Phẩm Thanh Tịnh Hạnh

Kinh Hoa Nghiêm

Đại Phương Quảng Phật

giảng giải

Phẩm Thanh Tịnh Hạnh

Hòa Thượng TUYÊN HÓA
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Minh Ðịnh

— o0o —

Phẩm Thứ Mười Một

Tịnh là thanh tịnh. Thanh tịnh gì? Thanh tịnh thân, miệng, ý, ba nghiệp. Ba nghiệp thanh tịnh tức là Thánh nhân; ba nghiệp chẳng thanh tịnh tức là phàm phu. Ba nghiệp hợp với tiêu chuẩn tức là thiện, chẳng hợp tiêu chuẩn tức là ác. Trước hết nói về mười điều ác của ba nghiệp, ngược lại tức là mười điều thiện. Ðây là mỗi Phật giáo đồ phải thấu hiểu mà gìn giữ, do đó “Ðừng làm các điều ác, hãy làm các điều lành».

  1. Thân có ba điều ác: Giết hại, trộm cắp, tà dâm.
  2. Giết hại: Tức là sát sinh. Tại sao thế giới có chiến tranh ? là vì giết hại quá nặng. Tàn sát với nhau, đời trước anh giết tôi, đời nầy tôi giết anh; báo ứng tuần hoàn, nhân quả chẳng sai. Người xưa nói:

«Thiên bách niên lai oản lý canh
Oán thâm tợ hải hận nan bình
Dục tri thế thượng đao binh kiếp
Thả thính đồ môn dạ bán thanh”.

Tạm dịch:
Ngàn xưa tới nay một nồi canh
Oán sâu như biển hận khó tan
Muốn biết vì sao có chiến tranh
Hãy nghe lò thịt lúc nửa đêm.

Phật nói: “Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, đều có thể thành Phật”. Như vậy nhìn lại, chúng ta sát hại một chúng sinh, đồng như sát hại một vị Phật. Cho nên Phật giáo cấm giới giết hại. Chẳng những cấm giới giết hại, mà còn cổ lệ phóng sinh, vì chúng sinh đều là lục thân quyến thuộc trong quá khứ. Người người chẳng giết hại, người người chẳng ăn thịt, thì thế giới chắc chắn sẽ hòa bình. Người người hòa bình với nhau, từ bi đối đãi với nhau, tức là thế giới Cực Lạc ở nhân gian.

  1. Trộm cắp: Phàm là chẳng nói mà lấy, gọi là trộm, chiếm lấy của cải là cắp. Người thời xưa liêm khiết, tức là: “Một cộng cỏ không đem cho người, một cộng cỏ không lấy của người”. Ðây là tự giữ liêm khiết, biểu hiện của thanh tịnh đạm bạc.
  2. Tà dâm: Tử vô thủy kiếp đến nay, tâm dâm dục chẳng dễ gì thanh tịnh. Trong Kinh Lăng Nghiêm có nói:

Dâm tâm bất trừ, trần bất khả xuất.

Nghĩa là:
Tâm dâm chẳng trừ, thì chẳng ra khỏi trần lao.

Nếu tâm dâm dục chẳng đoạn trừ, mà muốn tu hành, thì chẳng thể thành công. Giống như “Nấu các làm cơm, chẳng có việc ấy». Người tu hành nhất định phải thanh tâm quả dục, đoạn dục khử ái, mới nói đến chân chánh thanh tịnh, ba nghiệp mới chẳng có lỗi lầm. Do đó: “Thân không lỗi, miệng không lỗi, ý không lỗi», đây là ba pháp ở trước trong mười tám pháp bất cộng.

  1. Miệng có bốn điều ác: Tức là nói dối, thêu dệt, hai lưỡi, chửi mắng.
  2. Nói dối: Tức là nói lời không thật, chuyện không nói có, chuyện có nói không, hư vọng chẳng thật.
  3. Thêu dệt: Tức là nói những lời chẳng thanh tịnh, thích nói chuyện nam nữ, có khi dùng miệng nói, có khi dùng bút biên, khiến cho người nghĩ tưởng mông lung.
  4. Chửi mắng: Tức là thích mắng người, mở miệng hại người, khiến cho người sinh phiền não.
  5. Hai lưỡi: Tức là làm cho ly gián, khiến cho hai bên hiểu lầm, chuyên môn làm chuyện thị phi, thì nhất định đọa vào địa ngục. Chúng ta tạo nghiệp ác, đa số là do khẩu nghiệp tạo ra. Do đó có câu:

«Bệnh tùng khẩu nhập
Hoạ tùng khẩu xuất».

Ðây là lời nói rất chí lý, cũng là nói về kinh nghiệm, làm kim châm.

  1. Ý có ba nghiệp: Tức là tham, sân, si.
  2. Tham: Tức là tham dục. Tham chẳng biết chán, càng nhiều càng tốt, chẳng lúc nào biết đủ. Chẳng biết đủ thì thường lo sầu, biết đủ thì an vui. Người thế gian, chẳng phải tham danh lợi, thì tham ăn tham sắc. Ai cũng có xí đồ của họ, đây tức là tâm tham tác quái. Cuối cùng thì thân bại danh liệt, hoặc nước tan nhà mất.
  3. Sân: Tức là sân hận, cũng là nổi giận. Tham chẳng được thì nổi sân hận. Do đó có câu:

Một niệm sân nổi lên
Tám vạn cửa chướng mở ra.

Phải biết lửa lớn vô minh hay thiêu huỷ rừng công đức. Người tu hành, nên nhớ, không thể nổi giận, phải tu pháp môn nhẫn nhục. Nhẫn việc người không thể nhẫn được, đó mới là bổn phận của người tu hành.

  1. Si: Tức là ngu si, tức cũng là si tâm vọng tưởng. Không nên vọng tưởng mà vọng tưởng, không đắc được mà muốn đắc được. Ví như người thích ngắm hoa thì “Hoa đẹp thường khiến mỗi sáng sớm đẹp». Người thích ngắm trăng thì nghĩ: “Trăng sáng ngại gì đêm đêm tròn». Người thích uống rượu thì nghĩ: “Hết thảy suối nước đều biến thành rượu». Người thích dùng tiền thì nghĩ: “Ứớc gì lá trong rừng đều biến thành tiền». Ðớ đều là vọng tưởng của người ngu si.

Trong văn Đại Sám Hối có nói:
Thuở xưa tạo ra các nghiệp ác
Đều do vô thủy tham sân si
Từ miệng ý phát sinh ra
Tất cả con nay xin sám hối.

Thành tâm sám hối, như thế thì ba nghiệp mới thanh tịnh. Do đó người tu hành, phải siêng tu giới định huệ, diệt trừ tham sân si, đây là pháp môn cơ bản.

Hạnh là hành vi. Mỗi ngày phải phản tỉnh: Những việc làm trong một ngày có thanh tịnh chăng ? Nếu thanh tịnh thì phải nỗ lực, khiến cho càng thanh tịnh. Nếu chẳng thanh tịnh thì phải sửa lỗi làm mới lại. Do đó, có câu:
“Cẩu nhật tân
Nhật nhật tân
Hựu nhật tân”.

Nghĩa là nói, nếu như hôm nay rửa cấu bẩn cho thanh tịnh, về sau ngày ngày phải rửa cho thanh tịnh, phải tiếp tục rửa cho thanh tịnh không ngừng nghỉ. Chẳng những thân thanh tịnh, mà tâm cũng phải thanh tịnh. Chúng ta người tu hành, phải khiến cho thân tâm chẳng có phiền não, tức cũng là ba nghiệp thanh tịnh.

Tây Thiên Tổ thứ tư, tôn giả Ưu Ba Cúc Ða, sư phụ của Ngài dạy Ngài, mỗi ngày phản tỉnh, dùng đá nhỏ trắng đen để ghi dấu. Mỗi khi khởi một niệm ác, thì bỏ một hòn đá đen, mỗi khi khởi niệm thiện, thì bỏ một hòn đá trắng. Khi bắt đầu thì đen nhiều trắng ít, dần dần trắng đen bằng nhau, bảy ngày sau chỉ thấy toàn đá trắng, chẳng thấy đá đen. Ðây là phương pháp tu hạnh thanh tịnh.

Phẩm Thanh Tịnh Hạnh nầy là pháp môn của Bồ Tát tu, cũng là pháp môn chúng ta tu hành giữ gìn. Ở trước nói về tín giải môn, bây giờ nói về hạnh chứng môn. Khi tin hiểu rồi mà chẳng tu hành, thì chẳng chứng quả. Phật giáo thì cung hành thực tiễn, lấy thân làm phép tắc. Phải thật sự y pháp tu hành. Biết bao nhiêu thì hành bấy nhiêu ! Do đó: “Biết hành hợp làm một”, thân biết mới thật hành, thật hành mới thật biết. Người tu hành phải chú trọng về thực hành. Nếu chú trọng về lý luận, thì dù nói được hoa trên trời rơi xuống, hoa sen dưới đất vọt lên, nhưng chẳng tu hành, thì cũng giống như nói các món ăn ngon mà không ăn, thì cuối cùng cũng chẳng được lợi ích gì.

Phẩm này là phẩm thứ mười một của Kinh Hoa Nghiêm, cho nên gọi là Phẩm Tịnh Hạnh Thứ Mười Một.

 

Nhĩ thời, trí thủ Bồ Tát vấn Văn-thù-sư-lợi Bồ Tát ngôn:

Bấy giờ, Bồ Tát Trí Thủ hỏi Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi rằng.

Lúc đang nói Phẩm Tịnh Hạnh, thì đại Bồ Tát Trí Thủ, đại biểu cho đại chúng hướng về Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi để thỉnh pháp. Làm thế nào để khiến cho chúng sinh biết pháp môn tu hành ? Làm thế nào đắc được Bồ Tát quả vị ?

Phẩm nầy đề ra hai mươi câu thế nào ? Phân làm mười một đoạn, mỗi đọan có mười câu. “Mười” biểu thị đạo lý trùng trùng vô tận, vô tận trùng trùng. Kinh Hoa Nghiêm tức là đạo lý nầy, là cảnh giới viên dung vô ngại, vô ngại viên dung, suốt thuở vị lai nói cũng cũng không hết. Tại sao ? Vì nó là trùng trùng vô tận, vô tận trùng trùng. Phẩm nầy có một trăm bốn mươi mốt nguyện. Mỗi nguyện đều vì chúng sinh mà tu hành. Phàm là Phật giáo đồ, đều phải phát nguyện, y theo nguyện tu hành. Lập định mục tiêu, quán triệt thủy chung, rất sớm sẽ thành tựu. Ðiểm nầy hy vọng mọi người đặc biệt chú ý.

 

Phật tử! Bồ Tát vân hà đắc vô quá thất thân, ngữ, ý nghiệp? Vân hà đắc bất hại thân, ngữ, ý nghiệp? Vân hà đắc bất khả hủy thân, ngữ, ý nghiệp? Vân hà đắc bất khả hoại thân, ngữ, ý nghiệp? Vân hà đắc Bất-thoái-chuyển thân, ngữ, ý nghiệp? Vân hà đắc bất khả động thân, ngữ, ý nghiệp? Vân hà đắc thù thắng thân, ngữ, ý nghiệp? Vân hà đắc thanh tịnh thân, ngữ, ý nghiệp? Vân hà đắc vô nhiễm thân, ngữ, ý nghiệp? Vân hà đắc trí vi tiên đạo thân, ngữ, ý nghiệp?

Phật tử ! Bồ Tát làm thế nào để được thân ngữ ý nghiệp chẳng lỗi lầm. Làm thế nào để được không hại thân ngữ ý nghiệp. Làm thế nào để được không thể hủy thân ngữ ý nghiệp. Làm thế nào để được không thể hoại thân ngữ ý nghiệp. Làm thế nào để được thân ý nghiệp không thối chuyển. Làm thế nào để được thân ngữ ý nghiệp không thể động. Làm thế nào để được thân ngữ ý nghiệp thù thắng. Làm thế nào để được thân ngữ ý nghiệp thanh tịnh. Làm thế nào để được thân ngữ ý nghiệp chẳng ô nhiễm. Làm thế nào để thân ngữ ý nghiệp được trí dẫn đạo?

Giảng: Làm thế nào là hỏi. Ðây là hỏi trồng nhân gì ? Có thể đắc được quả gì? Những pháp thân Đại Sĩ cùng nhau đề ra vấn pháp, để biểu hiện đạo lý nhân quả. Bồ Tát Trí Thủ, Ngài có đại trí huệ, cho nên thủ lãnh trí huệ. Ngài thỉnh vấn Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi mười vấn đề, làm thế nào đắc được ba nghiệp thanh tịnh ?

Phật tử ! Xin Ngài từ bi.

  1. Tất cả Bồ Tát tu hành, làm thế nào để được thân ngữ ý nghiệp chẳng có lỗi lầm ? phải siêng tu giới định huệ, thì thân ngữ ý nghiệp sẽ chẳng có lỗi lầm. Phải diệt trừ tham sân si, thì ba nghiệp sẽ thanh tịnh. Ðây là phương pháp Bồ Tát đắc được thân, ngữ, ý, ba nghiệp chẳng có lỗi lầm.
  2. Tất cả Bồ Tát tu hành, làm thế nào để được thân ngữ, ý, nghiệp chẳng thương hại ? Thì phải dùng kiên, thành, hằng, ba chữ để làm cơ sở, có tâm kiên cố, tâm thành thật, tâm thường hằng, chẳng bị ô nhiễm làm thương hại, thì thân ngữ ý nghiệp sẽ tự nhiên thanh tịnh. Khi Bồ Tát tu hành thì phải cẩn thận coi chừng, luôn luôn chú ý, không tạo tất cả điều ác, nguyện làm tất cả điều lành.
  3. Tất cả Bồ Tát tu hành, thì làm thế nào để được thân ngữ ý không thể hủy phạm ? Ở trên thương hại là ở ngoài đến phá hoại. Bây giờ hủy phạm là duyên bên trong phá hoại, khiến cho mình phạm giới ba nghiệp. Cho nên phải giữ gìn giới luật cho cẩn thận. Bằng không, phạm giới thì thân ngữ ý nghiệp sẽ chẳng thanh tịnh.
  4. Tất cả Bồ Tát tu hành, làm thế nào để được thân ngữ ý nghiệp không thể phá hoại ? Tu ba nghiệp như kim cang, thì bất cứ cảnh giới nào, cũng không thể phá hoại được. Nghĩa là tu thiền định, có định rồi thì chẳng bị cảnh giới chuyển, mà chuyển được cảnh giới. Tóm lại, chẳng động tâm thì ba nghiệp sẽ thanh tịnh.
  5. Tất cả Bồ Tát tu hành, làm thế nào để được thân ngữ ý nghiệp chẳng thối chuyển ? Bất cứ tu pháp môn gì, phải có thủy có chung, không thể giữa đường mà sinh tâm thối chuyển. Phải có tinh thần kiên nhẫn bất khuất, chẳng thối lùi mới có sự thành tựu. Có người phát tâm tu hành, chưa được mấy ngày thì sinh tâm thối chuyển. Giống như tu ngủ ngồi, cảm thấy chẳng thoải mái, chẳng bằng nằm ra ngủ. Ðây là sinh tâm thối chuyển.
  6. Tất cả Bồ Tát tu hành, làm thế nào để đưọc thân ngữ ý không thể giao động ? Tu ba nghiệp thành kiên cố, thì bất cứ cảnh giới gì đến, cũng không giao động, như vậy thì không thể tạo nghiệp ác.
  7. Tất cả Bồ Tát tu hành, làm thế nào để đắc được thân ngữ ý thù thắng ? Chẳng những chẳng tạo nghiệp ác, mà còn trở thành công đức thiện thù thắng, tức là làm nhiều việc có ích cho chúng sinh, tất cả đều vì chúng sinh, cho đến xả bỏ hạnh phúc của mình cũng chẳng tiếc.
  8. Tất cả Bồ Tát tu hành, làm thế nào để được thân ngữ ý nghiệp thanh tịnh ? Trừ sạch tư tưởng nhiễm ô, thì đắc được nghiệp thanh tịnh. Tại sao chẳng thanh tịnh ? Vì có dục niệm. Nếu đoạn dục khử ái, thì ba nghiệp tự nhiên sẽ thanh tịnh.
  9. Tất cả Bồ Tát tu hành, làm thế nào để được thân ngữ ý nghiệp chẳng ô nhiễm ? Con người từ vô thủy kiếp đến nay, vì ô nhiễm làm hại, cho nên thân, miệng, ý, chẳng thanh tịnh, ngày ngày hồ đồ, điên đảo, chẳng lúc nào thanh tịnh. Nếu tiêu diệt những tư tưởng chẳng chánh đáng, thì tâm sẽ thanh tịnh. Tâm thanh tịnh rồi thì ba nghiệp chẳng ô nhiễm nữa.
  10. Tất cả Bồ Tát tu hành, làm thế nào để được thân ngữ ý nghiệp được trí huệ dẫn đạo ? Vì tạo nghiệp ác, nên trí huệ chẳng hiện tiền, dùng tâm ngu si để làm chủ, cho nên thân ngữ ý nghiệp chẳng thanh tịnh. Nếu dùng trí huệ để dẫn đạo, thì sẽ đi trên con đường chân chánh đại quang minh, ba nghiệp sẽ thanh tịnh.

 

Vân hà đắc sanh xứ cụ túc, chủng tộc cụ túc, gia cụ túc, sắc cụ túc, tướng cụ túc, niệm cụ túc, tuệ cụ túc, hành cụ túc, vô úy cụ túc, giác ngộ cụ túc?

Làm thế nào để được sinh vào nơi đầy đủ, chủng tộc đầy đủ, nhà đầy đủ, sắc đầy đủ, tướng đầy đủ, niệm đầy đủ, huệ đầy đủ, hành đầy đủ, vô úy đầy đủ, giác ngộ đầy đủ?

Giảng: Bồ Tát Trí Thủ lại hỏi Bồ Tát Văn Thù mười vấn đề đầy đủ. Ðầy đủ nghĩa là viên mãn chẳng thiếu.

  1. Bồ Tát tu hành, làm thế nào thường được sinh vào giữa nước lớn, nơi có Phật pháp ?
  2. Bồ Tát tu hành, làm thế nào để sinh vào nhà tôn qúy, mà chẳng sinh vào nhà bần tiện ?
  3. Bồ Tát tu hành, làm thế nào để được sinh vào nhà chánh pháp tu hành Phật pháp, mà chẳng sinh vào nhà bàng môn tả đạo ?
  4. Bồ Tát tu hành, làm thế nào để được sắc hình trang nghiêm xinh đẹp ? mà chẳng phải sắc hình xấu xí khó coi.
  5. Bồ Tát tu hành, làm thế nào để được đầy đủ 32 tướng tốt 80 vẻ đẹp ?
  6. Bồ Tát tu hành, làm thế nào để được chánh niệm không quên, túc niệm hiện tiền ? Nghĩa là có niệm chánh tri chánh kiến, chứ chẳng phải niệm tà tri tà kiến.
  7. Bồ Tát tu hành, làm thế nào để được trí huệ chân thật mà khai ngộ ? Người có trí huệ, tri kiến cao minh, khéo giải thế pháp. Người chẳng có trí huệ thì nhận thức chẳng rõ, không thể y pháp tu hành.
  8. Bồ Tát tu hành, làm thế nào để được điều nhu, tu hành khỏi lỗi lầm ?
  9. Bồ Tát tu hành, làm thế nào để được đầy đủ vô úy? Tức là chí lực kiên cường, chẳng nhu nhược, có tinh thần đại vô úy.
  10. Bồ Tát tu hành, làm thế nào để được giác ngộ đầy đủ ? Phải tu trí huệ Bát Nhã, không nhiễm pháp thế gian, mà được pháp xuất thế gian thì sẽ khai ngộ.

Ấn Ðộ phân chia giai cấp thành bốn, có qúy tộc và tiện tộc khác nhau. Quan niệm về chủng tộc rất quan trọng, phân chia giới hạn rất rõ ràng. Quý tộc chẳng đi cùng tiện tộc. Dù chùa chiền cũng chẳng cho kẻ nô lệ và kẻ ăn mày vào tham bái. Ðối đãi chẳng bình đẳng, khiến cho tiện tộc đi đâu cũng bị khinh khi.

Truyền thuyết của Bà La Môn giáo là người từ Ðại Phạm Thiên Vương sinh ra bốn giai cấp.

  1. Bà La Môn (Tăng lữ) là từ trong miệng của Ðại Phạm Thiên sinh ra.
  2. Dòng Sát Ðế Lợi (Quí tộc) là từ trên vai Ðại Phạm Thiên sinh ra.
  3. Dòng Tỳ Xá (Thương mại) là từ hông của Ðại Phạm Thiên sinh ra.
  4. Dòng Thủ Ðà (nô lệ) là từ dưới chân của Ðại Phạm Thiên sinh ra. Cho nên ai ai cũng muốn sinh vào nhà quý tộc, để có thể hưởng được đặc quyền, đi đâu cũng được người cung kính.

Bồ Tát có bốn thứ vô úy:

  1. Tổng trì vô úy: Tổng tất cả pháp, trì vô lượng nghĩa. Nơi pháp nhớ giữ mà chẳng quên, ở trong đại chúng thuyết pháp chẳng có sợ sệt.
  2. Tri căn vô úy: Biết căn tánh của chúng sinh, ở trong đại chúng thuyết pháp, chẳng có sợ sệt.
  3. Quyết nghi vô úy: Khéo giải đáp vấn đề nghi vấn, phá tan pháp tà, ở trong đại chúng thuyết pháp chẳng có sợ sệt.
  4. Ðáp nạn vô úy: Vô lượng chúng sinh, đồng thời vấn nạn, theo đó giải đáp, khéo đoạn trừ nghi ngờ của đại chúng. Ở trong đại chúng nói pháp chẳng có sợ sệt.

 

Vân hà đắc thắng tuệ, đệ nhất tuệ, tối thượng tuệ, tối thắng tuệ, vô lượng tuệ, vô số tuệ, bất tư nghị tuệ, vô dữ đẳng tuệ, bất khả lượng tuệ, bất khả thuyết tuệ?

Làm thế nào để được thắng huệ, đệ nhất huệ, tối thượng huệ, tối thắng huệ, vô lượng huệ, vô số huệ, bất tư nghì huệ, vô dữ đẳng huệ, bất khả lường huệ, bất khả thuyết huệ.

Giảng: Bồ Tát Trí Thủ lại hỏi Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi mười vấn đề. Huệ là trí huệ. Trí huệ có trí huệ thật và trí huệ giả. Trí huệ thật là trí huệ Bát Nhã, trí huệ nầy, chỉ làm việc lành, chẳng làm việc ác. Trí huệ giả là thế trí biện thông. Tuy thông minh, nhưng có thể làm thiện, cũng có thể làm ác. Mười vấn đề là:

  1. Bồ Tát tu hành, làm thế nào để được trí huệ thù thắng ?
  2. Bồ Tát tu hành, làm thế nào để được trí huệ đệ nhất ?
  3. Bồ Tát tu hành, làm thế nào để được trí huệ tối thượng ?
  4. Bồ Tát tu hành, làm thế nào để được trí huệ tối thù thắng ?
  5. Bồ Tát tu hành, làm thế nào để được trí huệ vô lượng ?
  6. Bồ Tát tu hành, làm thế nào để được vô số trí huệ?
  7. Bồ Tát tu hành, làm thế nào để được trí huệ bất khả tư nghì ?
  8. Bồ Tát tu hành, làm thế nào để được vô dữ đẳng trí huệ ?
  9. Bồ Tát tu hành, làm thế nào để được bất khả lường trí huệ ?
  10. Bồ Tát tu hành, làm thế nào để được bất khả thuyết trí huệ?

Ðợi đến Kinh văn sẽ có giải đáp tỉ mỉ.

 

Vân hà đắc nhân lực, dục lực, phương tiện lực, duyên lực, sở duyên lực, căn lực, quan sát lực, xa ma tha lực, Tì bát xá na lực, tư tánh lực?

Làm thế nào để được nhân lực, dục lực, phương tiện lực, duyên lực, sở duyên lực, căn lực, quán sát lực, xa ma tha lực, tỳ bát xá na lực, tư duy lực?

Giảng: Bồ Tát Trí Thủ lại hỏi Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi mười câu hỏi về lực. Lực tức là nhân duyên đủ đạo. Làm thế nào tu hành mới đủ đạo nhân duyên đó ?

  1. Bồ Tát tu hành, làm thế nào đắc được chủng tánh? Trong nhiếp luận có nói: ‘’Ða văn luận tập, tánh giải hợp một ở trong thức A Lại Gia‘’. Tất cả Thánh nhân, nhờ trí nầy làm nhân.
  2. Bồ Tát tu hành, làm thế nào để dục lạc thù thắng, đại bồ đề, và nhân duyên khởi hành ?
  3. Bồ Tát tu hành, làm thế nào để được sức phương tiện ? Phải y theo sáu thứ phương tiện mới thành tựu bi trí. Do đó ‘’Bi trí song tu‘’, đây là pháp cơ bản tu hành. Sáu phương tiện tức là:
  4. Từ bi trông mến.
  5. Biết rõ các hành.
  6. Thích diệu trí Phật.
  7. Không bỏ sinh tử.
  8. Luân hồi không nhiễm.
  9. Dũng mãnh tinh tấn.
  10. Bồ Tát tu hành, làm thế nào để được nhân duyên thiện hữu khuyến phát ?
  11. Bồ Tát tu hành, làm thế nào để được cảnh giới quán sát bi trí ?
  12. Bồ Tát tu hành, làm thế nào để được tín, tấn, niệm, định, huệ, năm căn lực ?
  13. Bồ Tát tu hành, làm thế nào để được sức khéo về tuyển chọn quán sát tự tha, sự lý, dược bệnh ?
  14. Bồ Tát tu hành, làm thế nào để được sức Xa ma tha (chỉ) ?
  15. Bồ Tát tu hành, làm thế nào để được sứ Tỳ Bát Xá Na (Quán) ?
  16. Bồ Tát tu hành, làm thế nào để được sức tư duy đáng làm không đáng làm ?

Chỉ là chỉ tĩnh, quán là quán sát, hợp lại tức là chỉ quán. Chỉ là gì ? Ngưng bặc vô minh vọng tưởng, ngưng bặc tâm dâm dục. Ngưng bặc được thì sinh trí huệ. Quán là gì ? Quán sát có còn vô minh vọng tưởng chăng ? Còn có tâm dâm dục chăng ? Nếu có thì nhất định phải hàng phục nó. Thư xưa có nói:
Vạn vật tĩnh quán giai tự đắc,
Tứ thời giai hưng dữ nhân đồng.

Vạn vật phải tĩnh quán, tức là chỉ quán. Hay chỉ quán thì sẽ minh bạch đạo lý vạn sự vạn vật. Tức cũng là công phu ‘’cách vật‘’ mà nhà nho nói. Cách vật là đạo lý cùng cứu sự vật, tức cũng là cách trừ vật dục của bạn, trở về trong tự tánh. Hay cách trừ vật dục tức là trở về nguồn cội, rõ tâm thấy tánh. Sinh ra trí huệ thì mới tu hành. Nói cho dễ hiểu đây là công dụng của chỉ quán.

Chỉ quán tức là tĩnh lự. Lúc ban đầu tu thì tĩnh là chỉ, lự là quán. Khi tu thành thì tĩnh là định, lự là huệ. Tu chỉ quán là pháp môn của tông Thiên Thai; tu pháp môn thiền định là thiền tông. Kỳ thật, người tu hành đều phải tu hai pháp môn nầy. Bất quá hai tông nầy thiên trọng mà thôi. Tu chỉ quán, có thể khiến cho mạch máu ngừng lại, hơi thở ngừng lại, ý nghĩ ngừng lại, tri giác ngừng lại. Song, chẳng phải là người chết. Trong đại học có nói:
‘’Biết ngừng rồi mới có định
Ðịnh rồi mới vắng lặng
Lặng rồi sau mới an
An rồi sau mới nghĩ
Nghĩ rồi sau mới được‘’.

Ðược cái gì ? Ðược minh bạch. Minh bạch là ở trong sự quán sát sinh ra, tức cũng là ‘’Tứ thời giai hưng dữ nhân đồng‘’. Tứ thời là bốn mùa xuân hạ thu đông. Giai hưng tức là sự khoái lạc cao hứng nhất. Sự việc nầy chẳng phải tự mình độc chiếm hưởng thụ, mà khoái lạc với hết thảy mọi người. Do đó: ‘’Cùng vui với dân‘’, đây mới là khoái lạc chân chánh.

Người tu chỉ quán thì trước hết ngưng bặc tất cả vọng tưởng tập khí, thì sẽ sinh ra trí huệ. Biết tất cả pháp lành để quán sát tất cả sự vật, mới minh bạch được. Người minh bạch thì sẽ không làm việc điên đảo. Người xưa nói:
‘’Biết đủ không nhục
Biết ngừng không nguy‘’.

Phải biết đủ thì không bị khi nhục. Chẳng biết đủ thì sẽ sinh tâm tham. Có tâm tham thì hay bị khi nhục. Tại sao? Vì đó đây đều tham. Bạn tranh tôi đoạt, mà sinh ra tâm đấu tranh. Có tâm đấu tranh thì hiện tượng hơn thua. Người thắng thì kiêu ngạo, kẻ tthua thì nhục nhã. Nếu biết đủ thì chẳng có tâm tham, chẳng bị nhục nhã. Bất cứ làm việc gì, đều giữ quy cụ thì chẳng có nguy hiểm. Nếu chẳng biết đủ, chẳng biết dừng lại thì chịu nhục nhã và nguy hiểm.

Người tu chỉ quán, trước hết phải dừng lại gốc tham, sau đó quán sát gốc tham có còn tồn tại chăng ? Có sức lực chỉ quán rồi thì mới tu thiền định, mới có sở thành tựu. Chỉ tức là đừng là các điều ác, quán tức là làm các điều lành. Chúng ta tu hành không cần biết quá nhiều. Biết nhiều thì chẳng tu hành, ngược lại lầm lẫn sự việc. Nếu dụng công phu thiền trên miệng lưỡi thì nói rất hay, nhưng hành chẳng ra gì, như vậy chẳng có ích gì. Giống như cây nở hoa mà chẳng kết trái, tuy nhiên hoa đẹp, nhưng chẳng kết trái thật, thì có ích gì ?

 

Vân hà đắc uẩn thiện xảo, giới thiện xảo, xứ thiện xảo, duyên khởi thiện xảo, dục giới thiện xảo, sắc giới thiện xảo, vô sắc giới thiện xảo, quá khứ thiện xảo, vị lai thiện xảo, hiện tại thiện xảo?

Làm thế nào để được uẩn khéo léo, giới khéo léo, xứ khéo léo, duyên khởi khéo léo, dục giới khéo léo, sắc giới khéo léo, vô sắc giới khéo léo, quá khứ khéo léo, vị lai khéo léo, hiện tại khéo léo?

Giảng: Bồ Tát Trí Thủ lại hỏi Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi mười vấn đề khéo léo, khéo léo tứ là pháp phương tiện khéo léo.

  1. Bồ Tát tu hành, làm thế nào để được năm uẩn khéo léo ? Năm uẩn tức là sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Ở trong Tâm Kinh có nói: ‘’Bồ Tát Quán Tự Tại, thực hành sâu vào Bát Nhã Ba la mật đa, thì thấu rõ năm uẩn đều không, qua khỏi tất cả khổ ách‘’. Bồ Tát Quán Tự Tại là danh hiệu của Bồ Tát Quán Thế Âm. Chúng ta chúng sinh đều là hóa thân của Bồ Tát Quán Tự Tại, mình phải hồi quang phản chiếu Quán Tự Tại, quán sát mình có tự tại hay chăng ? Tự tại tức là Bồ Tát, chẳng tự tại tức là phàm phu. Làm thế nào để được Quán Tự Tại ? Phải nhìn xuyên thủng, phải buông xả, chẳng có mọi sự chấp trước, đó là tự tại. Nhìn chẳng xuyên thủng, buông chẳng đặng, chấp đông trước tây, đây là chẳng tự tại. Không tự tại thì chạy tán loạn, có lúc chạy đi lên trời, có lúc chạy xuống địa ngục, chạy vào chạy ra trong sáu nẻo luân hồi, chẳng tạm nghỉ. Muốn được tự tại thì phải tu pháp môn Bát Nhã Ba la mật đa. Có Ðại trí huệ rồi thì sẽ đến được bờ kia, mới chiếu thấu năm uẩn đều không. Lú đó, ‘’Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc. Sắc tức là không, không tức là sắc‘’.

‘’Thọ chẳng khác không, không chẳng khác thọ. Thọ tức là không, không tức là thọ‘’. Ba uẩn kia, tưởng, hành, thức cũng lại như thế. Dùng pháp môn phương tiện khéo léo, để nói rõ đạo lý năm uẩn đều không, khiến cho chúng sinh biết năm uẩn là không, chẳng thật có.

  1. Bồ Tát tu hành, làm thế nào để được mười tám giới khéo léo ? Mười tám giới là sáu căn (Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) và sáu trần (Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp), cùng với sáu thức (sáu căn đối với sáu trần, ở giữa sinh ra sáu thức). Sáu căn sáu trần, khiến cho chúng ta khởi vọng tưởng. Mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân giác xúc, ý biết pháp, thì cảnh giới lay chuyển. Do đó có câu:

‘’Mắt thấy hình sắc trong chẳng có
Tai nghe chuyện đời tâm chẳng hay‘’.

Có được công phu như thế, thì sẽ chuyển được cảnh giới, sẽ đắc được tự tại. Mắt chẳng bị sắc trần chuyển, thì chẳng tham trước sắc đẹp. Tai chẳng bị thanh trần chuyển, thì chẳng tham trước tiếng hay. Cho đến mũi lưỡi thân ý cũng lại như thế. Chứng được sơ quả A La Hán, gọi là ‘’Nhập lưu‘’; nhập vào dòng Thánh nhân pháp tánh, ngược lại dòng sáu trần phàm phu. Lúc đó, đối với sắc thanh hương vị xúc pháp chẳng giao động. Cho nên Cổ Ðức nói:

‘’Suốt ngày ăn cơm, chưa ăn một hạt cơm.
Suốt ngày mặt y, chưa mặt một sợi tơ‘’.

Ðây là nói ăn cũng vô tâm, mặc cũng vô tâm, chẳng chấp trước ăn cơm mặc y phục, tức cũng là chẳng nhập vào cảnh giới sắc thanh hương vị xúc pháp.

  1. Bồ Tát tu hành, làm thế nào để được mười hai xứ khéo léo ? Mười hai xứ là sáu căn và sáu trần. Nếu khéo léo vận dụng mười hai xứ để tu hành, thì chẳng bị xáu căn sáu trần làm lay chuyển, mà chuyển được sáu căn sáu trần, thì có thể trợ giúp thành tựu đạo nghiệp. Không thể lợi dụng nó, thì sẽ bị phá hoại đạo nghiệp. Giống như khéo dụng binh, thì bách chiến bách thắng, không khéo dụng binh thì bách chiến bách bại.
  2. Bồ Tát tu hành, làm thế nào để được duyên khởi khéo léo ? Nhân khởi của sự vật là duyên khởi. Khéo léo biết tất cả các pháp vốn là không, không vô sở hữu. Lại biết giả danh là bất hoại. Tuy là giả danh thì không cần phá hoại nó, mà lưu trước phân biệt tất cả các pháp thật tướng. Bất cứ có nhân duyên gì sinh khởi, đều phải dùng pháp phương tiện khéo léo để diễn nói, khiến cho chúng sinh minh bạch đạo lý duyên khởi.
  3. Bồ Tát tu hành, làm thế nào để được dục giới khéo léo ? Dục giới có tham dục, dâm dục, sắc tướng, tâm thức. Dục giới có sáu cõi trời (trời Tứ Thiên Vương, trời Ðao Lợi, trời Dạ Ma, trời Ðâu Suất, trời Hóa Lạc, trời Tha Hóa Tự Tại) Tất cả chúng sinh ở dục giới đều có tâm dâm dục. Nếu đoạn dục khử ái thì thoát khỏi ba cõi.
  4. Bồ Tát tu hành, làm thế nào để được sắc giới khéo léo ? Sắc giới có sắc tướng, tâm thức, tức cũng là thế giới có sắc có thể thấy. Sắc giới có mười tám cõi trời (trời Tứ Thiền, trời Vô Tưởng, Trời Ngũ Bất Hoàn), đều tu tập thiền định. Dùng công phu thiền định cạn sâu làm thước đo, hoặc đi lên hoặc đi xuống.
  5. Bồ Tát tu hành, làm thế nào để được vô sắc giới khéo léo ? Vô sắc giới chỉ có tâm thức mà thôi. Nếu tư tưởng tâm thức đoạn trừ, thì thoát khỏi ba cõi, đến được địa vị Thánh nhân. Vô sắc giới có trời Tứ Không. Do đó:

‘’Ba cõi không an, như là nhà lửa‘’.

Chúng ta người tu hành phải siêng tu giới định huệ, tiêu diệt tham sân si, thì thoát khỏi nhà lửa, đạt được cõi Thường Tịch Quang.

Có bài kệ nầy nói rất có đạo lý:

‘’Lục dục các trời đủ năm tướng suy
Trên cõi Tam Thiền có nạn gió.
Dù có tu đến cõi Phi Phi Tưởng
Chẳng bằng đi về Tây Phương‘’.

Người ở trên trời lục dục cũng có sinh tử. Khi sắp hết tuổi thọ thì phát sinh năm hiện tượng suy bại:

  1. Mũ hoa trên đầu héo, người trời đội mũ hoa rất đẹp đẽ, vĩnh viễn chẳng héo úa. Khi tuổi thọ hết thì tự nhiên héo úa.
  2. Quần áo dơ bẩn: Quần áo của người trời rất sạch sẽ, chẳng cần giặt ũi. Khi tuổi thọ hết thì tự nhiên hiện ra bụi bặm.
  3. Hai nách ra mồ hôi: Thân thể người trời rất thanh khiết, chẳng ra mồ hôi. Khi tuổi thọ hết thì hai nách tự nhiên ra mồ hôi.
  4. Thân thể hôi hám: Người trời giữ gìn năm giới, cho nên tỏa ra mùi thơm. Khi tuổi thọ hết thì tỏa ra mùi hôi thối.
  5. Chẳng ưa chỗ ngồi: Người trời tu tập thiền định, đoan nhiên chánh tọa. Khi tuổi thọ hết thì nghiệp chướng hiện tiền, thấy tướng suy phát sinh, đứng ngồi không yên. Ngồi rồi đứng dậy, đứng dậy ngồi xuống, như vậy nhiều lần thì chết, tùy theo nghiệp mà đi đầu thai.

Tuy nhiên trên trời sung sướng, nhưng chẳng phải là nơi cứu kính. Chúng ta Phật giáo đồ, đừng hy vọng sinh về trời. Vì trời vẫn còn luân hồi, chưa thoát khỏi ba cõi, dù sinh về trời Tam Thiền, vẫn có nạn gió lớn. Vì cõi trời Tam Thiền quá sung sướng, dễ khiến cho người mất đi đạo nghiệp. Người chân chánh tu hành thì phải lìa khỏi cõi trời nầy, đừng luyến ái sự vui sướng. Khi ba nạn lớn phát sinh thì nạn gió lớn sẽ thổi tan trời Tam Thiền, cho nên cũng chẳng phải là nơi cứu kính. Dù tu đến cõi trời cao nhất của tam giới là cõi Trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng, cũng chẳng phải là nơi cứu kính, chẳng bằng chuyên tâm niệm Phật. Nghiệp sạch tình không, vãng sinh về cõi Cực Lạc, cùng tu với thiện nhân, cùng thành Phật, thừa nguyện trở lại, phổ độ chúng sinh, lìa khổ được vui, chấm dứt sinh tử.

  1. Bồ Tát tu hành, làm thế nào để được quá khứ phương tiện ? Quá khứ chư Phật cùng dùng pháp môn phương tiện khéo léo, để giáo hóa tất cả chúng sinh.
  2. Bồ Tát tu hành, làm thế nào để được vị lai khéo léo ? Vị lai chư Phật cũng dùng pháp môn phương tiện khéo léo, để giáo hóa tất cả chúng sinh.
  3. Bồ Tát tu hành, làm thế nào để được hiện tại khéo léo ? Hiện tại chư Phật cũng dùng pháp môn phương tiện khéo léo, để giáo hóa tất cả chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh bỏ mê về giác, cải tà theo chánh, thoát khỏi ba cõi, sinh về Tịnh Ðộ.

Tại sao chúng ta phải ăn cơm ? Vấn đề nầy phải nghiên cứu rõ ràng. Vì ăn uống là thuốc trị bệnh đói khát, cho nên phải ăn vật ăn, phải sống mới tu hành. Do đó: ‘’Mượn giả tu chân‘’, ăn uống là trợ giúp tu đạo. Các vị phải chú ý ! Chúng ta ăn để mà sống, chứ không phải sống để mà ăn. Người sống phải có công với đời, có đức với dân, có lợi ích cho toàn nhân loại. Nếu như vậy thì đời người mới có ý nghĩa, mới có giá trị. Nếu sống để ăn uống, thì chỉ là cục thịt biết đi mà thôi, chẳng có ý nghĩa gì hết.

Trách nhiệm của chúng ta là đem sự lý mà mình minh bạch, đi giáo hóa người chẳng minh bạch sự lý, khiến cho họ được minh bạch. Do đó: ‘’Lấy thiên hạ làm trách nhiệm của mình‘’. Ðể độ người đời, phải có tinh thần người đói là mình đói, người lạnh là mình lạnh, khiến cho chúng sinh lìa khổ được vui.

Khi Nhật Bản xâm chiếm Ðông Bắc Trung Quốc, thì dự bị chiến tranh, khắp nơi tu sửa công trình phòng vệ, khắp nơi bắt làm lao công. Vì công tác trong băng thiên tuyết địa, dân chúng ăn chẳng đủ no, mặc chẳng đủ ấm, bị chết đói, người bị lạnh chết không biết là bao nhiêu, đây tức là tạo kiếp. Lúc đó tôi đang thủ hiếu ở mộ của mẹ tôi, một ngày nọ, có một người thân đến, nói chuyện về đời sống của người lao công rất bi thảm, tôi nghe rồi, liền phát nguyện: ‘’Ngày ăn một bữa, chẳng mặc đồ bông lụa‘’. Gạo và vải còn lại, có thể bố thí cho nghững người chẳng có cơm ăn và áo mặc. Ðây là tâm nguyện của tôi.

Có người nói: ‘’Ngày ăn một bữa không phải là Phật chế‘’. Vì bạn chẳng xem Kinh Bốn Mươi Hai Chương, cho nên mới nghĩ như thế. Trong Kinh có nói: ‘’Ngày ăn một bữa, ngủ dưới gốc cây‘’. Ðây chẳng phải là Phật chế chăng? tôi đọc Kinh Bốn Mươi Hai Chương, cho nên đề xướng ngày ăn một bữa. Sau khi đến nước Mỹ rồi, chủ trương ‘’Ngày ăn một bữa, đêm chẳng ngủ nằm‘’. Phàm là Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni theo tôi tu hành, đều theo đó mà giữ gìn.

Ở Ðông Bắc Trung Quốc, mùa đông lạnh dưới -35°c. Một số người phải mặc đồ da, mới có thể chống lạnh. Vì tôi phát nguyện chẳng mặc vải bông, nên chỉ mặc ba lớp vải thô, tất cũng chẳng mang, chân không đi trên tuyết. Lâu dần tập quán thành tự nhiên, thân cũng chẳng lạnh, chân cũng chẳng đóng băng. Lúc đó, có bản lãnh như thế, cũng có thể nói là kỳ tích.

Có vị sư điệt mới mười sáu tuổi, thấy tôi chân không, ngày ngày đi trên tuyết, chân cũng chẳng đóng băng. Anh ta rất háo kỳ, cũng muốn thử xem. Anh ta chân không đi trên tuyết chưa đến trăm bước thì chịu chẳng được nữa, về nhà nằm trên giường hết nửa năm, không thể hành động gì hết. Bất cứ việc gì, thấy thì dễ mà hành thì khó.

 

Vân hà thiện tu tập niệm giác phần, trạch pháp giác phần, tinh tấn giác phần, hỉ giác phần, y giác phần, định giác phần, xả giác phần, không, vô tướng, vô nguyện?

Làm thế nào khéo tu tập niệm giác phần, trạch pháp giác phần, tinh tấn giác phần, hỉ giác phần, y giác phần, định giác phần, xả giác phần, không, vô tướng, vô nguyện ?

Giảng: Bồ Tát Trí Thủ lại hỏi Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi về vấn đề bảy giác ba không. Bảy giác tức là bảy bồ đề phần. Ba không tức là: Không, vô tướng, vô nguyện. Ðây là nhân của Niết Bàn.

  1. Bồ Tát làm thế nào tu tập niệm giác phần ?
  2. Bồ Tát làm thế nào tu tập trạch pháp giác phần ? Phải tuyển chọn pháp vô lậu, chân lý hai không. Ðừng tuyển chọn pháp hữu lậu, pháp năm uẩn.
  3. Bồ Tát làm thế nào tu tập tinh tấn giác phần ? Phải hướng về Phật đạo tinh tấn, đừng hướng về ngoại đạo tinh tấn.
  4. Bồ Tát làm thế nào tu tập hỷ giác phần ? Hoan hỉ chánh tri chánh kiến của chánh đạo, đừng hoan hỉ tà tri tà kiến của tà đạo.
  5. Bồ Tát làm thế nào tu tập y giác phần ? Tức là khinh an, đoạn trừ phiền não mà sinh căn lành.
  6. Bồ Tát làm thế nào tu tập định giác phần ? Khi tu tập định thì có cảm giác khoái lạc, đây là cảnh giới sơ bộ ngồi thiền.
  7. Bồ Tát làm thế nào tu tập xả giác phần ? Biết đây là thị pháp, kia là phi pháp, sau đó xả bỏ cảnh giới hư vọng không thật.
  8. Bồ Tát làm thế nào tu tập không ? Tất cả đều không, phàm là nhân duyên sinh ra, đều quy về không diệt.
  9. Bồ Tát làm thế nào tu tập vô tướng ? Tất cả đều chẳng có tướng chân thật.
  10. Bồ Tát làm thế nào tu tập vô nguyện ? Chẳng những tướng không, nguyện cũng không. Tóm lại, chẳng có mọi sự chấp trước, thì đạt đến ba không.

 

Vân hà đắc viên mãn đàn ba-la-mật, thi Ba-la-mật, Sạn-đề Ba-la-mật, Tỳ-lê-da Ba-la-mật, Thiền-na Ba-la-mật, Bát-nhã Ba-la-mật, cập dĩ viên mãn từ, bi, hỉ, xả?

Làm thế nào để được viên mãn bố thí Ba la mật, giới Ba la mật, nhẫn nhục Ba la mật, tinh tấn Ba la mật, thiền na Ba la mật, Bát Nhã Ba la mật, và viên mãn từ bi hỉ xả?

Giảng: Bồ Tát Trí Thủ lại hỏi Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi mười vấn đề. Tức cũng là lục độ và bốn tâm vô lượng. Ðây là pháp môn Bồ Tát phải tu.

Bố thí đối trị xan tham. Trì giới đối trị hủy phạm. Nhẫn nhục đối trị sân hận. Tinh tấn đối trị giải đãi. Thiền định đối trị tán loạn. Trí huệ đối trị ngu si. Bồ Tát đối trị với chúng sinh, trước hết phải hành bốn pháp nhiếp (Bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự), khiến cho chúng sinh có hảo cảm. Và dùng từ, bi, hỷ, xả, bốn tâm vô lượng để làm căn bản, mới lợi lạc chúng sinh.

‘’Ðạo cầu nơi chỗ thấp‘’, câu nầy rất là triết lý. Người tu đạo, đừng háo cao vụ viễn, muốn đến trên trời mà tìm đạo, như vậy thì tìm chẳng được. Nay lược giải lục độ, nếu có ai nghe qua rồi, thì đừng ngại nghe lần nữa. Người chưa nghe qua thì phải chú ý nghe. Lục độ tức là pháp căn bản hành Bồ Tát đạo.

  1. Bồ Tát làm thế nào để viên mãn bố thí Ba la mật? Bố thí tiếng Phạn là Đàn, dịch ra là bố thí. Ba la mật là đến bờ kia, từ bờ sinh tử bên nầy, qua dòng sông phiền não, đạt đến bờ Niết Bàn bên kia.

Bố thí có ba:

  1. Tài thí: Tức là dùng tài vật để cứu giúp những người cần, chẳng phải nói bỏ tiền làm chùa mới có công đức. Bố thí phải ba luân thể không, mới gọi là thật bố thí. Ba luân thể không tức là:

– Chẳng có người thí.
– Chẳng có vật thí.
– Chẳng có người nhận.

Tóm lại, bố thí chẳng phải vì danh lợi, chẳng có xí đồ, mới có công đức. Chư Phật Bồ Tát bố thí thì ngoài xả bỏ đất nước vợ con, trong thì xả bỏ đầu não tủy mắt, bố thí hết thảy. Tuy bố thí mà chẳng có tướng bố thí, hành sở vô sự. Ðây là bố thí căn bản, cũng là biểu hiện khó làm mà làm được, khó xả mà xả được. Do đó, có câu:

‘’Hữu tâm vi thiện, tuy thiện bất thường
Vô tâm vi ác, tuy ác bất phạt‘’.

Nghĩa là:
‘’Làm thiện muốn người thấy,
Chẳng phải là chân thiện.
Làm ác sợ người biết,
Thật là đại ác‘’.

‘’Làm thiện chẳng mong đền đáp,
Tự nhiên mộng ẩn thần thanh‘’.

Ðây là những câu khắc vào đá của người tu hành. Ðức Phật xả bỏ vinh hoa phú quý, vợ đẹp con xinh, vào núi tuyết tu khổ hạnh sáu năm, mỗi ngày chỉ ăn một hạt mè, cuối cùng chứng quả thành Phật. Hành vi như thế mới là đại Trượng Phu, đại anh hùng, đại hào kiệt ! Ðây là hành vi hơn người, thành tựu đạo nghiệp, trở thành giáo chủ của Phật giáo.

Bồ Tát hành Bồ Tát đạo, tất cả đều xem là không, là giả, cho nên mới bố thí cho người. Có người cần cái đầu, thì có thể cắt xuống; có người cần con mắt, thì có thể móc ra.

  1. Pháp thí: Tức là giảng Kinh thuyết pháp. Do đó:

‘’Trong các sự cúng dường.
Cúng dường pháp là hơn hết‘’.

Nếu có người muốn minh bạch Phật pháp, muốn tu hành Phật pháp, thì hãy đem hết sự hiểu biết của mình để chỉ dẫn họ, trợ giúp họ, khiến cho họ y pháp tu hành, cho đến thành Phật. Người nầy thành Phật là bạn trợ giúp họ thành Phật. Bạn trợ giúp người khác thành Phật, thì người khác cũng sẽ trợ giúp bạn thành Phật.

Ðây là tự lợi lợi tha, nhưng đừng có tâm niệm như thế, phải phát đại bồ đề tâm, nguyện người người thành Phật.

Tôi ở nước Mỹ đã từng nói: ‘’Tôi đào tạo Phật sống, Bồ Tát sống, Tổ Sư sống. Ai muốn làm Phật sống, Bồ Tát sống, Tổ Sư sống ? Thì mời đến công xưởng của tôi (chùa Kim Sơn). Chẳng màn quá khứ như thế nào ? Ðến chùa Kim Sơn, đừng sợ khổ, đừng sợ gian nan. Chỉ cần cước đạp thật địa, chân thật tu hành, thì nhất định sẽ thành tựu. Ở trong lò đúc lớn, trải qua một phen rèn luyện, thử nhìn xem cứu kính là vật liệu gì, thì tạo thành Phật, Bồ Tát, Tổ Sư đó‘’.

  1. Vô úy thí: Tức là bố thí vô sở úy. Có người phát sinh sợ hãi, như lầm vào vực sâu núi thẳm, như đi trên băng mỏng, trên dưới chẳng yên, cần thiện tri thức để an ủi họ, khuyên họ một lòng một dạ niệm ‘’Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát‘’, như vậy sẽ khiến cho tinh thần tập trung, một lòng mong cầu Bồ Tát bảo hộ, thì chẳng bị cảnh giới sợ hãi làm lay chuyển. Hoặc giảng cho họ nghe nhân quả của Phật giáo, nói về công lý xã hội. Hoặc dạy cho họ ngồi thiền tĩnh tọa, an định tâm của họ, như thế thì họ chẳng có sợ hãi nữa.
  2. Bồ Tát làm thế nào để được viên mãn giới Ba la mật ? Lúc Ðức Phật sắp vào Niết Bàn thì Tôn giả A Nan hỏi Ðức Phật bốn câu hỏi. Trong đó có một câu: ‘’Khi Phật còn ở đời, chúng con nương Phật làm thầy. Sau khi Phật vào Niết Bàn rồi, chúng con nương ai làm thầy‘’? Phật nói: ‘’Hãy lấy giới làm thầy‘’. Cho nên người xuất gia phải thọ giới, phải giữ giới. Giới là ngừa ác phòng quấy, do đó ‘’Ác không ngừng thì thiện không sinh‘’. Tức cũng là đừng làm các điều ác, siêng làm các điều thiện. Pháp môn giữ giới là quan trọng nhất, bất cứ người nào không thể không giữ giới luật. Trừ khi đến được cảnh giới không nghĩ thiện, không nghĩ ác, thì miễn luận bàn. Nên nhớ! Phạm giới thì nhật định đọa địa ngục.

Ở trong Lục Tổ Ðàn Kinh có nói: ‘’Thiền Sư Huệ Minh thỉnh pháp Lục Tổ Ðại Sư. Lục Tổ nói: Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, chính lúc đó bản lai diện mục của thượng tọa như thế nào ? Ông biết chăng‘’ ! Huệ Minh Ðại Sư nghe rồi liền khai ngộ.

  1. Bồ Tát làm thế nào để được viên mãn nhẫn nhục Ba la mật ? Người tu hành phải học nhẫn nhục. Nhẫn khổ, nhẫn vui, nhẫn gió, nhẫn mưa, nhẫn nóng, nhẫn lạnh, tất cả phải nhẫn chịu; không nhẫn được cũng phải nhẫn. Tôi thường nói:

‘’Nhẫn là báu vô giá
Người người xử không tốt.
Nếu hay dùng được nó
Mọi việc đều tốt đẹp‘’.

Câu nầy tuy nông cạn nhưng ý nghĩa rất thâm sâu. Chúng ta đối với pháp cũng phải nhẫn, nghiên cứu Phật pháp, phải có tâm nhẫn nại. Phật pháp thâm sâu như biển cả. Do đó:

‘’Thiên hạ chẳng việc gì khó
Chỉ sợ lòng không bền‘’.

Nếu chuyên tâm nghiên cứu, thì sẽ thâm nhập Kinh tạng, trí huệ như biển, đây là sự thuyết minh tốt nhất.

Nhẫn có nhiều thứ, một số nói, có sinh nhẫn, pháp nhẫn, vô sinh pháp nhẫn, ba thứ. Thọ nhẫn những gì họ khi nhục là sinh nhẫn. Chịu đựng cảnh thiên nhiên là pháp nhẫn. Bồ Tát mới tu đến vô sinh pháp nhẫn, tứ là đoạn, thường, hai kiến chẳng còn; ngã, pháp, hai chấp chẳng sinh. Không thấy chút pháp sinh, không thấy chút pháp diệt, là vô sinh pháp nhẫn.

Trong Kinh Kim Cang có nói: Thuở xưa lúc Ðức Phật làm Nhẫn Nhục Tiên Nhơn, bị vua Ca Lợi chặt thân thể mà chẳng sinh tâm sân hận. Phật là người quá khứ để lại cho chúng ta pháp môn nhẫn nhục vô thượng, chúng ta nên y pháp tu hành. Nhẫn nhục là pháp môn diệu nhất. Ðừng cảm thấy còn khổ hơn là huỳnh liên, phải cảm thấy ngọt hơn là cam lồ, như thế mới có sự thọ dụng. có câu người ta nói:

‘’Một câu nhịn chín câu lành‘’.

Hoặc:
‘’Nhẫn một thời, trăm ngày yên‘’.

Ðây là những kinh nghiệm. Chúng ta hay cung hành thực tiễn, tu chữ nhẫn thì sẽ thành tựu lớn. Trong Kinh Kim Cang có nói:

‘’Tất cả pháp hữu vi,
Như mộng huyễn bọt bóng
Như sương cũng như điện
Hãy nên quán như thế‘’.

Tất cả pháp tức là tất cả sự việc, tức cũng là tất cả cảnh giới. Mỗi ngày thường gặp, đều gọi là tất cả pháp. Lúc đó đối diện với hiện thực, thì sẽ nhận thức sự thật. Cần người để biện việc, chứ không cần việc để biện người. Nhìn xuyên thủng, buông xả được, thì đắc được tự tại. Tôi có một câu diệu pháp, xử dụng ở nước Mỹ, tức là: ‘’Tất cả đều OK‘’, thế nào cũng được, gì cũng đều chẳng có vấn đề, đây tức là nhẫn. Tất cả mọi sự việc trong trời đất đều như mộng, như huyễn, như bọt nước, như hình bóng, như sương, như điện. Nên quán tưởng như thế, thì chẳng còn chấp trước nữa.

Tại sao hay khởi phiền não ? Tức là vì ngu si. Nếu có trí huệ, thì tuyệt đối chẳng khởi phiền não. Phiền não từ trong vô minh, làm thế nào mới không có vô minh ? Thì phải tu giới định huệ, có trí huệ quang minh rồi, thì chiếu phá vô minh đen tối.

Phiền não tức bồ đề, chuyển phiền não qua, tức là bồ đề. Hay dùng được tức là bồ đề, chẳng dùng được tức là phiền não. Ðừng có riêng ngoài phiền não đi tìm bồ đề, bồ đề tức là phiền não. Có người chủ trương đoạn phiền não, tôi chủ trương chẳng cần đoạn phiền não. Tại sao ? Vì phiền não tức bồ đề. Nếu đoạn phiền não thì chẳng phải là đoạn bồ đề chăng ? Ðoạn cái gì ? Có gì để đoạn ? Vốn chẳng cần hướng bên ngoài truy cầu, hồi đầu là bờ. Chỉ cần giác, tức là bồ đề. Nếu mê tức là phiền não.

Phiền não bao quát bồ đề. Bồ đề chẳng biết dùng tức phiền não. Biết dùng phiền não tức bồ đề, dễ như trở bàn tay, đừng có đầu lại thêm đầu, lìa khỏi phiền não đi tìm bồ đề, đó là sai. Phải biết phát bồ đề tâm cũng là người nầy, sinh phiền não cũng là người nầy; thành Phật cũng là người nầy, làm quỷ cũng là người nầy, chứ chẳng phải riêng ngoài đi tìm người. Do đó:

‘’Nếu ai muốn biết rõ
Tất cả Phật ba đời
Hãy quán tánh pháp giới
Tất cả duy tâm tạo‘’.

Nếu như có người muốn minh bạch hết thảy tất cả chư Phật ba đời, thì hãy quán sát tình hình pháp giới, hết thảy tất cả sự vật, đều do tâm của mình tạo ra.

Tâm mình có thể thành Phật, Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn. Tâm mình cũng có thể làm người trời, làm người đời, A Tu La, súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục. Chúng sinh mười pháp giới nầy đều do tâm tạo ra. Có người nói: ‘’Tôi chẳng tin có quỷ‘’, vậy bạn tin có Phật chăng ? Họ nói: ‘’Ðương nhiên là tin có Phật‘’. Nói cho bạn hay, Phật là do quỷ tu mà thành. Cho nên nói tâm mình có thể làm Phật, lại có thể làm quỷ. Cho nên nói: ‘’Tất cả do tâm tạo‘’.

Tại sao Phật phải nói pháp? Vì muốn độ tất cả chúng sinh. Do đó:

‘’Phật nói tất cả pháp
Vì độ tất cả chúng sinh
Nếu chẳng có tất cả chúng sinh
Chẳng dùng tất cả pháp. ’’

Cổ đức có nói: ‘’Vô tâm tức là đạo‘’. Cảnh giới chân chánh vô tâm, là:

‘’Trong quán tâm, tâm chẳng có
Ngoài quán hình, hình chẳng có
Xa quán vật, vật chẳng có.

Cả ba đều không, chỉ thấy không; quán không cũng không, không chẳng chỗ không. Lúc đó hoàn toàn vắng lặng (nhập định), dục niệm có sinh chăng ? Dục niệm chẳng sinh, tức là thật vắng lặng. Ðây bất quá là một cảnh giới nhỏ trong quá trình tu hành mà thôi. Dần dần mới có thể đắc được cảnh giới nhĩ căn viên thông, sáu căn dụng với nhau, tức là sáu căn mỗi căn đều có sáu thứ tác dụng.

Nhẫn nhục được thì trợ giúp cho tinh tấn, thiền định, trí huệ. Trong Kinh Pháp Hoa có nói: Bồ Tát Thường Bất Khinh thấy người thì lễ lạy, miệng còn nói: Tôi không dám khinh các vị, các vị đều sẽ thành Phật. Tuy nhiên lễ lạy người, song, Tỳ Kheo tăng thượng mạn đánh Ngài, mắng Ngài, Ngài cũng chẳng thay đổi. Ở nơi xa xa đảnh lễ họ, còn nói: Tôi chẳng dám khinh các vị, các vị đều sẽ thành Phật. Tỳ Kheo tăng thượng mạn muốn đánh Ngài thì Ngài đứng dậy chạy‘’. Chúng ta tu hành pháp môn nhẫn nhục, thì phải học Ðức Phật bị chặt thân thể, mà chẳng sinh tâm sân hận. Bồ Tát Thường Bất Khinh bị đánh, bị mắng, cũng chẳng sinh tâm sân hận, đó đều là mô phạm tốt nhất.

  1. Bồ Tát làm thế nào để được viên mãn tinh tấn Ba la mật ? Tinh tấn tức là chẳng giải đãi. Có người biết tinh tấn là tốt mà vẫn giải đãi. Biết thời gian quý báu nhưng chẳng thương tiếc, đây là biết rõ mà cố phạm. Người xưa nói:

‘’Một tấc thời gian một tấc vàng,
Tấc vàng khó mua tấc thời gian‘’.

Lại nói:
‘’Mất đi tấc vàng dễ được lại
Thời gian qua rồi khó tìm lại‘’.

Ðây là những lời nói khuyên chúng ta khắc phục sự giải đãi. Lại nói:

’’Một tấc thời gian, một mạng sống‘’.

Ðể một tấc thời gian trôi qua lãng phí, thì giảm đi một tấc mạng sống. Thơ xưa có nói:

‘’Ðừng đợi đến già mới học đạo
Mồ hoang đầy dẫy bọn trẻ măng‘’.

Ðừng đợi đến già mới học Phật, các bạn hãy nhìn xem những người ở ngoài nghĩa địa đều là những trẻ con. Ðời người vô thường, chẳng biết lúc nào thì sẽ kết thúc mạng sống, cho nên phải kịp thời học Phật. Hôm nay biết Phật pháp, thì hôm nay học Phật Pháp, không thể đợi đến ngày mai. Ngày mai ! Ngày mai ! Vĩnh viễn có ngày mai. Ðợi đến lúc chết thì cũng không thể học Phật pháp, thật đáng thương xót !

Tinh tấn phải thân tinh tấn, tâm tinh tấn, ngày đêm sáu thời thường tinh tấn. Ðức Phật trong quá khứ đứng ở trước Phật bảy ngày bảy đêm, mắt chẳng tạm rời, chiêm ngưỡng Phật, đó mới là chân tinh tấn. Bồ Tát Dược Vương đốt cánh tay để cúng dường Phật, biểu thị sự thành tâm, đó mới là chân tinh tấn. Chư Phật Bồ Tát quá khứ vì cầu đạo nghiệp mà bố thí tánh mạng, đó là biểu hiện sự tinh tấn. Ai ai cũng có tánh lười biếng, cho nên phải dùng tinh tấn để khắc phục, dũng mãnh hướng về trước, không thể thối lùi về sau. Học Phật pháp như thuyền đi ngược dòng, chẳng tiến thì lùi. Trước kia quy cụ trong tùng lâm là: ‘’Ðông tham hạ học‘’. Nghĩa là: ‘’Mùa đông tham thiền, mùa hè thì học‘’. Vì mùa đông trời lạnh, cho nên phải ngồi thiền, vì quá lạnh nên không thể ngủ nhiều. Vì hè trời nóng, cho nên phải giảng Kinh thuyết pháp. Chùa Kim Sơn ở nước Mỹ, bất cứ xuân hạ thu đông bốn mùa đều phải tinh tấn, chẳng có nghỉ ngơi.

  1. Bồ Tát làm thế nào để được viên mãn thiền na Ba la mật ? Thiền na dịch là tư duy tu, lại dịch là tĩnh lự. Do đó có câu:

‘’Vọng tưởng không sinh là thiền
Ngồi thấy bản tánh là định‘’.

Ngồi thiền là đuổi vọng tưởng đi, ngồi lâu dần thì mới có thiền. Cổ đức nói: ‘’Ngồi lâu có thiền ! Ngồi thiền chẳng sợ lưng ê, chẳng sợ chân đau, bất cứ đau như thế nào cũng phải nhẫn; đập phá cửa ải đau, thì chẳng còn đau nữa.

Ngồi thiền sẽ có đủ thứ cảnh giới đến nhiễu loạn, nhưng đừng sợ cảnh giới, phải hàng phục cảnh giới. Ví như đang ngồi thiền, thì có con cọp muốn ăn thịt người sống, làm cho bạn hồn bay phách tán lên chín tầng mây, đứng dậy chạy. Kết quả chẳng biết con cọp đi về đâu. Tất cả do tâm tạo, tâm định thì tự nhiên chẳng có cảnh giới. Cọp đến cũng đừng chạy. Nó sẽ không ăn bạn. Tại sao ? Vì cảnh giới này là khảo nghiệm định lực của bạn có đủ hay chăng. Ðến thử nghiệm công phu tham thiền của bạn đến trình độ nào ? Tóm lại, bất cứ cảnh giới gì, tốt cũng mặc kệ, xấu cũng mặc kệ, đừng động tâm thì tất cả ma chướng sẽ biến mất, sẽ hàng phục được tất cả trận ma.

Phương pháp ngồi thiền, nay lược nói sơ qua. Kỳ thật ngồi thiền chẳng có diệu pháp gì, tức là ngồi ngay ngắn, ngồi kiết già. Tư thế nầy chẳng dễ gì hôn trầm, trạo cử, còn có thể hàng ma, cho nên gọi là tư thế ngồi kim cang. Vì kiên cố cho nên chẳng dễ gì nghiêng ngã. Lúc ngồi thì mắt quán mũi, mũi quán miệng, miệng quán tâm. Lúc nầy lưỡi uống lên phía trên, có nước dãi thì nuốt vào, sẽ rất bổ ích cho cơ thể. Tại sao phải dùng phương pháp nầy ? Vì có thể điều hơi điều máu. Khí huyết điều hòa thì trăm bệnh chẳng sinh.

Công năng ngồi thiền có thể giảm bớt thời gian ngủ, ngủ bình thường cần tám tiếng, ngồi thiền chỉ cần bốn tiếng là đủ, mà tinh lực sung mãn, tinh thần sản khoái. Ngồi thiền có sự lợi ích không thể nghĩ bàn, cho nên tại xứ Mỹ tôi cực lực đề xướng pháp môn nầy.

Tổ thứ mười ở Ấn Ðộ tôn giả Hiếp, Ngài một đời lưng chẳng đụng chiếu, tức cũng là ngủ ngồi chứ không nằm. Lịch đại Tổ Sư đều ngủ ngồi, cho nên có đại thành tựu. Ngủ ngồi lâu dần sẽ thành tập quán, chẳng còn cảm thấy khổ sở nữa, ngược lại cảm thấy sản khoái. Do đó: ‘’Tập quán thành tự nhiên‘’. Nếu như tâm chẳng thường hằng, một ngày nóng, mười ngày lạnh, thì đương nhiên chẳng có sự thành tựu. Phải có tâm nhẫn nại, mới có sự thành tựu.

  1. Bồ Tát làm thế nào để viên mãn Bát Nhã Ba la mật ? Bát Nhã dịch là trí huệ. Tại sao chẳng dịch ra ? vì có năm quy định chẳng dịch:
  2. Tôn trọng không dịch: Như Bát Nhã, Bồ Ðề v.v…
  3. Ða hàm không dịch: Như Bát Nhã, Tỳ Kheo v.v…
  4. Thuận cổ không dịch: Như A Nậu Ða La Tam Miệu Tam Bồ Ðề .v.v…
  5. Bí Mật không dịch: Như Chú ngữ.
  6. Thử phương vô không dịch: Như Cây Diêm Phù Ðề, quả Am ma la .v.v…

Bát Nhã có ba nghĩa:

  1. Bát Nhã văn tự: Tức là văn tự Kinh điển. Dùng văn tự để nói rõ đạo lý quán chiếu và thực tướng.
  2. Quán chiếu Bát Nhã: Có văn tự Kinh điển rồi, phải quán sát phải chiếu rõ, mới thấu hiểu chân thật nghĩa.
  3. Thật tướng Bát Nhã: Thấu hiểu chân lý rồi mới biết các pháp thật tướng, tức cũng là vô tướng, vô tướng vô sở bất tướng. Tóm lại, vì có văn tự nên khởi quán chiếu, có quán chiếu rồi mới chứng nhập thật tướng. Cho nên nói văn tự là công cụ, quán chiếu là thủ đoạn, thật tướng là mục đích. Cả ba hợp lại làm một thể.

Có bộ Kinh Ðại Bát Nhã, có sáu trăm quyển. Bộ Kinh nầy do Ðại Sư Ðường Huyền Trang mang từ Ấn Ðộ về. Ðại sư Huyền Trang vào lúc 59 tuổi thì bắt đầu phiên dịch bộ Kinh nầy, trải qua bốn năm mới dịch xong. Vào ngày 5 tháng 2 vào lúc nửa đêm Ðại Sư viên tịch thọ 63 tuổi, bộ Kinh nầy là bộ Kinh Ngài dịch cuối cùng. Ngài dịch khoảng 74 bộ, tổng cộng có 1335 quyển, trở thành một trong bốn nhà dịch Kinh lớn của Trung Quốc.

  1. Bồ Tát làm thế nào để được viên mãn từ ? Từ là ban vui cho tất cả chúng sinh. Vì chúng sinh mà mưu phước lợi, tức là vô duyên đại từ. Chúng sinh chẳng có duyên cũng ban vui cho họ.
  2. Bồ Tát làm thế nào để viên mãn bi ? Là cứu những thống khổ của chúng sinh. Phải vì chúng sinh giải quyết khó khăn, tức là đồng thể đại bi, chẳng có kẻ oán người thân, xem như nhau. Phải có tư tưởng đồng cam cộng khổ với chúng sinh.
  3. Bồ Tát làm thế nào để được viên mãn hỉ ? Thấy chúng sinh có được may mắn và vui vẻ thì sinh tâm hoan hỉ, chẳng có vui tai mừng họa, cũng chẳng có tâm đố kị, chỉ có tâm vui vẻ, đó mới là hành vi của Bồ Tát.
  4. Bồ Tát làm thế nào để được viên mãn xả ? Xả bỏ từ, bi, hỉ, ba tâm, chẳng có tâm oán thân bình đẳng, cũng chẳng có tình cảm thương ghét. Tất cả đều chẳng chấp trước tướng, chẳng có tư tưởng xí đồ, do đó: ‘’Thi ân bất cầu báo‘’. Ðây đều là biểu hiện của xả.

 

Vân hà đắc xứ phi xứ trí lực, qua vị hiện tại nghiệp báo trí lực, căn thắng liệt trí lực, chủng chủng giới trí lực, chủng chủng giải trí lực, nhất thiết chí xứ đạo trí lực, Thiền giải thoát tam muội nhiễm tịnh trí lực, tú trụ niệm trí lực, vô chướng ngại Thiên nhãn trí lực, đoạn chư tập trí lực?

Làm thế nào để được trí lực phi xứ. Trí lực quá khứ, vị lai, hiện tại nghiệp báo. Trí lực căn thắng liệt. Trí lực đủ thứ giới. Trí lực đủ thứ giải. Trí lực nhất thiết chí xứ đạo. Trí lực thiền giải thoát tam muội nhiễm tịnh. Trí lực túc trụ niệm. Trí lực vô chướng ngại thiên nhãn. Trí lực đoạn các tập ?

Giảng: Bồ Tát Trí Thủ lại hỏi Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi mười vấn đề, làm thế nào để được mười trí huệ lực của Phật ?

  1. Làm thế nào để được trí huệ lực, biết sự vật là hợp lý hay không hợp lý ?
  2. Làm thế nào để được trí huệ lực, biết quá khứ vị lai hiện tại ba đời nghiệp báo ?
  3. Làm thế nào để được trí huệ lực, biết căn tánh của chúng sinh là thắng hay liệt ?
  4. Làm thế nào để được trí huệ lực, biết đủ thứ cõi chúng sinh thế gian chẳng giống nhau ?
  5. Làm thế nào để được trí huệ lực, biết đủ thứ hiểu biết (tri giải) của tất cả chúng sinh ?
  6. Làm thế nào để được trí huệ lực, biết hành năm giới mười thiện, bốn đế, tám chánh đạo ?
  7. Làm thế nào để được trí huệ lực, biết tất cả thiền định, tám giải thoát và tam muội nhiễm tịnh ?
  8. Làm thế nào để được trí huệ lực, biết việc túc mạng quá khứ của tất cả chúng sinh ?
  9. Làm thế nào để được trí huệ lực, biết dùng thiên nhãn quán sát chúng sinh, sinh tử và nghiệp thiện ác chẳng chướng ngại ?
  10. Làm thế nào để được trí huệ lực, biết vĩnh viễn đoạn tất cả tập dư vọng hoặc ?

 

Vân hà thường đắc Thiên Vương, long Vương, dạ xoa Vương, càn thát bà vương, A-tu-la Vương, Ca Lâu La Vương, khẩn-na-la Vương, Ma hầu la già Vương, nhân Vương, Phạm Vương chi sở thủ hộ, cung kính cúng dường?

Làm thế nào thường được Thiên Vương, Long Vương, Dạ Xoa Vương, Càn Thát Bà Vương, A Tu La Vương, Ca Lâu La Vương, Khẩn Na La Vương, Ma Hầu La Vương, Nhân Vương, Phạm Vương, bảo hộ và cung kính cúng dường?

Giảng: Bồ Tát Trí Thủ lại hỏi Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, làm thế nào thường được mười ông vua bảo hộ, cung kính, cúng dường ?

  1. Thiên vương: Là chỉ Tứ Thiên Vương mà nói. Các vị đó ở bốn hướng giữa núi Tu Di để bảo vệ chư thiên, quản lý các quỷ, cũng là hộ pháp thiện thần. Phương đông là Trì Quốc Thiên Vương trấn thủ, quản lý Càn Thát Bà và Tỳ Xá Già, bảo hộ người ở Ðông Thắng Thần Châu an toàn. Phương nam là Tăng Trưởng Thiên Vương trấn thủ, quản lý rồng và Phú Ðơn Na, bảo hộ người ở Tây Ngưu Hoá Châu an toàn. Phương bắc là Ða Văn Thiên Vương trấn thủ, quản lý Dạ Xoa và La Sát, bảo hộ người ở bắc Câu Lư Châu an toàn.
  2. Long Vương: Có Tượng Long vương, Xà Long Vương, Mã Long Vương, Ngư Long Vương .v.v… Tuy là súc sinh, nhưng có thần thông, hay bảo vệ cung điện trời. Nổi mây mưa xuống, bảo hộ Phật pháp. Lúc xưa tu hành thì họ hoan hỉ tu pháp đại thừa, cho nên có thần thông, nhưng chẳng giữ giới, nên làm súc sinh.
  3. Dạ Xoa Vương: Dịch là tiệp tật, khi đi thì đi rất nhanh. Gồm có thiên hành Dạ Xoa, không hành Dạ Xoa, địa hành Dạ Xoa. Chúng ăn nuốt loài sống. Sau khi quy y Phật pháp rồi trở thành Thiện Thần hộ pháp. Bồ Tát thường thị hiện ra loài nầy để làm vua của chúng, lãnh đạo chúng làm việc thiện, bảo hộ những người tu hành thân tâm khoẻ mạnh, chẳng bị thiên ma ngoại đạo nhiễu loạn để an tâm tu tập Phật pháp.
  4. Càn Thát Bà Vương: Dịch là hương thần, dùng hương làm thức ăn, nên thân tỏa hương thơm. Chúng chuyên tìm đến chỗ có hương, để vì người làm vui mà kiếm ăn. Còn gọi là nhạc thần, diễn tấu âm nhạc cho Trời Ðế Thích. Khi Trời Ðế Thích muốn nghe âm nhạc, bèn đốt hương chiên đàn lên, thì chúng ngửi hương mà đến.
  5. A Tu La Vương: Dịch là phi Thiên, tuy có phước trời mà chẳng có đức trời. Hóa sinh thì làm vương, thai sinh thì làm thần, noãn sinh thì làm dân, thấp sinh thì làm nô lệ. A Tu La Vương tay có thể lay động núi Tu Di, làm cho cung điện Trời Ðế Thích giao động chẳng an. Cung điện của A Tu La Vương ở dưới núi Kim Cang. Mỗi ngày có ba thời phải thọ uy hiếp đủ sự khổ, đao, thương, kiếm, kích, từ trong không rơi xuống, vì nghiệp chiêu cảm. Nếu không tránh thì thọ nạn sát vương.
  6. Ca Lâu La Vương: Dịch là Ðại Bàng Kim Sí Ðiểu (chim đại bàng cánh vàng). Cánh của nó xè ra dài khoảng ba trăm sáu mươi do tuần (một do tuần tám mươi dặm). Chúng ăn rồng để sống, mỗi ngày ăn một con rồng lớn, năm trăm rồng nhỏ. Lúc sắp chết thì rồng phun khí độc, chẳng được thức ăn, chết ở trên đỉnh núi Kim Luân, tự thiêu thân. Chỉ có quả tim chẳng cháy, biến thành bảo châu, cũng là châu như ý.
  7. Khẩn Na La Vương: Dịch là nghi thần. Vì đầu mọc ra một sừng, hình tựa như người, diện mạo xinh đẹp, khiến cho người sinh nghi. Chúng khéo về tấu pháp khúc trang nghiêm, cũng là nhạc thần của Ðế Thích. Khi Trời Ðao Lợi Thiện Pháp Ðường có pháp hội thì nách ra mồ hôi, biết mình sẽ đi đến để diễn xướng ca khúc.
  8. Ma Hầu La Già Vương: Dịch là đại phục hành, tức là mãng xà. Còn gọi là địa long. Chúng chẳng có thần thông, vì tâm đố kỵ quá nặng, thường phun độc hại người. Tuy hại người, nhưng sau khi thọ sự cảm hóa của Phật pháp rồi, trở thành hộ pháp thiện thần.
  9. Nhân Vương: Tức là ông vua. Ông vua thời xưa đa số có công với nước, có đức với dân. Mưa gió điều hòa, quốc thái dân an. Ông vua làm viêc nhân nghĩa chứ không làm bá đạo, cho nên nhân dân an cư lạc nghiệp.
  10. Phạm vương: Tức là Ðại Phạm Thiên Vương. Tên của ông ta là Thi Khí, tin sâu chánh pháp. Mỗi lần gặp Phật mới xuất hiện ra đời, thì ông ta trước hết đến thỉnh pháp. Ông ta có uy đáng sợ, có nghi đáng ngưỡng, cho nên làm Phạm Vương.

Người tu hành phải giữ giới luật, phải có định lực, phải có trí huệ. Nếu giới định huệ viên mãn, thì mười vương ở trên sẽ đến bảo hộ, cung kính, cúng dường, bằng không, thì mười vương chẳng ủng hộ bạn. Cho nên phải đầy đủ mới có lợi ích.

 

Vân hà đắc dữ nhất thiết chúng sanh vi y, vi cứu, vi quy, vi thú, vi cự, vi minh, vi chiếu, vi đạo, vi thắng đạo, vi phổ đạo? Vân hà ư nhất thiết chúng sanh trung?

Làm thế nào để được chỗ nương tựa, cứu hộ, quy y, hướng về, đuốc sáng, đèn sáng, chiếu soi, dẫn đạo, thắng đạo, phổ đạo, của tất cả chúng sinh?

Giảng: Bồ Tát Trí Thủ lại hỏi Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi mười vấn đề, làm thế nào để lợi ích chúng sinh ?

  1. Làm thế nào mới có thể làm chỗ nương tựa và ký thác của tất cả chúng sinh ?
  2. Làm thế nào mới có thể cứu được tất cả chúng sinh thoát khỏi ba đường ác ?
  3. Làm thế nào có thể khiến cho tất cả chúng sinh quy y Tam Bảo .
  4. Làm thế nào khiến cho tất cả chúng sinh hướng về Phật đạo, ra khỏi ba cõi ?
  5. Làm thế nào làm đuốc sáng, chiếu phá đen tối cho tất cả chúng sinh ?
  6. Làm thế nào làm đèn sáng mở bày bến mê cho tất cả chúng sinh ?
  7. Làm thế nào khiến cho quang minh chiếu sáng khắp, làm mắt cho tất cả chúng sinh ?
  8. Làm thế nào dẫn dắt tất cả chúng sinh hướng về Phật đạo, dũng mãnh tinh tấn ?
  9. Làm thế nào làm Đạo Sư thù thắng nhất, chỉ đạo chánh pháp cho tất cả chúng sinh ?
  10. Làm thế nào mới làm đại Đạo Sư, Đạo Sư của trời người phổ khắp tất cả chúng sinh ?

 

Vi đệ nhất, vi Đại, vi thắng, vi tối thắng, vi diệu, vi cực diệu, vi thượng, vi vô thượng, vi vô đẳng, vi vô đẳng đẳng?

Làm thế nào là đệ nhất, là lớn, là thắng, là tối thắng, là diệu, là cực diệu, là thượng, là vô thượng, là vô đẳng, là vô đẳng đẳng, ở trong tất cả chúng sinh ?

Giảng: Bồ Tát Trí Thủ lại hỏi Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi mười vấn đề, làm thế nào để có thể siêu thắng tôn quý ?

  1. Làm thế nào để được đệ nhất ở trong tất cả chúng sinh ? Ðệ nhất tức là Phật. Vì công đức viên mãn, tất cả chẳng thiếu khuyết, cho nên là đệ nhất.
  2. Làm thế nào tu được lớn ở trong tất cả chúng sinh? Thể của Phật là lớn, tận hư không khắp pháp giới.
  3. Làm thế nào để tu được thắng ở trong tất cả chúng sinh ? Công đức của Phật là thù thắng, siêu hơn hết thảy mọi người. ‘’Tự lợi viên mãn‘’ là thắng, cũng có thể nói là đắc được thắng lợi.
  4. Làm thế nào để được tối thắng ở trong tất cả chúng sinh ? Cảnh giới của Phật là tối thắng nhất, chẳng có ai có thể sánh bằng, ‘’Lợi tha viên mãn‘’ là tối thắng.
  5. Làm thế nào để tu được diệu ở trong tất cả chúng sinh? Ðoạn sạch phiền não chướng là diệu. Phiền não hay chướng ngại chứng Niết Bàn.
  6. Làm thế nào để tu được cực diệu ở trong tất cả chúng sinh ? Ðoạn sạch sở tri chướng là cực diệu, sở tri hay chướng ngại chứng bồ đề.
  7. Làm thế nào để tu được thượng ở trong tất cả chúng sinh ? Tức là cao thượng, chẳng còn ai trên hơn mình.
  8. Làm thế nào để tu được vô thượng ở trong tất cả chúng sinh ? Chẳng có ai cao thượng hơn bạn.
  9. Làm thế nào để tu được vô đẳng ở trong tất cả chúng sinh ? Chẳng có ai so sánh với bạn, đồng với bạn.
  10. Làm thế nào để tu được vô đẳng đẳng ở trong tất cả chúng sinh ? Chẳng những một người không thể sánh với bạn, mà dù hết thảy mọi người cũng đều không thể sánh với bạn. Ðến được trình độ nầy thì viên thành quả vị Phật.

 

Nhĩ thời, Văn-thù-sư-lợi Bồ Tát cáo trí thủ Bồ Tát ngôn: Thiện tai! Phật tử! nhữ kim vi dục đa sở nhiêu ích, đa sở an ổn, ai mẩn thế gian, lợi lạc Thiên Nhân, vấn như thị nghĩa.

Bấy giờ, Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi nói với Bồ Tát Trí Thủ rằng: Lành thay Phật tử ! Nay ông vì muốn được nhiều lợi ích, nhiều sự an ổn, thương xót thế gian, lợi lạc trời người, nên hỏi nghĩa nầy.

Giảng: Lúc đó, Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi trả lời ngững vấn đề mà Bồ Tát Trí Thủ đã hỏi, bèn nói: ‘’Lành thay ! Phật tử ! Hiện tại Ngài muốn lợi ích tất cả chúng sinh, khiến cho họ đều đắc được lợi ích, an lạc. Ngài rất từ bi thương xót tất cả chúng sinh thế gian, lợi lạc người trên trời và người ở nhân gian. Ngài đại biểu cho đại chúng để hỏi những nghĩa lý nầy‘’.

 

Phật tử! nhược chư Bồ-tát thiện dụng kỳ tâm, tức hoạch nhất Thiết thắng diệu công đức; ư chư Phật Pháp, tâm vô sở ngại, trụ khứ, lai, kim chư Phật chi đạo; tùy chúng sanh trụ, hằng bất xả ly; như chư Pháp tướng, tất năng thông đạt; đoạn nhất thiết ác, cụ túc chúng thiện; đương như Phổ Hiền, sắc tượng đệ nhất, nhất thiết hành nguyện giai đắc cụ túc; ư nhất thiết Pháp, vô bất tự tại, nhi vi chúng sanh đệ nhị Đạo sư.

Phật tử ! Nếu các Bồ Tát khéo dụng tâm, thì sẽ hoạch được tất cả công đức thù thắng vi diệu. Nơi các Phật pháp tâm chẳng chướng ngại. Trụ ở đạo của chư Phật quá khứ hiện tại và vị lai. Tùy thuận chúng sinh mà trụ, luôn luôn không xa lìa. Như các pháp thật tướng, thảy đều thông đạt. Ðoạn trừ tất cả điều ác, đầy đủ các điều lành, sẽ giống như sắc tượng bậc nhật của Bồ Tát Phổ Hiền. Tất cả hạnh nguyện đều được đầy đủ. Nơi tất cả pháp thảy đều tự tại, mà làm Đạo Sư thứ hai của chúng sinh.

Giảng: Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi lại gọi một tiếng Phật tử ! Nếu tất cả Bồ Tát khéo léo vận dụng tâm, phát nguyện rộng lớn, thì sẽ hoạch được tất cả công đức thù thắng vi diệu. Ðối với hết thảy pháp của chư Phật, trong tâm chẳng có chướng ngại. Do đó:

‘’Vào sâu tạng Kinh, trí huệ như biển‘’.

Trụ ở thượng đạo chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại tu, thường tùy thuận tất cả chúng sinh mà trụ, thường chẳng xa lìa tất cả chúng sinh. Gống như đạo lý các pháp thật tướng, hoàn toàn thấu hiểu mà thông đạt. Minh bạch tất cả Phật pháp thì y pháp tu hành. Y pháp tu hành thì đoạn tuyệt tất các điều ác, đầy đủ tất cả điều lành.

Tu hành như thế nào ? Do đó:
‘’Tâm bình thường là đạo‘’.

Mỗi cử chỉ, hành động, lời nói, đều phải hòa bình, đừng sinh phiền não. Phải phát tâm bồ đề, phải có tâm lâu dài, như vậy thì sẽ thành tựu. Do đó:

‘’Phiền não tức bồ đề
Sinh tử tức Niết Bàn‘’.

Nếu chuyển được phiền não thì là bồ đề. Bất cứ là người xuất gia, hoặc tại gia, khi tu hành thì phải nhận thức cảnh giới, mới nhẫn nại được. Cảnh giới thuận cũng đừng sinh tâm hoan hỉ, cảnh giới nghịch cũng đừng sinh tâm phiền não. Như thế thì phiền não sẽ biến thành bồ đề. Sinh tử tức Niết Bàn, cũng là đạo lý như thế. Chấp trước tức là sinh tử, chẳng chấp trước tức là Niết Bàn. Sinh tử thì khổ, Niết Bàn thì vui. Ðạo lý nầy ai ai cũng biết, song, chẳng ai tu hành. Chẳng tu hành thì làm sao được lìa khổ được vui ? Biết bờ nầy là khổ, bờ kia là vui, song, chẳng mượn pháp qua sông phiền não. Chỉ đứng bờ bên nầy mà nhìn bờ bên kia, như thế thì một chút lợi ích cũng chẳng có. Phải cước đạp thật địa mà tu hành, ngồi thuyền pháp bảo, bình an đến bờ Niết Bàn, hưởng thụ sự thanh lương của Thường Lạc Ngã Tịnh.

Bồ Tát ban đầu phát tâm, thì sẽ giống như sắc tượng của Bồ Tát Phổ Hiền. Sắc tượng của Bồ Tát Phổ Hiền là bậc nhất. Hết thảy tất cả hạnh nguyện đều đắc được đầy đủ viên mãn. Ở trong tất cả pháp thảy đều tự tại. Tức cũng là toại tâm như ý, muốn gì được nấy, làm đại Đạo Sư thứ hai của chúng sinh.

 

Phật tử! vân hà dụng tâm năng hoạch nhất Thiết thắng diệu công đức?

Phật tử ! Dụng tâm như thế nào, để đắc được tất cả công đức thù thắng vi diệu?

Giảng: Bồ Tát Văn Thù lại gọi một tiếng ! Phật tử ! Muốn biết dụng tâm như thế nào, để hoạch được tất cả công đức thù thắng vi diệu ?

Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi sợ rằng đại chúng trong pháp hội chẳng chú ý nghe, cho nên lại gọi một tiếng, các vị Phật tử ! xin các vị hãy tụ tinh hội thần để lắng nghe, không thể ngủ gục. Ðây là cơ hội ngàn năm khó gặp, đùng để trôi qua lãng phí. Ở dưới đây một bài nguyện bốn câu.

Tại gia có mười một nguyện. Xuất gia thọ giới có mười lăm nguyện. Khi ngồi thiền có bảy nguyện. Khi đi đường có bảy nguyện. Khi tắm rửa có bảy nguyện. Khi khất thực hành đạo có năm mươi lăm nguyện. Khi đến thành khất thực có hai mươi hai nguyện. Khi trở về tắm rửa có năm nguyện. Khi tập tụng toàn thể có mười nguyện. Khi ngủ có ba nguyện. Tổng cộng có một trăm bốn mươi mốt nguyện. Ðây là nguyện người xuất gia phải phát, cũng là giới luật phải giữ.

 

Bồ Tát tại gia Bồ Tát tại nhà
Đương nguyện chúng sanh Xin nguyện chúng sinh
Tri gia tánh không Biết nhà tánh không
Miễn kỳ bức bách Khỏi bị bức bách.

Bồ Tát tại nhà, nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, đều thấu rõ tánh của nhà ở vốn là không. Nếu hay quán tưởng như thế thì chẳng bị nhà bức bách. Tất cả cứu kính đều là không. Minh bạch đạo lý nầy thì chẳng sinh phiền não, cũng chẳng vướng vào hằng ngày bận rộn, vì danh lợi bôn ba.

 

Hiếu sự phụ mẫu, Hiếu thuận cha mẹ
Đương nguyện chúng sanh Xin nguyện chúng sinh
Thiện sự ư Phật, Cúng dường đến Phật
Hộ dưỡng nhất thiết. Hộ dưỡng tất cả.

Bồ Tát tại gia, khi hiếu thuận phụng dưỡng cha mẹ thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, cúng dường đến Phật (cha me như Phật sống). Hộ dưỡng cha mẹ, giống như cúng dường chư Phật.

 

Thê tử tập hội, Vợ con hội họp
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Oán thân bình đẳng, Oán thân bình đẳng
Vĩnh ly tham trước. Vĩnh lìa tham trước.

Bồ Tát tại gia, khi hội họp với vợ con, thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, oán thân đều bình đẳng. Ðối đãi người thù như người thân, lấy đức báo oán, như thế thì hòa bình với nhau, vĩnh viễn lìa khỏi tham dục, chẳng có chấp trước.

 

Nhược đắc ngũ dục, Nếu được năm dục
Đương nguyện chúng sanh Xin nguyện chúng sinh
Bạt trừ dục tiến, Dứt trừ tên dục
Cứu cánh an ổn. Rốt ráo an ổn.

Bồ Tát tại gia, nếu như được năm dục (tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn ngon, ngủ kỹ) thì nên pháp nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh dứt trừ mũi tên năm dục, đắc được khoái lạc rốc ráo an ổn. Cổ đức nói:
‘’Tài sắc danh thực thùy
Địa ngục ngũ điều căn‘’.

Người tham tài, người tham sắc, người tham ngủ, đều sẽ đi vào địa ngục. Nếu chẳng muốn đi vào địa ngục, thì phài dùng kiếm trí huệ chặt đứt gốc năm dục. Ðây là biện pháp cứu kính nhất.

 

Kĩ nhạc tụ hội, Tụ họp ca nhạc
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Dĩ pháp tự ngu, Lấy pháp làm vui
Liễu kĩ phi thật. Biết nhạc chẳng thật.

Bồ Tát tại gia, nếu đến chỗ tụ hội ca hát nhảy múa, hoặc chỗ diễn tấu âm nhạc, thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh dùng Phật pháp để làm vui. Mỗi ngày lạy Phật tụng Kinh mới là khoái lạc chân chánh. Phải biết sự ca hát nhảy múa là khoái lạc tạm thời, chẳng thật tại.

 

Nhược tại cung thất, Nếu ở hoàng cung
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Nhập ư thánh địa, Vào nơi Thánh địa
Vĩnh trừ uế dục. Vĩnh trừ uế dục.

Bồ Tát tại gia, nếu như ở trong cung điện của vua, hoặc ở nhà bình dân, thì nên nguyện. Xin nguyện chúng sinh, đều nhập vào chỗ Thánh nhân ở, vĩnh viển trừ khử tư tưởng và tâm dục chẳng chánh đáng.

 

Trước anh lạc thời, Khi đeo anh lạc
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Xả chư ngụy sức, Bỏ các đồ giả
Đáo chân thật xứ. Đến nơi chân thật.

Bồ Tát tại gia, khi đeo anh lạc (chuỗi đeo, làm bằng bảy báu), thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, xả bỏ tất cả đồ nữ trang giả chẳng thật, mà đến nơi chân thật.

 

Thượng thăng lâu các, Đi lên lầu các
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Thăng chánh pháp lâu, Lên lầu chánh pháp
Triệt kiến nhất thiết. Thấu triệt tất cả.

Bồ Tát tại gia, khi đi lên lầu các, thì nên phát nguyện. Xin nguyện chúng sinh, lên lầu các chánh pháp, thấu triệt tất cả chánh pháp, tức cũng là Phật pháp.

 

Nhược hữu sở thí, Nếu có bố thí
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Nhất thiết năng xả, Xả được tất cả
Tâm vô ái trước. Tâm chẳng tham chấp.

Bồ Tát tại gia, nếu như khi có sự bố thí, thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, tất cả đều xả được, không thể xả cũng phải xả. Hay bố thí như thế, thì trong tâm chẳng tham ái và chấp trước.

 

Chúng hội tụ tập, Tụ tập chúng hội
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Xả chúng tụ Pháp, Xả các pháp tụ
Thành nhất thiết trí. Thành Nhất thiết trí.

Bồ Tát tại gia, khi đại chúng tụ lại một chỗ, thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, xả bỏ tất cả pháp tụ tập, chẳng chấp trước nơi pháp, thì sẽ thành tựu Nhất thiết trí.

 

Nhược tại ách nạn, Nếu tại hiểm nạn
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Tùy ý tự tại, Tùy ý tự tại
Sở hạnh vô ngại. Sở thành vô ngại.

Bồ Tát tại gia, nếu lúc gặp hiểm nạn, thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, toại tâm như ý, được đại tự tại, chẳng có tai nạn, làm gì cũng đều chẳng có chướng ngại. Vì mình gặp nạn, cho nên nguyện chúng sinh đừng có hiểm nạn, đây tức là phát tâm bồ đề.

Hai mươi mốt nguyện ở trên là Bồ Tát tại gia phát nguyện. Vì lợi ích tất cả chúng sinh mà phát nguyện, đây tức là đại bi tâm, phải có tư tưởng thương trời xót người. Người xuất gia càng phải có tâm thương xót, do đó có câu:

‘’Từ bi là gốc, phương tiện là cửa‘’.

 

Xả cư gia thời, Khi bỏ tục gia
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Xuất gia vô ngại, Xuất gia vô ngại
Tâm đắc giải thoát. Tâm được giải thoát.

Khi bỏ nhà thế tục tu hành, thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, xuất gia chẳng có chướng ngại gì hết. Tâm chẳng quái ngại, mà được giải thoát. Giải thoát sợi dây thừng năm dục trói buộc, liền đắc được tự do tự tại, vô câu vô thúc, chẳng sầu chẳng lo.

Xuất gia có ba ý nghĩa:

  1. Xuất nhà thế tục, tức là chặt đứt tình ái, nương tựa cửa Phật.
  2. Xuất nhà lá bối, tức là chứng đạo vô lậu, chẳng thọ luân hồi.
  3. Xuất nhà phiền não, tức là đoạn sanh các hoặc, trong tâm thanh tịnh. Xuất gia là việc của bậc đại trượng phu, chẳng phải một số người làm được, phải có tinh thần hy sinh tiểu ngã, để thành tựu đại ngã.

 

Nhập tăng già lam, Vào Tăng già lam
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Diễn thuyết chủng chủng, Diễn nói các pháp
Vô quai tránh Pháp. Không tranh luận pháp.

Ðến chỗ xuất gia tu đạo, thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, hay diễn nói đủ thứ Phật pháp, chẳng nói pháp bất chánh, chẳng có tranh luận pháp. Do đó:

‘’Tranh là tâm hơn thua,
Trái ngược lại với đạo,
Sinh ra tâm bốn tướng
Làm sao được tam muội‘’!

Ðây là vô tránh tam muội nói ở trong Kinh Kim Cang.

 

Nghệ Đại tiểu sư, Đến thầy lớn nhỏ
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Xảo sự sư trưởng, Khéo phụng sư trưởng
Tập hành thiện Pháp. Tập tu pháp lành.

Nếu đến chỗ thầy lớn ở, hoặc chỗ thầy nhỏ ở, thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, khéo phụng sự Sư trưởng, khuyên tu tập tất cả pháp lành, chẳng tu tất cả pháp ác. Phải nghe Thiện tri thức dạy bảo, chẳng nghe ác tri thức chỉ dạy.

 

Cầu thỉnh xuất gia, Cầu xin xuất gia
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Đắc bất thoái Pháp, Được pháp bất thối
Tâm vô chướng ngại. Tâm chẳng chướng ngại.

Khi phát tâm xuất gia thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, đắc được pháp chẳng thối chuyển là Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, nên trong tâm chẳng có chướng ngại. Nghĩ muốn xuất gia, phải thỉnh cầu minh nhãn thiện tri thức để chỉ bày đường chánh, bằng không thì tu đuôi luyện mù, thủy chung chẳng đắc được lợi ích, mà còn dễ lầm vào đường tà. Hãy cẩn thận ! Do đó có câu:

‘’ Một khi xảy chân ngàn năm ân hận
Quay đầu lại đã trăm ngàn năm‘’.

 

Thoát khứ tục phục, Cởi bỏ tục y
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Cần tu thiện căn, Siêng tu căn lành
Xả chư tội ách. Xả các tội phạm.

Khi cỡi bỏ y phục thế tục, thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, siêng tu giới định huệ. Phải tài bồi căn lành, xả bỏ đi tất cả tội phạm chướng ngại sự tu đạo.

 

Ti trừ tu phát, Cạo bỏ râu tóc
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Vĩnh ly phiền não, Vĩnh lìa phiền não
Cứu cánh tịch diệt. Cứu kính tịch diệt.

Khi thế phát cạo đầu, thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, vĩnh viễn lìa khỏi tất cả phiền não, tương lai đắc được an vui cứu kính tịch diệt. Tức cũng là bốn đức Niết Bàn thường, lạc, ngã, tịnh.

 

Trứ Ca sa y, Đắp y Cà sa
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Tâm vô sở nhiễm, Tâm chẳng nhiễm trước
Cụ đại tiên đạo. Đủ đạo Đại Tiên.

Khi khoác y cà sa lên, thì nên nguyện chúng sinh. xin nguyện tất cả chúng sinh, tâm chẳng có ô nhiễm, tất cả đều thanh tịnh, đầy đủ chánh đạo Đại Tiên (Phật).

Y cà sa là y nhuộm sắc, là y ruộng phước người xuất gia mặc. Gồm có ba y là y năm điều, y bảy điều và y hai mươi lăm điều. Y năm điều là y mặc hàng ngày để làm việc. Y bảy điều là y tụ họp, nghe Kinh, sáng tối lên khóa lễ. Y hai mươi lăm điều là khi giảng Kinh thuyết pháp, truyền giới mới mặc. Xuất gia rồi chỉ có ba y, một bình bát, một tọa cụ thường chẳng lìa thân, đây tức là giữ giới. Người xuất gia gọi là truy y, người tại gia gọi là bạch y. Y của người xuất gia mặc đều phải nhuộm màu, còn y của người tại gia mặc không cần nhuộm màu, đa số là màu trắng, cho nên gọi là bạch y.

 

Chánh xuất gia thời, Khi vừa xuất gia
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Đồng Phật xuất gia, Cùng Phật xuất gia
Cứu hộ nhất thiết. Cứu hộ tất cả.

Khi chân chánh xuất gia thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, đồng xuất gia với Phật, cứu hộ tất cả chúng sinh.

 

Tự quy ư Phật, Về nương tựa Phật
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Thiệu long Phật chủng, Rạng rỡ giống Phật
Phát vô thượng ý. Phát tâm vô thượng.

Khi về nương mười phương ba đời tất cả chư Phật, thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, khiến cho giống Phật chẳng dứt tuyệt, tức cũng là thể giải đại đạo, phát tâm vô thượng.

 

Tự quy ư Pháp, Về nương tựa pháp
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Thâm nhập Kinh tạng, Vào sâu tạng Kinh
Trí tuệ như hải. Trí huệ như biển.

Khi quy y tất cả tôn pháp, thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, vào sâu Tạng Kinh, đắc được trí huệ thâm sâu như biển cả.

 

Tự quy ư tăng, Về nương tựa Tăng
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Thống lý Đại chúng, Thống lý đại chúng
Nhất thiết vô ngại. Hết thảy vô ngại.

Khi quy y tất cả Hiền Thánh Tăng thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, suất lãnh tất cả đại chúng, tu hành tất cả Pháp chẳng có chướng ngại. Tam quy y là tuyên thệ bước đầu của Phật giáo đồ vào cửa Phật, là nghi thức rất quan trọng.

Câu thứ nhất của Chú Ðại Bi là: “Nam Mô Hắc La Ðát Na Ða La Dạ Gia», dịch là quy y mười phương thường trụ Tam Bảo. Câu đầu tiên trong Chú Lăng Nghiêm là: “Nam Mô Tát Ðát Tha Tô Già Ða Gia. A La Ha Ðế Tam Miệu Tam Bồ Ðà Tỏa», dịch là quy y mười phương vô tận vô tận thường trụ Tam Bảo. Lúc nầy mười phương chư Phật đều đến hộ niệm bạn, có tám vạn bốn ngàn vị Kim Cang Tạng Bồ Tát, thường theo bạn hai bên để hộ trì bạn. Do đó người tại gia, hoặc xuất gia, phải luôn giữ tam quy y, cung kính giới luật.

 

Thọ học giới thời, Khi thọ học giới
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Thiện học ư giới, Khéo học giới luật
Bất tác chúng ác. Không làm điều ác.

Khi thọ học giới thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, khéo học tập giới luật. Giới là ngừa ác phòng trái, không làm tất cả điều ác, mà làm tất cả điều lành. Phải minh bạch giới pháp, giới thể, giới tướng, giới hạnh, thâm nhập pháp môn giới luật, thấu rõ ý nghĩa của giới.

Giới là phòng ngừa tội lỗi của thân tâm, cho nên Sa Di thọ mười giới. Tỳ Kheo thọ hai trăm năm mươi giới. Tỳ Kheo Ni thọ ba trăm bốn mươi tám giới, và còn có Bồ Tát giới mười giới trọng, bốn mươi tám giới khinh, còn có năm mươi ba tiểu chú.

 

Thọ Xà-lê giáo, Thọ A xà lê
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Cụ túc uy nghi, Đầy đủ oai nghi
Sở hạnh chân thật. Làm đều chân thật.

Khi thọ A Xà Lê răn dạy, thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, y nguyện khởi hành, phải đầy đủ ba ngàn oai nghi, tám vạn tế hạnh. Bất cứ làm gì, đều phải chân thật, không hư ngụy, bằng không thì phạm giới.

Tỳ Kheo xuất gia phải đầy đủ oai nghi, khiến cho người thấy mà sinh niềm tin. Oai nghi của người xuất gia đại biểu sự trang nghiêm của Phật giáo. Không những người xuất gia phải có oai nghi, mà người tại gia cũng phải có oai nghi. Vì người cư sĩ là ngoại hộ của Phật giáo. Cư sĩ phải có oai nghi tốt, hành vi tốt, lời nói hành động đều làm gương cho mọi người. Người không tin Phật, thấy bạn ‘’lời nói trung tín, đi đứng chỉnh tề‘’, thì thọ ảnh hưởng của bạn mà tin Phật. Cho nên oai nghi là sự tu trì rất quan trọng.

 

Thọ hòa thượng giáo, Thọ hòa thượng dạy
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Nhập vô sanh trí, Vào trí vô sinh
Đáo vô y xứ. Đến chỗ không nương.

Khi thọ Hoà Thượng răn dạy, thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, đắc được trí huệ vô sinh, đạt đến chỗ vô y. Tức là cường bất tứ, tinh tấn lại tinh tấn, chẳng tạo tất cả ác nghiệp, chẳng sinh tâm ỷ lại. Ðừng có cho rằng quy y Tam Bảo rồi, thì chẳng còn đọa vào ba đường ác nữa.

‘’Hòa thượng‘’ nghĩa là hòa là lục hòa, thượng là cao thượng. Thanh cao nhân phẩm, nhân cách viên mãn, cho nên gọi là Hòa Thượng, biểu thị sự tôn kính. Trước kia ở trong đại tùng lâm chỉ có phương trượng (trù trì) mới có thể gọi là đại Hòa Thượng, về già gọi là Lão Hòa Thượng. Một số người xuất gia gọi là Pháp Sư.

Lục hòa tức là:

  1. Thân hòa đồng trụ.
  2. Khẩu hòa vô tranh.
  3. Ý hòa đồng duyệt.
  4. Giới hòa đồng tu.
  5. Kiến hòa đồng giải.
  6. Lợi hòa đồng quân.

Người xuất gia là đoàn thể sinh hoạt, mọi người tụ lại một chỗ, đều là có nhân duyên, cho nên phải hòa mục tương xứ, đừng sinh thị phi, cùng nhau nhường nhịn, thì có trợ giúp rất lớn cho đạo nghiệp. Nên nhớ ! Không thể sinh tâm đố kị, chướng ngại người khác tu đạo. Có tư tưởng như thế thì sẽ đọa địa ngục, chẳng có tơ hào nghi vấn gì.

 

Thọ cụ túc giới, Thọ giới cụ túc
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Cụ chư phương tiện, Đủ các phương tiện
Đắc tối thắng Pháp. Được pháp tối thắng.

Khi thọ giới cụ túc thì hãy phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh đầy đủ tất cả pháp phương tiện, đắc được pháp thù thắng nhất.

Pháp phương tiện tức là vì giáo hóa chúng sinh mà chẳng xả bỏ sinh tử. Thường du hí ở trong chúng sinh mà chẳng bị nhiễm ô. Tức cũng là từ bi hộ niệm tất cả chúng sinh, khéo giáo hóa tất cả chúng sinh. Do đó:

‘’Phương tiện có nhiều cửa
Về nguồn chẳng hai nẻo‘’.

Bất cứ tu hành pháp môn nào, khi công đức viên mãn đều có thể thành Phật.

Ở trên là mười lăm nguyện, là phát nguyện khi xuất gia. Người xuất gia nhìn thủng pháp thế gian là khổ, không, vô thường, vô ngã, hư vọng chẳng thật. Chỉ có pháp xuất thế là thường, lạc, ngã, tịnh, mới là chân thật không hư.

 

Nhược nhập đường vũ, Nếu vào giảng đường
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Thăng vô thượng đường, Lên đường vô thượng
An trụ bất động. An trụ bất động.

Nếu như vào giảng đường hoặc phòng ốc, thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, thăng lên pháp đường vô thượng. Tức là đắc được vị vô thượng chánh đẳng chánh giác, an trụ như như bất động, liễu liễu thường minh. Như như bất động là đốn, liễu liễu thường minh là huệ, phải an trụ trong cảnh giới đốn huệ viên minh.

 

Nhược phu sàng tọa, Nếu bày giường tòa
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Khai phu thiện Pháp, Mở bày pháp lành
Kiến chân thật tướng. Thấy tướng chân thật.

Nếu như bố trí sắp đặc giường, hoặc tòa, thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, mở bày pháp lành, khiến cho tất cả chúng sinh thấy được tướng chân thật, tức cũng là thật tướng. Ðừng chấp trước tướng, tướng từ tâm vọng sinh ra, chẳng chấp thì không, cho nên là thật tướng. Lại có thể nói chẳng có bốn tướng, hai chấp, là thật tướng.

 

Chánh thân đoan tọa, Thân ngồi ngay thẳng
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Tọa Bồ-đề tọa, Ngồi tòa bồ dề
Tâm vô sở trước. Tâm chẳng chấp trước.

Khi ngồi thiền ngay thẳng, thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, ngồi nơi tòa giác ngộ, trong tâm chẳng có chấp trước tất cả cảnh giới.

Khi ngồi thiền phải ngồi thẳng ngay ngắn. Do đó: ‘’ngồi như chung‘’, ngồi vững như đại hồng chung, chẳng ngã về trước, chẳng ngã về sau, như như bất động. Mắt quán mũi, mũi quán miệng, miệng quán tâm, vọng tưởng không sinh, thì trí huệ tự nhiên sẽ hiện tiền. Nếu có cảnh giới hiện tiền, thì bất cứ là cảnh giới thiện, hoặc cảnh giới ác, đều đừng động tâm. Do đó:

‘’Chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác‘’.

Thậm chí:
‘’Phật đến chém Phật, ma đến chém ma‘’.

Đây tức là biểu hiện không động tâm. Tu đạo tức là tu định lực, chẳng vì cảnh giới làm lay chuyển, mà chuyển được cảnh giới. Tức cũng là cảnh giới không tốt, chuyển thành cảnh giới tốt. Làm thế nào chuyển thành tốt được ? Phải phát nguyện. Vì pháp giới chúng sinh mà phát nguyện. Xin nguyện cho họ phát bồ đề tâm, tu đạo vô thượng, sớm chứng Phật quả.

Tại sao hay hiện cảnh giới thiện ? Vì thuở xưa sinh niệm thiện. Nếu sinh niệm ác, thì đời nầy sẽ hiện cảnh giới ác. Cho nên người tu hành, ngàn vạn đừng khởi vọng tưởng. Khởi vọng tưởng gì, thì sẽ hiện cảnh giới đó. Do đó: Một niệm không sinh, thì toàn thể đại dụng, Phật tánh vốn có đều hiện tiền. Một niệm không sinh, thì vọng tưởng gì cũng chẳng có. Ðại sư Vĩnh Gia có nói:

‘’Quân bất kiến
Tuyệt học vô vi nhàn đạo nhân
Bất trừ vọng tưởng bất cầu chân‘’.
Vọng tưởng đã sạch, thì còn cầu chân gì nữa!

 

Kết già phu tọa, Khi ngồi kiết già
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Thiện căn kiên cố, Căn lành kiên cố
Đắc bất động địa. Đắc được bất động.

Khi ngồi kiết già, thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, căn lành vững chắc, đắc được bất động. Tức cũng là chẳng thay đổi sự tu hành.

Khi Phật Bồ Tát hiện tướng ngồi thiền định, thì đều ngồi tư thế kiết già, tức cũng là tòa bồ đề.

 

Tu hành ư định, Tu hành thiền định
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Dĩ định phục tâm, Dùng định phục tâm
Cứu cánh vô dư. Rốc ráo hết tập.

Khi tu hành thiền định, thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, dùng định lực để hàng phục tâm, mới hết dư tập. Tức cũng là chẳng còn tập khí mao bệnh nữa. Tôi thường nói:

‘’Tánh định ma phục triều triều lạc
Vọng tưởng bất khởi xứ xứ an‘’.

Khi tánh định thì mới hàng phục được thiên ma ngoại đạo, ngày ngày đều an vui. Nếu chẳng khởi vọng tưởng thì đến đâu cũng đều an ổn, tuyệt chẳng có phiền não.

 

Nhược tu ư quán, Nếu tu chỉ quán
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Kiến như thật lý, Thấy lý như thật
Vĩnh vô quai tránh. Vĩnh viễn không tranh.

Nếu như khi tu hành chỉ quán, thì nên phat nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh thấy được lý chân thật, vĩnh viễn không tranh.

Tôi hoằng dương Phật pháp ở Mỹ, chỉ có một pháp bảo, tức là ‘’Vạn sự đều OK’’. Chẳng trang danh, chẳng tranh lợi, chẳng tính toán ta người, tất cả đều buông xả. Chẳng tranh với người, hòa bình tương xứ, đây là tông chỉ của tôi.

 

Xả già phu tọa, Khi xả kiết già
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Quán chư hạnh Pháp, Quán các pháp hành
Tất quy tán diệt. Quy về tan diệt.

Khi xả kiết già, thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, quán sát các pháp hành vô thường. Phàm là pháp do nhân duyên sinh ra đều là vô thường, cứu kính đều quy về tan hoại diệt vong.

Bảy nguyện ở trên là nguyện phát ra khi ngồi thiền quán. Phát nguyện mới sinh tâm bồ đề, mới có thể giáo hóa chúng sinh, mới có từ bi hỷ xả bốn tâm vô lượng, để phổ độ chúng sinh.

 

Hạ túc trụ thời, Khi hạ chân xuống
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Tâm đắc giải thoát, Tâm được giải thoát
An trụ bất động. An trụ chẳng động.

Khi ngồi thiền xong, cất chân xuống thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, tâm được giải thoát (tự tại), chẳng có chấp trước. Trụ ở trong định an ổn, đi đứng nằm ngồi tâm chẳng lay động. Chẳng động túc là chẳng khởi vọng tưởng, chẳng khởi niệm tà.

Khổng tử nói:

‘’Tôi mười lăm tuổi chí tâm việc học.
Ba mươi tuổi đã vững.
Bốn mươi chẳng còn mê hoặc.
Năm mươi biết mạng trời.
Sáu mươi nghe thuận.
Bảy mươi tùy tâm ý muốn‘’.

Ðây là ý nghĩa an trụ chẳng động. Phật giáo nói:
‘’Như như bất động, rõ ràng sáng suốt‘’.

Chân chánh không động, thì đắc được trí huệ chân chánh. Ðắc đươc trí chân thật, thì chẳng còn điên đảo mộng tưởng.

Trước kia, có vị tu hành đi tham vấn thiện tri thức để cầu giải thoát. Tham vấn nhiều nơi nhưng chẳng được giải thoát. Một ngày nọ, Ngài tham vấn một vị minh nhãn thiện tri thức, thỉnh khai thị, bèn hỏi:

– ‘’Ðại lão Hòa Thượng ! Tôi làm thế nào để được giải thoát ? ‘’

– Vị lão Hòa Thượng nghe rồi bèn nói: ‘’Ai trói ông‘’ ?

– Ngài nghĩ: ’’Ồ ! chẳng có ai trói con mà’’!

– Lão Hòa Thượng lại nói: ‘’Tức nhiên chẳng có ai trói ông, thì sao lại đi khắp nơi tìm giải thoát? ‘’

Ngài nghe bèn hốt nhiên đại ngộ, nguyên lai là như thế ! Do đó, phá tan đen tối, đắc được giải thoát.

 

Nhược cử ư túc, Nếu cất chân lên
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Xuất sanh tử hải, Thoát biển sanh tử
Cụ chúng thiện Pháp. Ðủ các pháp lành.

Nếu như khi cất chân lên, đi thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, đều thoát khỏi biển khổ sinh tử, đầy đủ tất cả pháp lành. Tức cũng là pháp năm giới, mười giới, ba học, sáu độ v.v…

Khi xuống giường thì nên niệm:
‘’Từ sáng sớm cho đến tối
Tất cả chúng sinh tự về hộ
Nếu lỡ mất mạng dưới chân tôi
Nguyện lập tức sinh về tịnh độ‘’.

Cho nên Tỳ Kheo đi đường, chẳng đạp lên cỏ xanh, sợ rằng dẵm đạp lên chúng sinh, đây là biểu hiện thương xót chúng sinh.

 

Trứ hạ y thời, Nếu mặc quần dưới
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Phục chư thiện căn, Mặc các căn lành
Cụ túc tàm quý. Đầy đủ hổ thẹn.

Khi mặc quần thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, bảo vệ căn lành của mình, mới đầy đủ sự hổ thẹn. (hổ là mình chẳng làm ác, thẹn là chẳng kêu họ làm). Nếu chẳng mặc quần thì chẳng biết hổ thẹn.

 

Chỉnh y thúc đái, Khi cột y áo
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Kiểm thúc thiện căn, Kiểm thảo căn lành
Bất lệnh tán thất. Đừng để mất mát.

Khi cột y áo, đều phải ngay ngắn, sạch sẽ mới hợp với oai nghi. Khiến cho người thấy mà sinh cung kính. Lúc nầy cũng phải phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, đều kiểm thảo căn lành của mình gieo trồng có tăng trưởng hay không, đừng làm cho nó mất đi.

 

Nhược trứ thượng y, Nếu mặc áo trên
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Hoạch thắng thiện căn, Được thắng căn lành
Chí Pháp bỉ ngạn. Đến bờ bên kia.

Khi mặc áo trên thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, được căn lành thù thắng. Tu sáu độ viên mãn, thì đến được bờ Niết Bàn bên kia.

 

Trước tăng già lê, Khoác Tăng già lê
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Nhập đệ nhất vị, Vào vị bậc nhất
Đắc bất động pháp. Được pháp bất động.

Khi mặc đại y (Cà sa), thì nên phát nguyện. Nguyện tất cả chúng sinh, đều vào quả vị Phật, chứng đuợc pháp bất động, tức cũng là định, mà trụ ở Tịnh Ðộ Thường Tịch Quang.

Sáu nguyện ở trên là nguyện phát ra khi mặc y phục. Người xuất gia mặc y áo chỉnh tề, phải sạch sẽ. Vì đó là đại biểu cho Phật giáo, nên thời khắc phải chú ý, đừng để mất oai nghi.

Không mặc đồ lòe loẹt, hoa hòe, mà giữ trung đạo. Khiến cho người sinh tâm kính trọng, như vậy mới chẳng mất giá trị của Tỳ Kheo.

 

Thủ chấp dương chi, Tay cầm cành dương
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Giai đắc diệu pháp, Đều được diệu pháp
Cứu cánh thanh tịnh. Rốt ráo thanh tịnh.

Khi tay cầm cành dương liễu, thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, đều đắc được pháp không thể nghĩ bàn, tương lai đắc được thanh tịnh. Cành dương hay khiến cho chúng sinh cấu bẩn tiêu trừ, rốt ráo thanh tịnh.

Cành dương có năm ý nghĩa:

  1. Mắt sáng.
  2. Trừ đàm.
  3. Trừ miệng hôi hám.
  4. Biện vị.
  5. Tiêu thực.

 

Vì cành dương có tánh đắng, cho nên có tác dụng tiêu đàm. Dương có bốn thứ: Dương nước, dương trắng, dương đỏ, và dương vàng. Hiện tại dùng cành dương, đa số là dương liễu, còn gọi là tiểu dương.

Tước dương chi thời, Khi nhai cành dương
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Kỳ tâm điều tịnh, Tâm điều thanh tịnh
Phệ chư phiền não. Nhai cắn phiền não.

 

Khi nhai cành dương thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, trong tâm điều hòa thanh tịnh, nhai nuốt hết tất cả phiền não.

Trong Kinh Tỳ Ni Mẫu có nói: ‘’Không nhai cành dương có năm lỗi:

  1. Hơi miệng hôi hám.
  2. Trong cổ họng chẳng sạch.
  3. Ðàm nghiện túc thực phong lạnh chẳng tiêu.
  4. Chẳng nghĩ ẩm thực.
  5. Tăng thêm bệnh mắt.

 

Ðây là nói nhai cành dương có công dụng tiêu thực hóa đàm. Trước kia ở Trung Quốc, trong các chùa lớn còn giữ phong tục tập quán nhai cành dương. Gần trăm năm nay, mọi người quên đi phong tục xưa.

 

Đại tiểu tiện thời, Khi đại tiểu tiện
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Khí tham sân si, Bỏ tham sân si
Quyên trừ tội Pháp. Quét sạch tội pháp.

Khi đại tiểu tiện thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh xả bỏ tham sân si ba độc, chẳng luyến ái nữa. Quét sạch tất cả tội pháp. Tội pháp giống như đại tiểu tiện, thời khắc phải tẩy trừ.

Hay bố thì thì chẳng trộm cắp, cho nên không tham lam. Hay từ bi thì chẳng giết hại, cho nên không sân. Có trí huệ thì chẳng dâm, cho nên không si. Do đó, trong Kinh Niết Bàn có nói: ‘’Trong các thứ độc, chẳng gì hơn ba độc nầy‘’. Ba độc nầy có thể hại pháp thân. Không thể không cẩn thận ! Không thể không chú ý !

 

Sự cật tựu thủy, Việc rồi đến nước
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Xuất thế Pháp trung, Trong pháp xuất thế
Tốc tật nhi vãng. Mau sinh tịnh độ.

Khi đại tiểu tiện xong rồi, khi dùng nước rửa sạch, thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, phải tu pháp xuất thế, thoát khỏi ba cõi, mau sinh về tịnh độ. Do đó:

‘’Di Ðà Tịnh Ðộ
Giác ngộ vô sinh
Cùng hết sinh tử
Đồng dứt khổ đau‘’.

Phật chế quy định, sau khi đại tiểu tiện, thì nhất định phải rửa sạch, nếu không thì sẽ chiêu lỗi xấu. Nếu không rửa nơi đại tiện, thì không thể ngồi trên đồ vật, không thể nhiễu tháp hành đạo, càng không lễ Phật tụng Kinh.

 

Tẩy địch hình uế, Rửa sạch hình dơ
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Thanh tịnh điều nhu, Thanh tịnh điều nhu
Tất cánh vô cấu. Rốt ráo chẳng dơ.

Khi rửa hậu môn (đồ dơ) thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, đều thanh tịnh, điều hòa, nhu thuận, cuối cùng lìa tất cả lỗi lầm, chẳng nhiễm dơ.

 

Dĩ thủy quán chưởng, Dùng nước rửa tay
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Đắc thanh tịnh thủ, Được tay thanh tịnh
Thọ trì Phật Pháp. Thọ trì Phật pháp.

Khi dùng nước rửa tay, thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, đắc được tay thanh tịnh, vì tay thanh tịnh mới có thể lật tụng Kinh điển, mới có thể thọ trì pháp của Phật. Trong Kinh có nói: ‘’Nếu dùng tay không sạch thỉnh Kinh, thì sẽ được quả báo dòi trong cầu tiêu’’.

 

Dĩ thủy tẩy diện, Dùng nước rửa mặt
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Đắc tịnh Pháp môn, Được pháp môn tịnh
Vĩnh vô cấu nhiễm. Vĩnh chẳng nhiễm dơ.

Khi dùng nước rửa tay, thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, đắc được pháp môn thanh tịnh, vĩnh viễn chẳng nhiễm bụi bặm dơ bẩn. Vì chúng sinh có tám vạn bốn ngàn phiền não, cho nên Phật mới nói tám vạn bốn ngàn pháp môn. Mỗi pháp môn đều là pháp môn thanh tịnh, chuyên trị bệnh nhiệt não của chúng sinh, khiến cho thanh lương. Trong Kinh Tâm Ðịa Quán có nói:

‘’Tám vạn bốn ngàn môn tổng trì
Hay trừ hoặc chướng diệt yêu ma‘’.

Theo truyền thuyết Ấn Ðộ, có người tụng Kinh Hoa Nghiêm, nước rửa tay, hoặc rửa mặt, tát lên đất. Nếu kiến hoặc côn trùng bị nước tưới đến, thì lập tức được vãng sinh về cõi trời. Do đó đủ thấy, công đức đọc tụng Kinh Hoa Nghiêm thật là diệu không thể tả !

Bảy nguyện ở trên là nguyện phát ra khi rửa ráy. Khử trừ dơ bẩn cho sạch sẽ. Phàm là đốt hương, lễ Phật, tụng Kinh, trì chú, đều phải rửa mặt, súc miệng, rửa tay, đó là biểu thị sự cung kính.

 

Thủ chấp tích trượng, Tay cầm tích trượng
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Thiết đại thí hội, Lập hội thí lớn
Thị như thật đạo. Bày đạo như thật.

Khi tay cầm tích trượng, thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, thiết lập pháp hội bố thí lớn, chỉ bày cho chúng sinh đi trên con đường tu đạo chân thật. Tức cũng là đạo chân như thật tướng, bình đẳng bố thí khắp, khiến cho nghe pháp đắc được lợi ích.

Hình trạng của tích trượng trên đầu có bốn cánh (biểu thị cho bốn đế), lại có mười hai khoen (biểu thị cho mười hai nhân duyên), có thể lay động vang ra âm thanh. Khi Tỳ Kheo khất thực, đến trước cửa thí chủ, rung hai ba lần, nếu không có người thì bỏ đi. Bồ Tát Ðịa Tạng tay có cầm tích trượng.

 

Chấp trì ưng khí, Ôm cầm bình bát
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Thành tựu pháp khí, Thành tựu pháp khí
Thọ Thiên Nhân cúng. Thọ trời người cúng.

Khi tay ôm bình bát, thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, thành tựu pháp khí, thọ trời người cúng dường.

Phật dùng bát bằng đá, ngoại đạo dùng bát bằng gỗ, Tỳ Kheo dùng bát bằng sứ, không thể dùng vàng bạc tạo bát. Không thể biên tên chữ trên bát. Khi dùng cơm xong thì rửa bát cho sạch đem đi cất.

 

Phát chỉ hướng đạo, Phát tâm hướng đạo
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Thú Phật sở hạnh, Theo đạo Phật tu
Nhập vô y xứ. Vào chỗ không nương.

Khi phát tâm tu hành, thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, hướng về đạo mà Phật tu hành, tức cũng là y pháp tu hành, phải vào chỗ không nương tựa, tức cũng là chẳng có tâm ỷ lại. Giống như tôn giả A Nan, ban đầu ỷ lại Phật là anh em chú bác với Ngài, nên chẳng chịu tu hành. Chẳng biết đạo lý:
‘’Ai ăn người đó no
Sinh tử của ai người đó lo‘’.

Cho nên bị nữ Ma Ðăng Già mê hoặc, nguy hiểm chút nữa là mất đồng thể. Nhờ Bồ Tát Văn Thù đem Thần Chú Lăng Nghiêm đến cứu, mới thoát khỏi nạn nữ.

 

Nhược tại ư đạo, Nếu đi trên đường
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Năng hàng Phật đạo, Đi trên Phật đạo
Hướng vô dư Pháp. Hướng pháp Vô Dư.

Nếu đi bộ trên đường, thì nên phát nguyện. Xin nguyện chúng sinh, y chiếu theo con đường Phật đã tu, mà hướng đến vô dư Niết Bàn.

 

Thiệp lộ nhi khứ, Khi đi qua đường
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Lý tịnh pháp giới, Đến tịnh pháp giới
Tâm vô chướng ngại. Tâm chẳng chướng ngại.

Khi đi ngang qua đường, thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, đến chỗ nào cũng đều là pháp giới, thanh tịnh, tâm chẳng có chấp trước, cũng chẳng chướng ngại.

 

Kiến thăng cao lộ, Khi lên đường cao
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Vĩnh xuất tam giới, Vĩnh lìa ba cõi
Tâm vô khiếp nhược. Tâm chẳng khiếp nhược.

Khi đi trên con đường chỗ cao, thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, vĩnh viễn lìa khỏi dục giới, sắc giới, vô sắc giới, chẳng sinh tâm khiếp nhược.

 

Kiến thú hạ lộ, Khi xuống đường thấp
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Kỳ tâm khiêm hạ, Tâm tánh khiêm nhường
Trưởng Phật thiện căn Lớn căn lành Phật.

Khi đi xuống con đường thấp, thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, khiêm cung chẳng tự mãn, chẳng sinh tâm cống cao ngã mạn, đối người đãi vật hòa mục thương yêu, như thế mới tăng trưởng căn lành của Phật.

Người tu hành đừng có tâm kiêu ngạo, tùy thời thỉnh giáo thiện tri thức. Dù người chẳng như mình, cũng phải thỉnh giáo. Trong luận ngữ có nói:

‘’Người sáng suốt học tốt
Đừng ngại ngùng thưa hỏi‘’.

Lại nói:
‘’Ba người cùng đi
Tất có người thầy mình vậy‘’.

Chúng ta nghiên cứu Phật pháp, phải có tinh thần như thế, mới có thể tiến bộ.

 

Kiến tà khúc lộ, Thấy đường quanh co
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Xả bất chánh đạo, Bỏ đạo bất chánh
Vĩnh trừ ác kiến. Vĩnh trừ tà kiến.

Khi đi trên đường quanh co chẳng ngay thẳng thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, xả bỏ con đường chẳng chánh đáng mà đi trên con đường thẳng mới vĩnh viễn xả bỏ tà tri tà kiến.

 

Nhược kiến trực lộ, Nếu thấy đường thẳng
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Kỳ tâm chánh trực, Tâm họ chánh trực
Vô siểm vô cuống. Chẳng nịnh chẳng dối.

Nếu như lúc thấy con đường chánh trực thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, tâm họ chánh trực, chẳng có xiểm nịnh, chẳng có dối trá. Ðó là tác phong những người quân tử.

Một số người đều có tâm nịnh người giàu khi kẻ nghèo, thấy nười có tiền có thế thì chuyên nói những lời tâng bốc. Thái độ như thế thật là hổ thẹn ! Thấy những người nghèo không thế lực thì kiêu ngạo, hành vi như thế thật là đáng ghét !

Người chánh trực, tuyệt đối chẳng có tư tưởng như thế.

Người giàu sang chẳng kiêu ngạo, tức là có đức hạnh. Người nghèo khổ chẳng xiểm nịnh tứ là có đức hạnh. Song, ai ai cũng có tâm lý ‘’thích mới nới cũ‘’, nếu chẳng phạm mao bệnh nầy thì sẽ minh bạch đạo lý làm người.

Vào thời Tam Quốc, có vị Quan Công, rất chú trọng về nghĩa khí, do đó ‘’đại nghĩa thanh thiên‘’. Ông ta ở trong dinh Tào Tháo, trên ngựa vàng, dưới ngựa bạc, ba ngày tiệc nhỏ, trăm ngày tiệc lớn, thọ lễ ngộ của Tào Tháo, nhưng chẳng thay đổi chí khí. Thân tuy ở dinh Tào, nhưng tâm ở tại đại ca Lưu Bị. Một ngày nọ Tào Tháo đem tặng cho Quan Công một chiếc áo bào mới, ông ta chẳng quên tình nghĩa của đại ca, mặc áo bào mới ở bên trong, mặc áo bào cũ ở bên ngoài. Tào Tháo thấy, cảm thấy kỳ lạ, mới hỏi:

– ‘’Nhị tướng Quân ! Tạo sao lại mặc áo bào mới bên trong ? ‘’

– Quan Công nói: ‘’Vì áo bào cũ nầy là đại ca Lưu Bị tặng, tôi chẳng thích mới nới cũ, cho nên đem áo bào mới của thứa tướng tặng mặc bên trong‘’.

Tào Tháo nghe rồi quá thất vọng, biết chẳng có cách gì vãn hồi ý chí của Quan Công, bèn trả Quan Công về chỗ Lưu Bị, trong lịch sử lưu lại giai thoại ngàn dặm tìm huynh, vạn cổ lưu phương. Ðến đời tùy, Ngài Trí Giả Ðại Sư được Quan Công trợ giúp làm chùa ở núi Ngọc Tuyền mà thành công, và quy y với Đại Sư Trí Khải, trở thành hộ pháp thiện thần. Một số chùa, bên trái là Bồ Tát Vi Ðà, bên phải là Quan Công, hai vị thần đều là thần hộ pháp bảo hộ đạo tràng.

 

Kiến lộ đa trần, Thấy đường nhiều bụi
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Viễn ly trần bộn, Xa lìa họp bụi
Hoạch thanh tịnh Pháp Được pháp thanh tịnh.

Khi thấy có nhiều bụi trên đường thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, xa lìa chỗ bụi trần tụ tâp, đắc được diệu pháp thanh tịnh, tức cũng là thân chẳng bụi bặm, tâm chẳng bụi bặm, khiến cho thân tâm thanh tịnh.

 

Kiến lộ vô trần, Thấy đường không bụi
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Thường hành đại bi, Thường hành từ bi
Kỳ tâm nhuận trạch. Tâm được thấm nhuần.

Khi thấy trên đường chẳng có bụi thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, luôn luôn hành đại bi tâm, khiến cho tâm thấm nhuần, tức cũng là có trí huệ quang minh. Do đó: ‘’Phú nhân ốc, đức nhân thân‘’. Người giàu thì xây nhà cửa đẹp đẻ, người có đức thì có quang minh. Tôi thường nói:

‘’Hãy thật nhận lỗi mình
Ðừng nói lỗi kẻ khác
Lỗi người tức lỗi mình
Ðồng thể gọi đại bi ‘’.

Mỗi người phải nhận lỗi lầm của mình, không nên đổ lỗi người không đúng. Khổng Tử có nói: ‘’Biết lỗi mà sửa thì chẳng có việc thiện nào lớn bằng‘’. Thời xưa Ðại Vũ nghe người nói lỗi mình thì lạy, Khổng Lộ nghe người nói lỗi mình thì vui mừng. Khi chúng ta nói chuyện thì thường phạm mao bệnh, tức là thích bàn luận về chuyện thị phi của người, phê bình dài ngắn của người, nhưng chẳng nói lỗi lầm của mình, đây cũng giống như quạ đậu trên lưng heo, chỉ thấy heo đen mà chẳng thấy mình đen. Ðây là hành vi ngu si. Người xưa nói:

‘’Người chẳng phải Thánh Hiền,
Ai mà chẳng có lỗi lầm? ‘’

Do đó có thể thấy, bậc Thánh nhân chẳng có lỗi lầm, quân tử thì hay sửa đổi lỗi lầm, kẻ tiểu nhân thì hay che giấu lỗi lầm. Ðây là sự khác biệt, chìa khóa là tại chỗ nầy. Chỗ người ta không đúng, tức là mình không đúng. Tại sao ? Vì người ta và mình vốn là một thể ? Do đó: ‘’ Đồng thể đại bi‘’. Nếu nghĩ như thế thì đạt được cảnh giới vô tranh tam muội.

 

Nhược kiến hiểm đạo, Nếu thấy đường hiểm
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Trụ chánh Pháp giới, Trụ chánh pháp giới
Ly chư tội nạn. Lìa các tội nạn.

Nếu như thấy con đường nguy hiểm thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, trụ tại chánh pháp giới, lìa khỏi tất cả tội nghiệp chướng ngại, đắc được tấ cả trí huệ thanh tịnh.

Ðường nguy hiểm tức là sáu nẻo luân hồi, hốt nhiên trên trời, hốt nhiên dưới đất, hốt nhiên súc sinh, hốt nhiên ngạ quỷ, hốt nhiên người, hốt nhiên A Tu La. Cho nên nói đường sáu nẻo là nguy hiểm, Phật nói:
‘’Ðược thân người như đất trong bàn tay;
Mất đi thân người như đất ngoài đại địa‘’.

Chứng minh thân người khó được. Cổ đức nói:
‘’Thân người khó được nay đã được
Phật pháp khó nghe nay đã nghe;
Ðời nầy chẳng mau độ thân nầy,
Còn đợi chừng nào độ thân nầy ? ‘’

 

Nhược kiến chúng hội, Nếu thấy chúng hội
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Thuyết thậm thâm Pháp, Nói pháp thâm sâu
Nhất thiết hòa hợp. Tất cả hòa hợp.

Nếu như thấy đại chúng tụ họp lại với nhau thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, nói diệu pháp thâm sâu vô thượng, khiến cho tất cả hòa hợp mà chẳng tranh luận.

 

Nhược kiến Đại trụ Nếu thấy cây lớn
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Ly ngã tránh tâm, Lìa tâm tranh luận
Vô hữu phẫn hận. Chẳng có phẫn hận.

Nếu như thấy cây lớn thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, lìa khỏi tâm tranh luận, chẳng có tâm phẫn hận. Tức cũng là kẻ oán người thân đều bình đẳng, đều xem như nhau, do đó: ‘’Oán nên giải không nên kết‘’, ai ai cũng quán như thế thì mọi sự đều tốt đẹp.

 

Nhược kiến tùng lâm, Nếu thấy tùng lâm
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Chư Thiên cập nhân, Các trời và người
Sở ưng kính lễ. Đều nên kính lễ.

Nếu như gặp Tùng Lâm thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, các người trên trời và người ở nhân gian đều nên cung kính lễ bái, đừng có tâm cống cao ngã mạn.

Người xuất gia ở trong đạo tràng gọi là tùng lâm. Tại sao ? Vì mỗi người xuất gia, giống như một cây lớn. Mọi người ở một chỗ với nhau, cùng nhau sinh sống, giống như tùng lâm, cho nên gọi là Tùng Lâm.

 

Nhược kiến cao sơn, Nếu thấy núi cao
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Thiện căn siêu xuất, Căn lành vượt trội
Vô năng chí đảnh. Chẳng ai đến đỉnh.

Nếu như thấy núi cao thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, căn lành vượt hơn tất cả mọi người. Ðã đạt đến đỉnh cao nhất, chẳng ai có thể đến đỉnh được.

 

Kiến cức thứ thọ, Thấy cây gai đâm
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Đâm phải ba độc tam độc chi thứ.
Mau được quét sạch. tật đắc tiễn trừ,

Khi thấy cây gai đâm thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh mau quét sạch tham sân si ba độc đâm chích. Ba độc nầy lợi hại giống như tên độc, nếu bất hạnh bị đâm trúng, nhẹ thì hôn mê bất tỉnh, nặng thì có thể mất mạng.

 

Kiến thọ diệp mậu Thấy cây sum sê
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Dĩ định giải thoát, Dùng định giải thoát
Nhi vi ấm ánh. Làm bóng sáng che.

Khi thấy cây cối sum sê thì nên phát nguyện. Xin nguyện chúng sinh, dùng định lực giải thoát để làm bóng sáng che. Giống như bóng cây che mát, khiến cho chúng sinh được mát mẻ.

 

Nhược kiến hoa khai, Nếu thấy hoa nở
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Thần thông đẳng Pháp, Thần thông các pháp
Như hoa khai phu. Như hoa khai nở.

Nếu như thấy hoa nở thì nên phát nguyện. Nguyện cho chúng sinh đều đắc được thần thông diệu dụng không thể nghĩ bàn và các pháp, giống như hoa nở rộ sum sê.

 

Nhược kiến thọ hoa, Nếu thấy cây hoa
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Chúng tướng như hoa, Các tướng như hoa
Cụ tam thập nhị. Đủ ba mươi hai.

Nếu như thấy cây nở hoa thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, tất cả các tướng giống như hoa, đầy đủ ba mươi hai tướng đại nhân, tám mươi vẻ đẹp.

 

Nhược kiến quả thật, Nếu thấy trái thật
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Hoạch tối thắng Pháp, Được pháp thù thắng
Chứng Bồ-đề đạo. Chứng đạo bồ đề.

Nếu thấy cây kết trái thật thì nên phát nguyện. Xin nguyện chúng sinh được pháp thù thắng, chứng được đạo bồ đề, tức cũng là Niết Bàn giác đạo.

 

Nhược kiến đại hà, Nếu thấy sông lớn
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Đắc dự Pháp lưu, Được vào dòng pháp
Nhập Phật trí hải. Vào biển trí Phật.

Nếu như thấy sông lớn thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, vào được dòng pháp. Tức cũng là nhập vào dòng Thánh nhân pháp tánh, mới có thể vào biển trí huệ của Phật.

 

Nhược kiến pha trạch, Nếu thấy đầm trạch
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Tật ngộ chư Phật, Mau ngộ một vị
Nhất vị chi Pháp. Pháp của chư Phật.

Nếu như thấy chỗ có nước ứ đọng, thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, phải mau giác ngộ một vị pháp của ba đời chư Phật, tức cũng là đạo lý các pháp thật tướng.

 

Nhược kiến trì chiểu, Nếu thấy ao hồ
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Ngữ nghiệp mãn túc, Ngữ nghiệp đầy đủ
Xảo năng diễn thuyết. Khéo về diễn nói.

Nếu như thấy ao hồ thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, nghiệp lời thiện đầy đủ, dùng phương tiện khéo léo, để diễn nói đạo lý các pháp thật tướng.

 

Nhược kiến cấp tỉnh, Nếu thấy giếng nước
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Cụ túc biện tài, Đầy đủ biện tài
Diễn nhất thiết pháp. Nói tất cả pháp.

Nếu như thấy giếng nước, thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, đầy đủ bốn biện tài (pháp vô ngại biện tài, nghĩa vô ngại biện tài, từ vô ngại biện tài, lạc thuyết vô ngại biện tài), khéo diễn nói tất cả diệu pháp.

 

Nhược kiến dũng tuyền, Nếu thấy suối vọt
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Phương tiện tăng trưởng, Phương tiện tăng trưởng
Thiện căn vô tận. Căn lành vô tận.

Nếu như thấy suối vọt, thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, trí phương tiện tăng trưởng, căn lành chẳng cùng tận.

Chúng sinh chẳng trồng căn lành, thì khiến cho trồng căn lành. Người đã trồng căn lành thì khiến cho tăng trưởng. Người căn lành đã tăng trưởng, thì khiến cho chín mùi. Người căn lành đã chín mùi thì khiến cho giải thoát.

 

Nhược kiến kiều đạo, Nếu thấy cầu đường
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Quảng độ nhất thiết, Rộng độ tất cả
Do như kiều lương. Như là cầu lương.

Nếu thấy cầu đường, thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, rộng độ tất cả chúng sinh như là cầu lương. Ðộ chúng sinh từ bờ sinh tử bên nầy, qua đến bờ Niết Bàn bên kia. Tóm lại, muốn qua sông sinh tử thì phải có cầu Bát Nhã.

 

Nhược kiến lưu thủy, Nếu thấy nước chảy
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Đắc thiện ý dục, Được ý muốn thiện
Tẩy trừ hoặc cấu. Tẩy trừ cấu hoặc.

Nếu thấy chỗ có nước chảy thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, được ý muốn thiện, tẩy trừ cấu hoặc, vĩnh viễn thanh tịnh. Chúng ta từ vô lượng kiếp đến nay, cứ khởi hoặc, tạo nghiệp, thọ báo. Ðây tức là cấu hoặc.

 

Kiến tu viên phố, Thấy người làm vườn
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Ngũ dục phố trung, Cạo bỏ cỏ ái
Vân trừ ái thảo. Trong vườn năm dục.

Khi thấy có người làm vườn, thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, cạo bỏ cỏ ái dục trong vườn năm dục (tài sắc danh ăn ngủ), nó chướng ngại trong vườn bồ đề, hay khiến cho chúng sinh đọa lạc. Chúng ta phải cạo tận gốc rễ mới dứt hậu hoạn. Cho nên người tu hành phải dứt dục trừ ái, tức là nhổ sạch rễ cỏ ái, khiến cho nó vĩnh viễn chẳng sinh ra nữa.

 

Kiến Vô ưu lâm, Thấy rừng vô ưu
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Vĩnh ly tham ái, Vĩnh lìa tham ái
Bất sanh ưu bố. Chẳng sinh lo sợ.

Khi thấy rừng cây vô ưu, thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, vĩnh viễn xa lìa tâm tham và tâm ái, thì sẽ đắc được bình an chẳng lo âu, chẳng sợ hãi. Nếu không, thì lúc nào cũng ở trong lo sợ.

Phật là người nghiệp sạch tình không, chúng sinh là người nghiệp nặng tình mê. Nếu dụng công tu hành, dần dần nghiệp sẽ tiêu sạch, tình cũng không còn nữa, như vậy thì sẽ thành Phật.

Tại sao nghiệp chẳng sạch, tình chẳng không? Vì có tâm tham, tâm ái, tâm sân, tâm si, cho nên tâm bồ đề chẳng sinh trưởng, nên không thể thành Phật.

 

Nhược kiến viên uyển, Nếu thấy vườn tược
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Cần tu chư hạnh, Siêng tu các hạnh
Thú Phật Bồ-đề Hướng Phật bồ đề.

Nếu như thấy vườn tược, thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, siêng tu tất cả hạnh môn, hướng về Phật bồ đề, tức là đến quả vị giác ngộ.

Nữ hoàng đế Võ Tắc Thiên đời Ðường, bà ta hạ chiếu cho thần hoa quản lý tất cả hoa, mùa đông đều nở hết. Mới làm bài thơ rằng:

‘’Minh triều du thượng uyển
Quả thụ bao xuân chi
Hoa tu vận dạ phát
Mạc đãi noãn phong xuy‘’.

Ngày thứ hai, bà ta ngự vườn hoa xem, thì quả nhiên hết thảy hoa cỏ cây cối đều nở rộ, rất mỹ lệ. Lòng của bà ta rất vui mừng, tự biết có mạng làm vua. Chẳng những hữu tình chúng sinh phục tùng mạng lệnh của bà ta, mà vô tình chúng sinh cũng phục tùng mạng lệnh của bà ta.

Thuở xưa, Võ Tắc Thiên đã từng được Phật thọ ký, ở Trung Quốc sẽ có một nữ Hoàng Ðế để hộ trì Phật pháp. Ðời tư của ba ta, tuy lãng mạng, bị người chửi rủa, nhưng đối với Phật pháp, bà ta có sự cống hiến rất lớn. Bộ Kinh Hoa Nghiêm nầy, là do ba ta phái người đến Tây Vực nước Vu Chấn, thỉnh về để dịch ra, đó là Tam Tạng Pháp Sư Thật Xoa Nan Ðà dịch (Ðời nhà Tấn có Tam Tạng Pháp Sư Phật Ðà Bạt Ðà La đã dịch sáu mươi quyển), thành tám mươi quyển, lưu truyền thế gian. Bà ta là công thần của Phật Giáo, có ghi bài kệ:

‘’Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp
Bách thiên vạn ức nan tao ngộ
Ngã kim kiến văn đắc thọ trì
Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa‘’.

Bài kệ nầy đã truyền đến ngày nay, khi tụng Kinh thì trước hết tụng bài kệ nầy.

 

Kiến nghiêm sức nhân, Thấy người nghiêm sức
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Tam thập nhị tướng, Được ba hai tướng
Dĩ vi nghiêm hảo. Dùng để trang nghiêm.

Khi thấy người trang nghiêm tu sức, thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, đắc được ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp, để làm trang nghiêm tốt đẹp, khiến cho người thấy đều khởi tâm cung kính.

 

Kiến vô nghiêm sức, Thấy chẳng nghiêm sức
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Xả chư sức hảo, Xả các trang sức
Cụ Đầu-đà hạnh. Đủ hạnh đầu đà.

Khi thấy người chẳng nghiêm sức, thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, xả bỏ tất cả đồ trang sức, đầy đủ hạnh đầu đà (khổ hạnh).

Ðầu đà dịch là “đẩu số”, tức là phát khởi tinh thần, khắc phục khó khăn. Tức cũng là luôn tinh tấn chẳng ngừng nghỉ. Ðầu đà có mười hai thứ:

  1. Ở nơi A Lan Nhã: Tức là nơi vắng lặng, yên tĩnh, xa chỗ ồn ào.
  2. Thường đi khất thực: Chẳng ăn thức ăn của Tăng đoàn.
  3. Khất thực thứ lớp: Chẳng lựa nhà giàu nghèo.
  4. Ngày ăn một bữa: Chỉ ăn một bữa vào giờ ngọ, quá ngọ không ăn.
  5. Ăn có tiếc lượng: Chỉ thọ một bát cơm.
  6. Quá ngọ chẳng uống nước có chất bổ: Quá ngọ chẳng uống sữa, mật.
  7. Mặc y phấn tảo: Lượm vải người bỏ, nhuộm may y mặc.
  8. Chỉ có ba y: Tức là y năm điều, y bảy điều và y hai mươi lăm điều.
  9. Ngồi chỗ mồ mả: Ở chỗ mồ mả.
  10. Ðêm nghỉ dưới gốc cây: Ngồi tĩnh tọa dưới gốc cây, nhưng chẳng quá ba đêm.
  11. Ngồi ở giữa trời: Ngồi nơi lộ thiên, chẳng sợ gió thổi, nắng nóng.
  12. Thường ngồi không nằm: Tức là đêm ngủ ngồi chẳng nằm ra, ngồi kiết già mà ngủ.

 

 

Kiến lạc trước nhân, Thấy người chấp vui
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Dĩ pháp tự ngu, Lấy pháp làm vui
Hoan ái bất xả. Hoan hỉ chẳng bỏ.

Khi thấy người chấp trước khoái lạc, thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, dùng pháp để làm vui, tức cũng là lạy Phật, bái sám, niệm Phật, tụng Kinh, trì chú, ngồi thiền .v.v… hoan hỉ pháp vui mà chẳng xả bỏ, như vậy mới phá trừ chấp vui.

 

Kiến vô lạc trước, Thấy chẳng chấp vui
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Hữu vi sự trung, Trong việc hữu vi
Tâm vô sở lạc. Tâm chẳng chỗ vui.

Khi thấy người chẳng có chấp vui, thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, ở trong việc có hình, có tướng, thì trong tâm chẳng có tham trước bất cứ cảnh giới gì.

 

Kiến hoan lạc nhân, Thấy người an vui
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Thường đắc an lạc, Thường được an lạc
Lạc cúng dường Phật. Ưa cúng dường Phật.

Khi thấy người hoan hỉ khoái lạc, thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, thường được an ổn khoái lạc. Làm sao đắc được ? Trước hết phải biết đủ, sau phải nhẫn nại. Do đó có câu:

‘’Biết đủ an vui
Nhẫn nại bình yên‘’.

Phải hoan hỉ cúng dường chư Phật.

 

Kiến khổ não nhân, Thấy người khổ não
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Hoạch căn bổn trí, Được trí căn bản
Diệt trừ chúng khổ. Diệt trừ các khổ.

Khi thấy người thống khổ phiền não, thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, đắc được trí huệ căn bản, để diệt trừ tất cả khổ não. Tại sao lại có khổ ? Vì chẳng có trí huệ. Ðối với sự việc nhìn chẳng rõ, hoặc chẳng nhận thức, thì sẽ sinh ra khổ não. Người có trí huệ thì nhìn xuyên thủng tất cả, buông xả đặng, sẽ đắc được tự tại. Tự tại tức là khoái lạc. Vì thế giới nầy là thế giới vạn khổ thiêu đốt, vạn ác đầy dẫy, cho nên ai ai cũng có khổ não. Làm thế nào để chẳng còn khổ não ? Thì phải siêng tu giới định huệ, diệt trừ tham sân si.

 

Kiến vô bệnh nhân, Thấy người không bệnh
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Nhập chân thật tuệ, Vào trí chân thật
Vĩnh vô bệnh não. Vĩnh chẳng bệnh não.

Khi thấy người chẳng có tật bệnh, thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, đắc được trí huệ chân thật, vĩnh viễn chẳng có bệnh tật phiền não. Tại sao hay có bệnh tật ? Vì chẳng an vui. Do đó có câu:

‘’ Tự cổ thần tiên chẳng phép khác

Rộng sinh hoan hỉ chẳng sinh buồn‘’.

Ðây là bí quyết thân tâm khỏe mạnh.

 

Kiến tật bệnh nhân, Thấy người bệnh tật
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Tri thân không tịch, Biết thân không tịch
Ly quai tránh Pháp. Lìa khỏi tranh luận.

Khi thấy người có bệnh tật, thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, phải biết thân thể là do bốn đại (đất nước gió lửa) giả hợp mà thành, vốn là không tịch, đừng chấp trước thân thể nầy. Khi bốn đại nầy phân tán, thì chẳng còn gì nữa. Hiện tại là ‘’mượn giả tu chân‘’, nghĩa là tu pháp thân chân như. Tức nhiên biết thân thể là không tịch, thì nên lìa khỏi pháp tranh luận, nghĩa là đừng tranh với người, đừng tranh với đời, đạt đến cảnh giới tam muội không tranh.

 

Kiến đoan chánh nhân, Thấy người xinh đẹp
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Ư Phật Bồ-tát, Nơi Phật Bồ Tát
Thường sanh tịnh tín. Thường sinh tịnh tín.

Khi thấy người ngũ quan xinh đẹp, thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, ở trước Phật Bồ Tát, phải thường có tâm tin thanh tịnh, không thể sinh tâm hoài nghi, hoặc tâm phỉ báng.

Người ngũ quan đoan chánh, là do thuở xưa hoan hỉ cúng dường chư Phật.

Trong Kinh Nhân Quả có nói:
‘’Ðời nầy xinh đẹp sắc mặt tốt
Ðời trước hương hoa cúng trước Phật‘’.

Trong bổn Kinh nầy có nói:
‘’Tin là nguồn đạo mẹ công đức
Dưỡng lớn tất cả các pháp lành‘’.

Lại nói:
‘’Phật pháp như biển cả
Chỉ tin mới vào được‘’.

Cho nên nghiên cứu Phật pháp, phải có tín, giải, hành, chứng, bốn giai đoạn, mới có sở thành tựu.

 

Kiến xú lậu nhân, Thấy người xấu xí
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Ư bất thiện sự, Nơi việc chẳng lành
Bất sanh lạc trước. Đừng sinh vui chấp.

Khi thấy người ngũ quan xấu xí, thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, đối với việc chẳng lành, thì đừng sinh tâm vui chấp, nên xa lìa tà tri tà kiến, nên gần gũi chánh tri chánh kiến.

Người xấu xí là do nghiệp chướng quá nặng, giống như A Tu La, tức là chẳng xinh đẹp. Tại sao chẳng xinh đẹp ? Vì chúng ưa thích đấu tranh, làm thương hại ngũ quan của người, cho nên khi làm A Tu La thì ngũ quan chẳng xinh đẹp. Do đó có câu:
‘’Ðời nầy giết hại nhiều
Đời sau chẳng xinh đẹp‘’.

 

Kiến báo ân nhân, Thấy người báo ân
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Ư Phật Bồ-tát, Nơi Phật Bồ Tát
Năng tri ân đức Nên biết ân đức.

Khi thấy người biết báo ân đức, thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, đối với chư Phật Bồ Tát, nên biết ân đức của Phật, ân đức của Bồ Tát. Vậy, Phật Bồ Tát đối với chúng ta có ân đức gì ? Trong quá khứ, Phật vì giáo hóa chúng sinh, mà đã từng bố thí đầu mắt tủy não, khiến cho chúng sinh phát bồ đề tâm, sớm thành Phật đạo. Do đó có câu:

‘’Thọ nhân đích thủy chi ân
Đương tư dũng tuyền chi báo’’

Nghĩa là:
‘’Nhận một giọt nước của người
Hãy nghĩ báo đáp cả suối nước‘’.

Hết thảy chúng sinh nên báo ân Phật, ân Bồ Tát, ân cha mẹ, ân sư trưởng. Sau khi làm công đức rồi, nhất định phải hồi hướng, đọc:
‘’Nguyện đem công đức nầy
Trang nghiêm cõi Phật thanh tịnh
Trên đền bốn ân nặng
Dưới cứu ba đường khổ

Nếu ai có thấy nghe
Đều phát tâm bồ đề
Khi xả báo thân nầy
Đồng sinh về Cực Lạc‘’.

 

Kiến bối ân nhân, Thấy người bội ân
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Ư hữu ác nhân, Với người tội ác
Bất gia kỳ báo. Đừng thêm báo thù.

Khi thấy người vong ân bội nghĩa, thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, đối với người có tội ác, thì phải dùng đức để cảm hóa, chứ đừng sinh tâm báo thù.

 

Nhược kiến Sa Môn, Nếu thấy Sa Môn
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Điều nhu tịch tĩnh, Điều nhu vắng lặng
Tất cánh đệ nhất. Rốt ráo bậc nhất.

Nếu như thấy Sa Môn (người xuất gia), thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, điều hòa tâm tánh cang cường của mình, biến thành nhu thuận, chẳng có phiền não, tức là vắng lặng. Nếu chẳng có giạn dữ, thì rất an lạc, tương lai nhất định thành bậc Nhất thiết trí, tức cũng là Phật. Sa Môn dịch là “tức từ”, tức là siêng tu giới định huệ, diệt trừ tham sân si, tức cũng là Tỳ Kheo. Tỳ kheo dịch là “khất sĩ”, ngoài khất xin thức ăn dưỡng sắc thân, trong xin pháp nuôi huệ mạng.

 

Kiến Bà-la-môn, Thấy Bà la môn
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Vĩnh trì phạm hạnh, Luôn giữ phạm hạnh
Ly nhất thiết ác. Lìa tất cả ác.

Khi thấy Bà La Môn (tu hạnh thanh tịnh) thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh. Xin nguyện tất cả chúng sinh, vĩnh viễn tu trì hạnh thanh tịnh, lìa bỏ tất cả hạnh ác.

Bà La Môn là Ấn Ðộ Giáo, tu hành rất nhận chân, cũng ăn chay, tu khổ hạnh. Song, có lúc sinh tâm sân hận, cho nên có ác.

 

Kiến khổ hạnh nhân, Thấy người khổ hạnh
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Y ư khổ hạnh, Nương nơi khổ hạnh
Chí cứu cánh xứ. Đến nơi rốt ráo.

Khi thấy người tu khổ hạnh, thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, phải nương công đức khổ hạnh, để đạt đến nơi rốt ráo, tức cũng là đến quả vị Phật.

Tu khổ hạnh có thể trợ đạo, nhưng không thể tu khổ hạnh vô ích. Ngoại đạo ở Ấn Ðộ, nào là giữ giới bò, giữ giới chó, học lối sống của bò chó, cho rằng có thể sinh về trời. Họ chẳng biết nhân quả tại sao bò, chó, sinh về trời. Ðây là tu đuôi luyện mù, lãng phí công phu. Có khổ hạnh có ích, tức là hạnh đầu đà. Nhẫn điều mà người khác không thể nhẫn, chịu điều người khác không thể chịu, lấy khổ làm vui. Tôi thường nói:

‘’Chịu khổ thì hết khổ
Hưởng phước thì hết phước‘’.

Người tu khổ hạnh phải chú ý ! Tất cả không thể miễn cưỡng, tùy theo tự nhiên, nếu quá miễn cưỡng thì sẽ dễ tẩu hỏa nhập ma.

 

Kiến thao hạnh nhân, Thấy người giữ hạnh
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Kiên trì chí hạnh, Kiên trì chí hạnh
Bất xả Phật đạo. Không bỏ Phật đạo.

Thấy người tánh tình hòa mục, hành vi thanh cao, lúc đó phải phát nguyện. Xin nguyện cho tất cả chúng sinh, phải kiên trì chí nguyện và hành vi của mình. Vĩnh viễn y chiếu Phật pháp mà tu hành, sớm thành Phật đạo.

 

Kiến trước giáp trụ, Thấy người mặc giáp
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Thường phục thiện khải, Thường mặc giáp lành
Thú vô sư Pháp. Hướng pháp vô sư.

Khi thấy người mặc đồ giáp, thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, thường mặc giáp lành, hướng về pháp không thầy tự thông hiểu.

Người tu hành có một loại giáp, tức là thiện. Phải mặc giáp tinh tấn, dũng mãnh tiến về trước, phá tan mười quân ma lớn, thì nhất định sẽ thắng lợi.

Mười quân ma lớn đó là:
1). Dục là quân thứ nhất.
2). Sầu muộn là quân thứ hai.
3). Ðói khát là quân thứ ba.
4). Ái là quân thứ tư.
5). Thùy miên là quân thứ năm.

6). Sợ hãi là quân thứ sáu.
7). Nghi là quân thứ bảy.
8). Hàm độc là quân thứ tám.
9). Lợi dưỡng là quân thứ chín.
10). Tự cao là quân thứ mười.

 

Kiến vô khải trượng, Thấy không mặc giáp
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Vĩnh ly nhất thiết, Vĩnh lìa tất cả
Bất thiện chi nghiệp. Những nghiệp bất thiện.

Khi thấy người chẳng mặc giáp, thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, vĩnh viễn lìa khỏi tất cả nghiệp bất thiện. Nếu chẳng có nghiệp ác, thì căn lành sẽ tăng trưởng mà được giải thoát.

 

Kiến luận nghị nhân, Thấy người luận nghị
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Ư chư dị luận, Nơi các dị luận
Tất năng tồi phục. Đều hàng phục được.

Khi thấy người khéo biện luận nghị, thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, phải phá tan tất cả dị luận (tà tri tà kiến) khác.

Ở Ấn Ðộ có luận sư ngoại đạo, khéo luận nghị, lấy phải làm trái, lấy đen làm trắng, dù chẳng có đạo lý mà biện ra có đạo lý. Tuy họ có biện tài vô ngại, nhưng thuộc về thế trí biện thông, một chút cũng chẳng qua được sự khảo nghiệm, cho nên xưa kia có lúc sai một ly đi ngàn dặm, đem chân lý biến thành luận bậy.

 

Kiến chánh mạng nhân, Thấy người chánh mạng
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Đắc thanh tịnh mạng, Được mạng thanh tịnh
Bất kiểu uy nghi. Chẳng giả oai nghi.

Khi thấy người nghề nghiệp chánh đáng thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh đắc được mạng thanh tịnh, chẳng giả bộ oai nghi, nghĩa là chẳng hiện tướng kỳ đặc.

Người tu hành không nên làm năm thứ tà mạng để sinh sống:

1). Trá hiện kỳ đặc: Cố ý hiện ra chẳng giống như mọi người khác. Tại sao ? Vì muốn khiến người chú ý.

2). Tự nói công đức: Nghĩa là tự mình tuyên truyền. Tôi làm những công đức gì ? Có cống hiến gì cho chúng sinh ? Tự mình khen ngợi mình. Nói theo nhà nho thì là ‘’khoe thiện’’, phô trương tài năng của mình. Trong Luận Ngữ có nói rằng: Một ngày nọ Nhan Hồi và Tử Lộ đứng hầu bên cạnh Khổng Tử.

– Khổng Tử nói: ‘’Mỗi người hãy nói theo chí nguyện của mình.’’

– Tử Lộ nói: ‘’Nguyện đem xe, ngựa, quần áo, chia sẻ cho bạn bè cùng hưởng với nhau, mà tôi cũng chẳng oán giận.’’

– Nhan Hồi nói: Tôi nguyện chẳng khoe khoang việc tốt lành của mình, chẳng phô trương công đức của mình.’’

Ðây là chí nguyện của Nhan Hồi, cao minh hơn Tử Lộ. Chí nguyện của Tử Lộ là hữu hình, còn chí nguyện của Nhan Hồi là vô hình.

3). Chiêm bói tướng cát hung: Vì người chiêm bói, xem tướng, phê bát tự, chuyên môn nói về việc lành dữ họa phước để uy hiếp người: Nếu phá giải thì phải đem tiền ra, mới có thể tiêu tai, hóa dữ làm lành. Ðây là hành vi gạt người, cho nên người xuất gia tuyệt đối cấm không được làm.

4). Cao thanh hiện oai, khiến cho người kính sợ: Hiện ra hình dạng oai phong, khiến cho người thấy mà sinh tâm cung kính và tâm sợ sệt.

5). Nói người cúng dường: Vào mỗi pháp hội, thì nói với cư sĩ phát tâm cúng dường như thế nào ? Lại nói pháp hội nào đó, có cư sĩ phát tâm cúng dường. Ðây là hóa duyên. Ðó là ý nghĩa đại khái về năm thứ tà mạn.

Hiện tại là thời đại mạt pháp, người thật sự hiểu biết Phật pháp, người y theo pháp tu trì, có được mấy người ? Người xuất gia chẳng phạm năm thứ tà mạn lại có được mấy người ? Có thể nói là ‘’lông phụng sừng lân,’’ ít lại càng ít !

Chúng ta người tu hành phải y chiếu Phật chế để tu hành, không thể chế ra điều khác theo ý của mình, làm cho khác lạ.

– Có người hỏi: ‘’Hòa Thượng ! Tức thầy nói như thế, các thầy Trung Quốc chẳng có đắp y, tại sao thầy lại đắp y‘’?

Hằng ngày tôi đắp y là giữ gìn theo Phật chế, chứ chẳng phải ‘’làm cho khác lạ’’. Phàm là đệ tử của Phật đều phải mặc y hàng ngày, vì khí hậu, hoàn cảnh, tập quán của Trung Quốc, cho nên chẳng mặc y. Kỳ thật đó là sai lầm, luôn luôn phải mặc y mới đúng. Ðây là Phật chế ra, chẳng có ai được sửa đổi.

Năm trước tôi có đến Ðài Loan giảng Kinh, có người ở trong điện thoại chất vấn rằng:

– ‘’Quý thầy ở Mỹ đến, hằng ngày mặc y, ngày ăn một bữa, thường ngồi không nằm. Nếu các thầy đúng, thì Phật giáo Trung Quốc không đúng. Nếu các thầy không đúng, thì Phật giáo Trung Quốc đúng.’’

– Hỏi rất là lợi hại, tôi đáp trong điện thoại: ‘’Phật giáo tại Trung Quốc chẳng đắp y, cho là đúng, vậy cứu kính đúng hay không đúng ? Chẳng có ai biết, cũng chẳng có ai hiểu. Vì ông cũng chẳng mặc y, họ cũng chẳng mặc y, mọi người đều như thế, cho nên chẳng mặc y. Các vị thấy y các thầy bên Nam Tông mặc, đó mới là chân chánh y chiếu theo Phật chế. Vì khí hậu Trung Quốc lạnh, mùa đông phải mặc quần áo, cho nên đắp y bên ngoài áo lạnh, có lúc gió lớn thổi rớt, mình còn chẳng biết. Lúc đó, ông thầy thông minh, hòa thượng ngu dốt, bèn nghĩ ra một biện pháp, chọn ra một pháp phương tiện để giải quyết vấn đề này, do đó hình thành kiểu dạng hiện nay. Người xuất gia nên luôn luôn đắp y, vì lâu ngày tháng dài, cầu kỳ phương tiện, mọi người chẳng đắp y, thì lâu dần đã thành tập quán. Vấn đề này nên khảo chứng một phen. ’’

Ðắp y là hiện tướng Tỳ Kheo, có thể thọ trời, người cúng dường. Nếu chẳng đắp y thì chẳng thành tướng Tỳ Kheo, mất đi oai nghi của Tỳ Kheo. Vì người Tiểu thừa quá chấp trước, cho nên chẳng cầu tiến bộ, có giới hạn nhất định. Song, người Ðại thừa quá phương tiện, tất cả chẳng có quan hệ, không đắp y cũng được, ngược lại nói đắp y là không đúng, thật khiến cho người cười thị phi !

 

Nhược kiến ư Vương, Nếu thấy ông vua
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Đắc vi pháp vương, Được làm Pháp vương
Hằng chuyển chánh pháp. Luôn chuyển chánh pháp.

Nếu như thấy được hoàng đế, thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh được làm Pháp vương, luôn luôn chuyển đại pháp luân, để giáo hóa chúng sinh, khiến cho chúng sinh lìa khổ ba cõi, được vui Niết Bàn.

 

Nhược kiến Vương tử, Nếu thấy thái tử
Đương nguyện chúng sanh: Xin Nguyện chúng sinh
Tùng pháp hóa sanh, Từ pháp hóa sinh
Nhi vi Phật tử. Mà làm Phật tử.

Nếu như thấy được thái tử, thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, từ Pháp vương hóa sinh, mà làm đệ tử của Phật.

Phật từ nơi các pháp mà đắc được thù thắng tự tại, cho nên gọi là pháp vương. Từ miệng Phật sinh, tiếp nối huệ mạng của Phật, cho nên gọi là con của đấng Pháp Vương, phàm là tùy thuận Phật đạo, dùng pháp làm thức ăn đều là pháp tử.

 

Nhược kiến Trưởng-giả, Nếu thấy trưởng giả
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Thiện năng minh đoạn, Khéo sự phán quyết
Bất hành ác pháp. Chẳng làm điều ác.

Nếu như thấy được trưởng giả cao niên có đức, thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh khéo biện minh phán đoán, nhận rõ thị phi thiện ác, như thế mới có thể không làm điều ác.

 

Nhược kiến đại thần, Nếu thấy đại thần
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Hằng thủ chánh niệm, Luôn giữ chánh niệm
Tập hành chúng thiện. Tập làm điều lành.

Nếu như thấy được đại thần, thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, luôn luôn giữ chánh niệm, học tập thực hành tất cả việc lành.

Ở trên là năm mươi lăm nguyện, là nguyện phát ra lúc đi khất thực hành đạo. Mười hai nguyện đầu là lúc đi trên đường, mười chín nguyện kế tiếp, là lúc thấy sự cảnh, hai mươi bốn nguyện sau là lúc gặp nhân vật.

 

Nhược kiến thành khuếch, Nếu thấy thành quách
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Đắc kiên cố thân, Được thân kiên cố
Tâm vô sở khuất. Tâm chẳng khuất phục.

Nếu như thấy được thành trong quách ngoài, thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh được thân thể kiên cố, tâm chẳng quanh co mà là ngay thẳng. Nghĩa là chẳng ích kỷ lợi mình, đại công vô tư.

 

Nhược kiến Vương đô, Nếu thấy kinh đô
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Công đức cọng tụ, Công đức cùng tụ
Tâm hằng thiện lạc. Tâm luôn vui mừng.

Nếu như thấy được kinh đô, thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh tụ công đức lại với nhau. Trong tâm thường sinh hoan hỷ vui mừng. Do đó, có câu:

‘’Làm việc thiện là điều vui nhất’’.

Giúp người là gốc của sự vui.

 

Kiến xứ lâm tẩu, Thấy nơi rừng chằm
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Ưng vi Thiên Nhân, Nên vì trời người
Chi sở thán ngưỡng. Làm chỗ khen ngưỡng.

Thấy được rừng cây và hồ đầm có cỏ, thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, nên vì trời người làm chỗ khen ngợi và ngưỡng mộ.

 

Nhập lý khất thực, Vào làng khất thực
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Nhập thâm pháp giới, Vào sâu pháp giới
Tâm vô chướng ngại. Tâm chẳng chướng ngại.

Khi vào làng đi khất thực, thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, vào pháp giới thâm sâu, tâm chẳng có chướng ngại, cũng chẳng có phiền não. Do đó, có câu:

‘’Muốn trừ phiền não trước phải quên cái ta.’’
Nếu chẳng có cái ta, thì phiền não gì cũng chẳng có.

 

Đáo nhân môn hộ, Đến cửa nhà người
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Nhập ư nhất thiết, Vào khắp tất cả
Phật Pháp chi môn. Các môn Phật pháp.

Khi đến cửa nhà người ta, thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, vào khắp tất cả tám vạn bốn ngàn pháp môn, thảy đều minh bạch thấu rõ, do đó có câu :

‘’Phật pháp như biển cả
Chỉ tin mới vào được’’.

 

Nhập kỳ gia dĩ, Vào nhà người rồi
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Đắc nhập Phật thừa, Được vào Phật thừa
Tam thế bình đẳng. Ba đời bình đẳng.

Khi vào nhà người ta rồi, thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, được vào duy nhất một Phật thừa, bình đẳng với ba đời chư Phật, mà chẳng có sự khác biệt. Ba thừa là phương tiện khéo léo, Phật thừa là chân thật viên mãn.

 

Kiến bất xả nhân, Thấy người chẳng xả
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Thường bất xả ly, Thường chẳng bỏ lìa
Thắng công đức Pháp. Pháp thắng công đức.

Khi thấy được người xan tham chẳng xả bỏ, thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, phải luôn luôn chẳng xả bỏ lìa khỏi pháp công đức thù thắng, tức cũng là làm nhiều việc thiện. Do đó có câu:

‘’Ðừng cho rằng việc ác nhỏ mà làm
Đừng cho rằng việc thiện nhỏ mà không làm.’’

Phải biết, việc ác tuy nhỏ, cũng đừng làm, vì việc ác lớn, là từ nhỏ tập tụ mà thành. Việc thiện tuy nhỏ, cũng phải làm, vì việc thiện lớn, là từ việc thiện nhỏ tích tụ mà thành.

 

Kiến năng xả nhân, Thấy người hay xả
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Vĩnh đắc xả ly, Vĩnh được xả lìa
Tam ác đạo khổ. Khổ ba đường ác.

Khi thấy người chịu bố thí, thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh vĩnh viễn lìa khỏi khổ ba đường ác. Tại sao hay đọa lạc vào ba đường ác ? Vì có tâm tham sân si ba độc, chúng sinh có tâm tham, thì đọa vào đường ngạ quỷ, chúng sinh có tâm sân, thì đọa vào đường súc sinh, chúng sinh có tâm si, thì đọa vào đường địa ngục, ba đường ác này, thật là khổ khó mà tả được.

 

Nhược kiến không bát, Nếu thấy bát không
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Kỳ tâm thanh tịnh, Tâm được thanh tịnh
Không vô phiền não. Không có phiền não.

Nếu như thấy bát không (trước khi khất thực), thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh tâm được thanh tịnh, chẳng có tham sân si thì chẳng có phiền não, luôn luôn an vui.

Chúng ta người tu hành, hằng ngày đang tu gì ? Tức là tu chẳng có phiền não. Do đó có câu:

‘’Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn.’’

Song, ‘’Phiền não tức bồ đề,’’ chẳng phải ngoài phiền não có bồ đề. Tức là trong phiền não tức là bồ đề, dễ như trở bàn tay. Dùng được tức là bồ đề, chẳng dùng được tức là phiền não. Giới định huệ tức là bồ đề, tham sân si là phiền não. Bồ đề tựa như nước, tùy duyên mà đổi, đổ vào chậu vuông thì hình vuông; đổ vào chậu tròn thì hình tròn, nhưng tánh nước chẳng thay đổi. Phiền não giống như băng, hình trạng chẳng đổi. Hình vuông không thể đổi hình tròn, hình tròn không thể đổi hình vuông. Nói tóm lại, dùng một bát nước tát lên đầu người, thì chẳng có cảm giác đau đớn gì; nếu dùng một bát nước đã đóng thành băng, phang lên đầu người, thì có thể làm chết người. Mục đích chúng ta tu hành là siêng tu giới định huệ, tức diệt tham sân si. Tức cũng là làm cho băng hóa thành nước, biến ngu si thành trí huệ.

 

Nhược kiến mãn bát, Nếu thấy bát đầy
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Cụ túc thành mãn, Đầy đủ thành mãn
Nhất thiết thiện pháp. Tất cả pháp lành.

Nếu như thấy bát đầy (có người cúng dường), thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, làm gì cũng đều đầy đủ, thành tựu, viên mãn, tất cả pháp lành. Năm giới, mười điều lành, là pháp lành thế gian, ba học, sáu độ là pháp lành xuất thế.

 

Nhược đắc cung kính Nếu được cung kính
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Cung kính tu hành, Cung kính tu hành
Nhất thiết Phật Pháp. Tất cả Phật pháp.

Tỳ Kheo ôm bát đi khất thực, nếu có người cung kính đảnh lễ, thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, phải tất cung tất kính Phật Pháp Tăng Tam Bảo, tu hành thân ngữ ý ba nghiệp và tất cả Phật pháp.

 

Bất đắc cung kính, Không được cung kính
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Bất hành nhất thiết, Chẳng làm tất cả
Bất thiện chi Pháp. Các pháp bất thiện.

Nếu như chẳng được người cung kính, thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, đừng làm tất cả các pháp chẳng lành.

 

Nhược đắc mỹ thực Thấy thức ăn ngon
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Mãn túc kỳ nguyện, Đầy đủ ước nguyện
Tâm vô tiện dục. Tâm chẳng dục vọng.

Nếu như thấy được thức ăn ngon, thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, đầy đủ những ước nguyện, cầu phú quý thì được phú quý, cầu sống lâu được sống lâu, mà tâm chẳng hâm mộ dục vọng của họ.

 

Đắc bất mỹ thực, Được thức ăn dở
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Mạc bất hoạch đắc, Thảy đều đắc được
Chư tam muội vị. Các vị tam muội.

Nếu được thức ăn chẳng ngon, thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, thảy đều đắc được từ vị của tất cả tam muội.

 

Đắc nhu nhuyễn thực Được thức ăn mềm
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Đại bi sở huân, Huân tập đại bi
Tâm ý nhu nhuyễn. Tâm ý mềm mại.

Nếu được thức ăn mềm, thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, huân tập đại bi nên tâm ý nhu hòa mà chẳng sân hận. Nhu nhuyến tức là nhẫn nhục, nhẫn nhục tức là tâm đại bi.

 

Đắc thô sáp thực, Được thức ăn cứng
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Tâm vô nhiễm trước, Tâm chẳng nhiễm trước
Tuyệt thế tham ái Dứt tham ái đời.

Khi được thức ăn cứng thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh tâm chẳng nhiễm trước, dứt hẳn tâm tham ái của thế gian.

 

Kiến vô tàm sỉ, Thấy không hổ thẹn
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Xả ly vô tàm, Lìa bỏ không thẹn
Trụ đại từ đạo. Trụ đạo đại-từ.

Khi thấy người biết hổ thẹn, thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, phải đầy đủ hành vi hổ thẹn, phải cẩn thận giữ gìn các căn, đừng chuyển theo cảnh giới.

Trong Luận Ngữ có nói:
‘’Phi lễ vật thị
Phi lễ vật thính
Phi lễ vật ngôn
Phi lễ vật động.’’

Ðây là phương pháp che hộ các căn. Người tu hành phải thường sinh hổ thẹn, mới cung hành thực tiễn, trợ giúp cho sự tu hành, nếu chẳng hổ thẹn, thì vĩnh viễn chẳng thành tựu. Tại sao ? Vì chẳng biết sửa đổi lỗi lầm, chẳng biết tinh tấn, thì chẳng có ngày thành công.

 

kiến tàm sỉ nhân, Thấy người hổ thẹn
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Cụ tàm sỉ hạnh, Đủ hạnh hổ-thẹn
Tạng hộ chư căn. Che giữ căn-thân.

Khi thấy người chẳng biết hổ thẹn, thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, phải xả bỏ hành vi chẳng hổ thẹn. Hổ thẹn tức là biết lỗi sửa đổi. Thấy được pháp lành, chẳng dám phạm tội là hổ. Thấy việc xấu hổ thì tuyệt đối chẳng làm là thẹn. Như vậy sẽ trụ ở đạo đại từ bi.

 

Nhược phạn thực thời, Khi lúc ăn cơm
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Thiền duyệt vi thực Thiền duyệt vi thực
Pháp hỉ sung mãn. Pháp hỷ sung mãn.

Vào lúc ăn cơm thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, lúc ngồi thiền đắc được an vui nhẹ nhàng, lấy sự vui của thiền định làm thức ăn. Ngồi ở đó thì chẳng đói chẳng khát, đắc được niềm vui của pháp tràn trề. Ðây là cảnh giới ngồi thiền.

Bất cứ là người xuất gia hay tại gia, khi ăn cơm thì phải ba niệm năm quán. Ba niệm: Ðây là lúc múc cơm lên ăn.

– Muỗng cơm thứ nhất nói: Nguyện đoạn trừ tất cả điều ác.
– Muỗng cơm thứ hai nói: Nguyện tu tất cả điều lành.
– Muỗng cơm thứ ba nói: Nguyện độ tất cả chúng sinh.

Năm quán là:

1). Tính công bao nhiêu, từ đâu đến: Nghĩa là tính xem một hạt gạo, phải dùng bao nhiêu công sức mới thu hoạch được ? Suy nghĩ nó đến chẳng dễ dàng. Bài thơ xưa có nói:

‘’Giữa nắng trưa gay gắt
Nông dân nhọc nhằn cuốc
Mồ hôi đổ trên lúa
Mỗi hạt bao đáng cay’’!

Ðây là tả sự làm cực khổ của người nông dân. Cổ đức có nói:
‘’Hạt gạo thí chủ cho
Nặng bằng núi Tu Di
Ăn xong chẳng tu đạo
Mang sừng đội lông trả’’.

2). Xem đức hạnh của mình thiếu hay đủ thọ cơm này: Phải nghĩ xem đức hạnh của mình có đủ chăng ? Thọ người cúng dường tâm có hổ thẹn chăng ? Trong Tỳ Ni Mẫu Kinh có nói: ‘’Nếu chẳng ngồi thiền tụng Kinh, chẳng làm việc Phật, Pháp, Tăng, mà thọ của đàn na thì sẽ bị đọa.’’

3). Phòng ngừa tâm đừng phạm lỗi, tham là gốc: Phải phòng tâm phòng ý, đừng khởi lỗi lầm tham ăn.

4). Thức ăn là thuốc hay, khiến thân khỏi khô héo: Ăn uống là thuốc hay chữa trị thân hình khô héo, khi ăn thì đừng cầu ngon dở, phải mượn giả tu thật, chỉ vì dưỡng thân để tu Phật đạo. Ðó là mục đích ăn cơm.

5). Vì thành đạo nghiệp mới thọ cơm này: Vì cầu Phật pháp, vì thành đạo nghiệp mới dùng cơm. Song, chẳng phải tham ăn. Do đó: ‘’Tham nhiều nhai chẳng nát.’’ Lãng phí thức ăn thì ngược lại có hại cho thân thể. Cho nên Phật chế ngày ăn một bữa trưa, chẳng những hợp vệ sinh mà còn sống lâu.

 

Nhược thọ vị thời, Nếu lúc thọ vị
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Đắc Phật thượng vị, Được thượng vị Phật
Cam lồ mãn túc. Cam lồ đầy đủ.

Nếu như lúc thọ vị, thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, đắc được vị tối thượng của Phật, thường có vị đạo cam lồ, đầy đủ phi thường.

Khi Bồ Tát Phổ Hiền hành đạo Bồ Tát, thì vì điều hòa khẩu vị của đại chúng, lúc quá đường dùng trai, trên thân mang đến rất nhiều thứ bánh, đủ mùi vị. Ai thích ăn mặn, thì Ngài thêm chút muối. Ai thích ăn ngọt, thì Ngài thêm chút đường. Ai thích ăn chua, Ngài thêm chút dấm. Ai thích ăn cay, thì Ngài thêm chút ớt. Tóm lại đều khiến cho đại chúng hợp đầy đủ khẩu vị. Song, còn có người cho rằng phục vụ chẳng chu đáo, tại sao ? Vì khẩu vị của đại chúng khó điều hòa.

 

Phạn thực dĩ cật, Khi ăn cơm xong
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Sở tác giai biện, Sự việc đều xong
Cụ chư Phật Pháp Đủ các Phật pháp.

Khi ăn cơm xong, thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, hết thảy sự việc đều hoàn thành, đầy đủ tất cả Phật pháp. Khi dùng trai xong thì niệm:

‘’Những gì thí chủ cho
Đều đắc được lợi ích.
Nếu vui vẻ bố thí
Sau sẽ được an lạc.

Dùng cơm đã xong
Xin nguyện chúng sinh
Sự việc đều xong
Đủ các Phật pháp. ’’

 

Nhược thuyết Pháp thời, Nếu khi nói pháp
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Đắc vô tận biện, Được biện vô tận
Quảng tuyên pháp yếu. Rộng nói pháp mầu.

Nếu như lúc giảng Kinh thuyết pháp, thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, đắc được biện tài vô ngại, vô cùng tận, tuyên nói yếu nghĩa Phật pháp rộng lớn, tức cũng là pháp thâm sâu vi diệu vô thượng.

Ở trên hai mươi hai nguyện, là lúc vào thành khất thực nên phát nguyện. Mỗi một nguyện đều vì chúng sinh mà phát, khiến cho chúng sinh đắc được lợi ích.

 

Tùng xá xuất thời, Lúc ra khỏi nhà
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Thâm nhập Phật trí, Vào sâu trí Phật
Vĩnh xuất tam giới Vĩnh thoát ba cõi.

Lúc muốn đi ra khỏi nhà, thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, sớm vào sâu đại viên cảnh trí của Phật, do đó có câu: ‘’Vào sâu tạng Kinh, trí huệ như biển.’’ Lúc đó mới vĩnh viễn thoát khỏi tam giới hai mươi lăm cõi.

 

Nhược nhập thủy thời, Nếu lúc vào nước
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Nhập nhất thiết trí, Vào Nhất thiết trí
Tri tam thế đẳng. Biết rõ ba đời.

Nếu như lúc vào nước, thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh đắc được tất cả trí huệ, biết được nhân quả quá khứ, hiện tại và vị lai.

 

Tẩy dục thân thể, Tắm rửa thân thể
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Thân tâm vô cấu, Thân tâm chẳng dơ
Nội ngoại quang khiết. Trong ngoài sáng sạch.

Khi tắm rửa thân thể, thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, rửa sạch bụi bặm ngoài thân cho sạch sẽ, cũng phải rửa sạch ba độc trong tâm cho thanh tịnh. Như vậy trong ngoài sẽ quang minh sạch sẽ.

 

Thịnh thử viêm độc, Mùa nắng nóng độc
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Xả ly chúng não, Lìa bỏ khổ não
Nhất thiết giai tận. Tất cả đều sạch.

Khi mùa hè nắng nóng, thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, lìa bỏ tất cả khổ não, tiêu trừ sạch hết tất cả vọng tưởng phiền não thân tâm.

 

Thử thoái lương sơ, Hết nóng đến mát
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Chứng vô thượng pháp, Chứng pháp vô thượng
Cứu cánh thanh lương. Rốt ráo mát mẻ.

Lúc bắt đầu vào mùa thu gió mát, thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, chứng được pháp vô thượng, chẳng có nóng bức não hại, rốt ráo thân tâm mát mẻ, thoát khỏi nhà lửa ba cõi.

Năm nguyện ở trên là khất thực trở về trụ xứ, ăn cơm xong, tắm rửa thì phát nguyện.

 

Phúng tụng Kinh thời, Lúc đọc tụng Kinh
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Thuận Phật sở thuyết, Thuận pháp Phật nói
Tổng trì bất vong. Tổng trì chẳng quên.

Lúc đọc tụng Kinh điển, thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, phải tùy thuận pháp của Phật nói mà tu hành. Phải tổng tất cả pháp, trì vô lượng nghĩa, tổng trì chẳng quên, phải ghi nhớ Kinh văn và Chú.

 

Nhược đắc kiến Phật, Nếu được thấy Phật
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Đắc vô ngại nhãn, Được mắt vô ngại
Kiến nhất thiết Phật. Thấy tất cả Phật.

Nếu như khi thấy được Phật, thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, đắc được mắt chẳng chướng ngại, tức cũng là năm nhãn (nhục nhãn, thiên nhãn, huệ nhãn, pháp nhãn, Phật nhãn), thấy được mười phương ba đời tất cả chư Phật.

Người tu hành có lúc sẽ đắc được năm nhãn sáu thông, thấy được tất cả chư Phật. Có người chẳng tu hành, vì kiếp trước nổ lực tu hành, có căn lành rồi, cũng đắc được năm nhãn, bất quá ít có mà thôi. Tu hành vẫn là pháp căn bản, tu hành có công đức rồi, thì sẽ khai mở năm nhãn.

 

Đế quán Phật thời, Lúc chiêm ngưỡng Phật
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Giai như Phổ Hiền, Đều như Phổ Hiền
Đoan chánh nghiêm hảo. Trang nghiêm xinh đẹp.

Lúc chú ý chiêm ngưỡng dung nhan của Phật, thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, đều trang nghiêm xinh đẹp như Bồ Tát Phổ Hiền. Khiến cho người thấy đều sinh tâm cung kính.

 

Kiến Phật tháp thời, Khi thấy tháp Phật
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Tôn trọng như tháp, Tôn trọng như tháp
Thọ Thiên Nhân cúng. Thọ trời người cúng.

Khi thấy được tháp của Phật, thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, tôn trọng chúng sinh như là tôn trọng tháp của Phật, thọ trời người cúng dường. Người tu hành, thấy tháp Phật, thì nhất định phải lễ lạy, hoặc nhiễu tháp, thì sẽ đắc được năm thứ phước.

1). Ðời sau thân xinh đẹp.
2). Ðược tiếng nói tốt.
3). Ðược sinh về trời.
4). Ðược sinh vào nhà vua.
5). Ðược đạo Niết Bàn.

Khi nhiễu tháp thì có năm điều phải vâng giữ:

1). Cúi đầu nhìn đất mà đi.
2). Không được đạp lên côn trùng.
3). Không được nhìn ngó hai bên.
4). Không được khạc nhổ chung quanh tháp.
5). Không được nói chuyện với người khác.

Phải giữ những điều trên, nếu không chẳng có công đức.

 

Kính tâm quán tháp, Cung kính nhìn tháp
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Chư Thiên cập nhân, Được các trời người
Sở cọng chiêm ngưỡng. Thảy đều chiêm ngưỡng.

Khi dụng tâm cung kính để chiêm ngưỡng tháp, thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, được tất cả chư thiên và tất cả mọi người thảy đều cùng đến chiêm ngưỡng. Vì trong tháp là nơi cất chứa xá lợi của Phật, cho nên phải sinh tâm cung kính để nhiễu tháp, lễ tháp, nhìn tháp.

 

Đảnh lễ ư tháp, Lúc đảnh lễ tháp
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Nhất thiết Thiên Nhân, Tất cả trời người
Vô năng kiến đảnh. Chẳng thấy được đảnh.

Khi đảnh lễ tháp thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, tất cả trời người, không thấy được đảnh tháp. Tức cũng là ‘’Chẳng thấy tướng đảnh.’’ Ðây là một tướng tốt trong tám mươi vẻ đẹp.

Trong Kinh Lăng Nghiêm có nói: Khi Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni nói Chú Lăng Nghiêm, thì từ trong nhục kế (cục thịt lồi trên đảnh đầu), phóng ra trăm luồng quang minh báu. Trong trăm luồng quang minh báu, lại vọt ra ngàn đóa hoa sen báu. Trên ngàn đóa sen, mỗi đóa lại hiện ra một vị hóa Phật (pháp thân) ngồi trên hoa sen báu. Trên nhục kế của mỗi vị Như Lai, lại phóng ra mười luồng trăm quang minh báu. Trong mỗi luồng quang minh, lại thị hiện thần hộ pháp Kim Cang Mật Tích nhiều như số cát sông Hằng, một tay cầm núi Tu Di, một tay cầm chùy báu kim cang. Tận hư không khắp pháp giới, đều đầy dẫy Thần Hộ Pháp Kim Cang. Ðại chúng trong pháp hội ngước đầu lên để nhìn Phật, thì trong tâm vừa sợ vừa hoan hỷ cầu xin Phật thương xót hộ giúp, một lòng một dạ lắng nghe Phật nói pháp. Lúc bấy giờ, ‘’vô kiến đảnh tướng‘’ nghĩa là tướng đảnh chẳng thấy của Phật. Vị hóa Phật đó, diễn nói Thần Chú Lăng Nghiêm. Cho nên nói Thần Chú Lăng Nghiêm là pháp thân của Phật nói, diệu không thể tả.

Người tu hành, nhất định phải coi trọng Chú Lăng Nghiêm, vì Chú Lăng Nghiêm có cảnh giới không thể nghĩ bàn. Ở thế giới này, nếu có người tụng trì Chú Lăng Nghiêm, thì trên thế gian sẽ không có ma vương xuất hiện ra đời. Tại sao ? Vì Thần Chú này hay hàng phục tất cả ma quân, dẹp tan mười đại ma quân.

 

Hữu nhiễu ư tháp, Nhiễu phải bên tháp
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Sở hạnh vô nghịch, Làm đều không nghịch
Thành nhất thiết trí. Thành Nhất thiết trí.

Lúc nhiễu bên phải của tháp, thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, làm gì cũng phải thuận với Phật pháp, không thể làm nghịch lại với Phật pháp. Thuận là tu hành, sẽ được trí huệ; nghịch là chẳng tu hành, đương nhiên là ngu si. Nếu hết thảy chẳng nghịch, thì sẽ thành tựu Nhất thiết trí.

Nhiễu phải là thuận, nhiễu trái là nghịch, cho nên nhiễu Phật, nhiễu tháp, đều nhiễu bên phải, trong Kinh Công Ðức có nói:

‘’Diệt tất cả phiền não
Đầy đủ đại uy lực
Vô lậu sáu thần thông
Đều do nhiễu tháp bên phải.’’

Nhiễu tháp có công đức không thể nghĩ bàn như thế.

 

Nhiễu tháp tam tạp, Nhiễu tháp ba vòng
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Cần cầu Phật đạo, Siêng cầu Phật đạo
Tâm vô giải hiết. Tâm chẳng giải đãi.

Khi đi nhiễu tháp bên phải ba vòng, thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, dũng mãnh tinh tấn, siêng tu Phật đạo, đừng sinh tâm giải đãi, đừng sinh tâm thối lùi. Chỉ tiến về trước, không thể trung đạo tự hóa, bỏ dở giữa đường, thì chẳng thành tựu.

Tại sao lại nhiễu tháp ba vòng ? Là biểu thị cung kính Tam Bảo, siêng tu ba học, diệt tham sân si ba độc. Lại có thể nói là đại biểu cho ba cõi, xa lìa ba đường ác, vì phát tâm bồ đề, thì chẳng đọa vào ba đường ác. Trong Kinh Ngũ Giới có nói: ‘’Ði quanh ba vòng, biểu thị cung kính Tam Bảo, diệt ba độc.’’

 

Tán Phật công đức, Khen công đức Phật
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Chúng đức tất cụ, Các đức đều đủ
Xưng thán vô tận. Khen ngợi không hết.

Khi khen ngợi công đức Phật, thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, tán thán khen ngợi công đức chư Phật, mới đắc được các công đức đầy đủ. Phải thời khắc khen ngợi, truyển chuyển vô tận.

Phật có vạn đức trang nghiêm, đầy đủ ba giác, cho nên là Phật. Công đức của Phật không thể nghĩ bàn, chúng ta phải khen ngợi công đức của Phật, thì tương lai cũng có người khen ngợi công đức của chúng ta. Do đó, có câu :

‘’Khen người thì người khen mình.’’

Nghi thức trong Phật giáo, tụng trì tán kệ ở trước Phật, tức là khen ngợi công đức của chư Phật Bồ Tát. Ví như kệ tán Phật A Di Ðà:

‘’Phật Di Ðà thân sắc vàng.
Tướng tốt chói sáng chẳng gì bằng.
Hào quang trắng chuyển động như Tu Di.
Mắt Phật xanh biếc như nước bốn biển.
Trong quang minh có vô số hoá Phật.
Hóa Bồ Tát cũng nhiều vô biên.
Bốn mươi tám nguyện độ chúng sinh.
Chín phẩm sen vàng lên bờ giác.’’

Không thể có tư tưởng chẳng chánh đáng, nói tán tụng là ca xướng, là đùa cợt trước Phật. Phải biết rằng xướng tụng là cung kính Phật, khen ngợi công đức của Phật, có thể tăng thêm căn lành của mình.

Mười đại nguyện vương của Bồ Tát Phổ Hiền nói rất rõ ràng. Một là lễ kính chư Phật, hai là khen ngợi Như Lai, ba là rộng tu cúng dường, bốn là sám hối nghiệp chướng, năm là tùy hỷ công đức, sáu là thỉnh chuyển pháp luân, bảy là thỉnh Phật trụ thế, tám là thường tùy Phật học, chín là hằng thuận chúng sinh, mười là phổ giai hồi hướng. Vào khóa lễ sáng sớm đều tụng một lần. Ða số tụng qua thì quên mất, chẳng vào trong đầu óc để nghiên cứu, rốt ráo làm có được hay không ? Ðiểm này hy vọng mọi người đừng coi như là ca xướng, là việc phô diễn, phải y pháp tu hành. Tán tụng ở trước Phật, lễ Phật, tụng Chú, đều là pháp căn bản thành Phật, hay khiến cho tâm bồ đề tăng trưởng mà kết quả bồ đề thành Phật.

Tôi thường nói:
‘’Nếu nhìn người không đúng
Khổ mình vẫn chưa nguôi
Nếu mình hết khổ
Nhìn ai cũng là Phật.’’

Thấy tất cả chúng sinh đều là cha mẹ trong quá khứ, là chư Phật vị lai. Tức nhiên là cha mẹ quá khứ, mà nói chúng sinh chẳng đúng, tức là nói cha mẹ mình không đúng. Chẳng cung kính đối với chúng sinh, tức là chẳng cung kính Phật. Nếu nghĩ như thế, thì sớm sẽ đủ các đức, chẳng có vấn đề gì cả.

 

Tán Phật tướng hảo, Khen Phật tướng tốt
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Thành tựu Phật thân, Thành tựu thân Phật
Chứng vô tướng Pháp. Chứng pháp vô tướng.

Lúc khen ngợi tướng tốt trang nghiêm của chư Phật, thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, thành tựu thân thể của Phật, chứng được pháp vô tướng, tức cũng là vô trí cũng vô đắc.

Phật có 32 tướng đại nhân, 80 vẻ đẹp. Mỗi tướng đều phải khen ngợi. Tại sao Phật có tướng tốt trang nghiêm ? Vì thuở xưa Phật tu phước A tăng kỳ kiếp, gieo trồng tướng tốt trong trăm ngàn kiếp. Phước huệ viên mãn mà thành đấng Lưỡng Túc Tôn.

Mười nguyện ở trên là nguyện phát ra khen ngợi Phật. Xuất gia làm Tỳ Kheo, mỗi cử chỉ hành động, lời nói, việc làm, đều phải phát nguyện, sinh tâm từ bi, độ khắp chúng sinh.

 

Nhược tẩy túc thời, Nếu lúc rửa chân
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Cụ thần túc lực, Đủ sức thần túc
Sở hạnh vô ngại. Đi đều vô ngại.

Nếu như lúc rửa chân, thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, đầy đủ sức thần túc thông, sở hành vô sở chướng ngại, nguyện đến đâu thì đến đó.

Chư Phật Bồ Tát đều là chân không, chẳng mang giầy tất. Tại sao ? Vì Ấn Ðộ là nơi nhiệt đới, sinh hoạt tập quán là chân không, hai chân dễ dơ bẩn, cho nên mỗi ngày phải rửa chân. Trong Kinh Kim Cang có nói: ‘’Lúc bấy giờ ! Ðến giờ ăn, Ðức Thế Tôn đắp y mang bình bát vào thành Xá Vệ khất thực, ở trong thành khất thực theo thứ lớp rồi, trở về chỗ cũ, ăn cơm xong, thu y bát, rửa chân rồi, bèn ngồi kiết già.’’ Rửa chân là công khóa của người xuất gia, nếu chẳng rửa chân thì làm cho Phật đường dơ, đây cũng là chẳng cung kính Phật.

 

Dĩ thời tẩm tức, Vào lúc đi ngủ
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Thân đắc an ổn, Thân được an ổn
Tâm vô động loạn. Tâm chẳng động loạn.

Vào lúc đi ngủ, thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, thân thể an ổn, tâm chẳng động loạn. Trước khi đi ngủ, thì chắp tay lại niệm ‘’Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát‘’ một trăm lần, niệm đến chẳng còn vọng tưởng nữa, thì trong tâm thanh tịnh, an ổn vào giấc mộng.

 

Thụy miên thủy ngụ, Ngủ vừa thức dậy
Đương nguyện chúng sanh: Xin nguyện chúng sinh
Nhất thiết trí giác, Tất cả trí giác
Châu cố thập phương. Trông khắp mười phương.

Lúc vừa ngủ dậy, thì nên phát nguyện. Xin nguyện tất cả chúng sinh, tất cả trí huệ giác ngộ, tận hư không khắp pháp giới trong khắp mười phương.

Ba nguyện ở trên là nguyện phát ra lúc ngủ nghỉ. Nguyện chúng sinh sớm lìa khỏi biển khổ trầm mê, chẳng thọ khổ luân hồi.

 

Phật tử! nhược chư Bồ-tát như thị dụng tâm, tức hoạch nhất Thiết thắng diệu công đức; nhất thiết thế gian chư Thiên, ma, phạm, Sa Môn, Bà-la-môn, càn-thát Bà, A-tu-la đẳng, cập dĩ nhất thiết Thanh văn, duyên giác, sở bất năng động.

Phật tử ! Nếu các Bồ Tát dùng tâm như vậy, thì sẽ đắc được công đức thù thắng vi diệu. Tất cả thế gian chư Thiên, ma, Phạm, Sa môn, Bà la môn, Càn thát bà, A tu la .v.v… và tất cả Thanh Văn, Duyên Giác, thảy đều chẳng lay động được.

Giảng: Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi gọi Bồ Tát Trí Thủ nói: Phật tử ! Nếu như các vị đại Bồ Tát dụng tâm phát nguyện như vừa nói ở trên, thì sẽ đắc được tất cả công đức thù thắng vi diệu không thể nghĩ bàn, tăng trưởng pháp thân huệ mạng mà chẳng thối chuyển. Sẽ đắc được đầy đủ công đức, thành quả vị Phật.

Hết thảy quốc vương đại thần thế gian, chư thiên và ma vương, Ðại Phạm Thiên Vương, Sa Môn, Bà La Môn, Càn Thát Bà, A tu la, Thanh Văn, Duyên Giác .v.v… họ đều chẳng giao động tư tưởng của các vị. Tóm lại, định lực của các vị đã vượt hơn họ. Cảnh giới của các vị, họ chẳng biết được. Do đó, có câu:

‘’Sơ địa chẳng biết nhị địa
Cho đến thập địa chẳng biết Đẳng giác.’’

Vì các vị là Bồ Tát, cho nên định lực của hàng nhị thừa chẳng thâm sâu bằng định lực của các vị.






Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét