Kinh Hoa Nghiêm
Đại Phương Quảng Phật
giảng giải
Phẩm Thứ 39
Hòa Thượng TUYÊN HÓA
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Minh Ðịnh
— o0o —
Phẩm Vào Pháp Giới
Phần 2
— o0o —
Quyển 61
Nhĩ thời, Phổ Hiền Bồ-Tát Ma-ha-tát phổ quán nhất thiết Bồ Tát chúng hội, dĩ đẳng Pháp giới phương tiện, đẳng hư không giới phương tiện, đẳng chúng sanh giới phương tiện, đẳng tam thế, đẳng nhất thiết kiếp, đẳng nhất thiết chúng sanh nghiệp, đẳng nhất thiết chúng sanh dục, đẳng nhất thiết chúng sanh giải, đẳng nhất thiết chúng sanh căn, đẳng nhất thiết chúng sanh thành thục thời, đẳng nhất thiết pháp quang ảnh phương tiện, vi chư Bồ-tát, dĩ thập chủng Pháp cú khai phát, hiển thị, chiếu minh, diễn thuyết thử sư tử tần thân tam muội.
Bấy giờ đức Phổ Hiền Bồ Tát quán sát khắp tất cả chúng hội Bồ Tát, dùng phương tiện đồng pháp giới, phương tiện đồng hư không giới, phương tiện đồng chúng sanh giới, đồng tam thế, đồng tất cả kiếp, đồng tất cả chúng sanh nghiệp, đồng tất cả chúng sanh dục, đồng tất cả chúng sanh giải, đồng tất cả chúng sanh căn, đồng lúc tất cả chúng sanh thành thục, phương tiện đồng tất cả pháp quang ảnh, vì chư Bồ Tát, dùng mười thứ pháp cú, khai phát hiển thị, chiếu rõ diễn thuyết sư tử tần thân tâm muội này.
Giảng: Lúc đó, đại Bồ Tát Phổ Hiền quán sát khắp tất cả Bồ Tát đại chúng pháp hội. Bồ Tát Phổ Hiền dùng mười một thứ pháp môn phương tiện, khiến cho đại chúng pháp hội tại toà mắt thấy được thân chứng nhập định hiện tướng của Phật. Mười một thứ pháp môn phương tiện là:
1. Pháp môn phương tiện đồng pháp giới.
2. Pháp môn phương tiện đồng hư không giới.
3. Pháp môn phương tiện đồng chúng sinh giới.
4. Pháp môn phương tiện đồng ba đời.
5. Pháp môn phương tiện đồng tất cả kiếp.
6. Pháp môn phương tiện đồng tất cả chúng sinh nghiệp.
7. Pháp môn phương tiện đồng tất cả chúng sinh dục.
8. Pháp môn phương tiện đồng tất cả chúng sinh hiểu biết.
9. Pháp môn phương tiện đồng tất cả chúng sinh căn tánh.
10. Pháp môn phương tiện đồng tất cả chúng sinh thành thục thời.
11. Pháp môn phương tiện đồng tất cả pháp quang ảnh.
Sau đó Bồ Tát Phổ Hiền lại vì các đại Bồ Tát ở trong rừng Thệ Đa, dùng mười thứ câu pháp, khai phát hiển bày tất cả pháp môn, chiếu sáng diễn nói tất cả pháp môn, dùng đủ thứ pháp môn phương tiện, để diễn nói tam muội sư tử tần thân nầy của Như Lai.
Hà đẳng vi thập? sở vị:
Ðây là mười: Đó là:
Giảng: Những gì là mười câu pháp của Bồ Tát? Đó là:
Diễn thuyết năng thị hiện đẳng Pháp giới nhất thiết Phật sát vi trần trung, chư Phật xuất hưng thứ đệ, chư sát thành hoại thứ đệ Pháp cú
Diễn thuyết pháp cú có thể thị hiện đồng trong pháp giới tất cả Phật sát vi trần, chư Phật thứ đệ xuất thế, các cõi thứ đệ thành hoại.
Giảng: 1. Diễn nói câu pháp có thể thị hiện tất cả cõi Phật trong hạt bụi đồng pháp giới, chư Phật xuất hiện ra đời trước sau thứ lớp, các cõi nước chư Phật ở thành trụ hoại không thứ lớp.
Diễn thuyết năng thị hiện đẳng hư không giới nhất thiết Phật sát trung, tận vị lai kiếp tán thán Như Lai công đức âm thanh Pháp cú
Diễn thuyết pháp cú có thể thị hiện đồng trong hư không giới tất cả cõi Phật, tận vị lai kiếp âm thanh tán thán công đức của Như Lai.
Giảng: 2. Diễn nói câu pháp có thể thị hiện trong tất cả cõi Phật đồng cõi hư không, hết kiếp thuở vị lai, âm thanh tán thán công đức của Như Lai.
Diễn thuyết năng thị hiện đẳng hư không giới nhất thiết Phật sát trung, Như Lai xuất thế vô lượng vô biên thành chánh giác môn Pháp cú
Diễn thuyết pháp cú có thể thị hiện đồng trong hư không giới tất cả cõi Phật, Như Lai xuất thế vô lượng vô biên thành Chánh Giác môn.
Giảng: 3. Diễn nói câu pháp có thể thị hiện trong tất cả cõi Phật đồng cõi hư không, Như Lai xuất hiện ra đời vô lượng vô biên pháp môn thành thành Chánh Giác.
Diễn thuyết năng thị hiện đẳng hư không giới nhất thiết Phật sát trung, Phật tọa đạo tràng Bồ Tát chúng hội Pháp cú
Diễn thuyết pháp cú có thể thị hiện đồng trong hư không giới tất cả cõi Phật, đức Như Lai ngồi đạo tràng giữa chúng hội Bồ Tát.
Giảng: 4. Diễn nói câu pháp có thể thị hiện trong tất cả cõi Phật đồng cõi hư không, Phật ngồi đạo tràng chuyển bánh xe pháp, và tất cả Bồ Tát mười phương tụ hội.
Diễn thuyết ư nhất thiết mao khổng, niệm niệm xuất hiện đẳng tam thế nhất thiết Phật biến hóa thân sung mãn Pháp giới Pháp cú
Diễn thuyết pháp cú nơi tất cả lỗ lông niệm niệm xuất hiện đồng tam thế thân biện hóa của tất cả Chư Phật đầy khắp pháp giới.
Giảng: 5. Diễn nói câu pháp trong tất cả lỗ chân lông, niệm niệm xuất hiện, tất cả thân Phật biến hoá vô lượng vô biên đồng ba đời, đầy dẫy pháp giới.
Diễn thuyết năng lệnh nhất thân sung mãn thập phương nhất thiết sát hải, bình đẳng hiển hiện Pháp cú
Diễn thuyết pháp cú có thể làm cho một thân đầy khắp mười phương sát hải bình đẳng hiển hiện.
Giảng: 6. Diễn nói câu pháp có thể khiến một thân đầy dẫy mười phương tất cả biển cõi, bình đẳng hiển hiện.
Diễn thuyết năng lệnh nhất thiết chư cảnh giới trung, phổ hiện tam thế chư Phật thần biến Pháp cú
Diễn thuyết pháp cú có thể làm cho trong tất cả những cảnh giới hiện kháp tam thế Chư Phật thần biến.
Giảng: 7. Diễn nói câu pháp có thể khiến trong tất cả cảnh giới của chư Phật, khắp hiện thần thông biến hoá của chư Phật ba đời.
Diễn thuyết năng lệnh nhất thiết Phật sát vi trần trung, phổ hiện tam thế nhất thiết Phật sát vi trần số Phật chủng chủng thần biến Kinh vô lượng kiếp Pháp cú
Diễn thuyết pháp cú có thể làm cho trong tất cả Phật sát vi trần hiện khắp tam thế tất cả Phật sát vi trần số Phật, những thần trải qua vô lượng kiếp.
Giảng: 8. Diễn nói câu pháp có thể khiến cho trong cõi Phật nhiều như số hạt bụi, khắp thị hiện đủ thứ thần thông biến hoá của Phật nhiều như số hạt bụi tất cả cõi Phật ba đời, trải qua vô lượng kiếp.
Diễn thuyết năng lệnh nhất thiết mao khổng xuất sanh tam thế nhất thiết chư Phật Đại nguyện hải âm, tận vị lai kiếp khai phát hóa đạo nhất thiết Bồ Tát Pháp cú
Diễn thuyết pháp cú có thể làm cho tất cả lỗ lông xuất sanh âm tahnh đại nguyện hải của tất cả tam thế Chư Phật, tận vị lai kiếp, khai phát hóa đạo tất cả Bồ Tát.
Giảng: 9. Diễn nói câu pháp có thể khiến cho trong tất cả lỗ chân lông, sinh ra biển âm thanh đại nguyện của tất cả chư Phật ba đời, lại có thể hết kiếp vị lai, khai phát hoá độ tất cả chúng sinh và tất cả Bồ Tát.
Diễn thuyết năng lệnh Phật sư tử tọa lượng đồng Pháp giới, Bồ Tát chúng hội đạo tràng trang nghiêm đẳng vô sái biệt, tận vị lai kiếp chuyển ư chủng chủng vi diệu pháp luân Pháp cú
Diễn thuyết pháp cú có thẩ làm cho tòa sư tử củ Phật lượng đồng pháp giới, chúng hội Bồ Tát, đạo tràng trang nghiêm, tận vị lai kiếp chuyển những pháp luân vi diệu.
Giảng: 10. Diễn nói câu pháp có thể khiến cho toà sư tử của Phật to lớn lượng đồng pháp giới, Bồ Tát chúng hội đạo tràng cũng đều rất trang nghiêm, Bồ Tát cũng nhiều đồng pháp giới, sự trang nghiêm đó cũng đồng pháp giới, hết kiếp vị lai chuyển đủ thứ bánh xe pháp vi diệu.
Phật tử! thử thập vi thủ, hữu bất khả thuyết Phật sát vi trần số Pháp cú, giai thị Như Lai trí tuệ cảnh giới.
Chư Phật tử ! Mười Pháp cú này làm đầu, có bất khả thuyết Phật sát vi trần số pháp cú đều là cảnh giới trí huệ của đức Như Lai.
Giảng: Các vị Phật tử! Mười pháp môn câu pháp đó làm thượng thủ, có các câu pháp nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết cõi Phật, đều là cảnh giới trí huệ của Như Lai biến hoá ra.
Nhĩ thời, Phổ Hiền Bồ Tát dục trọng tuyên thử nghỉa, thừa Phật thần lực, quan sát Như Lai, quan sát chúng hội, quan sát chư Phật nan tư cảnh giới, quan sát chư Phật vô biên tam muội, quan sát bất khả tư nghị chư thế giới hải, quan sát bất khả tư nghị như huyễn Pháp trí, quan sát bất khả tư nghị tam thế chư Phật tất giai bình đẳng, quan sát nhất thiết vô lượng vô biên chư ngôn từ Pháp, nhi thuyết tụng ngôn
Lúc đó đức Phổ Hiền muốn tuyên lại nghĩa này, thừa Phật thần lực, quán sát đức Như Lai, quan sát chúng hội, quán sát cảnh giới khó nghĩ bàn của Phật, quán sát vô biên tam muội của Chư Phật, quán sát những thế giới hải bất tư nghì, quán sát pháp trí như huyễn bất tư nghì, quán sát tam thế Chư Phật bất tư nghì thảy đều bình đẳng, quán sát vô lượng vô biên tất cả những pháp ngôn từ, rồi nói kệ rằng:
Giảng: Bấy giờ, Bồ Tát Phổ Hiền lại muốn thuật lại nghĩa lý kinh văn, bèn nương thần lực của đức Phật Thích Ca Mâu Ni, quán sát tâm của Như Lai, quán sát tâm của hết thảy Bồ Tát chúng hội, quán sát cảnh giới khó nghĩ bàn của chư Phật, quán sát vô biên tam muội của chư Phật, quán sát các biển thế giới không thể nghĩ bàn, quán sát pháp trí huệ như huyễn không thể nghĩ bàn, quán sát ba đời chư Phật thảy đều bình đẳng không thể nghĩ bàn, quán sát tất cả các pháp lời lẽ của hết thảy chúng sinh vô lượng vô biên, sau đó dùng kệ để tường thuật lại ý nghĩa trường hàng ở trên.
Nhất nhất mao khổng trung Trong mỗi mỗi lỗ lông
Vi trần số sát hải Vi trần số sát hải
Tất hữu Như Lai tọa Ðều có đức Phật ngồi
Giai cụ Bồ Tát chúng Ðều đủ chúng Bồ Tát.
Trong mỗi lỗ chân lông, đều thị hiện biển cõi nhiều như số hạt bụi, trong mỗi biển cõi, đều có Phật đang ngồi ở dưới toà bồ đề, chuyển bánh xe pháp, lại có các chúng đại Bồ Tát từ mười phương tụ tập đến.
Nhất nhất mao khổng trung Trong mỗi mỗi lỗ lông
Vô lượng chư sát hải, Vô lượng những sát hải
Phật xứ Bồ-đề tòa Phật ngự tòa Bồ đề
Như thị biến Pháp giới. Khắp pháp giới như vậy.
Trong mỗi lỗ chân lông, lại có vô lượng biển cõi nhiều như số hạt bụi cõi Phật, ở trong biển cõi nhiều như số hạt bụi, đều có đức Phật đang ngồi ở dưới cội bồ đề, đầy khắp hư không pháp giới đều như vậy.
Nhất nhất mao khổng trung Trong mỗi mỗi lỗ lông
Nhất thiết sát trần Phật, Tất cả sát trần Phật
Bồ Tát chúng vi nhiễu Chúng Bồ Tát vây quanh
Vi thuyết Phổ Hiền hạnh Phật nói hạnh Phổ Hiền.
Trong mỗi lỗ chân lông, đều có vô lượng cõi Phật, ở trong mỗi cõi Phật, đều có vô lượng chư Phật đang ở đó chuyển bánh xe pháp, đại chúng Bồ Tát đang vây quanh ở đó, để diễn nói hạnh môn của Bồ Tát Phổ Hiền tu hành.
Phật tọa nhất quốc độ Phật ngồi một cõi nước
Sung mãn thập phương giới Ðầy khắp mười phương cõi
Vô lượng Bồ Tát vân Vô lượng chúng Bồ Tát
Hàm lai tập kỳ sở. Ðều vân tập chỗ Phật.
Đức Phật ngồi toà bồ đề trong một cõi nước, nhưng cảnh giới như vậy đầy khắp mười phương tất cả thế giới, có vô lượng Bồ Tát nhiều như mây, thảy đều vân tập đến đạo tràng của Phật.
Ức sát vi trần số Ức cõi vi trần số
Bồ Tát công đức hải, Bồ Tát công đức hải
Câu tùng hội trung khởi Ðều từ trong hội khởi
Biến mãn thập phương giới Ðầy khắp mười phương cõi.
Không biết có bao nhiêu cõi Phật, Bồ Tát nhiều như số hạt bụi, công đức của các Ngài như biển cả. Các Ngài từ các đạo tràng trong thế giới mười phương nhiều như số hạt bụi, đều vân tập đến thế giới Ta Bà nầy, đầy khắp mười phương thế giới.
Tất trụ Phổ Hiền hạnh Ðều trụ hạnh Phổ Hiền
Giai du Pháp giới hải Ðều đi biển pháp giới
Phổ Hiện-Nhất-Thiết sát Hiện khắp tất cả cõi
Đẳng nhập chư Phật hội. Ðồng nhập hội chư Phật.
Các Ngài trong quá khứ đều tu hành hạnh môn của Bồ Tát Phổ Hiền tu, cũng đều thành tựu du khắp biển pháp giới. Cho nên khắp thị hiện tất cả cõi Phật, khắp vào pháp hội của tất cả chư Phật.
An tọa nhất thiết sát Ngồi an tất cả cõi
Thính văn nhất thiết pháp Lắng nghe tất cả pháp
Nhất nhất quốc độ trung Trong mỗi mỗi quốc độ
Ức kiếp tu chư hạnh. Ức kiếp tu các hạnh.
Các Ngài an toạ trụ ở trong tất cả cõi Phật, chẳng động bổn toà, mà có thể lắng nghe tất cả các pháp. Trong mỗi cõi nước của chư Phật, các Ngài đều ở trong ức kiếp tu đủ thứ hạnh môn.
Bồ Tát sở tu hành Bồ Tát chỗ tu hành
Phổ minh pháp hải hạnh Khắp rõ pháp đại hải hạnh
Nhập ư Đại nguyện hải Vào nơi đại nguyện hải
Trụ Phật cảnh giới địa. Trụ cảnh giới của Phật.
Lục độ vạn hạnh của Bồ Tát tu hành, đều khắp cùng tất cả biển pháp môn, đều chứng được biển đại nguyện của các Ngài đã phát, cho nên hiện tại chỗ trụ của các Ngài đều là cảnh giới của Phật.
Liễu đạt Phổ Hiền hạnh Thấu rõ hạnh Phổ Hiền
Xuất sanh chư Phật Pháp Xuất sanh các Phật pháp
Cụ Phật công đức hải Ðủ Phật công hải
Quảng hiện thần thông sự. Rộng hiện sự thần thông.
Các Ngài cũng minh bạch hạnh môn của Bồ Tát Phổ Hiền tu hành, cho nên sinh ra hết thảy Phật của tất cả chư Phật, đầy đủ công đức của Phật, cho nên các Ngài hay thị hiện tất cả cảnh giới thần thông biến hoá rộng lớn.
Thân vân đẳng trần số Thân vân khắp trần số
Sung biến nhất thiết sát Ðầy khắp tất cả cõi
Phổ vũ cam lộ pháp Khắp mưa pháp cam lộ
Lệnh chúng trụ Phật đạo. Cho chúng trụ Phật đạo.
Thân mây của các Ngài nhiều như số hạt bụi, đầy khắp biển cõi của tất cả chư Phật. Những vị đại Bồ Tát đó đều khắp nói diệu pháp cam lồ, khiến cho hết thảy chúng sinh trụ trong đạo pháp chỗ của Phật trụ.
Nhĩ thời, Thế Tôn dục lệnh chư Bồ-tát an trụ Như Lai sư tử tần thân quảng đại tam muội cố, tùng my gian bạch hào tướng phóng đại quang minh, kỳ quang danh: phổ chiếu tam thế Pháp giới môn, dĩ ất khả thuyết Phật sát vi trần số quang minh nhi vi quyến thuộc, phổ chiếu thập phương nhất thiết thế giới hải chư Phật quốc độ.
Bấy giờ đức Thế tôn, vì muốn cho chư Bồ Tát an trụ trong Như Lai sư tử tần thân quảng đại tam muội, nên từ tướng bạch hào giữa chặng mày, phóng ra quang minh lớn gọi là phổ chiếu tam thế pháp giới môn, dùng bất khả thuyết Phật sát vi trần số quang minh mà làm quyến thuộc, chiếu khắp chư Phật quốc độ trong tất cả thế giới hải ở mười phương.
Giảng: Lúc đó, đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn khiến cho các Bồ Tát an trụ trong tam muội Sư tử tần thân rộng lớn của Như Lai, nên từ tướng hào quang trắng giữa lông mày, phóng ra đại quang minh. Từ dưới lông mày chủ quang thể dụng, đây là biểu thị đạo vô lậu chánh trí ở trong pháp giới, mới có thể chứng đắc hiện ra trước trong pháp giới. Quang minh đó tên là Phổ chiếu ba đời pháp giới môn, dùng các quang minh nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết cõi Phật làm quyến thuộc (câu nầy là biểu thị dùng bất khả thuyết quang minh, nhiếp thu quyến thuộc, trí sai biệt, đều nhập pháp giới), những quang minh quyến thuộc đó đều chiếu khắp hết thảy các cõi Phật mười phương tất cả biển thế giới.
Thời, Thệ đa lâm Bồ Tát Đại chúng, tất kiến nhất thiết tận Pháp giới, hư không giới nhất thiết Phật sát nhất nhất vi trần trung, các hữu nhất thiết Phật sát vi trần số chư Phật quốc độ, chủng chủng danh, chủng chủng sắc, chủng chủng thanh tịnh, chủng chủng trụ xứ, chủng chủng hình tướng.
Lúc đó tại rừng Thệ Ða, Bồ Tát đại chúng đều thấy tất cả cõi Phật khắp pháp giới hư không giới. Trong mỗi mỗi vi trần đều tất cả Phật sát vi trần số Phật độ những danh, những sắc, những thanh tịnh, những trụ xứ, nhưng hình tướng.
Giảng: Lúc đó, đại chúng Bồ Tát ở trong rừng Thệ Đa, đồng thời đều thấy được tất cả cõi Phật, tất cả tận pháp giới hư không giới. Trong mỗi mỗi hạt bụi trong hết thảy cõi Phật, đều có các cõi Phật nhiều như số hạt bụi tất cả cõi Phật. Phật có đủ thứ danh hiệu, đủ thứ sắc tướng, đủ thứ thanh tịnh, đủ thứ trụ xứ, đủ thứ hình tướng.
Như thị nhất thiết chư quốc độ trung, giai hữu đại Bồ-tát tọa ư đạo tràng sư tử tọa thượng thành đẳng chánh giác, Bồ Tát Đại chúng tiền hậu vi nhiễu, chư thế gian chủ nhi vi cúng dường
Trong tất cả Phật độ như vậy đều có đại Bồ Tát ngồi đạo tràng trên tòa sư tử thành Ðẳng Chánh Giác. Ðại chúng Bồ Tát trước sau vây quanh. Các Thế Gian Chủ thời cúng dường.
Giảng: Trong tất cả các cõi Phật như vậy, đều có đại Bồ Tát ngồi nơi đạo tràng trên toà sư tử thành Đẳng Chánh Giác – tức là thành Phật. Lại có đại chúng Bồ Tát vây quanh trước sau, hết thảy các ông vua của tất cả thế gian đều đến cúng dường Phật.
Hoặc kiến ư bất khả thuyết Phật sát lượng Đại chúng hội trung, xuất diệu âm thanh sung mãn Pháp giới, chuyển chánh Pháp luân. Hoặc kiến tại Thiên cung điện, long cung điện, dạ xoa cung điện, Càn thát bà, A-tu-la, Ca Lâu La, khẩn-na-la, Ma hầu la già, nhân, phi nhân đẳng chư cung điện trung
Hoặc thấy ở trong bất khả thuyết Phật sát chúng hôi phát ra âm thanh vi diệu đầy khắp pháp giới chuyển chánh pháp luân. Hoặc thấy tại Thiên cung điện, Long cung điện, dạ xoa cung điện, trong những cung điện của Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, Nhơn Phi Nhơn v.v…
Giảng: Hoặc thấy vô lượng đại chúng hội trong bất khả thuyết cõi Phật, vang ra âm thanh vi diệu, đầy khắp pháp giới, chuyển bánh xe chánh pháp vi diệu vô thượng. Hoặc thấy trong các cung điện Trời, hoặc thấy trong cung điện Long Vương, hoặc thấy trong cung điện Dạ Xoa, hoặc thấy trong cung điện Càn Thát Bà, hoặc thấy trong cung điện A Tu La, hoặc thấy trong cung điện Ca Lâu La, hoặc thấy trong cung điện Khẩn Na La, hoặc thấy trong cung điện Ma Hầu La Già,
Hoặc tại nhân gian thôn ấp tụ lạc, Vương đô Đại xứ, hiện chủng chủng tính, chủng chủng danh, chủng chủng thân, chủng chủng tướng, chủng chủng quang minh, trụ chủng chủng uy nghi, nhập chủng chủng tam muội, hiện chủng chủng thần biến, hoặc thời tự dĩ chủng chủng ngôn âm, hoặc lệnh chủng chủng chư Bồ-tát đẳng tại ư chủng chủng Đại chúng hội trung chủng chủng ngôn từ thuyết chủng chủng Pháp.
Hoặc thấy tại nhơn gian: Thôn ấp, tụ lạc, vương đô, đại xứ mà hiện những họ, những tên, những thân, những tướng, những quang minh. Trụ những oai nghi, nhập những tam muội, hiện những biến. Hoặc có lúc tự dùng những ngôn âm, hoặc làm cho những Bồ Tát ở trong những đại hội, dùng những ngôn từ thuyết những chánh pháp.
Giảng: Hoặc thấy trong cung điện người, chẳng phải người. Hoặc thấy thôn ấp tụ lạc tại nhân gian, hoặc thấy cung vua trong thành lớn. Hoặc hiện đủ thứ họ, đủ thứ tên, đủ thứ thân, đủ thứ tướng, đủ thứ quang minh. Trụ đủ thứ oai nghi, nhập đủ thứ tam muội. Lại thị hiện đủ thứ thần biến. Hoặc có lúc mình tự dùng đủ thứ lời nói và âm thanh, khiến cho đủ thứ các Bồ Tát, ở trong đủ thứ đại chúng hội, sử dụng đủ thứ lời lẽ, nói đủ thứ pháp môn.
Như thử hội trung, Bồ Tát Đại chúng kiến ư như thị chư Phật Như Lai thậm thâm tam muội đại thần thông lực
Trong hội này, đại chúng Bồ Tát thấy thậm thâm tam muội đại thần thôn lực, của chư Phật Như Lai như vậy.
Giảng: Như trong rừng Thệ Đa thế giới Ta Bà nầy, đại chúng Bồ Tát thấy đủ thứ quang minh tướng tốt của đức Phật, sức đại thần thông, và tam muội thâm sâu của chư Phật Như Lai như vậy.
Như thị tận Pháp giới, hư không giới, Đông, Tây, Nam, Bắc, tứ duy, thượng, hạ nhất thiết phương hải trung, y ư chúng sanh tâm tưởng nhi trụ, thủy tòng tiền tế chí kim hiện tại, nhất thiết quốc độ thân, nhất thiết chúng sanh thân, nhất thiết hư không đạo, kỳ trung nhất nhất mao đoan lượng xứ, nhất nhất các hữu vi trần số sát chủng chủng nghiệp khởi thứ đệ nhi trụ, tất hữu đạo tràng Bồ Tát chúng hội, giai diệc như thị kiến Phật thần lực, bất hoại tam thế, bất hoại thế gian, ư nhất thiết chúng sanh tâm trung hiện kỳ ảnh tượng, tùy nhất thiết chúng sanh tâm lạc xuất diệu ngôn âm, phổ nhập nhất thiết chúng hội trung, phổ Hiện-Nhất-Thiết chúng sanh tiền, sắc tướng hữu biệt, trí tuệ vô dị, tùy kỳ sở ưng khai thị Phật Pháp, giáo hóa điều phục nhất thiết chúng sanh vị tằng hưu tức
Khắp pháp giới hư không giới, trong tất cả mười phương, nương nơi tâm tưởng của chúng sanh mà an trụ. Bắt đầu từ tiền tế nhẫn đến hiện tại nay, tất cả quốc độ thân, tất cả chúng sanh thân, tất cả hư không đạo, trong đó, nơi chỗ bằng đầu lông, mỗi mỗi đều có vi trần số cõi, do những nghiệp mà có ra, thứ đệ an trụ. Cũng đều có đạo tràng. Bồ Tát chúng hội như vậy mà thấy thần lực của Phật, chẳng hoại tam thế, chẳng hoại thế gian, ở trong tâm của tất cả chúng sanh mà hiện hình tượng. Tùy theo tâm sở thích của tất cả chúng sanh mà phát ra ngôn âm vi diệu vào khắp trong tất cả chúng hội, hiện khắp trước tất cả chúng sanh. Sắc tướng có khác mà trí huệ không khác. Tùy sở nghi mà khai thị Phật pháp, giáo hoá điều phục tất cả chúng sanh chưa lúc nào nghĩ.
Giảng: Như vậy tận pháp giới, tận hư không giới, đông tây nam bắc bốn hướng trên dưới, trong tất cả biển mười phương, đều nương nơi tâm tưởng chúng sinh mà thành trụ. Bắt đầu từ thuở xưa, cho đến hiện tại, tất cả thân cõi nước, tất cả thân chúng sinh, tất cả đạo hư không. Trong đó mỗi mỗi chỗ bằng đầu sợi lông, mỗi mỗi đều có cõi nhiều như số hạt bụi, có đủ thứ nghiệp báo sinh khởi, thứ lớp mà trụ, đều có đạo tràng và Bồ Tát chúng hội vân tập ở trong đó.
Đều giống như ở thế giới Ta Bà, cũng đều thấy đại oai thần lực của Phật như vậy, chẳng hoại bổn thể của ba đời, cũng chẳng hoại tướng của thế gian. Ở trong tâm tất cả chúng sinh, mà hiện ra hình tượng của Ngài. Tuỳ tâm ưa thích của tất cả chúng sinh, mà vang ra âm thanh lời nói vi diệu. Khắp nhập vào trong tất cả chúng hội, khắp hiện ra ở trước tất cả chúng sinh. Tuy sắc tướng của Phật có khác nhau, nhưng trí huệ của Phật không khác. Tuỳ chúng sinh đáng được giáo hoá, mà khai thị Phật pháp, giáo hoá điều phục tất cả chúng sinh, lúc nào cũng chuyển bánh xe pháp, chưa từng nghỉ ngơi.
Kỳ hữu kiến thử Phật thần lực giả, giai thị Tỳ Lô Giá Na Như Lai ư vãng tích thời thiện căn nhiếp thọ, hoặc tích tằng dĩ tứ nhiếp sở nhiếp, hoặc thị kiến văn ức niệm thân cận chi sở thành thục, hoặc thị vãng tích giáo kỳ lệnh phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm, hoặc thị vãng tích ư chư Phật sở đồng chủng thiện căn, hoặc thị quá khứ dĩ nhất thiết trí thiện xảo phương tiện giáo hóa thành thục, thị cố giai đắc nhập ư Như Lai bất khả tư nghị thậm thâm tam muội; tận Pháp giới, hư không giới đại thần thông lực, hoặc nhập Pháp thân, hoặc nhập sắc thân, hoặc nhập vãng tích sở thành tựu hạnh, hoặc nhập viên mãn chư Ba-la-mật, hoặc nhập trang nghiêm thanh tịnh hạnh luân, hoặc nhập Bồ Tát chư địa, hoặc nhập thành chánh giác lực, hoặc nhập Phật sở trụ tam muội vô sái biệt Đại thần biến, hoặc nhập Như Lai lực, vô úy trí, hoặc nhập Phật vô ngại biện tài hải.
Những ai thấy được thần lực này, thời đều do sự nhiếp thọ của thiện căn thuở quá khứ của đức Tỳ Lô Giá Na Như Lai. Hoặc thuở xưa từng dùng pháp Tứ Nhiếp để nhiếp. Hoặc là thấy nghe, nhớ nghĩ, thân cận mà được thành thục. Hoặc là ngày trước dạy cho phát tâm Vô thượng Bồ đề. Hoặc thuở xưa ở chỗ chư Phật đồng gieo căn lành. Hoặc là quá khứ dùng Nhứt Thiết trí thiện xảo phương tiện giáo hoá thành thục. Thế nên đều nhập nơi bất tư nghì thậm thân tam muội đại thần lực khắp pháp giới hư không của Như Lai. Hoặc nhập pháp thân hoặc sắc thân, hoặc nhập hạnh đã thành tựu thuở xưa. Hoặc nhập viên mãn các môn Ba la mật, hoặc nhập hạnh luân trang nghiêm thanh tịnh, hoặc nhập các bực Bồ Tát, hoặc nhập sức thành Chánh giác. Hoặc nhập tam muội vô sai biệt đại thần biến của Ðức Phật an trụ. Hoặc nhập trí lực, trí vô úy của Như Lai. Hoặc nhập biển vô ngại biện tài của Chư Phật.
Giảng: Nếu ai thấy được thần lực đó của Phật, đều do căn lành thuở xưa của Tỳ Lô Giá Na Như Lai nhiếp thọ tất cả chúng sinh đó, cho nên họ mới thấy được thần lực của Phật. Hoặc thuở xưa đã từng dùng bốn pháp nhiếp (bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự) để nhiếp thọ tất cả chúng sinh. Hoặc là thuở xưa đã từng thấy Phật, đã nghe Phật thuyết pháp, nghĩ nhớ tới Phật, gần gũi Phật, căn lành đã thành thục. Hoặc là thuở xưa Phật Tỳ Lô Giá Na đã giáo hoá họ, khiến cho họ phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Hoặc là thuở xưa ở trong đạo tràng của chư Phật đồng gieo trồng căn lành. Hoặc là quá khứ Phật dùng nhất thiết trí huệ pháp môn phương tiện thiện xảo giáo hoá thành thục.
Bởi nguyên nhân đó, cho nên họ đều nhập vào được tam muội thâm sâu không thể nghĩ bàn, sức đại thần thông tận pháp giới tận hư không giới của Như Lai. Hoặc nhập vào pháp thân Phật. Hoặc nhập vào sắc thân Phật. Hoặc nhập vào hạnh thành tựu thuở xưa. Hoặc nhập vào các pháp Ba La Mật viên mãn. Hoặc chứng nhập vào hạnh luân tu hành trang nghiêm thanh tịnh. Hoặc chứng nhập vào các địa Bồ Tát khác nhau. Hoặc chứng nhập vào bậc thành Chánh Giác. Hoặc nhập vào pháp môn tam muội không khác biệt đại thần thông biến hoá chỗ trụ của Phật. Hoặc chứng nhập vào mười lực của Như Lai và bốn trí huệ vô uý. Hoặc chứng nhập vào biển biện tài vô ngại của Phật.
Mười lực tức là:
1. Trí lực biết xứ phi xứ. Tức là trí lực biết đạo lý và chẳng phải đạo lý của tất cả sự vật.
2. Trí lực biết nghiệp báo ba đời, tức là trí lực biết nhân quả nghiệp báo của tất cả chúng sinh ba đời.
3. Trí lực biết các thiền giải thoát tam muội, tức là trí lực biết các thứ thiền định và giải thoát tam muội.
4. Trí lực biết các căn thắng liệt, tức là trí lực biết căn tánh lợi độn, thắng liệt của chúng sinh và đắc quả lớn nhỏ.
5. Trí lực biết đủ thứ kiến giải, tức là trí lực biết đủ thứ kiến giải của tất cả chúng sinh.
6. Trí lực biết đủ thứ cõi, tức là trí lực biết khắp đủ thứ cảnh giới khác nhau của chúng sinh.
7. Trí lực biết tất cả chí sở đạo, tức là trí lực biết tất cả chúng sinh hành đạo nhân quả.
8. Trí lực biết thiên nhãn vô ngại, tức là trí lực hay dùng thiên nhãn thấy chúng sinh sinh tử và thiện ác nghiệp báo mà không chướng ngại.
9. Trí lực biết túc mạng vô lậu, tức là trí lực biết túc mạng của chúng sinh và vô lậu Niết Bàn.
10. Trí lực biết vĩnh đoạn tập khí, đối với tất cả vọng hoặc tập khí, vĩnh đoạn chẳng sinh, biết được như thật.
Bốn lực vô uý:
1. Nhất thiết trí vô sở uý: Tức là Phật có nhất thiết trí, cho nên không có tâm sợ hãi.
2. Lậu tận vô sở uý: Tức là Phật đã đoạn sạch tất cả phiền não, cho nên chẳng có tâm sợ hãi.
3. Nói chướng đạo vô sở uý: Tức là Phật nói rõ với đại chúng, đủ thứ pháp chướng ngại Phật đạo, chẳng có tâm sợ hãi.
4. Nói đạo hết khổ vô sở uý: Tức là Phật nói rõ với đại chúng, đủ thứ đạo lý có thể diệt trừ khổ, chẳng có tâm sợ hãi.
Bỉ chư Bồ-tát dĩ chủng chủng giải, chủng chủng đạo, chủng chủng môn, chủng chủng nhập, chủng chủng lý thú, chủng chủng tùy thuận, chủng chủng trí tuệ, chủng chủng trợ đạo, chủng chủng phương tiện, chủng chủng tam muội, nhập như thị đẳng thập bất khả thuyết Phật sát vi trần số Phật thần biến hải phương tiện môn.
Chư Bồ Tát đó dùng những giải, những đạo, những môn, những nhập, những lý thú, những tùy thuận, những trí huệ, những trợ đạo, những phương tiện, những tam muội mà nhập mười bất khả thuyết Phật sát vi trần số Phật thần biến hải phương tiện môn như vậy.
Giảng: Các Bồ Tát đó, đều dùng đủ thứ sự hiểu biết, dùng đủ thứ đạo, dùng đủ thứ môn, dùng đủ thứ nhập vào, dùng đủ thứ lý thú, dùng đủ thứ tuỳ thuận, dùng đủ thứ trí huệ, dùng đủ thứ trợ đạo, dùng đủ thứ pháp môn phương tiện, dùng đủ thứ tam muội. Nhập vào pháp môn phương tiện biển thần thông của Phật nhiều như số hạt bụi mười bất khả thuyết cõi Phật như vậy.
Vân hà chủng chủng tam muội?
Thế nào là những tam muội ?
Giảng: Đức Phật diễn nói đủ thứ những tam muội gì?
Sở vị:
Phổ trang nghiêm Pháp giới tam muội,
Phổ chiếu nhất thiết tam thế vô ngại cảnh giới tam muội,
Pháp giới vô sái biệt trí quang minh tam muội,
Nhập Như Lai cảnh giới bất động chuyển tam muội,
Phổ chiếu vô biên hư không tam-muội, nhập Như Lai lực tam muội,
Phật vô úy dũng mãnh phấn tấn trang nghiêm tam muội,
Những là:
Phổ trang nghiêm pháp giới tam muội,
Phổ chiếu nhứt thiết tam thế vô ngại cảnh giới tam muội,
Pháp giới vô sai biệt trí quang minh tam muội,
Nhập Như Lai cảnh giới bất động chuyển tam muội,
Phổ chiếu vô biên hư không tam muội,
Nhập Như Lai lực tam muội,
Phật vô úy dũng mãnh phấn tấn trang nghiêm tam muội,
Giảng: Đó là: Tam muội khắp trang nghiêm pháp giới. Nhập vào tam muội nầy, thì hay khiến cho pháp giới khắp trang nghiêm vi diệu (tức cũng có nghĩa là tần thân hiện tịnh độ). Các tam muội dưới đây đều là nghĩa khác của tần thân đại dụng).
Lại có tam muội chiếu khắp tất cả cảnh giới ba đời vô ngại.
Lại có tam muội trí quang minh pháp giới không khác biệt.
Lại có tam muội vào cảnh giới Như Lai không động chuyển.
Lại có tam muội chiếu khắp vô biên hư không.
Tam muội vào lực Như Lai.
Lại có tam muội Phật vô uý dũng mãnh phấn tấn trang nghiêm.
Nhất thiết pháp giới toàn chuyển tạng tam muội,
Như nguyệt phổ hiện nhất thiết pháp giới dĩ vô ngại âm Đại khai diễn tam muội,
Phổ thanh tịnh Pháp quang minh tam muội,
Vô ngại tăng pháp vương tràng tam muội,
Nhất nhất cảnh giới trung tất kiến nhất thiết chư Phật hải tam muội,
Ư nhất thiết thế gian tất hiện thân tam muội,
Nhập Như Lai vô sái biệt thân cảnh giới tam muội,
Tùy nhất thiết thế gian chuyển đại bi tạng tam muội,
Nhứt thiết pháp giới triền chuyển tạng tam muội,
Như nguyệt phổ hiện nhứt thiết pháp giới dĩ vô ngại âm đại khai diễn tam muội,
Phổ thanh tịnh pháp quang minh tam muội,
Vô ngại tắng Pháp Vương tràng tam muội,
Nhứt nhứt cảnh giới trung tất kiến nhứt thiết Chư Phật hải tam muội,
Ư nhứt thiết thế gian tất hiện thân tam muội,
Nhập Như Lai vô sai biệt thân cảnh giới tam muội,
Tùy nhứt thiết thế gian chuyển đại bi tạng tam muội,
Lại có tam muội tất cả pháp giới triền chuyển tạng.
Giảng: Lại có tam muội như mặt trăng hiện khắp tất cả pháp giới dùng đại âm thanh vô ngại đại khai diễn.
Lại có tam muội khắp thanh tịnh pháp quang minh.
Lại có tam muội lụa pháp vương tràng vô ngại.
Lại có tam muội trong mỗi mỗi cảnh giới đều thấy tất cả biển chư Phật.
Lại có tam muội nơi tất cả thế gian đều hiện thân.
Lại có tam muội vào cảnh giới thân Như Lai không khác biệt.
Lại có tam muội tuỳ tất cả thế gian chuyển đại bi tạng.
Lại có tam muội tất cả pháp giới triền chuyển tạng.
Tri nhất thiết pháp vô hữu tích tam muội,
Tri nhất thiết pháp cứu cánh tịch diệt tam muội,
Tuy vô sở đắc nhi năng biến hóa phổ hiện thế gian tam muội,
Phổ nhập nhất thiết sát tam muội,
Trang nghiêm nhất thiết Phật sát thành chánh giác tam muội,
Quán nhất thiết thế gian chủ sắc tướng sái biệt tam muội,
Quán nhất thiết chúng sanh cảnh giới vô chướng ngại tam muội,
Năng xuất sanh nhất thiết Như Lai mẫu tam muội,
Năng tu hành nhập nhất thiết Phật hải công đức đạo tam muội,
Nhất nhất cảnh giới trung xuất hiện thần biến tận vị lai tế tam muội,
Tri nhứt thiết pháp vô hữu tích tam muội,
Tri nhứt thiết pháp cứu cánh tịch diệt tam muội,
Tuy vô sở đắc nhi năng biến hóa phổ hiện thế gian tam muội,
Phổ nhập nhứt thiết sát tam muội
Trang nghiêm nhứt thiết Phật sát thành chánh giác tam muội,
Quán nhứt thiết thế gian chủ sắc tướng sai biệt tam muội,
Quán nhứt thiết chúng sanh cảnh giới vô chướng ngại tam muội,
Năng xuất sanh nhứt thiết Như Lai mẫu tam muội,
Năng tu hành nhập nhứt thiết Phật hải công đức đạo tam muội,
Nhứt nhứt cảnh giới trung xuất hiện thần biến tận vị lai tế tam muội,
Giảng: Lại có tam muội biết tất cả pháp không dấu vết, tức là:
“Quét tất cả pháp, lìa tất cả tướng”.
“Các pháp từ xưa nay
Thường tự tướng tịch diệt
Không thể dùng lời nói”.
Lại có tam muội biết tất cả pháp rốt ráo tịch diệt.
Lại có tam muội tuy không chỗ đắc mà hay biến hoá hiện khắp thế gian.
Lại có tam muội vào khắp tất cả cõi.
Lại có tam muội trang nghiêm tất cả cõi Phật thành Chánh Giác.
Lại có tam muội quán tất cả thế gian chủ sắc tướng khác nhau.
Lại có tam muội quán cảnh giới tất cả chúng sinh không chướng ngại.
Lại có tam muội hay sinh ra mẹ tất cả Như Lai.
Lại có tam muội hay tu hành nhập vào đạo biển công đức tất cả chư Phật.
Lại có tam muội trong mỗi mỗi cảnh giới xuất hiện thần biến hết kiếp thuở vị lai.
Nhập nhất thiết Như Lai bổn sự hải tam muội,
Tận vị lai tế hộ trì nhất thiết Như Lai chủng tánh tam muội,
Dĩ quyết định giải lực lệnh hiện tại thập phương nhất thiết Phật sát hải giai thanh tịnh tam muội,
Nhất niệm trung phổ chiếu nhất thiết Phật sở trụ tam muội,
Nhập nhất thiết cảnh giới vô ngại tế tam muội,
Lệnh nhất thiết thế giới vi nhất Phật sát tam muội,
Xuất nhất thiết Phật biến hóa thân tam muội,
Dĩ Kim Cương vương trí tri nhất thiết chư căn hải tam muội,
Tri nhất thiết Như Lai đồng nhất thân tam muội,
Tri nhất thiết pháp giới sở an lập tất trụ tâm niệm tế tam muội,
Nhập nhứt thiết Như Lai bổn sự hải tam muội,
Tận vị lai tế hộ trì nhứt thiết Như Lai chủng tánh tam muội,
Dĩ quyết định giải lực linh hiện tại thập phương nhứt thiết Phật sát hải giai thanh tịnh tam muội,
Nhứt niệm trung phổ chiếu nhứt thiết Phật sở trụ tam muội,
Nhập nhứt thiết cảnh giới vô ngại tế tam muội,
Linh nhứt thiết thế giới vi nhứt Phật sát tam muội,
Xuất nhứt thiết Phật biến hóa thân tam muội,
Dĩ Kim Cang vương trí tri nhứt thiết chư căn hải tam muội,
Tri nhứt thiết Như Lai đồng nhứt thân tam muội,
Tri nhứt thiết pháp giới sở an lập tất trụ tâm niệm tế tam muội,
Giảng: Lại có tam muội vào biển bổn sự của tất cả Như Lai.
Lại có tam muội hết thuở vị lai hộ trì tất cả giống tánh Như Lai.
Lại có tam muội dùng lực hiểu biết quyết định khiến tất cả biển cõi Phật hiện tại đều thanh tịnh.
Lại có tam muội trong một niệm chiếu khắp chỗ trụ của tất cả chư Phật.
Lại có tam muội vào bờ mé tất cả cảnh giới vô ngại.
Lại có tam muội khiến tất cả thế giới làm một cõi Phật.
Lại có tam muội xuất hiện tất cả thân biến hoá của Phật.
Lại có tam muội dùng trí vương kim cang biết tất cả biển các căn.
Lại có tam muội biết tất cả Như Lai đồng một thân.
Lại có tam muội biết tất cả pháp giới sở an lập đều trụ bờ mé tâm niệm.
Ư nhất thiết Pháp giới quảng đại quốc độ trung thị hiện Niết-Bàn tam muội,
Lệnh trụ tối thượng xứ tam muội,
Ư nhất thiết Phật sát hiện chủng chủng chúng sanh sái biệt thân tam muội,
Phổ nhập nhất thiết Phật trí tuệ tam muội,
Tri nhất thiết pháp tánh tướng tam muội,
Nhất niệm phổ tri tam thế Pháp tam muội,
Niệm niệm trung phổ hiện pháp giới thân tam muội,
Dĩ sư tử dũng mãnh trí tri nhất thiết Như Lai xuất hưng thứ đệ tam muội,
Ư nhất thiết Pháp giới cảnh giới Tuệ-nhãn viên mãn tam muội,
Dũng mãnh thú hướng thập lực tam muội,
Ư nhứt thiết pháp giới quảng đại quốc độ trung thị hiện Niết bàn tam muội,
Linh trụ tối thượng xứ tam muội,
Ư nhứt thiết Phật sát hiên chủng chủng chúng sanh sai biệt thân tam muội,
Phổ nhập nhứt thiết Phật trí huệ tam muội,
Tri nhứt thiết pháp tánh tướng tam muội,
Nhứt niệm phổ tri tam thế pháp tam muội,
Niệm niệm trung phổ hiện pháp giới thân tam muội,
Dĩ sư tử dũng mãnh trí tri nhứt thiết Như Lai xuất hưng thứ đệ tam muội,
Ư nhứt thiết pháp giới cảnh giới huệ nhản viên mãn tam muội,
Dũng mãnh xu hướng thập lực tam muội,
Giảng: Lại có tam muội trong cõi nước rộng lớn nơi tất cả pháp giới, thị hiện Niết Bàn.
Lại có tam muội khiến tất cả chúng sinh trụ nơi tối thượng.
Lại có tam muội ở trong tất cả cõi Phật, hiện đủ thứ thân chúng sinh khác nhau.
Lại có tam muội nhập vào khắp tất cả Phật trí huệ.
Lại có tam muội biết tánh tướng của tất cả pháp.
Lại có tam muội trong một niệm, biết khắp pháp ba đời.
Lại có tam muội trong niệm niệm, thân hiện khắp pháp giới.
Lại có tam muội dùng trí sư tử dũng mãnh, biết tất cả Như Lai xuất hiện ra đời thứ lớp.
Lại có tam muội cảnh giới nơi tất cả pháp giới, mắt trí huệ viên mãn.
Lại có tam muội dũng mãnh hướng về thập lực của Phật.
Phóng nhất thiết công đức viên mãn quang minh phổ chiếu thế gian tam muội,
Bất động tạng tam muội,
Thuyết nhất pháp phổ nhập nhất thiết pháp tam muội,
Ư nhất pháp dĩ nhất thiết ngôn âm sái biệt huấn thích tam muội,
Diễn thuyết nhất thiết Phật vô nhị Pháp tam muội,
Tri tam thế vô ngại tế tam muội,
Tri nhất thiết kiếp vô sái biệt tam muội,
Nhập thập lực vi tế phương tiện tam muội,
Ư nhất thiết kiếp thành tựu nhất thiết Bồ Tát hạnh bất đoạn tuyệt tam muội,
Thập phương phổ hiện thân tam muội,
Phóng nhứt thiết công đức viên mãn quang minh phổ chiếu thế gian tam muội,
Bất động tạng tam muội,
Thuyết nhứt pháp phổ nhập nhất thiết pháp tam muội,
Ư nhứt pháp dĩ nhứt thiết ngôn âm sai biệt huấn thích tam muội,
Diễn thuyết nhứt thiết Phật vô nhị pháp tam muội,
Tri tam thế vô ngại tế tam muội,
Tri nhứt thiết kiếp vô sai biệt tam muội,
Nhập thập lực vi tế phương tiện tam muội,
Ư nhứt thiết kiếp thành tựu nhứt thiết Bồ Tát hạnh bất đoạn tuyệt tam muội,
Thập phương phổ hiện thân tam muội,
Giảng: Lại có tam muội phóng ra quang minh tất cả công đức viên mãn, chiếu khắp tất cả thế gian.
Lại có tam muội tạng bất động. Lại có tam muội nói một pháp mà vào khắp tất cả pháp môn.
Lại có tam muội nơi một pháp, dùng tất cả lời nói và âm thanh khác nhau để giáo huấn tất cả chúng sinh, vì chúng sinh giải thích.
Lại có tam muội diễn nói pháp môn không hai của tất cả chư Phật.
Lại có tam muội biết bờ mé ba đời chẳng có chướng ngại.
Lại có tam muội biết tất cả kiếp không khác biệt.
Lại có tam muội phương tiện chứng nhập thập lực vi tế của Phật.
Lại có tam muội nơi tất cả kiếp thành tựu tất cả Bồ Tát hạnh, không bao giờ không đoạn tuyệt.
Lại có tam muội thân hiện khắp mười phương.
Ư Pháp giới tự tại thành chánh giác tam muội,
Sanh nhất thiết an ổn thọ tam muội,
Xuất nhất thiết trang nghiêm cụ trang nghiêm hư không giới tam muội,
Niệm niệm trung xuất đẳng chúng sanh số biến hóa thân vân tam muội,
Như Lai tịnh không nguyệt quang minh tam muội,
Thường kiến nhất thiết Như Lai trụ hư không tam-muội,
Khai thị nhất thiết Phật trang nghiêm tam muội,
Chiếu minh nhất thiết pháp nghĩa đăng tam muội,
Chiếu thập lực cảnh giới tam muội,
Tam thế nhất thiết Phật tràng tưởng tam muội,
Ư pháp giới tự tại thành chánh giác tam muội,
Sanh nhứt thiết an ổn thọ tam muội,
Xuất nhứt thiết trang nghiêm cụ trang nghiêm hư không giới tam muội,
Niệm niệm trung xuất đẳng chúng sanh số biến hóa thân vân tam muội,
Như Lai tịnh không nguyệt quang minh tam muội,
Thường kiến nhứt thiết Như Lai trụ hư không tam muội,
Khai thị nhứt thiết Phật trang nghiêm tam muội,
Chiếu minh nhứt thiết pháp nghĩa đăng tam muội,
Chiếu thập lực cảnh giới tam muội,
Tam thế nhứt thiết Phật tràng tướng tam muội
Giảng: Lại có tam muội nơi pháp giới tự tại thành tựu quả Phật.
Lại có tam muội sinh tất cả thọ an ổn.
Lại có tam muội xuất hiện tất cả đồ trang nghiêm để trang nghiêm cõi hư không.
Lại có tam muội trong niệm niệm xuất hiện thân mây biến hoá đồng số chúng sinh.
Lại có tam muội Như Lai tịnh không nguyệt quang minh.
Lại có tam muội thường thấy tất cả Như Lai trụ hư không.
Lại có tam muội khai thị tất cả Phật trang nghiêm.
Lại có tam muội đèn chiếu sáng tất cả pháp nghĩa.
Lại có tam muội chiếu cảnh giới thập lực.
Lại có tam muội tất cả Phật tràng tướng ba đời.
Nhất thiết Phật nhất mật tạng tam muội,
Niệm niệm trung sở tác giai cứu cánh tam muội,
Vô tận phước đức tạng tam muội,
Kiến vô biên Phật cảnh giới tam muội,
Kiên trụ nhất thiết pháp tam muội,
Hiện nhất thiết Như Lai biến hóa tất lệnh tri kiến tam muội,
Niệm niệm trung Phật nhật thường xuất hiện tam muội,
Nhất nhật trung tất tri tam thế sở hữu Pháp tam muội,
Phổ âm diễn thuyết nhất thiết pháp tánh tịch diệt tam muội,
Kiến nhất thiết Phật tự tại lực tam muội,
Nhứt thiết Phật nhứt mật tạng tam muội,
Niệm niệm trung sở tác giai cứu cánh tam muội,
Vô tận phước đức tạng tam muội,
Kiến vô biên Phật cảnh giới tam muội,
Kiên trụ nhứt thiết pháp tam muội,
Hiện nhứt thiết Như Lai biến hóa tất linh tri kiến tam muội,
Niệm niệm trung Phật nhựt thường xuất hiện tam muội,
Nhứt nhựt trung tất tri tam thế sở hữu pháp tam muội,
Phổ âm diễn thuyết nhứt thiết pháp tánh tịch diệt tam muội,
Kiến nhứt thiết Phật tự tại lực tam muội,
Giảng: Lại có tam muội tất cả Phật một mật tạng.
Lại có tam muội trong niệm niệm chỗ làm đều rốt ráo.
Lại có tam muội vô tận phước đức tạng.
Lại có tam muội thấy vô biên cảnh giới Phật.
Lại có tam muội kiên trụ tất cả pháp.
Lại có tam muội hiện tất cả Như Lai biến hoá đều khiến thấy biết.
Lại có tam muội trong niệm niệm Phật nhựt thường xuất hiện.
Lại có tam muội trong một ngày đều biết hết thảy pháp ba đời.
Lại có tam muội phổ âm diễn nói tất cả pháp tánh tịch diệt.
Lại có tam muội thấy tất cả lực tự tại của Phật.
Pháp giới khai phu liên hoa tam muội,
Quán chư Pháp như hư không vô trụ xứ tam muội,
Thập phương hải phổ nhập nhất phương tam muội,
Nhập nhất thiết pháp giới vô nguyên để tam muội,
Nhất thiết pháp hải tam muội,
Dĩ tịch tĩnh thân phóng nhất thiết quang minh tam muội,
Nhất niệm trung Hiện-Nhất-Thiết thần thông đại nguyện tam muội,
Nhất thiết thời nhất thiết xứ thành chánh giác tam muội,
Dĩ nhất trang nghiêm nhập nhất thiết pháp giới tam muội,
Phổ hiện nhất thiết chư Phật thân tam muội,
Pháp giới khai phu liên hoa tam muội,
Quán chư pháp như hư không vô trụ xứ tam muội,
Thập phương hải phổ nhập nhứt phương tam muội,
Nhập nhứt thiết pháp giới vô nguyên để tam muội,
Dĩ tịch tịnh thân phóng nhứt thiết quang minh tam muội,
Nhứt niệm trung hiện nhất thiết thần thông đại nguyện tam muội,
Nhất thiết thời nhất thiết xứ thành chánh giác tam muội,
Dĩ nhất trang nghiêm nhập nhất thiết pháp giới tam muội,
Phổ hiện nhất thiết chư Phật thân tam muội
Giảng: Lại có tam muội pháp giới khai phu liên hoa.
Lại có tam muội quán sát các pháp như hư không chẳng có trụ xứ.
Lại có tam muội biển mười phương khắp vào một phương.
Lại có tam muội vào tất cả pháp giới không đáy nguồn.
Lại có tam muội tất cả biển pháp.
Lại có tam muội dùng thân tịch tĩnh phóng tất cả quang minh.
Lại có tam muội trong một niệm hiện ra tất cả thần thông biến hoá đại nguyện lực.
Lại có tam muội tất cả thời tất cả nơi thành Chánh Giác.
Lại có tam muội dùng một trang nghiêm vào tất cả pháp giới trang nghiêm.
Lại có tam muội thân hiện khắp tất cả chư Phật.
Tri nhất thiết chúng sanh chủng chủng sái biệt thần thông trí tam muội,
Tri nhất thiết chúng sanh quảng đại thù thắng thần thông trí tam muội,
Nhất niệm trung kỳ thân biến Pháp giới tam muội,
Hiện nhất thừa tịnh pháp giới tam muội,
Nhập Phổ môn Pháp giới thị hiện đại trang nghiêm tam muội,
Trụ trì nhất thiết Phật Pháp luân tam muội,
Dĩ nhất thiết pháp môn trang nghiêm nhất Pháp môn tam muội,
Dĩ nhân đà la võng nguyện hạnh nhiếp nhất thiết chúng sanh giới tam muội,
Phân biệt nhất thiết thế giới môn tam muội,
Thừa liên hoa tự tại du bộ tam muội,
Tri nhất thiết chúng sanh chủng chủng sái biệt thần thông trí tam muội,
Tri nhất thiết chúng sanh quảng đại thù thắng thần thông trí tam muội,
Nhứt niệm trung kỳ thân biến pháp giới tam muội,
Hiện nhất thừa tịnh pháp giới tam muội,
Nhập phổ môn pháp giới thị hiện đại trang nghiêm tam muội,
Trụ trì nhứt thiết Phật pháp luân tam muội,
Dĩ nhứt thiết pháp môn trang nghiêm nhứt pháp môn tam muội,
Dĩ nhơn đà la võng nguyện hạnh nhiếp nhất thiết chúng sanh giới tam muội,
Phân biệt nhất thiết thế giới môn tam muội,
Thừa liên hoa tự tại du bộ tam muội,
Giảng: Tri nhất thiết chúng sanh chủng chủng sai biệt thần thông trí tam muội
Lại có tam muội thần thông trí biết tất cả chúng sinh rộng lớn thù thắng.
Lại có tam muội trong một niệm thân đó đầy khắp pháp giới.
Lại có tam muội hiện một thừa thanh tịnh pháp giới.
Lại có tam muội chứng nhập phổ môn pháp giới thị hiện đại trang nghiêm.
Lại có tam muội trụ trì tất cả bánh xe Phật pháp.
Lại có tam muội dùng tất cả pháp môn trang nghiêm một pháp môn.
Lại có tam muội dùng lưới nhân đà la hạnh nguyện để nhiếp tất cả cõi chúng sinh.
Lại có tam muội phân biệt tất cả thế giới môn.
Lại có tam muội ngồi hoa sen tự tại du bộ.
Lại có tam muội biết thần thông trí huệ của tất cả chúng sinh đủ thứ sự khác biệt.
Lệnh kỳ thân hằng Hiện-Nhất-Thiết chúng sanh tiền tam muội,
Tri nhất thiết chúng sanh sái biệt âm thanh ngôn từ hải tam muội,
Tri nhất thiết chúng sanh sái biệt trí thần thông tam muội,
Đại bi bình đẳng tạng tam muội,
Nhất thiết Phật nhập Như Lai tế tam muội,
Quán sát nhất thiết Như Lai giải thoát xứ sư tử tần thân tam muội
Linh kỳ thân hằng hiện nhất thiết chúng sanh tiền tam muội,
Tri nhất thiết chúng sanh sai biệt âm thanh ngôn từ hải tam muội,
Tri nhất thiết chúng sanh sai biệt trí thần thông tam muội,
Đại bi bình đẳng tạng tam muội,
Nhứt thiết Phật nhập Như Lai tế tam muội,
Quán sát nhất thiết Như Lai giải thoát xứ sư tử tần thân tam muội.
Giảng: Bồ Tát lại có tam muội khiến thân Ngài luôn hiện ra ở trước tất cả chúng sinh.
Lại có tam muội biết biển âm thanh lời lẽ khác nhau của tất cả chúng sinh.
Lại có tam muội biết trí huệ thần thông khác nhau của tất cả chúng sinh.
Lại có tam muội tạng đại bi bình đẳng.
Lại có tam muội tất cả chư Phật vào bờ mé Như Lai.
Lại có tam muội quán sát nơi giải thoát sư tử tần thân của tất cả Như Lai.
Bồ Tát dĩ như thị đẳng bất khả thuyết Phật sát vi trần số tam muội, nhập Tỳ Lô Giá Na Như Lai niệm niệm sung mãn nhất thiết pháp giới tam muội thần biến hải.
Bồ tát dùng bất khả thuyết Phật sát vi trần số tam muội như vậy mà nhập Tỳ Lô Giá Na Như Lai niệm niệm sung mãn nhất thiết pháp giới tam muội thần biến hải.
Giảng: Những vị đại Bồ Tát đó dùng các tam muội nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết cõi Phật như vậy, chứng nhập vào Tỳ Lô Giá Na Như Lai, niệm niệm đầy khắp biển tam muội thần biến tất cả pháp giới.
Kỳ chư Bồ-tát giai tất cụ túc đại trí thần thông, minh lợi tự tại, trụ ư chư địa, dĩ quảng đại trí phổ quán nhất thiết; tùng chư trí tuệ chủng tánh nhi sanh, nhất thiết trí trí thường hiện tại tiền, đắc ly si ế thanh tịnh trí nhãn,
Chư Bồ Tát đó thảy đều đầy đủ đại trí thần thông minh lợi tự tại, trụ ở trí địa, dù những trí quảng đại quán sát khắp tất cả từ những trí huệ chủng tánh mà sanh, nhứt thiết chủng trí thường hiện ở trứơc, được trí nhãn thanh tịnh rời si lòa,
Giảng: Các Bồ Tát đó, thảy đều đầy đủ đại trí huệ thần thông, sáng suốt tự tại, trụ nơi các địa của Bồ Tát sở chứng. Các Ngài dùng trí huệ rộng lớn, quán sát khắp tất cả. Các Ngài từ trí huệ giống tánh của hết thảy tất cả Bồ Tát mà sinh ra. Trí huệ nhất thiết trí thường hiện ra ở trước, đắc được mắt trí huệ thanh tịnh lìa màng ngu si. Đoạn văn nầy là chỉ đức trí lập cao thâm của Bồ Tát.
Vi chư chúng sanh tác điều Ngự Sư. Trụ Phật bình đẳng, ư nhất thiết Pháp vô hữu phân biệt; liễu đạt cảnh giới, tri chư thế gian tánh giai tịch diệt vô hữu y xứ; phổ nghệ nhất thiết chư Phật quốc độ nhi vô sở trước, tất năng quan sát nhất thiết chư pháp nhi vô sở trụ, biến nhập nhất thiết diệu pháp cung điện nhi vô sở lai; giáo hóa điều phục nhất thiết thế gian, phổ vi chúng sanh hiện an ẩn xứ; trí tuệ giải thoát, vi kỳ sở hạnh; hằng dĩ trí thân trụ ly tham tế, siêu chư hữu hải, thị chân thật tế
Vì các chúng sanh làm Ðiều Ngự Sư. Trụ Phật bình đẳng, nơi tất cả pháp không có phân biệt, thấu rõ cảnh giới, biết các thế gian tánh đều tịch diệt không có chỗ y tựa. Ðến khắp cõi nước của tất cả chư Phật mà không chấp trước. Ðều có thể quan sát tất cả các pháp mà chẳng trụ. Vào khắp tất cả diệu pháp cung điện mà không chỗ đến. Giáo hóa điều tất cả thế gian khắp vì tất cả chúng sanh mà hiện nơi an ổn. Trí huệ giải thoát là chỗ đi của các Ngài. Hằng dùng trí thân ở nơi ly tham, siêu việt biển hữu lậu mà hiển bày chơn thiệt tế.
Giảng: Các ngài vì hết thảy chúng sinh làm Điều Ngự Sư, trụ chỗ bình đẳng của Phật. Nơi tất cả pháp chẳng có phân biệt, thấu rõ thông đạt cảnh giới. Lại biết biển tánh tất cả thế gian đều tịch diệt, không chỗ nương tựa. Các Ngài đến khắp tất cả cõi nước chư Phật, giáo hoá chúng sinh mà không chấp trước. Các Ngài đều quán sát tất cả các pháp mà không chỗ trụ, do đó có câu: “Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm”. Các Ngài vào khắp cung điện tất cả diệu pháp mà không chỗ đến, giáo hoá điều phục tất cả hết thảy chúng sinh thế gian, khắp vì chúng sinh hiện cõi nước bình an. Đoạn văn nầy chỉ đức điều sinh vô nhiễm của Bồ Tát, tức cũng là tam luân nghiêm tịnh. Các Ngài dùng trí huệ giải thoát vì hết thảy chúng sinh nói pháp tu hành, các Ngài luôn dùng thân trí huệ trụ bờ mé lìa tham cầu. Vượt thoát tất cả biển cõi (cõi dục giới, cõi sắc giới, cõi vô sắc giới), vì chúng sinh chỉ bày đạo lý chân thật.
Trí quang viên mãn, phổ kiến chư Pháp; trụ ư tam muội, kiên cố bất động; ư chư chúng sanh hằng khởi đại bi, tri chư Pháp môn tất giai như huyễn, nhất thiết chúng sanh tất giai như mộng, nhất thiết Như Lai tất giai như ảnh, nhất thiết ngôn âm tất giai như hưởng, nhất thiết chư pháp tất giai như hóa; thiện năng tích tập thù thắng hạnh nguyện, trí tuệ viên mãn, thanh tịnh thiện xảo, tâm cực tịch tĩnh;
Trí quang viên mãn thấy khắp các pháp. Trụ nơi tam muội kiên cố bất động. Với các chúng sanh hằng khởi đại bi. Biết các pháp môn thảy đều như huyễn, tất cả chúng sanh thảy như mộng, tất cả Như Lai thảy đều như bóng, tất cả ngôn âm thảy đều như vang, tất cả pháp thảy đều như hóa, có thể khéo chứa nhóm hạnh nguyện thù thắng. Trí huệ viên mãn thanh tịnh thiện xảo tâm rất tịch tịnh.
Giảng: Trí huệ quang minh của các Ngài viên mãn, thấy khắp tất cả pháp, trụ nơi tam muội, kiên cố bất động. Đối với tất cả chúng sinh, luôn khởi tâm đại bi. Biết các pháp môn thảy đều như huyễn, tất cả chúng sinh thảy đều như mộng, tất cả Như Lai thảy đều như bóng, tất cả lời nói thảy đều như vang, tất cả các pháp thảy đều như hoá. Các Ngài khéo hay tích tập hạnh nguyện thù thắng, trí huệ viên mãn, thanh tịnh khéo léo, trong tâm rất tịch tĩnh.
Thiện nhập nhất thiết tổng trì cảnh giới, cụ tam muội lực, dũng mãnh vô khiếp; hoạch minh trí nhãn, trụ pháp giới tế, đáo nhất thiết pháp vô sở đắc xứ; tu tập vô nhai trí tuệ đại hải, đáo trí Ba-la-mật cứu cánh bỉ ngạn, vi át-nhã Ba-la-mật chi sở nhiếp trì; dĩ thần thông Ba-la-mật phổ nhập thế gian, y tam muội Ba-la-mật đắc tâm tự tại; dĩ bất điên đảo trí tri nhất thiết nghĩa, dĩ xảo phân biệt trí khai thị Pháp tạng, dĩ hiện liễu trí huấn thích văn từ, dĩ đại nguyện lực thuyết Pháp vô tận, dĩ vô sở úy Đại sư tử hống; thường lạc quan sát vô y xứ Pháp, dĩ tịnh Pháp nhãn phổ quán nhất thiết, dĩ tịnh trí nguyệt chiếu thế thành hoại, dĩ trí tuệ quang chiếu chân thật đế
Khéo nhập tất cả cảnh giới tổng trì. Ðủ sức tam muội dũng mãnh không kiếp. Ðược trí nhãn sáng suốt trụ pháp giới tế. Ðến chỗ vô sở đắc của tất cả pháp. Tu tập trí huệ đải hải không bờ. Ðến Trí Ba la mật rốt ráo bỉ ngạn. Ðược Bát Nhã Ba la mật nhiếp trì. Dùng Thần thông Ba la mật vào khắp thế gian. Nuơng Tam muội Ba la mật được tâm tự tại. Dùng trí chẳng điên đảo biết tất cả nghĩa. Dùng trí xảo phân biệt khai thị pháp tạng. Dùng trí hiển hiện biết rõ để giải thích văn từ. Dùng nguyện lực lớn thuyết pháp vô tận. Dùng vô sở uý để đại sư tử hống. Thường thích quán sát pháp không chỗ nương. Dùng tịnh pháp nhãn quán sát khắp tất cả. Dùng tịnh trí nguyệt chiếu thế gian thành hoại. Dùng trí huệ quang chiếu chơn thiệt đế.
Giảng: Các Ngài khéo vào tất cả cảnh giới tổng trì (Đà la ni), đầy đủ lực tam muội, dũng mãnh tinh tấn hướng về trước không có tơ hào khiếp nhược. Chúng ta nên dùng bốn chữ “Dũng mãnh không sợ” để làm kim châm sự tu đạo. Các Ngài đắc được mắt đại trí huệ sáng suốt, trụ nơi pháp giới rộng lớn, mà đạt đến nơi tất cả pháp không chỗ đắc, tu tập biển đại trí huệ không bờ mé, đến được trí huệ Ba La Mật bờ bên kia rốt ráo. Các Ngài được Bát Nhã Ba La Mật đại trí huệ nhiếp trì, dùng thần thông Ba La Mật vào khắp tất cả thế gian, nương tam muội Ba La Mật đắc được tâm tự tại. Đoạn văn nầy nói rõ đức thành tựu viên mãn các độ của các Bồ Tát. Các Ngài dùng trí huệ không điên đảo, biết được nghĩa lý tất cả các pháp. Dùng trí huệ phương tiện khéo léo phân biệt, khai thị tất cả pháp tạng. Dùng trí huệ hiện ra rất rõ ràng, dùng đủ thứ văn từ để giáo huấn giải thích cho tất cả chúng sinh, khiến cho họ dễ hiểu. Lại dùng nguyện lực rộng lớn, nói pháp đó vô cùng vô tận. Lại dùng đại sư tử hống không sợ hãi bất cứ gì hết, thường hoan hỉ quán sát pháp không chỗ nương tựa, mà chính mình kiên lập nên. Lại dùng mắt pháp thanh tịnh, quán sát khắp tất cả chúng sinh. Lại dùng trí nguyệt thanh tịnh, để chiếu sáng thành trụ hoại không bốn giai đoạn của thế gian. Lại dùng trí huệ quang, chiếu sáng đế lý chân thật.
Phước đức trí tuệ như Kim Cương sơn, nhất thiết thí dụ sở bất năng cập; thiện quán chư Pháp, tuệ căn tăng trưởng; dũng mãnh tinh tấn, tồi phục chúng ma; vô lượng trí tuệ, uy quang sí thịnh; kỳ thân siêu xuất nhất thiết thế gian, đắc nhất thiết pháp vô ngại trí tuệ, thiện năng ngộ giải tận, vô tận tế; trụ ư phổ tế, nhập chân thật tế, vô tướng quán trí thường hiện tại tiền; thiện xảo thành tựu chư Bồ-tát hạnh, dĩ vô nhị trí tri chư cảnh giới, phổ kiến nhất thiết thế gian chư thú, biến vãng nhất thiết chư Phật quốc độ; trí đăng viên mãn, ư nhất thiết Pháp vô chư ám chướng, phóng tịnh Pháp quang chiếu thập phương giới
Phước đức trí huệ như núi kim cang, tất cả ví dụ không thể đến được. Khéo quán sát các pháp huệ căn tăng trưởng. Dũng mạnh tinh tấn xô dẹp chúng ma. Vô lượng trí huệ oai quang xí thạnh. Thân của các ngài siêu xuất tất cả thế gian. Ðược trí huệ vô ngại đối tất cả pháp. Khéo hay tỏ ngộ ngằn mé tận vô tận. Trụ ở ngằm mé phổ biến nhập vào ngằn mé chơn thiệt. Quán trí vô tướng thường hiện ra trước. Thiện xảo thành tựu các hạnh Bồ Tát. Dùng trí vô nhị biết các cảnh giới. Thấy khắp tất cả những loài ở thế gian. Trụ khắp tất cả quốc độ của chư Phật. Trí đăng viên mãn, với tất cả pháp không chướng ngại. Phóng tịnh pháp quang chiếu mười phương cõi.
Giảng: Các Ngài phước đức trí huệ kiên cố như núi kim cang, tất cả ví dụ không thể đến được. Các Ngài khéo quán sát các pháp, trí huệ căn tăng trưởng, dũng mãnh tinh tấn, hàng phục tất cả chúng ma. Vô lượng trí huệ, oai quang xí thạnh, thân của các Ngài đã vượt thoát tất cả thế gian, đắc được trí huệ tất cả pháp không chướng ngại. Các Ngài khéo ngộ hiểu bờ mé pháp môn rốt ráo cùng tận và không cùng tận. Các Ngài đều trụ nơi bờ mé khắp cùng, chứng nhập bờ mé chân thật, tức là chẳng có chút sự tạo tác nào, chẳng có chút hư nguỵ nào, tức là bản lai tự tại, không thêm tạo tác, không thêm tu học, đó tức là vào chân thật tế, đạt đến quả vị vô học. Chứng nhập bờ mé chân thật rồi, khế hợp với diệu quán sát trí vô tướng. Vô tướng tức là tức tướng chẳng phải tướng, tức tướng vô tướng, chẳng phải lìa khỏi tướng mà vô tướng, mà là ở tại tướng mà chẳng chấp tướng, tức tướng lìa tướng, nhập vào tam muội vô tướng. Khôi phục diệu quán sát trí, trí huệ nầy, thường thường hiện tiền, mà chẳng mất đi. Đoạn văn nầy là chỉ đức trí lực vô uý của Bồ Tát.
Các Ngài dùng đủ thứ pháp môn phương tiện khéo léo, để tu hành thành tựu các hạnh của Bồ Tát tu, tức cũng là tự lợi lợi tha, tự giác giác tha, tự độ độ tha. Dùng trí huệ vốn có, không chướng ngại, không phân biệt, chiếu rõ tất cả cảnh giới, giống như tấm gương, việc đến thì chiếu, việc đi thì ẩn, tất cả cảnh giới hiện tiền, người chuyển được cảnh giới, mà cảnh giới không chuyển được người. Người không thể tuỳ tánh chuyển, tánh phải tuỳ người chuyển, cho nên bất cứ là nghịch cảnh hay là thuận cảnh, đều phải như như bất động, không bị cảnh giới chuyển. Các Ngài chẳng những hiểu rõ pháp xuất thế gian, mà cũng hiễu rõ khắp các cõi tất cả thế gian, ví như cõi lành, cõi ác. Lại có thể đến khắp tất cả cõi nước chư Phật trong mười phương.
Vi chư thế gian chân thật phước điền, nhược kiến nhược văn sở nguyện giai mãn, phước đức cao Đại siêu chư thế gian, dũng mãnh vô úy tồi chư ngoại đạo; diễn vi diệu âm biến nhất thiết sát, phổ kiến chư Phật tâm Vô yếm túc; ư Phật Pháp thân dĩ đắc tự tại, tùy sở ưng hóa nhi vi hiện thân, nhất thân sung mãn nhất thiết Phật sát; dĩ đắc tự tại thanh tịnh thần thông, thừa đại trí châu, sở vãng vô ngại, trí tuệ viên mãn chu biến pháp giới; thí như nhật xuất phổ chiếu thế gian, tùy chúng sanh tâm hiện kỳ sắc tượng; tri chư chúng sanh căn tánh dục nhạc, nhập nhất thiết pháp vô tránh cảnh giới; tri chư pháp tánh vô sanh vô khởi, năng lệnh tiểu đại tự tại tướng nhập
Là phước điền chơn thiệt của thế gian. Hoặc thấy hoặc nghe sở nguyện đều viên mãn. Phước đức cao lớn vượt hơn các thế gian. Dũng mãnh vô uý dẹp các ngoại đạo. Diễn thuyết pháp âm khắp tất cả cõi. Thấy khắp chư khắp chư Phật không có lòng nhàm đủ. Nơi pháp thân của Phật đã được tự tại. Tùy cơ nghi hóa độ mà vì họ hiện thân. Một thân đầy khắp tất cả cõi Phật. Ðã được thần thông thanh tịnh tư tại. Ngồi thuyền đại trí đến lui vô ngại. Trí huệ viên mãn khắp cùng pháp giới, như mặt nhựt mọc lên chiếu khắp thế gian. Tùy tâm của chúng sanh mà hiện sắc tượng. Biết rõ căn tánh dục lạc của tất cả chúng sanh. Nhập vào cảnh giới vô tránh của tất cả pháp. Biết pháp tánh không sanh không khởi. Có thể làm pháp lớn pháp nhỏ nhập vào nhau tự tại.
Giảng: Trí huệ của các Ngài viên mãn quang minh giống như đèn sáng. Đối với tất cả pháp của Phật nói, đều thấu rõ triệt để, không có chút vô minh ám chướng nào. Không có ám chướng tức cũng là phá vô minh, hiển pháp tánh. Các Ngài phóng quang minh pháp thanh tịnh, để chiếu sáng mười phương hết thảy các cõi, vì các chúng sinh thế gian làm ruộng phước chân thật, hay khiến cho chúng sinh thế gian tăng phước tăng huệ.
Nếu có ai thấy vị Bồ Tát đó, hoặc nghe được danh hiệu của vị Bồ Tát đó, thì sở nguyện cầu của họ đều được toại tâm mãn nguyện, công chẳng luống mất. Phước đức của Bồ Tát rất sâu dày, vượt qua tất cả thế gian. Thế gian chẳng có người nào có thể so sánh với Bồ Tát. Dũng mãnh tinh tấn hướng về trước, không có tơ hào sợ hãi, chẳng giống như chúng ta, hôm nay sợ cái này, mai lại sợ cái kia, hôm nay sợ ma, ngày mai sợ Phật, ngày mốt sợ người, ngày kia lại sợ súc sinh, ngày nọ lại sợ đoạ địa ngục. Bồ Tát chẳng sợ gì hết, hay phá tan các ngoại đạo. Thế nào gọi là ngoại đạo? Ngoại đạo là cầu pháp ngoài tâm, chấp có, chấp không, Bồ Tát hay diễn nói pháp âm vi diệu, khắp cùng tất cả cõi Phật. Đoạn văn nầy nói về đức thành tựu hạnh xưa của Bồ Tát.
Bồ Tát luôn luôn nhìn thấy khắp chư Phật mười phương ba đời, trong tâm không bao giờ cảm thấy nhàm chán, hoặc cảm giác thấy Phật đã đủ rồi, không còn muốn thấy nữa, Bồ Tát không bao giờ có cảm giác đó. Lúc nào Ngài cũng chẳng có cảm giác nhàm đủ, cho nên Bồ Tát cũng có tâm tham, bất quá chẳng giống tâm tham của chúng ta. Tâm tham của Bồ Tát là tham thấy Phật, còn tâm tham của chúng ta là tham thấy tiền, có chút khác nhau tại chỗ nầy. Tuy có một chút khác nhau, nhưng “Sai một ly, đi ngàn dặm”, cho nên mọi người phải đặc biết chú ý điểm nầy. Các đại Bồ Tát tức nhiên đối với Phật pháp không nhàm đủ, luôn luôn muốn gặp Phật. Đối với pháp thân của Phật, đã đắc được nhậm vận tự tại. Phàm là các Ngài đáng được sự giáo hoá chúng sinh nào, thì đều vì chúng sinh đó mà hiện thân thuyết pháp. Bồ Tát dùng một báo thân, có thể hiện thân đầy khắp tất cả cõi Phật. Đoạn văn nầy là chỉ đức pháp thân viên mãn của Bồ Tát.
Bồ Tát đã đắc được sức thần thông tự tại thanh tịnh. Ngài ngồi thuyền đại trí huệ, chỗ đến đều vô ngại. Trí huệ của Ngài cũng viên mãn, cho nên khắp cùng pháp giới. Ví như mặt trời mọc trong hư không, chiếu sáng khắp hết thảy chúng sinh thế gian. Tuỳ tâm niệm của chúng sinh, hiện ra sắc tướng của Ngài. Ngài biết căn tánh ưa muốn của các chúng sinh, cho nên Ngài nhập vào cảnh giới tất cả pháp vô tranh, luôn thuận chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh hoan hỉ, Ngài với tất cả chúng sinh đều không tranh. Ngài biết tự tánh của tất cả các pháp không sinh, không diệt, Ngài hay khiến cho lớn nhỏ tự tại vào với nhau, lớn chẳng ngại nhỏ, nhỏ chẳng ngại lớn; lớn có thể vào nhỏ, mà không chướng ngại; nhỏ có thể vào lớn, cũng không chướng ngại, cho nên lớn nhỏ vào được với nhau.
Quyết liễu Phật địa thậm thâm chi thú, dĩ vô tận cú thuyết thậm thâm nghĩa, ư nhất cú trung diễn thuyết nhất thiết tu-đa-la hải; hoạch đại trí tuệ Đà-la-ni thân, phàm sở thọ trì vĩnh vô vong thất; nhất niệm năng ức vô lượng kiếp sự, nhất niệm tất tri tam thế nhất thiết chư chúng sanh trí; hằng dĩ nhất thiết đà-la-ni môn, diễn thuyết vô biên chư Phật Pháp hải, thường chuyển bất thoái thanh tịnh Pháp luân, lệnh chư chúng sanh giai sanh trí tuệ; đắc Phật cảnh giới trí tuệ quang minh, nhập ư thiện kiến thậm thâm tam muội
Quyết rõ lý thú thậm thâm của Phật địa. Dùng vô tận cú nói nghĩa thậm thâm. Ở trong một câu diễn thuyết tất cả biển tu đa la. Ðược thân trí huệ đà la ni. Phàm những pháp đã thọ trì thời vĩnh viễn không quên mất. Một niệm có thể nhớ những sự việc trong vô lượng kiếp. Trong một niệm biết rõ trí của tất cả tam thế chúng sanh. Hằng dùng tất cả môn đà la ni diễn thuyết vô biên pháp hải của chư Phật. Thường chuyển pháp luân thanh tịnh bất thối, làm cho các chúng sanh đều sanh trí huệ. Ðược Phật cảnh giới trí huệ quang minh. Nhập vào nơi thiện kiến thậm thâm tam muội.
Giảng: Bồ Tát có thể giải quyết rõ lý thú quả vị Phật thâm sâu, dùng câu vô cùng tận nói diệu nghĩa Phật pháp thâm sâu. Trong một câu, thường diễn nói tất cả biển Kinh điển (Tu Đa La), tức cũng là:
“Một làm vô lượng
Vô lượng làm một.
Một gốc tán làm vạn thù
Vạn thù trở về một gốc”.
Bồ Tát đắc được pháp thân đại trí huệ tổng trì (Đà La Ni). Phàm là chỗ Ngài thọ trì tất cả Phật pháp, vĩnh viễn không quên mất. Chẳng giống như chúng ta học Kinh, trải qua lâu ngày thì chẳng còn nhớ nữa, đọc tới, đọc lui, chẳng quên câu trước, thì quên câu sau, ở giữa cũng chẳng nhớ. Bồ Tát vĩnh viễn chẳng quên mất, ở trong một niệm, Ngài nhớ được sự việc trong vô lượng kiếp. Trong một niệm, Ngài đều biết trí huệ của tất cả các chúng sinh đời quá khứ, đời hiện tại, đời vị lai ba đời. Hay dùng đại trí huệ bánh xe pháp để giáo hoá chúng sinh. Các vị đại Bồ Tát, luôn luôn dùng tất cả pháp môn tổng trì (Đà La Ni), diễn nói vô biên biển các Phật pháp và Kinh điển của Phật nói, lại thường luôn luôn chuyển bánh xe pháp thanh tịnh không thối chuyển, lại hay khiến cho các chúng sinh đều sinh ra đại trí huệ. Đoạn văn nầy nói rõ đức biện tài tự tại của Bồ Tát. Các Ngài đều đắc được cảnh giới viên dung vô ngại của Phật, trí huệ quang minh, nhập vào định thâm sâu khéo thấy.
Nhập nhất thiết pháp vô chướng ngại tế, ư nhất thiết Pháp thắng trí tự tại, nhất thiết cảnh giới thanh tịnh trang nghiêm; phổ nhập thập phương nhất thiết pháp giới, tùy kỳ phương sở mị bất hàm chí; nhất nhất trần trung hiện thành chánh giác, ư vô sắc tánh Hiện-Nhất-Thiết sắc, dĩ nhất thiết phương phổ nhập nhất phương
Nhập vào ngằn mé vô chướng của tất cả pháp. Với tất cả pháp được thắng trí tự tại. Tất cả cảnh giới đều thanh tịnh trang nghiêm. Vào khắp tất cả pháp giới mười phương. Tùy xứ sở kia đều đến tất cả. Trong mỗi mỗi vi trần hiện thành Chánh Giác. Nơi tánh vô sắc hiện tất cả sắc. Ðem tất cả phương vào khắp một phương.
Giảng: Nhập vào tất cả pháp, không có bờ mé chướng ngại. Đối với tất cả pháp đều có trí huệ thù thắng nhậm vận tự tại. Tất cả cảnh giới đều thanh tịnh trang nghiêm. Vào khắp mười phương tất cả pháp giới, tuỳ theo phương sở thảy đều đi đến. Đoạn văn nầy nói đức tam muội thần biến của Bồ Tát. Các Ngài ở trong mỗi hạt bụi đều hiện thành Phật. Nơi tánh vốn chẳng có sắc tướng, mà có thể thị hiện tất cả sắc tướng. Các Ngài hay dùng mười phương, khắp vào một phương, một phương lại vào khắp mười phương. Đoạn văn nầy nói rõ đức thành Đẳng Chánh Giác của Bồ Tát.
Kỳ chư Bồ-tát cụ như thị đẳng vô biên phước trí công đức chi tạng, thường vi chư Phật chi sở xưng thán, chủng chủng ngôn từ thuyết kỳ công đức bất năng lệnh tận, mị bất hàm tại Thệ đa lâm trung, thâm nhập Như Lai công đức đại hải, tất kiến ư Phật quang minh sở chiếu.
Chư Bồ Tát này đủ vô biên tạng phước đức trí huệ như vậy. Thường được chư Phật khen ngợi. Bao nhiêu ngôn từ nói công đức của các Ngài cũng không hết được. Tất cả chư Bồ Tát này đều ở trong Thệ Ða. Sâu vào biển công đức lớn của Như Lai. Ðều thấy quang minh chiếu sáng của đức Phật.
Giảng: Các Bồ Tát đó, đầy đủ vô biên phước trí công đức tạng như ở trước đã nói. Thường được tất cả chư Phật mười phương tán thán khen ngợi, dùng đủ thứ lời lẽ nói công đức của Bồ Tát, cũng không thể nào nói hết được. Những vị đại Bồ Tát đó, đều ở lầu các báu trong rừng Thệ Đa, thâm nhập biển công đức của Như Lai, đều hợp với công đức của Phật mà làm một, thành tựu biển công đức. Các Ngài đều nhìn thấy quang minh của Phật chiếu đến tất cả đại chúng.
Nhĩ thời, chư Bồ-tát đắc bất tư nghị chánh pháp quang minh, tâm đại hoan hỉ, các ư kỳ thân cập dĩ lâu các, chư trang nghiêm cụ, tinh kỳ sở tọa sư tử chi tọa, biến Thệ đa lâm nhất thiết vật trung, hóa hiện chủng chủng đại trang nghiêm vân, sung mãn nhất thiết thập phương Pháp giới.
Lúc đó chư Bồ Tát được bất tư nghì chánh pháp quang minh, lòng trất hoan hỷ. Ðều ở trên thân mình, cùng lâu các và những đồ trang nghiêm với toà sư tử đương ngồi, trong tất cả vật khắp rừng Thệ Ða, hóa hiện các thứ mây đại trang nghiêm, đầy khắp tất cả thập phương pháp giới.
Giảng: Lúc đó, các đại Bồ Tát đều đắc được chánh pháp quang minh không thể nghĩ bàn, trong tâm rất hoan hỉ vui mừng. Mỗi vị Bồ Tát nơi thân của mình và dùng lầu các đủ thứ hết thảy đồ trang nghiêm, thăng lên ngồi trên toà sư tử của mình, đều đầy khắp trong rừng Thệ Đa. Mỗi một vật đều có hoá thân của các Ngài, hoá hiện đủ thứ mây đại trang nghiêm tốt đẹp, đầy khắp tất cả mười phương pháp giới, chẳng những thế giới Ta Bà là như thế, mà mười phương thế giới khác cũng đều như thế.
Sở vị: ư niệm niệm trung phóng đại quang minh vân, sung mãn thập phương, tất năng khai ngộ nhất thiết chúng sanh; xuất nhất thiết ma-ni bảo linh vân, sung mãn thập phương, xuất vi diệu âm, xưng dương tán thán tam thế chư Phật nhất thiết công đức; xuất nhất thiết âm nhạc vân, sung mãn thập phương, âm trung diễn thuyết nhất thiết chúng sanh chư nghiệp quả báo; xuất nhất thiết Bồ Tát chủng chủng nguyện hành sắc tướng vân, sung mãn thập phương, thuyết chư Bồ-tát sở hữu đại nguyện; xuất nhất thiết Như Lai tự tại biến hóa vân, sung mãn thập phương, diễn xuất nhất thiết chư Phật Như Lai ngữ ngôn âm thanh
Ở trong mỗi niệm phóng ra mây đại quang minh đầy khắp mười phương, đều có thể khai ngộ tất cả chúng sanh. Hiện ra mây ma ni bửu linh đầy khắp mười phương, phát âm thanh vi diệu ca tụng khen ngợi tất cả công đức của tam thế chư Phật. Hiện ra tất cả mây âm nhạc đầy khắp mười phương. Trong âm nhạc diễn nói những nghiệp quả báo của tất cả chúng sanh. Hiện ra mây những nguyện hạnh sắc tướng của tất cả Bồ Tát đầy khắp mười phương, diễn nói đại nguyện của chư Bồ Tát. Hiện ra mây tự tại biến hoá của tất cả Như Lai, đầy khắp mười phương, diễn nói ngôn ngữ âm thanh của tất cả chư Phật Như Lai.
Giảng: Đó là trong mỗi niệm, đều phóng ra mây đại quang minh, đầy khắp mười phương, đều có thể khai ngộ tất cả chúng sinh, khiến cho họ bỏ mê về giác, lìa khổ được vui. Lại hiện ra mây tất cả linh báu ma ni, đầy khắp mười phương, trong hư không vang ra âm thanh vi diệu, tán thán khen ngợi tất cả công đức của chư Phật đời quá khứ, đời hiện tại, đời vị lai ba đời. Lại hiện ra mây vang ra tất cả âm nhạc, bao hàm hết thảy âm nhạc rất hay, đầy khắp mười phương. Trong diệu âm diễn nói các thứ nghiệp tạo ra và thọ lấy quả báo của tất cả chúng sinh. Nghĩa là nói các vị nên biết:
“Trồng nhân lành thì được quả lành
Trồng nhân ác thì được quả ác”.
“Giết cha người ta, thì người ta cũng giết lại cha mình. Giết em người ta, thì người ta giết em mình”. Bạn giết người, thì người cũng giết bạn. Hổ tương giết hại lẫn nhau, không khi nào chấm dứt. Trong hư không tự nhiên diễn nói diệu âm không thể nghĩ bàn đó, nói : “Bạn đừng hại người, thì người cũng sẽ không hại bạn”. Lại hiện ra mây đủ thứ hạnh nguyện sắc tướng của tất cả Bồ Tát, cũng đầy khắp mười phương thế giới, diễn nói hết thảy đại nguyện của các Bồ Tát. Lại hiện ra mây tất cả tự tại biến hoá của Như Lai, đầy khắp mười phương thế giới, nói ra âm thanh lời nói của tất cả chư Phật Như Lai.
Các vị hãy nhìn xem, hết thảy Bồ Tát trong quá khứ phát ra đại nguyện, các nguyện lực đó đều tận hư không khắp pháp giới. Hôm nay ngày vía Bồ Tát Quán Thế Âm thành đạo, cũng có mấy vị phát nguyện, đó đều là cảnh giới không thể nghĩ bàn.
Xuất nhất thiết Bồ Tát tướng hảo trang nghiêm thân vân, sung mãn thập phương, thuyết chư Như Lai ư nhất thiết quốc độ xuất hưng thứ đệ; xuất tam thế Như Lai đạo tràng vân, sung mãn thập phương, hiện nhất thiết Như Lai thành đẳng chánh giác công đức trang nghiêm; xuất nhất thiết long Vương vân, sung mãn thập phương, vũ nhất thiết chư hương; xuất nhất thiết thế chủ thân vân, sung mãn thập phương, diễn thuyết Phổ Hiền Bồ Tát chi hạnh; xuất nhất thiết bảo trang nghiêm thanh tịnh Phật sát vân, sung mãn thập phương, hiện nhất thiết Như Lai chuyển chánh Pháp luân.
Hiện ra mây thân tướng hảo trang nghiêm của tất cả Bồ Tát, đầy khắp mười phương, nói chư Như Lai thứ đệ xuất thế nơi tất cả quốc độ. Hiện ra mây đạo tràng của tam thế Như Lai đầy khắp mười phương, hiển bày công đức trang nghiêm của tất cả Như Lai thành Ðẳng Chánh Giác. Hiện ra mây tất cả Long Vương đầy khắp mười phương, mưa tất cả thứ hương thơm. Hiện ra mây thân của tất cả Thế Chủ đầy khắp mười phương, diễn thuyết hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát. Hiện ra mây Phật độ thanh tịnh tất cả bửu trang nghiêm đầy khắp mười phương, hiển bày tất cả Như Lai chuyển chánh pháp luân.
Giảng: Lại hiện ra mây thân tướng tốt trang nghiêm của tất cả Bồ Tát, cũng đầy khắp mười phương thế giới, diễn nói chư Phật Như Lai xuất hiện ra đời thứ lớp trong các cõi nước. Lại hiện ra mây đạo tràng của Như Lai ba đời, cũng đầy khắp mười phương thế giới, thị hiện ra công đức trang nghiêm của tất cả Như Lai thành Đẳng Chánh Giác. Lại hiện ra mây tất cả Long Vương, cũng đầy khắp mười phương thế giới, mưa xuống tất cả các hương thơm. Lại hiện ra mây thân tất cả chủ thế gian, cũng đầy khắp mười phương, diễn nói hạnh của Bồ Tát Phổ Hiền. Lại hiện ra mây tất cả báu trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, cũng đầy khắp mười phương, thị hiện ra tất cả Như Lai chuyển bánh xe pháp.
Thị chư Bồ-tát dĩ đắc bất tư nghị pháp quang minh cố, Pháp ưng như thị, xuất hưng thử đẳng bất khả thuyết Phật sát vi trần số Đại thần biến trang nghiêm vân. Nhĩ thời, Văn-thù-sư-lợi Bồ Tát, thừa Phật thần lực, dục trọng tuyên thử Thệ đa lâm trung chư thần biến sự, quan sát thập phương nhi thuyết tụng ngôn:
Chư Bồ Tát này vì được bất tư nghì pháp quang minh, nên theo pháp phải hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số mây đại thần biến trang nghiêm như vậy. Lúc đó, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát thừa thần lực của đức Phật, muốn tuyên lại những sự thần biến trong rừng Thệ Ða, quán sát mười phương rồi nói kệ rằng:
Vì hết thảy các Bồ Tát đó, đều đắc được pháp quang minh không nghĩ bàn, nên pháp như vậy, xuất hiện ra mây trang nghiêm đại thần biến nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết cõi Phật như thế.
Giảng: Lúc đó, Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi cũng nương đại oai thần lực của đức Phật Thích Ca Mâu Ni và đại oai thần lực của mười phương chư Phật, muốn tường thuật lại những việc tất cả các thần thông biến hoá ở trong rừng Thệ Đa, cho nên Ngài lại quán sát căn tánh của mười phương chúng sinh, dùng kệ để nói lại ý nghĩa trường hàng ở trên.
Nhữ ưng quán thử Thệ đa lâm Các Ngài nên xem rừng Thệ Ða
Dĩ Phật uy thần quảng vô tế Phật oai thần nên rộng vô biên
Nhất thiết trang nghiêm giai thị hiện Tất cả trang nghiêm đều hiện bày
Thập phương Pháp giới tất sung mãn. Thập phương thế giới đều đầy khắp.
Giảng: Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi nói: “Các vị đại Bồ Tát và tất cả chúng sinh vị lai, nên quán sát rừng Thệ Đa nầy, nhờ đại oai thần lực của Phật rộng lớn không có bờ mé, cho nên tất cả đồ trang nghiêm đều thị hiện. Chẳng những thế giới Ta Bà là như thế, mà mười phương thế giới cũng đều đầy khắp như vậy”.
Thập phương nhất thiết chư quốc độ, Tất cả cõi nước ở mười phương
Vô biên phẩm loại đại trang nghiêm Vô biên phẩm loại đại trang nghiêm
Ư kỳ tọa đẳng cảnh giới trung Ở trong những bửu tòa các cảnh
Sắc tượng phân minh giai hiển hiện Hiển hiện rõ ràng những sắc tượng.
Giảng: Mười phương hết thảy tất cả cõi nước chư Phật, có vô lượng vô biên đủ thứ phẩm loại đại trang nghiêm thù thắng, trong cảnh giới nơi toà sư tử của đức Phật, hết thảy tất cả sắc tượng đều phân minh hiển hiện ra rõ ràng.
Tùng chư Phật tử mao khổng xuất Lỗ lông của Phật tử hiện ra.
Chủng chủng trang nghiêm bảo diệm vân Những mây trang nghiêm báu đẹp sáng
Cập phát Như Lai vi diệu âm Và phát tiếng vi diệu Như Lai
Biến mãn thập phương nhất thiết sát. Khắp cùng mười phương tất cả cõi.
Giảng: Tất cả đại Bồ Tát và đệ tử Phật từ trong lỗ chân lông sinh ra, đủ thứ mây diệm báu trang nghiêm, ở trong hư không ở trong mây, phát ra âm thanh vi diệu của Như Lai, đầy khắp mười phương tất cả cõi nước chư Phật.
Bảo thụ hoa trung hiện diệu thân Trong cây bông báu hiện diệu thân
Kỳ thân sắc tướng đẳng Phạm Vương, Thân ấy sắc tướng đồng Phạm Vương
Tùng Thiền định khởi nhi du bộ Từ thiền định dậy mà bước đi
Tiến chỉ uy nghi hằng tịch tĩnh. Oai nghi đến lui hằng tịch tịnh.
Giảng: Trong cây hoa báu đẹp, hiện ra thân sắc đẹp, thân tướng của Bồ Tát và Đại Phạm Thiên Vương như nhau, từ trong thiền định sinh ra, mà du hí mười phương. Ngài đi đến mười phương, hoặc tại bổn xứ bất động, nhưng oai nghi của Ngài luôn tịch tĩnh.
Như Lai nhất nhất mao khổng nội Trong mỗi lỗ lông của Như Lai
Thường hiện nan tư biến hóa thân Thường hiện nan tư thân biến hóa
Giai như Phổ Hiền đại Bồ-tát Ðều như Phổ Hiền đại Bồ Tát
Chủng chủng chư tướng vi nghiêm hảo. Những tướng đại nhơn để nghiêm hảo
Giảng: Trong mỗi lỗ chân lông của Như Lai, luôn thị hiện thân biến hoá không thể nghĩ bàn. Đều giống như đại Bồ Tát Phổ Hiền hạnh nguyện, đủ thứ các tướng đều trang nghiêm tốt đẹp.
Thệ đa lâm thượng hư không trung Cõi không gian trên rừng Thệ Ða
Sở hữu trang nghiêm phát Diệu-Âm, Những đồ trang nghiêm phát tiếng diệu
Phổ thuyết tam thế chư Bồ-tát Nói khắp tam thế chư Bồ Tát
Thành tựu nhất thiết công đức hải Thành tựu tất cả biển công đức.
Giảng: Trên rừng Thệ Đa trong hư không, hết thảy trang nghiêm đều phát ra âm thanh vi diệu, khắp diễn nói tất cả các Bồ Tát ba đời, thành tựu tất cả biển công đức.
Thệ đa lâm trung chư bảo thụ Những cây báu trong rừng Thệ Ða
Diệc xuất vô lượng diệu âm thanh, Cũng phát vô lượng âm thanh diệu
Diễn thuyết nhất thiết chư quần sanh Diễn nói tất cả các quần sanh
Chủng chủng nghiệp hải các sái biệt. Những loại nghiệp hải đều sai khác.
Giảng: Tất cả cây báu đẹp ở trong rừng Thệ Đa, cũng vang ra vô lượng âm thanh vi diệu. Diễn nói hết thảy nghiệp của tất cả chúng sinh tạo ra, thọ đủ thứ quả báo, biển nghiệp đó đều khác nhau.
Lâm trung sở hữu chúng cảnh giới, Bao nhiêu cảnh giới ở trong rừng
Tất hiện tam thế chư Như Lai, Ðều hiện tam thế Phật Như Lai
Nhất nhất giai khởi đại thần thông Mỗi Phật đều hiện đại thần thông
Thập phương sát hải vi trần số Mười phương sát hải vi trần số.
Giảng: Hết thảy tất cả cảnh giới trong rừng Thệ Đa, đều thị hiện các Như Lai ba đời. Mỗi mỗi đều khởi đại thần thông biến hoá, có mười phương biển cõi nhiều như số hạt bụi.
Thập phương sở hữu chư quốc độ Bao nhiêu những quốc độ mười phương
Nhất thiết sát hải vi trần số, Tất cả sát hải vi trần số
Tất nhập Như Lai mao khổng trung Ðều nhập trong lỗ lông Như Lai
Thứ đệ trang nghiêm giai hiện đổ. Thứ đệ trang nghiêm đều hiện thấy.
Giảng: Hết thảy tất cả cõi nước chư Phật mười phương, tất cả biển cõi nhiều như số hạt bụi, đều nhiếp vào trong lỗ chân lông của Phật. Sự trang nghiêm tốt đẹp đó, tất cả chúng sinh hiện tại đều nhìn thấy rõ.
Sở hữu trang nghiêm giai hiện Phật Bao nhiêu trang nghiêm đều hiện Phật.
Số đẳng chúng sanh biến thế gian, Bằng số chúng sanh khắp thế gian
Nhất nhất hàm phóng đại quang minh Mỗi mỗi đều phóng đại quang minh
Chủng chủng tùy nghi hóa quần phẩm. Thảy đều tùy nghi độ muôn loại.
Giảng: Trong hết thảy sự trang nghiêm, đều hiện ra tượng Phật. Có bao nhiêu chúng sinh, thì có bấy nhiêu tượng Phật, mà đầy khắp thế gian. Mỗi vị Phật đều phóng đại quang minh, đều quán căn cơ vì người nói pháp, tuỳ tuyên hoá quần sinh.
Hương diệm chúng hoa cập Bảo Tạng Những hoa thơm sáng và tạng báu
Nhất thiết trang nghiêm thù diệu vân Tất cả những mây đẹp trang nghiêm
Mị bất quảng đại đẳng hư không Ðều rộng lớn lượng đồng hư không
Biến mãn thập phương chư quốc độ. Ðầy khắp mười phương các quốc độ,
Giảng: Hết thảy các hương báu và hoa báu, cùng với tất cả tạng báu, tất cả trang nghiêm đều là mây thù thắng vi diệu. Hết thảy tất cả trang nghiêm, đều rộng lớn như hư không, mà đầy khắp mười phương tất cả cõi nước.
Thập phương tam thế nhất thiết Phật Mười phương tam thế tất cả Phật
Sở hữu trang nghiêm diệu đạo tràng Bao nhiêu trang nghiêm diệu đạo tràng
Ư thử viên lâm cảnh giới trung Ở trong cảnh giới viên lâm này
Nhất nhất sắc tượng giai minh hiện Mỗi mỗi sắc tượng đều hiện rõ.
Giảng: Mười phương tất cả chư Phật ba đời, hết thảy trang nghiêm diệu đạo tràng, ở trong cảnh giới rừng Thệ Đa nầy, hiển rõ thị hiện cảnh giới chư Phật mười phương.
Nhất thiết Phổ Hiền chư Phật tử Tất cả Phổ Hiền các Phật tử
Bách thiên kiếp hải trang nghiêm sát, Trăm ngàn kiếp hải cõi trang nghiêm
Kỳ số vô lượng đẳng chúng sanh Số vô lượng bằng số chúng sanh
Mạc bất ư thử lâm trung kiến. Tất cả hiện đủ trong rừng này.
Giảng: Tất cả các đệ tử Phật học tập Bồ Tát Phổ Hiền, trong trăm ngàn vạn biển kiếp quá khứ, đều trang nghiêm cõi nước chư Phật. Số lượng đó cũng nhiều như số chúng sinh, đều ở trong rừng Thệ Đa, hoàn toàn nhìn thấy được rất rõ ràng.
Nhĩ thời, bỉ chư Bồ-tát, dĩ Phật tam muội quang minh chiếu cố, tức thời đắc nhập như thị tam muội, nhất nhất giai đắc bất khả thuyết Phật sát vi trần số đại bi môn, lợi ích an lạc nhất thiết chúng sanh; ư kỳ thân thượng nhất nhất mao khổng, giai xuất bất khả thuyết Phật sát vi trần số quang minh
Bấy giờ, chư Bồ Tát này được tam muội quang minh của Phật chiếu đến nên liền được nhập tam muội ấy. Mỗi Bồ Tát đều được bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn đại bi, lợi ích an lạc tất cả chúng sanh. Ở trên thân của chư Bồ Tát, mỗi lỗ lông đều phóng ra bất khả thuyết vi trần số quang minh.
Giảng: Khi Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi nói xong bài kệ ở trên rồi, thì những vị Bồ Tát đó, nhờ tam muội quang minh của Phật chiếu đến, đồng thời lập tức vào được tam muội như trên vừa nói. Mỗi vị Bồ Tát đều đắc được môn đại bi nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết cõi Phật, dùng để lợi ích an lạc tất cả chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh đều hoan hỉ.
Trong mỗi lỗ chân lông trên thân của Bồ Tát, đều phóng ra quang minh nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết cõi Phật.
Nhất nhất quang minh, giai hóa hiện bất khả thuyết Phật sát vi trần số Bồ Tát. Kỳ thân hình tướng như thế chư chủ, phổ Hiện-Nhất-Thiết chúng sanh chi tiền, châu táp biến mãn thập phương Pháp giới, chủng chủng phương tiện giáo hóa điều phục,
Trong mỗi quang minh đều hóa hiện bất khả thuyết Phật sát vi trần số Bồ Tát, thân tướng như các Thế Chủ, hiện khắp trước tất cả chúng sanh, bao vòng khắp cùng mười phương pháp giới, dùng những phương tiện để giáo hóa điều phục.
Giảng: Mỗi mỗi quang minh, đều hoá hiện ra các đại Bồ Tát nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết cõi Phật. Thân hình và tướng mạo các Bồ Tát đó, như các ông vua thế gian. Hiện khắp trước tất cả chúng sinh. Quang minh đó và trí huệ đầy khắp cùng mười phương pháp giới, sau đó lại dùng đủ thứ pháp môn phương tiện, để giáo hoá điều phục tất cả chúng sinh.
Hoặc hiện bất khả thuyết Phật sát vi trần số chư Thiên cung điện vô thường môn
Hoặc hiện ra môn vô thường của bất khả thuyết Phật sát vi trần số chư Thiên cung điện.
Giảng: Hoặc thị hiện môn vô thường các cung điện trời, nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết cõi Phật. Nghĩa là nói chư Thiên hưởng lạc thì không rốt ráo, đều là vô thường bại hoại.
Hoặc hiện bất khả thuyết Phật sát vi trần số nhất thiết chúng sanh thọ sanh môn
Hoặc hiện ra môn thọ sanh của bất khả thuyết Phật sát vi trần số tất cả chúng sanh.
Giảng: Hoặc thị hiện môn thọ sinh của tất cả chúng sinh, nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết cõi Phật. Chúng sinh sinh rồi lại chết, chết rồi lại sinh, thọ sinh rồi, liền phải thọ chết.
Hoặc hiện bất khả thuyết Phật sát vi trần số nhất thiết Bồ Tát tu hành môn
Hoặc hiện ra môn tu hành của bất khả thuyết Phật sát vi trần số tất cả Bồ Tát.
Giảng: Hoặc thị hiện pháp môn tu hành của tất cả Bồ Tát, nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết cõi Phật.
Hoặc hiện bất khả thuyết Phật sát vi trần số mộng cảnh môn
Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn mộng cảnh.
Giảng: Hoặc thị hiện pháp môn cảnh mộng, nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết cõi Phật.
Hoặc hiện bất khả thuyết Phật sát vi trần số Bồ Tát đại nguyện môn
Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn đại nguyện của Bồ Tát.
Giảng: Hoặc thị hiện pháp môn đại nguyện phát ra của Bồ Tát, nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết cõi Phật.
Hoặc hiện bất khả thuyết Phật sát vi trần số chấn động thế giới môn
Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn chấn động thế giới.
Giảng: Hoặc thị hiện pháp môn chấn động thế giới, nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết cõi Phật.
Hoặc hiện bất khả thuyết Phật sát vi trần số phân biệt thế giới môn
Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn phân biệt thế giới.
Giảng: Hoặc thị hiện pháp môn phân biệt thế giới, nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết cõi Phật.
Hoặc hiện bất khả thuyết Phật sát vi trần số hiện sanh thế giới môn
Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn hiện sanh thế giới.
Giảng: Hoặc thị hiện pháp môn hiện sinh thế giới, nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết cõi Phật.
Hoặc hiện bất khả thuyết Phật sát vi trần số đàn ba-la-mật môn
Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn Ðàn Ba la mật.
Giảng: Hoặc thị hiện môn bố thí Ba La Mật, nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết cõi Phật.
Hoặc hiện bất khả thuyết Phật sát vi trần số nhất thiết Như Lai tu chư công đức chủng chủng khổ hạnh thi Ba-la-mật môn
Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn Thi Ba la mật của tất cả Như Lai tu những công đức, những khổ hạnh.
Giảng: Hoặc thị hiện pháp môn tất cả Như Lai tu các công đức đủ thứ khổ hạnh trì giới Ba La Mật, nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết cõi Phật.
Hoặc hiện bất khả thuyết Phật sát vi trần số cát tiệt chi thể Sạn-đề Ba-la-mật môn
Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn Sằn Ðề Ba la mật cắt đứt chi thể.
Giảng: Hoặc thị hiện pháp môn nhẫn nhục Ba La Mật cắt đứt chi thể, nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết cõi Phật.
Hoặc hiện bất khả thuyết Phật sát vi trần số cần tu Tỳ-lê-da Ba-la-mật môn
Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số Tỳ Lê Gia Ba la mật siêng tu.
Giảng: Hoặc thị hiện pháp môn chuyên tu tinh tấn Ba La Mật, nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết cõi Phật.
Hoặc hiện bất khả thuyết Phật sát vi trần số nhất thiết Bồ Tát tu chư tam muội Thiền định giải thoát môn
Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn thiền định giải thoát của tất cả Bồ Tát tu những tam muội.
Giảng: Hoặc thị hiện pháp môn tất cả Bồ Tát tu các tam muội thiền định giải thoát, nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết cõi Phật.
Hoặc hiện bất khả thuyết Phật sát vi trần số Phật đạo viên mãn trí quang minh môn
Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn trí quang minh viên mãn Phật đạo.
Giảng: Hoặc thị hiện pháp môn Phật đạo viên mãn trí huệ quang minh, nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết cõi Phật.
Hoặc hiện bất khả thuyết Phật sát vi trần số cần cầu Phật Pháp vi nhất văn nhất cú cố xả vô số thân mạng môn
Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn xả bỏ vô số thân mạng để cầu một văn một câu Phật pháp.
Giảng: Hoặc thị hiện pháp môn siêng cầu Phật pháp, vì một chữ một câu, mà xả bỏ vô số thân mạng, nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết cõi Phật.
Hoặc hiện bất khả thuyết Phật sát vi trần số thân cận nhất thiết Phật ti vấn nhất thiết pháp tâm vô bì yếm môn
Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn gần gũi tất cả Phật, han hỏi tất cả pháp không có lòng nhàm mỏi.
Hoặc thị hiện pháp môn gần gũi tất cả chư Phật, cùng nhau thưa hỏi tất cả pháp, tâm không mỏi nhàm, nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết cõi Phật.
Hoặc hiện bất khả thuyết Phật sát vi trần số tùy chư chúng sanh thời tiết dục lạc vãng nghệ kỳ sở phương tiện thành thục lệnh trụ nhất thiết trí hải quang minh môn
Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn tùy theo thời tiết dục lạc của tất cả chúng sanh, đến chỗ của họ để phương tiện thành thục làm cho họ trụ nơi nhứt thiết trí hải quang minh.
Giảng: Hoặc thị hiện pháp môn tuỳ thuận tất cả chúng sinh thời tiết ưa muốn, đi đến chỗ họ ở, phương tiện thành thục, khiến cho họ trụ biển nhất thiết trí huệ quang minh, nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết cõi Phật.
Hoặc hiện bất khả thuyết Phật sát vi trần số hàng phục chúng ma chế chư ngoại đạo hiển hiện Bồ Tát phước trí lực môn
Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn hàng phục chúng ma, chế ngự các ngoại đạo, hiển bày sức phước trí của Bồ Tát.
Giảng: Hoặc thị hiện pháp môn hàng phục chúng ma, chế các ngoại đạo, hiển hiện Bồ Tát phước trí lực, nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết cõi Phật.
Hoặc hiện bất khả thuyết Phật sát vi trần số tri nhất thiết công xảo minh trí môn
Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn minh trí biết tất cả công xảo.
Giảng: Hoặc thị hiện pháp môn trí biết tất cả công xảo minh, nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết cõi Phật. Công xảo minh là một trong năm minh, năm minh là:
1. Thanh minh.
2. Công xảo minh.
3. Y phương minh.
4. Nhân minh.
5. Nội minh.
Hoặc hiện bất khả thuyết Phật sát vi trần số tri nhất thiết chúng sanh sái biệt minh trí môn
Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn minh trí biết tất cả chúng sanh sai biệt.
Giảng: Hoặc thị hiện pháp môn trí minh, biết tất cả chúng sinh khác biệt, nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết cõi Phật.
Hoặc hiện bất khả thuyết Phật sát vi trần số tri nhất thiết pháp sái biệt minh trí môn
Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn minh trí biết tất cả pháp sai biệt.
Giảng: Hoặc thị hiện pháp môn trí minh, biết tất cả pháp khác biệt, nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết cõi Phật.
Hoặc hiện bất khả thuyết Phật sát vi trần số tri nhất thiết chúng sanh tâm lạc sái biệt minh trí môn
Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn minh trí biết tâm sở thích sai biệt của tất cả chúng sanh.
Giảng: Hoặc thị hiện pháp môn trí minh, biết tâm ưa thích của tất cả chúng sinh khác biệt, nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết cõi Phật.
Hoặc hiện bất khả thuyết Phật sát vi trần số tri nhất thiết chúng sanh căn hành, phiền não, tập khí minh trí môn
Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn minh trí biết căn hành phiền não tập khí của tất cả chúng sanh.
Giảng: Hoặc thị hiện pháp môn trí minh, biết căn hạnh phiền não tập khí của tất cả chúng sinh, nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết cõi Phật.
Hoặc hiện bất khả thuyết Phật sát vi trần số tri nhất thiết chúng sanh chủng chủng nghiệp minh trí môn
Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn minh trí biết những nghiệp của tất cả chúng sanh.
Giảng: Hoặc thị hiện pháp môn trí minh, biết đủ thứ nghiệp của tất cả chúng sinh, nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết cõi Phật.
Hoặc hiện bất khả thuyết Phật sát vi trần số khai ngộ nhất thiết chúng sanh môn
Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn khai ngộ tất cả chúng sanh.
Giảng: Hoặc thị hiện pháp môn khai ngộ tất cả chúng sinh, nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết cõi Phật.
Dĩ như thị đẳng bất khả thuyết Phật sát vi trần số phương tiện môn, vãng nghệ nhất thiết chúng sanh trụ xứ nhi thành thục chi
Dùng bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn phương tiện như vậy, đến chỗ ở của tất cả chúng sanh mà thành thục họ.
Giảng: Bồ Tát dùng pháp môn phương tiện, nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết cõi Phật như vậy, đi đến chỗ ở của tất cả chúng sinh, để thành thục tất cả chúng sinh, giáo hoá tất cả chúng sinh.
Sở vị: hoặc vãng Thiên cung, hoặc vãng long cung, hoặc vãng dạ xoa, Càn thát bà, A-tu-la, Ca Lâu La, khẩn-na-la, ma hầu La già cung, hoặc vãng phạm vương cung, hoặc vãng nhân vương cung, hoặc vãng Diêm la Vương cung, hoặc vãng súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục chi sở trụ xứ, dĩ ình đẳng đại bi, bình đẳng đại nguyện, bình đẳng trí tuệ, bình đẳng phương tiện nhiếp chư chúng sanh.
Như là: hoặc đến Thiên cung, hoặc đến Long cung, hoặc đến cung của Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già. Hoặc đến cung của Phạm Vương. Hoặc đến cung của Nhơn Vương. Hoặc đến cung của Diêm La Vương. Hoặc đến chỗ ở của súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục. Dùng đại bi bình đẳng, đại nguyện bình đẳng, trí huệ bình đẳng, phương tiện bình đẳng để nhiếp thọ các chúng sanh.
Giảng: Đó là: Các Ngài hoặc đến cung trời, hoặc đến cung rồng, hoặc đến cung Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A tu la, Ca lâu la, Khẩn na la, Ma hầu la già. Hoặc đến cung Phạm Vương, hoặc đến cung vua, hoặc đến cung vua Diêm Ma, hoặc đến chỗ ở của súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục, chẳng chỗ nào mà chẳng hiện thân. Các Ngài dùng tâm đại bi bình đẳng, đại nguyện lực bình đẳng, đại trí huệ bình đẳng, đại phương tiện bình đẳng, để nhiếp thọ tất cả chúng sinh.
Hoặc hữu kiến dĩ nhi điều phục giả
Hoặc có người thấy xong mà điều phục.
Giảng: Hoặc có chúng sinh thấy được cảnh giới nầy rồi, mà thân tâm được điều phục.
Hoặc hữu văn dĩ nhi điều phục giả
Hoặc có người nghe xong mà điều phục.
Giảng: Hoặc có chúng sinh nghe được âm thanh của những vị Phật Bồ Tát nầy rồi, mà được điều phục.
Hoặc hữu ức niệm nhi điều phục giả
Hoặc có người ghi nhớ mà điều phục.
Giảng: Hoặc có chúng sinh nghĩ nhớ Phật Bồ Tát, mà được điều phục.
Hoặc văn âm thanh nhi điều phục giả,
Hoặc có người nghe âm thanh mà điều phục.
Giảng: Hoặc nghe được âm thanh của Phật Bồ Tát mà được điều phục.
Hoặc văn danh hiệu nhi điều phục giả
Hoặc có người nghe danh hiệu mà điều phục.
Giảng: Hoặc nghe được danh hiệu Phật Bồ Tát mà được điều phục.
Hoặc kiến viên quang nhi điều phục giả
Hoặc thấy viên quang mà điều phục.
Giảng: Hoặc thấy được viên quang của Phật Bồ Tát mà được điều phục.
Hoặc kiến quang võng nhi điều phục giả
Hoặc thấy quang võng mà điều phục.
Hoặc thấy được lưới quang của Phật Bồ Tát mà được điều phục.
Tùy chư chúng sanh tâm chi sở lạc, giai nghệ kỳ sở lệnh kỳ hoạch ích
Tùy tâm sở thích của các chúng sanh đều đến chỗ ở của họ mà làm cho họ được lợi ích.
Giảng: Bồ Tát đều tuỳ thuận tâm ưa thích của tất cả chúng sinh, mà đến chỗ họ, khiến cho họ đắc được lợi ích.
Phật tử! thử Thệ đa lâm nhất thiết Bồ Tát, vi dục thành thục chư chúng sanh cố, hoặc thời hiện xứ chủng chủng nghiêm sức chư cung điện trung, hoặc thời thị hiện trụ tự lâu các bảo sư tử tọa, đạo tràng chúng hội sở cọng vi nhiễu, chu biến thập phương giai lệnh đắc kiến, nhiên diệc bất ly thử Thệ đa lâm Như Lai chi sở.
Chư Phật tử ! Nơi rừng Thệ Ða, chư Bồ Tát vì muốn thành thục các chúng sanh nên hoặc có lúc hiện ở trong những cung điện nghiêm sức. Hoặc có lúc thị hiện ở lâu các bửu tòa sư tử của mình, chúng hội đạo tràng cùng khắp mười phương đều làm cho được thấy. Nhưng vẫn chẳng rời khỏi rừng Thệ Ða, chỗ của đức Như Lai đây.
Giảng: Các vị Phật tử! Tất cả Bồ Tát ở trong rừng Thệ Đa nầy, vì muốn thành thục hết thảy chúng sinh, cho nên có lúc thị hiện xứ sở, có đủ thứ nghiêm sức trong các cung điện. Hoặc có lúc thị hiện ở lầu các báu trên toà sư tử, tất cả chúng sinh trong đạo tràng cùng vây quanh, đầy khắp cùng mười phương, đều khiến cho tất cả chúng sinh đều thấy được, mà cũng không lìa khỏi chỗ Như Lai trong rừng Thệ Đa nầy. Đoạn nầy nói Bồ Tát chẳng lìa khỏi rừng Thệ Đa, bất động mà khắp cùng, phồn hưng mà luôn tĩnh, đâu chẳng lìa gốc, tuy du hành mười phương, cũng chẳng lìa khỏi bổn hội. Gốc ngọn sự lý, nên chẳng tức lìa.
Phật tử! thử chư Bồ-tát, hoặc thời thị hiện vô lượng hóa thân vân, hoặc hiện kỳ thân độc nhất vô lữ. Sở vị: hoặc hiện Sa Môn thân, hoặc hiện Bà-la-môn thân, hoặc hiện khổ hạnh thân, hoặc hiện sung thịnh thân, hoặc hiện y vương thân, hoặc hiện thương chủ thân, hoặc hiện tịnh mạng thân, hoặc hiện kĩ lạc thân, hoặc hiện phụng sự chư Thiên thân, hoặc hiện công xảo kĩ thuật thân.
Chư Phật tử ! những Bồ Tát này, hoặc có lúc thị hiện vô lượng hóa thân. Hoặc hiện thân mình riêng một không bạn. Như là hiện thân Sa Môn. Hoặc hiện thân Bà La Môn. Hoặc hiện thân khổ hạnh. Hoặc hiện thâ mập mạnh. Hoặc hiện thân y vương. Hoặc hiện thân thương chủ. Hoặc hiện thân tịnh mạng. Hoặc hiện thân kỹ nhạc. Hoặc hiện thân phụng sự chư Thiên. Hoặc hiện thân công xảo kỹ thuật.
Giảng: Các vị Phật tử! Hết thảy tất cả Bồ Tát trong đạo tràng rừng Thệ Đa nầy, hoặc có lúc thị hiện vô lượng mây hoá thân. Hoặc hiện độc thân một mình tu hành, không bạn bè. Tức như là: Hoặc hiện thân Tỳ Kheo, thân Tỳ Kheo Ni. Hoặc hiện thân Bà La Môn, hoặc hiện thân tu khổ hạnh, hoặc hiện thân mập mạp khoẻ mạnh, hoặc hiện thân y vương, hoặc hiện thân thương chủ, hoặc hiện thân tu thanh tịnh, hoặc hiện thân làm nhà âm nhạc, hoặc hiện thân phụng sự chư Thiên, hoặc hiện thân công xảo kỹ thuật. Kinh văn ở dưới giảng về năm mươi ba vị thiện tri thức, đều thị hiện hoá thân trong đạo tràng rừng Thệ Đa. Các Ngài đều là ứng hoá thân của pháp thân Đại Sĩ.
Vãng nghệ nhất thiết thôn doanh thành ấp, Vương đô tụ lạc, chư chúng sanh sở, tùy kỳ sở ưng, dĩ chủng chủng hình tướng, chủng chủng uy nghi, chủng chủng âm thanh, chủng chủng ngôn luận, chủng chủng trụ xứ, ư nhất thiết thế gian do như đế võng hành Bồ Tát hạnh.
Qua đến tất cả xóm làng, thành ấp, đô thị chỗ của chúng sanh ở, Bồ Tát này tùy sở nghi dùng mọi thứ thân, mọi oai nghi, mọi âm thanh, mọi ngôn luận, những chỗ ở, mà thật hành hạnh Bồ Tát trong tất cả thế gian dường như màng lưới của Thiên Ðế.
Giảng: Các Ngài đi đến tất cả tụ lạc, thôn xóm, làng ấp, thành thị, thủ đô, chỗ đủ thứ các chúng sinh ở, để vì tất cả chúng sinh thuyết pháp. Các Ngài tuỳ theo căn tánh của chúng sinh, dùng đủ thứ hình tướng để giáo hoá tất cả chúng sinh. Dùng đủ thứ oai nghi để ảnh hưởng đến tất cả chúng sinh. Dùng đủ thứ âm thanh để cảm hoá tất cả chúng sinh. Dùng đủ thứ lời nói để khai đạo tất cả chúng sinh. Các Ngài lại thị hiện đủ thứ trụ xứ để giáo hoá tất cả chúng sinh. Trong tất cả thế gian, giống như lưới trời Đế Thích, quang minh chiếu sáng, lỗ lỗ thông với nhau, để tu hành Bồ Tát hạnh.
Hoặc thuyết nhất thiết thế gian công xảo sự nghiệp, hoặc thuyết nhất thiết trí tuệ chiếu thế minh đăng, hoặc thuyết nhất thiết chúng sanh nghiệp lực sở trang nghiêm, hoặc thuyết thập phương quốc độ kiến lập chư thừa vị, hoặc thuyết trí đăng sở chiếu nhất thiết pháp cảnh giới, giáo hóa thành tựu nhất thiết chúng sanh, nhi diệc bất ly thử Thệ đa lâm Như Lai chi sở.
Hoặc nói công xảo sự nghiệp thế gian. Hoặc nói tất cả trí huệ chiếu thế gian như đèn sáng. Hoặc nói tất cả chúng sanh do nghiệp lực trang nghiêm. Hoặc nói cõi nước mười phương kiến lập những thừa vị. Hoặc nói đèn trí huệ chiếu cảnh giới của tất cả pháp, giáo hóa thành thục tất cả chúng sanh. Nhưng vẫn cũng chẳng rời khỏi rừng Thệ Ða của đức Như Lai đây.
Giảng: Các Ngài hoặc diễn nói tất cả công việc sự nghiệp của thế gian, đây là công xảo minh trong ngũ minh. Hoặc diễn nói nhất thiết trí huệ, giống như đèn sáng chiếu thế gian. Hoặc diễn nói tất cả chúng sinh nghiệp lực trang nghiêm chúng sinh. Hoặc diễn nói mười phương cõi nước kiến lập các thừa vị. Hoặc diễn nói cảnh giới đèn trí huệ chiếu sáng tất cả các pháp. Các ngài giáo hoá thành thục tất cả chúng sinh, mà cũng chẳng lìa khỏi chỗ Như Lai trong đạo tràng rừng Thệ Đa nầy.
Nhĩ thời, Văn-thù-sư-lợi Đồng tử tùng thiện trụ lâu các xuất, dữ vô lượng đồng hạnh Bồ Tát, cập thường tùy thị vệ chư Kim Cương thần, phổ vi chúng sanh cúng dường chư Phật chư thân chúng Thần, cửu phát kiên thệ nguyện thường tùy tùng chư túc hành Thần, lạc văn diệu pháp chủ địa thần, thường tu đại bi chủ thủy thần, trí quang chiếu diệu chủ hỏa thần, ma-ni vi quan chủ Phong Thần, minh luyện thập phương nhất thiết nghi thức chủ phương thần, chuyên cần trừ diệt vô minh hắc ám chủ dạ Thần, nhất tâm phỉ giải xiển minh Phật nhật chủ trú Thần, trang nghiêm Pháp giới nhất thiết hư không chủ không Thần, phổ độ chúng sanh siêu chư hữu hải chủ hải Thần, thường cần tích tập thú nhất thiết trí trợ đạo thiện căn cao Đại như sơn chủ sơn Thần,
Bấy giờ ngài Văn Thù Sư Lợi Ðồng Tử, từ Thiện Trụ lâu các đi ra cùng vô lượng Bồ Tát đồng hạnh và các Thần Kim Cang thường theo thị vệ, các Thân Chúng Thần khắp vì chúng sanh mà cúng dường chư Phật, các Túc Hành Thần từ lâu phát kiên thệ nguyện thường tùy tùng, các Chủ Ðịa Thần thích nghe diệu pháp, Các Thủ Thủy Thần thường tu đại bi, các Chủ Hỏa Thần trí quang chiếu sáng. Các Chủ Phong Thần ma ni làm mão, các Chủ Phương Thần minh luyện tất cả nghi thức mười phương, các Chủ Dạ Thần chuyên cần diệt trừ vô minh hắc ám, các Chủ Trú Thần xiển minh Phật nhựt nhứt tâm không lười, các Chủ Không Thần trang nghiêm pháp giới tất cả hư không, các Chủ Hải Thần độ khắp chúng sanh vượt khỏi biển hữu lậu, các Chủ Sơn Thần thường siêng chứa nhóm thiện căn trợ đạo cao như núi xu hướng Nhứt thiết trí,
Giảng: Lúc đó, Pháp Vương tử Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi từ lầu các Thiện Trụ đi ra. Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi đồng tử với vô lượng Bồ Tát đồng hạnh, cùng với tất cả các vị thiện Thần Kim Cang thường theo thị vệ. Lại có các Thân Chúng Thần khắp vì chúng sinh cúng dường chư Phật. Có các Túc Hành Thần từ lâu đã phát thệ nguyện kiên cố thường thường tuỳ tùng trái phải. Có Chủ Địa Thần quản lý đất đai thích nghe diệu pháp. Có Chủ Thuỷ Thần thường thường tu đại bi tâm. Có Chủ Hoả Thần quản lý lửa trí quang chiếu sáng. Có Chủ Phong Thần quản lý gió mão làm bằng ma ni. Có Chủ Phương Thần minh luyện tất cả nghi thức mười phương, thấu rõ tất cả nghi thức. Có Chủ Dạ Thần chuyên cần trừ diệt vô minh đen tối, Chủ Dạ Thần không nhất định chỉ quản lý đen tối, Ngài còn phải phá trừ đen tối của chúng sinh. Có Chủ Trú Thần xiển minh Phật nhựt một lòng không lười biếng. Có Chủ Không Thần trang nghiêm pháp giới tất cả hư không. Có Chủ Hải Thần khắp độ tất cả chúng sinh, vượt qua các biển cõi. Có Chủ Sơn Thần thường siêng tích tập căn lành trợ đạo hướng nhất thiết trí cao lớn như núi.
Thường cần thủ hộ nhất thiết chúng sanh Bồ-đề tâm thành chủ thành Thần, thường cần thủ hộ nhất thiết trí trí vô thượng pháp thành chư Đại long Vương, thường cần thủ hộ nhất thiết chúng sanh chư dạ xoa Vương, thường lệnh chúng sanh tăng trưởng hoan hỉ càn thát bà vương, thường cần trừ diệt chư ngạ quỷ thú Cưu bàn trà Vương, hằng nguyện bạt tế nhất thiết chúng sanh xuất chư hữu hải Ca Lâu La Vương, nguyện đắc thành tựu chư Như Lai thân cao xuất thế gian A-tu-la Vương, kiến Phật hoan hỉ khúc cung cung kính Ma hầu la già Vương, thường yếm sanh tử hằng lạc kiến Phật chư Đại Thiên Vương, tôn trọng ư Phật tán thán cúng dường chư Đại Phạm Vương.
Các Chủ Thành Thần thường siêng gìn giữ thành Bồ đề tâm của tất cả chúng sanh, các Ðại Long Vương thường siêng gìn giữ pháp thành vô thượng Nhứt thiết chủng trí, các Dạ Xoa Vương thường siêng hộ trì tất cả chúng sanh, các Càn Thát Bà Vương thường làm cho chúng sanh thêm hoan hỉ, các Cưu Bàn Trà Vương thường siêng trừ diệt những loài ngạ quỷ, các Ca Lâu La Vương hằng thuận cứu tế tất cả chúng sanh ra khỏi biển hữu lậu, các A Tu La Vương nguyện được thành tựu những thân Như Lai cao hơn thế gian, các Ma Hầu La Già Vương thấy Phật hoan hỷ cúi mình cung kính, cá đại Thiên Vương hằng nhàm sanh tử thường thích thấy Phật, các đại Phạm Vương tôn trọng chư Phật tán thán cúng dường.
Giảng: Có Chủ Thành Thần thường siêng thủ hộ tâm thành bồ đề của tất cả chúng sinh. Có các đại Long Vương thường thủ hộ vô thượng pháp thành trí nhất thiết trí. Có các Dạ Xoa Vương thường siêng thủ hộ tất cả chúng sinh. Có Càn Thát Bà Vương thường khiến chúng sinh tăng trưởng hoan hỉ. Có Cưu Bàn Trà Vương thường siêng trừ diệt các cõi ngạ quỷ. Có Ca Lâu La Vương luôn nguyện cứu giúp tất cả chúng sinh thoát khỏi các biển cõi. Có A Tu La Vương nguyện được thành tựu thân các Như Lai cao xuất thế gian. Có Ma Hầu La Già Vương thấy Phật hoan hỉ cúi đầu cung kính. Có các Đại Thiên Vương thường nhàm lìa sinh tử, luôn thường ưa thích thấy Phật.
Chúng ta chẳng giác ngộ, ở trên thế gian nầy, cứchạy theo tư tưởng điên đảo, mà tạo ra biết bao tội nghiệp, chẳng nhàm lìa sinh tử. Có các Đại Phạm Vương tôn trọng đức Phật tán thán cúng dường. Đoạn văn nầy là chỉ rõ Bát Nhã dẫn vạn hạnh, tuỳ mỗi loại, đều có nhiều chúng.
Văn-thù-sư-lợi dữ như thị đẳng công đức trang nghiêm chư Bồ-tát chúng, xuất tự trụ xứ, lai nghệ Phật sở, hữu nhiễu Thế Tôn, Kinh vô lượng tạp, dĩ chư cung cụ chủng chủng cúng dường; cúng dường tất dĩ, từ thoái Nam hành, vãng ư nhân gian.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát cùng những chúng Bồ Tát công đức trang nghiêm như vậy ra khỏi chỗ mình ở, đồng đến chỗ đức Phật, hữu nhiễu đức Thế Tôn đến vô lượng vòng. Dâng các món cúng dường lên đức Phật. Cúng dường xong, từ tạ Phật rồi đi qua phương Nam đến trong nhơn gian.
Giảng: Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi với các chúng Bồ Tát công đức trang nghiêm như vậy, ra khỏi trụ xứ của mình ở (tức nương Phật pháp giới lưu, biểu thuyết pháp vậy), đi đến đạo tràng của đức Phật Thích Ca Mâu Ni, đi vòng bên phải đức Thế Tôn, trải qua vô lượng vòng. Sau đó dùng đủ thứ đồ cúng dường, dâng lên cúng dường đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Cúng dường xong rồi, bèn lui ra đi về hướng nam, đến nơi nhân gian.
Nhĩ thời, Tôn-Giả Xá-lợi-phất thừa Phật thần lực, kiến Văn-thù-sư-lợi Bồ Tát, dữ chư Bồ-tát chúng hội trang nghiêm, xuất Thệ đa lâm, vãng ư Nam phương, du hành nhân gian; tác như thị niệm:
Lúc đó Tôn giả Xá Lợi Phất thừa thần lực của Phật, thấy Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát cùng chúng hội Bồ Tát trang nghiêm ra khỏi rừng Thệ Ða qua phương Nam du hành nhơn gian, liền nghĩ rằng:
Giảng: Lúc đó, tôn giả đại trí Xá Lợi Phất nương đại oai thần lực của đức Phật, thấy Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi với các Bồ Tát chúng hội trang nghiêm, đi ra khỏi rừng Thệ Đa, đi về phương nam, du hành nơi nhân gian, Ngài bèn nghĩ như vầy:
Ngã kim đương dữ Văn-thù-sư-lợi câu vãng Nam phương.
Tôi nay nên theo ngài Văn Thù Sư Lợi qua phương Nam.
Giảng: “Nay tôi nên cùng với Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi đi về phương nam”!
Thời, Tôn-Giả Xá-lợi-phất dữ lục thiên Tỳ-kheo, tiền hậu vi nhiễu, xuất tự trụ xứ, lai nghệ Phật sở, đảnh lễ Phật túc, cụ bạch Thế Tôn; Thế Tôn thính hứa, hữu nhiễu tam tạp, từ thoái nhi khứ, vãng Văn-thù-sư-lợi sở.
Nghĩ xong, Tôn giả Xá Lợi Phất cùng sáu ngàn Tỳ Kheo đồng rời chỗ mình ở đến chỗ đức Phật đảnh lễ chân Phật rồi bạch ý muốn, đức Phật hứa khả. Các Ngài hữu nhiễu đức Phật ba vòng từ tạ đi dến chỗ ngài Văn Thù Sư Lợi.
Giảng: Lúc đó, tôn giả Xá Lợi Phất với sáu ngàn vị Tỳ Kheo vây quanh trước sau, ra khỏi chỗ ở của mình. Đi đến đạo tràng của đức Phật, đảnh lễ chân Phật, bạch đức Thế Tôn ý định của mình. Đức Phật nghe rồi, bèn hứa khả thỉnh cầu của Ngài. Ngài Xá Lợi Phất đi nhiễu bên phải đức Thế Tôn ba vòng, từ từ lui ra mà đi, đến chỗ Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi.
Đoạn văn nầy nói “Ra khỏi chỗ mình ở”, là chỉ hàng nhị thừa bỏ tiểu mà hướng đại.
Thử lục thiên Tỳ-kheo thị Xá-lợi-phất tự sở đồng trụ, xuất gia vị cửu, sở vị: hải giác Tỳ-kheo, thiện sanh Tỳ-kheo, phước quang Tỳ-kheo, Đại Đồng tử Tỳ-kheo, điện sanh Tỳ-kheo, tịnh hạnh Tỳ-kheo, Thiên đức Tỳ-kheo, quân tuệ Tỳ-kheo, phạm thắng Tỳ-kheo, tịch tuệ Tỳ-kheo
Sáu ngàn Tỳ Kheo này vốn cùng ở chung với Tôn giả Xá Lợi Phất, xuất gia chưa lâu, những là Hải Giác Tỳ Kheo, Thiện Sanh Tỳ Kheo, Phước Quang Tỳ Kheo, Ðại Ðồng Tử Tỳ Kheo, Ðiển Sanh Tỳ Kheo, Tịnh Hạnh Tỳ Kheo, Thiên Ðức Tỳ Kheo, Quân Huệ Tỳ Kheo, Phạm Thắng Tỳ Kheo, Tịch Huệ Tỳ Kheo,
Giảng: Sáu ngàn vị Tỳ Kheo đó (biểu thị sáu căn tánh tịnh, nên có thể vào pháp giới), đều ở chung với Ngài Xá Lợi Phất (biểu thị quyền tiểu cùng ở với nhau), các Ngài xuất gia chưa được bao lâu (biểu thị chứng thật tế, dễ quay về). Đó là: Tỳ Kheo Hải Giác, Tỳ Kheo Thiện Sanh, Tỳ Kheo Phước Quang, Tỳ Kheo Đại Đồng Tử, Tỳ Kheo Điển Sanh, Tỳ Kheo Tịnh Hạnh, Tỳ Kheo Thiên Đức, Tỳ Kheo Quân Huệ, Tỳ Kheo Phạm Thắng, Tỳ Kheo Tịch Huệ,
Như thị đẳng, kỳ số lục thiên, tất tằng cúng dường vô lượng chư Phật, thâm thực thiện căn, giải lực quảng đại, tín nhãn minh triệt, kỳ tâm khoan bác, quán Phật cảnh giới, liễu pháp bản tánh, nhiêu ích chúng sanh, thường lạc cần cầu chư Phật công đức, giai thị Văn-thù-sư-lợi thuyết Pháp giáo hóa chi sở thành tựu.
Sáu ngàn Tỳ Kheo như vậy. Những Tỳ Kheo này đã từng cúng dường vô lượng chư Phật, trồng sâu căn lành, sức hiểu biết rộng lớn, tín nhãn sáng suốt, tâm lượng rộng rãi, quán Phật cảnh giới, rõ pháp bổn tánh, lợi ích chúng sanh, thường cần cầu công đức của chư Phật.Những Tỳ Kheo này đều do ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát thuyết pháp giáo hóa mà được thành tựu.
Giảng: Có sáu ngàn vị Tỳ Kheo như vậy. Các Ngài đều đã từng cúng dường vô lượng chư Phật, trồng sâu căn lành, sức hiểu biết của các Ngài rất rộng lớn, tâm tin của các Ngài rất sáng suốt, tâm lượng của các Ngài rộng lớn, có thể quán sát minh bạch cảnh giới của Phật, thấu rõ bản tánh của pháp, lợi ích tất cả chúng sinh. Thường thích siêng cầu công đức của chư Phật, các Ngài đều được Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi thuở xưa thuyết pháp giáo hoá mà thành tựu. Tỳ Kheo có năm nghĩa:
1. Bố ma: Khi xuất gia, cung ma chấn động.
2. Khất sĩ: Dưới xin thức ăn của cư sĩ để nuôi sắc thân, trên cầu pháp của Phật để nuôi pháp thân.
3. Tịnh giới trì giới: Nhập vào Tăng đoàn, phải giữ giới.
4. Tịnh mạng: Tức thọ giới rồi, khởi ba nghiệp, vì không tham nên chẳng nương vào tham tà nuôi mạng sống.
5. Phá ác: Nương vào Thánh đạo, phá diệt các ác phiền não.
Nhĩ thời, Tôn-Giả Xá-lợi-phất tại hành đạo trung quán chư Tỳ-kheo, cáo hải giác ngôn:
Trong lúc đang đi nơi đường, Tôn giả Xá Lợi Phất quan sát chư Tỳ Kheo rồi bảo Giác Hải rằng:
Giảng: Khi sáu ngàn vị Tỳ Kheo đi về phương nam, thì tôn giả Xá Lợi Phất đang đi giữa đường, bèn quán các Tỳ Kheo, sau đó bảo Tỳ Kheo Hải Giác rằng:
Hải giác! nhữ khả quan sát Văn-thù-sư-lợi Bồ Tát thanh tịnh chi thân tướng hảo trang nghiêm, nhất thiết Thiên Nhân mạc năng tư nghị.
Giác Hải nên quán sát thân thanh tịnh tướng tốt trang nghiêm của Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, tất cả hàng Nhơn Thiên chẳng nghĩ bàn được.
Giảng: “Hải Giác! Ông hãy quán sát thân thanh tịnh của Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, tướng tốt quang minh, vô lượng trang nghiêm, tất cả chư Thiên, loài người không thể nghĩ bàn được (đây là thắng đức thân tướng).
Nhữ khả quan sát Văn-thù-sư-lợi viên quang ánh triệt, lệnh vô lượng chúng sanh phát hoan hỉ tâm.
Giác Hải nên quán sát viên quang chói sáng của Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát làm cho vô lượng chúng sanh phát tâm hoan hỷ.
Giảng: Ông hãy quán sát viên quang phóng ra chiếu sáng, khiến cho vô lượng chúng sinh phát tâm hoan hỉ (đây là thắng đức thường quang).
Nhữ khả quan sát Văn-thù-sư-lợi quang võng trang nghiêm, trừ diệt chúng sanh vô lượng khổ não.
Giác Hải nên quán sát quang võng trang nghiêm của Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát diệt trừ vô lượng khổ não cho chúng sanh.
Giảng: Ông hãy quán lưới quang trang nghiêm của Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, hay trừ diệt vô lượng khổ não của chúng sinh (đây là thắng đức phóng quang).
Nhữ khả quan sát Văn-thù-sư-lợi chúng hội cụ túc, giai thị Bồ Tát vãng tích thiện căn chi sở nhiếp thọ.
Giác Hải nên quán sát chúng hội đông đầy của Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, đại chúng đó đều là bực Bồ Tát do thiện căn thuở xưa nhiếp thọ.
Giảng: Ông hãy quán sát chúng hội đầy đủ của Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, đó đều là căn lành thuở xưa của Bồ Tát nhiếp thọ (đây là thắng đức chúng hội).
Nhữ khả quan sát Văn-thù-sư-lợi sở hạnh chi lộ, tả hữu bát bộ, bình thản trang nghiêm.
Giác Hải nên quán sát con đường của Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát đang đi, hai bên cách tám bộ đều bằng thẳng trang nghiêm.
Giảng: Ông hãy quán con đường đi của Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, trái phải tám bước, đều bằng phẳng trang nghiêm (đây là thắng đức đi đường, cũng biểu thị thường nương Bát Chánh Đạo mà tu hành).
Nhữ khả quan sát Văn-thù-sư-lợi sở trụ chi xứ, châu hồi thập phương thường hữu đạo tràng tùy trục nhi chuyển.
Giác Hải nên quán sát chỗ đứng của Văn Thù Sư Lợi Bố Tát khắp vòng mười phương thường có đạo tràng luôn xoay theo.
Giảng: Ông hãy quán sát chỗ ở của Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, khắp vòng mười phương, thường có đạo tràng chuyển theo (đây là thắng đức trụ xứ, dở chân hạ chân, đều có đạo tràng, chuyển theo tâm).
Nhữ khả quan sát Văn-thù-sư-lợi sở hạnh chi lộ, cụ túc vô lượng phước đức trang nghiêm, tả hữu lưỡng biên hữu Đại phục tạng, chủng chủng trân bảo tự nhiên nhi xuất.
Giác Hải nên quán sát con đường của Văn Thù Sư Lợi đang đi đủ cả vô lượng phước đức trang nghiêm, hai bên đường có những kho trân bửu ngầm dưới đất tự nhiên trồi lên.
Giảng: Ông hãy quán sát đường đi của Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, đầy đủ vô lượng phước đức trang nghiêm, trái phải hai bên, đều có kho tàng dưới lòng đất, đủ thứ châu báu, tự nhiên trồi lên (đây là thắng đức phước nghiêm, thường quán có, không hai bên, tâm địa đủ Như Lai tạng, hằng sa vạn đức, vô tâm quên chiếu, nhậm vận tịch tri mà hiển hiện).
Nhữ khả quan sát Văn-thù-sư-lợi tằng cúng dường Phật, thiện căn sở lưu, nhất thiết thọ gian xuất trang nghiêm tạng.
Giác Hải nên quán sát Văn Thù Sư Lợi từng cúng dường chư Phật, do thiện căn đó làm cho trong tất cả hàng cây đều hiện ra tạng báu trang nghiêm.
Giảng: Ông hãy quán sát Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi đã từng cúng dường Phật, do căn lành đó, trong tất cả cây cối, đều hiện ra tạng báu trang nghiêm (đây là thắng đức rừng cây, cây lập vạn hạnh, nghiêm pháp thể).
Nhữ khả quan sát Văn-thù-sư-lợi, chư thế gian chủ vũ cung cụ vân, đảnh lễ cung kính dĩ vi cúng dường.
Giác Hải nên quán sát các Thế Gian Chủ rưới mây cúng cụ, đảnh lễ cung kính dâng cúng Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát.
Giảng: Ông hãy quán sát Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, các ông vua thế gian, mưa xuống đồ trang nghiêm, đảnh lễ cung kính, dâng lên cúng dường (đây là thắng đức tự tại, nơi ta không ta, đắc được hiểu không hai, trong chủ tự tại, là tối tôn).
Nhữ khả quan sát Văn-thù-sư-lợi, thập phương nhất thiết chư Phật Như Lai tướng thuyết Pháp thời, tất phóng my gian bạch hào tướng quang lai chiếu kỳ thân, tùng đảnh thượng nhập.
Giác Hải nên quán sát tất cả chư Phật Như Lai mười phương, lúc sắp thuyết pháp, đều phóng ánh sáng lông trắng giữa chặng mày chiếu đến thân Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, nhập vào nơi đảnh của Ngài.
Giảng: Ông hãy quán sát Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, khi tất cả mười phương chư Phật Như Lai sắp thuyết pháp, thì đều phóng tướng hào quang trắng giữa lông mày, chiếu đến thân Ngài, từ trên đỉnh nhập vào (đây là thắng đức thượng nhiếp, có hai ý nghĩa:
1. Tâm thường thượng nhiếp các Phật pháp.
2. Biểu thị chư Phật hiển dương, đều nương Bát Nhã, rốt ráo đến nơi nhất thiết trí).
Nhĩ thời, Tôn-Giả Xá-lợi-phất vi chư Tỳ-kheo xưng dương tán thán, khai thị diễn thuyết Văn Thù sư lợi Đồng tử hữu như thị đẳng vô lượng công đức cụ túc trang nghiêm.
Bấy giờ Tôn giả Xá Lợi Phất vì chư Tỳ Kheo mà tán thán khai thị diễn thuyết ngài Văn Thù Sư Lợi Ðồng Tử có vô lượng công đức trang nghiêm như vậy.
Giảng: Lúc đó, tôn giả Xá Lợi Phất vì các Tỳ Kheo, tán thán khen ngợi, khai thị diễn nói, Văn Thù Sư Lợi đồng tử, có vô lượng công đức đầy đủ trang nghiêm như vậy.
Bỉ chư Tỳ-kheo văn thị thuyết dĩ, tâm ý thanh tịnh, tín giải kiên cố, hỉ bất tự trì, cử thân dõng dược, hình thể nhu nhuyễn, chư căn duyệt dự, ưu khổ tất trừ, cấu chướng hàm tận, thường kiến chư Phật, thâm cầu chánh pháp, cụ Bồ Tát căn, đắc Bồ Tát lực, đại bi đại nguyện giai tự xuất sanh, nhập ư chư độ thậm thâm cảnh giới, thập phương Phật hải thường hiện tại tiền, ư nhất thiết trí thâm sanh tín lạc; tức bạch Tôn-Giả Xá-lợi-phất ngôn:
Chư Tỳ Kheo nghe xong, tâm ý thanh tịnh, tin hiểu vững chắc, vui mừng khôn xiết, toàn thân rúng nhảy không tự kềm được. Thân thể nhu nhuyến, sáu căn vui đẹp, tất cả lo khổ đều trừ, cấu chướng đều hết. Thường được thấy chư Phật thâm cầu chánh pháp đủ căn tánh Bồ Tát, được oai lực Bồ Tát, đại bi đại nguyện đều tự xuất sanh, nhập vào cảnh giới thậm thâm của các môn Ba la mật. Thập phương chư Phật thường hiện ở trước. Rất mến thích Nhứt thiết trí.
Giảng: Chư Tỳ Kheo bạch Tôn giả Xá Lợi Phất rằng:
Sáu ngàn vị Tỳ Kheo đó nghe tôn giả Xá Lợi Phất khai thị tán thán như vậy rồi, tâm ý đều thanh tịnh, tâm tin và sự hiểu biết kiên cố, đều hoan hỉ vui mừng nhảy nhót, không tự kiềm chế được, hình thể của các Ngài nhẹ nhàng, các căn vui vẻ, sầu khổ đều trừ diệt, cấu chướng đều sạch hết. Các Ngài thường thấy tất cả chư Phật, thâm thiết tìm cầu chánh pháp, đầy đủ căn cơ Bồ Tát, đắc được Bồ Tát lực, tâm đại bi đại nguyện, đều tự sinh ra. Chứng nhập nơi cảnh giới lục độ thâm sâu. Biển chư Phật mười phương thường hiện ra ở trước các Ngài, các Ngài đối với nhất thiết trí đều sinh khởi niềm tin và ưa thích thâm sâu.
Các vị Tỳ Kheo liền bạch với tôn giả Xá Lợi Phất rằng:
Duy nguyện Đại sư tướng dẫn ngã đẳng, vãng nghệ ư bỉ thắng nhân chi sở.
Mong Ðại Sư dẫn chúng con đến chỗ của ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát.
Giảng: “Chúng con xin đại sư hãy dẫn chúng con đến chỗ người tối thù thắng đó”.
Thời, Xá-lợi-phất tức dữ câu hành, chí kỳ sở dĩ, bạch ngôn:
Xá Lợi Phất liền cùng chư Tỳ Kheo đồng đến chỗ Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát mà bạch rằng:
Giảng: Lúc đó, Xá Lợi Phất liền cùng với các Tỳ kheo đi đến chỗ Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, đến rồi bạch với nhân giả rằng:
Nhân giả! thử chư Tỳ-kheo, nguyện đắc phụng cận.
Thưa Ngài, chư Tỳ Kheo này xin được kính ra mắt Ngài.
Giảng: “Nhân giả! Sáu ngàn vị Tỳ Kheo nầy đều muốn được lễ lạy Ngài, hầu hạ Ngài”.
Nhĩ thời, Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, vô lượng tự tại Bồ Tát vi nhiễu tinh kỳ Đại chúng, như Tượng Vương hồi quán chư Tỳ-kheo.
Lúc đó Văn Thù Sư Lợi Ðồng tử có vô lượng tự tại Bồ Tát và đại chúng vây quanh, như tượng vương xoay mình lại nhìn Tỳ Kheo.
Giảng: Lúc đó, Văn Thù Sư Lợi đồng tử có vô lượng Bồ Tát tự tại vây quanh Ngài, Ngài cùng với tất cả đại chúng đó, như voi chúa quay mình, nhìn tất cả các Tỳ Kheo.
Thời, chư Tỳ-kheo đảnh lễ kỳ túc, hợp chưởng cung kính, tác như thị ngôn:
Chư Tỳ Kheo liền đảnh lễ chân Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát rồi chắp tay cung kính mà bạch rằng:
Giảng: Lúc đó, tất cả các vị Tỳ Kheo đảnh lễ chân Ngài Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, chắp tay cung kính, bạch rằng:
Ngã kim phụng kiến, cung kính lễ bái, cập dư sở hữu nhất thiết thiện căn. duy nguyện nhân giả Văn-thù-sư-lợi, hòa thượng Xá-lợi-phất, Thế Tôn Thích-Ca Mâu Ni, giai tất chứng tri! như nhân sở hữu như thị sắc thân, như thị âm thanh, như thị tướng hảo, như thị tự tại, nguyện ngã nhất thiết tất đương cụ đắc.
Nay chúng con kính ra mắt, cung kính lễ bái và những thiện căn của chúng tối có, ngưỡng mong ngài Văn Thù Sư Lợi, Hòa Thượng Xá Lợi Phất, Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Phật, đều chứng biết cho. Như ngài Văn Thù Sư Lợi có sắc thân thế này, âm thanh thế này, tướng hảo thế này, tự tại thế này, nguyện cho con cũng dều có đủ như vậy.
Giảng: “Chúng con nay được gặp Ngài, cung kính lễ bái Bồ Tát, chúng con đem hết thảy tất cả những căn lành, một lòng hy vọng Ngài Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, hoà thượng Xá Lợi Phất của chúng con, và đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni, thảy đều chứng minh cho chúng con. Chúng con hết thảy tất cả đều cúng dường cho nhân giả, như hiện tại sắc thân của Ngài được như vậy, âm thanh của Ngài như vậy, trí huệ quang minh tướng tốt của Ngài như vậy, tự tại của Ngài như vậy, nguyện cho chúng con tất cả đều sẽ đắc được đầy đủ như vậy.
Nhĩ thời, Văn-thù-sư-lợi Bồ Tát cáo chư Tỳ-kheo ngôn:
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bảo các Tỳ Kheo rằng:
Giảng: Lúc đó, Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi bảo các Tỳ Kheo rằng:
Tỳ-kheo! nhược Thiện nam tử, thiện nữ nhân, thành tựu thập chủng thú Đại-Thừa Pháp, tức năng tốc nhập Như Lai chi địa, huống Bồ Tát địa!
Chư Tỳ Kheo ! Nếu thiện nam tử hay thiện nữ nhơn thành tựu mười hạnh xu hướng pháp Ðại thừa thời có thể mau nhập Như Lai Ðịa, huống là Bồ Tát Ðịa.
Giảng: Các Tỳ Kheo! Nếu thiện nam tử, hoặc thiện nữ nhân, thành tựu mười pháp hướng về đại thừa, thì sớm sẽ vào bậc Như Lai mà thành Phật, hà huống là đắc được quả vị Bồ Tát?
Hà giả vi thập? sở vị:
Ðây là mười hạnh: Đó là:
Giảng: Những gì là mười pháp đắc được bậc Như Lai và bậc Bồ Tát? Đó là:
Tích tập nhất thiết thiện căn, tâm vô bì yếm.
Chứa nhóm tất cả thiện căn lòng không mỏi nhàm.
Giảng: 1. Tích tập tất cả căn lành, trong tâm cũng không cảm thấy nhàm mỏi.
Kiến nhất thiết Phật thừa sự cúng dường, tâm vô bì yếm.
Thấy tất cả Phật kính thờ cúng dường lòng không mỏi nhàm.
Giảng: 2. Thấy tất cả chư Phật, hầu hạ cúng dường tất cả chư Phật, trong tâm cũng không cảm thấy nhàm mỏi.
Cầu nhất thiết Phật Pháp, tâm vô bì yếm.
Cầu tất cả Phật pháp lòng không mỏi nhàm.
Giảng: 3. Cầu tất cả Phật pháp, trong tâm cũng không cảm thấy nhàm mỏi.
Hành nhất thiết Ba-la-mật, tâm vô bì yếm.
Thật hành tất cả hạnh Ba la mật lòng không mỏi nhàm.
Giảng: 4. Tu hành tất cả pháp môn Ba La Mật, trong tâm cũng không cảm thấy nhàm mỏi.
Thành tựu nhất thiết Bồ Tát tam muội, tâm vô bì yếm.
Thành tựu tất cả Bồ Tát tam muội lòng không mỏi nhàm.
Giảng: 5. Thành tựu tất cả Bồ Tát tam muội, trong tâm cũng không cảm thấy nhàm mỏi.
Thứ đệ nhập nhất thiết tam thế, tâm vô bì yếm.
Thứ đệ nhập tất cả tam thế lòng không mỏi nhàm.
Giảng: 6. Thứ lớp vào tất cả ba đời, trong tâm cũng không cảm thấy nhàm mỏi.
Phổ nghiêm tịnh thập phương Phật sát, tâm vô bì yếm.
Nghiêm tịnh khắp mười phương cỏi Phật lòng không mỏi nhàm.
Giảng: 7. Khắp nghiêm tịnh mười phương cõi Phật, trong tâm cũng không cảm thấy nhàm mỏi.
Giáo hóa điều phục nhất thiết chúng sanh, tâm vô bì yếm.
Giáo hóa điều phục tất cả chúng sanh lòng không mỏi nhàm.
Giảng: 8. Giáo hoá điều phục tất cả chúng sinh, trong tâm cũng không cảm thấy nhàm mỏi.
Ư nhất thiết sát nhất thiết kiếp trung thành tựu Bồ Tát hạnh, tâm vô bì yếm.
Ở trong tất cả cõi tất cả kiếp thành tựu hạnh Bồ Tát lòng không mỏi nhàm.
Giảng: 9. Nơi tất cả cõi Phật, trong tất cả kiếp, thành tựu Bồ Tát hạnh, trong tâm cũng không cảm thấy nhàm mỏi.
Vi thành thục nhất chúng sanh cố, tu hành nhất thiết Phật sát vi trần số Ba-la-mật, thành tựu Như Lai thập lực; như thị thứ đệ, vi thành thục nhất thiết chúng sanh giới, thành tựu Như Lai nhất thiết lực, tâm vô bì yếm.
Vì thành tựu một chúng sanh mà tu hành tất cả Phật sát vi trần số Ba la mật, thành tựu Như Lai thập lực. Thứ đệ như vậy, vì thành thục tất cả chúng sanh giới mà thành tựu Như Lai tất cả trí lực lòng không mỏi nhàm.
Giảng: 10. Vì thành thục tất cả chúng sinh, nên tu hành các Ba La Mật nhiều như số hạt bụi tất cả cõi Phật, thành tựu một lực của Như Lai. Như vậy thứ lớp vì thành thục tất cả cõi chúng sinh, thành tựu tất cả lực của Như Lai, trong tâm cũng không cảm thấy nhàm mỏi.
Mười pháp ở trên là nói không nhàm mỏi. Vì pháp môn vô tận, chúng sinh vô tận, nếu thủ lấy tướng mà tu, thì nhiều đời nhàm mỏi, nhàm liền thối đoạ. Hàng nhị thừa nếu không thích thấy mà tu, thì không nhàm mỏi, không nhàm mỏi thì cách quả Phật không bao xa.
Tỳ-kheo! nhược Thiện nam tử, thiện nữ nhân, thành tựu thâm tín, phát thử thập chủng vô bì yếm tâm, tức năng trưởng dưỡng nhất thiết thiện căn, xả ly nhất thiết chư sanh tử thú, siêu quá nhất thiết thế gian chủng tính, bất đọa Thanh văn, Bích Chi Phật địa, sanh nhất thiết Như Lai gia, cụ nhất thiết Bồ Tát nguyện, học tập nhất thiết Như Lai công đức, tu hành nhất thiết Bồ Tát chư hạnh, đắc Như Lai lực, tồi phục chúng ma cập chư ngoại đạo, diệc năng trừ diệt nhất thiết phiền não, nhập Bồ Tát địa, cận Như Lai địa.
Chư Tỳ Kheo ! Nếu thiện nam tử hay thiện nữ nhơn thành tựu lòng thâm tính phát mười hạnh lòng không mỏi nhàm này thời có thể trưởng dưỡng tất cả thiện căn, rời bỏ tất cả những loài sanh tử vượt khỏi tất cả chủng tánh thế gian, chẳng sa vào hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật. Sanh vào nhà chư Phật Như Lai. Ðủ tất cả Bồ Tát nguyện. Học tập tất cả Như Lai công đức. Tu hành tất cả hạnh Bồ Tát. Ðược Như Lai trí lực xô dẹp chúng ma và các ngoại đạo, cũng có thể trừ diệt tất cả phiền não, nhập Bồ Tát địa, gần Như Lai địa.
Giảng: Tỳ Kheo! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân, thành tựu tâm tin sâu rộng, phát mười thứ tâm không nhàm mỏi nầy, thì sẽ dưỡng lớn tất cả căn lành. Xả lìa tất cả các cõi sinh tử. Vượt qua được tất cả giống tánh thế gian. Chẳng rơi vào bậc Thanh Văn Bích Chi Phật. Được sinh vào nhà tất cả Như Lai. Được đầy đủ tất cả Bồ Tát đại nguyện. Học tập tất cả công đức của Như Lai. Tu hành tất cả các hạnh Bồ Tát tu. Đắc được Như Lai lực. Hàng phục chúng ma và các ngoại đạo, cũng diệt trừ được tất cả phiền não. Nhập vào Bồ Tát địa, gần Như Lai địa, tương lai sớm sẽ thành tựu quả vị Phật.
Thời, chư Tỳ-kheo văn thử pháp dĩ, tức đắc tam muội, danh: vô ngại nhãn kiến nhất thiết Phật cảnh giới. Đắc thử tam muội cố, tất kiến thập phương vô lượng vô biên nhất thiết thế giới chư Phật Như Lai, cập kỳ sở hữu đạo tràng chúng hội; diệc tất kiến bỉ thập phương thế giới nhất thiết chư thú sở hữu chúng sanh; diệc tất kiến bỉ nhất thiết thế giới chủng chủng sái biệt; diệc tất kiến bỉ nhất thiết thế giới sở hữu vi trần; diệc tất kiến bỉ chư thế giới trung, nhất thiết chúng sanh sở trụ cung điện, dĩ chủng chủng bảo nhi vi trang nghiêm
Lúc đó, chư Tỳ Kheo nghe pháp này rồi thời được tam muội tên là vô ngại nhãn, thấy tất cả cảnh giới Phật. Do được tam muội này nên đều thấy chư Phật Như Lai trong vô lượng vô biên tất cả thế giới ở mười phương và những đạo tràng chúng hội. Cũng đều thấy tất cả loài chúng sanh trong thế giới mười phương. Cũng đều thấy những sai biệt của tất cả thế giới mười phương. Cũng đều thấy những vi trần của tất cả thế giới đó. Cũng đều thấy những cung điện của chúng sanh ở trong tất cả thế giới đó, dùng các báu mà làm trang nghiêm.
Giảng: Lúc đó, các Tỳ Kheo nghe pháp nầy rồi, liền đắc được tam muội tên là Vô ngại nhãn, thấy được tất cả cảnh giới của Phật.
Các Tỳ Kheo vì đắc được tam muội nầy rồi, nên đều thấy được mười phương vô lượng vô biên tất cả thế giới chư Phật Như Lai, và hết thảy đạo tràng chúng hội của các Ngài. Đồng thời cũng đều thấy hết thảy chúng sinh tất cả các cõi mười phương thế giới đó. Đồng thời cũng đều thấy đủ thứ sự khác biệt tất cả thế giới đó. Đồng thời cũng đều thấy hết thảy hạt bụi tất cả thế giới đó. Đồng thời cũng đều thấy tất cả chúng sinh ở cung điện trong các thế giới đó, dùng đủ thứ báu để trang nghiêm. Đoạn văn nầy là nói thiên nhãn thông trong tam muội.
Cập diệc văn bỉ chư Phật Như Lai chủng chủng ngôn âm diễn thuyết chư pháp văn từ huấn thích, tất giai giải liễu; diệc năng quan sát bỉ thế giới trung nhất thiết chúng sanh chư căn tâm dục; diệc năng ức niệm bỉ thế giới trung nhất thiết chúng sanh tiền hậu thập sanh; diệc năng ức niệm bỉ thế giới trung quá khứ, vị lai các thập kiếp sự; diệc năng ức niệm bỉ chư Như Lai thập bản sanh sự, thập thành chánh giác, thập chuyển pháp luân, thập chủng thần thông, thập chủng thuyết Pháp, thập chủng giáo giới, thập chủng biện tài
Và cũng nghe những ngôn âm của chư Phật. Như Lai diễn thuyết các pháp, văn từ giải thích của chư Phật, nghe rồi thời đều hiểu rõ. Cũng có thể quán sát trong thế giới đó, những căn dục của tất cả chúng sanh. Cũng có thể ghi nhớ trong những thế giới đó, trước sau mười đời của tất cả chúng sanh. Cũng có thể ghi nhớ những sự trong mười kiếp quá khứ, mười kiếp vị lai của các thế giới đó. Cũng có thể ghi nhớ chư Như Lai đó mười lần bổn sanh sự, mười lần thành Chánh Giác, mười lần chuyển pháp luân, mười thứ thần thông, mười thứ thuyết pháp, mười thứ giáo giới, mười thứ biện tài.
Giảng: Và cũng nghe đủ thứ lời nói của chư Phật Như Lai đó diễn nói các pháp, văn từ dạy dỗ giải thích, thảy đều hiểu rõ. Đoạn văn nầy nói thiên nhĩ thông trong tam muội. Lại cũng quán sát được các căn và tâm ưa muốn của tất cả chúng sinh trong thế giới đó. Đoạn văn nầy nói tha tâm thông trong tam muội. Lại cũng nghĩ nhớ được nhân duyên trước sau mười đời của tất cả chúng sinh trong thế giới đó. Cũng nghĩ nhớ được sự việc mười kiếp quá khứ và vị lai trong thế giới đó. Cũng nghĩ nhớ được việc mười đời bổn sanh, việc mười đời thành Chánh Giác, mười thứ chuyển pháp luân, mười thứ thần thông, mười thứ thuyết pháp, mười thứ giáo giới, mười thứ biện tài của các Như Lai đó.
Đoạn văn nầy nói túc mạng thông trong tam muội.
— o0o —
Hựu tức thành tựu thập thiên Bồ-đề tâm, thập thiên tam muội, thập thiên Ba-la-mật, tất giai thanh tịnh; đắc đại trí tuệ viên mãn quang minh, đắc Bồ Tát thập thần thông, nhu nhuyễn vi diệu, trụ Bồ-đề tâm, kiên cố bất động.
Chư Tỳ Kheo này lại liền thành tựu mười ngàn Bồ đề tâm, mười ngàn Tam muội, mười ngàn Ba la mật, tất cả đều thanh tịnh. Lại được đại trí huệ viên mãn quang minh. Ðược Bồ Tát mười thần thông nhu nhuyến vi diệu. Trụ Bồ Tát tâm kiên cố bất động.
Giảng: Lại liền thành tựu mười ngàn tâm bồ đề, mười ngàn tam muội, mười ngàn pháp môn Ba La Mật, tất cả thảy đều thanh tịnh. Đắc được đại trí huệ, quang minh viên mãn. Đắc được mười thứ thần thông của Bồ Tát, mềm mại vi diệu. Trụ tâm đại bi của Bồ Tát, kiên cố bất động.
Nhĩ thời, Văn-thù-sư-lợi Bồ Tát khuyến chư Tỳ-kheo trụ Phổ Hiền hạnh; trụ Phổ Hiền hạnh dĩ, nhập Đại nguyện hải; nhập Đại nguyện hải dĩ, thành tựu Đại nguyện hải. Dĩ thành tựu Đại nguyện hải cố, tâm thanh tịnh; tâm thanh tịnh cố, thân thanh tịnh; thân thanh tịnh cố, thân khinh lợi; thân thanh tịnh, khinh lợi cố, đắc đại thần thông vô hữu thoái chuyển; đắc thử thần thông cố, bất ly Văn-thù-sư-lợi túc hạ, phổ ư thập phương nhất thiết Phật sở tất hiện kỳ thân, cụ túc thành tựu nhất thiết Phật Pháp.
Lúc đó Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát khuyên các Tỳ Kheo trụ hạnh Phổ Hiền. Trụ hạnh Phổ Hiền rồi nhập biển đại nguyện. Nhập biển đại nguyện, rồi thành tựu biển đại nguyện. Vì thành tựu biển đại nguyện nên tâm được thanh tịnh. Vì tâm thanh tịnh nên thân được thanh tịnh. Vì thân thanh tịnh nên thân nhẹ nhàng nhậm lẹ. Vì thân thanh tịnh nhẹ nhàng nhậm lẹ nên được đại thần thông không còn thối chuyển. Vì được thần thông này nên chẳng rời dưới chân của ngài Văn Thù Sư Lợi, đều hiện thân mình khắp tất cả chỗ của chư Phật mười phương.Thành tựu đầy đủ tất cả Phật pháp.
Giảng: Lúc đó, Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi khuyên các Tỳ Kheo trụ hạnh Phổ Hiền. Trụ hạnh Phổ Hiền rồi, liền chứng nhập vào biển đại nguyện. Chứng nhập vào biển đại nguyện rồi, lại thành tựu biển đại nguyện. Do nhờ thành tựu biển đại nguyện, nên trong tâm cũng tự nhiên thanh tịnh. Trong tâm thanh tịnh, nên thân cũng thanh tịnh. Thân thanh tịnh, nên thân nhẹ nhàng khoái lạc. Thân nhẹ nhàng khoái lạc, nên đắc được đại thần thông rộng lớn, đắc được quả vị không còn thối chuyển. Vì đắc được thần thông biến hoá nầy, cho nên chẳng lìa khỏi dưới chân Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, khắp ở chỗ chư Phật mười phương, đều hiện thân đại Tỳ Kheo, thành tựu đầy đủ tất cả Phật pháp. Đoạn văn nầy là thọ thắng tấn pháp, ở trước nói đại tâm không nhàm mỏi, hiện tại liền khiến rộng trụ hạnh nguyện, hướng tiến tu khắp, về sau thành tựu, dần dần đắc được lợi ích.
QUYỂN SÁU MƯƠI HAI
— o0o —
Nhĩ thời, Văn-thù-sư-lợi Bồ Tát khuyến chư Tỳ-kheo phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm dĩ.
Bấy giờ, Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi khuyên các Tỳ Kheo phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề rồi.
Giảng: Sau khi nói xong kinh văn ở trước, thì Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi dùng đủ thứ pháp môn phương tiện, để giáo hoá tất cả những vị Tỳ Kheo nầy. Tất cả những vị Tỳ Kheo đó, bao quát Tỳ Kheo ác tính ở trong đó, cho nên chẳng dễ gì giáo hoá. Hãy nhìn xem, giáo hoá những người thế gian thì dễ, nhưng giáo hoá người xuất gia thật chẳng dễ dàng. Vì người xuất gia tu đạo một năm, thì Phật tại tiền; tu đạo mười năm thì Phật thăng thiên. Người xuất gia đa số đều huân tập trong Phật giáo, huân tập đến độ có lúc chẳng tin gì hết. Ví như nhân quả báo ứng, họ đều không tin. Tại sao? Vì họ cảm thấy Phật giáo chỉ là một thứ lý luận, vốn chẳng có gì gọi là báo ứng, bởi vậy họ làm nhất xiển đề. Làm nhất xiển đề, thì chẳng tin gì hết. Do đó, Tỳ Kheo không dễ gì giáo hoá, giống như khi bị bệnh, bệnh của người tại gia, thì bạn vì họ chữa trị, khi chữa trị thì sẽ khỏi. Nếu như người xuất gia có bệnh, bạn dùng Phật pháp để gia trì cho họ, họ cũng không dễ gì khỏi. Đương nhiên phải là người có tín tâm, bạn gia trì cho họ, thì họ sẽ khỏi, nếu người không có tín tâm, hoặc tín tâm không đủ, thì không dễ gì khỏi. Phương diện nầy tôi có kinh nghiệm giống nhau.
Lúc đó, Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi khuyên các Tỳ Kheo phát tâm đại bồ đề. Ngài phải dùng đủ thứ pháp môn phương tiện, để vì họ đối cơ thuyết pháp, khiến cho họ phát đạo tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.
Tiệm thứ Nam hành, kinh lịch nhân gian, chí phước thành Đông, trụ trang nghiêm tràng Ta-la lâm trung vãng tích chư Phật tằng sở chỉ trụ giáo hóa chúng sanh Đại tháp miếu xứ, diệc thị Thế Tôn ư vãng tích thời tu Bồ Tát hạnh năng xả vô lượng nan xả chi xứ; thị cố, thử lâm danh xưng phổ văn vô lượng Phật sát, thử xứ thường vi Thiên, long, dạ xoa, Càn thát bà, A-tu-la, Ca Lâu La, khẩn-na-la, Ma hầu la già, nhân dữ phi nhân chi sở cúng dường.
Lúc ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát khuyến dạy sáu ngàn Tỳ kheo pháp Bồ đề tâm rồi, lần lượt đi về phía Nam, trải qua nhơn gian đến phía đông Phước Thành, ở trong rừng Trang Nghiêm Tràng Ta La, chỗ đại tháp miếu mà chư Phật thuở xưa từng ngự giáo hóa chúng sanh, nơi đây cũng là chỗ mà ngày xưa đức Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn lúc tu Bồ Tát hạnh hay xả vô lượng sự khó xả. Do đây nên rừng này có tiếng đến vô lượng cõi Phật. Rừng này thường được sự thủ hộ cúng dường của chư Thiên, Long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, Nhơn cùng Phi nhơn.
Giảng: Sau khi giáo hoá họ xong rồi, Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi liền từ chỗ ở của Ngài lần lượt đi về hướng nam. Tại sao đi về hướng nam? Vì hướng nam là chủ dương, thuộc lửa, hay phát sinh vạn vật, cũng là biểu thị hạnh thiện tài tăng trưởng. Cho nên, người rõ lý phải minh bạch tất cả đạo lý, liền đi về hướng nam học tập Phật pháp. Trải qua nhân gian, đến phía đông Phước Thành. Phước là người có phước đức, có đạo đức, có tu hành, có trí huệ. Người ở thành nầy đa số có phước đức, nên gọi là Phước Thành. Thành biểu thị phòng phi, đông là đứng đầu trong các phương. Các Ngài ở tại rừng cây Trang Nghiêm Tràng Sa La (rừng Sa La, ý nghĩa là cao viễn. Nhờ rừng cây cao vót, sẽ khởi vạn hạnh, trang nghiêm thôi phục), đây là nơi thuở quá khứ chư Phật đã từng ở đây tu đạo, giáo hoá chúng sinh.
Ở đây có tháp lớn, miếu lớn, tức cũng là nơi thuở xưa vô lượng kiếp về trước, hết thảy chư Phật đã từng ở đây tu hành Bồ Tát hạnh, khó hành mà hành được, khó xả mà xả được, khó nhẫn mà nhẫn được, khó ăn mà ăn được, khó thọ mà thọ được. Bởi vậy, cho nên tên rừng cây Sa La nầy, tiếng vang đồn khắp, hết thảy vô lượng cõi Phật đều biết nơi đại tháp miếu nầy. Nơi nầy thường thường được chư Thiên trên trời, các rồng trên trời, tất cả Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, người và chẳng phải người cúng dường, tháp miếu là chỗ quy tông, nhựt chiếu tam tạng có nói: “Thành nầy tại nam Thiên trúc, thành đông đại tháp là tháp của Phật xưa kia, khi Phật còn tại thế, đã có tháp nầy, tháp đó rất lớn, phía đông cổ lạc cúng dường, phía tây chẳng nghe”.
Thời, Văn-thù-sư-lợi dữ kỳ quyến thuộc đáo thử xứ dĩ, tức ư kỳ xứ thuyết phổ chiếu Pháp giới tu-đa-la, bách vạn ức na-do-tha tu-đa-la dĩ vi quyến thuộc.
Lúc ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát và các quyến thuộc đến rừng Trang Nghiêm Tràng Ta La rồi, liền ở tại đó nói khế kinh Phổ Chiếu Pháp Giới cùng với trăm vạn ức na do tha khế kinh.
Giảng: Lúc đó, Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi và quyến thuộc của Ngài, đến chỗ đại tháp miếu rồi, liền ở chỗ đó nói Kinh Phổ Chiếu Pháp Giới. Lại có trăm vạn ức Na do tha Kinh dùng làm quyến thuộc của Kinh Phổ Chiếu Pháp Giới. Đề mục của bộ Kinh nầy, Phổ Chiếu là trí dụng mở ra rộng rãi, Pháp Giới nghĩa là sở chiếu sâu rộng.
Thuyết thử Kinh thời, ư đại hải trung hữu vô lượng bách thiên ức chư long nhi lai kỳ sở; văn thử pháp dĩ, thâm yếm long thú, chánh cầu Phật đạo, hàm xả long thân, sanh Thiên Nhân trung. Nhất vạn chư long, ư A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề đắc Bất-thoái-chuyển
Khi nói kinh, trong đại hải có vô lượng trăm ngàn ức chư Long đến nghe kinh. Nghe xong chư Long đều chán thân loài rồng nên đều phát tâm cầu Phật đạo. Ðều xả thân rồng sanh trong loài người hoặc cõi trời. Một muôn chư Long được chẳng thối chuyển nơi Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Giảng: Khi nói bộ Kinh Phổ Chiếu Pháp Giới, thì trong biển, có vô lượng trăm ngàn ức loài rồng đến đạo tràng pháp hội nghe Kinh. Khi nghe Kinh Phổ Chiếu Pháp Giới rồi, họ rất chán ghét sinh vào loài rồng, mà chuyên tâm chân chánh cầu Phật đạo. Đều xả bỏ sạch hết nghiệp báo thân rồng, được sinh về cõi trời, hoặc sinh về cõi người. Có một vạn loài rồng đắc được bất thối chuyển nơi A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.
Phục hữu vô lượng vô số chúng sanh, ư tam thừa trung các đắc điều phục. Thời, phước thành nhân văn Văn-thù-sư-lợi Đồng tử tại trang nghiêm tràng Ta-la lâm trung Đại tháp miếu xứ, vô lượng Đại chúng tùng kỳ thành xuất, lai nghệ kỳ sở.
Lại có vô lượng vô số chúng sanh ở trong Tam thừa đều được điều phục. Lúc đó người Phước Thành hay tin ngàiVăn Thù Sư Lợi Ðồng Tử ở đại tháp miếu trong rừng Trang Nghiêm Tràng Ta La, vô lượng người ra khỏi thành đi đến rừng.
Giảng: Lại có vô lượng vô số chúng sinh nơi Bồ Tát thừa, Thanh Văn thừa, Duyên Giác thừa, đều được khai ngộ. Lúc đó, người Phước Thành nghe Văn Thù Sư Lợi đồng tử ở nơi đại tháp miếu trong rừng Trang Nghiêm Tràng Sa La thuyết pháp, liền có vô lượng chúng sinh từ trong Phước thành đi ra, đến chỗ đại tháp miếu.
Thời, hữu ưu-bà-tắc, danh viết: đại trí, dữ ngũ bách ưu-bà-tắc quyến thuộc câu, sở vị: Tu đạt đa ưu-bà-tắc, Bà Tu đạt đa ưu-bà-tắc, phước đức quang ưu-bà-tắc, hữu danh xưng ưu-bà-tắc, thí danh xưng ưu-bà-tắc, nguyệt đức ưu-bà-tắc, thiện tuệ ưu-bà-tắc, đại tuệ ưu-bà-tắc, Hiền hộ ưu Bà tắc, hiền thắng ưu-bà-tắc. Như thị đẳng ngũ bách ưu-bà-tắc câu, lai nghệ Văn-thù-sư-lợi Đồng tử sở, đảnh lễ kỳ túc, hữu nhiễu tam tạp, thoái tọa nhất diện.
Có Ưu bà tắc tên là Ðại Trí cùng quyến thuộc năm trăm Ưu bà tắc, như là: Tu Ðạt Ða, Bà Tu Ðạt Ða, Phước Ðức Quang, Hữu Danh Xưng, Thí Danh Xưng, Nguyệt Ðức, Thiện Huệ, Ðại Huệ, Hiền Hộ, Hiền Thắng.v.v… đồng đến đảnh lể chân ngài Văn Thù Sư Lợi Ðồng Tử, hữu nhiễu ba vòng, rồi lui ra ngồi qua một phía.
Giảng: Lúc đó, có vị cư sĩ tại gia tên là Đại Trí, cùng với năm trăm cư sĩ nam quyến thuộc cùng nhau đi đến đó. Cư sĩ nam, là những người nam gần gũi Tỳ Kheo mà hầu hạ. Gồm những vị: Cư sĩ nam Tu Đạt Đa. Cư sĩ nam Bà Tu Đạt Đa. Cư sĩ nam Phước Đức Quang. Cư sĩ nam Hữu Danh Xưng. Cư sĩ nam Thí Danh Xưng. Cư sĩ nam Nguyệt Đức. Cư sĩ nam Thiện Huệ. Cư sĩ nam Đại Huệ. Cư sĩ nam Hiền Hộ. Cư sĩ nam Hiền Thắng. Có năm trăm vị cư sĩ nam như vậy, cùng đi đến đạo tràng của Văn Thù Sư Lợi đồng tử, đại tháp miếu, đảnh lễ chân Ngài, nhiễu quanh Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi ba vòng, rồi lùi về ngồi một bên.
Phục hữu ngũ bách ưu-bà-di, sở vị: đại tuệ ưu-bà-di, thiện quang ưu-bà-di, diệu thân ưu-bà-di, khả lạc thân ưu-bà-di, hiền ưu-bà-di, hiền đức ưu-bà-di, hiền quang ưu-bà-di, tràng quang ưu bà di, đức quang ưu-bà-di, thiện mục ưu-bà-di ……như thị đẳng ngũ bách ưu Bà di, lai nghệ Văn-thù-sư-lợi Đồng tử sở, đảnh lễ kỳ túc, hữu nhiễu tam tạp, thoái tọa nhất diện.
Lại có năm trăm Ưu bà di, như là: Ðại Huệ, Thiện Quang, Diệu Thân, Khả LaÏc Thân, Hiền Hạnh, Hiền Ðức, Hiền Quang, Tràng Quang, Ðức Quang, Thiện Mục, v.v.. đồng đến đảnh lễ chân ngài Văn Thù Sư Lợi Ðồng Tử, hữu nhiễu ba vòng rồi lui ra ngồi qua một phía.
Giảng: Lại có năm trăm cư sĩ nữ (là những người nữ, gần gũi Tỳ Kheo Ni mà phụng sự). Đó là: Cư sĩ nữ Đại Huệ. Cư sĩ nữ Thiện Quang. Cư sĩ nữ Diệu Thân. Cư sĩ nữ Khả Lạc Thân. Cư sĩ nữ Hiền Hạnh. Cư sĩ nữ Hiền Đức. Cư sĩ nữ Hiền Quang. Cư sĩ nữ Tràng Quang. Cư sĩ nữ Đức Quang. Cư sĩ nữ Thiện Mục. Năm trăm vị cư sĩ nữ như vậy, cùng đi đến chỗ đạo tràng Văn Thù Sư Lợi đồng tử, đảnh lễ chân Ngài, đi nhiễu quanh Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi ba vòng, rồi lui về ngồi một bên.
Phục hữu ngũ bách Đồng tử, sở vị: Thiện tài đồng tử, Thiện Hạnh Đồng tử, Thiện giới Đồng tử, Thiện uy nghi Đồng tử, Thiện dũng mãnh Đồng tử, Thiện tư Đồng tử, Thiện tuệ Đồng tử, Thiện giác Đồng tử, Thiện nhãn Đồng tử, Thiện tý Đồng tử, Thiện quang Đồng tử. Như thị đẳng ngũ bách Đồng tử, lai nghệ Văn-thù-sư-lợi Đồng tử sở, đảnh lễ kỳ túc, hữu nhiễu tam tạp, thoái tọa nhất diện.
Lại có năm trăm Ðồng tử, như là: Thiện Tài, Thiện Hạnh, Thiện Giới, Thiện Oai Nghi, Thiện Dũng Mãnh, Thiện Tư, Thiện Huệ, Thiện Giác, Thiện Nhãn, Thiện Tý, Thiện Quang, v.v.. đồng đến đảnh lễ chân ngài Văn Thù Sư Lợi Ðồng Tử, hữu nhiễu ba vòng rồi lui ra ngồi qua một phía.
Giảng: Lại có năm trăm vị đồng tử. Đó là: Thiện Tài đồng tử. Thiện Hạnh đồng tử. Thiện Giới đồng tử. Thiện Oai đồng tử. Thiện Dũng Mãnh đồng tử. Thiện Tư đồng tử. Thiện Huệ đồng tử. Thiện Giác đồng tử. Thiện Nhãn đồng tử. Thiện Tý đồng tử. Thiện Quang đồng tử. Năm trăm đồng tử như vậy, cùng đi đến chỗ đạo tràng Văn Thù Sư Lợi đồng tử, đảnh lễ chân Ngài, đi nhiễu bên phải Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi ba vòng, rồi lui về ngồi một bên.
Phục hữu ngũ bách đồng nữ, sở vị: thiện hiền đồng nữ, đại trí cư sĩ nữ đồng nữ, hiền xưng đồng nữ, mỹ nhan đồng nữ, kiên tuệ đồng nữ, hiền đức đồng nữ, hữu đức đồng nữ, phạm thọ đồng nữ, đức quang đồng nữ, thiện quang đồng nữ ……như thị đẳng ngũ bách đồng nữ, lai nghệ Văn-thù-sư-lợi Đồng tử sở, đảnh lễ kỳ túc, hữu nhiễu tam tạp, thoái tọa nhất diện.
Lại có năm Ðồng nữ, như là: Thiện Hiền, Ðại Trí Cư Sĩ Nữ, Hiền Xưng Mỹ Nhan, Kiên Huệ, Hiền Ðức, Hữu Ðức, Phạm Thọ, Ðức Quang, Thiện Quang, v.v.. đồng đến đảnh lễ chân ngài Văn Thù Sư Lợi Ðồng Tư,û hữu nhiễu ba vòng rồi ngồi qua một phía.
Giảng: Lại có năm trăm vị đồng nữ. Đó là: Thiện Hiền đồng nữ. Đại Trí Cư Sĩ Nữ đồng nữ. Hiền Xưng đồng nữ. Mỹ Nhan đồng nữ. Kiên Huệ đồng nữ. Hiền Đức đồng nữ. Hữu Đức đồng nữ. Phạm Thọ đồng nữ. Đức Quang đồng nữ. Thiện Quang đồng nữ. Năm trăm vị đồng nữ như vậy, cùng đi đến chỗ đạo tràng Văn Thù Sư Lợi đồng tử, đảnh lễ chân Ngài, đi nhiễu quanh Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi ba vòng, rồi lui về ngồi một bên.
Nhĩ thời, Văn-thù-sư-lợi Đồng tử tri phước thành nhân tất dĩ lai tập, tùy kỳ tâm lạc hiện tự tại thân, uy quang hách dịch tế chư Đại chúng; dĩ tự tại đại từ lệnh bỉ thanh lương, dĩ tự tại đại bi khởi thuyết Pháp tâm, dĩ tự tại trí tuệ tri kỳ tâm lạc, dĩ quảng đại biện tài tướng vi thuyết Pháp.
Ngài Văn Thù Sư Lợi Ðồng Tử biết người Phước Thành đều đã đến đông đủ, tùy tâm sở thích của họ mà hiện thân tự tại ánh sáng rực rỡ chói lấp đại chúng. Ngài dùng đại từ tự tại làm cho họ thanh lương. Dùng đại bi tự tại khởi tâm thuyết pháp. Dùng trí huệ tự tại biết tâm sở thích của họ. Dùng biện tài quảng đại sắp vì họ mà thuyết pháp.
Giảng: Lúc đó, Văn Thù Sư Lợi đồng tử, biết người dân Phước Thành đều đã đến tụ tập. Tuỳ tâm ưa thích của họ, mà Ngài hiện thân tự tại, oai nghi quang minh rực rỡ, chiếu sáng ba ngàn đại thiên thế giới, che lấp ánh sáng của các đại chúng. Dùng đại từ tự tại, khiến cho hết thảy đại chúng đều được mát mẻ. Dùng đại bi tự tại, khởi tâm thuyết pháp. Dùng trí huệ tự tại, biết tâm ưa thích của đại chúng. Dùng biện tài vô ngại rộng lớn, sẽ vì hết thảy đại chúng thuyết pháp.
Phục ư thị thời, quan sát Thiện Tài dĩ hà nhân duyên nhi hữu kỳ danh? tri thử Đồng tử sơ nhập thai thời, ư kỳ trạch nội tự nhiên nhi xuất thất bảo lâu các, kỳ lâu các hạ hữu thất phục tạng, ư kỳ tạng thượng, địa tự khai liệt, sanh thất bảo nha, sở vị: kim, ngân, lưu ly, pha lê, trân châu, xa cừ, mã não.
Lúc đó, Ngài lại quán sát Thiện Tài đồng tử do cớ gì mà có tên như vậy. Ngài biết đồng tử này lúc mới nhập thai, trong nhà đó tự nhiên hiện ra lầu các thất bửu. Dưới lâu các đó có bảy phục tạng. Trên phục tạng, đất tự nứt ra mọc lên nanh thất bửu: vàng, bạc, lưu ly, pha lê, chơn chân, xa cừ, mã não.
Giảng: Lại nữa, lúc đó Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi quán sát Thiện Tài đồng tử, do nhân duyên gì mà có tên là Thiện Tài, mới biết đồng tử nầy, lúc mới nhập thai mẹ, thì trong nhà tự nhiên hiện ra lầu các bảy báu. Dưới lầu các đó, có bảy bảo tàng, trên bảo tàng đó, đất tự nứt ra, mọc lên mầm bảy báu. Đó là: Vàng, bạc, lưu ly, pha lê, chân châu, xa cừ, mã não.
Thiện tài đồng tử xứ thai thập nguyệt nhiên hậu đản sanh, hình thể chi phần đoan chánh cụ túc; kỳ thất đại tạng, túng quảng cao hạ các mãn thất trửu, tùng địa dũng xuất, quang minh chiếu diệu.
Sau mười tháng, Thiện Tài đản sanh thân hình tay chân đoan chánh đầy đủ. Lúc đó bảy phục tạng từ đất trồi lên ánh sáng chói rực. Mỗi tạng báu ngang dọc cao thấp đều vuông vức bảy thước tay.
Giảng: Thiện Tài đồng tử ở trong thai mười tháng, sau đó sinh ra đời. Thân hình chi phần của Ngài, đều rất đoan chánh tốt đẹp, viên mãn đầy đủ. Bảy bảo tàng đó, ngang dọc trên dưới lớn cỡ nào? Dùng cánh tay để đo thì khoảng bảy cánh tay. Bảy báu đó từ dưới đất vọt lên, quang minh chiếu sáng khắp.
Phục ư trạch trung tự nhiên nhi hữu ngũ bách bảo khí, chủng chủng chư vật tự nhiên doanh mãn. Sở vị: Kim cương khí trung thịnh nhất thiết hương, ư hương khí trung thịnh chủng chủng y, mỹ ngọc khí trung thịnh mãn chủng chủng thượng vị ẩm thực, ma-ni khí trung thịnh mãn chủng chủng thù dị trân bảo, kim khí thịnh ngân, ngân khí thịnh kim, kim ngân khí trung thịnh mãn lưu ly cập ma-ni bảo, pha lê khí trung thịnh mãn xa cừ, xa cừ khí trung thịnh mãn pha lê, mã não khí trung thịnh mãn trân châu, trân châu khí trung thịnh mãn mã não, hỏa ma-ni khí trung thịnh mãn thủy ma-ni, thủy ma-ni khí trung thịnh mãn hỏa ma-ni. Như thị đẳng ngũ bách bảo khí, tự nhiên xuất hiện.
Trong nhà đó lại tự nhiên có năm trăm món đồ bằng thất bửu, mọi vật đều đựng đầy trong đó. Những là: trong chậu kim cang đựng tất cả thứ hương thơm. Trong chậu hương đựng các thứ y phục. Trong bát mỹ ngọc đựng các thứ thực phẩm thượng diệu. Trong bát ma ni đựng đầy những thứ trân bửu đẹp lạ. Bình vàng đựng bạc. Bình bạc đựng vàng. Trong bình vàng bạc đựng đầy ngọc lưu ly và ma ni. Trong bình pha lê đựng đầy xa cừ. Trong bình xa cừ đựng đầy pha lê. Trong bình mã não đựng đầy chơn châu. Trong bình chơn châu đựng đầy mã não. Bình hỏa ma ni đựng đầy thủy ma ni. Bình thủy ma ni đựng đầy hỏa ma ni. Năm trăm đồ đựng châu bửu như vậy tự nhiên xuất hiện.
Giảng: Lại nữa, trong nhà của Thiện Tài đồng tử tự nhiên có năm trăm món đồ chân báu, chứa đựng đủ thứ các đồ vật, tự nhiên tràn đầy. Đó là: Trong chậu đá kim cương, đựng đầy tất cả hương. Trong chậu hương, lại đựng đầy đủ thứ y phục. Trong chậu ngọc đẹp, đựng đầy đủ thứ thức ăn uống hảo hạng. Trong chậu ma ni, đựng đầy đủ thứ trân bảo đặc thù. Chậu vàng đựng đầy bạc. Chậu bạc đựng đầy vàng. Trong chậu vàng bạc, đựng đầy lưu ly, và ma ni báu. Trong chậu lưu ly, đựng đầy xa cừ. Trong chậu xa cừ, đựng đầy pha lê. Trong chậu mã não, đựng đầy chân châu. Trong chậu chân châu, đựng đầy mã não. Trong chậu lửa ma ni, đựng đầy nước ma ni. Trong chậu nước ma ni, đựng đầy lửa ma ni. Năm trăm chậu báu như vậy, tự nhiên xuất hiện.
Hựu vũ chúng bảo cập chư tài vật, nhất thiết khố tạng tất lệnh sung mãn. Dĩ thử sự cố, phụ mẫu thân chúc cập thiện tướng sư cọng hô thử nhi, danh viết: Thiện Tài.
Nơi đó lại mưa các châu bửu và những tài vật làm cho tất cả kho đụn trong nhà đó đều đầy ngập. Do cớ trên đây nên cha mẹ thân thuộc và tướng sư đều kêu đứa trẻ ấy là Thiện Tài.
Giảng: Lại mưa xuống các thứ báu, và các tài vật. Tất cả kho tàng, đều chứa đựng tràn đầy. Do bởi điềm cát tường nầy, nên cha mẹ thân thuộc và thầy bói tướng, đều kêu đứa bé đó, tên là Thiện Tài, vì có rất nhiều tiền tài châu báu xuất hiện, cho nên gọi là Thiện Tài.
Hựu tri thử Đồng tử, dĩ tằng cúng dường quá khứ chư Phật, thâm chủng thiện căn, tín giải quảng đại, thường lạc thân cận chư thiện tri thức, thân, ngữ, ý nghiệp giai vô quá thất, tịnh Bồ Tát đạo, cầu nhất thiết trí, thành Phật Pháp khí, kỳ tâm thanh tịnh do như hư không, hồi hướng Bồ-đề vô sở chướng ngại.
Ngài Văn Thù Sư Lợi Ðồng Tử lại biết Thiện Tài đã từng cúng dường quá khứ chư Phật, gieo sâu căn lành, tin hiểu rộng lớn, thường thích gần gũi các thiện tri thức. Thân ngữ ý đều không lỗi lầm, tu Bồ Tát đạo cấu Nhứt thiết trí thành Phật pháp khí. Tâm đồng tử này thanh tịnh như hư không, hồi hướng Bồ đề không chướng ngại.
Giảng: Lại biết đồng tử nầy, thuở xưa đã từng cúng dường chư Phật quá khứ, đã gieo trồng căn lành thâm sâu, cũng đầy đủ tin hiểu rộng lớn. Ngài thường thích gần gũi các vị thiện tri thức. Thân lời ý nghiệp đều thanh tịnh, không có chút lỗi lầm nào. Ngài tịnh tu Bồ Tát đạo, cầu nhất thiết trí huệ, thành tựu Phật pháp khí, tâm của Ngài thanh tịnh như hư không. Trong tâm gì cũng chẳng có, chẳng có đố kị, cũng chẳng có chướng ngại, cũng chẳng có ích kỷ, cũng chẳng có tự lợi, chẳng có chút nhiễm ô nào. Chỉ hồi hướng bồ đề Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, cho nên tất cả tất cả đều không có sự chướng ngại.
Nhĩ thời, Văn-thù-sư-lợi Bồ Tát như thị quan sát Thiện tài đồng tử dĩ, an uý khai dụ, nhi vi diễn thuyết nhất thiết Phật Pháp
Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát quán sát Thiện Tài như vậy rồi, liền an ủi chỉ dạy tất cả Phật pháp.
Giảng: Lúc đó, Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi quán sát Thiện Tài đồng tử như vậy rồi, liền an ủi Thiện Tài đồng tử, vì Ngài khai thị ví dụ, mà vì Ngài diễn nói tất cả Phật pháp.
Sở vị: thuyết nhất thiết Phật tích tập Pháp, thuyết nhất thiết Phật tướng tục Pháp, thuyết nhất thiết Phật thứ đệ Pháp, thuyết nhất thiết Phật chúng hội thanh tịnh Pháp, thuyết nhất thiết Phật Pháp luân hóa đạo Pháp, thuyết nhất thiết Phật sắc thân tướng hảo Pháp, thuyết nhất thiết Phật Pháp thân thành tựu pháp, thuyết nhất thiết Phật ngôn từ biện tài Pháp, thuyết nhất thiết Phật quang minh chiếu diệu Pháp, thuyết nhất thiết Phật bình đẳng vô nhị Pháp.
Những là nói pháp tích tập của tất cả Phật, pháp tương tục của tất cả Phật, pháp thứ đệ của tất cả Phật, pháp chúng hội thanh tịnh của tất cả Phật, pháp pháp luân hóa đạo của tất cả Phật, pháp sắc thân tướng hảo của tất cả Phật, pháp pháp thân thành tựu của tất cả Phật, pháp ngôn từ biện tài của tất cả Phật, pháp quang minh chiếu diệu của tất cả Phật, pháp bình đẳng vô nhị của tất cả Phật.
Giảng: Đó là:
1. Nói pháp tất cả chư Phật tích tập căn lành công đức.
2. Nói pháp tất cả chư Phật tiếp nối truyền thừa, huệ mạng của Phật không gián đoạn.
3. Nói pháp tất cả chư Phật thứ lớp, vị Phật nào thành Phật trước, vị Phật nào thành Phật sau, thành Phật có thứ tự.
4. Nói pháp tất cả chư Phật chúng hội đạo tràng thanh tịnh.
5. Nói pháp tất cả chư Phật pháp luân hoá đạo tất cả chúng sinh.
6. Nói pháp tất cả chư Phật có sắc thân 32 tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp.
7. Nói pháp tất cả chư Phật pháp thân thành tựu.
8. Nói pháp tất cả chư Phật ngôn từ và biện tài.
9. Nói pháp tất cả chư Phật trí huệ quang minh chiếu sáng.
10. Nói pháp tất cả chư Phật bình đẳng không hai.
Nhĩ thời, Văn-thù-sư-lợi Đồng tử vi Thiện tài đồng tử cập chư Đại chúng thuyết thử pháp dĩ, ân cần khuyến dụ, tăng trưởng thế lực, lệnh kỳ hoan hỉ, phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm, hựu lệnh ức niệm quá khứ thiện căn; tác thị sự dĩ, tức ư kỳ xứ, phục vi chúng sanh tùy nghi thuyết pháp, nhiên hậu nhi khứ.
Ngài Văn Thù Sư Lợi Ðồng Tử vì Thiện Tài đồng tử và đại chúng mà nói những pháp như vậy rồi, lại ân cần khuyên dạy cho họ tăng trưởng đạo lực, cho họ hoan hỷ phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Lại làm cho họ tự ghi nhớ thiện căn thuở quá khứ.
Giảng: Lúc đó, Văn Thù Sư Lợi đồng tử vì Thiện Tài đồng tử và các đại chúng nói pháp nầy rồi, lại ân cần khuyên dạy Thiện Tài và đại chúng, khiến cho họ tăng trưởng thế lực, khiến cho mỗi người đều sinh tâm hoan hỉ, phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Lại khiến cho tất cả đại chúng và Thiền Tài đồng tử nghĩ nhớ căn lành vô lượng kiếp quá khứ, họ đã tu căn lành. Làm việc đó rồi, liền ở nơi đó, lại vì chúng sinh tuỳ nghi nói pháp, sau đó mà đi.
Nhĩ thời, Thiện tài đồng tử tùng Văn-thù-sư-lợi sở văn Phật như thị chủng chủng công đức, nhất tâm cần cầu A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề, tùy Văn-thù-sư-lợi nhi thuyết tụng viết:
Ngài lại vì tất cả đại chúng mà tùy nghi thuyết pháp. Sau đó Ngài rời rừng mà đi. Thiện Tài đồng tử được nghe pháp nơi ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, được nghe những công đức của chư Phật như vậy, liền nhứt tâm cần cầu Vô thượng Bồ đề, đi theo ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát mà nói kệ rằng:
Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử từ chỗ Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, nghe Phật pháp và đủ thứ công đức của Phật như vậy. Ngài một lòng siêng cầu A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, đi theo Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi mà nói kệ dưới đây.
Tam hữu vi thành khuếch Ba cõi làm thành quách
Kiêu mạn vi viên tường Kiêu mạn làm tường vách
Chư thú vi môn hộ Các loài làm cửa nẻo
Ái thủy vi trì tiệm. Nước ái làm hào ao
Cõi dục, cõi sắc, cõi vô sắc, ba cõi nầy giống như cái thành quách, nhốt con người ở trong đó. Kiêu mạn giống như tường vách, sáu loài giống như cửa nẻo. Nước tình ái giống như ao hồ, khi bị rớt vào, rất dễ bị chết chìm.
Ngu si ám sở phước Tối ngu si đậy che
Tham nhuế hỏa sí nhiên Lửa tham sân cháy rực
Ma Vương tác quân chủ Ma Vương làm quân chủ
Đồng mông y chỉ trụ. Trẻ khờ ở trong đó.
Con người đều bị ngu si đen tối che đậy, cho nên trí huệ không thể nào hiện tiền. Cái nầy cũng tham, cái kia cũng tham; cái nầy cũng sân hận, cái kia cũng sân hận, như lửa thiêu đốt. Ma vương vốn không thể quản lý, nhưng ma vương làm ông vua rồi, thì cũng tà tri tà kiến, che lấp mất chánh tri chánh kiến, lại giống như trẻ con nương tựa vào ma vương mà ở (Ngu mê ba đời, tức là nhân khởi hoặc; ma vương, tức là duyên của hoặc; trẻ con là người khởi hoặc).
Tham ái vi huy triền Tham ái làm dây trói
Siểm cuống vi bí lặc, Dua dối làm cương yên
Nghi hoặc tế kỳ nhãn Nghi hoặc che đôi mắt
Thú nhập chư tà đạo. Thẳng vào những đường tà.
Tâm tham và nước ái của chúng ta giống như sợi dây trói buộc. Xiểm nịnh và dối trá giống như dây cương của ngựa, khiến cho con người chẳng có chút tự do nào. Tâm nghi và mê hoặc che lấp cặp mắt, chẳng thấy vật gì. Người biết rõ mà cố phạm thì sẽ đi vào các tà ma ngoại đạo.
Xan tật kiêu doanh cố Vì đầy tham ganh kiêu
Nhập ư tam ác xứ, Vào nơi ba đường ác
Hoặc đọa chư thú trung Hoặc đọa trong các loài
Sanh lão bệnh tử khổ. Khổ sanh già bịnh chết.
Vì đầy dẫy tham lam, ganh ghét, kiêu mạn, cho nên đoạ vào nơi ba đường ác. Nếu bạn có tâm đố kị, chướng ngại, kiêu ngạo, thì tương lai sẽ đoạ vào trong ba đường ác, địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Hoặc đoạ vào trong tất cả các loài, chịu thống khổ sinh già bệnh chết.
Diệu trí thanh tịnh nhật Mặt nhựt trí thanh tịnh
Đại bi viên mãn luân, Vầng tròn đầy đại bi
Năng kiệt phiền não hải Hay cạn biển phiền não
Nguyện tứ thiểu quan sát! Xin ban diệu quán sát.
Đức Phật giống như mặt trời trí huệ thanh tịnh, hay chuyển bánh xe diệu pháp đại bi viên mãn, hay cạn biển phiền não của chúng sinh. Con xin Phật chú ý đến con, quán sát con đang thọ khổ.
Diệu trí thanh tịnh nguyệt Mặt nguyệt trí thanh tịnh
Đại từ vô cấu luân, Vầng trong sạch đại từ
Nhất thiết tất thí an, Ban an vui tất cả
Nguyện thùy chiếu sát ngã! Xin thương soi xét con.
Mặt trăng diệu trí thanh tịnh tức là Phật, chuyển bánh xe diệu pháp đại từ không nhơ, tất cả đều bố thí cho chúng sinh, khiến cho chúng sinh bình an. Hiện tại con xin Phật hãy dùng từ bi quang minh để soi xét con, nhìn xem con, hãy cứu con, khiến cho con lìa khổ được vui.
Nhất thiết pháp giới Vương Vua tất cả pháp giới
Pháp bảo vi tiên đạo, Pháp bửu làm tiên đạo
Du không vô sở ngại, Du không chẳng chướng ngại
Nguyện thùy giáo sắc ngã! Xin thương dạy bảo con.
Đức Phật là vua trong tất cả pháp giới, đức Phật đi khắp các nơi nói pháp, giáo hoá chúng sinh, dùng sự thuyết pháp để dẫn dắt tất cả chúng sinh phát tâm bồ đề. Đức Phật thường du hành trong hư không, mà chẳng có sự chướng ngại nào. Xin Phật phát đại từ bi, hãy chỉ dạy giáo hoá con Thiện Tài đồng tử.
Phước trí Đại thương chủ Ðại Thương Chủ phước trí.
Dũng mãnh cầu Bồ-đề, Dũng mãnh cầu Bồ đề
Phổ lợi chư quần sanh, Lợi khắp các quần sanh
Nguyện thùy thủ hộ ngã! Xin thương thủ hộ con.
Đức Phật tức cũng là đại thương chủ, phước đủ huệ đủ, thuở xưa dũng mãnh tinh tấn siêng cầu đạo bồ đề, để lợi ích khắp hết thảy tất cả chúng sinh, con cũng cầu xin Phật từ bi bảo hộ con.
Thân bị nhẫn nhục giáp Thân mặc giáp nhẫn nhục
Thủ Đề trí tuệ kiếm, Tay cầm gươm trí huệ
Tự tại hàng ma quân, Tự tại hàng quân ma
Nguyện thùy bạt tế ngã! Xin thương cứu vớt con.
Thân Phật mặc áo giáp nhẫn nhục, trên tay cầm thanh kiếm trí huệ, rất tự tại hàng phục tất cả ma quân, xin Phật hãy cứu giúp con, khiến cho con lìa khổ được vui.
Trụ pháp tu di đính Ở đảnh pháp Tu Di
Định nữ thường cung thị, Ðịnh nữ thường hầu hạ
Diệt hoặc A-tu-la, Diệt hoặc A tu la
Đế Thích nguyện quán ngã! Ðế thích xin xem con.
Đức Phật đã đạt đến pháp đỉnh tối cao, tam muội định nữ thường cung kính hầu hạ Phật. Đã diệt trừ sạch hết tất cả mê hoặc, hàng phục được A tu la. Trời Đế Thích cũng xin hãy nhìn xem con.
Tam hữu phàm ngu trạch, Nhà ba cõi phàm ngu
Hoặc nghiệp địa thú nhân Hoặc nghiệp khổ luân chuyển
Nhân giả tất điều phục, Ngài đã điều phục cả
Như đăng thị ngã đạo Như đèn sáng soi đường.
Cõi dục giới, sắc giới, vô sắc giới, ba cõi nầy là nhà của phàm ngu. Khởi hoặc, tạo nghiệp, thọ báo, là nguyên nhân đoạ lạc vào trong ba đường ác. Đức Phật hoàn toàn điều phục chúng sinh tất cả các cõi. Đức Phật như đèn sáng chỉ đường, khiến cho con luôn luôn đi trên con đường lớn bằng phẳng.
Xả ly chư ác thú Bỏ rời những ác thú
Thanh tịnh chư thiện đạo Thanh tịnh những đường lành
Siêu chư thế gian giả, Bực vượt hẳn thế gian
Thị ngã giải thoát môn! Dạy con môn giải thoát.
Đức Phật đều đã xả lìa các cõi ác, hay thanh tịnh các đường lành và pháp lành. Đức Phật vượt qua được hết thảy tất cả chúng sinh thế gian, xin đức Phật hãy chỉ bày cho con pháp môn giải thoát.
Thế gian điên đảo chấp, Thế gian chấp điên đảo
Thường lạc ngã tịnh tưởng Thường thích tưởng ngã tịnh
Trí nhãn tất năng ly, Trí nhãn đều rời được
Khai ngã giải thoát môn! Dạy con môn giải thoát.
Hết thảy người thế gian đều có sự chấp trước điên đảo, đức Phật có thường lạc ngã tịnh bốn đức, và con mắt trí huệ lìa khỏi được thế giới, tất cả điên đảo vọng tưởng, xin Phật hãy chỉ bày cho con pháp môn giải thoát.
Thiện tri tà chánh đạo Khéo biết đường tà chánh
Phân biệt tâm vô khiếp Biết rõ tâm không khiếp
Nhất thiết quyết liễu nhân Ðấng quyết rành tất cả
Thị ngã Bồ-đề lộ! Dạy con đường Bồ đề.
Đức Phật khéo nhận thức phân biệt được đạo chánh tà, dùng con mắt trí huệ để phân biệt pháp đúng, pháp sai, trong tâm cũng không khiếp sợ, tất cả đều nhận thức minh bạch hiểu rõ, hiện tại xin Phật hãy chỉ cho con con đường bồ đề.
Trụ Phật chánh kiến địa Trụ bực Phật chánh kiến
Trưởng Phật công đức thọ, Lớn cây Phật công đức
Vũ Phật Diệu pháp hoa, Rưới bông Phật diệu pháp
Thị ngã Bồ-đề đạo! Dạy con đường Bồ đề.
Con nguyên trụ nơi quả địa Phật chánh tri chánh kiến, dưỡng lớn cây công đức của Phật, hay mưa xuống hoa diệu pháp của Phật, xin Phật chỉ bày cho con con đường bồ đề.
Khứ lai hiện tại Phật Khứ, lai, hiện tại Phật
Xứ xứ tất chu biến, Xứ xứ đếu cùng khắp
Như nhật xuất thế gian, Như mặt nhựt mọc lên
Vi ngã thuyết kỳ đạo! Vì con dạy đạo đó.
Quá khứ, vị lai, hiện tại, hết thảy chư Phật, nơi nơi chốn chốn hết thảy tất cả mọi nơi đều khắp cùng đầy dẫy, giống như mặt trời mọc lên nơi thế gian, xin Phật hãy vì con nói con đường tu hành.
Thiện tri nhất thiết nghiệp, Khéo biết tất cả nghiệp
Thâm đạt chư thừa hạnh Thấu rõ hạnh các thừa
Trí tuệ quyết định nhân, Người trí huệ quyết định
Thị ngã Ma-ha diễn! Dạy con pháp Ðại Thừa.
Đức Phật khéo biết tất cả nhân duyên quả báo nghiệp chướng, thông đạt thấu rõ thâm sâu tất cả các thừa pháp và tất cả pháp môn. Người đầy đủ trí huệ quyết định, xin hãy chỉ cho con pháp môn đại thừa.
Nguyện luân đại bi cốc, Bánh nguyện, gọng đại bi,
Tín trục kiên nhẫn hạt, Tín trục, vành kiên nhẫn
Công đức bảo trang giáo, Báu công đức trang nghiêm
Lệnh ngã tái thử thừa! Cho con ngồi xe này.
Lời nguyện phát ra giống như bánh xe, tâm đại bi giống như gọng xe. Tâm tin như trục xe, tâm kiên nhẫn giống như vành bánh xe, dùng công đức báu để trang nghiêm xe, xin Phật khiến cho con ngồi xe nầy để giáo hoá chúng sinh.
Tổng trì quảng đại tương Rương tổng trì quảng đại
Từ mẫn trang nghiêm cái Lọng từ mẫn trang nghiêm
Biện tài linh chấn hưởng, Linh biện tài reo vang.
Sử ngã tái thử thừa! Khiến con ngồi xe này.
Tổng trì giống như chiếc rương rộng lớn, tâm từ mẫn như cái lọng trang nghiêm. Biện tài như cái linh phát ra tiếng vang, xin Phật khiến cho con ngồi xe nầy để giáo hoá chúng sinh.
Phạm hạnh vi nhân nhục Phạm hạnh làm nệm êm
Tam muội vi thải nữ, Tam muội làm thể nữ
Pháp cổ chấn Diệu-Âm, Trống pháp rền tiếng mầu
Nguyện dữ ngã thử thừa! Cho con ngồi xe này.
Phạm hạnh thanh tịnh giống như cái nệm êm, tam muội định lực làm thể nữ. Đánh trống pháp vang ra diệu âm, xin Phật hãy cho con chiếc xe nầy.
Tứ nhiếp vô tận tạng, Tứ nhiếp tạng vô tận
Công đức trang nghiêm bảo, Báu công đức trang nghiêm
Tàm quý vi ky ưởng, Tàm quý làm yên cương
Nguyện dữ ngã thử thừa! Ban cho con xe này.
Bốn pháp nhiếp (bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự) là bảo tạng vô cùng tận, cũng là công đức báu trang nghiêm. Hổ thẹn làm yên cương xe, làm cho xe chẳng chạy đi bậy bạ, xin Phật hãy ban cho con pháp môn nầy.
Thường chuyển bố thí luân Thường rong xe bố thí
Hằng đồ tịnh giới hương, Hằng xoa hương tịnh giới
Nhẫn nhục lao trang nghiêm Bò nhẫn nhục trang nghiêm
Lệnh ngã tái thử thừa! Cho con ngồi xe này.
Chiếc xe nầy thường chuyển bánh xe pháp bố thí, luôn luôn dùng hương tịnh giới để thoa nó. Dùng nhẫn nhục bền chắc để trang nghiêm nó, xin Phật khiến con bảo hộ pháp môn nầy.
Thiền định tam muội tương Thùng thiền định tam muội
Trí tuệ phương tiện ách, Ách trí huệ phương tiện
Điều phục Bất-thoái-chuyển, Ðiều phục chẳng thối chuyển
Lệnh ngã tái thử thừa! Cho con ngồi xe này.
Thiền định tam muội giống như cái thùng xe, trí huệ phương tiện giống như cái ách xe, hay điều phục chiếc xe nầy, khiến cho nó vĩnh viễn chẳng thối chuyển, xin Phật khiến cho con đắc được pháp môn đại thừa nầy.
Đại nguyện thanh tịnh luân, Xe đại nguyện thanh tịnh
Tổng trì kiên cố lực, Sức tổng trì kiên cố
Trí tuệ sở thành tựu, Trí huệ được thành tựu
Lệnh ngã tái thử thừa! Cho con ngồi xe này.
Đại nguyện thanh tịnh phát ra cũng giống như bánh xe, tổng trì tức là sức kiên cố của xe. Có sức đại trí huệ để khiến cho thành tựu, mong đức Phật khiến con đắc được pháp môn đại thừa nầy.
Phổ hạnh vi châu giáo Phổ hạnh làm đi khắp
Bi tâm tác từ chuyển, Bi tâm thong thả đi
Sở hướng giai vô khiếp, Ðến đâu đều không khiếp
Lệnh ngã tái thử thừa! Cho con ngồi xe này.
Đại hạnh của Phổ Hiền là thể trang nghiêm xe khắp cùng, dùng tâm đại bi chuyển động đi từ từ. Bất cứ xe đi đến đâu cũng đều không sợ, chẳng sợ chúng sinh khó điều phục khó giáo hoá, chẳng sợ vạn hạnh khó tu. Con xin nguyện đức Phật khiến cho con tu pháp môn nầy.
Kiên cố như Kim cương Kiên cố như kim cang
Thiện xảo như huyễn hóa, Thiện xảo như huyễn hóa
Nhất thiết vô chướng ngại, Tất cả không chướng ngại.
Lệnh ngã tái thử thừa! Cho con ngồi xe này.
Tâm bồ đề kiên cố như kim cang, phương tiện thiện xảo như huyễn hoá, tất cả đều không chướng ngại, cũng hy vọng đức Phật khiến con đắc được thừa pháp nầy.
Quảng đại cực thanh tịnh, Quảng đại rất thanh tịnh
Phổ dữ chúng sanh lạc Khắp ban chúng sanh vui
Hư không Pháp giới đẳng, Ðồng hư không pháp giới
Lệnh ngã tái thử thừa! Cho con ngồi xe này.
Pháp thân của Phật rộng lớn vô lượng vô biên, là diệu pháp thân thanh tịnh, đức Phật đại từ đại bi, khắp khiến cho chúng sinh hoan hỉ. Đức Phật lượng đồng hư không, tánh cao sa giới, bình đẳng với hư không pháp giới. Hiện tại con nguyện cầu đức Phật cũng khiến cho con đắc được pháp môn nầy, diệu thừa nầy.
Tịnh chư nghiệp hoặc luân Sạch những vòng nghiệp hoặc
Đoạn chư lưu chuyển khổ, Dứt những khổ lưu chuyển
Tồi ma cập ngoại đạo, Dẹp ma và ngoại đạo
Lệnh ngã tái thử thừa! Cho con ngồi xe này,
Phật pháp như bánh xe, hay thanh tịnh ba nghiệp vô minh thân miệng ý của tất cả chúng sinh, hay khiến cho chúng sinh chấm dứt sinh tử, đoạn trừ thống khổ lưu chuyển trong sáu nẻo luân hồi, lại hay điều phục thiên ma, chế các ngoại đạo, cũng hy vọng đức Phật khiến cho con đắc được diệu thừa nầy.
Trí tuệ mãn thập phương Trí huệ khắp mười phương
Trang nghiêm biến Pháp giới Trang nghiêm khắp pháp giới
Phổ hiệp chúng sanh loại, Thỏa nguyện của chúng sanh
Lệnh ngã tái thử thừa! Cho con ngồi xe này.
Trí huệ quang minh của Phật đầy khắp mười phương pháp giới, trang nghiêm pháp thân của Phật cũng đầy khắp pháp giới, hư không giới, khắp viên mãn nguyện vọng của chúng sinh. Hy vọng đức Phật cũng khiến cho con đắc được diệu thừa nầy.
Thanh tịnh như hư không, Thanh tịnh như hư không
Ái kiến tất trừ diệt, Ái, kiến đều trừ diệt
Lợi ích nhất thiết chúng, Lợi ích tất cả chúng
Lệnh ngã tái thử thừa! Cho con ngồi xe này.
Pháp thân thanh tịnh của Phật như hư không, chẳng có mọi sự chướng ngại nào. Chúng sinh vì có ái và kiến, cho nên không thể thành Phật. Vì có tham ái, có chấp trước kiến giải, nên tạo ra đủ thứ tội nghiệp, làm chướng ngại quang minh trí huệ. Đức Phật hay khiến cho ái kiến của chúng sinh đều trừ diệt dứt sạch. Phật hay lợi ích tất cả chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh lìa khổ được vui, chấm dứt sinh tử. Hy vọng đức Phật cũng khiến cho đắc được sức lực nầy.
Nguyện lực tốc tật hành Nguyện lực đi mau chóng
Định tâm an ẩn trụ, Ðịnh tâm an ổn trụ
Phổ vận chư hàm thức, Chở khắp các hàm thức
Lệnh ngã tái thử thừa! Cho con ngồi xe này.
Nguyện lực của Phật và pháp môn tu hành đều rất mau chóng, không có chút lười biếng nào. Tâm tam muội thường an ổn ở trong định. Đức Phật hay chở khắp tất cả chúng sinh, từ bờ sinh tử bên nầy, đạt đến bờ Niết Bàn bên kia. Xin đức Phật khiến cho con Thiện Tài đồng tử cũng đắc được sức lực nầy, pháp môn nầy.
Như địa bất khuynh động Như đại địa chẳng động
Như thủy phổ nhiêu ích Như nước lợi ích cả
Như thị vận chúng sanh Chở chúng sanh như vậy
Lệnh ngã tái thử thừa! Cho con ngồi xe này.
Lại ví như đất luôn luôn rất bình an chẳng lay động, rất ít khi bị động đất. Lại ví như nước lợi ích khắp tất cả chúng sinh. Nước lợi ích tất cả chúng sinh, mà chẳng bao giờ kể công. Cho nên Lão Tử nói: “Nước hay làm việc thiện, nước lợi ích vạn vật mà không tranh, nên tức là đạo”. Vì nước ở chỗ trũng. Con người thì đều muốn đi lên cao, chỉ có nước muốn chảy xuống những nơi thấp, nó lợi ích chúng sinh, mà chẳng kể công.
Cho nên chúng ta người tu đạo, đi đến các nơi phải chịu thiệt thòi, đừng có nghĩ muốn mình có lợi ích như thế nào. Đừng có ích kỷ, đừng có mong cầu, đừng có tham, phải luôn luôn hàng phục được tâm của mình lão lão thật thật. Đừng có học theo máy chụp hình, chỉ chụp hình người khác, mà không thể nào chụp hình chính mình được. Bất cứ ai, bạn muốn tu đạo, thì phải khác với người thế tục. Người thế tục tham tiền tài, người xuất gia không tham tiền tài. Nếu chúng ta tham tiền tài, thì xuất gia để làm gì? Bạn xuất gia lại tham tiền tài, thì có khác gì người thế tục?
Mọi người đều tham sắc, người tu đạo tuyệt đối không tham sắc, không thể thích ngắm nhìn những thứ đẹp. Bạn thích xem phim, hoặc là thích nhìn những thứ đẹp, thì đều gọi là tham sắc, đều phạm giới dâm. Cho nên chúng ta người tu đạo, phải “Tổn rồi lại tổn, cho đến không còn gì nữa”. Chính mình cũng không còn, pháp cũng không còn, gì cũng đều không. Bạn chấp trước vào danh, thì bị danh làm hại, bạn chấp vào lợi, thì bị lợi làm hại. Cho nên chúng ta xuất gia tu đạo, cá nhân mình tuyệt đối không tích luỹ tài sản, nếu có thì nên giao cho người khác quản lý thì được, riêng cá nhân mình dù một chút cũng không cần. Do đó có câu: “Đến chỗ vô cầu, liền hết lo”, không có mong cầu bất cứ thứ gì, tiền tài cũng chẳng cầu, sắc đẹp cũng chẳng cầu, danh cũng chẳng cầu. Không cầu danh, nếu mình kêu người khác khen ngợi mình tốt đẹp như thế nào, mình thông minh như thế nào, mình có trí huệ như thế nào, mình vĩ đại như thế nào, nói thẳng ra đó là phát cuồng.
Bạn chân thật thì hà tất muốn người khác khen ngợi? Bạn không có gì lầm lỗi thì hà tất muốn người khác khen ngợi? Nói thẳng đó là điên đảo ngu si! Cho nên người tu đạo, người xuất gia, ai phỉ báng chúng ta, chúng ta càng phải nhẫn thọ, đừng có khi có người nào đó khen tốt một câu, thì chúng ta cứ ôm câu khen tốt đó, như bay tới trời Tứ Thiên Vương. Còn nếu có người nào đó nói một câu không tốt, thì chúng ta cứ ôm câu không tốt đó, như chạy xuống địa ngục. Thế nào gọi là bay lên cõi trời Tứ Thiên Vương? Tức là họ khen một câu, thì trong tâm mình hớn hở, nói : “Úi chao ơi, họ nói tôi thật là tốt quá chừng”! Vui mừng giống như được thành Phật ở cõi trời Tứ Thiên Vương, giống như đến được thế giới Cực Lạc. Còn khi họ nói chúng ta không tốt, thì buồn rầu thúi ruột, thậm chí còn khổ sở hơn là ở địa ngục. Bạn xem, như vậy thật là đáng thương! Người thật tu đạo, khen chê đều không động tâm. Họ nói tốt, nói không tốt, sao lại phải coi việc đó quan trọng?
Cho nên nước hay lợi ích tất cả chúng sinh, như đức Phật hay chuyên chở chúng sinh từ phàm phu đến Phật địa, cũng nguyện xin đức Phật khiến cho con Thiện Tài đồng tử cũng đắc được thừa pháp nầy.
Tứ nhiếp viên mãn luân, Vầng từ nhiếp viên mãn.
Tổng trì thanh Tịnh Quang Sáng tổng trì thanh tịnh
Như thị trí tuệ nhật, Mặt nhật huệ như vậy
Nguyện thị ngã lệnh kiến Xin dạy cho con thấy.
Bốn pháp nhiếp tức là : Bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự. Là chúng ta phải bố thí cho người khác, chứ chẳng phải chỉ muốn người khác bố thí cho mình. Bạn cứ muốn người khác bố thí cho bạn, đó là ích kỷ lợi mình. Bạn phải bố thí cho người khác, phải giúp đỡ người khác, ngoại trừ mình chẳng có khả năng, có khả năng thì phải trợ giúp người khác. Trợ giúp người khác là khiến cho họ phát tâm bồ đề, khiến cho chúng sinh phát tâm bồ đề, đó là chân chánh trợ giúp. Cho nên, bất cứ vị nào hay khiến cho nhiều chúng sinh tin Phật, thì đó là chân chánh trợ giúp, chân chánh làm cho Phật pháp hưng thịnh.
Cho nên có lần đến Mã Lai hoằng pháp, tôi biết có hơn năm trăm người phát tâm ăn chay. Có nhiều người nói với tôi, khi tôi đi rồi, họ muốn ăn chay trường, hơn nữa những người thọ giới cũng rất đông. Khiến cho chúng sinh tu trì Phật pháp, là một bộ phận của chúng ta giáo hoá chúng sinh, khiến cho chúng sinh phát tâm đại bồ đề.
Ái ngữ: Đối với chúng sinh phải có tâm từ bi ái hộ, khiến cho tất cả chúng sinh đều lìa khổ được vui.
Lợi hành: Tức là lợi ích người khác.
Đồng sự: Là muốn giống như họ, cùng làm nghề nghiệp với họ, gần gũi họ, làm bạn với họ, để từ từ giáo hoá họ.
Tổng trì, tiếng Phạn gọi là Đà la ni, tức là “Tổng tất cả pháp, trì vô lượng nghĩa”, hay phóng quang minh thanh tịnh. Mặt trời trí huệ như vậy, con nguyện đức Phật khiến cho con được thấy.
Dĩ nhập Pháp vương thành Ðã vào ngôi Pháp Vương
Đĩ trước trí Vương quan, Ðã đội mão Trí Vương
Dĩ hệ diệu pháp tăng, Ðã vấn lụa diệu pháp
Nguyện năng từ cố ngã! Xin thương chiếu cố con.
Đức Phật đã nhập vào bậc Pháp Vương, đã đội mão Trí Vương, đã quấn lụa diệu pháp, con xin đức Phật từ bi thương xót chiếu cố con Thiện Tài đồng tử.
Nhĩ thời, Văn-thù-sư-lợi Bồ Tát như Tượng Vương hồi, quán Thiện tài đồng tử, tác như thị ngôn: Thiện tai thiện tai! Thiện nam tử! nhữ dĩ phát A nậu đa La tam miệu tam Bồ-đề tâm, phục dục thân cận chư thiện tri thức, vấn Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo.
Lúc đó ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, như tượng vương, xoay nhìn Thiện Tài đồng tử mà bảo rằng: Lành thay ! Lành thay ! Này thiện nam tử ! Ngươi đã phát tâm Vô thượng Bồ đề, lại muốn thân cận các bực thiện tri thức để hỏi Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo.
Giảng: Lúc đó, Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi như voi chúa quay mình, nhìn Thiện Tài đồng tử, mà nói như vầy: “Lành thay! Lành thay! Thiện nam tử! Thuở xưa con đã phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề (Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác). Con lại muốn gần gũi các vị thiện tri thức, để thưa hỏi hạnh của Bồ Tát tu, tu hành đạo Bồ Tát tu, đây là sự việc rất tốt.
Thiện nam tử! thân cận cúng dường chư thiện tri thức, thị cụ nhất thiết trí tối sơ nhân duyên, thị cố ư thử vật sanh bì yếm.
Này thiện nam tử ! thân cận cúng dường các bực thiện tri thức là nhơn duyên trứơc nhứt để được đầy đủ Nhứt thiết trí.Vì thế nên công việc này ngươi chớ có mỏi nhàm.
Giảng: Thiện nam tử! Gần gũi cúng dường tất cả các vị thiện tri thức, là nhân duyên đầu tiên đầy đủ nhất thiết trí, cho nên về điều nầy đừng có sinh tâm nhàm mỏi”.
Trong bài Kệ Khen Ngợi Trên Đỉnh Tu Di có nói:
“Ví như báu trong tối
Không đèn không thể thấy.
Phật pháp không người nói
Tuy huệ không hiểu được”.
Cho nên đức Phật nói: “Nhân duyên mà tất cả chúng sinh được A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, trước hết là gần gũi bạn lành”.
Thiện Tài bạch ngôn:
Thiện Tài đồng tử bạch rằng:
Giảng: Thiện Tài đồng tử nói:
Duy nguyện Thánh Giả quảng vi ngã thuyết, Bồ Tát ưng vân hà học Bồ Tát hạnh? ưng vân hà tu Bồ Tát hạnh? ưng vân hà thú Bồ Tát hạnh? ưng vân hà hành Bồ Tát hạnh? ưng vân hà tịnh Bồ Tát hạnh? ưng vân hà nhập Bồ Tát hạnh? ưng vân hà thành tựu Bồ Tát hạnh? ưng vân hà tùy thuận Bồ Tát hạnh? ưng vân hà ức niệm Bồ Tát hạnh? ưng vân hà tăng quảng Bồ Tát hạnh? ưng vân hà lệnh Phổ Hiền hạnh tốc đắc viên mãn?
Cúi xin đức Thánh vì con mà dạy Bồ Tàt phải học Bồ Tát hạnh thế nào ? Phải tu Bồ Tát hạnh thế nào ? phải đến Bồ Tát hạnh thế nào ? Phật thật hành Bồ Tát hạnh thế nào ? Phải tịnh Bồ Tát hạnh thế nào? Phải nhập Bồ Tát hạnh thế nào ? Phải thành tựu Bồ Tát hạnh thế nào ? Phải tùy thuận Bồ Tát hạnh thế nào ? Phải ghi nhớ Bồ Tát hạnh thế nào ? Phải thêm rộng Bồ Tát hạnh thế nào ? Phải làm thế nào cho Phổ Hiền hạnh mau được viên mãn.
Giảng: “Xin nguyện đại Thánh, hãy vì con mà rộng nói: Bồ Tát nên học hạnh Bồ Tát như thế nào? Nên tu hành Bồ Tát hạnh như thế nào? Nên hướng về Bồ Tát hạnh như thế nào? Nên hành Bồ Tát hạnh như thế nào? Nên tịnh Bồ Tát hạnh như thế nào? Nên vào Bồ Tát hạnh như thế nào? Nên thành tựu Bồ Tát hạnh như thế nào? Nên tuỳ thuận Bồ Tát hạnh như thế nào? Nên nghĩ nhớ Bồ Tát hạnh như thế nào? Mà niệm niệm không quên? Nên tăng trưởng Bồ Tát hạnh như thế nào? Nên làm như thế nào khiến hạnh Phổ Hiền mau chóng được viên mãn”?
Đây là những câu hỏi Thiện Tài đồng tử hỏi Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi.
Nhĩ thời, Văn-thù-sư-lợi Bồ Tát vi Thiện tài đồng tử nhi thuyết tụng ngôn:
Lúc đó ngài Văn Thù Sư Lợ Bồ Tát vì Thiện Tài đồng tử mà nói kệ rằng:
Giảng: Lúc đó, Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi vì Thiện Tài đồng tử mà nói ra kệ dưới đây để giáo hoá:
Thiện tai công đức tạng, Lành thay tạng công đức
Năng lai chí ngã sở Có thể đến gặp ta
Phát khởi đại bi tâm Pháp khởi tâm đại bi
Cần cầu vô thượng giác Siêng cầu Vô Thượng Giác.
Thiện Tài đồng tử rất là tốt, là công đức tạng tích tụ công đức. Hiện tại con đã đến chỗ ta. Con có thể cầu Bồ Tát đạo vô thượng, phát khởi tâm đại bi cứu độ chúng sinh, siêng cầu đạo Vô Thượng Giác chẳng có tơ hào giải đãi.
Dĩ phát quảng đại nguyện Ðã pháp nguyện rộng lớn
Trừ diệt chúng sanh khổ, Diệt trừ khổ chúng sanh
Phổ vi chư thế gian Vì khắp các chúng sanh
Tu hành Bồ Tát hạnh. Tu hành Bồ Tát hạnh.
Con đã phát thệ nguyện rộng lớn, con muốn trừ diệt khổ của chúng sinh, khiến cho chúng sinh lìa khổ được vui, khắp vì tất cả thế gian, tu hành hạnh của Bồ Tát tu.
Nhược hữu chư Bồ-tát Nếu có các Bồ Tát
Bất yếm sanh tử khổ, Chẳng nhàm khổ sanh tử
Tức cụ Phổ Hiền đạo Thời đủ đạo Phổ Hiền
Nhất thiết vô năng hoại. Tất cả không hoại được.
Nếu có các Bồ Tát chẳng nhàm chán biển khổ sanh tử, thì Bồ Tát đó liền đủ đạo Phổ Hiền, tất cả không có gì có thể phá hoại nguyện lực của Bồ Tát được.
Phước quang phước uy lực Phước quang, phước oai lực
Phước xứ phước tịnh hải Phước xứ, phước tịnh hải
Nhữ vi chư chúng sanh Ngươi vì khắp chúng sanh
Nguyện tu Phổ Hiền hạnh Nguyện tu Phổ Hiền hạnh.
Phước đức quang minh, phước đức oai lực của Bồ Tát, vì chỗ của Ngài ở cũng có phước đức (hay sinh ra các phước), cho nên phước đức của Ngài thanh tịnh như biển cả (lìa chướng sâu rộng). Con hãy vì tất cả chúng sinh, nguyện tu hạnh của Bồ Tát Phổ Hiền tu.
Nhữ kiến vô biên tế Ngươi thấy vô biên tế
Thập phương nhất thiết Phật Mười phương tất cả Phật
Giai tất thính văn Pháp Khắp nghe Phật thuyết pháp
Thọ trì bất vong thất. Thọ trì chẳng quên mất.
Con đã thấy bờ mé vô lượng vô biên, mười phương tất cả chư Phật, con ở trong đạo tràng của hết thảy mười phương chư Phật, đều nghe được Phật pháp, thọ trì trong tâm mà chẳng quên mất.
Nhữ ư thập phương giới Ngươi ở mười phương cõi
Phổ kiến vô lượng Phật Thầy khắp vô lượng Phật
Thành tựu chư nguyện hải Thành tựu những nguyện hải
Cụ túc Bồ Tát hạnh. Ðầy đủ Bồ Tát hạnh.
Con ở trong mười phương pháp giới, thấy khắp vô lượng vô số chư Phật, hiện tại con đã thành tựu tất cả biển nguyện, đầy đủ hạnh của Bồ Tát tu hành.
Nhược nhập phương tiện hải Nếu nhập phương tiện hải
An trụ Phật Bồ-đề An trụ Phật Bồ đề
Năng tùy Đạo sư học Hay theo Ðạo Sư học
Đương thành nhất thiết trí. Sẽ thành Nhứt thiết trí.
Nếu con vào được biển phương tiện của Bồ Tát tu hành, thì sẽ an trụ Phật bồ đề, thường hay theo Phật học, thì tương lai nhất định sẽ thành nhất thiết trí.
Nhữ biến nhất thiết sát Khắp tất cả quốc độ
Vi trần đẳng chư kiếp Số kiếp như vi trần
Tu hành Phổ Hiền hạnh Ngươi tu hạnh Phổ Hiền
Thành tựu Bồ-đề đạo. Thành tựu Bồ đề đạo.
Con đầy khắp tất cả cõi, ở trong đại kiếp nhiều như số hạt bụi, tu hành hạnh của Bồ Tát Phổ Hiền tu, mà thành tựu đạo bồ đề.
Nhữ ư vô lượng sát Ở vô lượng cõi nước
Vô biên chư kiếp hải, Trong vô biên kiếp hải
Tu hành Phổ Hiền hạnh Ngươi tu hạnh Phổ Hiền
Thành mãn chư đại nguyện. Thành mãn những đại nguyện.
Con ở trong vô lượng cõi Phật nhiều như biển, vô biên đại kiếp, tu hành hạnh của Bồ Tát Phổ Hiền tu, mà thành tựu viên mãn tất cả đại nguyện.
Thử vô lượng chúng sanh Vô lượng chúng sanh đây
Văn nhữ nguyện hoan hỉ, Nghe ngươi nguyện đều mừng
Giai phát Bồ-đề ý Ðều phát tâm Bồ đề
Nguyện học Phổ Hiền thừa. Nguyện học hạnh Phổ Hiền
Hết thảy vô lượng chúng sinh thế gian nầy, nghe con phát nguyện đều sinh tâm đại hoan hỉ. Họ đều phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, họ cũng đều muốn học tập đại pháp của Bồ Tát Phổ Hiền tu hành.
Nhĩ thời, Văn-thù-sư-lợi Bồ-tát thuyết thử tụng dĩ, cáo Thiện tài đồng tử ngôn:
Nói kệ xong, ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bảo Thiện Tài đồng tử rằng:
Giảng: Khi Bồ Tát Văn Thù nói bài kệ với Thiện Tài đồng tử xong rồi, thì Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi lại nói với Thiện Tài đồng tử rằng:
Thiện tai thiện tai! Thiện nam tử! nhữ dĩ phát A-nậu-đa-la-tam miểu tam-Bồ-đề tâm, cầu Bồ Tát hạnh. Thiện nam tử! nhược hữu chúng sanh năng phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm, thị sự vi nan; năng phát tâm dĩ, cầu Bồ Tát hạnh, bội cánh vi nan.
Lành thay ! Lành thay ! này thiện nam tử ! Ngươi đã phát tâm Vô thượng Bồ đề, cầu hạnh Bồ Tát. Này thiện nam tử ! nếu có chúng sanh phát tâm Vô thượng Bồ đề, đây là việc rất khó. Ðã có thể phát Bồ đề tâm rồi lại cầu Bồ Tát hạnh, việc này càng khó gấp bội.
Giảng: “Này con Thiện Tài, rất tốt, tốt lắm! Con đã phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề (Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác), con rất thành tâm thỉnh cầu hạnh của Bồ Tát tu hành.
Thiện nam tử! Nếu có chúng sinh phát được tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, đó là việc rất khó. Đã phát tâm rồi, mà còn cầu Bồ Tát hạnh, thì càng khó hơn gấp bội.
Thiện nam tử! nhược dục thành tựu nhất thiết trí trí, ưng quyết định cầu chân thiện tri thức.
Này thiện nam tử ! Nếu muốn thành tựu Nhứt thiết chủng trí thời phải quyết định cầu chân thiện tri thức.
Giảng: Thiện nam tử! Nếu muốn thành tựu trí nhất thiết trí, thì nên quyết định cầu chân thật thiện tri thức.
Thiện nam tử! cầu thiện tri thức vật sanh bì giải, kiến thiện tri thức vật sanh yếm túc, ư thiện tri thức sở hữu giáo hối giai ưng tùy thuận, ư thiện tri thức thiện xảo phương tiện vật kiến quá thất.
Này thiện nam tử ! Cầu thiện tri thức chớ có mỏi lười. Thấy thiện tri thức chớ có nhàm đủ. Thiện tri thức có dạy bảo điều chi phải đều tùy thuận. Nơi thiện xảo phương tiện của thiện tri thức chớ thấy lỗi lầm.
Giảng: Thiện nam tử! Con phải biết, cầu thiện tri thức chớ sanh lòng lười biếng giải đãi. Phải thời thời khắc khắc đem tâm chân thành khẩn thiết ra. Gần gũi thiện tri thức, thấy thiện tri thức, chớ sanh lòng nhàm đủ. Phải chân chánh tin đạo lý của thiện tri thức giáo hoá. Đối với những lời dạy dỗ của thiện tri thức, nhất định phải sinh tâm tin thâm sâu, cũng nên tuỳ thuận lời dạy dỗ của thiện tri thức mà thực hành. Thiện tri thức có lúc dùng pháp môn phương tiện thiện xảo, để giáo hoá chúng sinh. Con gần gũi thiện tri thức, chớ có bới lông tìm vết, nói thiện tri thức có lỗi lầm, và có chuyện gì không đúng.
Cho nên đây thật là rất khó khăn, gần gũi thiện tri thức, có khi lâu dần, thì cảm thấy cái nầy cũng không đúng, cái kia cũng không tốt. Nhưng Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi khuyên nhủ Thiện Tài đồng tử, đừng có tư tưởng như thế. Cho nên người học Phật pháp, nên nhớ đừng thấy lỗi của bốn chúng, phải có tâm khát ngưỡng cầu pháp.
Thiện nam tử! ư thử Nam phương hữu nhất quốc độ, danh vi: thắng lạc; kỳ quốc hữu sơn, danh viết: diệu phong; ư bỉ sơn trung, hữu nhất Tỳ-kheo, danh viết: đức vân. Nhữ khả vãng vấn: Bồ Tát vân hà học Bồ Tát hạnh? Bồ Tát vân hà tu Bồ Tát hạnh? nãi chí Bồ Tát vân hà ư Phổ Hiền hạnh tật đắc viên mãn? Đức Vân Tỳ-kheo đương vi nhữ.
Này thiện nam tử ! Phương nam này có một nước tên là Thắng Lạc. Trong nước Thắng Lạc có tòa núi tên là Diệu Phong. Trên núi đó có một Tý kheo tên là Ðức Vân. Ngươi nên đến hỏi Tỳ Kheo Ðức Vân: Bồ Tát phải học Bố Tát hạnh thế nào ? Phải tu Bồ Tát hạnh thế nào ? Nhẫn đến phải như thế nào để được mau viên mãn hạnh Phổ Hiền ? Tỳ Kheo Ðức Vân sẽ chỉ bảo cho ngươi.
Giảng: Thiện nam tử! Ở phương nam nầy, lại đi về hướng nam, có một cõi nước tên là Thắng Lạc. Trong nước đó có núi tên là Diệu Phong. Trong núi đó, có một vị Tỳ Kheo đang tu hành ở đó, tên là Đức Vân, đức hạnh của vị đó như mây.
Con hãy đi đến đó thưa hỏi vị ấy rằng: “Bồ Tát học tập hạnh Bồ Tát như thế nào”? Ngài biết vị ấy tuy là một vị Tỳ Kheo, nhưng bên ngoài hiện thân Thanh Văn, bên trong bí mật tu Bồ Tát hạnh. Ngài cũng là một vị Bồ Tát, cho nên Ngài biết làm thế nào tu Bồ Tát hạnh, biết rất rõ ràng. Cho đến Bồ Tát làm thế nào sớm được viên mãn hạnh Bồ Tát Phổ Hiền? Tỳ Kheo Đức Vân sẽ vì con nói kỹ càng.
=======================
PHÓ THÁC THẬP TRỤ
— o0o —
TỲ KHEO ĐỨC VÂN – PHÓ THÁC THỨ NHẤT PHÁT TÂM TRỤ
Nhĩ thời, Thiện tài đồng tử văn thị ngữ dĩ, hoan hỉ dũng dược, đầu đính lễ túc, nhiễu vô số tạp, ân cần chiêm ngưỡng, bi khấp lưu lệ. Từ thoái Nam hành, hướng thắng lạc quốc, đăng diệu phong sơn, ư kỳ sơn thượng Đông, Tây, Nam, Bắc, tứ duy, thượng, hạ quan sát cầu mịch, khát ngưỡng dục kiến đức vân Tỳ-kheo. Kinh vu thất nhật, kiến bỉ Tỳ-kheo tại biệt sơn thượng từ bộ kinh hành.
Thiện Tài đồng tử nghe xong hớn hở vui mừng, đảnh lễ Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, hữu nhiễu vô số vòng, ân cần chiêm ngưỡng, rơi lệ từ tạ mà đi qua hướng Nam, đến nước Thắng Lạc, lên núi Diệu Phong. Ở trên núi đó xem ngó tìm kiếp khắp bốn phía, lòng khao khát muốn được gặp Tỳ Kheo Ðức Vân. Bảy ngày sau mới được thấy Tý Kheo Ðức Vân ở trên ngọn núi khác đi kinh hành chậm rãi.
Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử nghe lời đó xong, hoan hỉ nhảy nhót vui mừng, sau đó cúi đầu đảnh lễ Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, đi nhiễu vô số vòng, ân cần chiêm ngưỡng Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi mắt không tạm rời. Thiện Tài đồng tử vốn đã không còn tình cảm và tâm luyến ái, nhưng nhìn thấy tâm từ bi và đức tướng của Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, mà cảm động đến rơi lệ. Ngài hướng về Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi từ biệt, đi về phương nam, triều kiến vị thiện tri thức thứ nhất.
Thiện Tài đồng tử đi về phương nam, đến nước Thắng Lạc, lên đỉnh núi Diệu Phong. Trên núi đó, Thiện Tài quan sát đông tây nam bắc, bốn hướng trên dưới, để tìm cầu Tỳ Kheo Đức Vân, rất khát ngưỡng muốn gặp Tỳ Kheo Đức Vân. Trải qua bảy ngày bảy đêm mới gặp được vị Tỳ Kheo đó, đang ở trên ngọn núi khác, đi kinh hành từng bước từng bước.
Kiến dĩ vãng nghệ, đảnh lễ kỳ túc, hữu nhiễu tam tạp, ư tiền nhi trụ, tác như thị ngôn:
Thấy xong, Thiện Tài đồng tử liền đến đảnh lễ chân Tỳ Kheo Ðức Vân, hữu nhiễu ba vòng cung kính đứng trước Ðức Vân mà bạch rằng:
Giảng: Thiện Tài đồng tử gặp Tỳ Kheo Đức Vân rồi, bèn đi đến trước mặt, đảnh lễ dưới chân vị Tỳ Kheo đó, đi nhiễu bên phải ba vòng, bèn đừng lại ở trước mặt Tỳ Kheo Đức Vân, mà nói rằng:
Thánh Giả! ngã dĩ tiên phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm, nhi vị tri Bồ Tát vân hà học Bồ Tát hạnh? vân hà tu Bồ Tát hạnh? nãi chí ưng vân hà ư Phổ Hiền hạnh tật đắc viên mãn? ngã văn Thánh Giả thiện năng dụ hối, duy nguyện thùy từ, vi ngã tuyên thuyết: vân hà Bồ Tát nhi đắc thành tựu A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề?
Bạch Ðức Thánh ! Con đã phát tâm Vô thượng Bồ đề, mà chưa biết Bồ Tát phải học Bồ Tát hạnh thế nào ? Phải tu Bồ Tát hạnh thế nào ? Nhẫn đến phải thế nào để được mau viên mãn hạnh Phổ Hiền ? Con nghe đức Thánh khéo có thể dạy bảo, mong đức Thánh thương xót dạy cho con thế nào Bồ Tát được thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Giảng: “Bạch đức Thánh! Con sớm đã phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, mà con chưa biết Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh? Thế nào tu Bồ Tát hạnh? Cho đến nên làm thế nào để sớm được viên mãn đại hạnh Phổ Hiền? Con nghe Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi giới thiệu về đức Thánh khéo dạy dỗ. Xin Ngài hãy từ bi, vì con mà nói: Bồ Tát làm thế nào mà được thành tựu A nậu đa la tam miệu tam bồ đề”?
Đây là Thiện Tài đồng tử bắt đầu tham vấn 53 vị thiện tri thức, vị thứ nhất là Tỳ Kheo Đức Vân. Đây là Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi giới thiệu Ngài đi đến tham vấn Tỳ Kheo Đức Vân, chứ chẳng phải Ngài tự đi, hoặc lại nói: “Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi chẳng có đạo đức lớn, không thể dạy dỗ tôi, cho nên tôi đi đến lạy Tỳ Kheo Đức Vân làm thầy”. Thiện Tài đồng tử chẳng như thế, đây là mệnh lệnh của Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, kêu Ngài đi đến gần gũi Tỳ Kheo Đức Vân, thỉnh giáo tầm sư học đạo.
Nhưng người Trung Quốc đều hay hồ đồ nói: “Thiện Tài đồng tử tham vấn 53 vị, còn tôi thỉnh giáo tới 54 vị cũng không nhiều”. Bởi nói như vậy làm cho Phật giáo đại loạn, ai ai cũng đều tranh lấy đệ tử, tranh đoạt đệ tử của người khác, mà dạy họ nói : “Quý vị phải tham vấn Sư, phải quy y lại”. Như vậy là lấy bậy truyền bậy, lấy mù dẫn mù, khiến cho người quy y cho rằng quy y càng nhiều thì càng tốt, quy y nhiều thì tiêu nghiệp chướng, cuối cùng tiêu trừ được bao nhiêu nghiệp chướng? Họ cũng chẳng biết, tức là hồ đồ trong sự hồ đồ, đây gọi là “mơ hồ truyền mơ hồ”, cho nên Phật giáo Trung Quốc thật là đáng thương xót!
Thời, đức vân Tỳ-kheo cáo Thiện Tài ngôn:
Ðức Vân Tỳ Kheo bảo Thiện Tài đồng tử rằng:
Giảng: Lúc đó, Tỳ Kheo Đức Vân bảo Thiện Tài rằng:
Thiện tai thiện tai! Thiện nam tử! nhữ dĩ năng phát A-nậu-đa-la-tam miểu tam-Bồ-đề tâm, phục năng thỉnh vấn chư Bồ-tát hạnh. Như thị chi sự, nan trung chi nan. Sở vị: cầu Bồ Tát hạnh, cầu Bồ Tát cảnh giới, cầu Bồ Tát xuất ly đạo, cầu Bồ Tát thanh tịnh đạo, cầu Bồ Tát thanh tịnh quảng đại tâm, cầu Bồ Tát thành tựu thần thông, cầu Bồ Tát thị hiện giải thoát môn, cầu Bồ Tát thị hiện thế gian sở tác nghiệp, cầu Bồ Tát tùy thuận chúng sanh tâm, cầu Bồ Tát sanh tử Niết Bàn môn, cầu Bồ Tát quan sát hữu vi, vô vi tâm vô sở trước.
Lành thay ! Lành thay ! Này thiện nam tử ! Ngươi đã phát tâm Vô thượng Bồ đề, lại có thể hỏi hạnh của Bồ Tát. Việc như vậy là sự khó trong những sự khó. Những là cầu Bồ Tát hạnh, cầu Bồ Tất cảnh giới, cầu đạo xuất ly của Bồ Tát, cầu đạo thanh tịnh của Bồ Tát, cầu tâm thanh tịnh quảng đại của Bồ Tát, cầu Bồ Tát thành tựu thần thông, cầu Bồ Tát thị hiện môn giải thoát, cầu Bồ Tát thị hiện việc làm tại thế gian, cầu Bồ Tát tùy thuận tâm của chúng sanh, cầu môn sanh tử Niết bàn của Bồ Tát, cầu Bồ Tát quán sát hữu vi vô vi tâm không chấp trước.
Giảng: “Lành thay lành thay! Thiện nam tử! Con đã phát được đạo tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Lại hay thưa hỏi các hạnh của Bồ Tát tu, con thành tâm như vậy, thật là một sự việc khó trong sự khó! Hiện tại con làm được, thật là khó làm mà làm được, khó nhẫn con cũng nhẫn được, khó tu con cũng tu được! Con thật là một vị tu hành tốt ở trong Phật giáo”.
Đó là:
1. Không dễ gì cầu được hạnh Bồ Tát, mà con cũng cầu được.
2. Không dễ gì cầu được cảnh giới Bồ Tát, con cũng cầu được.
3. Không dễ gì cầu được đạo xuất ly của Bồ Tát, con cũng cầu được.
4. Không dễ gì cầu được đạo thanh tịnh của Bồ Tát, con cũng cầu được.
5. Không dễ gì cầu được tâm thanh tịnh rộng lớn của Bồ Tát, con cũng cầu được.
6. Không dễ gì cầu được thành tựu thần thông của Bồ Tát, con cũng cầu được.
7. Không dễ gì cầu được thị hiện môn giải thoát của Bồ Tát, con cũng cầu được.
8. Không dễ gì cầu được cảnh giới thị hiện tất cả sở tác nghiệp nơi thế gian của Bồ Tát, con cũng cầu được, tức sự nghiệp tuỳ thuận.
9. Không dễ gì cầu được tâm tuỳ thuận chúng sinh của Bồ Tát, con cũng cầu được, mà theo cơ tuỳ thuận.
10. Không dễ gì cầu môn sinh tử Niết Bàn của Bồ Tát, con cũng cầu được. Do đó: “Chẳng trụ Niết Bàn, là môn sinh tử. Chẳng trụ sinh tử, tức môn Niết Bàn”.
11. Không dễ gì cầu quán sát hữu vi và vô vi của Bồ Tát, mà trong tâm không chấp trước, nhưng con cũng cầu được đạo lý thấu rõ chẳng một, chẳng khác, trong tâm chẳng chấp trước, tức cũng là sớm sẽ được đầy đủ đại hạnh của Phổ Hiền.
Thiện nam tử! ngã đắc tự tại quyết định giải lực, tín nhãn thanh tịnh, trí quang chiếu diệu, phổ quán cảnh giới, ly nhất thiết chướng, thiện xảo quan sát, phổ nhãn minh triệt, cụ thanh tịnh hạnh, vãng nghệ thập phương nhất thiết quốc độ, cung kính cúng dường nhất thiết chư Phật, thường niệm nhất thiết chư Phật Như Lai, tổng trì nhất thiết chư Phật chánh pháp, thường kiến nhất thiết thập phương chư Phật.
Này thiện nam tử ! Ta được sức thắng giải tự tại quyết định, tín nhãn thanh tịnh, trí quang chói sáng, thấy khắp các cảnh giới khỏi tất cả chướng ngại, quán sát khéo léo, phổ nhãn sáng suốt, đủ hạnh thanh tịnh. Qua đến tất cả cõi nước mười phương cung kính cúng dường tất cả chư Phật. Thường nhớ tất cả chư Phật Như Lai. Tổng trì tất cả chánh pháp của chư Phật. Thường thấy tất cả chư Phật mười phương.
Giảng: Thiện nam tử! Ta đắc được tam muội thắng giải quán cảnh tử tại, tác dụng tự tại, trí quyết định, tin không do dự. Mắt tin của ta thanh tịnh, thấy rõ phân minh, trí huệ quang minh quyết định của ta chiếu sáng tất cả. Ta dùng mắt tin để quán sát khắp tất cả cảnh giới, lìa khỏi tất cả chướng ngại, và tất cả các cái, các thủ. Ta khéo léo quán sát tất cả sắc tướng, dùng mắt tin quán khắp cảnh giới, tận cùng như pháp giới, cảnh giới gì ta cũng đều nhận thức được, đầy đủ hạnh thanh tịnh. Ta có thể đi đến mười phương tất cả cõi nước, cung kính cúng dường tất cả chư Phật. Lại hay thường niệm danh hiệu tất cả chư Phật Như Lai, tổng trì chánh pháp của tất cả chư Phật. Thường thấy tất cả chư Phật mười phương.
Sở vị: kiến ư Đông phương nhất Phật, nhị Phật, thập Phật, bách Phật, thiên Phật, bách thiên Phật, ức Phật, bách ức Phật, thiên ức Phật, bách thiên ức Phật, na-do-tha ức Phật, bách na-do-tha ức Phật, thiên na-do-tha ức Phật, bách thiên na-do-tha ức Phật, nãi chí kiến vô số, vô lượng, vô biên, vô đẳng, bất khả số, bất khả xưng, bất khả tư, bất khả lượng, bất khả thuyết, bất khả thuyết bất khả thuyết Phật, nãi chí kiến Diêm-phù-đề vi trần số Phật, tứ thiên hạ vi trần số Phật, thiên thế giới vi trần số Phật, nhị thiên thế giới vi trần số Phật, tam thiên thế giới vi trần số Phật, Phật sát vi trần số Phật, nãi chí bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số Phật
Những là thấy phương đông một đức Phật, hai đức Phật, mười đức Phật, trăm đức Phật, ngàn đức Phật, ức đức Phật, trăm ức đức Phật, ngàn ức đức Phật, trăm ngàn ức đức Phật, na do tha ức đức Phật, trăm na do tha ức đức Phật, ngàn na do tha ức đức Phật, trăm ngàn na do tha ức đức Phật, nhẫn đến thấy vô số, vô lượng, vô biên vô đẳng, bất khả sổ, bất khả xưng, bất khả tư, bất khả lượng, bất khả thuyết, bất khả thuyết bất khả thuyết đức Phật. Nhẫn đến thấy chư Phật bằng số vi trần trong Diêm Phù Ðề, bằng số vi trần trong bốn châu thiên hạ, bằng số vi trần trong Tiểu thiên thế giới, bằng số vi trần trong nhị thiên thế giới bằng số vi trần trong Ðại Thiên thế giới, bằng số Phật sát vi trần nhẫn đến thấy chư Phật bằng số bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần.
Giảng: Đó là: Ở phương đông thấy một đức Phật. Hai đức Phật. Mười đức Phật. Trăm đức Phật. Ngàn đức Phật. Trăm ngàn đức Phật. Ức đức Phật. Ngàn ức đức Phật. Trăm ngàn ức đức Phật. Na do tha ức đức Phật. Trăm Na do tha ức đức Phật. Ngàn Na do tha ức đức Phật. Trăm ngàn Na do tha ức đức Phật. Cho đến thấy vô số. Vô lượng. Vô biên. Vô đẳng. Bất khả số. Bất khả xưng. Bất khả tư. Bất khả lượng. Bất khả thuyết. Bất khả thuyết bất khả thuyết đức Phật. Cho đến thấy các đức Phật nhiều như số hạt bụi cõi Diêm Phù Đề. Các đức Phật nhiều như số hạt bụi bốn thiên hạ. Các đức Phật nhiều như số hạt bụi ngàn thế giới. Các đức Phật nhiều như số hạt bụi hai ngàn thế giới. Các đức Phật nhiều như số hạt bụi ba ngàn thế giới. Các đức Phật nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật. Cho đến các đức Phật nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật.
Như Đông phương, Nam, Tây, Bắc phương, tứ duy, thượng, hạ, diệc phục như thị. Nhất nhất phương trung sở hữu chư Phật, chủng chủng sắc tướng, chủng chủng hình mạo, chủng chủng thần thông, chủng chủng du hí, chủng chủng chúng hội trang nghiêm đạo tràng, chủng chủng quang minh vô biên chiếu diệu, chủng chủng quốc độ, chủng chủng thọ mạng, tùy chư chúng sanh chủng chủng tâm lạc, thị hiện chủng chủng thành chánh giác môn, ư Đại chúng trung nhi sư tử hống.
Như phương đông, chín phương kia cũng đều thấy như vậy. Chư Phật trong mỗi phương, những sắc tướng, những hình mạo, những thần thông, những du hí, những chúng hội trang nghiêm đạo tràng, những quang minh chiếu sáng vô biên, những quốc độ, những thọ mạng. Tùy những tâm sở nghi của chúng sanh mà chư Phật thị hiện những môn thành Ðẳng Chánh Giác, làm sư tử hống trong đại chúng.
Giảng: Như ở phương đông, phương nam tây bắc, bốn hướng, trên dưới, cũng lại như thế. Trong mỗi phương: Hết thảy chư Phật, đều dùng đủ thứ sắc tướng, đủ thứ thân hình, đủ thứ thần thông, đủ thứ du hí, đủ thứ chúng hội đạo tràng trang nghiêm, dùng đủ thứ quang minh vô biên chiếu sáng tất cả, đủ thứ cõi nước, đủ thứ thọ mạng. Tuỳ thuận đủ thứ tâm ưa thích của chúng sinh, mà thị hiện đủ thứ pháp môn thành Chánh Giác, thành Phật. Ở trong đại chúng mà sư tử hống, thuyết pháp giáo hoá chúng sinh.
Thiện nam tử! ngã duy đắc thử ức niệm nhất thiết chư Phật cảnh giới trí tuệ quang minh phổ kiến Pháp môn, khởi năng liễu tri chư đại Bồ-tát vô biên trí tuệ thanh tịnh hạnh môn?
Này thiện nam tử ! Ta chỉ được pháp môn “ức niệm Nhứt thiết chư Phật cảnh giới trí huệ quang minh phổ kiến” này thôi. Ðâu biết hết được vô biên trí huệ thanh tịnh hạnh môn của đại Bồ Tát.
Giảng: Thiện nam tử! Ta chỉ đắc được pháp môn nghĩ nhớ tất cả cảnh giới chư Phật, dùng trí huệ quang minh thấy khắp tất cả chư Phật. Ta đâu thể nào biết rõ vô biên hạnh môn trí huệ thanh tịnh của tất cả các đại Bồ Tát?
Trong Đại Trí Độ Luận có nói: “Bồ Tát dùng Bát Nhã Ba La Mật làm mẹ, ban chu tam muội làm cha, nương Phật mới thành thắng hạnh khác”. Cho nên pháp niệm Phật, là đạo thượng Thánh hạ phàm cùng tu, là pháp bậc trí kẻ ngu đều tu hành, nhờ vào sự chuyên nhất và Phật lực, nên đắc được lợi ích thù thắng, vượt qua các pháp môn khác. Ở trong Kinh Đại Tập có nói: “Thời mạt pháp, người tu hiếm người đắc đạo, chỉ có nương vào niệm Phật mới vượt qua được sinh tử”.
Sở vị: trí quang phổ chiếu niệm Phật môn, thường kiến nhất thiết chư Phật quốc độ chủng chủng cung điện tất nghiêm tịnh cố; lệnh nhất thiết chúng sanh niệm Phật môn, tùy chư chúng sanh tâm chi sở lạc, giai lệnh kiến Phật đắc thanh tịnh cố; lệnh an trụ lực niệm Phật môn, lệnh nhập Như Lai thập lực trung cố; lệnh an trụ pháp niệm Phật môn, kiến vô lượng Phật, thính văn Pháp cố; chiếu diệu chư phương niệm Phật môn, tất kiến nhất thiết chư thế giới trung đẳng vô sái biệt chư Phật hải cố
Những là: Trí quang phổ chiếu niệm Phật môn, vì thường thấy tất cả chư Phật quốc độ những cung điện đều trang nghiêm thanh tịnh. Môn làm cho tất cả chúng sanh niệm Phật, vì tùy sở nghi của tâm chúng sanh đều làm cho họ được thấy Phật, tâm họ được thanh tịnh. Môn làm cho an trụ nơi lực niệm Phật, vì làm cho họ nhập vào thập lực của Như Lai. Môn làm cho an trụ nơi pháp niệm Phật, vì thấy vô lượng Phật được nghe pháp. Môn niệm Phật chói sáng các phương, vì đều thấy trong tất cả thế giới chư Phật bình đẳng không sai biệt.
Giảng: Đó là: Pháp môn niệm Phật trí huệ quang minh chiếu khắp, vì thường thấy cảnh giới tất cả cõi nước chư Phật đủ thứ cung điện đều trang nghiêm thanh tịnh. Lại có pháp môn khiến cho tất cả chúng sinh niệm Phật, vì tuỳ thuận tâm ưa thích của các chúng sinh, đều khiến cho họ thấy được Phật, mà đắc được diệu đạo thanh tịnh vô vi. Lại có pháp môn niệm Phật khiến cho chúng sinh an trụ vào trong mười lực của Phật, vì khiến cho chúng sinh chứng nhập vào trong mười lực của Như Lai. Lại có pháp môn niệm Phật khiến cho chúng sinh an trụ vào trong Phật pháp, vì thấy được vô lượng Phật, lắng nghe chánh pháp. Lại có pháp môn niệm Phật chiếu sáng các phương, vì hoàn toàn đều thấy được biển chư Phật trong tất cả thế giới, đồng nhau không khác biệt.
Nhập bất khả kiến xứ niệm Phật môn, tất kiến nhất thiết vi tế cảnh trung chư Phật tự tại thần thông sự cố; trụ ư chư kiếp niệm Phật môn, nhất thiết kiếp trung thường kiến Như Lai chư sở thí vi vô tạm xả cố; trụ nhất thiết thời niệm Phật môn, ư nhất thiết thời thường kiến Như Lai, thân cận đồng trụ bất xả ly cố; trụ nhất thiết sát niệm Phật môn, nhất thiết quốc độ hàm kiến Phật thân siêu quá nhất thiết vô dữ đẳng cố; trụ nhất thiết thế niệm Phật môn, tùy ư tự tâm chi sở dục lạc phổ kiến tam thế chư Như Lai cố; trụ nhất thiết cảnh niệm Phật môn, phổ ư nhất thiết chư cảnh giới trung kiến chư Như Lai thứ đệ hiện cố; trụ tịch diệt niệm Phật môn, ư nhất niệm trung kiến nhất thiết sát nhất thiết chư Phật thị Niết-Bàn cố
Môn niệm Phật vào chỗ bất khả kiến, vì đều thấy trong tất cả cảnh vi tế những sự thần thông tự tại của chư Phật. Môn niệm Phật an trụ trong các kiếp, vì trong tất cả kiếp thường thấy những việc làm không tạm bỏ của chư Phật. Môn niệm Phật an trụ trong tất cả thời gian, vì trong tất cả thời gian thường thấy đức Như Lai gần gủi đồng ở chẳng rời bỏ. Môn niệm Phật an trụ tất cả cõi, vì tất cả quốc độ đều thấy thân Phật vượt hơn tất cả không gì sánh bằng. Môn niệm Phật an trụ tất cả đời, vì tùy tâm sở thìch thấy khắp tam thế chư Phật. Môn niệm Phật an trụ tất cả cảnh, vì ở khắp trong tất cả cảnh giới thấy chư Như Lai thứ đệ xuất hiện. Môn niệm Phật an trụ tịch diệt, vì trong một niệm thấy tất cả cõi, tất cả chư Phật thị hiện Niết bàn.
Giảng: Lại có pháp môn niệm Phật chứng nhập không thể thấy xứ, vì đều thấy được việc thần thông tự tại của chư Phật trong tất cả cảnh giới vi tế. Lại có pháp môn niệm Phật trụ trong tất cả kiếp, vì trong tất cả kiếp thời gian lâu dài, thường thấy các việc làm của Như Lai, không tạm bỏ. Lại có pháp môn niệm Phật trụ vào tất cả thời, vì tất cả thời thường thấy Như Lai cùng ở gần gũi, chẳng xả lìa. Lại có pháp môn niệm Phật trụ nơi tất cả cõi Phật, vì trong tất cả cõi nước, đều thấy thân Phật, tướng tốt quang minh vượt qua hết thảy tất cả không gì sánh bằng. Lại có pháp môn niệm Phật trụ nơi tất cả đời, vì tuỳ sự ưa thích nơi tâm mình, thấy khắp cảnh giới các Như Lai ba đời. Lại có pháp môn niệm Phật trụ tất cả cảnh giới, vì khắp trong tất cả các cảnh giới, thấy các Như Lai thứ lớp thị hiện thành Phật. Lại có pháp môn niệm Phật trụ nơi tịch diệt, vì ở trong một niệm, thấy tất cả cõi và tất cả chư Phật thị hiện Niết Bàn.
Trụ viễn ly niệm Phật môn, ư nhất nhật trung kiến nhất thiết Phật tùng kỳ sở trụ nhi xuất khứ cố; trụ quảng đại niệm Phật môn, tâm thường quan sát nhất nhất Phật thân sung biến nhất thiết chư pháp giới cố; trụ vi tế niệm Phật môn, ư nhất mao đoan hữu bất khả thuyết Như Lai xuất hiện, tất chí kỳ sở nhi thừa sự cố; trụ trang nghiêm niệm Phật môn, ư nhất niệm trung kiến nhất thiết sát giai hữu chư Phật thành đẳng chánh giác hiện thần biến cố; trụ năng sự niệm Phật môn, kiến nhất thiết Phật xuất hiện thế gian phóng trí tuệ quang chuyển pháp luân cố; trụ tự tại tâm niệm Phật môn, tri tùy tự tâm sở hữu dục lạc, nhất thiết chư Phật hiện kỳ tượng cố; trụ tự nghiệp niệm Phật môn, tri tùy chúng sanh sở tích tập nghiệp, hiện kỳ ảnh tượng lệnh giác ngộ cố; trụ thần biến niệm Phật môn, kiến Phật sở tọa quảng đại liên hoa chu biến pháp giới nhi khai phu cố; trụ hư không niệm Phật môn, quan sát Như Lai sở hữu thân vân trang nghiêm Pháp giới, hư không giới cố.
Nhi ngã vân hà năng tri năng thuyết bỉ công đức hạnh?
Môn niệm Phật an trụ viễn ly, vì trong một niệm thấy tất cả Phật từ nơi chỗ ở mà ra đi. Môn niệm Phật an trụ quảng đại, vì tâm thường quán sát mỗi thân Phật đầy khắp tất cả pháp giới. Môn niệm Phật an trụ vi tế, vì trong một chân lông có bất khả thuyết Như Lai xuất hiện, đều đến chỗ Phật ma kính thờ. Môn niệm Phật an trụ trang nghiêm, vì trong một niệm thấy tất cả cõi đều có chư Phật thành Ðẳng Chánh Giác hiện thần biến. Môn niệm Phật an trụ năng sự, vì thấy tất cả Phật xuất hiện thế gian, phóng trí huệ quang chuyển diệu pháp luân. Môn niệm Phật trụ tâm tự tại, vì biết tùy theo sở thích của tự tâm, tất cả chư Phật hiện hình tượng. Môn niệm Phật an trụ nơi tự nghiệp, vì biết tùy nghiệp tích tập của chúng sanh mà hiện hình tượng làm cho họ được giác ngộ. Môn niệm Phật an trụ thần biến, vì thấy liên hoa quảng đại của Phật ngự nở xòe khắp pháp giới. Môn niệm Phật an trụ hư không vì quán sát những thân Như Lai trang nghiêm pháp giới hư không giới.
Như vậy ta làm sao biết được nói được những công đức hạnh của đại Bồ Tát.
Giảng: Lại có pháp môn niệm Phật trụ nơi xa lìa, vì ở trong một niệm, thấy tất cả chư Phật, từ chỗ đạo tràng của mình ở mà ra đi, đi đến đạo tràng thế giới khác. Lại có pháp môn niệm Phật trụ nơi rộng lớn, vì tâm thường quán sát mỗi mỗi thân Phật, đầy khắp tất cả các pháp giới, không thiếu không thừa. Lại có pháp môn niệm Phật trụ nơi vi tế, vì nơi đầu một sợi lông, có bất khả thuyết Như Lai xuất hiện, đều đi đến chỗ các Ngài mà thừa sự lễ bái. Lại có pháp môn niệm Phật trụ nơi trang nghiêm, vì ở trong một niệm, thấy tất cả cõi đều có chư Phật thành Đẳng Chánh Giác thị hiện thần thông biến hoá. Lại có pháp môn niệm Phật trụ nơi năng sự, vì thấy tất cả chư Phật xuất hiện nơi thế gian, phóng trí huệ quang minh, chuyển bánh xe pháp. Lại có pháp môn niệm Phật trụ nơi tâm tự tại, vì biết tuỳ theo hết thảy sự mong muốn của tâm mình, tất cả chư Phật thị hiện hình tượng. Lại có pháp môn niệm Phật trụ nơi nghiệp mình, vì biết tuỳ thuận sự tích tập nghiệp của tất cả chúng sinh, mà hiện hình tượng, thọ đủ thứ quả báo, khiến cho họ giác ngộ mà thoát khỏi ba cõi. Lại có pháp môn niệm Phật trụ nơi thần biến, vì thấy Phật ngồi hoa sen rộng lớn, nở ra khắp cùng pháp giới, để vì chúng sinh thuyết pháp. Lại có pháp môn niệm Phật trụ nơi hư không, vì để quán sát hết thảy thân mây của Như Lai, trang nghiêm đầy khắp pháp giới hư không giới.
Ta chỉ đắc được pháp môn niệm Phật như đã nói ở trên, làm sao ta biết được, nói được, hạnh công đức của Bồ Tát tu hành?
Thiện nam tử! Nam phương hữu quốc, danh viết: hải môn; bỉ hữu Tỳ-kheo, danh vi: hải vân. Nhữ vãng bỉ vấn: Bồ Tát vân hà học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo? hải vân Tỳ-kheo năng phân biệt thuyết phát khởi quảng đại thiện căn nhân duyên.
Này thiện nam tử ! Phương Nam có một nước tên là Hải Môn, nơi đó có Tỳ Kheo tên là Hải Vân. Ngươi đến hỏi Hải Vân rằng Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo ? Hải Vân Tỳ Kheo có thể phân biệt nói nhơn duyên phát khởi thiện căn quảng đại.
Giảng: Thiện nam tử! Ở phương nam có một nước, tên là Hải Môn. Ở đó có vị Tỳ Kheo Thánh nhân hiệu là Hải Vân. Vị Tỳ Kheo đó lấy sự quán biển làm pháp môn, dùng phổ nhãn pháp vân thấm nhuần tất cả, tâm ý mây từ bi sâu rộng. Thiện nam tử, ngươi hãy đi đến đó hỏi: “Bồ Tát làm thế nào học hạnh của Bồ Tát tu hành và đạo của Bồ Tát tu hành”! Tỳ Kheo Hải Vân có thể vì ngươi phân biệt giải nói kỹ càng, khiến cho ngươi phát khởi nhân duyên căn lành rộng lớn.
Thiện nam tử! hải vân Tỳ-kheo đương lệnh nhữ nhập quảng đại trợ đạo vị, đương lệnh nhữ sanh quảng đại thiện căn lực, đương vi nhữ phát Bồ-đề tâm nhân, đương lệnh nhữ sanh quảng đại thừa quang minh, đương lệnh nhữ tu quảng đại Ba-la-mật, đương lệnh nhữ nhập quảng đại chư hạnh hải, đương lệnh nhữ mãn quảng đại thệ nguyện luân, đương lệnh nhữ tịnh quảng đại trang nghiêm môn, đương lệnh nhữ sanh quảng đại từ bi lực.
Này thiện nam tử ! Hải Vân Tỳ Kheo sẽ làm cho ngươi nhập ngôi trợ đạo quảng đại, sẽ làm cho ngươi sanh sức thiện căn quảng đại, sẽ vì ngươi mà nói nhơn duyên phát tâm Bồ đề, sẽ làm cho ngươi sanh quang minh đại thừa quảng đại, sẽ làm cho ngươi tu ba la mật quảng đại, sẽ làm cho ngươi nhập những hạnh hải quảng đại, sẽ làm cho ngươi viên mãn thệ nguyện quảng đại, sẽ làm cho ngươi tịnh môn trang nghiêm quảng đại, sẽ làm cho ngươi sanh sức từ bi quảng đại.
Giảng: Thiện nam tử! Tỳ Kheo Hải Vân sẽ khiến cho ngươi chứng nhập vào bậc trợ đạo rộng lớn. Sẽ khiến cho ngươi sinh ra sức căn lành rộng lớn. Sẽ vì ngươi nói nhân phát tâm bồ đề. Sẽ khiến cho ngươi sinh Phật thừa quang minh rộng lớn. Sẽ khiến cho ngươi tu pháp môn Ba La Mật đến bờ kia rộng lớn. Sẽ khiến cho ngươi chứng nhập vào các biển hạnh rộng lớn. Sẽ khiến cho ngươi viên mãn bánh xe pháp thệ nguyện rộng lớn. Sẽ khiến cho ngươi thanh tịnh môn trang nghiêm rộng lớn. Sẽ khiến cho ngươi sinh sức từ bi rộng lớn.
Thời, Thiện tài đồng tử lễ đức vân Tỳ-kheo túc, hữu nhiễu quan sát, từ thoái nhi khứ.
Lúc đó Thiện Tài đồng tử đảnh lễ chân Ðức Vân Tỳ Kheo, hữu nhiễu quán sát, từ tạ mà đi.
Lúc đó, Thiện Tài đồng tử đảnh lễ dưới chân Tỳ Kheo Đức Vân, năm thể sát đất, sau đó đi nhiễu bên phải Tỳ Kheo Đức Vân, quán sát đức hạnh của Tỳ Kheo Đức Vân và từ biệt mà đi. Đi đến tham kiến vị thiện tri thức thứ hai.
======================
TỲ KHEO HẢI VÂN – PHÓ THÁC THỨ HAI TRỊ ĐỊA TRỤ
Nhĩ thời, Thiện tài đồng tử nhất tâm tư tánh thiện tri thức giáo, chánh niệm quan sát trí tuệ quang minh môn, chánh niệm quan sát Bồ Tát giải thoát môn, chánh niệm quan sát Bồ Tát tam muội môn, chánh niệm quan sát Bồ Tát đại hải môn, chánh niệm quan sát chư Phật hiện tiền môn, chánh niệm quan sát chư Phật phương sở môn, chánh niệm quan sát chư Phật quỹ tắc môn, chánh niệm quan sát chư Phật đẳng hư không giới môn, chánh niệm quan sát chư Phật xuất hiện thứ đệ môn, chánh niệm quan sát chư Phật sở nhập phương tiện môn.
Thiện Tài đồng tử nhứt tâm suy gẫm lời dạy của thiện tri thức. Chánh niệm quán sát trí huệ quang minh môn, Bồ Tát giải thoát môn, Bồ Tát tam muội môn, Bồ Tát đại hải môn, chư Phật hiện tiền môn, chư Phật phương sở môn, chư Phật quỹ tắc môn, chư Phật đẳng hư không giới môn, chư Phật xuất hiện thứ đệ môn, chư Phật sở nhập phương tiện môn.
Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử một lòng suy gẫm đạo lý lời dạy của thiện tri thức. Cho nên chuyên tâm nhất chí, chẳng có tạp niệm nào khác, chẳng có vọng tưởng nào khác.
1. Chuyên tâm chánh niệm quán sát môn trí huệ quang minh của thiện tri thức chỉ dạy, tức cũng là quán cảnh tự tại.
2. Chánh niệm quán sát môn Bồ Tát giải thoát của thiện tri thức chỉ dạy.
3. Chánh niệm quán sát môn Bồ Tát tam muội của thiện tri thức chỉ dạy.
4. Chánh niệm quán sát môn số lượng Bồ Tát tựa như đại hải, tức cũng là tư duy đủ thứ chúng hội ở trước.
5. Chánh niệm quán sát môn chư Phật hiện tiền.
6. Chánh niệm quán sát môn hết thảy đạo tràng của chư Phật ở trong mười phương.
7. Chánh niệm quán sát môn giới luật và quỹ tắc của chư Phật nói.
8. Chánh niệm quán sát môn chư Phật đầy khắp tất cả đồng với cõi hư không.
9. Chánh niệm quán sát môn chư Phật trước sau thứ lớp xuất hiện thành Chánh Giác.
10. Chánh niệm quán sát môn chư Phật tuỳ thuận tâm ưa thích của chúng sinh, mà chứng nhập vô lượng phương tiện.
Tiệm thứ Nam hành, chí hải môn quốc, hướng hải vân Tỳ-kheo sở đảnh lễ kỳ túc, hữu nhiễu tất dĩ, ư tiền hợp chưởng, tác như thị ngôn:
Thiện Tài đồng tử đi lần qua phương Nam đến nước Hải Môn, đến chỗ Hải Vân Tỳ Kheo, đảnh lễ chân Hải Vân, hữu nhiễu xong, chắp tay bạch rằng:
Giảng: Thiện Tài đồng tử từng bước, từng bước, đi về hướng nam, đến nước Hải Môn. Tại đạo tràng của Tỳ Kheo Hải Vân, Thiện Tài đồng tử hướng về Tỳ Kheo Hải Vân đảnh lễ dưới chân Ngài, cung kính đi nhiễu bên phải, rồi chắp tay lại ở trước mặt Tỳ Kheo Hải Vân, cung kính nói như vầy:
Thánh Giả! ngã dĩ tiên phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm, dục nhập nhất thiết vô thượng trí hải, nhi vị tri Bồ Tát vân hà năng xả thế tục gia, sanh Như Lai gia? vân hà năng độ sanh tử hải, nhập Phật trí hải? vân hà năng ly phàm phu địa, nhập Như Lai địa? vân hà năng đoạn sanh tử lưu, nhập Bồ Tát hạnh lưu? vân hà năng phá sanh tử luân, thành Bồ Tát nguyện luân? vân hà năng diệt ma cảnh giới, hiển Phật cảnh giới? vân hà năng kiệt ái dục hải, trường đại bi hải? vân hà năng bế chúng nan ác thú môn, khai chư Thiên Niết Bàn môn? vân hà năng xuất tam giới thành, nhập nhất thiết trí thành? vân hà năng khí xả nhất thiết ngoạn hảo chi vật, tất dĩ nhiêu ích nhất thiết chúng sanh?
Bạch đức Thánh ! Con đã phát tâm Vô thượng Bồ đề, muốn nhập tất cả trí hải vô thượng, mà chưa biết Bồ Tát thế nào có thể bỏ nhà thế tục sanh vào nhà Như Lai ? Thế nào có thể qua khỏi biển sanh tử vào được biển Phật trí ? Thế nào lìa được hàng phàm phu vào được hàng Như Lai ? Thế nào dứt được dòng sanh tử vào được dòng Bồ Tát hạnh ? Thế nào phá được xe sanh tử thành xe Bồ Tát nguyện ? Thế nào diệt được cảnh giới ma hiển dược cảnh giới Phật ? Thế nào cạn được biển ái dục thêm lớn biển đại bi ? Thế nào đóng được cửa các nạn các ác đạo mở được cửa đại Niết bàn ? Thế nào ra khỏi thành tam giới vào được thành Nhứt thiết trí ? Thế nào vất bỏ được tất cả vật ngoạn hảo để đem lợi ích tất cả chúng sanh ?
Giảng: “Ngài là bậc Thánh trên thế gian có đại trí huệ! Con từ trước đã phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, con muốn chứng nhập vào biển tất cả biển trí vô thượng, mà con chưa biết Bồ Tát làm thế nào có thể bỏ nhà thế tục phiền não, sinh vào nhà Như Lai, chứng được quả vị Phật? Làm thế nào có thể vượt qua biển khổ sinh tử, chứng nhập vào biển trí huệ của Phật? Làm thế nào có thể lìa khỏi bậc phàm phu, chứng nhập vào bậc Như Lai? Làm thế nào có thể dứt trừ dòng sinh tử, chứng nhập vào dòng pháp tánh của bậc Thánh nhân? Làm thế nào có thể phá được sinh tử luân hồi, thành tựu vòng đại nguyện của Bồ Tát? Làm thế nào mới có thể diệt trừ được cảnh giới ma, hiển hiện cảnh giới Phật? Làm thế nào mới có thể làm khô cạn được biển ái dục, dưỡng lớn biển đại bi? Làm thế nào mới có thể đóng chặt cửa các khổ nạn ác thú, khai mở cửa đại Niết Bàn thường lạc ngã tịnh? Làm thế nào mới có thể thoát khỏi thành ba cõi, nhập vào thành Nhất thiết trí? Làm thế nào mới có thể xả bỏ tất cả đồ vật chơi tốt, đều dùng để lợi ích tất cả chúng sinh?
Thời, hải vân Tỳ-kheo cáo Thiện Tài ngôn: Thiện nam tử! nhữ dĩ phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm da?
Hải Vân Tỳ Kheo bảo Thiện Tài đồng tử rằng: Thiện nam tử ! Người đã phát tâm Vô thượng Bồ đề rồi ư ?
Giảng: Lúc đó, Tỳ Kheo Hải Vân bảo Thiện Tài rằng: “Thiện nam tử! Ngươi đã phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác chăng”?
Thiện Tài ngôn: Duy! ngã dĩ tiên phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm.
Thiện Tài thưa: Vâng, con đã phát tâm Vô thượng Bồ đề.
Giảng: Thiện Tài đồng tử thưa: “Vâng! Từ lâu con đã phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”. Vì phát tâm rất khó, nếu không phát tâm, thì không thể nào kham nhận được pháp, chẳng phải là bậc pháp khí.
Hải vân ngôn: Thiện nam tử! nhược chư chúng sanh bất chủng thiện căn, tức bất năng phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm. Yếu đắc Phổ môn thiện căn quang minh, cụ chân thật đạo tam muội trí quang, xuất sanh chủng chủng quảng đại phước hải, trưởng bạch tịnh Pháp vô hữu giải tức, sự thiện tri thức bất sanh bì yếm, bất cố thân mạng vô sở tạng tích, đẳng tâm như địa vô hữu cao hạ, tánh thường từ mẫn nhất thiết chúng sanh, ư chư hữu thú chuyên niệm bất xả, hằng lạc quan sát Như Lai cảnh giới; như thị, nãi năng phát Bồ-đề tâm.
Hải Vân Tỳ Kheo nói: Thiện nam tử ! Nếu các chúng sanh chẳng gieo lành thời chẳng có thể phát tâm Vô thượng Bồ đề. Cần phải được phổ môn thiện căn quang minh, đủ chơn thiệt đạo tam muội trí quang, xuất sanh những phước hải quảng đại, tăng trưởng pháp bạch tịnh không có lười nghỉ, thờ thiện trí thức chẳng mỏi nhàm, chẳng kể thân mạng, không thề cất chứa, tâm bình đẳng như mặt đất không có niệm cao hạ, tánh thường từ mẫn với tất cả chúng sanh, nơi các loài sanh tử chuyên niệm chẳng bỏ, hàng thích quán sát cảnh giới Như Lai. Có như vậy mới phát được tâm Vô thượng Bồ đề.
Giảng: Tỳ Kheo Hải Vân nói: “Thiện nam tử! Nếu các chúng sinh không trồng căn lành, thì không thể phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Phải đắc được phổ môn căn lành quang minh, tức cũng là quá khứ đã từng trồng pháp môn Phổ Hiền, thành tựu giống tánh. Phải đầy đủ đạo chân thật tam muội trí huệ quang, rõ tâm tịch chiếu, sinh ra đức của Phật. Phải sinh ra đủ thứ biển phước rộng lớn, dưỡng lớn pháp trắng tịnh, không có giải đãi. Phải thờ phụng thiện tri thức, không sinh tâm mỏi nhàm. Thậm chí không kể thân tâm tánh mạng của chính mình. Có vật gì quý báu, đều cúng dường thiện tri thức, không hề cất chứa cho chính mình, tâm bình đẳng như đất, không có cao thấp. Tánh thường thương xót tất cả chúng sinh. Đối với các cõi dục giới, sắc giới, vô sắc giới, đều chuyên niệm không bỏ, luôn luôn ưa thích quán sát cảnh giới Như Lai. Như vậy mới có thể phát tâm bồ đề.
Phát Bồ-đề tâm giả. Sở vị: phát đại bi tâm, phổ Cứu nhất thiết chúng sanh cố; phát Đại từ tâm, đẳng hữu nhất thiết thế gian cố; phát an lạc tâm, lệnh nhất thiết chúng sanh diệt chư khổ cố; phát nhiêu ích tâm, lệnh nhất thiết chúng sanh ly ác pháp cố; phát ai mẩn tâm, hữu bố úy giả hàm thủ hộ cố; phát vô ngại tâm, xả ly nhất thiết chư chướng ngại cố; phát quảng đại tâm, nhất thiết pháp giới hàm biến mãn cố; phát vô biên tâm, đẳng hư không giới vô bất vãng cố; phát khoan bác tâm, tất kiến nhất thiết chư Như Lai cố; phát thanh tịnh tâm, ư tam thế Pháp trí vô vi cố; phát trí tuệ tâm, phổ nhập nhất thiết trí tuệ hải cố.
Phát Bồ đề tâm là phát tâm đại bi, vì cứu khắp tất cả chúng sanh. Là phát tâm đại từ,vì khắp giúp tất cả thế gian. Là phát tâm an lạc, vì làm cho tất cả chúng sanh diệt tất cả khổ. Phát tâm lợi ích, vì làm cho tất cả chúng sanh lìa ác pháp. Phát tâm ai mẫn, vì có ai kinh sợ thời đều giữ gìn. Phát tâm vô ngại, vì rời bỏ tất cả chướng ngại. Phát tâm quảng đại, vì tất cả pháp giới đều đầy khắp. Phát tâm vô biên, vì khắp cõi hư không đều qua đến. Phát tâm rộng rãi, vì đều thấy tất cả Như Lai. Phát tâm thanh tịnh, vì trí không trái với pháp tam thế. Phát tâm trí huệ, vì vào khắp biển nhứt thiết trí huệ.
Giảng: Người phát tâm bồ đề. Đó là: Phải phát tâm đại bi, vì cứu khắp tất cả chúng sinh. Phải phát tâm đại từ, vì bình đẳng giúp đỡ tất cả thế gian. Phải phát tâm an lạc, vì khiến cho tất cả chúng sinh diệt trừ các khổ nạn. Phải phát tâm lợi ích, vì khiến cho tất cả chúng sinh lìa khỏi tất cả pháp ác. Phải phát tâm ai mẫn, vì phàm là có người nào có sự sợ hãi, đều phải giữ gìn họ. Phải phát tâm vô ngại, vì xả lìa tất cả các chướng ngại. Phải phát tâm rộng lớn, vì tất cả pháp giới đều đầy khắp. Phải phát tâm vô biên không bờ mé, vì độ lượng đồng với cõi hư không, chẳng có chỗ nào không đi đến. Phải phát tâm rộng lớn, vì hoàn toàn đều thấy được tất cả các Như Lai. Phải phát tâm thanh tịnh, vì trí huệ không trái với tất cả Phật pháp ba đời. Phải phát tâm trí huệ, vì vào khắp biển nhất thiết trí huệ.
Thiện nam tử! ngã trụ thử hải môn quốc thập hữu nhị niên, thường dĩ đại hải vi kỳ cảnh giới.
Này thiện nam tử ! Ta ở nước Hải Môn này đã mười hai năm, thường dùng đại hải làm cảnh giới.
Giảng: Thiện nam tử! Ta ở nước Hải Môn nầy, đã mười hai năm. Ta thường dùng biển cả làm một thứ cảnh giới tu đạo.
Sở vị: tư tánh đại hải quảng đại vô lượng, tư tánh đại hải thậm thâm nan trắc, tư tánh đại hải tiệm thứ thâm quảng, tư tánh đại hải vô lượng chúng bảo kì diệu trang nghiêm, tư tánh đại hải tích vô lượng thủy, tư tánh đại hải thủy sắc bất đồng bất khả tư nghị, tư tánh đại hải vô lượng chúng sanh chi sở trụ xứ, tư tánh đại hải dung thọ chủng chủng đại thân chúng sanh, tư tánh đại hải năng thọ đại vân sở vũ chi vũ, tư tánh đại hải vô tăng vô giảm.
Những là suy gẫm đại hải qủang đại vô lượng. Suy gẫm đại hải rất sâu khó lường. Suy gẫm đại hải lần lần sâu rộng. Suy gẫm đại hải vô lượng châu báu kỳ diệu trang nghiêm. Suy gẫm đại hải chứa vô lượng nước. Suy gẫm đại hải màu nước chẳng đồng không thể nghĩ bàn. Suy gẫm đại hải là chỗ ở vô lượng chúng sanh. Suy gẫm đại hải dung thọ những chúng sanh thân to lớn. Suy gẫm đại hải nạp thọ được nước của trận mưa lớn. Suy gẫm đại hải không tăng không giảm.
Giảng: Đó là: Ta thường suy gẫm biển cả rộng lớn vô lượng, chẳng có gì có thể to lớn sánh bằng biển cả, tức cũng là tâm lợi ích có thể lợi ích chúng sinh rộng lớn. Ta lại thường suy gẫm biển cả thâm sâu khó dò, chẳng cách chi có thể dò lường được cứu kính sâu bao nhiêu, đây cũng là ví dụ tâm đại bi thâm sâu, không thể dò lường được. Ta lại thường suy gẫm biển cả dần dần sâu rộng, tức cũng là ví dụ tâm an lạc, những gì tâm chúng sinh thế gian ưa thích, ta đều có thể ban cho họ đủ thứ. Ta lại thường suy gẫm biển cả vô lượng các báu kỳ diệu trang nghiêm, đây là ví dụ tâm an trụ, nếu có chúng sinh ác hạnh, thì khiến cho họ an trụ nơi thiện hạnh.
Ta lại thường suy gẫm biển cả chứa vô lượng nước, bất cứ nước ở đâu cũng đều chảy vào biển cả, do đó có câu: “Biển cả dung nạp trăm sông”, tức là ví dụ tâm thương xót, hoàn toàn bao nạp tất cả chúng sinh. Ta lại thường suy gẫm nước biển màu sắc khác nhau không thể nghĩ bàn, tuy cùng là một biển, nhưng có nước màu vàng, có nước màu đen, có nước màu xanh, nước có đủ thứ màu sắc khác nhau, không thể nghĩ bàn, đây là ví dụ tâm nhiếp thọ, hay nhiếp thọ đủ thứ ngoại đạo, trở về chánh tín, giống như nước, tuy nhiều màu, nhưng cùng ở trong biển. Ta lại thường suy gẫm biển cả nơi chỗ ở của vô lượng các loài chúng sinh, tức là ví dụ tâm giữ gìn, giữ gìn chúng sinh đã phát tâm, giúp đỡ vô lượng chúng sinh. Ta lại thường suy gẫm biển cả có thể dung thọ đủ thứ chúng sinh thân lớn, tức là ví dụ tâm đồng với mình, nhiếp thọ chúng sinh bồ đề đại nguyện, như thân mình có. Ta lại thường suy gẫm biển cả thọ được nước của một trận mưa lớn, tức là ví dụ tâm sư, có chúng sinh ở trong đạo đại thừa, học tập tinh tấn hướng tới, như là sư, sư tất sẽ thọ mưa pháp lớn. Ta lại thường suy gẫm biển cả không tăng không giảm, tức là ví dụ tâm đạo sư, đối với người có công đức, kính như Phật.
Thiện nam tử! ngã tư tánh thời, phục tác thị niệm: Thế gian chi trung, pha hữu quảng bác qua thử hải bất? pha hữu vô lượng qua thử hải bất? pha hữu thậm thâm qua thử hải bất? pha hữu Thù đặc qua thử hải bất?
Này thiện nam tử ! Lúc suy gẫm như vậy, ta lại nghĩ rằng:Trong thế gian còn có gì rộng lớn hơn đại hải này chăng ? Còn có gì vô lượng hơn đại hải này chăng ? Còn có gì rất sâu hơn đại hải này chẳng ? Còn có gì báu lạ hơn đại hải này chăng ?
Giảng: Thiện Tài đồng tử! Khi ta suy gẫm biển cả thì lại nghĩ như vầy: “Trong thế gian, còn có gì rộng lớn hơn biển nầy chăng? Còn có gì vô lượng vô số hơn biển nầy chăng? Còn có gì thâm sâu hơn biển nầy chăng? Còn có gì đặc biệt thù thắng hơn biển nầy chăng”?
Thiện nam tử! ngã tác thị niệm thời, thử hải chi hạ, hữu đại liên hoa hốt nhiên xuất hiện, dĩ Vô năng thắng nhân Đà-la-ni la bảo vi hành, phệ lưu ly bảo vi tạng, diêm phù đàn kim vi diệp, trầm thủy vi đài, mã não vi tu, phân phu bố hướng, di phước đại hải.
Này thiện nam tử ! Lúc ta suy gẫm như vậy, bỗng có đại liên hoa xuất hiện. Liên hoa này cọng bằng vô năng thắng nhơn đà la ni la bửu, cánh bằng phệ lưu ly bửu, lá bằng vàng diêm phù đàn, đài bằng trầm thủy, tua bằng mã não, nở thơm lan khắp trùm che cả đại hải.
Giảng: Thiện Tài đồng tử! Khi ta nghĩ như vậy, thì ở dưới biển nầy, có một hoa sen lớn, hốt nhiên xuất hiện. Hoa sen đó dùng vô năng thắng nhân đà la ni báu làm cộng, dùng lưu ly báu làm cánh, vàng Diêm phù đàn làm lá, hương trầm thuỷ làm đài hoa, mã não làm tua hoa, hoa sen đó nở thơm lan khắp che trùm biển cả”.
Đây là khi Tỳ Kheo Hải Vân dùng tâm biển thâm sâu quán biển pháp, thì tâm hoa, hạnh hoa, tự nhiên nở ra, vô lậu tánh đức, chẳng có gì chẳng đầy đủ.
Bách vạn A-tu-la Vương chấp trì kỳ hành
Trăm vạn A Tu La Vương cầm lấy cọng hoa.
Giảng: Có trăm vạn A Tu La Vương cầm giữ cộng hoa sen
Bách vạn ma-ni bảo trang nghiêm võng di phước kỳ thượng
Trăm vạn châu ma ni kết lưới trang nghiêm giăng che trên hoa.
Giảng: Có trăm vạn lướima ni báu trang nghiêm, che phủ phía trên hoa sen.
Bách vạn long Vương vũ dĩ hương thủy
Trăm vạn Long Vương mưa nước thơm.
Giảng: Lại có trăm vạn Long Vương mưa nước thơm.
Bách vạn Ca Lâu La Vương hàm chư anh lạc cập bảo tăng đái châu táp thùy hạ
Trăm vạn Ca Lâu La Vương ngậm những chuỗi ngọc và dải lụa báu rủ thòng bốn phía.
Giảng: Lại có trăm vạn Ca Lâu La Vương (Chim đại bàng cánh vàng) miệng ngậm những chuỗi ngọc và những vải lụa báu, thòng rũ chung quanh hoa sen.
Bách vạn La-sát Vương từ tâm quan sát,
Trăm vạn La Sát Vương từ tâm quán sát.
Giảng: Lại có trăm vạn La Sát Vương, dùng từ tâm để quán sát.
Bách vạn dạ xoa Vương cung kính lễ bái
Trăm vạn Dạ Xoa Vương cung kính đảnh lễ.
Giảng: Lại có trăm vạn Dạ Xoa Vương, cung kính lễ bái.
Bách vạn càn thát bà vương chủng chủng âm nhạc tán thán cúng dường,
Trăm vạn càn Thát Bà Vương nhiều thứ âm nhạc tán thán cúng dường.
Giảng: Lại có trăm vạn Càn Thát Bà Vương (nhạc Thần), dùng đủ thứ âm nhạc, để khen ngợi cúng dường.
Bách vạn Thiên Vương vũ chư thiên hoa, Thiên man, thiên hương, Thiên thiêu hương, Thiên đồ hương, Thiên mạt hương, Thiên diệu y phục, Thiên tràng phan cái,
Trăm vạn Thiên vương mưa những thiên hoa, thiên man, thiên hương, thiên thiêu hương, thiên đồ hương, thiên mạt hương, thiên y phục , thiên tràng, thiên phan, thiên cái.
Giảng: Lại có trăm vạn Thiên Vương, mưa các hoa trời, man trời, hương trời, hương đốt trời, hương thoa trời, hương bột trời, diệu y phục trời, tràng phan lọng báu trời.
Bách vạn Phạm Vương đầu đính lễ kính
Trăm vạn Phạm Vương đảnh lễ và cung kính.
Giảng: Lại có trăm vạn Phạm Vương, cúi đầu cung kính đảnh lễ.
Bách vạn tịnh cư thiên hợp chưởng tác lễ
Trăm vạn Tịnh Cư Thiên chắp tay làm lễ.
Giảng: Lại có trăm vạn Tịnh Cư Thiên, chắp tay làm lễ
Bách vạn Chuyển luân Vương các dĩ thất bảo trang nghiêm cúng dường
Trăm vạn Chuyển Luân Vương cúng dường thất bửu trang nghiêm.
Giảng: Lại có trăm vạn Chuyển Luân Thánh Vương, đều dùng bảy báu trang nghiêm cúng dường.
Bách vạn hải Thần câu thời xuất hiện cung kính đảnh lễ
Trăm vạn Hải Thần đồng xuất hiện cung kính đảnh lễ.
Giảng: Lại có trăm vạn Thần Biển, đồng thời xuất hiện, cung kính đảnh lễ.
Bách vạn vị quang ma-ni bảo quang minh phổ chiếu
Trăm vạn vị quang ma ni bửu quang minh chiếu khắp.
Giảng: Lại có trăm vạn vị quang ma ni báu, quang minh chiếu khắp.
Bách vạn tịnh phước ma-ni bảo dĩ vi trang nghiêm
Trăm vạn tịnh phước ma ni bửu dùng để trang nghiêm.
Giảng: Lại có trăm vạn tịnh phước ma ni báu, dùng làm trang nghiêm.
Bách vạn phổ quang ma-ni bảo vi thanh tịnh tạng
Trăm vạn phổ quang ma ni bửu làm tạng thanh tịnh.
Giảng: Lại có trăm vạn phổ quang ma ni báu, làm thanh tịnh tạng.
Bách vạn thù thắng ma-ni bảo kỳ quang hách dịch
Trăm vạn thù thắng ma ni bửu ánh sáng rực rỡ.
Giảng: Lại có trăm vạn thù thắng ma ni báu, ánh sáng rất rực rỡ.
Bách vạn diệu tạng ma-ni Bảo quang chiếu vô biên
Trăm vạn diệu tạng ma ni bửu quang chiếu vô biên.
Giảng: Lại có trăm vạn diệu tạng ma ni báu, ánh sáng chiếu khắp vô biên thế giới.
Bách vạn Diêm-phù tràng ma-ni bảo thứ đệ hành liệt
Trăm vạn diêm phù đàn ma ni bửu thứ đệ bày hàng.
Giảng: Lại có trăm vạn Diêm Phù tràng ma ni báu, thứ lớp thẳng hàng.
Bách vạn Kim cương sư tử ma-ni bảo bất khả phá hoại thanh tịnh trang nghiêm
Trăm vạn kim cang sư tử ma ni bửu chẳng thể phá hoại thanh tịnh trang nghiêm.
Giảng: Lại có trăm vạn kim cang sư tử ma ni báu, kiên cố không thể phá hoại, thanh tịnh trang nghiêm.
Bách vạn nhật tạng ma-ni bảo quảng đại thanh tịnh
Trăm vạn nhật tạng ma ni bửu quảng đại thanh tịnh.
Giảng: Lại có trăm vạn nhựt tạng ma ni báu, rộng lớn thanh tịnh.
Bách vạn khả lạc ma-ni bảo cụ chủng chủng sắc
Trăm vạn khả lạc ma ni bửu đủ mọi màu.
Giảng: Lại có trăm vạn ma ni báu đáng ưa thích, đủ thứ các màu sắc đẹp.
Bách vạn như ý ma-ni bảo trang nghiêm vô tận quang minh chiếu diệu
Trăm vạn như ý ma ni bửu trang nghiêm vô tận, quang minh chiếu rực.
Giảng: Lại có trăm vạn như ý ma ni báu, trang nghiêm vô tận, quang minh chiếu sáng tất cả thế giới.
Thử đại liên hoa, Như Lai xuất thế thiện căn sở khởi, nhất thiết Bồ Tát giai sanh tín lạc, thập phương thế giới vô bất hiện tiền, tùng như huyễn Pháp sanh, như mộng Pháp sanh, thanh tịnh nghiệp sanh, vô tránh Pháp môn chi sở trang nghiêm, nhập vô vi ấn, trụ vô ngại môn, sung mãn thập phương nhất thiết quốc độ, tùy thuận chư Phật thậm thâm cảnh giới,
Liên hoa lớn này có ra là do thiện căn xuất thế của Như Lai. Tất cả Bồ Tát đều sanh lòng tin mến. Thập phương thế giới đều hiện tiền. Từ như huyễn pháp mà sanh, như mộng pháp mà sanh, thanh tịnh nghiệp mà sanh. Trang nghiêm bằng pháp môn vô tránh. Nhập ấn vô vi. Trụ môn vô ngại. Sung mãn tất cả quốc độ mười phương. Tùy thuận cảnh giới thậm thâm của chư Phật.
Giảng: Hoa sen lớn đó, do căn lành của Như Lai xuất thế mà sinh ra. Tất cả Bồ Tát đều sinh tâm tin ưa thích. Mười phương thế giới, thảy đều hiện ra trong hoa sen. Hoa sen đó là từ pháp như huyễn sinh ra, pháp như mộng sinh ra, cũng do nghiệp thanh tịnh của chư Phật sinh ra. Được pháp môn vô tranh trang nghiêm. Nhập vào pháp ấn vô vi, trụ pháp môn vô ngại, đầy khắp mười phương tất cả cõi nước, tuỳ thuận cảnh giới thâm sâu của chư Phật.
Ư vô số bách thiên kiếp thán kỳ công đức bất khả đắc tận.
Trong vô số trong ngàn kiếp ca ngợi công đức đó cũng không hết được.
Giảng: Dù trong vô số trăm ngàn kiếp, khen ngợi công đức đó, không thể nào hết được.
Ngã thời kiến bỉ liên hoa chi thượng, hữu nhất Như Lai kết già phu tọa, kỳ thân tòng thử thượng chí hữu đính.
Lúc đó ta thấy trên liên hoa lớn ấy có một đức Như Lai ngồi kết già. Thân Phật từ đây cao đến trời Hữu Ðảnh.
Giảng: Lúc đó, ta thấy trên hoa sen đó, có một đức Như Lai, ngồi kiết già. Thân Ngài từ hoa sen đó cao tới trời Hữu Đỉnh (cõi trời cao nhất).
Bảo liên hoa tọa bất khả tư nghị, đạo tràng chúng hội bất khả tư nghị, chư tướng thành tựu bất khả tư nghị, tùy hảo viên mãn bất khả tư nghị, thần thông biến hóa bất khả tư nghị, sắc tướng thanh tịnh bất khả tư nghị, vô kiến đảnh tướng bất khả tư nghị, quảng trường thiệt tướng bất khả tư nghị, thiện xảo ngôn thuyết bất khả tư nghị, viên mãn âm thanh bất khả tư nghị, vô biên tế lực bất khả tư nghị, thanh tịnh vô úy bất khả tư nghị, quảng đại biện tài bất khả tư nghị.
Tòa bửu liên hoa bất tư nghì. Ðạo tràng chúng hội bất tư nghì. Những tướng hảo thành tựu bất tư nghì. Tùy hảo viên mãn bất tư nghì. Thần thông biến hóa bất tư nghì. Sắc tướng thanh tịnh bất tư nghì. Vô kiến đảnh tướng bất tư nghì. Tướng lưỡi rộng dài bất tư nghì. Ngôn thuyết thiện xảo bất tư nghì. Âm thanh viên mãn bất tư nghì. Lực vô biên tế bất tư nghì. Thanh tịnh vô úy bất tư nghì. Biện tài quảng đại bất tư nghì.
Giảng: Toà hoa sen báu đó không thể nghĩ bàn. Đạo tràng chúng hội cũng không thể nghĩ bàn. 32 tướng tốt của Phật thành tựu cũng không thể nghĩ bàn. 80 vẻ đẹp của Phật viên mãn cũng không thể nghĩ bàn. Thần thông biến hoá của Phật cũng không thể nghĩ bàn. Sắc tướng của Phật thanh tịnh cũng không thể nghĩ bàn. Tướng vô kiến đảnh của Phật cũng không thể nghĩ bàn. Tướng lưỡi rộng dài của Phật đó cũng không thể nghĩ bàn. Thuyết pháp khéo léo của vị Phật đó cũng không thể nghĩ bàn. Âm thanh viên mãn của vị Phật đó cũng không thể nghĩ bàn. Sức lực không bờ bé của vị Phật đó cũng không thể nghĩ bàn. Bốn vô uý thanh tịnh của vị Phật đó cũng không thể nghĩ bàn. Biện tài rộng lớn của vị Phật đó cũng không thể nghĩ bàn.
Hựu niệm bỉ Phật vãng tu chư hạnh bất khả tư nghị, tự tại thành đạo bất khả tư nghị, Diệu-Âm diễn Pháp bất khả tư nghị, Phổ môn thị hiện chủng chủng trang nghiêm bất khả tư nghị, tùy kỳ tả hữu kiến các sái biệt bất khả tư nghị, nhất thiết lợi ích giai lệnh viên mãn bất khả tư nghị.
Ta lại nghĩ nhớ đức Phật đó thuở xưa tu hành bất tư nghì. Tự tại thành đạo bất tư nghì. Diệu âm diễn pháp bất tư nghì. Phổ môn thị hiện các thứ trang nghiêm bất tư nghì. Tùy hai bên thấy Phật đều sai khác bất tư nghì. Tất cả sự lợi ích đều làm cho viên mãn bất tư nghì.
Giảng: Ta lại nhớ đức Phật đó trong quá khứ đã từng tu các hạnh không thể nghĩ bàn. Tự tại thành đạo của vị Phật đó cũng không thể nghĩ bàn. Diệu âm nói pháp của vị Phật đó cũng không thể nghĩ bàn. Phổ môn thị hiện đủ thứ trang nghiêm giáo hoá chúng sinh của vị Phật đó cũng không thể nghĩ bàn. Tuỳ bên trái phải của đức Phật thấy tướng đều khác nhau không thể nghĩ bàn. Vị Phật đó đem tất cả lợi ích đều khiến chúng sinh viên mãn cũng không thể nghĩ bàn.
Thời, thử như lai tức thân hữu thủ nhi ma ngã đảnh, vi ngã diễn thuyết phổ nhãn Pháp môn, khai thị nhất thiết Như Lai cảnh giới, hiển phát nhất thiết Bồ Tát chư hạnh, xiển minh nhất thiết chư Phật diệu pháp, nhất thiết pháp luân tất nhập kỳ trung, năng tịnh nhất thiết chư Phật quốc độ, năng tồi nhất thiết dị đạo tà luận, năng diệt nhất thiết chư ma quân chúng, năng lệnh chúng sanh giai sanh hoan hỉ, năng chiếu nhất thiết chúng sanh tâm hành, năng liễu nhất thiết chúng sanh chư căn, tùy chúng sanh tâm tất lệnh khai ngộ.
Lúc đó, đức Như Lai ấy liền đưa tay hữu rờ đảnh đầu của ta, vì ta mà diễn nói phổ nhãn pháp môn, khai thị cảnh giới tất cả Như Lai, hiển pháp tất cả hạnh Bồ Tát, xiển minh tất cả diệu pháp của chư Phật, tất cả pháp luân đều nhập trong đó. Có thể thanh tịnh tất cả Phật độ. Có thể dẹp tất cả dị đạo tà luận. Có thể diệt tất cả quân ma. Có thể làm cho chúng sanh đều sanh hoan hỷ. Có thể soi tất cả tâm hành của các chúng sanh. Có thể biết những căn cơ của tất cả chúng sanh, tùy tâm chúng sanh đều làm cho được khai ngộ.
Giảng: Lúc đó, đức Như Lai đó liền dơ tay phải ra, mà rờ đầu ta Tỳ Kheo Hải Vân. Vì ta diễn nói pháp môn phổ nhãn quang minh chiếu sáng. Đây là pháp môn bí mật, tức là trong một pháp thấy tất cả pháp, trong một mắt thấy cảnh mười mắt. Trong sở thấy, đã có cái năng thấy. Trong cái năng thấy, có sở thấy. Ngài vì ta khai thị tất cả cảnh giới của Như Lai. Hiển bày khai phát các hạnh của tất cả Bồ Tát tu hành. Xiển minh tất cả diệu pháp của chư Phật. Tất cả bánh xe pháp, đều nhập vào trong đó. Hay thanh tịnh tất cả cõi nước chư Phật. Hay phá tan tất cả dị đạo tà luận. Lại hay tiêu diệt tất cả các chúng ma quân. Lại hay khiến tất cả chúng sinh đều sinh hoan hỉ. Lại hay chiếu tâm hạnh của tất cả chúng sinh. Lại hay thấu rõ các căn tất cả chúng sinh. Lại hay tuỳ thuận tâm chúng sinh, đều khiến cho họ khai ngộ.
Ngã tùng ư bỉ Như Lai chi sở văn thử pháp môn, thọ trì đọc tụng, ức niệm quan sát. Giả sử hữu nhân, dĩ đại hải lượng mặc, Tu-Di tụ bút, thư tả ư thử phổ nhãn Pháp môn, nhất phẩm trung nhất môn, nhất môn trung nhất pháp, nhất pháp trung nhất nghĩa, nhất nghĩa trung nhất cú, bất đắc thiểu phần, hà huống năng tận!
Giảng: Ở nơi đức Như Lai ấy, ta được nghe pháp môn này, thọ trì đọc tụng ghi nhớ quán sát. Giả sử có người dùng nước mực nhiều như nước đại hải, cây viết chất đống lớn như núi Tu Di, biên chép pháp môn phổ nhãn này, một môn trong một phẩm, một pháp trong một môn, một nghĩa trong một pháp, một câu trong một nghĩa cũng viết chẳng được ít phần huống là có thể viết hết.
Ta từ chỗ đức Như Lai đó ngồi trên hoa sen, nghe được pháp môn nầy. Ta thường thọ trì đọc tụng, thường nghĩ nhớ quán sát pháp môn nầy. Giả sứ có người, dùng lượng mực như biển cả, cây viết nhóm nhiều như núi Tu Di, biên chép pháp môn phổ nhãn nầy, một môn trong một phẩm, một pháp trong một môn, một nghĩa trong một pháp, một câu trong một nghĩa, cũng không biên chép được chút phần, hà huống là biên chép hết được. Đây là cảnh giới mực biển biên chép không cạn được. Trong luận đại thừa có nói: “Nước biển cả dùng làm mực, nhóm bút lại nhiều như núi Tu Di, cây cỏ bốn thiên hạ dùng làm bút, chúng sinh trên đất dưới nước trong ba ngàn đại thiên thế giới, đều làm Pháp Sư, trong khoản sát na, sở thọ pháp môn, không thể hết được”.
Thiện nam tử! ngã ư bỉ Phật sở thiên nhị bách tuế, thọ trì như thị phổ nhãn Pháp môn, ư nhật nhật trung, dĩ văn trì đà la ni quang minh, lĩnh thọ vô số phẩm; dĩ tịch tĩnh môn Đà-la-ni quang minh, thú nhập vô số phẩm; dĩ vô biên toàn Đà-la-ni quang minh, phổ nhập vô số phẩm; dĩ tùy địa quan sát Đà-la-ni quang minh, phân biệt vô số phẩm
Này thiện nam tử ! Ở nơi đức Phật ấy, ta thọ trì pháp môn phổ nhãn như vậy trọn một ngàn hai trăm năm. Trong mỗi ngày, ta dùng văn trì đà la ni quang minh lãnh thọ vô số phẩm. Dùng tịch tịnh môn đà la ni quang minh xu nhập vô số phẩm. Dùng vô biên triền đà la ni quang minh vào khắp vô số phẩm. Dùng tùy tha quán sát đà la ni quang minh phân biệt vô số phẩm .
Giảng: Thiện nam tử! Ta ở chỗ đạo tràng của đức Phật đó, một ngàn hai trăm năm, chuyên tâm tu trì pháp môn phổ nhãn nầy. Mỗi ngày ta:
1. Dùng văn trì đà la ni quang minh, mà lãnh thọ được vô số phẩm pháp môn phổ nhãn.
2. Dùng tịch tĩnh môn đà la ni quang minh, hướng nhập vào vô số phẩm pháp môn phổ nhãn.
3. Dùng vô biên triền đà la ni quang minh, vào khắp vô số phẩm pháp môn phổ nhãn.
4. Dùng tuỳ địa quán sát đà la ni quang minh, phân biệt vô số phẩm pháp môn phổ nhãn.
Dĩ uy lực Đà-la-ni quang minh, phổ nhiếp vô số phẩm; dĩ liên hoa trang nghiêm Đà-la-ni quang minh, dẫn phát vô số phẩm; dĩ thanh tịnh ngôn âm Đà-la-ni quang minh, khai diễn vô số phẩm; dĩ hư không tạng Đà-la-ni quang minh, hiển thị vô số phẩm; dĩ quang tụ Đà-la-ni quang minh, tăng quảng vô số phẩm; dĩ hải tạng Đà-la-ni quang minh, biện tích vô số phẩm.
Dùng oai lực đà la ni quang minh nhiếp khắp vô số phẩm. dùng liên hoa trang nghiêm đà la ni quang minh dẫn phát vô số phẩm. Dùng thanh tịnh ngôn âm đà la ni quang minh khai diễn vô số phẩm. Dùng hư không tạng đà la ni quang minh hiển thị vô số phẩm. Dùng quang tụ đà ni quang minh thêm rộng vô số phẩm. Dùng hải tạng đà la ni quang minh luận biện phân tích vô số phẩm.
5. Dùng oai lực đà la ni quang minh, nhiếp khắp vô số phẩm.
6. Dùng liên hoa trang nghiêm đà la ni quang minh, dẫn phát vô số phẩm.
7. Dùng thanh tịnh ngôn âm đà la ni quang minh, khai diễn vô số phẩm.
8. Dùng hư không tạng đà la ni quang minh không vô tướng mà bao hàm tất cả, để hiển rõ vô số đạo lý, khai thị pháp tướng.
9. Dùng quang tụ đà la ni quang minh, tức là dùng nhiều trí quang, tụ nơi một pháp, mà tăng rộng vô số phẩm.
10. Dùng hải tạng đà la ni quang minh, biện luận phân tích vô số phẩm.
Nhược hữu chúng sanh tùng thập phương lai, nhược Thiên, nhược Thiên Vương, nhược long, nhược long Vương, nhược dạ xoa, nhược dạ xoa Vương, nhược Càn thát bà, nhược càn thát bà vương, nhược A-tu-la, nhược A-tu-la Vương, nhược Ca Lâu La, nhược Ca Lâu La Vương, nhược khẩn-na-la, nhược khẩn-na-la Vương, nhược Ma hầu la già, nhược Ma hầu la già Vương, nhược nhân, nhược nhân Vương, nhược phạm, nhược Phạm Vương, như thị nhất thiết lai chí ngã sở, ngã tất vi kỳ khai thị giải thích, xưng dương tán thán, hàm lệnh ái lạc, thú nhập, an trụ thử chư Phật Bồ-tát hành quang minh phổ nhãn Pháp môn.
Nếu có chúng sanh từ mười phương đến, hoặc Thiên, hoặc Thiên Vương, hoặc Long, hoặc Long Vương, hoặc Dạ Xoa, hoặc Dạ Xoa Vương, hoặc Càn Thát Bà, hoặc Càn Thát Bà Vương, hoặc A Tu La, hoặc A Tu La Vương, hoặc Ca Lâu La, hoặc Ca Lâu La Vương, hoặc Khẩn Na la, hoặc Khẩn Na La Vương, hoặc Ma Hầu La Già, hoặc Ma Hầu La Già Vương, hoặc Nhơn, hoặc Nhơn Vương, hoặc Phạm hoặc Phạm Vương. Tất cả đại chúng như vậy đều đến chỗ ta. Ta đều vì họ mà khai thị giải thích xưng dương tán thán. Ðều làm cho họ mến thích xu nhập an trụ quang minh phổ nhãn pháp môn này.
Giảng: Nếu có chúng sinh từ mười phương đến, hoặc Thiên nhân, hoặc Thiên Vương. Hoặc Long, hoặc Long Vương. Hoặc Dạ Xoa, hoặc Dạ Xoa Vương. Hoặc Càn Thát Bà, hoặc Càn Thát Vương. Hoặc A Tu La, hoặc A Tu La Vương. Hoặc Ca Lâu La, hoặc Ca Lâu La Vương. Hoặc Khẩn Na La, hoặc Khẩn Na La Vương. Hoặc Ma Hầu La Già, hoặc Ma Hầu La Già Vương. Hoặc người, hoặc ông vua. Hoặc Phạm, hoặc Phạm Vương. Tất cả chúng sinh như vậy đến chỗ ta, thì ta đều vì họ khai thị giải thích, tán thán khen ngợi pháp môn phổ nhãn nầy. Đều khiến cho họ ưa thích, hướng vào an trụ pháp môn phổ nhãn quang minh chư Phật Bồ Tát hạnh nầy.
Thiện nam tử! ngã duy tri thử phổ nhãn Pháp môn.
Này thiện nam tử ! Ta chỉ biết phổ nhãn pháp môn này.
Giảng: Thiện nam tử! Ta chỉ biết pháp môn Phổ nhãn nầy.
Như chư Bồ-Tát Ma-ha-tát thâm nhập nhất thiết Bồ Tát hạnh hải, tùy kỳ nguyện lực nhi tu hành cố; nhập Đại nguyện hải, ư vô lượng kiếp trụ thế gian cố; nhập nhất thiết chúng sanh hải, tùy kỳ tâm lạc quảng lợi ích cố; nhập nhất thiết chúng sanh tâm hải, xuất sanh thập lực vô ngại trí quang cố; nhập nhất thiết chúng sanh căn hải, ưng thời giáo hóa tất lệnh điều phục cố; nhập nhất thiết sát hải, thành mãn Bổn Nguyện nghiêm tịnh Phật sát cố; nhập nhất thiết Phật hải, nguyện thường cúng dường chư Như Lai cố; nhập nhất thiết pháp hải, năng dĩ trí tuệ hàm ngộ nhập cố; nhập nhất thiết công đức hải, nhất nhất tu hành lệnh cụ túc cố; nhập nhất thiết chúng sanh ngôn từ hải, ư nhất thiết sát chuyển chánh Pháp luân cố.
Như chư đại Bồ Tát thâm nhập tất cả Bồ Tát hạnh hải, vì tùy duyên nguyện lực mà tu hành. Nhập đại nguyện hải vì ở thế gian trong vô lượng kiếp số. Nhập tất cả chúng sanh hải, vì tùy tâm sở thích của họ để rộng lợi ích. Nhập nhứt thiết chúng sanh tâm hải, vì xuất sanh thập phương vô ngại trí quang. Nhập nhứt thiết chúng sanh căn hải, vì đáng tùy cơ nghi giáo hóa đều làm cho điều phục. Nhập tất cả sát hải, vì thành mãn bổn nguyện nghiêm tịnh Phật độ. Nhập tất cả Phật hải, vì nguyện thường cúng dường chư Như Lai. Nhập tất cả pháp hải, vì có thể dùng trí huệ đều ngộ nhập. Nhập tất cả công đức hải, vì mỗi mỗi tu hành cho được đầy đủ. Nhập tất cả chúng sanh ngôn từ hải, vì ở tất cả cả cõi chuyển chánh pháp luân.
Giảng: Như các đại Bồ Tát thâm nhập biển tất cả hạnh Bồ Tát, vì tuỳ nguyện lực của các Ngài đã phát mà tu hành. Hoặc vào biển đại nguyện, vì ở trong vô lượng kiếp thời gian, thường trụ nơi thế gian. Hoặc vào biển tất cả chúng sinh, vì tuỳ thuận theo tâm ưa thích của họ, mà rộng lợi ích tất cả chúng sinh. Hoặc vào biển tâm của tất cả chúng sinh, vì sinh ra mười lực vô ngại trí huệ quang minh. Hoặc vào biển căn tánh của tất cả chúng sinh, vì đúng thời giáo hoá, đều khiến cho họ đều được điều phục. Bồ Tát tu hành chứng nhập được biển cõi tất cả cõi Phật, tức là không động đạo tràng, mà phân thân vô số, khắp tất cả cõi, thành tựu đầy đủ đại nguyện mà Ngài đã phát xưa kia, hay trang nghiêm thanh tịnh hết thảy cõi nước chư Phật. Lại chứng nhập vào biển tất cả chư Phật, tu hành chứng nhập đạo tràng của tất cả chư Phật, vì phát nguyện thường cúng dường tất cả các Như Lai. Lại tu hành chứng nhập vào biển tất cả các pháp, vì hay dùng trí huệ minh bạch nhập vào pháp môn tất cả Phật pháp. Lại chứng nhập vào biển tất cả công đức của chư Phật, vì mỗi mỗi tu hành, đều khiến cho đầy đủ viên mãn. Lại chứng nhập vào biển lời nói của tất cả chúng sinh, tức cũng là hết thảy lời nói của chúng sinh, Ngài đều minh bạch, vì trong tất cả cõi nước chư Phật, chuyển bánh xe chánh pháp, giáo hoá chúng sinh, mà ta làm sao biết được, diễn nói được những hạnh và vô biên công đức rộng lớn đó, của tất cả các đại Bồ Tát tu hành?
Nhi ngã vân hà năng tri năng thuyết bỉ công đức hạnh
Như thế thời ta làm sao biết được nói được công đức hạnh đó.
Giảng: Như thế thời ta làm sao nói được hạnh công đức đó ?
Thiện nam tử! tòng thử Nam hành lục thập do-tuần, Lăng già đạo biên hữu nhất tụ lạc, danh vi: hải ngạn; bỉ hữu Tỳ-kheo, danh viết: thiện trụ. Nhữ nghệ bỉ vấn: Bồ Tát vân hà tịnh Bồ Tát hạnh?
Này thiện nam tử ! Từ đây qua phương Nam sáu mươi do tuần, bên đường Lăng Già, có một tụ lạc tên là. Hải Ngạn. Ở đó có Tỳ Kheo tên là Thiện Trụ. Ngươi nên đến đó hởi: Bồ Tát phải thế nào tịnh Bồ Tát hạnh ?
Giảng: Thiện nam tử! Từ đây đi về hướng nam nầy, khoảng sáu mươi do tuần (đây là dụ cho tu hạnh lục độ, tịnh sáu căn), bên đường Lăng Già, có một thôn xóm tên là Hải Ngạn. Thôn xóm nầy ở bên núi Lăng Già, nằm phía bắc Nam Hải. Lăng già là tiếng Phạn, dịch là “Nan vãng”. Hàm chứa bốn ý nghĩa:
1. Đủ thứ báu tánh sở thành, trang nghiêm thù diệu.
2. Có đại quang minh.
3. Cao hiển rộng lớn.
4. Chỗ ở của Già Vương.
Đức Phật lại ở đó khai hoá quần sinh, làm việc thắng ích. Trong núi nam hải đó, bốn bên không có cửa, chẳng có thần thông không thể đến được.
Trong tụ lạc đó, có vị Tỳ Kheo, tên là Thiện Trụ. Ngài tu hành quán sát tất cả các pháp. Thiện Tài đồng tử, ngươi hãy đến đó hỏi vị đó rằng: Bồ Tát làm thế nào tu hành thanh tịnh Bồ Tát hạnh?
Thời, Thiện tài đồng tử lễ hải vân túc, hữu nhiễu chiêm ngưỡng, từ thoái nhi khứ.
Thiện Tài đồng tử đảnh lễ chân Hải Vân Tỳ Kheo, hữu nhiễu chiêm ngưỡng từ tạ mà đi.
Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử đảnh lễ Tỳ Kheo Hải Vân, đi nhiễu bên phải ba vòng và chiêm ngưỡng Tỳ Kheo Hải Vân, rồi từ tạ mà đi về hướng nam, để đến gần gũi một vị thiện tri thức khác.
====================
TỲ KHEO THIỆN TRỤ – PHÓ THÁC THỨ BA TU HÀNH TRỤ
Nhĩ thời, Thiện tài đồng tử chuyên niệm thiện tri thức giáo, chuyên niệm phổ nhãn Pháp môn, chuyên niệm Phật thần lực, chuyên Trì Pháp cú vân, chuyên nhập pháp hải môn, chuyên tư Pháp sái biệt, thâm nhập Pháp tuyền phúc, phổ nhập Pháp hư không, tịnh trì Pháp ế chướng, quan sát pháp bảo xứ.
Lúc đó, Thiện tài đồng tử chuyên niệm lời dạy của thiện tri thức, chuyên niệm phổ nhãn pháp môn, chuyên niệm Phật thần lực, chuyên trì pháp cú vân, chuyên nhập pháp hải môn, chuyên gẫm pháp sai biệt, thậm nhập pháp xoay chuyển, vào khắp pháp hư không, trừ sạch pháp ế chương quán sát pháp bửu xứ.
Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử một lòng chuyên niệm lời dạy của thiện tri thức, chuyên niệm pháp môn phổ nhãn, chuyên niệm thần lực của Phật, chuyên tâm thọ trì mây câu pháp nghĩa Phật pháp. Lại chuyên nhập vào môn biển pháp, lại chuyên nghĩ về pháp khác biệt, lại thâm nhập vào pháp xoay chuyển, vào khắp pháp hư không, tịnh trị pháp ế chướng, quán sát nơi pháp bảo.
Tiệm thứ Nam hành, chí Lăng già đạo hải ngạn tụ lạc, quan sát thập phương, cầu mịch thiện trụ, kiến thử Tỳ-kheo ư hư không trung lai vãng kinh hành, vô số chư Thiên cung kính vi nhiễu, tán chư thiên hoa, tác Thiên kĩ lạc, phiên tràng tăng ỷ tất các vô số, biến mãn hư không dĩ vi cúng dường;
Thiện tài đồng tử vừa tư duy suy gẫm đi lần qua phương Nam, đến bên đường Lăng Già, nơi tụ lạc Hải Ngạn, xem xét mười phương tìm cầu Thiện Trụ Tỳ Kheo. Thấy Thiện Trụ Tỳ Kheo đi kinh hành qua lại ở trên hư không, Có vô số chư thiên cung kính vây quanh rưới những thiên hoa, trổi thiên kỹ nhạc, tràng phan gấm lụa thảy đều nhiều vô số đầy khắp hư để cúng dường.
Giảng: Dần dần đi về hướng nam, đến bên đường Lăng Già, thôn xóm Hải Ngạn. Quán sát mười phương, để tìm cầu Tỳ Kheo Thiện Trụ. Thấy Tỳ Kheo Thiện Trụ đó, đang đi kinh hành ở trong hư không. Có vô số chư Thiên cung kính vây quanh, rải các hoa trời, tấu kỹ nhạc trời, tràng phan gấm lụa đều nhiều vô số, đầy khắp hư không, dùng để cúng dường.
Chư Đại long Vương, ư hư không trung hưng bất tư nghị trầm thủy hương vân, chấn lôi kích điện dĩ vi cúng dường
Chư đại Long Vương ở giữa hư không nổi bất tư nghì mây trầm thủy hương, chấn sấm, xẹt chớp, dùng để cúng dường.
Giảng: Lại có các đại Long Vương ở trong hư không, nổi lên mây hương trầm thuỷ không thể nghĩ bàn, sấm sét ánh chớp, dùng để cúng dường vị Tỳ Kheo đó.
Khẩn-na-la Vương tấu chúng nhạc âm, như pháp tán mỹ dĩ vi cúng dường;
Khẩn Na La Vương trổi những tiếng nhạc, đúng pháp ca ngợi, dùng đây để cúng dường.
Giảng: Lại có Khẩn Na La Vương, diễn tấu các âm nhạc vô lượng vô số, trong âm diễn nói diệu âm, trong diệu âm diễn nói diệu nhạc, như pháp thứ lớp để khen ngợi Phật, khen ngợi pháp, khen ngợi Tăng, dùng âm nhạc đó để cúng dường Tam Bảo.
Ma hầu la già Vương dĩ ất tư nghị cực vi tế y, ư hư không trung châu hồi bố thiết, tâm sanh hoan hỉ, dĩ vi cúng dường
Ma Hầu La Già Vương dùng bất tư nghì y phục rất vi tế trải giăng trần thiết, lòng rất hoan hỷ, để cúng dường.
Giảng: Lại có Ma Hầu La Già Vương, dùng y phục rất vi tế không nghĩ bàn, giăng bày trang trí khắp trong hư không, khiến cho hư không trang nghiêm đẹp đẽ lạ thường, phía trên có đủ thứ thể y, để trang nghiêm đạo tràng pháp hội, khiến cho trong tâm mọi người đều sinh tâm sinh hoan hỉ, dùng tâm hoan hỉ đó để cúng dường.
A-tu-la Vương hưng bất tư nghị ma-ni Bảo Vân, vô lượng quang minh chủng chủng trang nghiêm, biến mãn hư không dĩ vi cúng dường
A Tu La Vương nổi bất tư nghì mây ma ni bửu, vô lượng quang minh các thứ trang nghiêm đồng khắp hư không dùng để cúng dường.
Giảng: Lại có A Tu La Vương nổi mây ma ni báu không nghĩ bàn, phóng ra vô lượng quang minh, cũng dùng đủ thứ đồ trang nghiêm, để trang nghiêm đạo tràng, đầy khắp hư không, dùng để cúng dường Tam Bảo.
Ca Lâu La Vương tác Đồng tử hình, vô lượng thải nữ chi sở vi nhiễu, cứu cánh thành tựu vô sát hại tâm, ư hư không trung hợp chưởng cúng dường
Ca Lâu La Vương hiện hình đồng tử, có vô lượng thể nữ vây quanh, rốt ráo thành tựu tâm không sát hại, ở giữa hư không chắp tay cúng dường.
Giảng: Lại có Ca Lâu La Vương (chim đại bàng cánh vàng), tâm sân của chúng vốn rất nặng, nhưng hiện tại chúng đều đã cái ác hướng thiện, chúng hoá làm thân hình đồng tử, có vô lượng số thể nữ vây chung quanh. Trước kia chúng tâm sân quá nặng, thích ăn rồng, hiện tại chúng đã thành tựu không còn tâm sân, không còn tâm giết hại chúng sinh. Chúng ở trong hư không, chắp tay để cúng dường Phật.
Bất tư nghị số chư La-sát Vương, vô lượng La-sát chi sở vi nhiễu, kỳ hình trường đại, thậm khả bố úy, kiến thiện trụ Tỳ-kheo từ tâm tự tại, khúc cung hợp chưởng chiêm ngưỡng cúng dường
Bất tư nghì số các La Sát Vương, vô lượng La Sát vây quanh, thân hình cao lớn đáng kinh sợ, thấy Thiện Trụ Tỳ Kheo từ tâm tự tại, liền chắp tay khom mình chiêm ngưỡng cúng dường.
Giảng: Lại có các quỷ La Sát Vương nhiều không nghĩ bàn, có vô lượng quỷ La Sát nữ, quỷ La Sát con và quyến thuộc quỷ La Sát vây chung quanh. Diện mạo của chúng rất xấu xí, thân hình rất cao lớn, ai mà nhìn thấy chúng đều sinh tâm rất sợ hãi. Nhưng chúng nhìn thấy Tỳ Kheo Thiện Trụ ở trong hư không, đi đứng nằm ngồi từ bi tự tại như thế, cho nên đều sinh tâm cung kính, cúi mình chắp tay chiêm ngưỡng Phật, cúng dường Phật.
Bất tư nghị số chư dạ xoa Vương, các các tất hữu tự chúng vi nhiễu, tứ diện châu táp cung kính thủ hộ
Bất tư nghì số các Dạ Xoa Vương, mỗi vị đều có chúng của mình vây quanh, bao vòng bốn phía cung kính thủ hộ.
Giảng: Lại có các Dạ Xoa Vương số nhiều không thể nghĩ bàn, Dạ Xoa tức là quỷ mau chóng, có Dạ Xoa đi trên không, Dạ Xoa đi dưới đất, chúng đi các nơi ăn thịt người, nhưng hiện tại chúng không còn tâm giết hại người nữa. Mỗi vị Dạ Xoa Vương đều có quyến thuộc của mình, vây quanh bốn bên, để cung kính giữ gìn đạo tràng.
Bất tư nghị số chư phạm thiên vương, ư hư không trung khúc cung hợp chưởng, dĩ nhân gian Pháp xưng dương tán thán
Bất tư nghì số các Phạm Thiên Vương, ở giữa hư không, cúi mình chắp tay dùng pháp nhân gian tán dương ca ngợi.
Giảng: Lại có các Đại Phạm Thiên Vương nhiều không nghĩ bàn, Đại Phạm Thiên Vương vốn rất tự tại, chẳng lo gì hết, nhưng hiện tại cũng đến đạo tràng của Phật, ở trong hư không, cúi mình cung kính chắp tay lễ Phật, lại dùng pháp nhân gian, để tán thán khen ngợi Phật.
Bất tư nghị số chư tịnh cư thiên, ư hư không trung dữ cung điện câu, cung kính hợp chưởng phát hoằng thệ nguyện.
Bất tư nghì số các Tịnh Cư Thiên, với cung điện ở giữa hư không, chắp tay cung kính phát hoằng thệ nguyện.
Giảng: Lại có các Tịnh Cư Thiên số nhiều không thể nghĩ bàn, cũng ở trong hư không, đến với các cung điện của họ, họ đều cung kính chắp tay, phát hoằng thệ nguyện ở trước Phật, để hành Bồ Tát đạo.
Thời, Thiện tài đồng tử kiến thị sự dĩ, tâm sanh hoan hỉ, hợp chưởng kính lễ, tác như thị ngôn:
Thiện tài đồng tử thấy những sự trên đây, lòng hoan hỷ chắp tay kính lễ Thiện Trụ Tỳ Kheo rồi bạch rằng:
Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử thấy những sự việc đó rồi, sinh tâm đại hoan hỉ. Ngài chắp tay kính lễ vị Tỳ Kheo Thiện Trụ, mà nói như vầy:
Thánh Giả! ngã dĩ tiên phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm, nhi vị tri Bồ Tát vân hà tu hành Phật Pháp? vân hà tích tập Phật Pháp? vân hà bị cụ Phật Pháp? vân hà huân tập Phật Pháp? vân hà tăng trưởng Phật Pháp? vân hà tổng nhiếp Phật Pháp? vân hà cứu cánh Phật Pháp? vân hà tịnh trì Phật Pháp? vân hà thâm tịnh Phật Pháp? vân hà thông đạt Phật Pháp?
Bạch đức Thánh ! Con đã phát tâm Vô thượng Bồ đề mà chưa biết Bồ Tát thế nào tu hành Phật pháp ? Thế nào tích tập Phật pháp ? Thế nào đầy đủ Phật pháp ? Thế nào huân tập Phật pháp ?Thế nào tăng trưởng Phật pháp ? Thế nào tổng nhiếp Phật pháp ? Thế nào cứu cánh Phật pháp ? Thế nào tịnh trị Phật ? thế nào thâm tịnh Phật pháp ? Thế nào thông đạt Phật pháp ?
Giảng: “Bạch đức Thánh! Con trước đã phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề rồi, mà chưa biết Bồ Tát làm thế nào tu hành Bồ Tát hạnh, học tập Phật pháp? Bồ Tát phải làm thế nào tích tập Phật pháp từng chút từng chút? Bồ Tát phải làm thế nào tu hành cho đầy đủ Phật pháp? Bồ Tát phải làm thế nào để huân tập tất cả Phật pháp”?
Giống như hiện tại chúng ta làm khoá lễ sáng tối mỗi ngày, khiến cho bạn chẳng có nhiều vọng tưởng. Khi làm khoá lễ sáng tối, thì bạn phải thành tâm một chút, đem chân tâm ra. Đừng có ở trong thời gian ngắn làm lễ sáng tối, vẫn nghĩ cách làm biếng trốn tránh, chạy vào trong nhà cầu, hoặc đi xuống nhà bếp, làm cho thời gian trôi qua lãng phí, như thế thì không phải là huân tập. Chúng ta mọi người đang cùng nhau niệm Phật, tụng Kinh, tức là huân tập. Huân tập tức cũng giống như dùng cây nhang để hun đúc, bạn được nhang hun đúc, thì có chút hương vị đạo. Bạn thường thường huân tập, thì trong sự bất tri bất giác tự nhiên biến thành người tu đạo. Khi bạn không muốn làm khoá lễ, thì đều là lười biếng, chẳng dụng công, đó là lường gạt chính mình. Chúng ta người xuất gia, hoặc người tại gia, nhất định phải là người đi tiên phong trong các khoá lễ, đừng có vọng tưởng làm như thế có ích gì? Tu đạo tức là phải luôn luôn lúc nào cũng nghĩ đến mình có tu hay không? Đó tức là huân tập Phật pháp.
Bồ Tát phải làm thế nào để khiến cho Phật pháp ngày càng tăng trưởng? Giống như chúng ta luyện tập phiên dịch Kinh điển, đọc tụng Kinh điển, đó đều là khiến cho Phật pháp tăng trưởng. Lần đầu bạn xem Kinh không hiểu Kinh điển, nhưng xem nhiều lần thì sẽ hiểu được, do đó có câu: “Khai quyển hữu ích”, bạn mở quyển Kinh Phật ra xem một lần, thì trong ruộng thức thứ tám của bạn đã gieo xuống hạt giống trí huệ, tương lai bạn sẽ là một vị Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni thông minh. Lúc nào bạn không làm biếng, thì lúc đó sẽ tăng thêm trí huệ. Nếu bạn chẳng học tập, thì trí huệ chẳng tăng trưởng. Ví như bạn chẳng đi học, thì bạn chẳng biết chữ. Bạn muốn biết chữ viết văn chương thì phải đi học.
Bồ Tát phải làm thế nào để tổng nhiếp đại nghĩa của Phật pháp lại, để minh bạch đạo lý của nó? Bồ Tát phải làm thế nào mới có thể minh bạch rốt ráo Phật pháp? Nếu chúng ta muốn rốt ráo minh bạch Phật pháp, thì lúc nào cũng phải dũng mãnh tinh tấn. Bồ Tát phải làm thế nào để tịnh trị Phật pháp? Tịnh trị Phật pháp, tức là chuyên nhất để minh bạch Phật pháp, ngoài ra những điều khác không cần, buông bỏ triệt để hết tất cả những tập khí mao bệnh khác, tức là không tham tài, cũng không tham sắc, cũng không tham danh, cũng không tham ăn, cũng không tham ngủ. Tài sắc danh ăn ngủ, địa ngục năm gian nầy hoàn toàn từ bỏ, thì gọi là tịnh trị Phật pháp.
Bồ Tát phải làm thế nào để thâm tấn thêm một tầng để tịnh trị Phật pháp? Tức là phải siêng năng tinh tấn. Bồ Tát phải làm thế nào mới có thể thông đạt Phật pháp? Trên đây là những vấn đề Thiện Tài đồng tử hỏi vị Tỳ Kheo Thiện Trụ.
Ngã văn Thánh giả thiện năng dụ hối, duy nguyện từ ai, vi ngã tuyên thuyết: Bồ Tát vân hà bất xả kiến Phật, thường ư kỳ sở tinh cần tu tập? Bồ Tát vân hà bất xả Bồ Tát, dữ chư Bồ-tát đồng nhất thiện căn? Bồ Tát vân hà bất xả Phật Pháp, tất dĩ trí tuệ nhi đắc minh chứng? Bồ Tát vân hà bất xả đại nguyện, năng phổ lợi ích nhất thiết chúng sanh? Bồ Tát vân hà bất xả chúng hạnh, trụ nhất thiết kiếp tâm vô bì yếm? Bồ Tát vân hà bất xả Phật sát, phổ năng nghiêm tịnh nhất thiết thế giới? Bồ Tát vân hà bất xả Phật lực, tất năng tri kiến Như Lai tự tại? Bồ Tát vân hà bất xả hữu vi diệc phục bất trụ, phổ ư nhất thiết chư hữu thú trung do như biến hóa, thị thọ sanh tử, tu Bồ Tát hạnh? Bồ Tát vân hà bất xả văn Pháp, tất năng lĩnh thọ chư Phật chánh giáo? Bồ Tát vân hà bất xả trí quang, phổ nhập tam thế trí sở hạnh xứ?
Con nghe đức thánh hay khéo dạy bảo. Ngưỡng mong xót thương vì con mà tuyên nói Bồ Tát thế nào chẳng bỏ thấy Phật, thường ở chỗ Phật siêng năng tu tập ? Bồ Tát thế nào chẳng bỏ Phật pháp đều dùng trí huệ mà được minh chứng ? Bồ Tát thế nào chẳng bỏ đại nguyện có thể lợi ích khắp tất cả chúng sanh ? Bồ Tát thế nào chẳng bỏ chúng sanh trụ tất cả kiếp không lòng mỏi nhàm ? Bồ Tát thế nào chẳng bỏ Phật độ có thể nghiêm tịnh tất cả thế giới ? Bồ Tát thế nào chẳng bỏ Phật lực đều có thể thấy biết Như Lai tự tại ? Bồ Tát thế nào chẳng bỏ hữu vi mà cũng chẳng trụ hữu vi, ở trong tất cả loài hữu lậu, dường như biến hóa, thị hiện thọ sanh tử tu Bồ Tát hạnh ? Bồ Tát thế nào chẳng bỏ nghe pháp đều có thể lãnh thọ chánh giáo của chư Phật ? Bồ Tát thế nào chẳng bỏ trí quang vào khắp chỗ sở hành của tam thế trí ?
Giảng: Con nghe vị Tỳ Kheo Hải Vân giới thiệu đức Thánh khéo dùng đủ thứ pháp môn phương tiện để chỉ dạy chúng sinh, giáo hoá chúng sinh, do đó có câu:
“Muốn khiến vào Phật trí
Trước dùng câu dục móc”.
Muốn họ khai mở trí huệ Phật, trước hết cho họ một chút gì tốt tốt, khiến cho chúng sinh được lợi ích, thì họ sẽ học tập Phật pháp. Mục đích con đến đây là xin đức Thánh hãy phát tâm đại từ bi, vì con diễn nói đủ thứ pháp môn của Ngài, để giáo hoá con. Bồ Tát làm thế nào mới không bỏ thấy Phật, thường ở trong đạo tràng của Phật, dũng mãnh tinh tấn, thậm chí đốt thân cúng Phật, xả thân vì pháp, siêng tu Bồ Tát đạo, ân cần tu hành? Bồ Tát làm thế nào mới không bỏ Bồ Tát quyến thuộc, với các Bồ Tát đồng một căn lành? Bồ Tát làm thế nào mới không bỏ Phật pháp, hoàn toàn đều dùng trí huệ mà đắc được minh chứng Phật pháp? Bồ Tát làm thế nào không bỏ đại nguyện, hay lợi ích khắp tất cả chúng sinh? Bồ Tát làm thế nào mới không bỏ các hạnh, trụ trong tất cả kiếp, mà tâm cũng không mỏi nhàm?
Bồ Tát làm thế nào mới không bỏ cõi Phật, hay nghiêm tịnh khắp tất cả thế giới? Bồ Tát làm thế nào mới không bỏ mười lực của Phật, hoàn toàn đều thấy biết được cảnh giới tự tại của Như Lai? Bồ Tát làm thế nào mới không bỏ pháp hữu vi, cũng chẳng trụ pháp hữu vi, ở trong khắp tất cả các cõi, giống như biến hoá, tại thế gian thị hiện thọ sinh tử, tu hành Bồ Tát hạnh? Bồ Tát làm thế nào mới không thể bỏ nghe Phật pháp, nghĩa là Bồ Tát lúc nào cũng lắng nghe Phật pháp, dù có bỏ mạng cũng không bỏ cơ hội lắng nghe Phật pháp. Ngài có thể buông bỏ xuống hết thảy tất cả, nhưng Ngài không bỏ sự lắng nghe Phật pháp. Ngài lắng nghe đạo lý Phật pháp, thì hay lãnh hội nơi tâm, đều minh bạch được chánh giáo của chư Phật nói. Bồ Tát lại làm thế nào mới chẳng bỏ trí huệ quang minh, chứng nhập vào khắp chỗ hạnh xứ của trí huệ ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai?
Có những người không tin ba đời, mà nói rằng: “Đời này, đời trước, đời sau, có gì chứng minh nó tồn tại? Tôi chỉ tin đời này thôi”. Nhưng bạn có biết có ngày hôm qua, ngày hôm nay và ngày mai chăng? Có năm ngoái, năm nay, và năm tới chăng? Hôm qua, hôm nay, ngày mai, là ba đời nhỏ. Tháng trước, tháng này, tháng tới, là ba đời vừa. Năm ngoái, năm nay, năm tới, là ba đời lớn. Sự hiểu biết của chúng ta là ba đời nầy, mà chúng ta chẳng biết đời trước, đời nầy, đời sau. Chúng ta cũng chẳng biết một đại kiếp trước, một đại kiếp nầy, một đại kiếp về sau. Cho nên từ ba đời nhỏ, có thể chứng minh ba đời lớn. Bạn không thể nói vật bạn không nhìn thấy là không có. Tuy bạn nhìn thấy rất nhiều sự vật, nhưng những vật mà bạn chẳng nhìn thấy nhiều sô số, cho nên bạn không thể nói vật bạn không nhìn thấy thì không có.
Thời, Thiện Trụ Tỳ-kheo cáo Thiện Tài ngôn:
Thiện Trụ Tỳ Kheo bảo Thiện Tài rằng:
Giảng: Lúc đó, Tỳ Kheo Thiện Trụ bảo Thiện Tài rằng:
Thiện tai thiện tai! Thiện nam tử! nhữ dĩ năng phát A-nậu-đa-la-tam miểu tam bồ Đề tâm, kim phục phát tâm cầu vấn Phật Pháp, nhất thiết trí Pháp, tự nhiên giả Pháp.
Lành thay ! Lành Thay ! Này thiện nam tử ! ngươi đã phát tâm Vô thượng Bồ đề, nay lại phát tâm cầu hỏi Phật pháp, cầu hỏi pháp nhứt thiết trí, tự nhiên trí.
Giảng: “Lành thay, lành thay! Thiện nam tử! Ngươi đã phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, hiện nay lại phát tâm cầu hỏi Phật pháp, pháp nhất thiết trí, pháp tự nhiên”.
Thiện nam tử! ngã dĩ thành tựu Bồ Tát vô ngại giải thoát môn, nhược lai nhược khứ, nhược hành nhược chỉ, tùy thuận tư tánh, tu tập quan sát, tức thời hoạch đắc trí tuệ quang minh, danh: cứu cánh vô ngại.
Này thiện nam tử ! Ta đã thành tựu môn giải thoát vô ngại. Hoặc đi, hoặc đứng, hoặc đến, hoặc lui, tùy thuận tư duy tu tập quán sát, liền được trí huệ quang minh tên là cứu cánh vô ngại.
Giảng: Thiện nam tử! Ta đã thành tựu pháp môn giải thoát vô ngại của Bồ Tát, cho nên ta có thể đến đi tự như, bất luận động tĩnh đều tuỳ thuận tâm ý của ta, muốn như thế nào thì như thế ấy, tất cả đều tuỳ theo ý muốn. Ta tu tập đủ thứ pháp môn, quán sát đủ thứ cảnh giới, lập tức đắc được trí huệ quang minh, tên là Cứu kính vô ngại.
Đắc thử trí tuệ quang minh cố, tri nhất thiết chúng sanh tâm hành vô sở chướng ngại, tri nhất thiết chúng sanh một sanh vô sở chướng ngại, tri nhất thiết chúng sanh tú mạng vô sở chướng ngại, tri nhất thiết chúng sanh vị lai kiếp sự vô sở chướng ngại, tri nhất thiết chúng sanh hiện tại thế sự vô sở chướng ngại, tri nhất thiết chúng sanh ngôn ngữ âm thanh chủng chủng sái biệt vô sở chướng ngại, quyết nhất thiết chúng sanh sở hữu nghi vấn vô sở chướng ngại, tri nhất thiết chúng sanh chư căn vô sở chướng ngại, tùy nhất thiết chúng sanh ưng thọ hóa thời tất năng vãng phó vô sở chướng ngại, tri nhất thiết sát-na, La bà, mưu hô lật đa, nhật dạ thời phần vô sở chướng ngại, tri tam thế hải lưu chuyển thứ đệ vô sở chướng ngại, năng dĩ kỳ thân biến vãng thập phương nhất thiết Phật sát vô sở chướng ngại. Hà dĩ cố? đắc vô trụ vô tác thần thông lực cố.
Vì được trí huệ quang minh này nên biết tâm hành của tất cả chúng sanh không chướng không ngại. Biết sự chết và sanh của tất cả chúng sanh. Biết đời trước của tất cả chúng sanh. Biết những sự trong kiếp vị lai của tất cả chúng sanh. Biết những sự trong đời hiện tại của tất cả chúng sanh. Biết ngôn ngữ âm thanh nhiều loại sai biệt của tất cả chúng sanh. Quyết những nghi vấn của tất cả chúng sanh. Biết căn tánh của tất cả chúng sanh. Tùy theo lúc tất cả chúng sanh nên được giáo hóa đều có thể qua đến nơi họ ở. Biết tất cả sát na, la bà mâu hô lật đa, giờ khắc ngày đêm. Biết thứ đệ lưu chuyển trong biển tam thế. Tất cả những sự thấy biết như vậy đều không chướng không ngại. Cũng có thể đem thân mình qua đến tất cả cõi Phật mười phương không chướng ngại. Tại sao vậy ? Vì được sức thần thông vô trụ vô tác.
Giảng: Do đắc được trí huệ quang minh nầy, cho nên ta biết tâm và những việc làm của tất cả chúng sinh, mà không có chướng ngại, tức là đắc được trí huệ tha tâm thông. Ta lại biết được nhân quả báo ứng sinh rồi lại chết, chết rồi lại sinh của tất cả chúng sinh, mà không có chướng ngại nào. Ta lại biết đời trước của tất cả chúng sinh, mà không có chướng ngại, tức là trí huệ túc mạng thông. Ta lại biết những sự việc kiếp vị lai của tất cả chúng sinh, mà không có chướng ngại, tức cũng là đắc được trí thần thông kiếp thuở vị lại. Ta lại biết sự việc đời hiện tại của tất cả chúng sinh, mà không có chướng ngại, tức cũng là thiên nhãn thông. Ta lại biết đủ thứ lời nói âm thanh khác nhau của tất cả chúng sinh, mà không có chướng ngại, tức là đắc được thiên nhĩ thông. Ta lại giải quyết được hết thảy nghi vấn của tất cả chúng sinh, mà không có chướng ngại, tức là đắc được trí dứt nghi. Ta lại biết các căn cơ của tất cả chúng sinh, hoặc là thiện căn, ác căn, lợi, độn, sâu, cạn, mà không có chướng ngại, đây là đắc được trí biết căn. Ta lại có thể tuỳ theo tất cả chúng sinh đáng được hoá độ, thời liền đến chỗ họ để giáo hoá, mà không có chướng ngại, đây là đắc được trí biết thời. Ta lại biết được tất cả Sát na thời phần mà không chướng ngại, do đó : “Trong một niệm có chín trăm lần sinh diệt, chín mươi niệm làm một Sát na, một trăm hai mươi Sát na làm một Đát sát na, sáu mươi Đát sát na làm một La bà, ba mươi La bà làm một Mâu hô lật đa, ba mươi Mâu hô lật đa làm một Trú dạ, sáu mươi Trú dạ làm một Nhựt một dạ”. Ta lại biết biển lưu chuyển thứ lớp ba đời không có chướng ngại, tức là đắc được trí thông tất cả pháp diệt tận. Ta lại có thể dùng thân mình đến khắp mười phương tất cả cõi Phật, đến gần gũi các đức Phật, cúng dường các đức Phật, ở trong đạo tràng của Phật nghe pháp thọ giáo, mà không có chướng ngại, tức cũng là đắc được thần túc thông, không thể tánh và vô lượng sắc thân.
Tỳ Kheo Thiện Trụ lại nói: “Tại sao ta đến được tất cả cõi Phật trong mười phương mà không chướng ngại? Vì ta đắc được sức thần thông không trụ, không tạo tác, không thể nghĩ bàn nầy.
Thiện nam tử! ngã dĩ đắc thử thần thông lực cố, ư hư không trung hoặc hành, hoặc trụ, hoặc tọa, hoặc ngọa, hoặc ẩn, hoặc hiển, hoặc hiện nhất thân, hoặc hiện đa thân, xuyên độ tường bích do như hư không; ư hư không trung kết già phu tọa, vãng lai tự tại do như phi điểu; nhập địa như thủy, lý thủy như địa, biến thân thượng hạ phổ xuất yên diệm như Đại hỏa tụ. Hoặc thời chấn động nhất thiết Đại địa, hoặc thời dĩ thủ ma xúc nhật nguyệt, hoặc hiện kỳ thân cao chí phạm cung. Hoặc hiện thiêu hương vân, hoặc hiện bảo diệm vân, hoặc hiện biến hóa vân, hoặc hiện quang võng vân, giai tất quảng đại di phước thập phương.
Này thiện nam tử ! Vì ta được sức thần thông này nên ở giữa hư không, hoặc đi, hoặc, đứng, hoặc ngồi, hoặc nằm, hoặc ẩn, hoặc hiển, hoặc hiện một thân, hoặc hiện nhiều thân, đi xuyên qua tường vách như đi nơi trống không. Ở trên hư ngồi kiết già qua lại tự tại như chim bay. Vào trong đất như xuống nước, đi trên nước như trên đất, khắp thân trên dưới đều phát lửa ngọn như đống lửa lớn. Hoặc có lúc chấn động tất cả đại địa. Hoặc có lúc lấy tay rờ rẫm mặt nhựt mặt nguyệt. Hoặc hiện thân mình cao đến phạm cung. Hoặc hiện mây hương đốt. Hoặc hiện mây bửu diệm. Hoặc hiện mây biến hóa . Hoặc hiện mây quang võng. Thảy đều rộng lớn đầy khắp hư không mười phương.
Giảng: Thiện nam tử! Do ta đắc được sức thần thông nầy, cho nên ở trong hư không, hoặc đi, hoặc đứng, hoặc ngồi, hoặc nằm, hoặc ẩn tàng thân lại, hoặc hiển hiện thân ra. Hoặc hiện một thân, hoặc hiện nhiều thân. Ta đi xuyên qua tường vách, giống như hư không, tướng vách không chướng ngại được ta. Ta ngồi kiết già ở trong hư không, nhậm vận tự tại, đến đi tự như, giống như chim bay. Ta đi vào trong đất giống như đi vào nước, đi trên nước cũng giống như đi trên đất. Toàn thân trên dưới, thường thường đều phát ra ánh sáng lửa ngọn, giống như đống lửa lớn. Hoặc có lúc chấn động tất cả đại địa, hoặc có lúc dùng tay rờ mặt trời mặt trăng. Hoặc có lúc thị hiện thân mình cao đến Phạm cung. Hoặc hiện mây hương đốt, hoặc hiện mây báu diệm, hoặc hiện mây biến hoá, hoặc hiện mây lưới quang, thảy đều rất rộng lớn che trùm khắp mười phương tất cả thế giới.
Hoặc nhất niệm trung qua ư Đông phương nhất thế giới, nhị thế giới, bách thế giới, thiên thế giới, bách thiên thế giới, nãi chí vô lượng thế giới, nãi chí bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới; hoặc qua Diêm-phù-đề vi trần số thế giới, hoặc qua bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số thế giới.
Hoặc trong một niệm qua phương Ðông một thế giới, hai thế giới, trăm thế giới, ngàn thế giới, trăm ngàn thế giới, nhẫn đến qua vô lượng thế giới, bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới. Hoặc qua Diêm Phù Ðề vi trần số thế giới. Hoặc qua bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số thế giới. Ta ở trước chư Phật Thế Tôn trong tất cả quốc độ đó mà nghe thuyết pháp.
Giảng: Hoặc ở trong một niệm, qua khỏi phương đông một thế giới, hai thế giới, trăm thế giới, ngàn thế giới, trăm ngàn thế giới, cho đến vô lượng thế giới. Cho đến bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới. Hoặc qua khỏi các thế giới nhiều như số hạt bụi cõi Diêm Phù Đề. Hoặc qua khỏi các thế giới nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật.
Ư bỉ nhất thiết chư Phật quốc độ Phật Thế tôn tiền thính văn thuyết Pháp, nhất nhất Phật sở hiện vô lượng Phật sát vi trần số sái biệt thân, nhất nhất thân vũ vô lượng Phật sát vi trần số cúng dường vân, sở vị: nhất thiết hoa vân, nhất thiết hương vân, nhất thiết man vân, nhất thiết mạt hương vân, nhất thiết đồ hương vân, nhất thiết cái vân, nhất thiết y vân, nhất thiết tràng vân, nhất thiết phiên vân, nhất thiết trướng vân, dĩ nhất thiết thân vân nhi vi cúng dường.
Ở cho mỗi đức Phật, hiện vô lượng Phật sát vi trần số thân sai khác. Mỗi mỗi thân rưới vô lượng Phật sát vi trần số mây đồ cúng dường. Những là mây tất cả hoa, mây tất cả hương, mây tất cả tràng hoa , mây tất cả hương bột, mây tất cả hương thoa, mây tất cả lọng, mây tất cả y phục, mây tất cả tràng, mây tất cả phan, mây tất cả trướng. Ðem tất cả thân vân cúng dường lên chư Phật.
Giảng: Ở trước mặt các đức Phật Thế Tôn của tất cả những thế giới đó, đều lắng nghe mỗi vị Phật thuyết pháp. Ở trong đạo tràng của mỗi vị Phật, thị hiện thân khác nhau, nhiều như số hạt bụi vô lượng cõi Phật. Mỗi mỗi thân, mưa xuống mây cúng dường nhiều như số hạt bụi vô lượng cõi Phật. Đó là: Mây tất cả hoa, mây tất cả hương, mây tất cả tràng hoa, mây tất cả hương bột, mây tất cả hương thoa, mây tất cả lọng, mây tất cả y phục, mây tất cả tràng, mây tất cả phan, mây tất cả trướng, đem tất cả thân mây để cúng dường.
Nhất nhất Như Lai sở hữu tuyên thuyết, ngã giai thọ trì; nhất nhất quốc độ sở hữu trang nghiêm, ngã giai ức niệm.
Mỗi đức Như Lai có bao nhiêu lời dạy bảo ta đều thọ trì cả. Mỗi quốc độ có bao nhiêu sự trang nghiêm, ta đều nhớ rõ cả.
Giảng: Pháp của mỗi đức Như Lai diễn nói, ta đều thọ trì tu hành. Hết thảy sự trang nghiêm trong mỗi cõi nước, ta đều nghĩ nhớ.
Như Đông phương, Nam, Tây, Bắc phương, tứ duy, thượng, hạ, diệc phục như thị. Như thị nhất thiết chư thế giới trung sở hữu chúng sanh, nhược kiến ngã hình, giai quyết định đắc A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề.
Tất cả chín phương kia cũng đều như phương Ðông. Bao nhiêu chúng sanh trong tất cả thế giới như vậy, nếu được thấy thân của ta, thời đều quyết định được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Giảng: Ở phương đông như vậy, phương nam tây bắc, bốn hướng trên dưới, cũng đều như thế. Hết thảy chúng sinh trong tất cả các thế giới như vậy, nếu ai thấy được thân tướng ta, thì chắc chắn họ sẽ đắc được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác
Bỉ chư thế giới nhất thiết chúng sanh, ngã giai minh kiến, tùy kỳ đại tiểu, thắng liệt, khổ lạc, thị đồng kỳ hình, giáo hóa thành tựu. Nhược hữu chúng sanh thân cận ngã giả, tất lệnh an trụ như thị pháp môn.
Tất cả chúng sanh trong những thế giới đó, ta đều thấy rõ tùy theo sư lớn nhỏ thắng liệt khổ vui của họ mà thị hiện đồng thân hình với họ để giáo hóa cho họ được thành tựu. Nếu có chúng sanh nào thân cận ta, thời ta làm cho họ an trụ nơi pháp môn như đây.
Giảng: Tất cả chúng sinh các thế giới đó, ta đều thấy họ rất rõ ràng. Tuỳ theo thân thể lớn nhỏ, thắng liệt khổ vui của họ, ta đều thị hiện đồng thân họ, để giáo hoá thành tựu họ. Nếu có chúng sinh gần gũi ta, thì ta đều khiến cho họ an trụ pháp môn như vậy.
Thiện nam tử! ngã duy tri thử phổ tốc tật cúng dường chư Phật thành tựu chúng sanh vô ngại giải thoát môn.
Này thiện nam tử ! Ta chỉ biết pháp môn vô ngại giải thoát mau chóng cúng dường khắp chư Phật thành tựu khắp chúng sanh này.
Giảng: Thiện nam tử! Ta chỉ biết môn giải thoát mau chóng cúng dường khắp chư Phật, thành tựu chúng sinh vô ngại nầy
Như chư Bồ-tát trì đại bi giới, Ba-la-mật giới, Đại thừa giới, Bồ Tát đạo tướng ứng giới, vô chướng ngại giới, bất thoái đọa giới, bất xả Bồ-đề tâm giới, thường dĩ Phật Pháp vi sở duyên giới, ư nhất thiết trí thường tác ý giới, như hư không giới, nhất thiết thế gian vô sở y giới, vô thất giới, vô tổn giới, vô khuyết giới, vô tạp giới, vô trược giới, vô hối giới, thanh tịnh giới, ly trần giới, ly cấu giới
Như chư Bồ Tát trì giới đại bi, giới ba la mật, giới Ðại thừa, giới tương ưng với Bồ Tát đạo, giới vô chướng ngại, giới chẳng thối đọa, giới chẳng bỏ tâm Bồ đề, giới thường dùng Phật pháp làm cảnh sở duyên, giới thường để ý nơi nhứt thiết trí, giới như hư không, giới không y tựa tất cả thế gian, giới không mất, giới không tổn, giới không khuyết, giới không tạp, giới không trược, giới không hối, giới thanh tịnh, giới ly trần, giới ly cấu.
Giảng: Như các Bồ Tát trì giới đại bi, giới Ba La Mật, giới đại thừa, giới Bồ Tát đạo tương ưng, giới không chướng ngại, giới không thối đoạ, giới không bỏ tâm bồ đề, giới thường dùng Phật pháp làm sở duyên, giới nơi nhất thiết trí thường tác ý, giới như hư không, giới tất cả thế gian không chỗ nương tựa, giới không mất, giới không tổn hại, giới không thiếu, giới không tạp nhiễm, giới không ô trược, giới không hối, giới thanh tịnh, giới lìa bụi trần, giới lìa cấu bẩn.
Như thị công đức, nhi ngã vân hà năng tri năng thuyết? Thiện nam tử! tòng thử Nam phương hữu quốc, danh: đạt lý tỳ đồ, thành danh: tự tại; kỳ trung hữu nhân, danh viết: di già. Nhữ nghệ bỉ vấn: Bồ Tát vân hà học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo?
Những công đức như vậy, ta đâu có thể biết và nói được hết. Này thiện nam tử ! từ đây qua phương Nam có một nước tên là Ðạt Lý Tỹ Trà, có thành tên là Tự Tại, trong đó có một người tên là Di Già. Ngươi nên đến đó hỏi Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, trụ Bồ Tát đạo ?
Giảng: Những công đức như vậy, ta đâu có thể biết và nói được hết. Thiện nam tử! Ngươi từ đây đi về hướng nam nầy, có nước tên là Đạt Lý Tỹ Trà, dịch là “tiêu dung” tức cũng là từ Thánh giáo sinh, tiêu dung mậu giải. Thành tên là Tự Tại. Trong thành đó có vị tiên nhơn, tên là Di Già. Di Già dịch ra là “mây”, diễn nói pháp môn luân tự, đượm nhuần mưa pháp. Tỉ dụ vị đó dùng mây pháp Thánh giáo ba đời, mưa thấm nhuần khắp tất cả chúng sinh. Ngươi hãy đến thưa hỏi vị đó: “Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo”?
Thời, Thiện tài đồng tử đảnh lễ kỳ túc, hữu nhiễu chiêm ngưỡng, từ thoái nhi hành.
Thiện Tài đồng tử đảnh lễ chân Thiện Trụ Tỳ Kheo, hữu nhiễu chiêm ngưỡng lui ra đi về phương Nam.
Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử nghe xong, bèn đảnh lễ vị Tỳ Kheo Thiện Trụ, đi nhiễu phải ba vòng và chiêm ngưỡng vị Tỳ Kheo đó, rồi từ tạ mà đi về hướng nam.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét