Kinh Hoa Nghiêm
Đại Phương Quảng Phật
giảng giải
Phẩm Thứ 26
Hòa Thượng TUYÊN HÓA
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Minh Ðịnh
— o0o —
Phẩm Thập Địa 8
Đệ Bát Địa – Bất Động Địa
Thị thời Thiên Vương cập Thiên Chúng Bấy giờ Thiên Vương và thiên chúng
Văn thử thắng hành giai hoan hỉ, Nghe thắng hạnh này đều hoan hỷ
Vi dục cúng dường ư Như Lai, Vì muốn cúng dường lên Như Lai
Cập dĩ vô ương đại Bồ-tát, Và cùng đại chúng chư Bồ Tát
Giảng: Khi Bồ Tát Kim Cang Tạng diễn nói xong Địa thứ bảy, thì bấy giờ chư Thiên Vương trong pháp hội, và vô số Thiên chúng cõi trời, lắng nghe pháp môn tu hành Địa thứ bảy – Viễn Hành địa rồi, thảy đều đại hoan hỉ. Thật là pháp môn vô thượng vi diệu, thấy điều chưa thấy, nghe điều chưa nghe, đại chúng đều vui mừng không thể nào tả được. Do đó, đại chúng phát tâm cúng dường chư Phật và các đệ tử của Phật vô lượng số Bồ Tát trong pháp hội.
Vũ hương khí phan cập tràng cái Rải hoa, tràng hoa, phan, tràng, lọng,
Hương man anh lạc dữ bảo y, Hương thơm chuổi ngọc và bửu y,
Vô lượng vô biên thiên vạn chủng Vô lượng, vô biên ngàn vạn thứ
Tất dĩ ma-ni tác nghiêm sức. Ðều dùng ma ni để nghiêm sức.
Giảng: Bấy giờ, chư thiên cúng dường gồm những thứ : Như mưa xuống rải khắp hoa phan tốt đẹp, tràng báu và lọng báu, hương thơm, chuỗi anh lạc báu, và đủ thứ y báu dùng các thứ báu đẹp kết thành. Đồ cúng dường như vậy nhiều hàng ngàn vạn không thể nào tính biết được, đều dùng bảo châu ma ni để nghiêm sức, ánh sáng chói loà, nói không hết được sự tốt đẹp của nó.
Thiên nữ đồng thời tấu Thiên nhạc, Thiên nữ đồng thời tấu thiên nhạc.
Phổ phát chủng chủng diệu âm thanh, Khắp phát các thứ diệu âm thanh
Cúng dường ư Phật tinh Phật tử, Cúng dường cho phật và Phật tử
Cọng tác thị ngôn nhi tán thán: Ðồng nói lời này để tán thán:
Giảng: Các vị Thiên nữ trên trời, đồng thời tấu lên âm nhạc trời rất êm tai, khắp vang ra âm thanh hoà nhã rất hay, đem dâng lên cúng dường chư Phật và các đệ tử của Phật, đồng thời dị khẩu đồng thanh nói ra những lời tán thán khen ngợi rằng:
Nhất thiết kiến giả lượng túc tôn Phước trí viên mãn thấy tất cả
Ai mẩn chúng sanh hiện thần lực Phật thương chúng sanh hiện thần lực,
Lệnh thử chủng chủng chư Thiên nhạc Khiến cho thứ thiên nhạc trên không
Phổ phát Diệu-Âm hàm đắc văn. Phát diệu âm thanh khắp được nghe.
Giảng: Tất cả chúng sinh đều hoan hỉ thấy được bậc phước đầy đủ, huệ đầy đủ, cả hai phước và huệ đều viên mãn đầy đủ, bậc thầy của trời người – Phật. Ngài từ bi bình đẳng, thương xót tất cả chúng sinh, Ngài hiển hiện ra phương tiện đại thần thông oai lực, khiến cho chư Thiên tấu lên các thứ nhạc trời, khắp vang ra âm thanh thượng diệu hay không thể nghĩ bàn được, khiến cho chúng sinh nghe được pháp âm nầy rồi, đều phát tâm đại bồ đề, đều sẽ khai ngộ.
Ư nhất mao đoan bách thiên ức Trong một chân long trăm ngàn ức
Na-do-tha quốc vi trần số, Na do tha cõi vi trần số
Như thị vô lượng chư Như Lai, Vô lượng Như Lai như vậy thấy
Ư trung an trụ thuyết diệu pháp. An trụ trong đó thuyết diệu pháp
Giảng: Trên một đầu sợi lông của Phật, có trăm ngàn ức Na do tha cõi nước nhiều như số hạt bụi. Cõi nước nhiều như số hạt bụi, lại có các vị Phật nhiều như số hạt bụi, đều đang an trụ ở trong đó, vì chúng sinh diễn nói Phật pháp vi diệu thâm sâu vô thượng.
Nhất mao khổng nội vô lượng sát, Trong một chân lông vô lượng cõi
Các hữu tứ châu cập đại hải Ðều có bốn châu và đại hải
Tu-Di thiết vi diệc phục nhiên Tu di, thiết vi và bửu sơn
Tất kiến tại trung vô bách ải. Ðều thấy ở trong, không chặt hẹp.
Giảng: Ở trong mỗi lỗ chân lông của Phật, lại hiện ra vô lượng thế giới. Mỗi thế giới đều có bốn đại bộ châu – Đông Thắng Thần Châu, Nam Thiệm Bộ Châu, Tây Ngưu Hoá Châu, Bắc Câu Lưu Châu, lại có bảy biển nước thơm lớn, còn có núi Tu Di và núi Thiết Vi, tất cả đều hoàn toàn tốt đẹp. Những núi và biển lớn đó, đều ở trong lỗ chân lông của Phật, nhìn thấy chẳng có chút cảm giác chật hẹp nào hết.
Nhất mao đoan xứ/xử hữu lục thú, Chổ một chân lông có sáu loài:
Tam chủng ác đạo cập nhân thiên, Ba loài ác đạo và trời, người
Chư long thần chúng A-tu-la, Các chúng long thần, a tu la
Các tùy tự nghiệp thọ quả báo. Ðều theo tự nghiệp thọ quả báo.
Giảng: Ở trên mỗi đầu sợi lông của Phật, lại hiện ra cảnh giới địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, người, A tu la, trời, sáu nẻo luân hồi. Lại có chúng rồng trên trời, chúng Thiên thần – tám bộ Thiên thần và A tu la. A tu là là một loại chúng sinh có phước trời, chẳng có đức và quyền lực trời, tánh tình của chúng hẹp hòi, thích đấu tranh, tâm sân rất nặng, phàm là chúng sinh ở trong sáu nẻo có thứ tập tánh nầy, thì đều là A tu la. Tại sao có sáu nẻo khác biệt ? Đó là căn cứ theo nghiệp của họ đã tạo ra mà hình thành. Thọ sinh vào sáu nẻo là tiếp thọ quả báo của mình phải chịu. Chúng sinh trồng nhân lành, thì kết quả lành, được báo tốt; chúng sinh trồng nhân ác, thì kết quả ác, được ác báo; đều tuỳ theo nghiệp của mình, tơ hào không sai. Nếu muốn biết nhân duyên của mình trồng trước kia, và đầu thai ở đâu trong tương lai ? Thì có mấy câu kệ nầy có thể khảo nghiệm :
“Dục tri tiền thế nhân
Kim sinh thọ giả thị
Muốn biết lai thế quả
Kim sinh tác giả thị”.
Nghĩa là:
Muốn biết nhân đời trước
Đời này mình đang thọ
Muốn biết quả đời sau
Đời này mình đang làm.
Ư bỉ nhất thiết sát độ trung Nơi trong tất cả cõi nuớc kia
Tất hữu Như Lai diễn Diệu-Âm, Ðều có Như Lai diễn diệu âm
Tùy thuận nhất thiết chúng sanh tâm Tuỳ thuận tất cả tâm chúng sanh
Vi chuyển tối thượng tịnh Pháp luân. Vì chuyển tối thượng tịnh pháp luân.
Giảng: Ở trong vô lượng vô số vô biên thế giới, đều có chư Phật đang ở đó diễn nói Phật pháp vi diệu thâm sâu vô thượng. Phật xuất hiện ra đời, là vì cứu độ chúng sinh thoát khỏi biển khổ, cho nên đạo lý pháp môn mà chư Phật nói, trước hết Ngài phải quán sát căn cơ của chúng sinh, sau đó tuỳ thuận tâm ý của chúng sinh mà diễn nói. Những gì nói ra, đều khiến cho chúng sinh lìa khổ được vui, thanh tịnh cao thượng, không gì so sánh bằng, đó tức là chuyển bánh xe pháp vi diệu tối thượng.
Sát trung chủng chủng chúng sanh thân Trong cõi các loài thân chúng sanh
Thân trung phục hưũ chủng chủng sát, Trong thân lại có các loại cõi
Nhân thiên chư thú các các dị, Trời người các loài đều riêng khác
Phật tất tri dĩ vi thuyết Pháp. Phật đều biết rồi đem giảng dạy.
Giảng: Ở trong mỗi cõi nước, đều có đủ thứ chúng sinh khác nhau. Trên mỗi thân chúng sinh lại hiện ra đủ thứ cõi nước khác nhau. Cõi người, cõi trời, và những cõi khác, nhân quả của mỗi cõi đều khác nhau, tướng trạng các loài đều khác nhau. Đức Phật biết nguyên nhân cảm thọ khác nhau của những cõi đó, cũng minh bạch tâm ý của chúng sinh khác nhau, cho nên Ngài quán sát căn cơ, vì chúng sinh khác nhau mà phân biệt diễn nói diệu pháp khác nhau.
Đại sát tùy niệm biến vi tiểu, Cõi lớn tùy niệm biến thành nhỏ
Tiểu sát tùy niệm diệc biến Đại, Cõi nhỏ tùy niệm cũng biến lớn
Như thị thần thông vô hữu lượng Thần thông như vậy số vô lượng
Thế gian cọng thuyết bất năng tận. Thế gian chung kể không thể hết.
Giảng: Cõi nước lớn tuỳ theo một niệm của Bồ Tát, thì có thể biến thành cõi nước nhỏ. Cõi nước nhỏ cũng tuỳ theo một niệm của Bồ Tát, thì cũng có thể biến thành cõi nước lớn. Thần thông diệu dụng như vậy, có vô lượng vô số, phàm phu tục tử trên thế gian, mọi người tận hết sức mình cả đời, cũng không cách chi nói hết được những cảnh giới như vậy.
Phổ phát thử đẳng diệu âm thanh, Khắp pháp diệu âm vô lượng tiến
Xưng tán Như Lai công đức dĩ, Ca ngợi Như Lai công đức rồi
Chúng hội hoan hỉ mặc nhiên trụ, Chúng hội hoan hỷ ngồi yên lặng
Nhất tâm chiêm ngưỡng dục thính thuyết. Nhứt tâm chiêm nguỡng muốn nghe pháp.
Giảng: Các Thiên Vương trên trời và Thiên thần, mọi người đồng thời phát ra âm thanh vi diệu, cùng nhau tán thán khen ngợi chư Phật. Khen ngợi công đức của chư Phật rồi, các Thiên chúng, các chúng rồng, các thần hộ pháp .v.v… trong tâm đều rất hoan hỉ, yên lặng ngồi, một lòng một dạ chiêm ngưỡng đức Phật, hy vọng tiếp tục nghe diễn nói pháp môn thượng diệu Địa thứ tám.
Thời giải thoát nguyệt phục thỉnh ngôn Ngài giải thoát nguyệt lại thưa rằng:
Kim thử chúng hội giai tịch tĩnh, Nay đây chúng hội đều tịch tịnh
Nguyện thuyết tùy thứ chi sở nhập, Mong giải thích hành tướng thứ đệ
Đệ bát địa trung chư hành tướng! Nhập đệ bát bất động trí địa.
Giảng: Bấy giờ, khi mọi người đều yên lặng chiêm ngưỡng hướng về đức Phật, Bồ Tát Giải Thoát Nguyệt biết tâm lý của đại chúng, do đó bèn đứng dậy, hướng về Bồ Tát Kim Cang Tạng thỉnh pháp, nói: Hiện tại đại chúng Bồ Tát trong pháp hội, đều ngồi yên lặng, muốn nghe Ngài tiếp tục diễn nói thứ lớp làm thế nào, từ Địa thứ bảy tiến vào Địa thứ tám, và cảnh giới tướng trạng tu học các pháp môn của Địa thứ tám.
Kim Cương tạng Bồ Tát cáo Giải Thoát Nguyệt Bồ Tát ngôn: Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát ư thất địa trung, thiện tu tập phương tiện tuệ, thiện thanh tịnh chư đạo, thiện tập trợ đạo Pháp. đại nguyện lực sở nhiếp, Như Lai lực sở gia, tự thiện lực sở trì, thường niệm Như Lai lực, vô sở úy, bất cộng Phật Pháp, thiện thanh tịnh thâm tâm tư giác, năng thành tựu phước đức trí tuệ, đại từ đại bi bất xả chúng sanh, nhập vô lượng trí đạo, nhập nhất thiết pháp, bản lai vô sanh, vô khởi, vô tướng, vô thành, vô hoại, vô tận, vô chuyển, Vô tánh vi tánh, sơ, trung, hậu tế giai tất bình đẳng, vô phân biệt như như trí chi sở nhập xứ,
Bấy giờ, Bồ Tát Kim Cang Tạng bảo Bồ Tát Giải Thoát Nguyệt nói: Phật tử! Đại Bồ Tát trong Địa thứ bảy, khéo tu tập phương tiện huệ. Khéo thanh tịnh các đạo. Khéo tu tập pháp trợ đạo, do đại nguyện lực nhiếp trì, được Như Lai lực gia trì, tự thiện lực giữ gìn. Thường niệm lực vô sở uý của Như Lai, Phật pháp bất cộng. Khéo thanh tịnh thâm tâm tư giác, hay thành tựu phước đức trí huệ, đại từ đại bi không xả bỏ chúng sinh. Vào vô lượng trí đạo, vào tất cả pháp, vốn không sinh, không khởi, không tướng, không thành, không hoại, không hết, không chuyển, không tánh làm tánh. Ban đầu, giữa, sau, thảy đều bình đẳng. Không phân biệt chỗ nhập vào nơi trí như như.
Giảng: Lúc đó, Bồ Tát Kim Cang Tạng bảo Bồ Tát Giải Thoát Nguyệt nói: Các vị đệ tử của Phật! Đại Bồ Tát tu học Bồ Tát hạnh, tích tụ đủ thứ căn lành, trụ trong Địa thứ bảy – Viễn Hành địa, Ngài đã biết tu học phương tiện trí huệ, Ngài tu học tất cả Phật đạo, đều thanh tịnh viên mãn, Ngài cũng biết tu tập nhiều đạo nghiệp thì sẽ có thiện nghiệp công đức trợ giúp. Bồ Tát hay tu hành như vậy, đều nhờ nguyện lực thuở xưa nhiếp trì, mới được thành tựu, cũng nhờ Phật lực gia bị mà thành tựu, cũng do sự tu tập thiện nghiệp của mình mà thành tựu, cũng do Ngài thường nghĩ nhớ niệm thập lực thần diệu của Phật, bốn vô sở uý và mười tám pháp bất cộng. Ngài lại khéo thanh tịnh trí huệ thâm tâm của mình, đắc được diệu ngộ tư huệ, mà thành tựu phước đức trí huệ. Thâm tâm của Bồ Tát đại từ đại bi không xả bỏ chúng sinh, thâm nhập vào vô lượng vô biên trí huệ giác đạo. Ngài lại hay thâm nhập vào các pháp, minh bạch các pháp vốn không sinh, chẳng khởi, cũng chẳng có hình tướng, chẳng có thành, cũng chẳng có hoại, chẳng có khi nào cùng tận, không chuyển biến, cũng chẳng có tự tánh làm bổn tánh của nó. Bất luận từ khi bắt đầu, hoặc hiện tại, hoặc đến vị lai, đều bình đẳng như vậy, chẳng có phân biệt. Bồ Tát biết rõ như sự như lý, trí huệ đồng với Phật, mà đạt đến tuỳ Phật nhập vào cảnh giới. Vì trí nầy, mà rốt ráo nhập vào nơi trí huệ của Phật. Ý nghĩa hai chữ như như: Trên như là trí như, dưới như là lý như.
Ly nhất thiết tâm, ý, thức phân biệt tưởng, vô sở thủ trước do như hư không, nhập nhất thiết pháp như hư không tánh, thị danh: đắc Vô sanh Pháp nhẫn.
Lìa tất cả tâm ý thức tưởng phân biệt, không chấp lấy. Giống như hư không, vào tất cả pháp như tánh hư không. Đó gọi là được vô sinh pháp nhẫn.
Giảng: Bồ Tát Địa thứ bảy, công hạnh tu học đã đạt đến cảnh giới lìa tâm ý thức chẳng khởi phân biệt và tác ý. Lìa tâm: Tức là lìa khỏi tâm nghĩ tưởng phân biệt. Lìa ý thức: Tức là lìa phương tiện tâm nghĩ tưởng phân biệt. Bồ Tát nầy chẳng có tâm tư dục chấp lấy vì mình, cũng chẳng chấp trước về chủ quan cố chấp về cái ta, do đó: “Thủ lấy bất khả đắc, xả bỏ vô nhất vật”. Như đây là “tâm hành xứ diệt, lìa tất cả tưởng”. Vào sâu tất cả pháp tạng, giống như hư không. Hư không chẳng có tánh, đó gọi là “chứng được vô sinh pháp nhẫn”, tức cũng là chứng được cảnh giới quả vị Địa thứ bảy.
Phật tử! Bồ Tát thành tựu thử nhẫn, tức thời đắc nhập đệ bát bất động địa. Vi thâm hạnh Bồ Tát nan khả tri vô sái biệt, ly nhất thiết tướng, nhất thiết tưởng, nhất thiết chấp trước, vô lượng vô biên, nhất thiết Thanh văn, Bích Chi Phật sở bất năng cập, ly chư huyên tránh, tịch diệt hiện tiền.
Phật tử! Bồ Tát thành tựu nhẫn nầy, tức thời vào được Bất Động địa thứ tám. Là hạnh thâm sâu của Bồ Tát, khó biết được, không khác biệt. Lìa tất cả tướng, tất cả tưởng, tất cả chấp trước, vô lượng vô biên. Tất cả Thanh Văn Bích Chi Phật không sao bằng được. Lìa các huyên náo tranh luận, tịch diệt hiện tiền.
Giảng: Phật tử! Bồ Tát Kim Cang Tạng lại gọi một tiếng các vị đệ tử của Phật! Khi Bồ Tát Địa thứ bảy tu chứng thành tựu vô sinh pháp nhẫn, thì lập tức chứng nhập cảnh giới Địa thứ tám – Bất Động địa. Cảnh giới nầy chỉ có tu hành công hạnh đã đạt đến trình độ hạnh thâm sâu, Bồ Tát đã viên mãn đầy đủ tất cả Bát Nhã mà đăng lên Niết Bàn bờ bên kia, mới thể nghiệm được. Bồ Tát Địa thứ bảy ở trước đều không thể biết được. Bồ Tát đạt đến cảnh giới nầy, đối với tất cả sự vật, đã chẳng còn tâm ý thức phân biệt nữa. Đã lìa khỏi tất cả quan niệm hình tướng, cũng chẳng còn bất cứ tư lự vọng tưởng nào nữa. Đã lìa khỏi tất cả mọi quan niệm hình tướng, lại chẳng còn tư lự vọng tưởng, cho nên quan niệm “chấp trước ngu muội” tự nhiên chẳng còn nữa, chưa từng sinh khởi. Cảnh giới nầy, tất cả vô lượng vô biên Thanh Văn Bích Chi Phật không sao bằng được. Bồ Tát đã vào hạnh thâm sâu nầy, cũng lìa khỏi những sự huyên náo vô vị, tranh luận vô ích. Cảnh giới thanh tịnh tịch diệt tự nhiên sẽ hiện tiền.
Thí như Tỳ-kheo, cụ túc thần thông, đắc tâm tự tại, thứ đệ nãi chí nhập diệt tận định, nhất thiết động tâm, ức tưởng phân biệt tất giai chỉ tức.
Thử Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, trụ bất động địa, tức xả nhất thiết công dụng hạnh, đắc vô công dụng Pháp, thân, khẩu, ý nghiệp niệm vụ giai tức, trụ ư báo hạnh.
Ví như Tỳ Kheo đầy đủ thần thông, tâm được tự tại, lần lược cho đến nhập vào diệt tận định. Tất cả tâm động, nhớ tưởng, phân biệt, thảy đều ngừng bặc.
Đại Bồ Tát nầy cũng lại như vậy, trụ Bất Động địa, liền xả bỏ tất cả công dụng hạnh, được pháp vô công dụng, thân khẩu ý nghiệp niệm sự đều ngừng, trụ nơi báo hạnh.
Giảng: Ví như có một vị đại Tỳ kheo, tu hành có đại thần thông, tâm ý nhậm vận tự tại, quá trình tu hành thuận lợi từng bước từng bước, tiến nhập vào cửu thứ đệ định, đạt đến nhập vào cảnh giới diệt tận định. Ở giai đoạn diệt tận định, mạch máu đều ngừng, hơi thở ngừng hẳn, tất cả ý niệm cũng ngừng luôn, tất cả đủ thứ vọng tưởng hay khiến cho con người động tâm, phân biệt ý thức, đều ngừng hẳn. Vị đại Bồ Tát nầy cũng lại như vậy. Khi Ngài trụ tại Bất Động địa, thì xả bỏ tất cả tác ý nơi công đức có công dụng hạnh. Nhậm vận tự tại, tự nhiên mà nhiên, chẳng tu mà tu, chẳng trì mà trì, chứng được pháp vô công dụng đạo. Thân miệng ý ba nghiệp thanh tịnh, tất cả ý niệm ngoại vụ cũng đều ngừng dứt hẳn. An nhiên trụ nơi Bát địa, trụ nơi báo đắc thông của Bồ Tát chứng được, tự tại tu hành.
Thí như hữu nhân, mộng trung kiến thân đọa tại đại hà, vi dục độ cố, phát đại dũng mãnh, thí đại phương tiện; dĩ đại dũng mãnh, thí phương tiện cố, tức tiện giác ngụ, ký giác ngụ dĩ, sở tác giai tức.
Bồ Tát diệc nhĩ, kiến chúng sanh thân tại tứ lưu trung, vi cứu độ cố, phát đại dũng mãnh, khởi đại tinh tấn; dĩ dũng mãnh, tinh tấn cố, chí bất động địa; ký chí thử dĩ, nhất thiết công dụng mị bất giai tức, nhị hạnh/hành/hàng, tướng hạnh tất bất hiện tiền.
Ví như có người trong mộng mơ thấy mình rớt vào trong sông lớn, vì muốn lội qua, mà phát tâm đại dũng mãnh, hành đại phương tiện. Vì dùng tâm đại dũng mãnh, hành đại phương tiện, mà lập tức thức tỉnh. Khi đã thức tỉnh rồi, các việc làm đều dứt.
Bồ Tát cũng vậy, thấy thân chúng sinh ở trong bốn dòng, vì muốn cứu độ họ, mà phát tâm đại dũng mãnh, khởi đại tinh tấn. Nhờ dũng mãnh tinh tấn, mà đến được Bất Động địa nầy. Khi đã đến đây rồi, thì tất cả công dụng thảy đều dứt hết. Tướng hạnh của hai hạnh đều chẳng hiện tiền.
Giảng: Ví như có người ở trong mộng mơ thấy mình rớt vào trong sông lớn, vì muốn tìm cách lội qua bờ bên kia, bèn phát tâm đại dũng mãnh, nghĩ ra phương pháp dễ dàng nhất để thoát khỏi cái chết. Vì dùng sức lực mạnh nhất, mà lập tức tỉnh dậy. Tỉnh dậy rồi, thì thân đang nằm trên giường, những động tác tư tưởng ở trong mộng đều chẳng còn nữa, mộng cũng chẳng có hình ảnh tông tích gì hết. Bồ Tát tu hành độ sanh cũng lại như vậy.
Bồ Tát nhìn thấy tất cả chúng sinh ở trong bốn dòng ác tính: tham, sân, si, mạn (cũng có thể nói: đất, nước, gió, lửa, bốn dòng. Đủ thứ vọng tưởng, đều có thể gọi là dòng), vì muốn cứu độ những chúng sinh nầy, mà phát tâm nguyện lớn, dũng mãnh tinh tấn, ngày đêm không giải đãi, từng bước từng bước siêng năng tu học, tu đến Địa thứ tám – Bất Động địa. Đến được quả vị Địa thứ tám rồi, thì hữu công dụng hạnh tu chứng trong quá khứ, thảy đều dứt hết. Vì những gì tu ở trước Địa thứ tám, đều nương vào tâm hy vọng mà tu thành tựu. Sau Địa thứ tám, thì tâm hy vọng vô hình vô tướng tiêu diệt mất. Hai thứ tướng hạnh tự lợi lợi tha, đều chẳng còn nữa. Hai hạnh: Nương bên trong chứng thanh tịnh, sinh tử Niết bàn; hai tâm chẳng hành, cho nên đều không hiện tiền. Tướng hạnh: Nương ngoại duyên cảnh giới, thọ dụng niệm tưởng chẳng hành, cho nên nói tướng hạnh cũng đều không hiện tiền.
Phật tử! như sanh phạm thế, dục giới phiền não giai bất hiện tiền; trụ bất động địa diệc phục như thị, nhất thiết tâm, ý, thức hành giai bất hiện tiền. Thử Bồ-Tát Ma-ha-tát, Bồ Tát tâm, Phật tâm, Bồ-đề tâm, Niết-Bàn tâm thượng bất hiện khởi, huống phục khởi ư thế gian chi tâm!
Phật tử! Như sinh về cõi Phạm Thế, thì phiền não dục giới đều chẳng hiện tiền. Trụ Bất Động địa cũng lại như vậy. Tất cả tâm ý thức hành đều chẳng hiện tiền. Đại Bồ Tát nầy chẳng hiện khởi tâm Bồ Tát, tâm Phật, tâm bồ đề, tâm Niết bàn, hà huống lại khởi tâm thế gian.
Giảng: Bồ Tát Kim Cang Tạng lại gọi một tiếng các vị đệ tử của Phật! Giống như người trời sinh về cõi trời Đại Phạm Thiên, tuy phiền não của cõi lục dục Thiên đều chẳng có, nhưng vẫn có hình sắc. Bồ Tát trụ tại Địa thứ tám – Bất Động địa cũng như vậy, tất cả vọng tưởng do tâm ý thức sinh khởi, cuồng tâm vọng niệm đều đã tiêu diệt hết. Trong dục niệm, trong tám thức đều đã khử vọng tồn thành, chẳng có hiện tiền. Vị đại Bồ Tát Bát địa nầy, đã chứng được quả vị Bát địa rồi, chẳng giống như Bồ Tát ở các địa trước, từ Sơ địa cho đến địa nầy, niệm niệm phát tâm bồ đề không ngừng, tu hành Bồ Tát đạo, đều lấy thành tựu Phật quả làm mục đích. Đạt đến Địa thứ tám rồi, thì thành tựu phương tiện trí huệ, đạt đến cảnh giới vô công dụng hạnh. Lúc nầy, tâm của Bồ Tát thành tâm của Phật, tâm viên mãn bồ đề giác đạo, tâm vào Niết Bàn tịch diệt, những tâm có sự mong cầu, vọng tưởng, có sở đắc, đều đã diệt hết, không còn sinh lên nữa. Bồ Tát đã vào cảnh giới thanh tịnh nầy, thì sao còn khởi tâm niệm phàm phu thế gian nữa chứ ? Đương nhiên không còn nữa.
Phật tử! thử địa Bồ Tát bản nguyện lực cố, chư Phật Thế tôn thân hiện kỳ tiền dữ Như Lai trí, lệnh kỳ đắc nhập Pháp lưu môn trung, tác như thị ngôn: Thiện tai thiện tai! Thiện nam tử! thử nhẫn đệ nhất, thuận chư Phật Pháp.
Phật tử! Bồ Tát nầy do sức bổn nguyện, nên chư Phật Thế Tôn đích thân hiện ra ở trước mặt, ban cho Như Lai trí, khiến cho Ngài vào được trong môn pháp lưu. Nói như vầy: Lành thay! Lành thay! Thiện nam tử! Nhẫn đệ nhất nầy thuận các Phật pháp.
Giảng: Bồ Tát Kim Cang Tạng lại gọi một tiếng các vị đệ tử của Phật! Vị Bồ Tát Địa thứ tám nầy, nhờ sức đại nguyện thuở quá khứ, nên được mười phương chư Phật Thế Tôn, thường thường hiện ra ở trước mặt Ngài, gia bị cho Ngài, khiến cho Ngài đắc được trí huệ Như Lai, khiến cho Ngài vào được trong môn pháp lưu. Ý nghĩa pháp lưu là: khiến cho Ngài khởi vô công dụng hạnh, nhậm vận hướng vào biển trí huệ của Phật. Và còn nói với Bồ Tát nầy: “Tốt lắm! Tốt lắm! Thiện nam tử! Hiện tại ông chứng được cảnh giới “nhẫn” nầy là đệ nhất, chỉ cần ông tiến bộ về trước, thì sẽ khế hợp với Phật pháp”.
Nhiên Thiện nam tử! ngã đẳng sở hữu thập lực, vô úy, thập bát bất cộng chư Phật chi Pháp, nhữ kim vị đắc, nhữ ưng vi dục thành tựu thử pháp cần gia tinh tấn, vật phục phóng xả ư thử nhẫn môn.
Nhưng nầy thiện nam tử! Hết thảy mười lực, vô uý, mười tám pháp bất cộng của chư Phật, nay ông chưa đắc được. Ông phải vì muốn thành tựu pháp nầy, siêng năng tinh tấn, đừng xả bỏ môn nhẫn nầy.
Giảng: Nhưng mà này thiện nam tử! Hết thảy mười lực, bốn vô sở uý, mười tám pháp bất cộng của chư Phật, đủ thứ Phật pháp thù thắng nầy, hiện tại ông chưa tu thành tựu, ông phải tu tập thành tựu những Phật pháp nầy, mới hoàn thành tâm nguyện của ông. Cho nên ông phải siêng năng nỗ lực, tinh tấn học tập, đừng có ngừng xả bỏ môn nhẫn nầy, mà cho rằng đã đầy đủ.
Hựu Thiện nam tử! nhữ tuy đắc thị tịch diệt giải thoát, nhiên chư phàm phu vị năng chứng đắc, chủng chủng phiền não giai tất hiện tiền, chủng chủng giác quán thường tướng xâm hại, nhữ đương mẫn niệm như thị chúng sanh.
Lại nữa thiện nam tử! Tuy ông được tịch diệt giải thoát nầy, nhưng các phàm phu chưa chứng được. Đủ thứ phiền não thảy đều hiện tiền. Đủ thứ giác quán, thường xâm hại nhau, ông nên thương xót chúng sinh như thế.
Giảng: Chư Phật lại gọi một tiếng thiện nam tử! Dù ông đã chứng được tịch diệt giải thoát thật sự, ông cũng đắc được giải thoát vô câu vô thúc, vô quái vô ngại, được tự do, có thể tuỳ tâm sở nguyện. Nhưng những phàm phu họ chưa chứng được sự khoái lạc và sự giải thoát chân thật nầy, họ vẫn bị đủ thứ phiền não, luôn luôn quấy nhiễu, chẳng được tự do khoái lạc thật sự. Đủ thứ các giác quán ác, cũng thường xâm hại tâm ý của họ. Ông nên phát tâm đại bi, thương xót những chúng sinh nầy, lợi ích cho những chúng sinh nầy.
Hựu Thiện nam tử! nhữ đương ức niệm bổn sở thệ nguyện, phổ Đại nhiêu ích nhất thiết chúng sanh, giai lệnh đắc nhập bất khả tư nghị trí tuệ chi môn.
Lại nữa, thiện nam tử! Ông nên nhớ tới thệ nguyện xưa, làm lợi ích khắp tất cả chúng sinh, đều khiến cho họ được vào môn trí huệ không thể nghĩ bàn.
Giảng: Lại nữa này thiện nam tử! Ông phải luôn luôn nhớ đến thệ nguyện đã phát ra trong quá khứ, nương vào tâm rộng lớn mà ông đã phát, trên khế hợp Phật đạo, dưới hoá độ chúng sinh, khắp làm lợi ích cho chúng sinh, cũng khiến cho họ đắc được pháp môn trí huệ không thể nghĩ bàn. Mình đã đắc được trí huệ của Phật rồi, thì phải rộng lợi ích chúng sinh.
Hựu Thiện nam tử! thử chư Pháp pháp tánh, nhược Phật xuất thế, nhược bất xuất thế, thường trụ bất dị, chư Phật bất dĩ đắc thử pháp cố danh vi Như Lai, nhất thiết nhị thừa diệc năng đắc thử vô phân biệt Pháp.
Lại nữa thiện nam tử! Pháp tánh của các pháp nầy, nếu Phật ra đời, hoặc không ra đời, đều thường trụ không thay đổi. Chư Phật chẳng do được pháp nầy, nên gọi là Như Lai. Tất cả hàng nhị thừa cũng đắc được pháp không phân biệt nầy.
Giảng: Lại nữa nầy thiện nam tử! Pháp tính của các pháp nầy, vốn thường trụ không thay đổi, nó chẳng phải vì có Phật ra đời, hoặc không có Phật ra đời, mới thường trụ không thay đổi. Chư Phật chẳng phải vì đắc được chân lý thường trụ không thay đổi này mới thành Phật, mới gọi là Như Lai. Tất cả hàng nhị thừa Thanh văn Duyên giác cũng đắc được cảnh giới khoái lạc pháp tính không thay đổi, tịch diệt thường lạc, thanh tịnh giải thoát, khử vọng tồn chân. Cho nên hiện tại ông phải tiến tới tu học, tinh tấn không giải đãi, vì ông chưa đắc được trí huệ rốt ráo giống như Phật.
Hựu Thiện nam tử! nhữ quán ngã đẳng thân tướng, vô lượng trí tuệ, vô lượng quốc độ, vô lượng phương tiện, vô lượng quang minh, vô lượng thanh tịnh, âm thanh diệc vô hữu lượng; nhữ kim nghi ưng thành tựu thử sự.
Lại nữa thiện nam tử! Ông xem chư Phật chúng ta đây: Thân tướng vô lượng, trí huệ vô lượng, cõi nước vô lượng, phương tiện vô lượng, quang minh vô lượng, âm thanh thanh tịnh cũng vô lượng. Nay ông nên thành tựu những pháp nầy.
Giảng: Lại nữa nầy thiện nam tử! Ông hãy xem mười phương chư Phật chúng ta đây: Thân tướng, tướng tốt quang minh, đủ 32 tướng tốt 80 vẻ đẹp. Chẳng những như vậy mà là vô lượng tướng tốt, không thể nào hình dung hết được vô lượng tướng tốt trang nghiêm. Cõi nước ứng hoá của chư Phật cũng vô lượng. Chư Phật dùng pháp môn phương tiện giáo hoá chúng sinh, cũng vô số vô lượng. Trí huệ thù thắng của chư Phật cũng vô lượng vô biên. Chư Phật giáo hoá chúng sinh phát ra âm thanh thanh tịnh, khiến cho chúng sinh nghe rồi, thì diệt trừ được nhiệt não, an ổn mát mẻ, sức lực của Ngài cũng vô lượng vô biên. Đủ thứ nghiệp thiện ở trên, đều là sự nghiệp giáo hoá chúng sinh, ông phải tiếp tục siêng tu, thành tựu những pháp môn nầy, mới có năng lực lợi ích chúng sinh.
Hựu Thiện nam tử! nhữ kim thích đắc thử nhất pháp minh, sở vị: nhất thiết pháp vô sanh, vô phân biệt.
Thiện nam tử! Như Lai pháp minh, vô lượng nhập, vô lượng tác, vô lượng chuyển, nãi chí bách thiên ức na-do-tha kiếp bất khả đắc tri; nhữ ưng tu hành, thành tựu thử pháp.
Lại nữa thiện nam tử! Nay ông vừa được một pháp minh nầy. Đó là tất cả pháp không sinh, không phân biệt.
Thiện nam tử! Pháp minh của Như Lai, vô lượng nhập, vô lượng tác, vô lượng chuyển, cho đến trăm ngàn ức Na do tha kiếp, không thể biết được. Ông nên tu hành để thành tựu pháp nầy.
Giảng: Lại nữa nầy thiện nam tử! Hiện tại ông vừa từ Địa thứ bảy nhập vào Địa thứ tám, đắc được tất cả cảnh giới bất động, tất cả dừng lại – niệm, mạch máu, hơi thở, đều đã ngừng lại. Ông đắc được pháp trí huệ quang minh nầy rồi, thì biết được tất cả pháp là không phân biệt, đó là “Chẳng thấy có chút pháp sinh, cũng chẳng thấy có chút pháp diệt”, pháp thì không sinh không diệt, không thể dùng ngôn ngữ đạo đoạn để thuyết minh.
Thiện nam tử! Ông nên biết, chư Phật chứng được tất cả pháp trí huệ quang minh, là: Vô lượng nhập, nhập vào tất cả pháp. Vô lượng tác, làm tất cả pháp. Vô lượng chuyển, chuyển tất cả pháp. Thậm chí trải qua trăm ngàn ức Na do tha kiếp thời gian, cũng chẳng cách chi biết được cảnh giới của chư Phật. Hiện tại ông không thể dừng lại Địa thứ tám Bất động địa, ông nên dũng mãnh tinh tấn tiến về trước siêng tu học, để thành tựu những pháp môn nầy.
Hựu Thiện nam tử! nhữ quán thập phương vô lượng quốc độ, vô lượng chúng sanh, vô lượng Pháp, chủng chủng sái biệt, tất ưng như thật thông đạt kỳ sự.
Lại nữa thiện nam tử! Ông xem mười phương vô lượng cõi nước, vô lượng chúng sinh, vô lượng pháp, đủ thứ sự khác biệt, đều nên thông đạt những việc ấy như thật.
Giảng: Lại nữa này Phật tử! Ông nên quán sát tỉ mỉ cõi nước mười phương chư Phật, vô lượng vô biên. Mười phương chúng sinh cũng vô lượng vô số. Vô lượng pháp cũng đủ thứ sự khác nhau. Đủ thứ như vậy, ông nên minh bạch thông đạt những sự tướng chân thật đó.
Phật tử! chư Phật Thế tôn dữ thử Bồ Tát như thị đẳng vô lượng khởi trí môn, lệnh kỳ năng khởi vô lượng vô biên sái biệt trí nghiệp.
Phật tử! Chư Phật Thế Tôn ban cho Bồ Tát nầy vô lượng môn khởi trí như vậy, khiến cho Ngài có thể khởi vô lượng vô biên trí nghiệp khác biệt.
Giảng: Bồ Tát Kim Cang Tạng lại gọi một tiếng các vị đệ tử của Phật! Mười phương chư Phật được trời người tôn kính, ban cho Bồ Tát Địa thứ tám vô lượng vô biên pháp môn có thể phát khởi trí huệ như đã nói ở trên, khiến cho Bồ Tát Địa thứ tám đắc được vô lượng vô biên pháp ích, sinh khởi vô lượng vô biên trí huệ khác biệt, làm đủ thứ thiện nghiệp.
Phật tử! nhược chư Phật bất dữ thử Bồ Tát khởi trí môn giả, bỉ thời tức nhập cứu cánh Niết Bàn, khí xả nhất thiết lợi chúng sanh nghiệp.
Dĩ chư Phật dữ như thị đẳng vô lượng vô biên khởi trí môn cố, ư nhất niệm khoảnh sở sanh trí nghiệp, tùng sơ phát tâm nãi chí thất địa sở tu chư hạnh, bách phân bất cập nhất, nãi chí bách thiên ức na-do-tha phần diệc bất cập nhất; như thị, a-tăng-kì phần, Ca la phần, toán số phần, thí dụ phần, ưu ba ni sa đà phần, diệc bất cập nhất.
Phật tử! Nếu chư Phật không ban cho Bồ Tát nầy môn khởi trí, thì Bồ Tát nầy liền nhập vào cứu kính Niết bàn, xả bỏ tất cả nghiệp thiện lợi ích chúng sinh.
Nhờ chư Phật ban cho môn khởi trí vô lượng vô biên như vậy, nên trong khoảng một niệm, sinh ra trí nghiệp. Các hạnh tu từ lúc ban đầu phát tâm cho đến Địa thứ bảy, trăm phần chẳng bằng một. Cho đến trăm ngàn ức Na do tha phần cũng chẳng bằng một. Như vậy A tăng kỳ phần, Ca la phần, số toán phần, ví dụ phần, Ưu ba ni sa đà phần, cũng chẳng bằng một.
Giảng: Bồ Tát Kim Cang Tạng lại gọi một tiếng các vị đệ tử của Phật! Giả sử mười phương chư Phật chẳng ban cho Bồ Tát Địa thứ tám pháp môn khởi phát trí huệ, thì Bồ Tát nầy liền chứng nhập cứu kính Niết bàn, xả bỏ công đức nghiệp thiện lợi ích chúng sinh. Vì Ngài được ít cho là đủ, chẳng làm những việc giáo hoá lợi sinh.
Nhờ mười phương chư Phật ban cho Bồ Tát vô lượng vô biên pháp môn khởi phát trí huệ, cho nên Bồ Tát trong khoảng một niệm, sinh ra tất cả trí huệ nghiệp lực. Thứ trí nghiệp nầy so với công đức tu hành từ lúc ban đầu phát tâm cho đến Địa thứ bảy, chẳng bằng một phần trí huệ sinh khởi của Địa thứ tám nầy. Thậm chí trăm ngàn ức Na do tha phần cũng chẳng bằng một phần lúc nầy. Như số A tăng kỳ phần lớn nhất, Ca lợi phần nhỏ nhất, dùng thiên văn chữ số để tính, dùng ví dụ để nói, dùng Ưu ba ni sa đà phần, cũng đều tính không được. Bất cứ dùng số lớn số nhỏ đều không bằng một phần sau khi phát khởi môn trí huệ nầy.
Hà dĩ cố? Phật tử! thị Bồ Tát tiên dĩ nhất thân khởi hạnh/hành/hàng, kim trụ thử địa, đắc vô lượng thân, vô lượng âm thanh, vô lượng trí tuệ, vô lượng thọ sanh, vô lượng tịnh quốc, giáo hóa vô lượng chúng sanh, cúng dường vô lượng chư Phật, nhập vô lượng Pháp môn, cụ vô lượng thần thông, hữu vô lượng chúng hội đạo tràng sái biệt, trụ vô lượng thân, ngữ, ý nghiệp tập nhất thiết Bồ Tát hạnh, dĩ bất động pháp cố.
Tại sao? Phật tử! Vì Bồ Tát nầy trước hết dùng một thân khởi hành, nay trụ địa nầy, được vô lượng thân, vô lượng âm thanh, vô lượng trí huệ, vô lượng thọ sinh, vô lượng tịnh quốc, giáo hoá vô lượng chúng sinh, cúng dường vô lượng chư Phật, vào vô lượng pháp môn, đủ vô lượng thần thông, có vô lượng chúng hội đạo tràng khác biệt, trụ vô lượng thân lời ý nghiệp, tu tập tất cả Bồ Tát hạnh, do pháp bất động vậy.
Giảng: Tại sao vậy? Các vị đệ tử của Phật! Vì vị Bồ Tát nầy từ lúc ban đầu Ngài phát tâm bồ đề, dùng một thân làm đối tượng. Hiện tại Ngài tu chứng đến cảnh giới Địa thứ tám vô công dụng hạnh, đã có phương tiện trí huệ thần thông diệu dụng, nhậm vận tự như, có thể thiên biến vạn hoá, biến hoá ra vô lượng thân. Lại có vô lượng âm thanh, đây cũng có thể dùng truyền thanh để ví dụ, tại một nơi có thể truyền đến vô lượng chỗ, đều nghe được. Trí huệ cũng vô lượng vô biên, lấy không hết, dùng không cạn. Ngài cũng có thể tuỳ ý thọ đủ thứ sinh, đủ thứ chết. Cũng có vô lượng cõi nước thanh tịnh, đồng thời cũng hay thanh tịnh vô lượng cõi nước. Cũng hay giáo hoá vô lượng vô biên đủ thứ chúng sinh. Cũng hay cúng dường vô lượng mười phương chư Phật. Cũng có thể thâm nhập vô lượng pháp môn. Cũng đầy đủ vô lượng thần thông diệu dụng. Lại có vô lượng chúng hội đạo tràng khác nhau. Trụ nhập vô lượng vô biên thân ngữ ý nghiệp thanh tịnh. Tu tập tất cả thiện hạnh của Bồ Tát nên tu. Đó đều do đắc được tam muội pháp môn bất động. Do vô tướng vô công dụng gián đoạn, tướng dụng bất động, nhậm vận tập thành. Tất cả bất động, dùng bất biến ứng vạn hoá, cho nên có thể hoá thân trăm ngàn ức.
Phật tử! thí như thừa thuyền dục nhập đại hải, vị chí ư hải, đa dụng công lực; nhược chí hải dĩ, đãn tùy phong khứ, bất giả nhân lực dĩ chí đại hải, nhất nhật sở hạnh bỉ ư vị chí, kỳ vị chí thời thiết kinh bách tuế diệc bất năng cập.
Phật tử! Ví như ngồi thuyền muốn vào biển lớn. Chưa đến biển thì dùng nhiều công sức. Nếu đến biển rồi, thì chỉ theo gió mà đi, chẳng mượn sức người, vào đến biển lớn. Những gì làm trong một ngày, sánh với chưa đến. Lúc chưa đến thì ví như trải qua trăm năm cũng chẳng bằng lúc đã vào biển.
Giảng: Bồ Tát Kim Cang Tạng lại gọi một tiếng các vị đệ tử của Phật! Ví như ngồi một chiếc thuyền buồm lớn, muốn đi vào biển lớn. Khi thuyền chưa vào biển thì phải dùng nhiều công sức người, mới có thể làm cho nó đi mau vào trong biển. Dụng công phu lớn, thời gian nhiều, lại rất chậm. Khi Thuyền đã vào trong biển rồi, thì thuyền sẽ theo sức gió mà đi, chỉ cần thêm chút ít sức người, thì rất thuận lợi tiến về trước. Lộ trình đi như vậy sánh với người sớm dùng nhiều công sức người mà đi rất chậm, khi chưa vào tới biển, hiện tại lộ trình thuyền đi một ngày, e rằng trải qua trăm năm cũng không bằng hiện tại đi một ngày khi thuyền đã vào biển rồi.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, tích tập quảng đại thiện căn tư lương, thừa Đại-Thừa thuyền đáo Bồ Tát hạnh hải, ư nhất niệm khoảnh dĩ vô công dụng trí nhập nhất thiết trí trí cảnh giới, bổn hữu công dụng hạnh/hành/hàng Kinh ư vô lượng bách thiên ức na-do-tha kiếp sở bất năng cập.
Phật tử! Đại Bồ Tát cũng lại như thế, tích tập căn lành tư lương rộng lớn, ngồi thuyền đại thừa, đến biển Bồ Tát hạnh. Trong khoảng một niệm, dùng trí vô công dụng, vào cảnh giới trí nhất thiết trí. Nếu có công dụng hạnh, thì dù trải qua vô lượng trăm ngàn ức Na do tha kiếp, cũng không bằng được.
Giảng: Bồ Tát Kim Cang Tạng lại gọi một tiếng các vị đệ tử của Phật! Đại Bồ Tát cũng như thế. Bồ Tát tu hành tích tập vô lượng vô biên tư lương, ngồi thuyền Phật pháp đại thừa đi vào biển Bồ Tát hạnh trí vô sinh, có thể ở trong một niệm, dùng trí huệ vô công dụng, tức là không chấp vào tướng mà chẳng cần dùng tâm ý trí huệ, mà thâm nhập vào cảnh giới trí huệ nhất thiết trí tối thượng tối thù thắng. Nếu có công dụng hạnh – tức do nguyện lực và phát tâm mà từng chút từng chút tu được công dụng, tuy trải qua vô lượng trăm ngàn vạn ức Na do tha kiếp, như vậy cũng không thể sánh bằng hiện tại – Khoảng một niệm của Địa thứ tám, có thể thành tựu môn trí huệ vô công dụng hạnh.
Phật tử! Bồ-tát trụ thử đệ bát địa, dĩ Đại phương tiện thiện xảo trí sở khởi vô công dụng giác tuệ, quán nhất thiết trí trí sở hạnh cảnh. Sở vị: quán thế gian thành, quán thế gian hoại; do thử nghiệp tập cố thành, do thử nghiệp tận cố hoại. Kỷ thời thành? kỷ thời hoại? kỷ thời thành trụ? kỷ thời hoại trụ? giai như thật tri.
Phật tử! Bồ Tát trụ Địa thứ tám nầy, dùng trí đại phương tiện khéo léo khởi vô công dụng giác huệ, quán cảnh giới sở hành của trí nhất thiết trí. Đó là quán thế gian thành, quán thế gian hoại. Do nghiệp nầy tập nên thành, do nghiệp nầy hết nên hoại. Bao nhiêu thời thành, bao nhiêu thời hoại, bao nhiêu thời thành trụ, bao nhiêu thời hoại trụ, đều biết như thật.
Giảng: Các vị đệ tử của Phật! Bồ Tát tu hành Bồ Tát đạo, tích tập đủ thứ căn lành, khi Ngài đã tiến vào Địa thứ tám rồi, thì dùng trí huệ giác ngộ vô công dụng, không làm mà làm, không dụng mà dụng; không tu mà tu, không chứng mà chứng, để quán sát tất cả cảnh giới tu hành trí huệ tối thượng. Giống như quán sát thế giới nầy thành tựu như thế nào? Lại quán sát thế giới nầy huỷ hoại như thế nào? Nhân tố thành hoại đều do chúng sinh tạo nghiệp thiện ác tích tụ mà thành. Thời kỳ thành gọi là kiếp thành. Đợi đến lúc những nghiệp thiện ác hết rồi, thì gọi là kiếp hoại. Khi nào thành? Khi nào hoại? Khi nào thành trụ? Khi nào lại hoại trụ? Vũ trụ biến hoá không thể nghĩ bàn như vậy, Bồ Tát đều biết rõ ràng.
Hựu tri địa giới tiểu tướng, Đại tướng, Vô-Lượng-Tướng, sái biệt tướng, tri thủy, hỏa, phong giới tiểu tướng, Đại tướng, Vô-Lượng-Tướng, sái biệt tướng, tri vi trần tế tướng, sái biệt tướng, vô lượng sái biệt tướng. Tùy hà thế giới trung sở hữu vi trần tụ cập vi trần sái biệt tướng, giai như thật tri;
Lại biết địa giới, tướng nhỏ, tướng lớn, vô lượng tướng, tướng khác biệt. Biết thuỷ hoả phong giới, tướng nhỏ, tướng lớn, vô lượng tướng, tướng khác biệt. Biết tướng hạt bụi vi tế, tướng khác biệt, vô lượng tướng khác biệt. Tuỳ theo trong thế giới nào có hạt bụi tụ lại, và tướng hạt bụi khác biệt, đều biết như thật.
Giảng: Lại biết địa cầu là nhỏ, hoặc là lớn, hoặc là vô lượng tướng, hoặc những địa cầu đó đều có tướng khác nhau. Lại biết thuỷ, hoả, phong giới tướng nhỏ tướng lớn, hoặc vô lượng tướng, các thứ đều khác nhau. Lại biết tướng hạt bụi vi tế, tướng khác biệt, tướng chẳng giống nhau. Tuỳ theo ở trong thế giới nào, hết thảy hạt bụi tụ lại với nhau, và tướng trạng hạt bụi khác biệt, Bồ Tát đều biết như thật.
Tùy hà thế giới trung sở hữu địa, thủy, hỏa, phong giới các nhược can vi trần, sở hữu bảo vật nhược can vi trần, chúng sanh thân nhược can vi trần, quốc độ thân nhược can vi trần, giai như thật tri. Tri chúng sanh đại thân, tiểu thân các nhược can vi trần thành, tri địa ngục thân, súc sanh thân, ngạ quỷ thân, A-tu-la thân, Thiên thân, nhân thân các nhược can vi trần thành, đắc như thị tri vi trần sái biệt trí.
Tuỳ theo trong thế giới nào, hết thảy địa thuỷ hoả phong giới, mỗi thứ có bao nhiêu hạt bụi. Hết thảy báu vật có bao nhiêu hạt bụi. Thân chúng sinh có bao nhiêu hạt bụi. Thân cõi nước có bao nhiêu hạt bụi, đều biết như thật. Biết chúng sinh thân lớn, thân nhỏ, có bao nhiêu hạt bụi mà thành. Biết thân địa ngục, thân súc sinh, thân ngạ quỷ, thân A tu la, thân trời, thân người, có bao nhiêu hạt bụi mà thành. Bồ Tát đắc được trí biết hạt bụi khác biệt như vậy.
Giảng: Bất cứ ở trong thế giới nào, hết thảy địa, thuỷ, hoả, phong, giới hạn bốn đại, mỗi thứ có bao nhiêu hạt bụi. Hết thảy báu vật như vàng, bạc, lưu ly, xích châu, mã não, xa cừ, có bao nhiêu hạt bụi. Lại biết thân chúng sinh có bao nhiêu hạt bụi. Lại biết có bao nhiêu hạt bụi mới hợp thành cõi nước. Tri thức vi diệu như vậy, Bồ Tát đều biết như thật. Lại biết trong thân chúng sinh lớn có bao nhiêu hạt bụi mà thành, trong thân chúng sinh nhỏ có bao nhiêu hạt bụi mới thành tựu. Lại biết thân chúng sinh địa ngục, và các thứ thân súc sinh, tất cả thân ngạ quỷ, thân A tu la v.v… mỗi thứ thân có bao nhiêu hạt bụi? Thân chúng sinh trên trời có bao nhiêu hạt bụi? Thân con người có bao nhiêu hạt bụi mới thành tựu? Bồ Tát đắc được trí huệ thắng diệu biết hạt bụi khác biệt như vậy.
Hựu tri dục giới, sắc giới, vô sắc giới thành, tri dục giới, sắc giới, vô sắc giới hoại, tri dục giới, sắc giới, vô sắc giới tiểu tướng, Đại tướng, Vô-Lượng-Tướng, sái biệt tướng, đắc như thị quán tam giới sái biệt trí.
Lại biết dục giới, sắc giới, vô sắc giới thành. Biết dục giới, sắc giới, vô sắc giới hoại. Biết dục giới, sắc giới, vô sắc giới tướng nhỏ, tướng lớn, vô lượng tướng, tướng khác biệt. Bồ Tát đắc được trí quán tam giới khác biệt như vậy.
Giảng: Bồ Tát lại biết dục giới thành như thế nào? Sắc giới thành như thế nào? Vô sắc giới thành như thế nào? Lại biết dục giới, sắc giới, vô sắc giới, hoại như thế nào? Lại biết dục giới, sắc giới, vô sắc giới, tướng lớn tướng nhỏ, vô lượng vô số tướng, đủ thứ tướng chẳng giống, đủ thứ tướng khác biệt. Bồ Tát đắc được trí huệ thượng diệu quán sát được tam giới thành, hoại, đủ thứ tướng trạng khác biệt như vậy.
Phật tử! thử Bồ Tát phục khởi trí minh, giáo hóa chúng sanh. Sở vị: thiện tri chúng sanh thân sái biệt, thiện phân biệt chúng sanh thân, thiện quan sát sở sanh xứ; tùy kỳ sở ưng nhi vi hiện thân, giáo hóa thành thục.
Phật tử! Bồ Tát nầy lại khởi trí quang minh, giáo hoá chúng sinh. Đó là khéo biết thân chúng sinh khác biệt, khéo phân biệt thân chúng sinh, khéo quán sát nơi sinh, tuỳ sở ứng của họ mà vì họ hiện thân, để giáo hoá thành thục.
Giảng: Bồ Tát Kim Cang Tạng lại gọi một tiếng các vị đệ tử của Phật! Vị Bồ Tát trụ tại Địa thứ tám nầy, lại sinh khởi trí huệ sáng, dùng để giáo hoá chúng sinh. Ngài biết hết thảy chúng sinh rất rõ ràng, thân tướng của họ khác nhau, loại thân khác nhau, căn tánh trí ngu khác nhau. Lại có thể quán sát nơi thọ sinh của những chúng sinh nầy cũng khác nhau. Ngài có thể tuỳ theo thân tướng khác nhau, biệt loại khác nhau, trí ngu chẳng đồng, căn tánh khác nhau; ứng với sự mong cầu của chúng sinh, tuỳ loại mà vị họ hiện thân, để giáo hoá họ. Đây cũng như trong phẩm Phổ Môn có nói: “Người đáng dùng thân Phật độ được, thì Ngài liền hiện thân Phật để vì họ nói pháp. Người đáng dùng thân Bồ Tát độ được, thì Ngài liền hiện thân Bồ Tát để vì họ nói pháp. Người đáng dùng thân Bích Chi Phật độ được, thì Ngài liền hiện thân Bích Chi Phật để vì họ nói pháp. Người đáng dùng thân Thanh văn độ được, thì Ngài liền hiện thân Thanh văn để vì họ nói pháp .v.v… cho đến người đáng dùng thân đồng nam, đồng nữ, độ được, thì Ngài liền hiện thân đồng nam, thân đồng nữ, để vì họ nói pháp”. Đoạn Kinh văn ở trên nói rõ là: “Tuỳ theo sở ứng mà vì họ hiện thân, để giáo hoá thành thục”. Giáo hoá chúng sinh, là trợ giúp chúng sinh thành thục quả vị bồ đề.
Thử Bồ Tát ư nhất tam thiên đại thiên thế giới, tùy chúng sanh thân tín giải sái biệt, dĩ trí quang minh phổ hiện thọ sanh; như thị, nhược nhị, nhược tam, nãi chí bách thiên, nãi chí bất khả thuyết tam thiên đại thiên thế giới, tùy chúng sanh thân tín giải sái biệt, phổ ư kỳ trung thị hiện thọ sanh. Thử Bồ Tát thành tựu như thị trí tuệ cố, ư nhất Phật sát kỳ thân bất động, nãi chí bất khả thuyết Phật sát chúng hội trung tất hiện kỳ thân.
Bồ Tát nầy ở trong ba ngàn đại thiên thế giới, tuỳ theo thân chúng sinh tin hiểu khác nhau, dùng trí quang minh, khắp hiện thọ sinh. Như vậy, hoặc hai, hoặc ba, cho đến trăm ngàn, cho đến bất khả thuyết ba ngàn đại thiên thế giới. Tuỳ thân chúng sinh tin hiểu khác nhau, khắp ở trong đó thị hiện thọ sinh. Bồ Tát nầy thành thục trí huệ như vậy, nên ở trong một cõi Phật, thân Ngài bất động, cho đến ở trong bất khả thuyết chúng hội cõi Phật, đều hiện thân Ngài.
Giảng: Vị Bồ Tát Địa thứ tám nầy, Ngài ở trong ba ngàn đại thiên thế giới, Ngài tuỳ theo loại thân chúng sinh khác nhau và căn tánh tin hiểu khác nhau của chúng sinh, mà thọ sinh trong đó.
Bồ Tát thọ sinh là căn cứ theo nguyện lực, dùng sức trí huệ mà ứng khắp tuỳ chúng sinh mà thọ sinh. Bồ Tát không những chỉ ở trong một cái ba ngàn đại thiên thế giới như vậy, mà trong hai cái ba ngàn đại thiên thế giới, ba cái ba ngàn đại thiên thế giới, cho đến trăn ngàn cái ba ngàn đại thiên thế giới, cho đến bất khả thuyết cái trăm ngàn đại thiên thế giới, Ngài đều tuỳ thân loại, căn tánh, tin hiểu khác nhau của chúng sinh, mà khắp hiện thân ở trong những chúng sinh đó, dùng đại nguyện lực đại trí huệ thị hiện thọ sinh. Vì Bồ Tát địa thứ tám nầy Ngài đã thành tựu đại trí huệ vi diệu thù thắng, cho nên Ngài có thể ở trong một cõi Phật, thân thể bất động, thân tướng cũng chẳng biến hoá, thậm chí có thể đến trong bất khả thuyết cõi Phật hết thảy đại pháp hội hiện ra thân tướng của Ngài, cho nên nói Bát địa là Bất Động địa. Bát địa Bồ Tát là “Chẳng động mà khắp cùng pháp giới, chẳng tu mà đầy khắp tất cả hạnh môn”.
Phật tử! thử Bồ Tát tùy chư chúng sanh thân tâm tín giải chủng chủng sái biệt, ư bỉ Phật quốc chúng hội chi trung nhi hiện kỳ thân. sở vị: ư Sa Môn chúng trung thị Sa Môn hình, Bà-la-môn chúng trung thị Bà-la-môn hình, sát lợi chúng trung thị sát lợi hình; như thị, tỳ xá chúng, thủ đà chúng, Cư-sĩ chúng, Tứ Thiên Vương chúng, tam thập tam thiên chúng, dạ ma thiên chúng, Đâu-Xuất-Đà Thiên Chúng, Hoá Lạc Thiên chúng, Tha-Hoá Tự-Tại Thiên Chúng, ma chúng, phạm chúng, nãi chí A Ca Ni Trá Thiên Chúng trung, các tùy kỳ loại nhi vi hiện hình.
Giảng: Phật tử! Bồ Tát nầy tuỳ thân tâm tin hiểu, đủ thứ khác biệt của các chúng sinh, ở trong cõi Phật chúng hội đó, mà hiện thân Ngài. Như là: Ở trong chúng Sa môn, thì hiện thân Sa môn. Ở trong chúng Bà la môn thì hiện thân Bà la môn. Ở trong chúng Sát đế lợi thì hiện thân Sát đế lợi. Như vậy ở trong chúng Tỳ xá, chúng Thủ đà là, chúng cư sĩ, chúng Tứ Thiên Vương, chúng trời Tam Thập Tam, chúng trời Dạ Ma, chúng trời Đâu Suất Đà, chúng trời Hoá Lạc, chúng trời Tha Hoá Tự Tại, chúng ma, chúng Phạm Thiên, cho đến chúng trời Hữu Đỉnh, tuỳ các chúng loại, mà vị họ hiện thân.
Bồ Tát Kim Cang Tạng lại gọi một tiếng các vị đệ tử của Phật! Vị Bồ Tát trụ tại Địa thứ tám nầy, Ngài tuỳ theo thân tâm hoan hỉ, tin hiểu, đủ thứ thân hình khác nhau của chúng sinh, mà ở trong cõi nước của mười phương ba đời chư Phật, ở trong các đại chúng hội, tuỳ cảm mà ứng hiện. Dùng phương tiện tự tại thần thông trí huệ của Bồ Tát Bát địa, mà hiển hiện các thứ thân tướng vi diệu khác nhau. Nếu ở trong Sa môn – Tỳ kheo hoặc Tỳ kheo ni xuất gia, thì thị hiện thân tướng Sa môn, rộng nói pháp yếu. Nếu ở trong đại chúng Bà la môn chuyên tu tịnh hạnh, thì Ngài hiện thân tướng Bà la môn để vì họ nói pháp. Nếu ở trong dòng dõi Sát đế lợi tôn quý, thì Ngài hiện thân tướng Sát đế lợi để vì họ nói pháp.
Nếu ở trong chúng Tỳ xá – một trong bốn giai cấp ở Ấn độ, thì Ngài hiện thân tướng người Tỳ xá để vì họ nói pháp. Nếu ở trong chúng người Thủ đà la – một trong bốn giai cấp ở Ấn độ. Cho đến ở trong chúng cư sĩ tin phụng Phật giáo, ở trong chúng trời Tứ Thiên Vương, trong chúng trời Tam Thập Tam, trong chúng trời Dạ Ma, trong chúng trời Đâu Suất Đà, trong chúng trời Hoá Lạc, trong chúng trời Tha Hoá Tự Tại, thậm chí ở trong chúng ma con ma cháu, hoặc ở trong chúng Đại Phạm Thiên, và trong chúng trời Hữu Đỉnh, chẳng phân biệt quý tiện, Bồ Tát Bát địa đều tuỳ theo tâm nguyện, ứng cơ giáo hoá, thích ứng thân loại khác nhau, tuỳ loại hiện thân. Ngài dùng từ bi bình đẳng, dùng thân phận đồng loại đồng sự mà hiển hiện nói pháp.
Hựu ưng dĩ Thanh văn thân đắc độ giả, hiện Thanh văn hình; ưng dĩ Bích Chi Phật thân đắc độ giả, hiện Bích Chi Phật hình; ưng dĩ Bồ Tát thân đắc độ giả, hiện Bồ Tát hình; ưng dĩ Như Lai thân đắc độ giả, hiện Như Lai hình.
Lại nữa, người đáng dùng thân Thanh Văn độ được, thì hiện thân Thanh Văn. Người đáng dùng thân Bích Chi Phật độ được, thì hiện thân Bích Chi Phật. Người đáng dùng thân Bồ Tát độ được, thì hiện thân Bồ Tát. Người đáng dùng thân Như Lai độ được, thì hiện thân Như Lai.
Giảng: Nếu gặp người căn tánh hoan hỉ nghe pháp môn Tứ diệu đế, thì Ngài hiện thân tướng Thanh Văn để vì họ nói pháp môn Tứ diệu đế, trợ giúp họ sớm chứng quả vị Thanh Văn. Nếu người căn tánh hoan hỉ tu pháp môn nhân duyên, thì Ngài hiện thân tướng Bích Chi Phật để vì họ nói pháp môn mười hai nhân duyên, khiến cho họ sớm chứng được pháp mười hai nhân duyên, đắc được quả vị Bích Chi Phật. Nếu gặp người lợi căn tâm lớn, hoan hỉ tu lục độ vạn hạnh, thì Ngài hiện thân tướng Bồ Tát, để vì họ nói pháp lục độ vạn hạnh, tu Bồ Tát hạnh, hành Bồ Tát đạo, khiến cho họ sớm thành tựu công hạnh Bồ Tát. Nếu gặp người thượng căn đại nguyện đại lực phát tâm bồ đề, thì Ngài thị hiện thân tướng Như Lai, phước huệ đầy đủ, ba giác viên mãn, ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp, để vì họ nói con đường thành Phật, khiến cho họ sớm chứng quả Phật.
Phật tử! Bồ Tát như thị ư nhất thiết bất khả thuyết Phật quốc độ trung, tùy chư chúng sanh tín lạc sái biệt, như thị như thị nhi vi hiện thân.
Phật tử! thử Bồ Tát viễn ly nhất thiết thân tưởng phân biệt, trụ ư bình đẳng.
Phật tử! Bồ Tát ở trong tất cả bất khả thuyết cõi Phật như vậy, tuỳ lòng tin ưa thích khác nhau của các chúng sinh, mà vị họ hiện thân như vậy.
Phật tử! Bồ Tát nầy xa lìa tưởng phân biệt tất cả thân, trụ nơi bình đẳng.
Giảng: Bồ Tát Kim Cang Tạng lại gọi một tiếng các vị đệ tử của Phật ! Tướng trạng của Bồ Tát Bát địa như đã nói ở trên, ở trong tất cả bất khả thuyết vô lượng cõi nước, phương tiện tự tại, tuỳ theo vô lượng tin hiểu khác nhau, sự ưa thích khác nhau của chúng sinh, mà tuỳ cơ ứng hiện, để vì tất cả chúng sinh diễn nói pháp môn khế hợp với căn cơ của họ, giáo hoá họ.
Các vị đệ tử của Phật! Bồ Tát Bát địa nầy, tuy nhiên Ngài tuỳ duyên thị hiện đủ thứ thân tướng, nhưng trong ý niệm của Ngài, vốn chẳng có thân tướng tồn tại. Tuy hiện thân mà chẳng chấp vào tất cả hình tướng, chẳng có mọi ý niệm phân biệt tưởng tượng nào cả. Ngài đối với hết thảy chúng sinh đều bình đẳng như nhau.
Thử Bồ Tát tri chúng sanh thân, quốc độ thân, nghiệp báo thân, Thanh văn thân, độc giác thân, Bồ Tát thân, Như Lai thân, trí thân, Pháp thân, hư không thân.
Bồ Tát nầy biết thân chúng sinh, thân cõi nước, thân nghiệp báo, thân Thanh Văn, thân Độc Giác, thân Bồ Tát, thân Như Lai, thân trí, thân pháp, thân hư không.
Giảng: Bồ Tát trụ tại Địa thứ tám, Ngài hiểu rõ tất cả loại thân chúng sinh, cũng biết rõ hết thảy hình trạng địa lý cõi nước, cũng biết các loại thân tướng chúng sinh khác nhau và nghiệp báo nhân duyên thọ sinh cõi nước, cũng biết các bậc Thánh như Thanh văn, Độc giác, Bồ Tát. Thân tướng chứng đắc quả vị của Như Lai, là tuỳ trí gì, tu pháp môn gì mà chứng được thân trí huệ. Pháp thân vi diệu, và thân hư không chẳng hai đồng hư không vô biên không có bờ mé. Những nhân duyên diệu lý nầy, Bồ Tát Bát địa đều thấu rõ như chỉ trong bàn tay.
Thử Bồ Tát tri chư chúng sanh tâm chi sở lạc, năng dĩ chúng sanh thân tác tự thân, diệc tác quốc độ thân, nghiệp báo thân, nãi chí hư không thân.
Hựu tri chúng sanh tâm chi sở lạc, năng dĩ quốc độ thân tác tự thân, diệc tác chúng sanh thân, nghiệp báo thân, nãi chí hư không thân.
Hựu tri chư chúng sanh tâm chi sở lạc, năng dĩ nghiệp báo thân tác tự thân, diệc tác chúng sanh thân, quốc độ thân, nãi chí hư không thân.
Hựu tri chúng sanh tâm chi sở lạc, năng dĩ tự thân tác chúng sanh thân, quốc độ thân, nãi chí hư không thân.
Bồ Tát nầy biết tâm ưa thích của các chúng sinh, hay dùng thân chúng sinh làm thân mình, cũng làm thân cõi nước, thân nghiệp báo, cho đến thân hư không.
Lại nữa, Bồ Tát biết tâm ưa thích của chúng sinh, hay dùng thân cõi nước làm thân mình, cũng làm thân chúng sinh, thân nghiệp báo, cho đến thân hư không.
Lại nữa, Bồ Tát biết tâm ưa thích của các chúng sinh, hay dùng thân nghiệp báo làm thân mình, cũng làm thân chúng sinh, thân cõi nước, cho đến thân hư không.
Lại nữa, Bồ Tát biết tâm ưa thích của chúng sinh, hay dùng thân mình làm thân chúng sinh, thân cõi nước, cho đến thân hư không.
Giảng: Vị Bồ Tát Bát địa nầy, Ngài biết sự hoan hỉ ưa thích trong tâm của tất cả chúng sinh, loại chúng sinh nầy ưa thích cái gì, loại chúng sinh kia ưa thích cái gì, Ngài đều hiểu rõ hết, do đó, Ngài dùng phương pháp khế hợp với họ để thi hành giáo hoá. Ngài hay dùng thân chúng sinh làm thân của chính mình, với chúng sinh dung làm một thể.
Có lúc Bồ Tát thị hiện một cõi nước, hoặc núi, hoặc biển, hoặc đại địa. Bồ Tát vì độ hoá chúng sinh, mà phải hiện thân thuyết pháp, cần phải dùng các thứ phương pháp phương tiện. Giống như ở trước Vạn Phật Thành có rất nhiều phòng xá, thì có rất nhiều tín chúng đến tụ hội với nhau, giảng kinh thuyết pháp, tu hành biện đạo. Bạn nói đó chẳng phải là thân Phật thân Bồ Tát thị hiện chăng? Vì chúng ta chưa đắc được con mắt trí huệ, tuy ở tại thân Phật và thân Bồ Tát cũng chẳng biết.
Cũng giống như con kiến ở trên chiếc thuyền lớn, suốt ngày bò đi khắp mọi nơi, nhưng nó chẳng biết chiếc thuyền đó rốt ráo lớn cỡ nào? Hình trạng ra sao? Cũng như vậy, chúng ta ở trong cõi nước của Phật và Bồ Tát thị hiện, điên đảo mộng mị, cũng không biết ở trên thân của Phật, hoặc trên thân của Bồ Tát. Do đó: “Đối diện chẳng nhận ra Bồ Tát Quán Thế Âm”. Bồ Tát có lúc thị hiện một người ác, làm việc ác, thọ ác báo, khiến cho mọi người nhìn thấy, hiểu rõ cảnh tỉnh.
Có lúc Bồ Tát thị hiện làm một người thiện, làm việc thiện thọ thiện báo, khiến cho chúng sinh nhìn thấy, biết nhân quả tuần hoàn, bình đẳng không sai. Vạn sự vạn vật trên thế gian, bất luận hữu tình vô tình, thị phi thiện ác, đều đang diễn nói diệu pháp. Con người diễn nói diệu pháp của con người, phi cầm tẩu thú diễn nói diệu pháp của phi cầm tẩu thú. Cây cối hoa cỏ diễn nói diệu pháp của cây cối hoa cỏ. Nước suối chảy, tiếng gió chim hót, đâu chẳng phải là đang nói diệu pháp. Chỉ là phàm phu mê nơi hư vọng, hoàn toàn không minh bạch chư Phật Bồ Tát thị hiện cảnh giới mà thôi.
Có người minh bạch một chút Phật pháp, lại bán tín bán nghi. Có người tin thì tin mà chẳng y pháp tu hành, suốt ngày phóng dật dâm dục, phô diễn qua loa, tụng kinh lễ Phật, chỉ là hình thức bên ngoài, tơ hào chẳng có sự thành tâm. Có người tin cũng kiền thành, nhưng tâm chẳng thường hằng, nên chưa đắc được lợi ích, phế bỏ giữa đường. Có người tâm tin chưa thành, lại do thấy tín chúng ít mà giao động. Những hiện tượng như vậy, khắp ở trong tâm chúng sinh, cũng do căn lành của chúng sinh mỏng manh. Bồ Tát có lúc hiện thân hư không, nghĩa là dùng pháp giới làm thể, hư không làm dụng. Bồ Tát lại biết sự ưa thích trong tâm của tất cả chúng sinh.
Bồ Tát hay dùng thân cõi nước làm thân của mình, cũng hay dùng thân của mình làm làm thân chúng sinh, cũng hay dùng thân của mình làm thân nghiệp báo. Cũng có thể thị hiện làm thân hư không. Hư không thì thủ lấy không thể được, xả cũng không thể xả. Vì chúng sinh không thể lìa khỏi hư không, cho nên “Trong bất khả đắc tức chẳng đắc”, đây tức là bổn thể của hư không. Bồ Tát Bát địa lại biết sự hoan hỉ ưa thích trong tâm của tất cả chúng sinh. Chúng sinh tư tưởng hỉ lạc, thường hướng về sự điên đảo, do đó mà biểu hiện, cũng thường gặp nơi chánh pháp. Phần nhiều hiện sự điên đảo trong nhãn quang của chư Phật Bồ Tát, nhưng ở tại phần chúng sinh nhận rằng sự hỉ lạc đều rất chánh thường. Bát địa Bồ Tát cũng thường hiện thân thiện ác nghiệp báo, khiến cho chúng sinh biết thiện có thiện báo, ác có ác báo, chẳng phải không báo, mà là thời cơ chưa đến. Ngài cũng hay hoá hiện thân chúng sinh làm thân mình, cũng hay hoá hiện cõi nước sơn hà đại địa và phòng ốc nhà cửa làm thân mình, cho đến hoá hiện làm thân hư không, tận hư không khắp pháp giới đều sung mãn thân Phật và Bồ Tát. Lại biết trong tâm chúng sinh hoan hỉ ưa thích, hay dùng thân mình biến hoá làm thân tướng chúng sinh, hoặc hoá hiện làm thân tướng cõi nước, cho đến hoá hiện làm thân tướng hư không. Sao lại dùng pháp, trí, hư không, những danh từ trừu tượng nầy có thể làm thân mình? Vì Phật và Bồ Tát đều là tâm bao thái hư. Thân tâm và pháp trí đã dung làm một thể, thì tự nhiên ứng hiện ra pháp trí thân. Tâm bao thái hư, thì tự nhiên cũng đồng một thể với hư không, cho nên nói hiện thân hư không. Đây tức là ý nghĩa “làm”.
Tùy chư chúng sanh sở lạc/nhạc bất đồng, tức ư thử thân hiện như thị hình. Thử Bồ Tát tri chúng sanh tập nghiệp thân, báo thân, phiền não thân, sắc thân, vô sắc thân,
Tuỳ các chúng sinh ưa thích khác nhau, liền ở nơi thân nầy hiện thân như vậy. Bồ Tát nầy biết thân chúng sinh tập nghiệp, báo thân, phiền não thân, sắc thân, vô sắc thân.
Giảng: Bát địa Bồ Tát Ngài biết căn tánh của chúng sinh ưa thích khác nhau, các thứ loại thân cũng có sự khác biệt, vì phương tiện giáo hoá, nên tuỳ theo sự ưa thích khác nhau của chúng sinh, mà hoá hiện giống như thân hình chúng sinh, để tiếp cận đồng với chúng sinh. Bồ Tát biết chúng sinh, nên hay hiện các thứ loại thân khác nhau, là họ đều tự tụ tập đủ thứ thiện nghiệp, ác nghiệp khác nhau, mới có nghiệp thân nầy. Vì nghiệp lực thiện ác khác nhau, nên chiêu cảm quá báo khác nhau, quả báo thân đắc được cũng khác nhau. Chúng sinh do vô minh tạo tác, đắc được phiền não ràng buộc vô hạn, thành tựu thân phiền não. Sắc thân là thân có hình có sắc. Vô sắc thân là thân chẳng có hình cũng chẳng có sắc.
Hựu tri quốc độ thân tiểu tướng, Đại tướng, Vô-Lượng-Tướng, nhiễm tướng, tịnh tướng, quảng tướng, đảo trụ tướng, chánh trụ tướng, phổ nhập tướng, phương võng sái biệt tướng,
Lại biết thân cõi nước như: Tướng lớn, tướng nhỏ, tướng vô lượng, tướng nhiễm, tướng tịnh, tướng rộng, tướng đảo trụ, tướng chánh trụ, tướng vào khắp, tướng lưới vuông khác biệt.
Giảng: Bát địa Bồ Tát lại biết Bồ Tát khác hiện ra tướng hình cõi nước: Cõi nước hình tướng nhỏ, hoặc cõi nước hình tướng lớn, hoặc cõi nước hình tướng vô lượng vô biên, hoặc tướng cõi nước nhiễm ô, hoặc tướng cõi nước thanh tịnh, hoặc hình tướng cõi nước rộng lớn, hoặc tướng cõi nước đảo trụ, hoặc hình tướng cõi nước chánh trụ, hoặc hình tướng cõi nước vào khắp tất cả, hoặc là hình tướng cõi nước giống như lưới vuông, cõi nước lưới tròn, có hình tướng khác biệt chẳng giống nhau.
Tri nghiệp báo thân giả danh sái biệt, tri Thanh văn thân, độc giác thân, Bồ Tát thân giả danh sái biệt, tri Như Lai thân hữu Bồ-đề thân, nguyện thân, hóa thân, lực trì thân, tướng hảo trang nghiêm thân, uy thế thân, ý sanh thân, phước đức thân, Pháp thân, trí thân
Biết nghiệp báo thân giả danh khác biệt, biết thân Thanh văn, thân Độc giác. Thân Bồ Tát giả danh khác biệt, biết thân Như Lai có: Bồ đề thân, nguyện thân, hoá thân, lực trì thân, tướng hảo trang nghiêm thân, oai thế thân, ý sinh thân, phước đức thân, pháp thân, trí thân.
Giảng: Bồ Tát lại biết các thứ thân nghiệp báo, đều căn cứ sự tạo tác nghiệp nhân của họ khác nhau mà định xuống những danh từ giả nầy. Lại biết thân Thanh văn, thân Độc giác, thân Bồ Tát. Hàng nhị thừa và Bồ Tát đều do các Ngài tu chứng quả vị mới có sự khác biệt. Pháp môn tu trì đều có sự chuyên tâm khác nhau, mà định xuống danh hiệu giả khác nhau.
Bồ Tát lại biết Phật có:
– Bồ đề thân: Là thành tựu vô thượng giác đạo mà chứng được thân Phật viên mãn.
– Nguyện thân: Là thân tướng nguyện sinh về cõi trời Đâu Suất.
– Hoá thân: Là Phật tuỳ duyên ứng hoá nhiều loại thân tướng khác nhau.
– Lực trì thân: Là tự thân xá lợi chủ trì.
– Tướng hảo trang nghiêm thân: Là hết thảy thật báo thân, thân vô biên biển tướng trang nghiêm 32 tướng tốt.
– Oai thế thân: Là thân hết thảy trí huệ quang minh nhiếp thọ điều phục chúng sinh mà hiện oai nghiêm.
– Ý sinh thân: Là thân hết thảy đồng một thế giới, hoặc chẳng đồng một thế giới, hoặc tâm xuất thế đắc được giải thoát của bậc Thánh, vô tác ý mà sinh.
– Phước đức thân: Là thân hết thảy phước chẳng cùng với hàng nhị thừa, hay làm nhân thiện rộng lớn, mà trồng căn lành, sẽ được quả Phật.
– Pháp thân: Là pháp thân thanh tịnh của Như Lai đã hết tất cả các lậu, vĩnh tuyệt hai hạnh, ba giác viên mãn, phước huệ đầy đủ.
– Trí thân: Là thân tướng đã ra khỏi các chướng cấu, đã thành tựu đại viên cảnh trí, chứng được bình đẳng, tất cả sự lý viên dung vô ngại, mà hơn hẳn các ngoại đạo.
Tri trí thân thiện tư lượng tướng, như thật quyết trạch tướng, quả hạnh/hành/hàng sở nhiếp tướng, thế gian xuất thế gian sái biệt tướng, tam thừa sái biệt tướng, cộng tướng, bất cộng tướng, xuất ly tướng, phi xuất ly tướng, học tướng, vô học tướng
Biết trí thân khéo tư duy lượng tướng, tướng quyết đoán như thật, tướng nhiếp quả hành, tướng thế gian xuất thế gian khác biệt, tướng tam thừa khác biệt, tướng cộng, tướng bất cộng, tướng xuất ly, tướng chẳng xuất ly, tướng học, tướng vô học.
Giảng: Bồ Tát lại biết các thứ tướng trí huệ thân khác nhau. Như khéo tư duy độ lượng sự lý, từ văn tư trí huệ mà khéo hiện tư lượng tướng. Từ trong trí huệ đắc được đối với giáo lý đều thông đạt, lại có sự quyết đoán xác thực tất cả tướng quyết đoán như thật. Lại thông tam huệ, nhân quả phân minh (hành tức là nhân), là tướng quả hành nhiếp. Có tướng trí huệ khác biệt giữa tục trí thế gian của phàm phu, cũng có trí huệ xuất thế gian của bậc Thánh tam thừa. Có tiểu thừa thập trí, trung thừa bảy mươi bảy trí, đại thừa quyền thật vô lượng trí, đó là xuất thế – tướng đại tiểu trong tam thừa khác biệt. Tướng cộng: Còn gọi là đồng tướng, tướng tựa Bát nhã, thông nơi tha tướng gọi là cộng tướng. Tướng bất cộng: Còn gọi là dị tướng, chẳng thông với tướng khác, chỉ một biệt tính. Trong đại thừa phân biệt thô diệu, Bát nhã thâm sâu, chẳng cùng với hàng nhị thừa, gọi là tướng bất đồng. Tướng xuất ly: Là tướng xuất ly tam giới. Tướng chẳng xuất ly: Là tướng vẫn chưa xuất ly tam giới. Đây là sự phân biệt thành tựu trên phương diện tu hành. Tướng học: Nghiên cứu chân lý, mộ cầu thắng kiến, dùng đoạn vọng khử hoặc làm tông thú. Tướng vô học: Chứng đắc tứ quả A la hán, đoạn vọng hoặc, sạch các lậu, học đạo viên mãn, đạt đến tướng vô học.
Tri Pháp thân bình đẳng tướng, bất hoại tướng, tùy thời tùy tục giả danh sái biệt tướng, chúng sanh phi chúng sanh pháp sái biệt tướng, Phật Pháp Thánh Tăng Pháp sái biệt tướng.
Biết tướng pháp thân bình đẳng, tướng bất hoại, tướng tuỳ thời tuỳ tục giả danh khác biệt, tướng chúng sinh phi chúng sinh pháp khác biệt, tướng Phật pháp Thánh Tăng pháp khác biệt.
Giảng: Bát địa Bồ Tát biết tướng bình đẳng thông đạt tất cả các pháp, pháp lý viên dung vô ngại, sinh Phật không hai. Tướng bất hoại: Tức là hành pháp, xưng lý khởi hành, hành hợp với lý, thành tựu bồ đề công đức, cho nên nói gọi là tướng bất hoại. Tuỳ thời tuỳ tục giả danh tướng khác biệt: Tức là giáo pháp. Tuỳ căn tánh tương ưng giáo hoá chúng sinh, nên gọi là tuỳ thời. Lý vốn chẳng nói, tuỳ theo thế tục giả nhờ những giả danh nầy để thuyết minh tướng khác biệt của nó. Tướng chúng sinh phi chúng sinh pháp khác biệt: Đây là cảnh giới tính trọng yếu, hiển hiện lý pháp, thông nơi tịnh nhiễm, bình đẳng pháp thân là khắp nơi hữu tình vô tình. Tướng Phật Pháp Thánh Tăng pháp khác biệt: Đây là nói quả pháp, là tướng thanh tịnh đệ nhất. Tam thừa có thể cùng chứng được đệ nhất nghĩa, Tam bảo là thù thắng nhất, bất quá tuỳ trí khác nhau mà có tướng khác biệt.
Tri hư không thân Vô-Lượng-Tướng, chu biến tướng, vô hình tướng, vô dị tướng, vô biên tướng, hiển hiện sắc thân tướng.
Biết tướng thân hư không vô lượng, tướng khắp cùng, tướng vô hình, tướng vô dị, tướng vô biên, tướng hiển hiện sắc thân.
Giảng: Bát địa Bồ Tát lại biết tướng thân hư không có sáu thứ tướng:
- Tướng vô lượng: Nghĩa là không thể độ lượng được, như hạt cải tuy nhỏ, nhưng không trung của nó cũng chẳng có sự phân lượng.
- Tướng khắp cùng: Là nói nơi khắp cùng đến tất cả sắc phi sắc.
- Tướng vô hình: Nhìn chẳng thấy hình tướng, là hàm chỉ vô là không mà nói. Hình tướng mà phàm phu thấy, tất cả đều do tâm tạo.
- Tướng vô dị: Nghĩa là nói không chướng ngại, nó bất đồng nơi sắc pháp đó đây dị tướng, mà là có chướng ngại.
- Tướng vô biên: Tướng bờ mé không thuỷ chung, không khởi tận.
- Tướng hiển hiện sắc thân: Tướng hay thông đạt thọ sắc, ví như hư không rộng lớn chẳng có sắc, mà hay hiển hiện tất cả các sắc. Vì sắc có thể phân biệt là hư không, cũng có thể do không mà hiển ra tướng sắc thân.
Phật tử! Bồ Tát thành tựu như thị thân trí dĩ, đắc mạng tự tại, tâm tự tại, tài tự tại, nghiệp tự tại, sanh tự tại, nguyện tự tại, giải tự tại, như ý tự tại, trí tự tại, pháp tự tại. đắc thử thập tự tại cố, tức vi ất tư nghị trí giả, vô lượng trí giả, quảng đại trí giả, vô năng hoại trí giả.
Phật tử! Bồ Tát thành tựu trí thân như vậy rồi, được mạng tự tại, tâm tự tại, tài tự tại, nghiệp tự tại, sinh tự tại, nguyện tự tại, giải tự tại, như ý tự tại, trí tự tại, pháp tự tại.
Do đắc được mười tự tại nầy, liền trở thành bậc trí không nghĩ bàn, bậc trí vô lượng, bậc trí quảng đại, bậc trí không thể hoại.
Giảng: Bồ Tát Kim Cang Tạng lại gọi một tiếng các vị đệ tử của Phật! Bát địa Bồ Tát thành tựu các thứ thân trí huệ như đã nói ở trên rồi, Ngài liền chứng được mạng tự tại: Bồ Tát có thể thao túng sinh mạng của mình, muốn sống thời gian bao lâu thì sống bấy lâu, không muốn sống cũng tuỳ thời có thể chết, không bị vua Diêm Vương quản thúc, rất tự do tự tại. Tâm tự tại: Nghĩa là chẳng có bất cứ phiền não gì hết, không có lúc nào mà chẳng ở trong pháp hỉ. Tài tự tại: Chữ “tài” nầy, chẳng phải chỉ vàng bạc châu báu, mà là nói chẳng có tâm sân hận. Người có tâm sân hận, thì giống như người nghèo chẳng có tiền. Người chẳng có tâm tham sân si, tức là người giàu. Tất cả thế giới trang nghiêm vô lượng, đều giống như nghiêm sức chính mình. Nghiệp tự tại: Bồ Tát đã chứng được trí thân như vậy, Ngài làm tất cả đều là nghiệp thiện. Sinh tự tại: Tức là do ý chí thọ sinh của mình, chẳng bị nghiệp lực chi phối. Nguyện tự tại: Tất cả đều tuỳ theo ý muốn của mình, chẳng có gì mà không được mãn nguyện. Giải tự tại: Tất cả kinh luận danh ngôn sự lý của thế gian, chẳng có gì mà không thông đạt. Như ý tự tại: Tất cả sự việc đều được như ý muốn, thần thông diệu dụng, sự sự vô ngại. Trí tự tại: Trí huệ sung mãn khắp, sự sự chẳng có gì mà không lợi, nơi nơi hợp với hảo xứ. Pháp tự tại: Vô biên pháp môn diệu dụng, tuyên nói giáo hoá đối với căn cơ chúng sinh.
Bồ Tát chứng được mười thứ tự tại nầy, liền trở thành bậc đại trí huệ thù thắng, hạnh nghiệp rộng lớn, công đức vô biên, khiến cho con người khó tưởng tượng được. Bậc đại trí huệ không thể dùng số lượng để tính lường. Bậc đại trí huệ rộng lớn vô biên, không có ai bằng được. Vì chẳng có ai bằng trí huệ với Ngài, thì còn có ai có thể đến phá hoại Ngài được. Thiên ma ngoại đạo cũng không thể làm tổn hại bậc đại trí huệ như Ngài được.
Thử Bồ Tát như thị nhập dĩ, như thị thành tựu dĩ, đắc tất cánh vô quá thất thân nghiệp, vô quá thất ngữ nghiệp, vô quá thất ý nghiệp. Thân, ngữ, ý nghiệp tùy trí tuệ hạnh/hành/hàng, Bát-nhã Ba-la-mật tăng thượng, đại bi vi thủ, phương tiện thiện xảo, thiện năng phân biệt, thiện khởi đại nguyện, Phật lực sở hộ, thường cần tu tập lợi chúng sanh trí, phổ trụ vô biên sái biệt thế giới.
Bồ Tát nầy vào như vậy rồi, thành tựu như vậy rồi, được thân nghiệp rốt ráo không có lỗi lầm, nghiệp lời nói không có lỗi lầm. Thân lời nói ý nghiệp tuỳ trí huệ hành. Bát nhã Ba la mật tăng thượng, đại bi làm đầu, phương tiện khéo léo, khéo phân biệt được, khéo khởi nguyện lớn. Được Phật lực gia hộ, thường siêng tu tập trí huệ lợi ích chúng sinh, khắp trụ vô biên thế giới khác biệt.
Giảng: Bát địa Bồ Tát giống như ở trên đã nói, đắc được trí giải thù thắng, hạnh nghiệp rộng lớn và thành tựu mười thứ tự tại rồi, lúc nầy Ngài đắc được thân nghiệp chân chánh thanh tịnh, chẳng có tơ hào lỗi lầm. Đắc được nghiệp lời nói chân chánh thanh tịnh chẳng có lỗi lầm nào. Đắc được ý nghiệp chân chánh thanh tịnh chẳng có lỗi lầm nào. Thân lời ý ba nghiệp đều thanh tịnh không lỗi lầm. Làm tất cả những gì đều do trí huệ biểu hiện, chẳng có chút hành vi ngu si nào. Pháp môn vô thượng thắng trí Ba la mật vi diệu, công hạnh của Ngài càng ngày càng tăng thượng. Do nhờ Bát nhã nhiếp đại huệ, chẳng nhiễm ái kiến, cho nên tất cả dùng tâm đại bi làm đầu, làm đệ nhất, mà sinh khởi phương tiện khéo léo lợi ích chúng sinh. Lại hay dùng trí huệ không phân biệt, để thành tựu quyết đoán tất cả, trí huệ phân biệt tất cả. Lại do nội tâm phát khởi đại nguyện tế độ chúng sinh. Nhờ đó mà luôn luôn được Phật lực gia trì, đồng thời Bồ Tát luôn luôn tinh tấn, tu học tất cả pháp môn lợi ích chúng sinh, để tăng thêm trí lực cho mình, cũng khai mở trí huệ cho chúng sinh. Bồ Tát đại từ bình đẳng trụ khắp vô lượng vô biên thế giới khác nhau, đi giáo hoá hết thảy chúng sinh.
Phật tử! cử yếu ngôn chi: Bồ-tát trụ thử bất động địa, thân, ngữ, ý nghiệp chư hữu sở tác, giai năng tích tập nhất thiết Phật Pháp.
Phật tử! Tóm lại, Bồ Tát trụ Bất động địa nầy, thân lời ý nghiệp, làm các việc gì, đều hay tích tập tất cả Phật pháp.
Giảng: Bồ Tát Kim Cang Tạng lại gọi một tiếng các vị đệ tử của Phật! Hiện tại tôi chỉ nói những ý chính mà Bồ Tát Bát địa thành tựu. Bồ Tát Bát địa tu hành pháp môn Bất động địa, thân lời ý ba nghiệp của Ngài đều không lìa khỏi sự tích tập Phật pháp mà mười phương ba đời chư Phật đã nói.
Phật tử! Bồ-tát trụ thử địa, đắc thiện trụ thâm tâm lực, nhất thiết phiền não bất hạnh/hành cố; đắc thiện trụ thắng tâm lực, bất ly ư đạo cố; đắc thiện trụ đại bi lực, bất xả lợi ích chúng sanh cố; đắc thiện trụ Đại từ lực, cứu hộ nhất thiết thế gian cố; đắc thiện trụ Đà-la-ni lực, bất vong ư Pháp cố: đắc thiện trụ biện tài lực, thiện quan sát phân biệt nhất thiết pháp cố; đắc thiện trụ thần thông lực, phổ vãng vô biên thế giới cố: đắc thiện trụ đại nguyện lực, bất xả nhất thiết Bồ Tát sở tác cố; đắc thiện trụ Ba-la-mật lực, thành tựu nhất thiết Phật Pháp cố; đắc Như Lai hộ niệm lực, nhất thiết chủng, nhất thiết trí trí hiện tiền cố. Thử Bồ Tát đắc như thị trí lực, năng Hiện-Nhất-Thiết chư sở tác sự, ư chư sự trung vô hữu quá cữu.
Phật tử! Bồ Tát trụ địa nầy, đắc được khéo trụ vào sức tâm thâm sâu, vì tất cả phiền não không hiện hành. Đắc được khéo trụ vào sức tâm thù thắng, vì không lìa khỏi đạo. Đắc được khéo trụ vào sức đại bi, vì không bỏ lợi ích chúng sinh. Đắc được khéo trụ vào sức đại từ, vì cứu hộ tất cả thế gian. Đắc được khéo trụ vào sức Đà là ni, vì chẳng quên pháp. Đắc được khéo trụ vào sức biện tài, vì khéo quán sát phân biệt tất cả các pháp. Đắc được khéo trụ vào sức thần thông, vì đến khắp vô biên thế giới. Đắc được khéo trụ vào sức đại nguyện, vì không bỏ tất cả việc làm của Bồ Tát. Đắc được khéo trụ vào sức Ba la mật, vì thành tựu tất cả Phật pháp. Đắc được sức hộ niệm của Như Lai, vì trí nhất thiết chủng nhất thiết trí hiện tiền. Bồ Tát nầy đắc được trí lực như vậy, hay hiện tất cả các việc làm, ở trong các việc làm chẳng có lỗi lầm.
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Bồ Tát trụ tại Địa thứ tám, do sức thâm tâm cầu pháp của Ngài, mà đắc được tâm trí Bát nhã khéo trụ nơi cao sâu, tất cả mọi phiền não chẳng hiện tiền. Đắc được khéo trụ nơi sức tâm thù thắng, là do Ngài luôn luôn không lìa khỏi sự tu đạo. Đắc được sức tâm khéo trụ nơi đại bi thương xót chúng sinh, là do Ngài luôn luôn không xả bỏ chúng sinh, vì tuỳ thời lợi ích cho chúng sinh. Đắc được sức tâm khéo trụ nơi đại từ ái, vì Ngài trụ bất cứ ở đâu cũng đều thường cứu hộ tất cả chúng sinh thế gian. Đắc được sức tâm khéo trụ nơi tổng trì tất cả pháp nghĩa, vì Ngài lúc nào cũng không quên các pháp. Đắc được sức biện tài khéo biện minh vô lượng tam muội, vì Ngài khéo quán sát, nghiên cứu, phân tích tất cả các pháp thật tướng. Đắc được sức lực khéo diệu dụng tất cả thần thông, vì Ngài hay hoá thân khắp hết thảy thế giới để hành Bồ Tát đạo. Đắc được sức viên mãn đại nguyện đã phát ra trong quá khứ, vì Ngài không xả bỏ sự tu hạnh Bồ Tát đáng làm, tâm từ bi xả mình vì người. Đắc được sức lên bờ giác ngộ bên kia, vì Ngài tinh tấn không giải đãi, viên mãn tu chứng thành tựu vô thượng pháp môn của mười phương chư Phật nói. Lại đắc được sức Như Lai hộ niệm. Bồ Tát Bát địa ở trong tâm mắt của Phật, như em bé sơ sinh, đức Phật giống như mẹ hiền. Thời khắc Phật đều bảo hộ Ngài, do đó mà Ngài đắc được đủ thứ trí huệ, trí huệ tối thượng trong tất cả trí huệ, đều từ đó mà sinh ra. Vị Bồ Tát Bát địa nầy chứng được quả bị Bất Động địa, đắc được đủ thứ trí, đủ thứ sức lực như đã nói ở trên, bất cứ Ngài muốn làm việc gì, đều tuỳ tâm như ý. Phàm những gì nguyện muốn làm, cũng đều thành tựu. Tất cả việc làm đầy đủ công đức, tuyệt đối có lỗi lầm.
Phật tử! thử Bồ Tát trí địa danh vi: bất động địa, vô năng tự hoại cố; danh vi: bất chuyển địa, trí tuệ vô thoái cố; danh vi: nan đắc địa, nhất thiết thế gian vô năng trắc cố; danh vi: đồng chân địa, ly nhất thiết quá thất cố; danh vi: sanh địa, tùy lạc/nhạc tự tại cố; danh vi: thành địa, cánh vô sở tác cố; danh vi: cứu cánh địa, trí tuệ quyết định cố; danh vi: biến hóa địa, tùy nguyện thành tựu cố; danh vi: lực trì địa, tha bất năng động cố; danh vi: vô công dụng địa, tiên dĩ thành tựu cố.
Phật tử! Trí địa Bồ Tát nầy, gọi là Bất động địa, vì chẳng có ai trở ngại phá hoại được. Gọi là Bất thối chuyển địa, vì trí huệ bất thối. Gọi là Nan đắc địa, vì tất cả thế gian không thể lường được. Gọi là Đồng chân địa, vì lìa tất cả lỗi lầm. Gọi là Sinh địa, vì tuỳ thích tự tại. Gọi là Thành địa, vì không còn sở tác. Gọi là Cứu kính địa, vì trí huệ quyết định. Gọi là Biến hoá địa, vì tuỳ nguyện thành tựu. Gọi là Lực trì địa, vì Ngài không thể động. Gọi là Vô công dụng địa, vì trước đã thành tựu.
Giảng: Bồ Tát Kim Cang Tạng lại gọi một tiếng các vị đệ tử của Phật! Bồ Tát tu chứng đến Địa thứ tám – quả vị trí huệ địa, địa nầy gọi tên là Bất động địa. “Bất động” nghĩa là công hạnh của Bồ Tát lúc nầy đã chứng được: “Nội vô thân tâm, ngoại vô cảnh giới”, trong ngoài đều hiển được cảnh giới quang minh thanh tịnh, cho nên chẳng có ai phá hoại được định lực của Ngài, nên gọi là Bất động địa.
Còn có tên gọi khác là Bất thối chuyển địa, vì chẳng có sức lực nào có thể khiến cho Ngài chuyển biến lay động, cũng không thể thối chuyển. Lúc nầy Bồ Tát thường ở trong định, thường ở trong huệ, chỉ biết tiến về trước, không thể lùi về sau. Vì trí huệ công năng có tăng mà không giảm.
Lại có tên gọi là Nan đắc địa, vì tu chứng được quả vị Địa thứ tám, chẳng phải là việc dễ dàng, tất cả người thế gian nghĩ đều nghĩ không đến được, càng không thể nào biết được cảnh giới của Bồ Tát. Chẳng những người thế gian không thể tưởng tượng được, cho dù Bồ Tát Địa thứ bảy cũng không thể nào biết được cảnh giới của Bồ Tát Địa thứ tám. Trình độ pháp môn tu học và công hạnh chứng ngộ của mỗi địa đều khác nhau. Diệu dụng của trí huệ, khéo léo vận dụng chẳng giống nhau. Không đạt đến trình độ tự chứng chân tu thật học, thì không thể nào thấu hiểu được cảnh giới của bậc trên. Phật pháp vi diệu thâm áo là như vậy. Trình độ học vấn của tiểu học không biết được trình độ của trung học, trung học không biết được đại học, đại học không biết được trình độ tiến sĩ.
Lại có tên gọi là Đồng chân địa: Bồ Tát chứng được quả vị Địa thứ tám, thì giống như người phản lão hoàn đồng, đắc được thiên chân của đứa trẻ, phản bổn hoàn nguyên. Vì Ngài đã lìa khỏi lỗi lầm hoạ hoạn, chẳng phạm lỗi nữa, cho nên gọi là Đồng chân địa, cũng gọi là Đồng chân trụ.
Còn có tên gọi là Sinh địa: Giống như sinh mạng mới sinh ra, sinh khí bừng bừng, tuỳ ý an tường, tự do tự tại, không chút miễn cưỡng, không có chút câu thúc nào.
Lại có tên gọi là Thành địa: Thành tựu tất cả việc đáng làm, do đó : “Những gì cần làm đã làm xong”, từ đây chỉ tiến đến quả vị Phật, cầu được trí huệ như Phật.
Còn có tên gọi là Cứu kính địa: Công phu Bồ Tát tu hành chứng được quả vị Bất động địa, có thể nói cách giai đoạn viên mãn hoàn toàn không xa mấy, vì Ngài đã có trí huệ phương tiện thiện xảo, có thể quyết chọn tất cả đạo lý.
Còn có tên gọi là Biến hoá địa: Tuỳ theo tâm của Ngài mà viên mãn nguyện của Ngài, thành tựu tất cả thệ nguyện mà Ngài đã phát ra.
Lại có tên gọi là Lực trì địa: Ngài có sức tín nguyện kiên cố chánh quyết, chi trì đạo nghiệp của Ngài tu, ai cũng không thể giao động được Ngài, biến đổi Ngài được.
Lại có tên gọi là Vô công dụng địa: Bồ Tát chứng được quả vị Địa thứ tám, công hạnh của Ngài đã tròn đạt đến cảnh giới vô không tự hành là không trước ý, vì quá khứ Ngài đều đã tu thành tựu, như nay thì cảnh giới không tu tự tu, không chứng tự chứng.
Phật tử! Bồ Tát thành tựu như thị trí tuệ, nhập Phật cảnh giới, Phật công đức chiếu, thuận Phật uy nghi, Phật cảnh hiện tiền, thường vi Như Lai chi sở hộ niệm, phạm, thích, tứ vương, Kim Cương lực sĩ thường tùy thị vệ hằng bất xả ly chư Đại tam muội, năng hiện vô lượng chư thân sái biệt, ư nhất nhất thân hữu đại thế lực, báo đắc thần thông tam muội tự tại, tùy hữu khả hóa chúng sanh chi xứ thị thành chánh giác.
Phật tử! Bồ Tát thành tựu trí huệ như vậy, nhập vào cảnh giới của Phật. Công đức của Phật chiếu đến, tuỳ thuận oai nghi của Phật, cảnh giới của Phật hiện tiền. Thường được Như Lai hộ niệm. Phạm Thích Tứ Vương Kim Cang Lực Sĩ, thường theo hộ vệ, luôn không xả bỏ các đại tam muội. Hay hiện vô lượng các thân khác nhau, nơi mỗi mỗi thân có đại thế lực, có quả báo đắc được thần thông, tam muội tự tại. Tuỳ nơi có thể giáo hoá chúng sinh, thì thị hiện thành Chánh Giác.
Giảng: Bồ Tát Kim Cang Tạng lại gọi một tiếng các vị đệ tử của Phật! Bồ Tát Địa thứ tám thành tựu trí huệ như đã nói ở trên rồi, thì nhập vào được hết thảy cảnh giới của Phật. Công đức quang minh của Phật thường chiếu đến thân của Ngài. Tuỳ thuận oai nghi của Phật, cảnh giới của Phật, thường hiện ra ở trước mặt Ngài. Lại thường được chư Phật hộ niệm. Thiên Vương Đại Phạm Thiên, Thiên Vương Trời Đế Thích – Thích Đề Hoàn Nhân, mà người đời gọi là Thiên Chủ, còn có Tứ Thiên Vương và các vị hộ pháp Kim Cang Lực Sĩ .v.v… các Ngài thường bảo vệ Ngài, hầu hạ Ngài. Bồ Tát Địa thứ tám chưa từng lìa khỏi đại định, ở trong định đắc được chánh định chánh thọ (tam muội). Lại hay hoá thân trăm ngàn ức hiển hiện vô lượng thân khác nhau. Mỗi thân tướng Ngài hoá hiện ra, đều có đại thế lực, đại oai đức. Thần thông của Bồ Tát Địa thứ tám gọi là “Báo đắc thần thông”, một khi sinh ra thì có sức đại thần thông, không cần tác ý. Ngài vận dụng thần lực tam muội, rất tự do tự tại phi thường, hay khiến cho tất cả chúng sinh đều đắc được lợi ích của Ngài. Bất cứ ở đâu, chỉ cần có chúng sinh giáo hoá, thì Ngài đến đó để giáo hoá chúng sinh, thị hiện thành Phật.
Phật tử! Bồ Tát như thị nhập Đại thừa hội, hoạch đại thần thông, phóng đại quang minh, nhập vô ngại Pháp giới, tri thế giới sái biệt, thị Hiện-Nhất-Thiết chư Đại công đức, tùy ý tự tại, thiện năng thông đạt tiền tế, hậu tế, phổ phục nhất thiết ma tà chi đạo, thâm nhập Như Lai sở hạnh cảnh giới, ư vô lượng quốc độ tu Bồ Tát hạnh, dĩ năng hoạch đắc Bất-thoái-chuyển Pháp, thị cố thuyết danh: trụ bất động địa.
Phật tử! Bồ Tát nầy nhập vào hội đại thừa, đắc được đại thần thông, phóng đại quang minh, nhập vào cảnh giới vô ngại. Biết thế giới khác biệt, thị hiện tất cả các đại công đức, tuỳ ý tự tại. Khéo thông đạt tiền tế hậu tế, hàng phục khắp tất cả tà ma ngoại đạo. Vào sâu cảnh giới sở hành của Như Lai, nơi vô lượng cõi nước tu Bồ Tát hạnh, đắc được pháp không thối chuyển, cho nên nói tên là trụ Bất động địa.
Giảng: Bồ Tát Kim Cang Tạng lại gọi một tiếng các vị đệ tử của Phật ! Bồ Tát Bát địa do Ngài tu chứng được tam muội tự tại, quả báo đắc được thần thông, trí huệ vô ngại, thường hay nhập vào pháp hội đại thừa của các đại Bồ Tát. Do đó, đắc được đại thần thông diệu dụng, phóng đại trí huệ quang minh, vào đến bất cứ cảnh giới nào cũng chẳng bị trở ngại. Ngài biết các thứ cảnh giới khác nhau, như thế giới hình ngửa, thế giới hình úp, thế giới hình tam giác, dài, vuông, tròn .v.v… thế giới đủ thứ hình. Giống như trái đất chúng ta ở là hình tròn. Bồ Tát vì giáo hoá chúng sinh, có lúc Ngài cần thị hiện những sự nghiệp vĩ đại, lợi ích chúng sinh rộng lớn. Như những việc đó, Ngài đều tuỳ tâm sở dục, tâm tưởng việc thành, đó đều là cảnh giới của Bồ Tát. Chúng ta thường thấy được, nghe được việc đại thiện đại ác, đó là Bồ Tát thị hiện. Bồ Tát lại thông đạt hiểu rõ việc đời quá khứ, đời vị lai và đời hiện tại, vì Ngài đã thành tựu túc mạng thông. Bồ Tát dùng chân lý và oai đức, đều hàng phục khắp hết tất cả tà ma ngoại đạo. Bồ Tát vào sâu cảnh giới tu hành của chư Phật, ở trong cõi nước không thể tính đếm, tu pháp môn của Bồ Tát tu, do đó mà đắc được pháp ba bất thối:
1. Niệm bất thối – Bất cứ gian khổ nào cũng không sợ, tuyệt đối không sinh tâm niệm thối chuyển về tiểu thừa, thuỷ chung là hành giả của đại thừa.
2. Hạnh bất thối – Bồ Tát tu đại thừa, tất cả đều lấy tâm đại bi cứu chúng sinh làm đầu, cho nên dù hy sinh tánh mạng của mình cũng không thối chuyển.
3. Vị bất thối – Tuyệt đối không thối lùi về quả vị nhị thừa.
Đây là ba pháp không thối chuyển, cho nên Bát địa Bồ Tát là Bồ Tát Bất động địa.
Phật tử! Bồ-tát trụ thử bất động địa dĩ, dĩ tam muội lực, thường đắc hiện kiến vô lượng chư Phật, hằng bất xả ly thừa sự cúng dường.
Thử Bồ Tát ư nhất nhất kiếp, nhất nhất thế giới, kiến vô lượng bách Phật, vô lượng thiên Phật, nãi chí vô lượng bách thiên ức na-do-tha Phật, cung kính tôn trọng, thừa sự cúng dường, nhất thiết tư sanh tất dĩ phụng thí. Ư chư Phật sở đắc ư Như Lai thậm thâm Pháp tạng, thọ thế giới sái biệt đẳng vô lượng pháp minh; nhược hữu vấn nan thế giới sái biệt như thị đẳng sự, vô năng khuất giả.
Như thị kinh ư vô lượng bách kiếp, vô lượng thiên kiếp, nãi chí vô lượng bách thiên ức na-do-tha kiếp, sở hữu thiện căn chuyển tăng minh tịnh.
Phật tử! Bồ Tát trụ Bất động địa nầy rồi, dùng sức tam muội thường được hiện thấy vô lượng chư Phật, luôn không bỏ lìa thừa sự cúng dường. Bồ Tát nầy ở trong một kiếp, mỗi mỗi thế giới, thấy vô lượng trăm vị Phật, vô lượng ngàn vị Phật, cho đến vô lượng trăm ngàn ức Na do tha vị Phật. Cung kính tôn trọng, thừa sự cúng dường. Tất cả vật tư sanh, thảy đều dâng cúng. Ở chỗ các đức Phật, đắc được pháp tạng thâm sâu của Như Lai. Thọ được vô lượng pháp minh thế giới khác nhau. Nếu có vấn nạn về thế giới khác nhau, những việc như vậy, chẳng có ai khuất phục được. Như vậy trải qua vô lượng trăm kiếp, vô lượng ngàn kiếp, cho đến vô lượng trăm ngàn ức Na do tha kiếp, hết thảy căn lành, càng thêm sáng tịnh.
Giảng: Bồ Tát Kim Cang Tạng lại gọi một tiếng các vị đệ tử của Phật! Bồ Tát tu học Bồ Tát đạo chứng được quả vị Địa thứ tám rồi, Ngài nhờ sức tam muội mà luôn luôn thấy được vô lượng chư Phật trong mười phương. Ngài thấy được nhiều vị Phật rồi, quyết định không bỏ qua cơ hội nầy, nhất định thường cẩn thận phục vụ chư Phật, thành tâm cúng dường. Vị Bồ Tát Bát địa nầy, Ngài ở trong mỗi kiếp, trong mỗi thế giới, đều thấy được vô lượng trăm vị Phật, vô lượng ngàn vị Phật, thậm chí có thể thấy được vô lượng trăm ngàn ức Na do tha nhiều vị Phật. Ngài đối với mỗi vị Phật đều cung kính, chân tâm thành ý tôn trọng. Chẳng có việc gì, chẳng có lúc nào mà Ngài chẳng cẩn thận thừa sự cúng dường. Vật chất dùng hằng ngày thảy đều dâng cúng lên chư Phật. Ở trong đạo tràng pháp hội của chư Phật, Ngài chuyên tâm học tập, đắc được pháp tạng thâm sâu vi diệu, tiếp thọ được vô lượng Phật pháp và trí huệ quang minh của mỗi thế giới. Giả sử có người đến thỉnh giáo về vấn đề thế giới khác nhau, và nhiều vấn nạn không dễ dàng trả lời, Ngài đều vì họ trả lời rất rõ ràng, tuyệt đối chẳng bị người khuất phục. Như vậy trải qua vô lượng trăm kiếp, vô lượng ngàn kiếp thời gian, thậm chí trải qua vô lượng trăm ngàn ức Na do tha thời gian không thể tính biết được, căn lành thiện hạnh công đức của Bồ Tát tu hành tích tụ, càng ngày càng sáng rỡ thanh tịnh sâu dày.
Thí như chân kim trì tác bảo quán, trí Diêm-phù-đề chủ Thánh Vương đảnh thượng, nhất thiết thần dân chư trang nghiêm cụ vô dữ đẳng giả;
Ví như vàng thật đem làm mão báu, đặt trên đầu Thánh Vương cõi Diêm Phù Đề, thì các thứ đồ trang nghiêm của tất cả thần dân, chẳng có ai bằng được.
Giảng: Cảnh giới của Bồ Tát Bát địa đó, có thể ví như đem vàng thật làm mũ báu, đội trên đỉnh đầu của vua Chuyển Luân Thánh Vương cõi Diêm Phù Đề, thì hết thảy các thứ đồ danh quý trang sức của nhân dân toàn quốc và đại thần bá quan, chẳng có gì quý bằng mũ báu đó.
Thử địa Bồ Tát sở hữu thiện căn diệc phục như thị, nhất thiết nhị thừa nãi chí đệ thất địa Bồ Tát sở hữu thiện căn vô năng cập giả, dĩ trụ thử địa đại trí quang minh, phổ diệt chúng sanh phiền não hắc ám, thiện năng khai xiển trí tuệ môn cố.
Hết thảy căn lành của bậc Bồ Tát nầy, cũng lại như vậy. Tất cả hàng nhị thừa, cho đến hết thảy căn lành của Bồ Tát Thất địa, chẳng có ai bằng được. Dùng đại trí quang minh trụ ở địa nầy, diệt trừ khắp phiền não đen tối của chúng sinh, vì khéo hay khai xiển trí huệ môn.
Giảng: Hết thảy căn lành của Bồ Tát Bát địa, cũng giống như mũ báu, các bậc Thánh Thanh Văn, Duyên Giác nhị thừa, và Bồ Tát Thất địa, căn lành của các Ngài chẳng có ai bằng được Bồ Tát Bát địa. Vì đại trí huệ quang minh của Bồ Tát Bát địa, có thể diệt trừ khắp phiền não đen tối của tất cả chúng sinh, vì có thể khai mở cửa trí huệ của tất cả chúng sinh.
Phật tử! thí như thiên thế giới chủ Đại phạm Thiên Vương, năng phổ vận từ tâm, phổ phóng quang minh, mãn thiên thế giới; thử địa Bồ Tát diệc phục như thị, năng phóng quang minh, chiếu bách vạn Phật sát vi trần số thế giới, lệnh chư chúng sanh diệt phiền não hỏa nhi đắc thanh lương.
Phật tử! Ví như Đại Phạm Thiên Vương chủ ngàn thế giới, có thể khắp vận tâm từ, khắp phóng đại quang minh, đầy khắp ngàn thế giới. Bồ Tát địa nầy cũng lại như thế, có thể phóng ra quang minh, chiếu đến trăm vạn cõi Phật nhiều như số hạt bụi thế giới, khiến cho chúng sinh diệt lửa phiền não, mà được mát mẻ.
Giảng: Bồ Tát Kim Cang Tạng lại gọi một tiếng các vị đệ tử của Phật ! Ví như bậc lãnh đạo ba ngàn đại thiên thế giới, hoặc Thiên Vương của Đại Phạm Thiên, họ đều có thể khắp vận tâm đại từ bi, khắp phóng ra đại quang minh, chiếu sáng trăm vạn cõi Phật nhiều như số hạt bụi thế giới, khiến cho chúng sinh ở trong những thế giới đó, diệt trừ lửa phiền não, mà đắc được pháp môn Ba la mật thân tâm mát mẻ.
Thử Bồ Tát, thập Ba la mật trung, nguyện Ba-la-mật tăng thượng; dư Ba-la-mật phi bất tu hành, đãn tùy lực tùy phần. Thị danh: lược thuyết chư Bồ-Tát Ma-ha-tát đệ bát bất động địa; nhược quảng thuyết giả, qua vô lượng kiếp bất khả cùng tận.
Trong mười Ba la mật, Bồ Tát nầy thiên nhiều về nguyện Ba la mật. Còn các Ba la mật kia, chỉ tuỳ sức tuỳ phần mà tu hành.
Đây gọi là lược nói về Bất động địa thứ tám của các đại Bồ Tát. Nếu nói rộng ra, thì trải qua vô lượng kiếp cũng không thể nói hết được.
Giảng: Bồ Tát Bát địa, trong mười pháp môn Ba la mật, Ngài chú trọng về tu nguyện Ba la mật, còn chín pháp môn Ba la mật kia, thì chẳng phải không tu, mà là chỉ tuỳ sức lực của mình và căn cơ mà thôi. Ở trên là lược nói về quá trình tu hành của Bồ Tát Bất động địa thứ tám. Nếu muốn nói tỉ mỉ, thì dù trải qua vô lượng kiếp cũng nói không hết được.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát trụ thử địa, đa tác Đại phạm Thiên Vương, chủ thiên thế giới, tối thắng tự tại, thiện thuyết chư nghĩa, năng dữ Thanh văn, Bích Chi Phật, chư Bồ-tát Ba-la-mật đạo; nhược hữu vấn nan thế giới sái biệt, vô năng thoái khuất. Bố thí, ái ngữ, lợi hạnh, đồng sự như thị nhất thiết chư sở tác nghiệp, giai bất ly niệm Phật, nãi chí bất ly niệm nhất thiết chủng, nhất thiết trí trí.
Phật tử! Đại Bồ Tát trụ địa nầy, phần nhiều làm Đại Phạm Thiên Vương, chủ ngàn thế giới, tối thắng tự tại, khéo nói các nghĩa, hay ban cho Thanh Văn, Bích Chi Phật, các Bồ Tát đạo Ba la mật. Nếu có ai vấn nạn về thế giới khác biệt, không thể nào khuất phục được. Bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự, tất cả các việc làm như vậy, đều không lìa khỏi niệm Phật, cho đến không lìa khỏi niệm Nhất thiết chủng trí, Nhất thiết trí.
Giảng: Bồ Tát Kim Cang Tạng lại gọi một tiếng các vị đệ tử của Phật ! Khi đại Bồ Tát trụ tại Bất động Địa thứ tám, đại đa số đều thị hiện làm Thiên Vương Đại Phạm Thiên, thống lãnh ngàn thế giới, giáo hoá chúng sinh, rất là tối thắng tự tại. Ngài còn khéo xiển dương Phật pháp chân nghĩa của chư Phật, cũng hay ban cho hàng Thanh Văn Bích Chi Phật và các vị Bồ Tát đạo Ba la mật vô thượng mà các Bồ Tát tu hành – pháp môn thành Phật đến bờ kia. Nếu như có người đến hỏi Ngài về vấn đề thế giới khác biệt, và đủ thứ các vấn đề khác, thì Ngài đều trả lời trôi chảy, tuyết đối không bị khuất phục. Bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự, bốn pháp nhiếp dùng để độ chúng sinh, Ngài đều khéo léo vận dụng về phương tiện độ hoá chúng sinh. Những hạnh nghiệp mà Ngài làm, đều không lìa khỏi niệm Phật Pháp Tăng Tam Bảo, cho đến chưa bao giời lìa khỏi niệm Nhất thiết chủng trí của Phật, và đại trí huệ trong Nhất thiết trí.
Phục tác thị niệm: ngã đương ư nhất thiết chúng sanh trung vi thủ, vi thắng, nãi chí vi nhất thiết trí trí y chỉ giả. Thử Bồ Tát nhược dĩ phát khởi Đại tinh tấn lực, ư nhất niệm khoảnh, đắc bách vạn tam thiên đại thiên thế giới vi trần số tam muội, nãi chí thị hiện bách vạn tam thiên đại thiên thế giới vi trần số Bồ Tát dĩ vi quyến thuộc;
Lại nghĩ như vầy: Tôi sẽ ở trong tất cả chúng sinh là thượng thủ, là thắng, cho đến vì là bậc y chỉ của nhất thiết trí. Bồ Tát nầy nếu do phát khởi sức đại tinh tấn, thì trong khoảng một niệm, đắc được tam muội nhiều như số hạt bụi trăm vạn ba ngàn đại thiên thế giới, cho đến thị hiện các Bồ Tát làm quyến thuộc nhiều như số hạt bụi trăm vạn ba ngàn đại thiên thế giới.
Giảng: Bồ Tát Bát địa Ngài lại nghĩ như vầy: Tôi phải ở trong tất cả chúng sinh làm thượng thủ của họ, làm người lãnh đạo đặc biệt, càng phải làm bậc sư biểu có trí huệ. Nếu Bồ Tát tinh tấn hướng về trước, thì có thể ở trong khoảng một niệm, thành tựu tam muội (chánh định chánh thọ), nhiều như số hạt bụi trăm vạn ba ngàn điạ thiên thế giới. Đồng thời có thế thị hiện các Bồ Tát làm quyến thuộc, nhiều như số hạt bụi trăm vạn ba ngàn đại thiên thế giới.
Nhược dĩ bồ tát thù thắng nguyện lực tự tại thị hiện, qua ư thị số, nãi chí bách thiên ức na-do-tha kiếp bất năng số tri.
Nếu dùng nguyện lực thù thắng của Bồ Tát, tự tại thị hiện, thì hơn số trên đây. Cho đến trăm ngàn ức Na do tha kiếp, không thể đếm biết được.
Giảng: Nếu dùng sức đại nguyện lực thù thắng thuở xưa của Bồ Tát Bát địa phát ra, thì tuỳ tâm tự do tự tại thị hiện những cảnh giới đó, sẽ hơn số như ở trên đã nói. Dù bạn có trải qua trăm ngàn ức Na do tha kiếp để tính đếm, cũng không thể nào tính đếm biết được.
Nhĩ thời, Kim Cương tạng Bồ Tát dục trọng tuyên kỳ nghĩa nhi thuyết tụng viết:
Kim cang tạng Bồ Tát muốn tuyên lại nghĩa này mà kệ rằng:
Thất địa tu trì phương tiện tuệ Thất địa tu hành phương tiện huệ
Thiện tập trợ đạo đại nguyện lực, Khéo chứa trợ đạo đại nguyện lực
Phục đắc nhân tôn sở nhiếp trì, Lại được Chư Phật chổ nhiếp trì
Vi cầu thắng trí đăng bát trụ. Vì cầu thắng trí nhập bát địa
Giảng: Bồ Tát tu học pháp môn Thập địa, từ Sơ địa phát tâm, tu học định lực, đắc được khinh an và định lực, bèn sinh ra đại hoan hỉ, cho nên Địa thứ nhất gọi là Hoan hỉ địa. Địa thứ hai gọi là Ly cấu địa: Lìa khỏi tất cả tư tưởng và trần cấu nhiễm ô, lìa khỏi tham sân si ba độc, cho nên gọi là Ly cấu địa. Địa thứ ba gọi là Phát quang địa: Vì lìa khỏi nhiễm ô trần cấu, thì giống như gương sáng sạch bụi trần, hiển hiện ra quang minh vốn có, cho nên gọi là Phát quang địa. Địa thứ tư gọi là Diệm huệ địa: Có quang minh rồi, thì có trí huệ, trí huệ quang minh giống như lửa ngọn, cho nên gọi là Diệm huệ địa. Địa thứ năm gọi là Nan thắng địa, định niệm huệ đầy đủ rồi, thì đắc được thần thông diệu dụng, cho nên gọi là Nan thắng địa. Địa thứ sáu gọi là Hiện tiền địa: Trí huệ thượng diệu trong trí huệ hiện tiền, cho nên gọi là Hiện tiền địa. Địa thứ bảy gọi là Viễn hành địa: Địa nầy chuyên tu trị phương tiện trí huệ. Bồ Tát khéo tu tập pháp môn trợ giúp Ngài sớm thành đạo nghiệp, để hoàn thành đại nguyện. Pháp môn trợ đạo có ba mươi bảy thứ – tức là : Bốn niệm xứ, bốn chánh cần, bốn như ý túc, năm căn, năm lực, bảy bồ đề phần, tám chánh đạo, tổng cộng là ba mươi bảy phương pháp trợ giúp hoàn thành đạo nghiệp. Bồ Tát tôn chiếu theo phương pháp tu hành của Phật dạy, cho nên được chư Phật nhiếp trì. Vì cầu trí huệ thù thắng mà lên Bất động Địa thứ tám.
Công đức thành tựu hằng từ mẫn Công đức thành tựu thường từ mẫn
Trí tuệ quảng đại đẳng hư không, Trí huệ rộng lớn đồng hư không
Văn Pháp năng sanh quyết định lực Nghe pháp hay sanh quyết định lực
Thị tắc tịch diệt vô sanh nhẫn. Ðây là tịch diệt vô sanh nhẫn.
Giảng: Công đức của Bồ Tát Bát địa viên mãn rồi, thì phước huệ thành tựu, nhưng tâm từ bi thương xót của Ngài đối với chúng sinh luôn có tăng mà không giảm, luôn luôn như vậy. Lúc đó, trí huệ của Ngài rất rộng lớn, giống như hư không, bao la vạn tượng. Khi Ngài nghe đến pháp nghĩa của chư Phật nói rồi, lập tức hay sinh ra sức lực quyết định tinh tấn. Do đó, Ngài chứng đắc được đạo lý vô sinh pháp nhẫn. Chẳng thấy có chút pháp sinh, cũng chẳng thấy có chút pháp diệt, nhẫn thọ nơi tâm. Đạo lý đó rất huyền diệu, trừu tượng, khó có thể dùng sự vật cụ thể để thuyết minh. Vô sinh pháp nhẫn là một thứ cảnh giới lý ngộ tối cao.
Tri Pháp vô sanh vô khởi tướng, Biết pháp tướng vô sanh vô khởi
Vô thành vô hoại vô tận chuyển, Vô thành vô hoại vô tận chuyển,
Ly hữu bình đẳng tuyệt phân biệt Lìa tưởng bình đẳng tuyệt phân biệt
Siêu chư tâm hành như không trụ. Siêu các tâm hành như hư không.
Giảng: Bồ Tát Bát địa ngộ được tất cả pháp chẳng có tướng sinh, cũng chẳng có tướng khởi, cũng chẳng có tướng thành, cũng chẳng có tướng hoại, cũng chẳng có khi nào cùng tận, hoặc tướng chuyển biến. Lìa khỏi có và không, là bình đẳng, cũng chẳng có sự phân biệt khác nhau. Vượt qua khỏi tất cả tâm hành, giống như hư không, thường trụ vô tướng.
Thành tựu thị nhẫn siêu hí luận, Thành tựu nhẫn này siêu hý luận.
Thậm thâm bất động hằng tịch diệt, Thậm thâm bất động luôn tịch diệt
Nhất thiết thế gian vô năng tri, Tất cả thế gian không biết được.
Tâm tướng thủ trước tất giai ly. Tâm tướng chấp trước thảy đều lìa
Giảng: Bồ Tát thành tựu vô sinh pháp nhẫn siêu nhiên lý trí rồi, sớm vượt qua hí luận thế tục của thế gian. Pháp nầy rất thâm sâu vô thượng, chẳng động mà thường tịch diệt. Tất cả phàm phu trên thế gian đều không thể hiểu được. Sở dĩ Bồ Tát ngộ được là vì Ngài đã xả bỏ hết thảy tất cả những gì ở trong tâm, cho nên chẳng còn tướng tâm, cũng chẳng còn chấp trước vào tướng. Do đó, chứng được đạo lý người không và pháp không.
Trụ ư thử địa bất phân biệt, Trụ ở bực này chẳng phân biệt
Thí như Tỳ-kheo nhập diệt định, Ví như tỳ kheo nhập diệt định
Như mộng độ hà giác tức vô Như mộng lội sông, thức thời không
Như sanh phạm thiên tuyệt hạ dục. Như sanh phạm thiên tuyệt ái dục.
Giảng: Lúc nầy, công hạnh của Bồ Tát Bát địa, đối với sự vật chẳng còn ý niệm phân biệt. Ngài chẳng còn tâm phân biệt, thì thành tựu tâm trí huệ không có phân biệt. Đây cũng giống như vị Tỳ Kheo đã nhập vào diệt tận định, thì tất cả đều quên hết. Lại giống như ở trong mộng rớt xuống sông, vì cầu sự sống mà cố gắng tranh thủ bơi vào bờ. Do dùng sức quá mạnh, nên tỉnh dậy, thì đang nằm trên giường. Sao lại có sự rớt xuống nước ? Phàm phu thế gian truy cầu danh lợi, ngày đêm lao nhọc, chẳng phải là một giấc mộng chăng ! Lúc đó, nếu có người khuyên họ: Đời người như mộng như huyễn, sao phiền não tranh cầu làm chi ? Mà người đang hăng hái truy cầu danh lợi, tuyệt đối không tin những lời nầy, đợi đến lúc vô thường đến, trăm thứ không thể tự chủ được, thì họ chỉ nhắm mắt xuôi tay mà đi. Huyễn mộng của đời người phá diệt rồi, thì giác ngộ đã quá trễ. Lại giống như người trời sinh về cõi trời Đại Phạm Thiên, thì họ chẳng còn dục niệm nữa. Dứt hạ dục: Nghĩa là dục niệm của Lục dục thiên đều chẳng còn nữa.
Bốn câu kệ nầy nói rõ về dục niệm của Lục dục thiên:
“Tứ Vương Đao Lợi dục ôm nhau
Dạ Ma cầm tay Đâu Suất cười
Hoá Lạc nhìn kỹ Tha tạm nhìn
Đó là dục lạc của chư Thiên”.
“Tứ Vương Đao Lợi dục ôm nhau”: Thiên chúng cõi Tứ Thiên Vương và cõi trời Đao Lợi, vẫn còn có dục niệm lưỡng tính, bất quá lưỡng tính của họ biểu thị ái với nhau, thì hổ tương ôm với nhau. “Dạ Ma cầm tay Đâu Suất cười”: Lưỡng tính của Trời Dạ Ma ái với nhau thì đó đây cầm tay. Lưỡng tính của trời Đâu Suất ái với nhau thì gặp mặt cười một cái. “Hoá Lạc nhìn kỹ Tha tạm nhìn”: Lưỡng tính của trời Hoá Lạc ái với nhau thì khi nhìn mặt thì cặp mắt nhìn kỹ với nhau, mắt không nhấp nháy, giống như nhập định. Biểu thị lưỡng tính của cõi trời Tha Hoá Tự Tại ái với nhau, tức là khi thấy mặt chỉ nhìn thấy mặt với nhau một cái mà thôi. “Đó là dục lạc của chư Thiên”: Đó là tình hình dục niệm của sáu cõi trời dục giới. Người tây phương tin Thượng đế, hy vọng được sinh về trời, nhưng cõi trời chưa thoát khỏi tam giới. Tam giới là dục giới, sắc giới, vô sắc giới. Sắc giới chẳng còn dục niệm, nhưng vẫn còn hình sắc. Sắc giới tức là trời Tứ Thiền. Vô sắc giới chẳng còn hình sắc, tại Tứ Không Xứ. Dục giới thì còn dục niệm, tức là Lục dục thiên.
Dĩ ản nguyện lực mông khuyến đạo Do bổn nguyện lực được phật khuyên
Thán kỳ nhẫn thắng dữ quán đảnh, Khen trí nhẫn cao quán đảnh cho
Ngữ ngôn: ngã đẳng chúng Phật Pháp, Bảo rằng Phật pháp của chúng ta
Nhữ kim vị hoạch đương cần tấn. Nay ông chưa được phải tinh tấn.
Giảng: Bồ Tát Bát địa, nhờ đại nguyện lực thuở xưa Ngài phát ra, cho nên được mười phương chư Phật khuyên bảo, khiến cho Ngài lại tiếp tục tiến về trước cầu tu hành công phu sâu dày. Ngài chứng được Vô sinh pháp nhẫn rồi, chư Phật khen ngợi Ngài chứng được pháp môn thù thắng, cho nên ban cho Ngài quán đảnh, thọ quả vị Pháp vương. Và còn khích lệ Ngài nói: Phật pháp của chúng ta mười phương chư Phật nói, hiện tại ông chưa hoàn toàn đắc được, như chư Phật chứng được: Mười lực, bốn vô sở uý, mười tám pháp bất cộng, những pháp nầy ông chưa tu chứng viên mãn, cho nên ông phải dũng mãnh tinh tấn cầu tiến hơn nữa.
Nhữ tuy dĩ diệt phiền não hỏa Dầu ông đã tắt lửa phiền não
Thế gian hoặc diệm do sí nhiên, Phiền não thế gian vẫn hẩy hừng
Đương niệm bổn nguyện độ chúng sanh Phải nhớ bổn nguyện độ sanh
Tất sử tu nhân thú giải thoát. Ðều khiến tu nhơn đến giải thoát.
Giảng: Tuy nhiên hiện tại ông đã dập tắt được lửa phiền não, đoạn trừ được phiền não rồi, nhưng mê hoặc và vô minh dẫn dụ của thế gian, thứ lửa nầy vẫn hừng hực thiêu đốt. Ông phải nhớ lại tâm nguyện xưa kia đã phát ra, là phải độ khắp chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh đều phát tâm bồ đề, tại nhân địa đều trồng xuống hạt giống bồ đề, mà hướng đến con đường giải thoát chân chánh, đều được giải thoát chân chánh.
Pháp tánh chân thường ly tâm niệm Pháp tánh chơn thường lìa tâm niệm
Nhị thừa ư thử diệc năng đắc, Nơi đây nhị thừa cũng được vậy
Bất dĩ thử cố vi Thế Tôn, Chẳng do cớ này làm thế tôn
Đãn dĩ thậm thâm vô ngại trí. Chỉ do thậm thâm vô ngại trí.
Giảng: “Pháp tính chân thường”: Nghĩa lý nầy, hiện tại ông đã chứng ngộ rồi, ông cũng đã đạt đến trình độ lìa tất cả tâm niệm. Đây tức là ý nghĩa “Ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ diệt”, tức cũng là cảnh giới Diệt tận định. Chẳng thấy có chút pháp sinh, chẳng thấy có chút pháp diệt, nhẫn nại nơi tâm. Bậc Thánh nhị thừa cũng chứng được cảnh giới nầy. Cảnh giới nầy chẳng phải đã thành Phật. Chẳng phải vì đắc được cảnh giới tịch diệt nầy, thì cho rằng đã chứng quả rồi, thành Phật rồi, Ông – Bát địa Bồ Tát vẫn phải khai mở vô thượng trí huệ, cầu trí huệ vô ngại của Phật.
Như thị nhân Thiên sở Ứng-Cúng, Chư phật thế tôn thiên nhơn sư
Dữ thử trí tuệ lệnh quan sát, Ban cho trí huệ bảo quán sát
Vô biên Phật Pháp tất đắc thành Vô biên Phật pháp đều được thành
Nhất niệm siêu quá nẵng chúng hạnh Một niệm vượt hơn công hạnh trước
Giảng: Nếu như ông tinh tấn tiến về trước, cầu quả vị vô thượng, thì mới đáng thọ trời người cúng dường. Đắc được trí huệ thâm sâu vi diệu rồi, thì có thể quán sát lý giải mười phương ba đời chư Phật, làm thế nào mà thành tựu ba đức: 1. Trí đức. 2. Đoạn đức. 3. Ân đức. Nhờ đó, mà ông mới có thể tu học thành tựu hết hoàn toàn vô biên Phật pháp. Thì có thể ở trong một niệm, vượt qua công đức tu hành và trí huệ trước kia gấp trăm ngàn vạn ức lần.
Bồ-tát trụ tư diệu trí địa, Bồ Tát an trụ địa này
Tức hoạch quảng đại thần thông lực, Thời được sức thần thông quảng đại
Nhất niệm phần thân biến thập phương Một niệm phân thân khắp mười phương
Như thuyền nhập hải nhân phong tế. Như thuyền vào biển nhờ gió thổi.
Giảng: Bồ Tát Bát địa trải qua số kiếp không thể tính đếm, mà nay trụ ở “Bất động địa” không thể nghĩ bàn, trí huệ địa vi diệu. Ngài đắc được sức thần thông diệu dụng rất rộng lớn, có thể ở trong một niệm, phân thân đến khắp mười phương cõi nước chư Phật. Đây cũng giống như thuyền đi vào trong biển, nhờ sức gió thổi, đẩy thuyền đi nhanh gấp ngàn vạn lần.
Tâm vô công dụng nhâm trí lực Tâm vô công dụng, trí nhậm vận
Tất tri quốc độ thành hoại trụ, Ðều biết quốc độ: thành, hoại, trụ
Chư giới chủng chủng các thù dị, Các cõi chủng loại đều khác lạ
Tiểu Đại vô lượng giai năng liễu. Lớn nhỏ vô lượng đều biết được.
Giảng: Công năng tu hành của Bồ Tát Bát địa đã chứng được “Vô công dụng đạo”. Ý nghĩa “vô công dụng” là thần thông diệu dụng của Ngài chẳng cần tác ý, mà là tự nhiên mà tu, mặc cho sức trí huệ thành tựu. Ngài đối với cõi nước thành trụ dị diệt đều biết rất rõ ràng. Như cõi nước kia đang thành, cõi nước nọ đang hoại, cõi nước kia đang là thời kỳ kiếp trụ, cõi nước nọ đã vào kiếp không, Ngài đều biết rất rõ ràng. Đồng thời cũng biết các thế giới có đủ thứ các hình tướng khác nhau, có tốt có xấu. Thế giới lớn, thế giới nhỏ, đều khác biệt, như những điều vừa nói ở trên, Ngài đều biết rõ ràng.
Tam thiên thế giới tứ đại chủng, Ðại thiên thế giới tứ đại chúng
Lục thú chúng sanh thân các biệt, Lục đạo chúng sanh thân đều khác
Cập dĩ chúng bảo vi trần số, Và cùng châu báu vi trần số
Dĩ trí quan sát tất vô dư. Dùng trí xem biết không còn thừa.
Giảng: Ba ngàn đại thiên thế giới đều là đất, nước, gió, lửa, bốn đại làm thành. Sáu cõi tức cũng là sáu pháp giới – Trời, người, A tu la, ngạ quỷ, súc sinh, địa ngục. Chúng sinh trong sáu pháp giới nầy, thân tướng đều khác nhau. Cùng với nơi nào có châu báu khoáng tạng ? Thậm chí, đại địa trên thế giới có bao nhiêu hạt bụi ? Ngài đều biết được. Vì Bồ Tát Bát địa có đại trí huệ vô thượng vi diệu, Ngài dùng trí nhãn của Ngài quán sát, thì tất cả tất cả đều tự nhiên rõ ràng không sót thừa.
Bồ Tát năng tri nhất thiết thân Bồ Tát hay biết tất cả thân
Vi hóa chúng sanh đồng bỉ hình, Vì cứu chúng sanh đành hiện hình
Vì độ chúng sanh hiện thân đồng Vì độ chúng sanh hiện thân chung
Tất vi hiện hình vô bất biến. Tất phải hiện hình nhiều loại khác
Giảng: Vì Bồ Tát biết được thân tướng của sáu cõi chúng sinh khác nhau, tâm tính trí ngu khác nhau, Ngài vì giáo hoá những thân tướng khác nhau, chúng sinh căn tính khác nhau đó, nên phải hoá hiện giống thân hình với họ, mới có thể vào được, mới có thể gần gũi, mới có thể đạt được mục đích giáo hoá. Rất nhiều Kinh điển có đề cập đến Bồ Tát vì giáo hoá trời người, mà hoá hiện trời người. Muốn độ A tu la, thì thị hiện A tu la. Có lúc tại nhân gian, tuỳ theo độ đối tượng mà thị hiện. Vì độ súc sinh, mà hiện tướng súc sinh. Vì độ chúng sinh trong địa ngục mà hiện tướng tội ác. Độ ngạ quỷ thì hiện tướng ngạ quỷ. Cõi nước cũng vô lượng, lại biết được có bao nhiêu, to lớn cỡ nào, loại hình gì, Bồ Tát đều thị hiện khắp mọi nơi, giáo hoá chúng sinh không có sự phân biệt, không bao giờ mệt mỏi.
Thí như nhật nguyệt trụ hư không, Ðều vì nhựt nguyệt ở hư không.
Nhất thiết thủy trung giai hiện ảnh Tất cả trong nước đều hiện bóng
Trụ ư Pháp giới vô sở động Trụ ở pháp giới không bị động
Tùy tâm hiện ảnh diệc phục nhiên. Tùy tâm hiện bóng cũng như vậy
Giảng: Hiện tại đua ra một ví dụ : Giống như mặt trời mặt trăng ở trong hư không, chỉ cần chỗ nào có nước, thì hình bóng mặt trời mặt trăng sẽ hiện ra. Tuy nhiên Bồ Tát thường ở tại đạo tràng bất động, mà Ngài vẫn tuỳ nơi hiện thân. “Trụ pháp giới không lay động”, đây là pháp thân của Bồ Tát. Ngài giáo hoá chúng sinh, tuỳ loại hiện thân, đây là nói Bồ Tát có trăm ngàn ức hoá thân. Tuỳ loại hoá thân như mặt trời mặt trăng do nước mà hiện bóng.
Tùy kỳ tâm lạc các bất đồng Tùy tâm sở thích của chúng sanh.
Nhất thiết chúng trung giai hiện thân Trong các chúng hội đều hiện thân
Thanh văn độc giác dữ Bồ Tát, Thanh văn, độc giác cùng Bồ Tát
Cập dĩ Phật thân mị bất hiện. Nhẫn đến thân phật đều hiện cả.
Giảng: Khi Bồ Tát thị hiện các loại thân tướng khác nhau, thì trước hết Ngài đều quán sát tâm tánh của chúng sinh, biết tâm hoan hỉ của chúng sinh mà hiện thân. Bồ Tát thị hiện tất cả thân tướng chúng sinh, cũng thị hiện thân Thanh Văn, thân Độc Giác và thân tướng đại Bồ Tát. Có lúc đáng dùng thân Phật mới độ được, thì thị hiện thân Phật, thị hiện đủ thứ thân tướng, đều vì giáo hoá chúng sinh, vì chúng sinh nói pháp.
Chúng sanh quốc độ nghiệp báo thân Chúng sanh, quốc độ, nghiệp báo thân,
Chủng chủng Thánh nhân trí Pháp thân, Các bực thánh nhơn trí pháp thân
Hư không thân tướng giai bình đẳng, Hư không thân tướng đều bình đẳng
Phổ vi chúng sanh nhi thị tác. Vì khắp chúng sanh mà thị hiện.
Giảng: Bồ Tát thị hiện các loại thân tướng chúng sinh, thị hiện các thứ hình tướng cõi nước, thị hiện thân tướng nghiệp báo thiện ác. Lại thị hiện thân tướng Thánh nhân ba thừa – Thanh Văn, Duyên Giác và Bồ Tát. Thị hiện đủ thứ thân tướng trí huệ, thị hiện đủ thứ tướng pháp thân. Lại thị hiện thân tướng như hư không. Lại thị hiện tất cả thân tướng đều là bình đẳng. Ngài khắp vì các loại chúng sinh mà thị hiện đủ thứ thân tướng.
Thập chủng Thánh trí phổ quan sát Mười môn thánh trí khắp quán sát
Phục thuận từ bi tác chúng nghiệp, Lại thuận từ bi làm công hạnh
Sở hữu Phật Pháp giai thành tựu, Tất cả Phật pháp đều thành tựu
Trì giới bất động như Tu-Di. Trì giới bất động như tu di.
Giảng: Bồ Tát Ngài dùng mười thứ Thánh diệu trí huệ, quán sát khắp các loại căn tính chúng sinh. Ngài lại y cứ tâm từ bi của mình, lợi ích chúng sinh làm đủ thứ từ thiện sự nghiệp. Ở chỗ mười phương chư Phật nghe pháp, Ngài đều tu học thành tựu. Ngài giữ gìn giới luật thanh tịnh, dưỡng thành định lực như như bất động, giống như núi Tu Di.
Thập lực thành tựu bất động dao, Thập lực thành tựu chẳng động lay
Nhất thiết ma chúng vô năng chuyển, Tất cả ma chúng không chuyển được
Chư Phật hộ niệm Thiên Vương lễ, Chư Phật hộ niệm, thiên vương kính
Mật tích Kim cương hằng thị vệ. Mật tích kim cang thường thị vệ.
Giảng: Bồ Tát Bát địa cũng thành tựu mười thứ lực giống như Phật, đầy đủ chân chánh định lực, không thể bị bất cứ cảnh giới làm giao động. Tất cả ma chúng như thiên ma ngoại đạo, cũng không thể nào lay động được tâm của Ngài, giao động được niềm tin của Ngài. Ngài được mười phương chư Phật hộ niệm, cũng được các vị Thiên Vương cõi trời kính lễ, cũng được Kim Cang Mật Tích – Thiên Long bát bộ các hộ pháp thiện thần, lúc nào đều bảo vệ Ngài.
Thử địa công đức vô biên tế, Bực này công đức vô biên tế
Thiên vạn ức kiếp thuyết bất tận, Ngàn vạn ức kiếp nói chẳng hết
Phục dĩ cúng Phật thiện ích minh Thiện căn cúng Phật càng sáng sạch
Như Vương đảnh thượng trang nghiêm cụ. Như bửu quang trên đảnh thánh vương.
Giảng: Bồ Tát Bát địa tu tập công đức chẳng có bờ mé, dù có trải qua ngàn vạn ức kiếp thời gian, cũng không thể nào nói hết được. Tuy nhiên, Ngài đã có rất nhiều công đức như vậy, nhưng vẫn luôn luôn gần gũi mười phương chư Phật, thường cúng dường mười phương chư Phật, cho nên căn lành của Ngài càng ngày càng tăng thêm, ngày càng sáng rỡ, giống như ánh sáng hạt minh châu mũ báu trên đỉnh đầu của vua Chuyển Luân Thánh Vương.
Bồ-tát trụ thử đệ bát địa Bồ Tát trụ bực đệ bát địa
Đa tác phạm Vương thiên giới chủ, Thường làm phạm vương chủ ngàn cõi
Diễn thuyết tam thừa vô hữu cùng Diễn thuyết tam thừa không tận cùng
Từ quang phổ chiếu trừ chúng hoặc. Từ quang soi khắp trừ phiền não
Giảng: Khi Bồ Tát tu học Địa thứ tám, Ngài thường thị hiện làm Thiên Vương cõi trời Đại Phạm Thiên, làm chủ tể ba ngàn thế giới. Thường đối với thần dân của Ngài diễn nói Phật pháp ba thừa khác nhau – Phật thừa, Bồ Tát thừa, và nhị thừa. Ba thứ pháp môn tu học khác nhau nầy, Ngài xiển dương với thần dân của Ngài chưa từng gián đoạn. Lại dùng tâm từ bi và trí huệ quang minh của Ngài, chiếu soi khắp tất cả chúng sinh, khiến cho họ đều diệt trừ được tất cả phiền não và mê hoặc.
Nhất niệm sở hoạch chư tam muội, Tam muội chứng được trong một niệm
Bách vạn thế giới vi trần đẳng, Số đến trăm vạn cỏi trần
Chư sở tác sự tất diệc nhiên, Công hạnh ra làm cũng số đó
Nguyện lực thị hiện phục qua thị. Nguyện lực thị hiện lại hơn đây
Giảng: Lúc nầy sự thành tựu của Bồ Tát Bát địa, có thể trong một niệm đắc được vô lượng số tam muội – chánh định chánh thọ. Rốt ráo có bao nhiêu ? Chẳng cách chi biết được, đại khái đồng với số hạt bụi trăm vạn thế giới. Ngài thành tựu căn lành công đức, hành Bồ Tát đạo, giáo hoá chúng sinh, cũng đồng với số hạt bụi trăm vạn thế giới. Giả sử, dùng nguyện lực của Ngài đã phát ra thuở xưa, tự tại thị hiện, thì sẽ hơn số vừa nói ở trên.
Bồ Tát đệ bát bất động địa, Bồ Tát đệ bát bất động địa
Ngã vi nhữ đẳng dĩ lược thuyết, Tôi vì đại chúng đã nói lược
Nhược dục thứ đệ quảng phân biệt, Nếu muốn thứ đệ nói rộng ra
Kinh ư ức kiếp bất năng tận. Trải trăm ức kiếp nói chẳng hết.
Giảng: Quá trình và cảnh giới của đại Bồ Tát Bất động Địa thứ tám tu học, tôi – Bồ Tát Kim Cang Tạng – hiện nay đã vì các vị lược nói xong. Nếu muốn nói tỉ mỉ thứ tự, thì e rằng trải qua trăm vạn ức kiếp, cũng nói không bao giờ hết được cảnh giới và tướng trạng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét