký cho Bồ Tát. Gọi là thọ Phật chức, tức cũng là ban cho chức vị làm Phật.

 

Liễu đạt tam thế Pháp, Thấu rõ pháp tam thế
Tịch diệt thanh tịnh tướng, Tướng tịch diệt thanh tịnh
Nhi năng hóa chúng sanh, Mà đều độ chúng sanh
Trí ư thiện đạo trung. Ðể ở trong đường lành.

Giảng: Bồ Tát thấu rõ thông đạt tất cả các pháp ba đời, đều là tướng tịch diệt thanh tịnh. Bồ Tát hay tuỳ thời tuỳ lúc giáo hoá tất cả chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh đều trụ ở trong thiện đạo. Mười bài kệ ở trên, là kệ vô sinh nhẫn thứ ba.

 

Thế gian chủng chủng Pháp, Các loại pháp thế gian
Nhất thiết giai như huyễn, Tất cả đều như huyễn
Nhược năng như thị tri Nếu biết được như vậy
Kỳ tâm vô sở động. Thời tâm không bị động

Giảng: Hết thảy đủ thứ pháp thế gian, tất cả tất cả đều là hiện tượng hư huyễn không thật. Nếu thấu rõ tất cả các pháp như vậy, thì tâm không thể lay động.

 

Chư nghiệp tùng tâm sanh Các nghiệp từ tâm sanh
Cố thuyết tâm như huyễn, Nên nói tâm như huyễn
Nhược ly thử phân biệt, Nếu rời phân biệt nầy
Phổ diệt chư hữu thú. Diệt hết cõi hữu lậu.

Giảng: Tất cả nghiệp đều từ tâm mà sinh ra, do đó: “Tất cả do tâm tạo”. Cho nên mới nói tâm giống như hư huyễn. Nếu lìa khỏi sự phân biệt hư huyễn, như vậy thì sẽ tiêu trừ diệt hết tam giới hai mươi lăm cõi (lục đạo), không còn sót.

 

Thí như công huyễn sư, Ví như nhà huyễn thuật
Phổ hiện chư sắc tượng, Khắp hiện các sắc tượng
Đồ lệnh chúng tham lạc Cho chúng luống tham vui
Tất cánh vô sở đắc. Rốt ráo vô sở đắc.

Giảng: Giống như có nhà huyễn thuật, ông ta có thể hiện ra khắp đủ thứ sắc tượng, có thể đều là giả hình giả tướng, bất quá khiến cho những người xem tham trước sắc tướng, hoan hỉ sắc tướng. Rốt ráo sắc tướng đều là hư huyễn, không chỗ đắc.

 

Thế gian diệc như thị, Thế gian cũng như vậy
Nhất thiết giai như huyễn, Tất cả đều như huyễn
Vô tánh diệc vô sanh, Vô tánh cũng vô sanh
Thị hiện hữu chủng chủng. Thị hiện có các thứ.

Giảng: Thế gian và tình hình như vậy đều giống nhau, tức cũng giống như nhà huyễn thuật biến hoá ra, cho nên nói tất cả thế gian đều là hư huyễn không thật. Vì chẳng có một thể tánh, cho nên chẳng có sinh diệt, nhưng vẫn thị hiện có đủ thứ tướng hư huyễn.

 

Độ thoát chư chúng sanh, Ðộ thoát các chúng sanh
Lệnh tri Pháp như huyễn, Khiến biết pháp như huyễn
Chúng sanh bất dị huyễn, Chúng -sanh chẳng khác huyễn
Liễu huyễn vô chúng sanh. Biết huyễn không chúng sanh.

Giảng: Bồ Tát dùng đủ thứ pháp môn phương tiện, để độ thoát tất cả chúng sinh, khiến cho họ biết tất cả pháp, như huyễn như hoá. Chúng sinh cũng do hư huyễn hoá ra. Nếu biết rõ tướng hư huyễn là không thật tại, thì còn có tướng chúng sinh chăng?

 

Chúng sanh cập quốc độ, Chúng sanh và quốc độ
Tam thế sở hữu Pháp, Những pháp trong tam thế
Như thị tất vô dư, Như vậy đều không thừa
Nhất thiết giai như huyễn. Tất cả đều như huyễn.

Giảng: Hết thảy chúng sinh và hết thảy cõi nước, hết thảy tất cả pháp ba đời, đều là hư huyễn, chẳng có thật thể. Tất cả tất cả đều như huyễn như hoá. Quán tưởng như vậy, liền không chấp trước, cũng không phiền não.

 

Huyễn tác nam nữ hình, Huyễn làm hình nam nữ
Cập tượng mã ngưu dương, Và voi, ngựa, trâu, dê
Ốc trạch trì tuyền loại Nhà cửa, núi, suối, ao
Viên lâm hoa quả đẳng. Vườn, rừng, cùng bông, trái,

Giảng: Nhà huyễn thuật biến hoá tướng hình nam, tướng hình nữ, tướng hình voi, tướng hình ngựa, tướng hình trâu, tướng hình dê, hoặc biến hoá tướng hình nhà cửa, tướng hình hồ, sông, ngòi, tướng hình vườn, rừng, tướng hình hoa, quả v.v…

 

Huyễn vật vô tri giác, Vật huyễn không tri giác
Diệc vô hữu trụ xứ, Cũng không có trụ xứ
Tất cánh tịch diệt tướng, Rốt ráo tướng tịch diệt
Đãn tùy phân biệt hiện. Chỉ theo phân biệt hiện.

Giảng: Sự biến hoá ra huyễn vật, bản thân của nó chẳng có tri giác, cũng chẳng có chỗ trụ xứ. Vật biến hoá rốt ráo là tướng tịch diệt, chẳng có thật thể, nhưng tuỳ thời tuỳ lúc mà phân biệt hiện ra đủ thứ tướng hư huyễn.

 

Bồ Tát năng như thị, Bồ Tát được như vậy
Phổ kiến chư thế gian, Thấy khắp các thế gian
Hữu vô nhất thiết pháp, Tất cả pháp hữu vô
Liễu đạt tất như huyễn. Thấu rõ đều như huyễn.

Giảng: Bồ Tát cũng như thế, tuỳ thời tuỳ lúc hay thị hiện ra tất cả cảnh giới, hay thiên biến vạn hoá sắc thân của Ngài. Hay thấy khắp tất cả thế gian, bất cứ là pháp hữu vi, hoặc pháp vô vi, đều thấu đạt biết rõ như huyễn hoá, chẳng có thật thể.

Chúng sanh cập quốc độ, Chúng sanh và quốc độ
Chủng chủng nghiệp sở tạo, Các thứ nghiệp tạo ra
Nhập ư như huyễn tế Vào nơi như huyễn tế
Ư bỉ vô y trước Với kia không nương chấp.

Giảng: Chúng sinh và cõi nước, đều do nghiệp cảm tạo ra. Chúng sinh này thiện lương, chúng sinh kia chẳng thiện lương, đó là nghiệp lực tạo thành. Cõi nước này hưng khởi, cõi nước kia hoại đi, đây cũng là nghiệp lực của chúng sinh sở cảm. Tất cả đều nhập vào như huyễn tế. Tức nhiên là như huyễn, thì không chỗ nương tựa. Mười bài kệ ở trên là kệ thứ tư như huyễn nhẫn.

 

Như thị đắc thiện xảo, Ðược thiện xảo như vậy
Tịch diệt vô hí luận, Tịch diệt không hí luận
Trụ ư vô ngại địa, Trụ nơi bực vô ngại
Phổ hiện đại uy lực. Khắp hiện oai lực lớn.

Giảng: Bồ Tát không chấp trước như vậy, do đó đắc được pháp môn thiện xảo phương tiện. Vốn là tịch diệt, chẳng có tất cả hí luận. Bồ Tát trụ tại địa vị viên dung vô ngại, khắp thị hiện thần lực đại oai đức.

 

Dũng mãnh chư Phật tử, Các Phật tử dũng mãnh
Tùy thuận nhập diệu pháp, Tùy thuận nhập diệu pháp
thiện quán nhất thiết tưởng Khéo quán tất cả tưởng
Triền võng ư thế gian. Ràng rịt các thế gian.

Giảng: Các đệ tử của Phật dũng mãnh tinh tấn! Tuỳ thuận như huyễn tam muội, chứng được tất cả diệu pháp. Hay khắp quán sát tất cả vọng tưởng, giống như lưới ràng rịt tại thế gian, chằng chịt với nhau, mà đào thoát chẳng khỏi tấm lưới này.

 

Chúng tưởng như dương diệm, Các tưởng như dương diệm
Lệnh chúng sanh đảo giải, Khiến chúng hiểu điên đảo.
Bồ Tát thiện tri tưởng, Thấu rõ đều là tưởng
Xả ly nhất thiết đảo Bỏ rời những điên đảo.

Giảng: Hết thảy vọng tưởng giống như dương diệm, hư vọng không thật. Dương diệm là gì? Vào mùa xuân, nhìn xa trên mặt đất, có hình trạng mờ mịt tựa như đám nước. Đi đến gần xem thì không hình, không tướng, chẳng có gì cả. Sự vọng tưởng này, hay khiến cho chúng sinh, sinh hiểu điên đảo. Bồ Tát khéo biết tất cả vọng tưởng, cho nên xả bỏ lìa khỏi tất cả điên đảo mộng tưởng, chẳng sinh mọi sự chấp trước.

 

Chúng sanh các biệt dị, Chúng sanh đều riêng khác
Hình loại phi nhất chủng, Hình loại chẳng phải một
Liễu đạt giai thị tưởng Thấu rõ đều là tưởng
Nhất thiết vô chân thật. Tất cả không chơn thiệt.

Giảng: Chúng sinh có thai noãn thấp hoá bốn thứ sinh khác nhau. Dù chúng sinh đồng loại, cũng có sự khác nhau; hà huống là chúng sinh khác loại, càng khác nhau, cho nên nói nhiều loại chẳng phải một loại. Ví như con người: Có người da vàng, người da trắng, người da đen, người da đỏ. Còn động vật: Thú chạy thì có loài thú chạy, loài bay thì có loài bay, côn trùng thì có loại côn trùng, mỗi thứ đều khác nhau. Tại sao? Vì vọng tưởng của chúng sinh khác nhau, giống như hạt bụi ở trong hư không. Chỗ nào có ánh sáng mặt trời, thì nhìn thấy được bụi bay trong không, bay lên, bay xuống, lúc bên đông, lúc bên tây, lúc nam, lúc bắc. Vọng tưởng của chúng ta cũng như thế, có người nghĩ đi lên, có người nghĩ đi xuống, do đó: “Quân tử thì đi lên, tiểu nhân thì đi xuống”. Hoặc tưởng đông, hoặc tưởng tây, lăn xăn không ngừng, giống như hạt bụi.

Có người nghĩ muốn phát tài, liền mê về tiền tài. Có người nghĩ muốn làm quan, thì mê về làm quan. Có người nghĩ muốn đi học, thì mê về học. Có người muốn làm ruộng, thì mê về làm ruộng. Chúng sinh đều có mê của người đó. Tóm lại, muốn làm gì, thì mê về cái đó. Đó tức là mê và tưởng sinh ra chấp trước. Sự chấp trước này, nếu không phá được, thì từ khi sinh ra đến chết, hồ đồ một đời, cũng không thể minh bạch.

Tại sao hình loại khác nhau? Vì thuở xưa nghĩ tưởng khác nhau. Thuở xưa nghĩ gì, thì đời này có diện mạo như vậy. Tưởng điên đảo đó, lâu dần thì đoạ lạc trong nghĩ tưởng của loài đó. Tóm lại, thuở xưa tạo nghiệp nhân gì, thì đời này sinh ra quả báo thân đó, mà làm chúng sinh trong sáu nẻo.

Trong Kinh Lăng Nghiêm có ghi như vầy: “Thai do tình mà có, noãn do tưởng mà sinh, thấp do hợp mà cảm, hoá do ly mà ứng”. Làm sao thành thai sanh? Vì do tình cảm mà sinh ra. Nam nữ có ái tình, mà sinh ra con cái. Sinh sinh không ngừng, cho nên con cái tiếp nối vĩnh viễn không dứt được. Làm thế nào thành noãn sinh? Vì do tưởng mà sinh ra, giống như gà mái ấp trứng, ngày ngày nghĩ tưởng gà con của nó, tưởng tới tưởng lui, bèn tưởng ra gà con. Làm thế nào thành thấp sinh? Vì chỗ ẩm ướt và hơi ấm hoà hợp mà cảm sinh ra, giống như tất cả côn trùng. Làm thế nào thành hoá sinh? Do biến hoá mà sinh, vì thích mới chán cũ, mà lìa bỏ bổn thân của mình, cảm ứng mà hoá ra thân khác. Như tằm hoá bướm.

Bồ Tát khéo biết tất cả đều là tưởng. Tài sắc danh ăn và ngủ trong thế gian, có chân thật chăng? Chúng sinh hồ đồ mà sinh, lại hồ đồ mà chết, ở giữa đoạn thời gian này chẳng minh bạch. Bất cứ người thông minh như thế nào, cũng không thể sinh tử được tự do. Không thể sinh tử tự do, thì đó là không minh bạch. Làm thế nào sinh tử được tự do? Chỉ có một phương pháp, đó là học Phật pháp, niệm danh hiệu Phật, tu thiền định, thì mới có thể khống chế được sinh tử, mới biết được đi về đâu. Tại sao? Vì tu đạo, mới minh bạch được tất cả tướng điên đảo, mới minh bạch được tất cả là hư vọng, tất cả đều không chân thật. Như thế sẽ không khởi hoặc, không tạo nghiệp, thì sẽ không thọ quả báo, sẽ ra khỏi được tam giới, chấm dứt sinh tử.

 

Thập phương chư chúng sanh, Các chúng sanh mười phương
Giai vi tưởng sở phước, Ðều bị tưởng che ngăn
Nhược xả điên đảo kiến, Nếu bỏ thấy điên đảo
Tức diệt thế gian tưởng. Thời diệt tưởng thế gian.

Giảng: Hết thảy chúng sinh mười phương thế giới, đều bị điên đảo tưởng che đậy. Người thông minh thì bị vọng tưởng che đậy ít một chút, người ngu si thì bị vọng tưởng che đậy nhiều một chút. Trừ khi người có đại trí huệ, mới phá được vọng tưởng. Mục đích chúng ta tu đạo là phá vô minh, trừ vọng tưởng. Nếu lìa khỏi được thấy điên đảo, thì tất cả vọng tưởng thế gian sẽ tiêu diệt hết sạch.

 

Thế gian như dương diệm, Thế gian như dương diệm
Dĩ tưởng hữu sái biệt, Do tưởng có sai khác
Tri thế trụ ư tưởng, Biết thế gian do tưởng
Viễn ly tam điên đảo. Xa lìa ba điên đảo.

Giảng: Thế gian giống như dương diệm, ở xa nhìn tựa như có, đến gần nhìn thì chẳng có, là hư vọng không thật. Tưởng của chúng sinh thế gian, giống như dương diệm, là chẳng rốt ráo. Giống loài chúng sinh là do vọng tưởng mà hiện ra. Nếu chẳng có vọng tưởng, thì tất cả cảnh giới cũng chẳng có, cho nên vọng tưởng có đủ thứ tánh sai biệt khác nhau.

Bồ Tát biết chúng sinh thế gian, đều trụ trong vọng tưởng. Tưởng có sự phân biệt giữa thô tưởng và tế tưởng. Thế nào là thô tưởng? Đó là những gì nghĩ tưởng chẳng hợp đạo lý, chẳng hiện thật, do đó: “Hồ tư loạn tưởng”. Thế nào là tế tưởng? Đó là “Tưởng nhập phi phi”, tưởng những sự việc chẳng có ý nghĩa gì hết. Nếu biết được tất cả thế gian do tưởng mà thành, thì liền xa lìa được ba thứ điên đảo. Những gì là ba:

1. Tưởng điên đảo: Ở trong cảnh giới sáu trần, tưởng việc không hợp lý.

2. Thấy điên đảo: Về pháp sự lý, tà tri tà kiến, tức là chẳng phải chánh tri chánh kiến.

3. Tâm điên đảo: Đây là gốc rễ của sự điên đảo. Vì dùng vọng tâm tà thức để hiểu biết sự vật, điểm xuất phát chẳng chánh quyết, đó chẳng phải là điên đảo chăng?

 

Thí như nhiệt thời diệm Như nắng quá gắt nóng
Thế kiến vị vi thủy, Người đời cho là nước
Thủy thật vô sở hữu, Thiệt ra không có nước
Trí giả bất ưng cầu. Người trí chẳng nên cầu.

Giảng: Vào thời tiết mùa hè, vì khí hậu quá nóng mà tạo thành hiện tượng dương diệm. Người thế tục thấy cho rằng là nước, kỳ thật đó chẳng phải nước, mà là một thứ khí thể. Đến gần để nhìn thì chẳng có gì hết. Người có trí huệ nhìn, biết là hình ảnh hư vọng, cho nên không nên có sở cầu. Tức cũng là không chấp vào cảnh giới, không bị cảnh giới làm lay chuyển.

 

Chúng sanh diệc phục nhiên, Chúng sanh cũng như vậy
Thế thú giai vô hữu, Ðời loài đều không có
Như diễm trụ ư tưởng, Như diệm ở nơi tưởng
Vô ngại tâm cảnh giới. Cảnh giới tâm vô ngại.

Giảng: Tất cả chúng sinh cũng như thế, tất cả thế gian hướng về sở cầu, đều chẳng có. Giống như dương diệm ở trong tưởng của chúng sinh, tưởng nó là nước, nhưng chẳng phải nước. Cảnh giới dương diệm này, chẳng chướng ngại được tâm của bậc trí, cho nên nói cảnh giới tâm vô ngại.

 

Nhược ly ư chư tưởng, Nếu lìa những vọng tưởng
Diệc ly chư hí luận, Cũng lìa những hí luận
Ngu si trước tưởng giả, Kẻ ngu si chấp tưởng
Tất lệnh đắc giải thoát. Ðều khiến được giải thoát.

Giảng: Nếu lìa khỏi tất cả vọng tưởng, cũng lìa khỏi tất cả hí luận. Hí luận tức là ngôn luận không hợp lý, lời lẽ chẳng có ý nghĩa. Người ngu si chấp trước vào vọng tưởng, truy cầu tất cả cảnh giới hư vọng không thật. Bồ Tát có tâm đại từ đại bi, khiến cho chúng sinh có vọng tưởng, đều đắc được pháp môn giải thoát.

 

Viễn ly kiêu mạn tâm Xa lìa tâm kiêu mạn
Trừ diệt thế gian tưởng, Trừ diệt tưởng thế gian
Trụ tận vô tận xứ Ở chỗ tận vô tận
Thị Bồ Tát phương tiện. Phương tiện của Bồ Tát.

Giảng: Người tu đạo, trước hết xa lìa tâm kiêu ngạo ngã mạn, mới có sự thành tựu, mới diệt trừ được tất cả vọng tưởng thế gian. Nhưng mọi người đều có sự chấp trước, buông bỏ chẳng được chính mình, nhận rằng hơn hẳn mọi người, là vĩ nhân của thế giới, cho nên cống cao ngã mạn, hoặc khinh sư mạn pháp. Phàm là người có tư tưởng này, nhất định sẽ đoạ địa ngục, tơ hào chẳng có vấn đề gì.

Trụ tại cảnh giới tận vô tận, tức cũng là trụ chỗ vô sở trụ, do đó: “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”, đó là pháp môn phương tiện tu hành Bồ Tát đạo của đại Bồ Tát đắc được.

Mười bài kệ ở trên là kệ pháp môn như diệm nhẫn thứ năm.

 

Bồ Tát liễu thế Pháp, Bồ Tát biết thế pháp
Nhất thiết giai như mộng, Tất cả đều như mộng
Phi xứ phi vô xứ, Chẳng chỗ, chẳng không chỗ
Thể tánh hằng tịch diệt. Thể tánh hằng tịch diệt.

Giảng: Bồ Tát tu hành pháp môn như mộng nhẫn, cho nên biết tất cả đều như mộng. Nếu nói mộng là thật, vậy nó đang ở chỗ nào? Chẳng có một chỗ nào có thể tìm được nó. Nếu nói nó chẳng có chỗ nào, nhưng ở trong mộng giống như có chỗ, tự nhiên hiện ra cảnh giới. Phải biết rõ thể tánh của mộng là hằng thường tịch diệt, tức cũng là bổn lai chẳng có.

Cảnh giới của mộng là không chân thật, cho nên đừng chấp trước, nhưng có lúc ở trong mộng có thể biết trước sự việc tương lai sẽ xảy ra, đây là mộng biết trước, vấn đề này sẽ nói sau. Hiện tại đang nói về mộng hư vọng không thật, do đó: “Đời người như mộng”, nếu nhìn đời người như mộng không chân thật, thì còn có gì để lưu luyến? Lại còn có gì để chấp trước? Lại còn có gì mà nhìn không thấu? Lại còn có gì buông xả chẳng đặng?

Cảnh giới của mộng, nắm bắt không thể được, xả bỏ không thể được. Muốn đem mộng ra nhìn xem, chẳng thể đem ra được. Muốn đừng nằm mộng cũng không được. Tuy nhiên mộng là giả, nhưng hay khiến cho tâm của bạn lay động.

Hiện tại chúng ta đang nằm mộng, nhưng mình không tin đang nằm mộng. Như có người nói:

– “Ông ơi! Ông đang nằm mộng!”

Lúc đó bạn tuyệt đối không tin, bèn nói:

– “Tôi đang làm việc kiếm tiền, tôi đi học để có kiến thức. Những gì tôi làm đều là chân thật, sao lại nói tôi đang nằm mộng”. Đợi khi bạn tỉnh mộng, không cần người khác nói bạn đang nằm mộng, thì chính bạn cũng biết là đang nằm mộng.

Mộng này khi nào mới có thể tỉnh? Khi bạn tu hành, tu đến chỗ chẳng còn sự chấp trước, chẳng còn vô minh, chẳng còn vọng tưởng, chẳng còn phiền não, thì lúc đó bắt đầu tỉnh, quay đầu nhìn lại, nguyên lai là đang nằm mộng ban ngày! Do đó:

“Biển khổ vô biên, quay đầu là bờ”!

Đời người trước khi giác ngộ, đều là đang nằm mộng ban ngày. Có người nói với bạn, bạn sẽ không tin. Đợi khi bạn tỉnh, không có ai nói với bạn, thì bạn cũng sẽ tin. Chúng ta người tu đạo, tức là tu giác ngộ. Giác ngộ rồi, thì sẽ hiểu tất cả đều như mộng. Lúc đó, không còn điên đảo, không còn tham luyến vui năm dục hồng trần. Tất cả đều nhìn thủng, buông xả đặng, minh tâm kiến tánh, tức thân thành Phật.

 

Chư Pháp vô phân biệt, Các pháp vô phân biệt
Như mộng bất dị tâm, Như mộng, tâm không khác
Tam thế chư thế gian, Tam thế những thế gian
Nhất thiết tất như thị. Tất cả đều như vậy.

Giảng: Tất cả các pháp đều không phân biệt, giống như mộng, chẳng có hai dạng. Tất cả thế gian trong ba đời, hết thảy tất cả, đều giống như cảnh giới mộng, chẳng có thể tánh chẳng thật.

 

Mộng thể vô sanh diệt, Tánh mộng không sanh diệt
Diệc vô hữu phương sở, Cũng không có phương sở
Tam giới tất như thị, Ba cõi đều như vậy
Kiến giả tâm giải thoát. Người thấy tâm giải thoát.

Giảng: Bản thể của mộng là chẳng sinh chẳng diệt, cũng chẳng có phương nào và xứ sở nào. Dục giới, sắc giới, vô sắc giới, đều đang nằm mộng. Nếu có tư tưởng và kiến giải như vậy, thì thường trụ chân tâm, tánh tịnh minh thể, sẽ đắc được giải thoát, mà không bị sáu căn sáu trần lay chuyển.

Chúng ta nghe kinh phải chú ý, phải phân tích lý, mới có sự thọ dụng. Bằng không, bất cứ nghe bao nhiêu lần kinh, cũng không thể đắc được lợi ích của pháp. Giống như ở trước có nói: “Thai do tình mà có, noãn do tưởng mà sinh, thấp do hợp mà cảm, hoá nhờ ly mà ứng”. Cảnh giới này, tức là bị tình ái trói chặc, như thế thì sẽ không được tự tại. Biết rõ sự việc chẳng đúng, vẫn cứ đi làm, do đó: “Minh tri cố phạm”, hành vi này không thể tha thứ được.

Lão Tử nói: “Thiên hạ đều biết, điều tốt là tốt, mà vẫn làm ác”. Người thiên hạ đều biết tốt đẹp là tốt, nhưng chẳng làm điều tốt đẹp, mà đi làm việc ác. Lại nói: “Thiện là thiện, mà chẳng làm thiện”. Người thiên hạ đều biết việc thiện là tốt, nhưng chẳng chịu làm việc thiện. Đây là mao bệnh mà một số người hay phạm, biết rõ niệm Phật có thể vãng sinh về thế giới Cực Lạc phương tây, nhưng không chuyên tâm niệm Phật.

 

Mộng bất tại thế gian Mộng chẳng tại thế gian
Bất tại phi thế gian, Chẳng tại phi thế gian
Thử nhị bất phân biệt, Cả hai chẳng phân biệt
Đắc nhập ư nhẫn địa. Ðược nhập nơi bực nhẫn.

Giảng: Cảnh giới của mộng, tại thế gian tìm chẳng được. Nhưng lìa thế gian đi tìm mộng, cũng tìm chẳng được. Cho nên nói mộng cũng chẳng tại thế gian, cũng chẳng tại xuất thế gian. Hai sự tư tưởng này không cần phân biệt. Nếu có sự phân biệt, thì có thức tâm, có vọng tưởng, có sự chấp trước. Nếu chẳng có sự phân biệt, thì có trí huệ, được giải thoát, được tự tại, lúc đó bèn chứng nhập pháp môn như mộng nhẫn.

 

Thí như mộng trung kiến Như trong mộng ngó thấy
Chủng chủng chư dị tướng, Những cảnh loại khác nhau,
Thế gian diệc như thị, Thế gian cũng như vậy
Dữ mộng vô sái biệt. Cùng mộng không sai khác.

Giảng: Ví như cảnh giới thấy ở trong mộng, hoặc là tướng đẹp, hoặc là tướng xấu, hoặc là tướng thiện, hoặc là tướng ác, có đủ thứ tướng khác nhau. Pháp thế gian cũng như thế, chẳng khác gì đối với mộng. Tức nhiên là như thế, còn phải chấp trước làm gì? Sao lại nhìn không thấu? Sao lại buông bỏ không đặng? Sao lại phải khổ não? Nói thẳng là tự mình làm phiền mình.

 

Trụ ư mộng định giả, Người trụ trong mộng định
Liễu thế giai như mộng, Biết đời đều như mộng
Phi đồng phi thị dị, Chẳng phải đồng và khác
Phi nhất phi chủng chủng. Chẳng phải một và nhiều.

Giảng: Thấu hiểu về mộng thì có thể trụ ở trong định mộng, thân ở trong mộng mà biết là mộng. Như vậy thì sẽ thấu hiểu tất cả pháp môn thế gian, đâu chẳng có gì mà không phải là mộng. Mộng và thế gian cũng chẳng phải giống nhau, cũng chẳng phải chẳng giống nhau. Cũng chẳng phải một, cũng chẳng phải nhiều. Tại sao phải nói như vậy? Vì dạy bạn đừng chấp trước. Cảnh giới của Kinh Hoa Nghiêm là viên dung vô ngại. Giống tức là khác, khác tức là giống; một tức là nhiều, nhiều tức là một.

 

Chúng sanh chư sát nghiệp, Chúng sanh các cõi, nghiệp,
Tạp nhiễm cập thanh tịnh, Tạp nhiễm và thanh tịnh
Như thị tất liễu tri Như vậy đều biết rõ
Dữ mộng giai bình đẳng. Cùng mộng đều bình đẳng.

Giảng: Chúng sinh do khởi hoặc, tạo nghiệp, thọ báo, cho nên có nghiệp nhiều như cõi nước hạt bụi. Có nghiệp tạp nhiễm, có nghiệp thanh tịnh. Bất cứ là nghiệp tạp nhiễm, hoặc là nghiệp thanh tịnh, Bồ Tát đều hoàn toàn thấu rõ biết được, với mộng là bình đẳng, chẳng có sự khác biệt. Trong Kinh Kim Cang có nói:

“Tất cả pháp hữu vi
Như mộng huyễn bọt bóng
Như sương cũng như điện
Hãy quán sát như thế”.

Đó tức là đạo lý này.

Các vị thiện tri thức! Tức nhiên biết là mộng, tại sao mộng hoài không tỉnh? Còn mê mờ hồ đồ nằm mộng, phải hồi quang phản chiếu, tự hỏi mình: “Mỗi ngày những gì mình làm, là nghiệp tạp nhiễm nhiều? Hay là nghiệp thanh tịnh nhiều?” Có người nói: “Tôi ở trên thế giới này, nhận thức chẳng rõ ràng, không biết gì là nghiệp tạp nhiễm? Cũng không biết gì là nghiệp thanh tịnh”. Hiện tại hãy nói nó cho rõ ràng. Hằng ngày cứ vọng tưởng pháp tài sắc danh ăn ngủ năm dục, đó tức là nghiệp tạp nhiễm. Hằng ngày cứ tu hành pháp tín tấn niệm định huệ, đó tức là nghiệp thanh tịnh.

 

Bồ Tát sở hạnh hành Hạnh của Bồ Tát làm
Cập dĩ chư đại nguyện, Và cùng các đại nguyện
Minh liễu giai như mộng, Biết rõ đều như mộng
Dữ thế diệc vô biệt. Cùng thế gian không khác.

Giảng: Hạnh môn của Bồ Tát tu hành, và phát ra tất cả đại nguyện, thấu rõ biết được đều là mộng, chẳng có thật tại. Và tất cả pháp hữu vi thế gian, đều như nhau, cũng chẳng phân biệt. Phàm là có sự phân biệt, thì không thể nhẫn được.

 

Liễu thế giai không tịch, Biết thế gian không tịch
Bất hoại ư thế Pháp, Chẳng hoại nơi thế pháp
Thí như mộng sở kiến, Như chiêm bao ngó thấy
Trường đoản đẳng chư sắc. Những hình sắc dài vắn.

Giảng: Tuy Bồ Tát biết rõ tất cả thế gian đều là không tịch, nhưng vẫn không hoại nơi pháp thế gian. Giống như những gì thấy trong mộng, có các sắc dài ngắn khác nhau.

 

Thị danh như mộng nhẫn, Gọi đây: như mộng nhẫn
Nhân thử liễu thế Pháp, Nhơn đây biết thế pháp
Tật thành vô ngại trí, Mau thành trí vô ngại
Quảng độ chư quần sanh. Rộng độ các chúng sanh.

Giảng: Bởi nguyên nhân đó, cho nên gọi là như mộng nhẫn. Bồ Tát nhờ đó mà thấu hiểu pháp thế gian sớm sẽ thành tựu trí huệ vô ngại. Trí vô ngại tức là Phật trí, thông đạt cảnh giới tự tại. Có vô ngại trí rồi, thì mới. Mười bài kệ ở trên là kệ như mộng nhẫn thứ sáu.

 

Tu hành như thị hạnh Tu hành hạnh như vậy
Xuất sanh quảng đại giải, Xuất sanh trí rộng lớn
Xảo tri chư pháp tánh, Khéo biết các pháp tánh
Ư Pháp tâm Vô Trước. Nơi pháp tâm không chấp.

Giảng: Bồ Tát tu hành hạnh như hưởng nhẫn, khi tu đến lúc viên mãn, thì sẽ sinh ra tin hiểu rộng lớn. Khéo biết các pháp tánh, tức là chân như thật tướng, không biến, không đổi. Do đó:

« Tuỳ duyên không đổi
Không đổi mà tuỳ duyên ».

Tuy Bồ Tát thấu hiểu pháp tánh, nhưng tâm không chấp trước.

 

Nhất thiết chư thế gian Tất cả các thế gian
Chủng chủng chư âm thanh, Những âm thanh sai khác
Phi nội diệc phi ngoại, Chẳng phải trong, chẳng ngoài
Liễu chi tất như hưởng. Biết đó đều như vang.

Giảng: Tất cả hết thảy thế gian, có đủ thứ tất cả âm thanh khác nhau. Nhưng những âm thanh đó, cũng chẳng ở bên trong, cũng chẳng ở bên ngoài. Bồ Tát biết rõ đều như vang, giống như trong động vang ra tiếng, đó là do duyên khởi.

 

Như văn chủng chủng hưởng Như nghe các tiếng vang
Tâm bất sanh phân biệt Tâm chẳng sanh phân biệt
Bồ Tát văn âm thanh Bồ Tát nghe âm thanh
Kỳ tâm diệc như thị. Không phân biệt cũng vậy.

Giảng: Giống như nghe đủ thứ tiếng vang, trong tâm chẳng sinh phân biệt. Bồ Tát nghe được các thứ âm thanh, tâm của Ngài cũng như thế, chẳng khởi tâm phân biệt. Bồ Tát đối với tất cả, đều chẳng chấp trước, cho nên không phân biệt.

 

Chiêm ngưỡng chư Như Lai, Chiêm ngưỡng các Như Lai
Cập thính thuyết Pháp âm, Và nghe nói pháp âm
Diễn khế Kinh vô lượng, Diễn khế kinh vô lượng
Tuy văn vô sở trước. Dầu nghe mà không chấp.

Giảng: Bồ Tát chiêm ngưỡng tất cả chư Phật, và nghe diệu pháp âm của chư Phật, diễn nói kinh Phật nhiều vô lượng vô biên. Tuy nhiên Bồ Tát nghe kinh điển của chư Phật nói, nhưng không chấp trước.

Hiện tại chúng ta nghe kinh, cũng không chấp trước vào, nghĩa là không nhớ, quên mất, chẳng biết giảng kinh gì. Tại sao? Vì không chấp ! Không chấp trước của Bồ Tát với không chấp trước của chúng ta hoàn toàn khác nhau. Bồ Tát nhớ hết thảy đạo lý ở trong kinh điển, nhưng vẫn không chấp trước. Tại sao ? Vì Bồ Tát đã phá được pháp chấp, cho nên không chấp trước. Chúng ta chẳng phải muốn không chấp trước, mà là không nhớ. Vì vậy phải học Bồ Tát nhớ đạo lý trong kinh điển, nương theo pháp tu hành, học điều không chấp trước này.

 

Như hưởng vô lai xứ, Như vang không lai khứ
Sở văn thanh diệc nhiên, Tiếng đã nghe cũng vậy
Nhi năng phân biệt Pháp, Mà hay phân biệt pháp
Dữ Pháp vô quai mậu. Cùng pháp không trái lầm.

Giảng: Sự không chấp trước của Bồ Tát, giống như tiếng vang, chẳng chỗ đến. Bồ Tát nghe âm thanh cũng không chấp trước, chẳng chỗ đến. Nhưng ở trong âm thanh, có thể phân biệt được tất cả pháp âm đến. Tiếng đó cũng không chỗ đến, không có chỗ trái lầm đối với pháp, nghĩa là không trái ngược với đạo lý của pháp.

 

Thiện liễu chư âm thanh, Khéo biết các âm thanh
Ư thanh bất phân biệt, Nơi tiếng không phân biệt
Tri thanh tất không tịch, Biết tiếng đều không tịch
Phổ xuất thanh tịnh âm. Khắp phát âm thanh tịnh

Giảng: Bồ Tát khéo hiểu biết tất cả âm thanh pháp môn, đối với âm thanh không phân biệt, biết âm thanh vốn đều là không tịch, chẳng có gì cả, chỉ có tiếng vang mà thôi. Diệu âm nói pháp này, là tiếng thanh tịnh của lưỡi rộng dài diễn nói.

 

Liễu Pháp bất tại ngôn, Biết pháp chẳng tại lời
Thiện nhập vô ngôn tế, Khéo vào vô ngôn tế
Nhi năng thị ngôn thuyết, Mà hay hiện ngôn thuyết
Như hưởng biến thế gian. Như vang khắp thế gian.

Giảng: Bồ Tát thấu rõ tất cả pháp, vốn là không lời nói tướng (vô ngôn thuyết tướng). Do đó: « Ly ngôn thuyết tướng, ly văn tự tướng, ly tâm duyên tướng », nghĩa là quét tất cả pháp, lìa tất cả tướng. Bồ Tát khéo vào bờ mé vô ngôn thuyết (không lời nói). Trong vô ngôn thuyết (không lời nói), mà hay thị hiện lời nói. Giống như tiếng vang của âm thanh khắp nơi thế gian.

 

Liễu tri ngôn ngữ đạo, Biết rõ ngôn ngữ đạo
Cụ túc âm thanh phần, Ðầy đủ phần âm thanh
Tri thanh tánh không tịch, Biết thanh tánh không tịch
Dĩ thế ngôn âm thuyết. Dùng thế ngôn để nói

Giảng: Bồ Tát thấu rõ tất cả con đường lời lẽ, đầy đủ cảnh giới âm thanh. Biết bổn thể của âm thanh là không tịch, chẳng có vật gì bên trong, bất quá dùng lời lẽ và văn tự của thế gian, để diễn đạt âm thanh của nó.

 

Như thế sở hữu âm, Như âm thanh thế gian
Thị đồng phân biệt Pháp, Hiện đồng pháp phân biệt
Kỳ âm tất chu biến, Tiếng đó đều cùng khắp
Khai ngộ chư quần sanh. Khai ngộ các quần sanh.

Giảng: Bồ Tát biết hết thảy âm thanh thế gian, thị hiện âm thanh giống nhau, đủ thứ pháp khác nhau. Hết thảy âm thanh này, hoàn toàn khắp cùng pháp giới. Ở trong âm thanh diễn nói diệu pháp, khai ngộ tất cả các quần sinh.

 

Bồ Tát hoạch thử nhẫn Bồ Tát được nhẫn nầy
Tịnh âm hóa thế gian, Tịnh âm độ thế gian
Thiện xảo thuyết tam thế Khéo diễn thuyết ba đời
Ư thế vô sở trước. Nơi đời không chấp trước.

Giảng: Bồ Tát đắc được pháp môn như vang nhẫn, dùng âm thanh thanh tịnh để giáo hoá tất cả chúng sinh thế gian, phát bồ đề tâm, tu hành vô thượng đạo. Bổn lai một đời cũng không thể nắm bắt được, nhưng Bồ Tát dùng phương tiện khéo léo để nói ba đời. Ba đời tức là đời quá khứ, đời hiện tại và đời vị lai, tức cũng là hôm qua, hôm nay và ngày mai. Bồ Tát đối với hết thảy tất cả pháp thế gian, đều không chấp trước. Tại sao ? Vì người, pháp, hai chấp đều không. Mười bài kệ ở trên là kệ pháp môn như vang nhẫn thứ bảy.

 

Vi dục lợi thế gian, Vì muốn lợi thế gian
Chuyên ý cầu Bồ-đề Chuyên ý cầu bồ đề
Nhi thường nhập pháp tánh, Mà thường nhập pháp tánh
Ư bỉ vô phân biệt. Nơi đó vô phân biệt.

Giảng: Bồ Tát muốn lợi ích chúng sinh thế gian, chuyên tâm nhất chí cầu vô thượng bồ đề, mà thường vào bản thể của pháp tánh, nhưng đối với những điều đó chẳng có tâm phân biệt.

 

Phổ quán chư thế gian, Quán khắp các thế gian
Tịch diệt vô thể tánh, Tịch diệt không thể tánh
Nhi hằng vi nhiêu ích, Mà thường làm lợi ích
Tu hành ý bất động. Tu hành ý chẳng động.

Giảng: Bồ Tát quán sát khắp cùng tất cả thế gian, đều là tịch diệt không có thể tánh. Nhưng Bồ Tát thường hành Bồ Tát đạo, lợi ích tất cả chúng sinh. Bồ Tát tu hành lục độ vạn hạnh, tức cũng là tu định lực. Định lực này, là động mà chẳng động. Do đó :

« Động tức là tĩnh, tĩnh tức là động ».

Động tĩnh nhất như, động tĩnh không hai. Tại sao ? Vì Bồ Tát lìa khỏi tất cả chấp trước, lìa khỏi tất cả quái ngại, cho nên tâm chẳng động.

Chúng ta người tu đạo, phải minh bạch đạo lý này. Không những ở trong tĩnh có thể tu định, mà ở trong động cũng có thể tu định. Kỳ thật, trong tĩnh có định lực, không như trong động có định lực. Tại sao ? Vì khi động, nếu chẳng có định lực, thì sẽ bị cảnh giới lay chuyển. Đừng đam không chấp tịch. Đam không tức là hoan hỉ về không, chấp tịch tức là chấp trước tịch tĩnh. Phải ở trong tĩnh tu động, trong động tu tĩnh. Tức tĩnh tức động, tức động tức tĩnh, động tĩnh chẳng hai. Có người nói : « Tôi hoan hỉ tĩnh, chẳng hoan hỉ động », đó là bạn chấp trước vào tĩnh. Lại có người nói : « Tôi hoan hỉ động, chẳng hoan hỉ tĩnh », đó là bạn chấp trước vào động. Phải biết rõ tĩnh cũng là định, động cũng là định, tĩnh động đều ở trong định. Cảnh giới này là gì ? Tôi thường nói với các vị hai câu này :

« Mắt thấy hình sắc trong chẳng có
Tai nghe chuyện đời tâm chẳng hay ».
Và :

Thấy việc tỉnh việc lìa thế gian

Thấy việc mê việc đoạ trầm luân ».
Định chẳng phải chỉ riêng ở trong tĩnh sinh ra; ở trong động sinh ra định mới là thực dụng. Người tu đạo, đạt đến cảnh giới viên dung vô ngại, tức là tâm bất động, nghĩa là chẳng động tâm. Khi Mạnh Tử được bốn mươi tuổi thì, mới bất động tâm, đối với định lực có chút thành tựu. Mạnh Tử nói :

« Cáo tử tiên ngã bất động tâm ».

Chứng minh cáo tử được bất động tâm sớm hơn Mạnh Tử. Do đó :

« Thái sơn băng tiền nhi bất kình
Mỹ nữ đương tiền nhi bất động ».

Nghĩa là :
Núi Thái đổ xuống trước mắt mà chẳng sợ
Người đẹp trước mắt mà chẳng động.

Tu đạo tu đến cảnh giới này, thì liền thành tựu đạo nghiệp.

 

Bất trụ ư thế gian, Chẳng trụ nơi thế gian
Bất ly ư thế gian, Cũng chẳng rời thế gian
Ư thế vô sở y, Nơi thế không sở y
Y xứ bất khả đắc. Y xứ bất khả đắc.

Giảng: Bồ Tát chẳng chấp trụ vào pháp thế gian, cũng chẳng lìa khỏi pháp thế gian và pháp xuất thế gian. Đối với pháp xuất thế gian, chẳng có chỗ nương tựa. Muốn tìm chỗ nương tựa thì không thể được.

 

Liễu tri thế gian tánh, Rõ biết tánh thế gian
Ư tánh vô nhiễm trước Nơi tánh không nhiễm trước
Tuy bất y thế gian Dầu chẳng nương thế gian
Hóa thế lệnh siêu độ. Giáo hóa khiến siêu độ.

Giảng: Bồ Tát biết rõ tự tánh tất cả pháp thế gian, đối với tánh không có nhiễm trước. Tại sao ? Vì Bồ Tát đã phá được ngã chấp và pháp chấp. Tuy Bồ Tát chẳng nương tựa pháp thế gian, nhưng Bồ Tát vẫn phải giáo hoá chúng sinh hữu tình thế gian, khiến cho họ được siêu độ.

 

Thế gian sở hữu Pháp, Bao nhiêu pháp thế gian
Tất tri kỳ tự tánh, Ðều biết tự tánh nó
Liễu Pháp vô hữu nhị, Rõ pháp không có hai
Vô nhị diệc Vô Trước. Cũng không chấp không hai

Giảng: Hết thảy tất cả pháp thế xuất thế gian, Bồ Tát đều biết chân thật tự tánh của tất cả các pháp, cũng biết rõ tất cả pháp, đều là pháp môn không hai (đệ nhất nghĩa đế), cũng chẳng có hai, cũng chẳng chấp. Đó là cảnh giới Bồ Tát đối với pháp.

 

Tâm bất ly thế gian, Tâm cũng chẳng rời thế gian
Diệc bất trụ thế gian, Cũng chẳng trụ thế gian
Phi ư thế gian ngoại, Chẳng phải ngoài thế gian
Tu hành nhất thiết trí. Tu hành nhứt thiết trí.

Giảng: Tâm của Bồ Tát chẳng lìa pháp thế gian, cũng chẳng trụ pháp thế gian; cũng chẳng ở ngoài pháp thế gian, tu hành nhất thiết trí. Nghĩa là nói tu pháp xuất thế ở trong pháp thế gian, do đó :

« Tức thế gian lìa thế gian ».

Cảnh giới này dễ như trở bàn tay. Trở qua là lòng bàn tay, lật lại là lưng bàn tay. Trong kinh có nói :
« Phiền não tức bồ đề,
Bồ đề tức phiền não ».

Bạn chẳng tu hành, chẳng hiểu Phật pháp, tức là phiền não. Hiểu rồi, tức là bồ đề. Bồ đề chẳng ở ngoài phiền não, mà ở trong phiền não. Cho nên nói phiền não tức là bồ đề, bồ đề tức là phiền não. Tóm lại, biết dùng thì bồ đề, không biết dùng tức là phiền não.

 

Thí như thủy trung ảnh Ví như bóng trong nước
Phi nội diệc phi ngoại, Chẳng phải trong chẳng ngoài
Bồ Tát cầu Bồ-đề, Bồ Tát cầu bồ đề
Liễu thế phi thế gian. Biết thế chẳng phải thế

Giảng: Giống như bóng mặt trăng trong nước, cũng chẳng phải ở trong nước, cũng chẳng phải ở ngoài nước. Bồ Tát cầu vô thượng bồ đề, thấu rõ thế gian là không, cho nên tâm chẳng sinh chấp trước.

 

Bất ư thế trụ xuất, Chẳng nơi thế trụ xuất
Dĩ thế bất khả thuyết, Vì thế bất khả thuyết
Diệc bất tại nội ngoại, Cũng chẳng trụ trong ngoài
Như ảnh hiện thế gian. Như bóng hiện thế gian.

Giảng: Bồ Tát chẳng chấp vào pháp thế gian và pháp xuất thế gian. Vì thế gian là không, bất khả thuyết bất khả thuyết. Nó chẳng ở trong thế gian, cũng chẳng ở ngoài thế gian. Như mặt trăng hiện khắp trong nước, giống như bóng hiện thế gian.

 

Nhập thử thậm thâm nghĩa, Nhập nghĩa thậm thâm nầy
Ly cấu tất minh triệt, Lìa nhơ đều sáng suốt
Bất xả bổn thệ tâm, Chẳng bỏ tâm bổn thệ
Phổ chiếu trí tuệ đăng. Ðèn trí huệ chiếu khắp.

Giảng: Bồ Tát chứng nhập vào chân thật nghĩa thâm sâu này rồi, lìa khỏi tất cả bụi dơ, hoàn toàn biết rõ thấu triệt, nhưng vẫn không xả bỏ tâm thệ nguyện vốn đã phát ra, Ngài nguyện làm đèn trí huệ, để chiếu khắp mười phương thế giới, khiến cho chúng sinh phát tâm bồ đề, tu vô thượng đạo.

 

Thế gian vô biên tế, Thế gian không biên tế
Trí nhập tất tề đẳng, Trí nhập cũng vô biên
Phổ hóa chư quần sanh, Giáo hóa khắp quần sanh
Lệnh kỳ xả chúng trước Khiến họ bỏ những chấp.

Giảng: Tuy thế gian chẳng có bờ mé, nhưng trí huệ của Bồ Tát đầy khắp thế gian, bằng đồng với thế gian. Giáo hoá khắp tất cả quần sinh, khiến cho họ xả bỏ tất cả chấp trước, quay lưng với trần lao hợp với giác ngộ, trở về cội nguồn. Mười bài kệ ở trên, là kệ pháp môn như ảnh nhẫn thứ tám.

 

Quan sát thậm thâm Pháp Quán sát pháp thậm thâm
Lợi ích quần sanh chúng, Lợi ích những quần sanh
Tòng thử nhập ư trí, Từ đây nhập vào trí
Tu hành nhất thiết đạo. Tu hành tất cả đạo.

Giảng: Bồ Tát quán sát pháp vi diệu thâm sâu vô thượng, để lợi ích tất cả chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh từ pháp môn này, chứng nhập vào trí huệ, mà tu hành tất cả bồ đề giác đạo.

 

Bồ Tát quán chư Pháp, Bồ Tát quán các pháp
Đế liễu tất như hóa, Biết chắc đều như hóa
Nhi hành như hóa hạnh Mà tu hạnh như hóa
Tất cánh vĩnh bất xả. Rốt ráo trọn chẳng bỏ.

Giảng: Bồ Tát quán sát tất cả các pháp, thấu rõ được lý, đều là như huyễn như hoá, chẳng có một thật thể nào. Nhưng Bồ Tát vẫn hành Bồ Tát đạo, như đồng hạnh huyễn, mà chẳng chấp trước, rốt ráo vĩnh viễn chẳng xả bỏ chúng sinh. Vì cứu hộ chúng sinh lìa khổ được vui, thời thời vì chúng sinh diễn nói pháp chấm dứt sinh tử.

 

Tùy thuận hóa tự tánh, Tùy thuận hóa tự tánh
Tu tập Bồ-đề đạo, Tu tập đạo bồ đề
Nhất thiết pháp như hóa Tất cả pháp như hóa
Bồ Tát hạnh diệc nhiên. Bồ Tát hạnh cũng vậy.

Giảng: Bồ Tát tuỳ thuận tự tánh huyễn hoá, mà siêng năng tu tập bồ đề giác đạo, đều biết tất cả các pháp, giống như huyễn hoá. Bồ Tát tu hành cũng như thế, nhưng Bồ Tát vẫn không xả bỏ hạnh Bồ Tát.

 

Nhất thiết chư thế gian, Tất cả các thế gian
Cập dĩ vô lượng nghiệp, Và cùng vô lượng nghiệp
Bình đẳng tất như hóa, Bình đẳng đều như hóa
Tất cánh trụ tịch diệt. Rốt ráo trụ tịch diệt.

Giảng: Hết thảy tất cả thế gian, cùng với vô lượng nghiệp, đều là bình đẳng, như huyễn như hoá, chẳng có thể tánh chân thật. Rốt ráo trụ nơi tịch diệt, tất cả tất cả đều do duyên mà sinh, do duyên mà diệt, cuối cùng quy về tịch diệt.

 

Tam thế sở hữu Phật, Những Phật trong tam thế
Nhất thiết diệc như hóa, Tất cả cũng như hóa
Bổn Nguyện tu chư hạnh, Bổn nguyện tu các hạnh
Biến hóa thành Như Lai. Biến hóa thành Như Lai.

Giảng: Mười phương ba đời hết thảy tất cả chư Phật, tất cả tất cả cũng như huyễn như hoá, nguyện thuở xưa đã phát ra, mà tu hành tất cả hạnh môn. Khi công đức viên mãn, thì biến hoá thành Như Lai. Tu phước tu huệ, phước huệ đều tròn đầy, mới thành Chánh Giác.

 

Phật dĩ đại từ bi, Phật dùng đại từ bi
Độ thoát hóa chúng sanh, Ðộ thoát hóa chúng sanh
Độ thoát diệc như hóa, Ðộ thoát cũng như hóa
Hóa lực vi thuyết Pháp. Hóa lực vì thuyết pháp.

Giảng: Phật dùng tâm đại từ đại bi, để độ thoát giáo hoá tất cả chúng sinh. Tuy độ thoát chúng sinh, cũng như huyễn như hoá, dùng hoá lực để vì họ thuyết pháp, khiến cho chúng sinh bỏ mê về giác, cải ác hướng thiện.

 

Tri thế giai như hóa Biết thế gian như hóa
Bất phân biệt thế gian, Chẳng phân biệt thế gian
Hóa sự chủng chủng thù, Hóa sự nhiều loại khác
Giai do nghiệp sái biệt. Ðều do nghiệp sai biệt.

Giảng: Bồ Tát biết tất cả thế gian, đều giống như biến hoá, cho nên chẳng phân biệt tất cả thế gian. Hết thảy những sự việc biến hoá, có đủ thứ thù đặc khác nhau, đó đều là do nghiệp lực sở cảm, mà sinh ra đủ thứ sự việc khác nhau.

 

Tu tập Bồ-đề hạnh Tu tập hạnh bồ đề
Trang nghiêm ư hóa tạng, Trang nghiêm nơi hóa thành
Vô lượng thiện trang nghiêm, Vô lượng khéo trang nghiêm
Như nghiệp tác thế gian. Như nghiệp làm thế gian.

Giảng: Bồ Tát tu hành học tập hạnh bồ đề, trang nghiêm ở trong hoá tạng. Có vô lượng vô biên tất cả sự trang nghiêm, như nghiệp làm thế gian, chúng ta tu đạo, phải phát tâm bồ đề, tức là cúng dường chư Phật, gần gũi thiện tri thức cầu trí huệ của Phật, độ hoá tất cả chúng sinh. Tu tập các từ bi, tài bồi các căn lành, khiến cho tâm nhu hoà, khiến cho chí kiên cường. Tóm lại, có tâm cầu tiến hướng thượng, tức là tâm bồ đề.

 

Hóa pháp ly phân biệt Pháp nầy rời phân biệt
Diệc bất phân biệt Pháp, Cũng chẳng phân biệt pháp
Thử nhị câu tịch diệt, Cả hai đều tịch diệt
Bồ Tát hạnh như thị. Hạnh Bồ Tát như vậy.

Giảng: Pháp biến hoá lìa khỏi sự phân biệt, cũng chẳng phân biệt nơi pháp. Hai thứ này đều là tướng tịch diệt. Hạnh của Bồ Tát tu hành cũng như thế. Bồ Tát vì cứu độ chúng sinh, vì lợi ích chúng sinh, mà hành Bồ Tát đạo, chẳng phải vì lợi ích của mình, mà hành Bồ Tát đạo.

 

Hóa hải liễu ư trí, Hóa hải rõ nơi trí,
Hóa tánh ấn thế gian, Hóa tánh ấn thế gian
Hóa phi sanh diệt Pháp, Hóa chẳng phải sanh diệt
Trí tuệ diệc như thị. Trí huệ cũng như vậy.

Giảng: Biển biến hoá, rõ nơi trí huệ. Tánh biến hoá, ấn tại thế gian. Biến hoá là pháp chẳng sinh chẳng diệt, trí huệ cũng là pháp chẳng sinh chẳng diệt. Bồ Tát đều biết tất cả pháp như hoá, cho nên chẳng sinh tâm chấp trước. Chúng ta học Phật pháp, tức là học « không chấp trước ». Nếu không có tâm chấp trước, thì tất cả đều buông bỏ được, buông bỏ tức là giải thoát. Mười bài kệ ở trên là pháp môn như hoá nhẫn thứ chín.

 

Đệ thập nhẫn minh quán Nhẫn thứ mười quán rõ
Chúng sanh cập chư Pháp, Chúng sanh và các pháp
Thể tánh giai tịch diệt, Thể tánh đều tịch diệt
Như không vô xứ sở. Không xứ sở như không

Giảng: Thứ mười là như không nhẫn, phải quán sát thấu rõ triệt để. Thể tánh của chúng sinh và tất cả pháp, đều là tịch diệt, giống như hư không, chẳng có xứ sở nhất định.

 

Hoạch thử như không trí, Ðược trí như không nầy
Vĩnh ly chư thủ trước, Lìa hẳn các chấp trước
Như không vô chủng chủng, Như hư không vô tướng
Ư thế vô sở ngại. Nơi thế gian vô ngại

Giảng: Bồ Tát đắc được trí huệ như hư không, vĩnh viễn lìa khỏi tất cả sự chấp trước. Giống như hư không, chẳng có vật gì cả, cho nên đối với thế gian, chẳng có gì chướng ngại.

 

Thành tựu không nhẫn lực Thành tựu sức không nhẫn
Như không vô hữu tận, Như hư không vô tận
Cảnh giới như hư không, Cảnh giới như hư không
Bất tác không phân biệt Chẳng phân biệt hư không.

Giảng: Thành tựu sức không nhẫn này, giống như hư không, chẳng có lúc nào cùng tận. Cảnh giới giống như hư không, nhưng chẳng phân biệt hư không. Hiện tại nhà khoa học mới phát hiện bí mật của hư không (vũ trụ), có hệ thống ngân hà, đó là do hàng ngàn vạn thái dương hệ mà thành. Lại phát hiện có rất nhiều ngân hà xuất hiện. Cách đây ba ngàn năm, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã biết rõ trong hư không, có tiểu thiên thế giới, trung thiên thế giới, đại thiên thế giới, nhìn thấy rất rõ ràng. Khoa học càng tiến bộ, thì càng chứng minh pháp của Phật nói, đều là chân lý, tuyệt đối không sai.

 

Hư không vô thể tánh Hư không không thể tánh
Diệc phục phi đoạn điệt, Cũng chẳng phải đoạn diệt
Diệc vô chủng chủng biệt, Cũng không những sai khác
Trí lực diệc như thị. Trí lực cũng như vậy

Giảng: Tuy hư không chẳng có thể tánh, nhưng cũng chẳng đoạn diệt, cũng chẳng có đủ thứ sự phân biệt. Tại sao ? Vì nó là hư không ! Nếu có thể tánh, thì có đoạn diệt, có phân biệt, đó chẳng phải là hư không. Trí huệ lực cũng như thế.

 

Hư không vô sơ tế, Hư không không sơ tế
Diệc phục vô trung hậu, Cũng không có trung, hậu
Kỳ lượng bất khả đắc, Lượng đó bất khả đắc
Bồ Tát trí diệc nhiên. Trí Bồ Tát cũng vậy.

Giảng: Hư không cũng chẳng có bắt đầu, cũng chẳng có hiện tại, cũng chẳng có khi nào kết thúc. Lượng của hư không không thể được. Trí huệ của Bồ Tát cũng như thế, chẳng có ban đầu, chẳng có giữa, chẳng có cuối.

 

Như thị quán pháp tánh, Quán pháp tánh như vậy
Nhất thiết như hư không, Tất cả như hư không
Vô sanh diệc vô diệt, Không sanh cũng không diệt
Bồ Tát chi sở đắc. Sở đắc của Bồ Tát.

Giảng: Như vậy quán sát pháp tánh, tất cả đều như hư không. Cũng chẳng có sinh, cũng chẳng có diệt. Đó là sở đắc của Bồ Tát.

 

Tự trụ như không Pháp, Tự trụ pháp như không
Phục vi chúng sanh thuyết, Lại vì chúng sanh nói
Hàng phục nhất thiết ma, Hàng phục tất cả ma
Giai tư nhẫn phương tiện. Phương tiện của nhẫn nầy.

Giảng: Bồ Tát tự trụ giống như không pháp, nhưng lại vì tất cả chúng sinh diễn nói diệu pháp, lại hàng phục tất cả thiên ma ngoại đạo, đều do sức phương tiện nhẫn này mà thành tựu.

 

Thế gian tướng sái biệt, Tướng thế gian sai khác
Giai không vô hữu tướng, Ðều không chẳng có tướng
Nhập ư vô tướng xứ, Vào nơi chỗ vô tướng
Chư tướng tất bình đẳng. Các tướng đều bình đẳng.

Giảng: Tướng thế gian, tuy nhiên có khác nhau, nhưng đều là không, chẳng có tướng chân thật. Nếu vào chỗ vô tướng, thì tất cả tướng hoàn toàn bình đẳng, chẳng có phân biệt.

 

Duy dĩ nhất phương tiện, Chỉ dùng một phương tiện
Phổ nhập chúng thế gian, Vào khắp các thế gian
Vị tri tam thế Pháp Là biết pháp tam thế
Tất đẳng hư không tánh. Ðều đồng tánh hư không.

Giảng: Chỉ dùng một pháp môn phương tiện, vào khắp tất cả thế gian, biết được tất cả các pháp ba đời, hoàn toàn đồng với tánh hư không.

 

Trí tuệ dữ âm thanh, Trí huệ cùng âm thanh
Cập dĩ Bồ Tát thân, Và thân của Bồ Tát
Kỳ tánh như hư không, Tánh đó như hư không
Nhất thiết giai tịch diệt. Tất cả đều tịch diệt.

Giảng: Trí huệ và âm thanh cùng với thân của Bồ Tát, tánh giống như hư không, tất cả đều là tịch diệt, chẳng có gì cả. Mười bài kệ ở trên là kệ pháp môn như không nhẫn thứ mười.

 

Như thị thập chủng nhẫn, Mười thứ nhẫn như vậy
Phật tử sở tu hành, Phật tử đã tu hành
Kỳ tâm thiện an trụ, Tâm họ khéo an trụ
Quảng vi chúng sanh thuyết. Rộng vì chúng sanh nói.

Giảng: Mười thứ nhẫn đã nói ở trên, là hạnh môn tu hành của Phật tử. Tâm phải khéo an trụ, rộng vì tất cả chúng sinh diễn nói diệu pháp luân.

 

Ư thử thiện tu học, Nơi đây khéo tu học
Thành tựu quảng đại lực, Thành tựu sức quảng đại
Pháp lực cập trí lực, Pháp lực và trí lực
Vi Bồ-đề phương tiện. Là phương tiện bồ đề.

Giảng: Đối với pháp nhẫn này phải khéo tu học, sẽ thành tựu sức lực rộng lớn, sức lực của pháp, sức lực của trí. Tóm lại, sẽ thành tựu được tất cả sức lực, là sức phương tiện của bồ đề giác đạo.

 

Thông đạt thử nhẫn môn, Thông đạt môn nhẫn nầy
Thành tựu vô ngại trí, Thành tựu trí vô ngại
Siêu quá nhất thiết chúng, Vượt hơn tất cả chúng
Chuyển ư vô thượng luân. Chuyển pháp luân vô thượng.

Giảng: Nếu thông đạt được pháp môn mười thứ nhẫn này, thì sẽ thành tựu trí huệ vô ngại, tức cũng là viên dung vô ngại, vượt qua được tất cả chúng sinh, mà chuyển bánh xe pháp vô thượng, độ khắp chúng sinh.

 

Sở tu quảng đại hạnh Hạnh quảng đại đã tu
Kỳ lượng bất khả đắc, Lượng đó bất khả đắc
Điều ngự sư trí hải, Ðiều Ngự Sư trí hải
Nãi năng phân biệt tri. Mới phân biệt biết được

Giảng: Bồ Tát tu hạnh môn rộng lớn, số lượng không thể được (bất khả đắc), chẳng biết là bao nhiêu? Chỉ có biển trí huệ của Điều Ngự Sư (một trong mười danh hiệu của Phật), mới phân biệt biết được có bao nhiêu hạnh môn.

 

Xả ngã nhi tu hành, Bỏ ngã mà tu hành
Nhập ư thâm pháp tánh, Nhập vào pháp tánh sâu
Tâm thường trụ tịnh Pháp, Tâm thường trụ tịnh pháp
Dĩ thị thí quần sanh. Dùng đây thí quần sanh.

Giảng: Xả bỏ cái bản ngã mà tu hành, thì mới chứng nhập vào được trong pháp tánh thâm sâu, tâm đó thường trụ ở trong pháp thanh tịnh. Dùng pháp này thí giáo tất cả chúng sinh.

 

Chúng sanh cập sát trần, Chúng sanh và sát trần
Thượng khả tri kỳ số, Còn biết được số đó
Bồ Tát chư công đức, Công đức của Bồ -Tát
Vô năng độ kỳ hạn. Không thể biết hạn lượng.

Giảng: Vô lượng chúng sinh và vô lượng bụi cõi, còn có thể biết được số mục rốt ráo là bao nhiêu. Nhưng tất cả công đức của Bồ Tát, chúng ta phàm phu ngu si, không cách chi độ lượng được giới hạn, không có bờ mé.

 

Bồ Tát năng thành tựu, Bồ Tát hay thành tựu
Như thị thập chủng nhẫn, Mười thứ nhẫn như vậy
Trí tuệ cập sở hạnh, Trí huệ và công hạnh
Chúng sanh mạc năng trắc. Chúng sanh chẳng lường được.

Giảng: Bồ Tát thành tựu được mười thứ pháp nhẫn này, đó là trí huệ và công đức tu hành của Ngài mà thành tựu. Phàm phu chúng sinh chẳng cách chi có thể dò lường được.






Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét