Kinh Hoa Nghiêm
Đại Phương Quảng Phật
giảng giải
Phẩm Thứ 27
Hòa Thượng TUYÊN HÓA
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Minh Ðịnh
— o0o —
Phẩm Thập Định
Đệ Lục Đại Tam Muội
Phật tử! vân hà vi Bồ-Tát Ma-ha-tát trí quang minh tạng tam muội?
Phật tử ! Thế nào là tam muội Trí quang minh tạng của đại Bồ Tát ?
Giảng: Bồ Tát Phổ Hiền lại gọi một tiếng các vị đệ tử của Phật ! Thế nào gọi là tam muội trí quang minh tạng của đại Bồ Tát tu ?
Phật tử! bỉ Bồ-Tát Ma-ha-tát trụ thử tam muội, năng tri vị lai nhất thiết thế giới nhất thiết kiếp trung sở hữu chư Phật; nhược dĩ thuyết, nhược vị thuyết, nhược dĩ thọ kí, nhược vị thọ kí, chủng chủng danh hiệu các các bất đồng, sở vị: vô số danh, vô lượng danh, vô biên danh, vô đẳng danh, bất khả số danh, bất khả xưng danh, bất khả tư danh, bất khả lượng danh, bất khả thuyết danh; đương xuất hiện ư thế, đương lợi ích chúng sanh, đương tác pháp Vương, đương hưng Phật sự, đương thuyết phước lợi, đương tán thiện nghĩa, đương thuyết bạch phần nghĩa, đương tịnh trì chư ác, đương an trụ công đức, đương khai thị đệ nhất nghĩa đế, đương nhập quán đảnh vị, đương thành nhất thiết trí.
Bỉ chư Như Lai tu viên mãn hạnh, phát viên mãn nguyện, nhập viên mãn trí, hữu viên mãn chúng, bị viên mãn trang nghiêm, tập viên mãn công đức, ngộ viên mãn Pháp, đắc viên mãn quả, cụ viên mãn tướng, thành viên mãn giác.
Bỉ chư Như Lai danh tính chủng tộc, phương tiện thiện xảo, thần thông biến hóa, thành thục chúng sanh, nhập Bát Niết Bàn, như thị nhất thiết giai tất liễu tri.
Phật tử ! Đại Bồ Tát đó trụ tam muội này, biết được hết thảy chư Phật, trong tất cả kiếp, của tất cả thế giới đời vị lai. Hoặc đã nói, hoặc chưa nói. Hoặc đã thọ ký, hoặc chưa thọ ký. Đủ thứ danh hiệu, thảy đều khác nhau. Đó là : Vô số danh, vô lượng danh, vô biên danh, vô đẳng danh, bất khả số danh, bất khả xưng danh, bất khả tư danh, bất khả lượng danh, bất khả thuyết danh. Sẽ xuất hiện ra đời, sẽ lợi ích chúng sinh, sẽ làm Pháp Vương, sẽ làm Phật sự, sẽ nói phước lợi, sẽ khen ngợi nghĩa lành, sẽ nói nghĩa bạch phần, sẽ tịnh trị các điều ác, sẽ an trụ công đức, sẽ khai thị đệ nhất nghĩa đế, sẽ nhập quán đảnh vị, sẽ thành Nhất thiết trí.
Các Như Lai đó tu hạnh viên mãn, phát nguyện viên mãn, vào trí huệ viên mãn. Có chúng viên mãn, đủ viên mãn trang nghiêm, tập công đức viên mãn. Ngộ pháp viên mãn, được quả viên mãn, đủ tướng viên mãn, thành viên mãn giác.
Các Như Lai đó danh tánh chủng tộc, phương tiện thiện xảo thần thông biến hoá, thành thục chúng sinh, vào Bát Niết Bàn. Tất cả như vậy, thảy đều biết rõ.
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Vị đại Bồ Tát đó tu Bồ Tát đạo, viên mãn lục độ vạn hạnh, tích tập đủ thứ căn lành, trụ tại tam muội này, biết được hết thảy tất cả chư Phật, ở trong tất cả kiếp, của tất cả thế giới đời vị lai. Hoặc đã thuyết pháp, hoặc chưa thuyết pháp, hoặc đã thọ ký, hoặc chưa thọ ký, đủ thứ danh hiệu, thảy đều khác nhau. Có vô số danh,vô lượng danh, vô biên danh, vô đẳng danh, bất khả số danh, bất khả xưng danh, bất khả tư danh, bất khả lượng danh, bất khả thuyết danh. Sẽ xuất hiện ra đời, sẽ lợi ích chúng sinh, sẽ làm Pháp vương, sẽ làm Phật sự lớn, sẽ nói việc phước đức lợi ích, sẽ khen ngợi nghĩa lý thiện, sẽ diễn nói nghĩa bạch phần (làm các điều lành), sẽ tịnh trị các điều ác (không làm các điều ác), sẽ an trụ tất cả công đức, sẽ vì chúng sinh khai thị đệ nhất nghĩa đế, sẽ khiến cho tất cả chúng sinh đều nhập vào quán đảnh vị, sẽ thành tựu Nhất thiết trí.
Hết thảy tất cả chư Phật đó, tu hạnh viên mãn, phát nguyện viên mãn, vào trí huệ viên mãn. Có chúng sinh viên mãn, để ủng hộ đạo tràng, đầy đủ viên mãn trang nghiêm, tập thành công đức viên mãn. Tỏ ngộ pháp viên mãn, chứng được quả viên mãn, đầy đủ tướng viên mãn, thành tựu viên mãn giác.
Hết thảy tất cả chư Phật, danh tánh chủng tộc, phương tiện thiện xảo, thần thông biến hoá, thành thục tất cả chúng sinh, cho đến vào Bát Niết Bàn. Tất cả như vậy, Bồ Tát thảy đều biết rõ.
Thử Bồ Tát ư nhất niệm trung, năng nhập nhất kiếp, bách kiếp, thiên kiếp, bách thiên kiếp, bách thiên ức na-do-tha kiếp, nhập Diêm-phù-đề vi trần số kiếp, nhập tứ thiên hạ vi trần số kiếp, nhập Tiểu Thiên thế giới vi trần số kiếp, nhập Trung Thiên thế giới vi trần số kiếp, nhập Đại Thiên thế giới vi trần số kiếp, nhập Phật sát vi trần số kiếp, nhập bách thiên Phật sát vi trần số kiếp, nhập bách thiên ức na-do-tha Phật sát vi trần số kiếp, nhập vô số Phật sát vi trần số kiếp, nhập vô lượng Phật sát vi trần số kiếp, nhập vô biên Phật sát vi trần số kiếp, nhập vô đẳng Phật sát vi trần số kiếp, nhập bất khả số Phật sát vi trần số kiếp, nhập bất khả xưng Phật sát vi trần số kiếp, nhập bất khả tư Phật sát vi trần số kiếp, nhập bất khả lượng Phật sát vi trần số kiếp, nhập bất khả thuyết Phật sát vi trần số kiếp, nhập bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số kiếp.
Như thị vị lai nhất thiết thế giới sở hữu kiếp số, năng dĩ trí tuệ giai tất liễu tri.
Bồ Tát đó ở trong một niệm, vào được một kiếp, trăm kiếp, ngàn kiếp, trăm ngàn kiếp, trăm ngàn ức Na do tha kiếp. Vào số kiếp nhiều như số hạt bụi cõi Diêm Phù Đề. Vào số kiếp nhiều như số hạt bụi bốn thiên hạ. Vào số kiếp nhiều như số hạt bụi tiểu thiên thế giới. Vào số kiếp nhiều như số hạt bụi trung thiên thế giới. Vào số kiếp nhiều như hạt bụi đại thiên thế giới. Vào số kiếp nhiều như hạt bụi trăm cõi Phật. Vào số kiếp nhiều như hạt bụi trăm ngàn cõi Phật. Vào số kiếp nhiều như hạt bụi trăm ngàn ức Na do tha cõi Phật. Vào số kiếp nhiều như hạt bụi vô số cõi Phật. Vào số kiếp nhiều như hạt bụi vô lượng cõi Phật. Vào số kiếp nhiều như hạt bụi vô biên cõi Phật. Vào số kiếp nhiều như hạt bụi vô đẳng cõi Phật. Vào số kiếp nhiều như hạt bụi bất khả số cõi Phật. Vào số kiếp nhiều như hạt bụi bất khả xưng cõi Phật. Vào số kiếp nhiều như hạt bụi bất khả tư cõi Phật. Vào số kiếp nhiều như hạt bụi bất khả lượng cõi Phật. Vào số kiếp nhiều như hạt bụi bất khả thuyết cõi Phật. Vào số kiếp nhiều như hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật.
Như vậy, hết thảy kiếp số, tất cả thế giới vị lai, dùng trí huệ thảy đều biết rõ.
Giảng: Vị đại Bồ Tát này ở trong một niệm, vào được một kiếp, trăm kiếp, ngàn kiếp, trăm ngàn kiếp, trăm ngàn ức na do tha kiếp. Vào số kiếp nhiều như số hạt bụi cõi Diêm Phù Đề. Vào số kiếp nhiều như số hạt bụi bốn thiên hạ. Vào số kiếp nhiều như số hạt bụi tiểu thiên thế giới. Vào số kiếp nhiều như số hạt bụi trung thiên thế giới. Vào số kiếp nhiều như hạt bụi đại thiên thế giới. Vào số kiếp nhiều như hạt bụi trăm cõi Phật. Vào số kiếp nhiều như hạt bụi trăm ngàn cõi Phật. Vào số kiếp nhiều như hạt bụi trăm ngàn ức na do tha cõi Phật. Vào số kiếp nhiều như hạt bụi vô số cõi Phật. Vào số kiếp nhiều như hạt bụi vô lượng cõi Phật. Vào số kiếp nhiều như hạt bụi vô biên cõi Phật. Vào số kiếp nhiều như hạt bụi vô đẳng cõi Phật. Vào số kiếp nhiều như hạt bụi bất khả số cõi Phật. Vào số kiếp nhiều như hạt bụi bất khả xưng cõi Phật. Vào số kiếp nhiều như hạt bụi bất khả tư cõi Phật. Vào số kiếp nhiều như hạt bụi bất khả lượng cõi Phật. Vào số kiếp nhiều như hạt bụi bất khả thuyết cõi Phật. Vào số kiếp nhiều như hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật.
Như vậy, hết thảy kiếp số tất cả thế giới vị lai, Bồ Tát dùng trí huệ để quán sát, thảy đều hoàn toàn biết rõ hết.
Dĩ liễu tri cố, kỳ tâm phục nhập thập chủng trì môn. Hà giả vi thập?
Sở vị: nhập Phật trì cố, đắc bất khả thuyết Phật sát vi trần số chư Phật hộ niệm;
Nhập Pháp trì cố, đắc thập chủng Đà-la-ni quang minh vô tận biện tài;
Nhập hạnh trì cố, xuất sanh viên mãn thù thắng chư nguyện;
Nhập lực trì cố, vô năng ánh tế, vô năng tồi phục;
Nhập trí trì cố, sở hạnh Phật Pháp vô hữu chướng ngại;
Nhập đại bi trì cố, chuyển ư bất thoái thanh tịnh Pháp luân;
Nhập sái biệt thiện xảo cú trì cố, chuyển nhất thiết văn tự luân, tịnh nhất thiết pháp môn địa;
Nhập sư tử thọ sanh Pháp trì cố, khai pháp quan thược, xuất dục ứ nê;
Nhập trí lực trì cố, tu Bồ Tát hạnh thường bất hưu tức;
Nhập thiện hữu lực trì cố, lệnh vô biên chúng sanh phổ đắc thanh tịnh;
Nhập vô trụ lực trì cố, nhập bất khả thuyết bất khả thuyết quảng đại kiếp;
Nhập pháp lực trì cố, dĩ vô ngại phương tiện trí, tri nhất thiết pháp tự tánh thanh tịnh.
Vì biết rõ, nên tâm của Ngài lại vào mười thứ môn trì. Những gì là mười ?
Đó là : Vào Phật trì, nên được chư Phật nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết cõi Phật hộ niệm.
Vào pháp trì, nên được mười thứ Đà la ni quang minh vô tận biện tài.
Vào hạnh trì, nên sinh ra các nguyện viên mãn thù thắng.
Vào lực trì, nên không ai che lấp được, không ai thôi phục được.
Vào trí trì, nên tu hành Phật pháp không có sự chướng ngại.
Vào đại bi trì, nên chuyển bánh xe pháp thanh tịnh bất thối.
Vào thiện xảo sai biệt câu trì, nên chuyển bánh xe tất cả văn tự, tịnh tất cả pháp môn địa.
Vào sư tử thọ sinh pháp trì, nên mở khoá cửa pháp, thoát khỏi bùn lầy tham dục.
Vào trí lực trì, nên tu Bồ Tát hạnh, thường không nghỉ ngơi.
Vào thiện hữu lực trì, nên khiến cho vô biên chúng sinh khắp được thanh tịnh.
Vào vô trụ lực trì, nên vào bất khả thuyết bất khả thuyết kiếp rộng lớn.
Vào pháp lực trì, nên dùng trí vô ngại phương tiện, biết tất cả pháp tự tánh thanh tịnh.
Giảng: Vì Bồ Tát biết rõ hết thảy số kiếp, nên tâm của Ngài lại vào được mười thứ môn trì. Trì mà không mất thì đắc được lợi ích của sự trì.Những gì là mười ? Đó là :
1. Vào môn Phật trì : Vì vào được Phật lực trì, được chư Phật nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết cõi Phật gia bị để hộ niệm.
2. Vào môn pháp trì: Vào được tất cả Phật pháp lực trì, nên được mười thứ Đà la ni (tổng trì) quang minh vô tận biện tài.
3. Vào môn hạnh trì: Vào được tu hành lực trì, nên sinh ra tất cả các nguyện viên mãn thù thắng.
4. Vào môn lực trì: Vào được lực lượng lực trì, nên không ai che lấp được, thôi phục được.
5. Vào môn trí trì: Vào được trí huệ lực trì, nên tu hành Phật pháp không có sự chướng ngại.
6. Vào môn đại bi trì: Vào được đại bi tâm để trì Phật pháp, nên thường chuyển bánh xe pháp thanh tịnh bất thối.
7. Vào môn thiện xảo sai biệt câu trì: Vào được kinh văn, khéo léo phân biệt câu kinh trì, nên chuyển được bánh xe tất cả văn tự Bát nhã, thanh tịnh tất cả pháp môn địa.
8. Vào môn sư tử thọ sinh pháp trì: Vào được sư tử thọ sinh pháp trì, nên mở khoá cửa pháp, thoát khỏi hố bùn lầy nhiễm ô.
9. Vào môn trí lực trì: Vào được trí huệ lực trì, nên tu Bồ Tát hạnh, thường không nghỉ ngơi.
10. Vào môn thiện hữu lực trì: Vào được thiện tri thức lực trì, nên khiến cho vô biên chúng sinh khắp được thanh tịnh.
11. Vào môn vô trụ lực trì: Vào được vô trụ lực trì, nên vào được bất khả thuyết bất khả thuyết đại kiếp rộng lớn.
12. Vào môn pháp lực trì: Vào được pháp lực trì, nên dùng trí huệ vô ngại phương tiện, biết tất cả pháp tự tánh là thanh tịnh. Tuy nhiên có mười hai thứ môn trì, song vì mười thứ môn trì, bất quá tăng thêm số mà thôi.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát trụ thử tam muội dĩ, thiện xảo trụ bất khả thuyết bất khả thuyết kiếp, thiện xảo trụ bất khả thuyết bất khả thuyết sát, thiện xảo tri bất khả thuyết bất khả thuyết chủng chủng chúng sanh, thiện xảo tri bất khả thuyết bất khả thuyết chúng sanh dị tướng, thiện xảo tri bất khả thuyết bất khả thuyết đồng dị nghiệp báo, thiện xảo tri bất khả thuyết bất khả thuyết tinh tấn, chư căn tập khí, tướng tục sái biệt chư hạnh, thiện xảo tri bất khả thuyết bất khả thuyết vô lượng nhiễm tịnh chủng chủng tư tánh, thiện xảo tri bất khả thuyết bất khả thuyết Pháp chủng chủng nghĩa, vô lượng văn tự, diễn thuyết ngôn từ, thiện xảo tri bất khả thuyết bất khả thuyết chủng chủng Phật xuất hiện, chủng tộc, thời tiết, hiện tướng, thuyết Pháp, thí vi Phật sự, nhập Bát Niết Bàn, thiện xảo tri bất khả thuyết bất khả thuyết vô biên trí tuệ môn, thiện xảo tri bất khả thuyết bất khả thuyết nhất thiết thần thông vô lượng biến hiện.
Phật tử ! Đại Bồ Tát trụ tam muội này rồi, khéo léo trụ bất khả thuyết bất khả thuyết kiếp. Khéo léo trụ bất khả thuyết bất khả thuyết cõi. Khéo léo biết bất khả thuyết bất khả thuyết đủ thứ chúng sinh. Khéo léo biết bất khả thuyết bất khả thuyết chúng sinh dị tướng. Khéo léo biết bất khả thuyết bất khả thuyết nghiệp báo giống nhau khác nhau. Khéo léo biết bất khả thuyết bất khả thuyết các căn tinh tấn, tập khí các hạnh liên tục khác biệt. Khéo léo biết bất khả thuyết bất khả thuyết vô lượng nhiễm tịnh, đủ thứ tư duy. Khéo léo biết bất khả thuyết bất khả thuyết pháp đủ thứ nghĩa, vô lượng văn tự, diễn nói lời lẽ. Khéo léo biết bất khả thuyết bất khả thuyết đủ thứ Phật xuất hiện ra đời, chủng tộc thời tiết, hiện tướng thuyết pháp, bố thí làm Phật sự, vào Bát Niết Bàn. Khéo léo biết bất khả thuyết bất khả thuyết vô biên môn trí huệ. Khéo léo biết bất khả thuyết bất khả thuyết tất cả thần thông, vô lượng biến hiện.
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát trụ tam muội này rồi, khéo léo trụ trong bất khả thuyết bất khả thuyết kiếp. Khéo léo trụ trong bất khả thuyết bất khả thuyết cõi. Khéo léo biết bất khả thuyết bất khả thuyết chúng sinh. Khéo léo biết bất khả thuyết bất khả thuyết nghiệp báo khác nhau giống nhau. Khéo léo biết bất khả thuyết bất khả thuyết chúng sinh dị tướng. Khéo léo biết bất khả thuyết bất khả thuyết nghiệp báo giống nhau khác nhau. Khéo léo biết bất khả thuyết bất khả thuyết tinh tấn và các căn, tập khí liên tục không dứt, các hạnh khác biệt. Khéo léo biết bất khả thuyết bất khả thuyết vô lượng nhiễm và tịnh, đủ thứ tư duy. Khéo léo biết bất khả thuyết bất khả thuyết pháp đủ thứ nghĩa lý, vô lượng văn tự, diễn nói lời lẽ. Khéo léo biết bất khả thuyết bất khả thuyết đủ thứ Phật xuất hiện ra đời, chủng tộc gì ? Thời tiết gì ? Hiện tướng gì ? Thuyết pháp gì ? Thí làm Phật sự, vào Bát Niết Bàn. Khéo léo biết bất khả thuyết bất khả thuyết vô biên môn trí huệ. Khéo léo biết bất khả thuyết bất khả thuyết tất cả thần thông, có vô lượng sự biến hiện.
Phật tử! thí như nhật xuất, thế gian sở hữu thôn doanh, thành ấp, cung điện, ốc trạch, sơn trạch, điểu thú, thọ lâm, hoa quả, như thị nhất thiết chủng chủng chư vật, hữu mục chi nhân tất đắc minh kiến.
Phật tử! nhật quang bình đẳng, vô hữu phân biệt, nhi năng lệnh mục kiến chủng chủng tướng, thử Đại tam muội diệc phục như thị, thể tánh bình đẳng, vô hữu phân biệt, năng lệnh Bồ Tát tri bất khả thuyết bất khả thuyết bách thiên ức na-do-tha sái biệt chi tướng.
Phật tử ! Ví như mặt trời mọc lên, hết thảy làng xóm thành ấp, cung điện nhà cửa, núi sông chim thú, cây rừng hoa quả, tất cả đủ thứ các vật như vậy trong thế gian, người có mắt đều thấy rõ ràng.
Phật tử ! Ánh sáng mặt trời bình đẳng, không có sự phân biệt, mà hay khiến cho con mắt thấy đủ thứ tướng. Đại tam muội này cũng lại như thế, thể tánh bình đẳng, chẳng có phân biệt, hay khiến cho Bồ Tát biết bất khả thuyết bất khả thuyết, trăm ngàn ức Na do tha tướng khác biệt.
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Ví như khi mặt trời mọc lên, chiếu khắp thế gian,hết thảy làng xóm, thành ấp, cung điện, nhà cửa, núi sông, chim thú, cây rừng, hoa quả .v.v… tất cả đủ thứ các vật như vậy trong thế gian. Người có con mắt đều thấy rõ ràng.
Các vị đệ tử của Phật ! Ánh sáng mặt trời rất bình đẳng, không có sự phân biệt, nên chiếu khắp vạn vật, chẳng màng là chỗ thanh tịnh, hoặc chỗ dơ bẩn, đều chiếu khắp. Phàm là người có con mắt, đều nhìn thấy đủ thứ tướng.
Đại tam muội trí quang minh tạng, cũng giống như ánh sáng mặt trời. Thể tánh là bình đẳng, chẳng có phân biệt, hay khiến cho Bồ Tát biết bất khả thuyết bất khả thuyết, trăm ngàn ức na do tha tướng khác biệt.
Phật tử! thử Bồ-Tát Ma-ha-tát như thị liễu tri thời, lệnh chư chúng sanh đắc thập chủng bất không. Hà đẳng vi thập?
Nhất giả kiến bất không, lệnh chư chúng sanh sanh thiện căn cố
Nhị giả văn bất không, lệnh chư chúng sanh đắc thành thục cố
Tam giả đồng trụ bất không, lệnh chư chúng sanh tâm điều phục cố
Tứ giả phát khởi bất không, lệnh chư chúng sanh như ngôn nhi tác, thông đạt nhất thiết chư pháp nghĩa cố
Ngũ giả hạnh bất không, lệnh vô biên thế giới giai thanh tịnh cố
Lục giả thân cận bất không, ư bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát chư Như Lai sở, đoạn bất khả thuyết bất khả thuyết chúng sanh nghi cố
Thất giả nguyện bất không, tùy sở niệm chúng sanh, lệnh tác thắng cúng dường, thành tựu chư nguyện cố
Bát giả thiện xảo Pháp bất không, giai lệnh đắc trụ vô ngại giải thoát thanh tịnh trí cố
Cửu giả vũ Pháp vũ bất không, ư bất khả thuyết bất khả thuyết chư căn chúng sanh trung, phương tiện khai thị nhất thiết trí hạnh lệnh trụ Phật đạo cố
Thập giả xuất hiện bất không, hiện vô biên tướng, lệnh nhất thiết chúng sanh giai mông chiếu cố.
Phật tử ! Khi đại Bồ Tát này biết rõ như vậy, thì khiến cho các chúng sinh đắc được mười thứ chẳng luống qua.
Những gì là mười ?
Một là thấy chẳng luống qua, vì khiến cho các chúng sinh sinh căn lành.
Hai là nghe chẳng luống qua, vì khiến cho các chúng sinh được thành thục.
Ba là cùng ở chẳng luống qua, vì khiến cho các chúng sinh tâm điều phục.
Bốn là phát khởi chẳng luống qua, vì khiến cho các chúng sinh làm theo lời nói, thông đạt tất cả nghĩa của các pháp.
Năm là tu hành chẳng luống qua, vì khiến cho vô biên thế giới đều thanh tịnh.
Sáu là gần gũi chẳng luống qua, vì ở chỗ các Như Lai nhiều bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật, dứt bất khả thuyết bất khả thuyết chúng sinh nghi.
Bảy là nguyện chẳng luống qua, vì tuỳ theo niệm của chúng sinh, khiến làm cúng dường thù thắng, thành tựu các nguyện.
Tám là pháp khéo léo chẳng luống qua, vì đều khiến cho được trụ nơi trí vô ngại giải thoát thanh tịnh.
Chín là mưa pháp vũ chẳng luống qua, vì trong bất khả thuyết bất khả thuyết các căn chúng sinh, phương tiện khai thị Nhất thiết trí hạnh, khiến trụ vào Phật đạo.
Mười là xuất hiện chẳng luống qua, vì hiện vô biên tướng, khiến cho tất cả chúng sinh đều được chiếu đến.
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Vì vị đại Bồ Tát này, lúc nào cũng tu hành đủ thứ tam muội, cho nên khi Ngài biết rõ, thì cũng khiến cho tất cả chúng sinh đắc được mười lợi ích chẳng luống qua.Những gì là mười ?
1. Thấy chẳng luống qua: Thấy được pháp thân của Bồ Tát không luống qua, vì khiến cho các chúng sinh đều sinh căn lành.
2. Nghe chẳng luống qua: Nghe được danh hiệu của Bồ Tát, cũng chẳng luống qua, vì khiến cho các chúng sinh được thành thục. Do đó : “Người chưa trồng căn lành khiến cho trồng, đã trồng căn lành khiến tăng trưởng, căn lành đã tăng trưởng khiến thành thục”.
3. Cùng ở chẳng luống qua: Nếu tất cả chúng sinh và Bồ Tát cùng ở chung với nhau, cũng chẳng luống qua, vì khiến cho tâm của tất cả chúng sinh, đều được điều phục, chẳng còn tất cả vọng tưởng, phiền não, cang cường.
4. Phát khởi chẳng luống qua: Phát khởi bồ đề tâm, cũng chẳng luống qua. Bồ Tát giáo hoá tất cả chúng sinh, y giáo tu hành, làm theo lời nói, thì sẽ thông đạt tất cả nghĩa lý thật tướng của các pháp.
5. Hành chẳng luống qua: Công phu tu hành cũng chẳng luống qua. Bồ Tát hay khiến cho vô biên thế giới đều được thanh tịnh.
6. Gần gũi chẳng luống qua: Phàm là gần gũi công đức của Bồ Tát, cũng chẳng luống qua. Ở chỗ các Như Lai nhiều bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật, dứt trừ nghi hoặc của bất khả thuyết bất khả thuyết chúng sinh.
7. Nguyện chẳng luống qua: Bồ Tát phát nguyện chẳng luống qua, chúng sinh phát nguyện cũng chẳng luống qua. Tuỳ theo niệm của chúng sinh, khiến làm cúng dường thù thắng, thành tựu các nguyện lực rộng lớn.
8. Pháp khéo léo chẳng luống qua: Pháp môn phương tiện khéo léo cũng chẳng luống qua. Khiến cho đắc được trí huệ vô ngại giải thoát thanh tịnh.
9. Mưa pháp vũ chẳng luống qua: Thường nổi mây pháp lớn, thường mưa pháp lớn, cũng chẳng luống qua. Trong bất khả thuyết bất khả thuyết các loại chúng sinh, phương tiện khéo léo khai thị hạnh môn Nhất thiết trí, khiến cho tất cả chúng sinh trụ ở trong Phật đạo.
10. Xuất hiện chẳng luống qua: Thị hiện vô biên tướng cũng chẳng luống qua, khiến cho tất cả chúng sinh đều đắc được trí huệ quang minh chiếu sáng, mà phát tâm bồ đề.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát trụ thử tam muội, đắc thập chủng bất không thời, chư Thiên Vương chúng giai lai đảnh lễ, chư long Vương chúng hưng Đại hương vân, chư dạ xoa Vương đảnh lễ kỳ túc, A-tu-la Vương cung kính cúng dường, Ca Lâu La Vương tiền hậu vi nhiễu, chư phạm thiên vương tất lai khuyến thỉnh, khẩn-na-la Vương, Ma hầu la già Vương hàm cọng xưng tán, càn thát bà vương thường lai thân cận, chư nhân Vương chúng thừa sự cúng dường.
Phật tử ! Khi đại Bồ Tát trụ tam muội này, được mười thứ chẳng luống qua, thì các chúng Thiên Vương đều đến đảnh lễ. Các chúng Long Vương nổi mây hương lớn. Các Dạ Xoa Vương đảnh lễ sát đất. A Tu La Vương cung kính cúng dường. Ca Lâu La Vương vây quanh trước sau. Các Phạm Thiên Vương đều đến khuyến thỉnh. Khẩn Na La Vương, Ma Hầu La Già Vương đều cùng khen ngợi. Càn Thát Bà Vương thường đến gần gũi. Các ông vua nhân gian thừa sự cúng dường.
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Khi đại Bồ Tát trụ tam muội này, đắc được mười thứ chẳng luống qua, thì hết thảy các Thiên Vương và Thiên chúng chư Thiên ba cõi, đều đến đảnh lễ vị đại Bồ Tát này. Bốn biển các Long Vương xuất lãnh quyến thuộc của họ, nổi mây hương lớn ở trong hư không. Hết thảy tất cả Dạ Xoa Vương đều đến đảnh lễ dưới chân vị đại Bồ Tát này. Hết thảy tất cả A Tu La Vương cung kính cúng dường vị đại Bồ Tát này. Hết thảy tất cả Ca Lâu La Vương vây quanh trước sau vị đại Bồ Tát này. Hết thảt tất cả các Phạm Thiên Vương, đều đến khuyến thỉnh vị đại Bồ Tát này thuyết pháp cho tất cả chúng sinh. Hết thảy tất cả Khẩn Na La Vương, Ma Hầu La Già Vương đều đến khen ngợi tán thán vị đại Bồ Tát này. Hết thảy tất cả Càn Thát Bà Vương thường đến gần gũi vị đại Bồ Tát này. Hết thảy tất cả các ông vua và thần dân trong thế gian, cũng đến thừa sự cúng dường vị đại Bồ Tát này.
Phật tử! thị vi Bồ-Tát Ma-ha-tát đệ lục trí quang minh tạng Đại tam muội thiện xảo trí.
Phật tử ! Đó là đại tam muội Trí thiện xảo trí quang minh tạng thứ sáu của đại Bồ Tát.
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đó là đại tam muội Trí huệ thiện xảo trí quang minh tạng thứ sáu của đại Bồ Tát tu.
— o0o —
Đệ Thất Đại Tam Muội
Phật tử! vân hà vi Bồ-Tát Ma-ha-tát liễu tri nhất thiết thế giới Phật trang nghiêm tam muội?
Phật tử ! Thế nào là tam muội Biết rõ tất cả thế giới Phật trang nghiêm của đại Bồ Tát ?
Giảng: Bồ Tát Phổ Hiền lại gọi một tiếng các vị đệ tử của Phật ! Thế nào gọi là tam muội Biết rõ tất cả thế giới Phật trang nghiêm của đại Bồ Tát tu ?
Phật tử! thử tam muội hà cố danh liễu tri nhất thiết thế giới Phật trang nghiêm?
Phật tử ! Tam muội này tại sao gọi là Biết rõ tất cả thế giới Phật trang nghiêm ?
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Tam muội này, tại sao gọi là Biết rõ tất cả thế giới Phật trang nghiêm ?
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát trụ thử tam muội, năng thứ đệ nhập Đông phương thế giới, năng thứ đệ nhập Nam phương thế giới, Tây phương, Bắc phương, tứ duy, thượng hạ, sở hữu thế giới tất diệc như thị.
Phật tử ! Đại Bồ Tát trụ tam muội này, thứ tự vào thế giới phương đông, thứ tự vào thế giới phương nam, phương tây phương bắc, bốn hướng trên dưới, hết thảy thế giới, cũng đều vào thứ tự như thế.
Giảng: Các vị đệ tử của Phật! Vị đại Bồ Tát này tu Bồ Tát đạo, viên mãn lục độ vạn hạnh, tích tập đủ thứ căn lành, trụ trong tam muội này, thứ tự vào thế giới phương đông, thứ tự vào thế giới phương nam, thứ tự vào thế giới phương tây, thứ tự vào thế giới phương bắc, lại thứ tự vào bốn hướng thế giới, lại vào thế giới trên dưới, hết thảy tất cả thế giới, đều y chiếu vào thứ tự như thế.
Năng thứ đệ nhập. giai kiến chư Phật xuất hưng ư thế, diệc kiến bỉ Phật nhất thiết thần lực, diệc kiến chư Phật sở hữu du hí, diệc kiến chư Phật quảng đại uy đức, diệc kiến chư Phật tối thắng tự tại, diệc kiến chư Phật Đại sư tử hống, diệc kiến chư Phật sở tu chư hạnh, diệc kiến chư Phật chủng chủng trang nghiêm, diệc kiến chư Phật thần túc biến hóa, diệc kiến chư Phật chúng hội vân tập.
Đều thấy chư Phật xuất hiện ra đời. Cũng thấy tất cả thần lực của những vị Phật đó. Cũng thấy hết thảy sự du hí của chư Phật. Cũng thấy oai đức rộng lớn của chư Phật. Cũng thấy tự tại tối thắng của chư Phật. Cũng thấy đại sư tử hống của chư Phật. Cũng thấy chư Phật tu các hạnh. Cũng thấy đủ thứ sự trang nghiêm của chư Phật. Cũng thấy thần túc biến hoá của chư Phật. Cũng thấy chúng hội vân tập của chư Phật.
Giảng: Ở trong những thế giới đó, đều nhìn thấy tất cả chư Phật xuất hiện ra đời. Cũng nhìn thấy tất cả thần lực của tất cả chư Phật đó. Cũng nhìn thấy hết thảy sự sự du hí tam muội của tất cả chư Phật. Cũng nhìn thấy oai đức rộng lớn của tất cả chư Phật. Cũng nhìn thấy sức tự tại tối thù thắng của tất cả chư Phật. Cũng nhìn thấy đại sư tử hống của tất cả chư Phật, vì tất cả chúng sinh thuyết pháp. Cũng thấy chư Phật tu tất cả các hạnh. Cũng thấy đủ thứ sự trang nghiêm của tất cả chư Phật. Cũng thấy thần túc biến hoá của tất cả chư Phật. Cũng thấy chúng hội vân tập của tất cả chư Phật.
Chúng hội thanh tịnh, chúng hội quảng đại, chúng hội nhất tướng, chúng hội đa tướng, chúng hội xứ sở, chúng hội cư chỉ, chúng hội thành thục, chúng hội điều phục, chúng hội uy đức, như thị nhất thiết tất giai minh kiến.
Chúng hội thanh tịnh, chúng hội rộng lớn, chúng hội một tướng, chúng hội nhiều tướng, chúng hội xứ sở, chúng hội cư chỉ, chúng hội thành thục, chúng hội điều phục, chúng hội oai đức, tất cả đều thấy rõ như vậy.
Giảng: Vị đại Bồ Tát này, lại thấychúng hội thanh tịnh, chúng hội rộng lớn, chúng hội một tướng, chúng hội nhiều tướng, chúng hội xứ sở, chúng hội cư chỉ, chúng hội thành thục, chúng hội điều phục, chúng hội oai đức, tất cả đều thấy rõ như vậy.
Diệc kiến chúng hội kỳ lượng đại tiểu đẳng Diêm-phù-đề, diệc kiến chúng hội đẳng tứ thiên hạ, diệc kiến chúng hội đẳng tiểu thiên giới, diệc kiến chúng hội đẳng trung thiên giới, diệc kiến chúng hội lượng đẳng tam thiên đại thiên thế giới.
Diệc kiến chúng hội sung mãn bách thiên ức na-do-tha Phật sát, diệc kiến chúng hội sung mãn a-tăng-kì Phật sát, diệc kiến chúng hội sung mãn bách Phật sát vi trần số Phật sát, diệc kiến chúng hội sung mãn thiên Phật sát vi trần số Phật sát, diệc kiến chúng hội sung mãn bách thiên ức na-do-tha Phật sát vi trần số Phật sát, diệc kiến chúng hội sung mãn vô số Phật sát vi trần số Phật sát, diệc kiến chúng hội sung mãn vô lượng Phật sát vi trần số Phật sát, diệc kiến chúng hội sung mãn vô biên Phật sát vi trần số Phật sát, diệc kiến chúng hội sung mãn vô đẳng Phật sát vi trần số Phật sát, diệc kiến chúng hội sung mãn bất khả số Phật sát vi trần số Phật sát, diệc kiến chúng hội sung mãn bất khả xưng Phật sát vi trần số Phật sát, diệc kiến chúng hội sung mãn bất khả tư Phật sát vi trần số Phật sát, diệc kiến chúng hội sung mãn bất khả lượng Phật sát vi trần số Phật sát, diệc kiến chúng hội sung mãn bất khả thuyết Phật sát vi trần số Phật sát, diệc kiến chúng hội sung mãn bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số Phật sát.
Cũng thấy chúng hội đó, lượng lớn nhỏ bằng cõi Diêm Phù Đề. Cũng thấy chúng hội bằng bốn thiên hạ. Cũng thấy chúng hội bằng tiểu thiên thế giới. Cũng thấy chúng hội bằng trung thiên thế giới. Cũng thấy chúng hội bằng ba ngàn đại thiên thế giới.
Cũng thấy chúng hội đầy dẫy trăm ngàn ức Na do tha cõi Phật. Cũng thấy chúng hội đầy dẫy A tăng kỳ cõi Phật. Cũng thấy chúng hội đầy dẫy cõi Phật nhiều như số hạt bụi trăm cõi Phật. Cũng thấy chúng hội đầy dẫy cõi Phật nhiều như số hạt bụi ngàn cõi Phật. Cũng thấy chúng hội đầy dẫy cõi Phật nhiều như số hạt bụi trăm ngàn ức Na do tha cõi Phật. Cũng thấy chúng hội đầy dẫy cõi Phật nhiều như số hạt bụi vô số cõi Phật. Cũng thấy chúng hội đầy dẫy cõi Phật nhiều như số hạt bụi vô lượng cõi Phật. Cũng thấy chúng hội đầy dẫy cõi Phật nhiều như số hạt bụi vô biên cõi Phật. Cũng thấy chúng hội đầy dẫy cõi Phật nhiều như số hạt bụi vô đẳng cõi Phật. Cũng thấy chúng hội đầy dẫy cõi Phật nhiều như số hạt bụi bất khả số cõi Phật. Cũng thấy chúng hội đầy dẫy cõi Phật nhiều như số hạt bụi bất khả xưng cõi Phật. Cũng thấy chúng hội đầy dẫy cõi Phật nhiều như số hạt bụi bất khả tư cõi Phật. Cũng thấy chúng hội đầy dẫy cõi Phật nhiều như số hạt bụi bất khả lượng cõi Phật. Cũng thấy chúng hội đầy dẫy cõi Phật nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết cõi Phật. Cũng thấy chúng hội đầy dẫy cõi Phật nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật.
Giảng: Vị đại Bồ Tát này, cũng thấy chúng hội của chư Phật, lượng lớn nhỏ bằng cõi Nam Diêm Phù Đề. Cũng thấy chúng hội bằng bốn thiên hạ. Cũng thấy chúng hội bằng tiểu thiên thế giới. Cũng thấy chúng hội bằng trung thiên thế giới. Cũng thấy chúng hội bằng ba ngàn đại thiên thế giới. Cũng thấy chúng hội đầy dẫy trăm ngàn ức na do tha cõi Phật. Cũng thấy chúng hội đầy dẫy A tăng kỳ cõi Phật. Cũng thấy chúng hội đầy dẫy cõi Phật nhiều như số hạt bụi trăm cõi Phật. Cũng thấy chúng hội đầy dẫy cõi Phật nhiều như số hạt bụi ngàn cõi Phật. Cũng thấy chúng hội đầy dẫy cõi Phật nhiều như số hạt bụi trăm ngàn ức na do tha cõi Phật. Cũng thấy chúng hội đầy dẫy cõi Phật nhiều như số hạt bụi vô số, vô lượng, vô biên, vô đẳng, cõi Phật. Cũng thấy chúng hội đầy dẫy cõi Phật nhiều như số hạt bụi bất khả số, bất khả xưng, bất khả tư, bất khả lượng, bất khả thuyết, bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật.
Ở trong chúng hội đạo tràng, có cõi Phật nhiều như số hạt bụi. Do đó, có thể chứng minh thế giới có nhiều vô lượng vô biên, không thể nào tính đếm được. Vì trí huệ phàm phu của chúng ta có hạn, cho đến nay, cũng không cách chi giao thông với những thế giới khác. Tuy nhiên, con người đã đến được mặt trăng, nhưng tình hình của vô lượng vô biên thế giới khác, vẫn chưa biết được. Rốt ráo có sinh vật chăng ? Không thể biết được. Nếu khi nào phát triển đi đến được thế giới khác, thì những thế giới đó không còn tồn tại nữa. Tại sao ? Vì bí mật trong vũ trụ, khiến cho con người không dễ dàng minh bạch.
Hiện tại trong Kinh Hoa Nghiêm có các thế giới nhiều như số hạt bụi. Số hạt bụi trong mỗi thế giới chẳng biết là bao nhiêu ? Hà huống cõi Phật nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật, số lượng đó càng không biết là bao nhiêu ? Song, vị đại Bồ Tát này thảy đều thấy, đều biết rõ ràng có bao nhiêu cõi Phật. Đây là sức thần thông diệu dụng.
Diệc kiến chư Phật ư bỉ chúng hội đạo tràng trung, thị hiện chủng chủng tướng, chủng chủng thời, chủng chủng quốc độ, chủng chủng biến hóa, chủng chủng thần thông, chủng chủng trang nghiêm, chủng chủng tự tại, chủng chủng hình lượng, chủng chủng sự nghiệp.
Cũng thấy chư Phật ở trong chúng hội đạo tràng đó, thị hiện đủ thứ tướng, đủ thứ thời, đủ thứ cõi nước, đủ thứ biến hoá, đủ thứ thần thông, đủ thứ trang nghiêm, đủ thứ tự tại, đủ thứ hình lượng, đủ thứ sự nghiệp.
Giảng: Bồ Tát cũng thấy chư Phật ở trong chúng hội đạo tràng đó, thị hiện đủ thứ hình tướng, đủ thứ thời gian thị hiện, ở trong số hạt bụi cõi nước, thị hiện đủ thứ biến hoá, thị hiện đủ thứ thần thông, thị hiện đủ thứ trang nghiêm, thị hiện đủ thứ tự tại, thị hiện đủ thứ hình lượng, thị hiện đủ thứ sự nghiệp.
Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc kiến tự thân vãng bỉ chúng hội, diệc tự kiến thân tại bỉ thuyết Pháp, diệc tự kiến thân thọ trì Phật ngữ, diệc tự kiến thân thiện tri duyên khởi, diệc tự kiến thân trụ tại hư không, diệc tự kiến thân trụ ư Pháp thân, diệc tự kiến thân bất sanh nhiễm trước, diệc tự kiến thân bất trụ phân biệt, diệc tự kiến thân vô hữu bì quyện, diệc tự kiến thân phổ nhập chư trí, diệc tự kiến thân phổ tri chư nghĩa, diệc tự kiến thân phổ nhập chư địa, diệc tự kiến thân phổ nhập chư thú, diệc tự kiến thân phổ tri phương tiện, diệc tự kiến thân phổ trụ Phật tiền, diệc tự kiến thân phổ nhập chư lực, diệc tự kiến thân phổ nhập chân như, diệc tự kiến thân phổ nhập vô tránh, diệc tự kiến thân phổ nhập chư Pháp.
Đại Bồ Tát cũng thấy thân mình đến chúng hội đó. Cũng thấy thân mình nói pháp tại đó. Cũng thấy thân mình thọ trì lời Phật dạy. Cũng thấy thân mình khéo biết duyên khởi. Cũng thấy thân mình trụ trong hư không. Cũng thấy thân mình trụ nơi pháp thân. Cũng thấy thân mình chẳng sinh nhiễm trước. Cũng thấy thân mình chẳng trụ phân biệt. Cũng thấy thân mình chẳng có mệt mỏi. Cũng thấy thân mình vào khắp các trí. Cũng thấy thân mình biết khắp các nghĩa. Cũng thấy thân mình vào khắp các địa. Cũng thấy thân mình vào khắp các cõi. Cũng thấy thân mình biết khắp phương tiện. Cũng thấy thân mình ở khắp trước Phật. Cũng thấy thân mình vào khắp các lực. Cũng thấy thân mình vào khắp chân như. Cũng thấy thân mình vào khắp vô tranh. Cũng thấy thân mình vào khắp các pháp.
Giảng: Đại Bồ Tátcũng thấy thân mình đi đến chúng hội chư Phật nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật. Cũng thấy thân mình nói pháp trong đại chúng đó. Cũng thấy thân mình thọ trì kinh điển của Phật nói. Cũng thấy thân mình khéo biết đạo lý tất cả nhân duyên sinh khởi. Cũng thấy thân mình trụ trong hư không. Cũng thấy thân mình trụ nơi pháp thân. Cũng thấy thân mình chẳng có mọi sự ô nhiễm và chấp trước. Cũng thấy thân mình chẳng trụ ở trong sự phân biệt. Tại sao ? Vì Bồ Tát biết tất cả đều hư vọng không thật. Cũng thấy thân mình ở trong mười phương vô số thế giới, vì chúng sinh diễn nói Phật pháp, chẳng có mệt mỏi. Cũng thấy thân mình vào khắp nhất thiết trí huệ môn. Cũng thấy thân mình biết khắp tất cả nghĩa lý. Cũng thấy thân mình vào khắp tất cả các địa (Thập địa). Cũng thấy thân mình vào khắp các cõi. Cũng thấy thân mình biết khắp tất cả pháp môn phương tiện. Cũng thấy thân mình ở khắp trước tất cả chư Phật. Cũng thấy thân mình vào khắp tất cả các lực (thập lực). Cũng thấy thân mình vào khắp tất cả chân như diệu lý. Cũng thấy thân mình vào khắp tất cả tam muội vô tranh. Cũng thấy thân mình vào khắp tất cả các pháp.
Cảnh giới của Bồ Tát ngàn biến vạn hoá, không thể nghĩ, không thể luận bàn, trừ phi người đã khai mở ngũ nhãn mới thấy rõ, chẳng phải phàm phu tục tử chúng ta thấu hiểu được.
Như thị kiến thời, bất phân biệt quốc độ, bất phân biệt chúng sanh, bất phân biệt Phật, bất phân biệt Pháp, bất chấp trước thân, bất chấp trước thân nghiệp, bất chấp trước tâm, bất chấp trước ý.
Thí như chư Pháp, bất phân biệt tự tánh, bất phân biệt âm thanh, nhi tự tánh bất xả, danh tự bất diệt; Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, bất xả ư hạnh, tùy thế sở tác, nhi ư thử nhị vô sở chấp trước.
Khi thấy như vậy, chẳng phân biệt cõi nước, chẳng phân biệt chúng sinh, chẳng phân biệt Phật, chẳng phân biệt pháp, chẳng chấp trước thân, chẳng chấp trước thân nghiệp, chẳng chấp trước tâm, chẳng chấp trước ý.
Ví như các pháp chẳng phân biệt tự tánh, chẳng phân biệt âm thanh, mà tự tánh chẳng xả bỏ, danh tự chẳng diệt. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, chẳng xả bỏ sự tu hành, tuỳ thế gian mà làm, chẳng chấp trước vào hai điều này.
Giảng: Khi Bồ Tát nhìn thấy thân mình, biến hoá như vậy, Ngàichẳng có sự phân biệt cõi nước, chúng sinh, chư Phật, các pháp .v.v… cũng chẳng chấp trước thân, chẳng chấp trước nghiệp do thân tạo ra, cũng chẳng chấp trước tâm, chẳng chấp trước ý. Tóm lại, tất cả đều chẳng chấp trước, tức cũng là đạt đến cảnh giới giải thoát.
Ví như các pháp chẳng phân biệt tự tánh, chẳng phân biệt âm thanh. Tự tánh không thể không có, danh tự chẳng diệt mất. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, chẳng xả bỏ hạnh Bồ Tát của mình tu, hay tuỳ thuận thế gian mà làm, trong sự tu hành và thế tục đều chẳng chấp trước.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát kiến Phật Vô Lượng Quang sắc, vô lượng hình tướng, viên mãn thành tựu, bình đẳng thanh tịnh; nhất nhất hiện tiền, phân minh chứng liễu.
Hoặc kiến Phật thân chủng chủng quang minh, hoặc kiến Phật thân viên quang nhất tầm, hoặc kiến Phật thân như thịnh nhật sắc, hoặc kiến Phật thân vi diệu quang sắc, hoặc kiến Phật thân tác thanh tịnh sắc, hoặc kiến Phật thân tác hoàng kim sắc, hoặc kiến Phật thân tác Kim cương sắc, hoặc kiến Phật thân tác cám thanh sắc, hoặc kiến Phật thân tác vô biên sắc, hoặc kiến Phật thân tác Đại thanh ma-ni bảo sắc.
Phật tử ! Đại Bồ Tát thấy vô lượng quang minh màu sắc, vô lượng hình tướng của Phật, đều viên mãn thành tựu, bình đẳng thanh tịnh, mỗi mỗi đều hiện tiền, phân minh rõ ràng.
Hoặc thấy thân Phật đủ thứ quang minh, hoặc thấy thân Phật viên quang một tầm, hoặc thấy thân Phật sáng rực rỡ như mặt trời, hoặc thấy thân Phật quang sắc vi diệu, hoặc thấy thân Phật màu sắc thanh tịnh, hoặc thấy thân Phật màu vàng thật, hoặc thấy thân Phật màu kim cang, hoặc thấy thân Phật màu cam xanh, hoặc thấy thân Phật vô biên màu sắc, hoặc thấy thân Phật màu sắc xanh ma ni báu.
Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát thường thấy tất cả chư Phật mười phương ba đời, phóng vô lượng quang và vô lượng màu sắc. Lại thấy chư Phật thị hiện vô lượng hình tướng (32 tướng, 80 vẻ đẹp), sự trang nghiêm thân đó vừa viên mãn vừa thành tựu, lại bình đẳng, lại thanh tịnh. Mỗi thứ cảnh giới đều hiện tiền, phân minh rõ ràng.
Đại Bồ Tát hoặc thấy thân mười phương chư Phật, có mười thứ quang sắc:
1. Có đủ thứ quang minh.
2. Có viên quang một tầm.
3. Có nhan sắc sáng rực như mặt trời.
4. Có trong quang hiện quang, trong màu sắc hiện màu sắc, có quang sắc vi diệu không thể nghĩ bàn.
5. Có nhan sắc thanh tịnh.
6. Có nhan sắc vàng thật.
7. Có nhan sắc kim cang.
8. Có nhan sắc cam xanh.
9. Có vô biên nhan sắc.
10. Có nhan sắc màu xanh ma ni báu.
Hoặc kiến Phật thân kỳ lượng thất trửu,
Hoặc kiến Phật thân kỳ lượng bát trửu,
Hoặc kiến Phật thân kỳ lượng cửu trửu,
Hoặc kiến Phật thân kỳ lượng thập trửu,
Hoặc kiến Phật thân nhị thập trửu lượng,
Hoặc kiến Phật thân tam thập trửu lượng, như thị nãi chí nhất bách trửu lượng, nhất thiên trửu lượng.
Hoặc oặc kiến Phật thân nhất câu lô xá lượng,
Hoặc kiến Phật thân bán do-tuần lượng,
Hoặc kiến Phật thân nhất do-tuần lượng,
Hoặc kiến Phật thân thập do-tuần lượng,
Hoặc kiến Phật thân bách do-tuần lượng,
Hoặc kiến Phật thân thiên do-tuần lượng,
Hoặc kiến Phật thân bách thiên do-tuần lượng,
Hoặc kiến Phật thân Diêm-phù-đề lượng,
Hoặc oặc kiến Phật thân tứ thiên hạ lượng,
Hoặc kiến Phật thân tiểu thiên giới lượng,
Hoặc kiến Phật thân trung thiên giới lượng,
Hoặc kiến Phật thân Đại Thiên giới lượng,
Hoặc kiến Phật thân bách Đại Thiên thế giới lượng,
Hoặc kiến Phật thân thiên Đại Thiên thế giới lượng,
Hoặc kiến Phật thân bách thiên Đại Thiên thế giới lượng,
Hoặc kiến Phật thân bách thiên ức na-do-tha Đại Thiên thế giới lượng,
Hoặc kiến Phật thân vô số Đại Thiên thế giới lượng,
Hoặc kiến Phật thân vô lượng Đại Thiên thế giới lượng,
Hoặc kiến Phật thân vô biên Đại Thiên thế giới lượng,
Hoặc kiến Phật thân vô đẳng Đại Thiên thế giới lượng,
Hoặc kiến Phật thân bất khả số Đại Thiên thế giới lượng,
Hoặc kiến Phật thân bất khả xưng Đại Thiên thế giới lượng,
Hoặc kiến Phật thân bất khả tư Đại Thiên thế giới lượng,
Hoặc kiến Phật thân bất khả lượng Đại Thiên thế giới lượng,
Hoặc kiến Phật thân bất khả thuyết Đại Thiên thế giới lượng,
Hoặc kiến Phật thân bất khả thuyết bất khả thuyết Đại Thiên thế giới lượng.
Hoặc thấy thân Phật cao bảy thước, hoặc thấy thân Phật cao tám thước, hoặc thấy thân Phật cao chín thước, hoặc thấy thân Phật cao mười thước, hoặc thấy thân Phật cao hai mươi thước, hoặc thấy thân Phật cao ba mươi thước. Như vậy cho đến một trăm thước, một ngàn thước.
Hoặc thấy thân Phật cao một Câu lô xá, hoặc thấy thân Phật cao nửa do tuần, hoặc thấy thân Phật cao một do tuần, hoặc thấy thân Phật cao mười do tuần, hoặc thấy thân Phật cao trăm do tuần, hoặc thấy thân Phật cao ngàn do tuần, hoặc thấy thân Phật cao trăm ngàn do tuần.
Hoặc thấy thân Phật cao bằng cõi Diêm Phù Đề, hoặc thấy thân Phật cao bằng bốn thiên hạ, hoặc thấy thân Phật cao bằng tiểu thiên thế giới, hoặc thấy thân Phật cao bằng trung thiên thế giới, hoặc thấy thân Phật cao bằng đại thiên thế giới, hoặc thấy thân Phật cao bằng trăm đại thiên thế giới, hoặc thấy thân Phật cao bằng ngàn đại thiên thế giới, hoặc thấy thân Phật cao bằng trăm ngàn đại thiên thế giới, hoặc thấy thân Phật cao bằng trăm ngàn ức Na do tha đại thiên thế giới.
Hoặc thấy thân Phật cao bằng vô số đại thiên thế giới, hoặc thấy thân Phật cao bằng vô lượng đại thiên thế giới, hoặc thấy thân Phật cao bằng vô biên đại thiên thế giới, hoặc thấy thân Phật cao bằng vô đẳng đại thiên thế giới, hoặc thấy thân Phật cao bằng bất khả số đại thiên thế giới, hoặc thấy thân Phật cao bằng bất khả xưng đại thiên thế giới, hoặc thấy thân Phật cao bằng bất khả tư đại thiên thế giới, hoặc thấy thân Phật cao bằng bất khả lượng đại thiên thế giới, hoặc thấy thân Phật cao bằng bất khả thuyết đại thiên thế giới, hoặc thấy thân Phật cao bằng bất khả thuyết bất khả thuyết đại thiên thế giới.
Giảng: Đại Bồ Tát,hoặc thấy thân Phật cao bảy thước, hoặc tám thước, hoặc chín thước, hoặc mười thước, hoặc hai mươi thước, hoặc ba mươi thước, cho đến một trăm thước, một ngàn thước.
Hoặc thấy thân Phật cao một Câu lô xá, hoặc nửa do tuần, hoặc một do tuần, hoặc mười do tuần, hoặc trăm do tuần, hoặc ngàn do tuần, hoặc trăm ngàn do tuần.
Hoặc thấy thân Phật bằng cõi Diêm Phù Đề, hoặc bằng bốn thiên hạ, hoặc bằng tiểu thiên thế giới, hoặc bằng trung thiên thế giới, hoặc bằng đại thiên thế giới, hoặc bằng trăm đại thiên thế giới, hoặc bằng ngàn đại thiên thế giới, hoặc bằng trăm ngàn đại thiên thế giới, hoặc bằng trăm ngàn ức na do tha đại thiên thế giới.
Hoặc thấy thân Phật bằng vô số đại thiên thế giới, hoặc bằng vô lượng đại thiên thế giới, hoặc bằng vô biên đại thiên thế giới, hoặc bằng vô đẳng đại thiên thế giới, hoặc bằng bất khả số đại thiên thế giới, hoặc bằng bất khả xưng đại thiên thế giới, hoặc bằng bất khả tư đại thiên thế giới, hoặc bằng bất khả lượng đại thiên thế giới, hoặc bằng bất khả thuyết đại thiên thế giới, hoặc bằng bất khả thuyết bất khả thuyết đại thiên thế giới.
Tại sao phải nói số lượng nhiều như vậy ? Vì tư tưởng của chúng ta nhỏ hẹp, có giới hạn, không thể to lớn “tận hư không, khắp pháp giới”, cho nên mục đích Phật Thích Ca diễn nói Kinh Hoa Nghiêm Đại Phương Quảng Phật là phá chấp trước của chúng sinh, dạy chúng ta nhìn thấy lớn, đừng chấp trước lớn. Thấy nhỏ đừng chấp trước nhỏ. Nếu chấp trước lớn thì bị lớn lay chuyển, nếu chấp trước nhỏ thì bị nhỏ lay chuyển. Như vậy thì chẳng có định lực. Người đó định lực, thấy giống như không thấy, nghe giống như không nghe, do đó :
“Mắt thấy hình sắc bên trong chẳng có
Tai nghe chuyện đời tâm chẳng hay”.
Tức cũng là cảnh giới :
“Quán tâm bên trong, chẳng thấy tâm
Quán hình bên ngoài, chẳng thấy hình
Quán vật ở xa, chẳng có vật”.
Tất cả đều hư vọng không thật, cho nên cảnh giới của Kinh Hoa Nghiêm, là phải mở rộng tâm lượng rộng lớn. Do đó :
“Tâm bao thái hư
Lượng chu sa giới”.
Đừng có tâm lượng nhỏ hẹp, gặp sự việc nhỏ như hạt bụi, nghĩ cũng không ra, buông bỏ chẳng đặng. Cho nên trong Kinh Hoa Nghiêm nói : “Hoặc có Bồ Tát, hoặc có chúng sinh, thấy được thân Phật, có đủ thứ sự khác nhau”. Hoặc thấy, hoặc chẳng thấy; hoặc có người thấy, có người không thấy, hoặc thấy mà chẳng thấy, đây là pháp không nhất định, ngàn vạn đừng chấp trước. Nếu chấp trước, thì tự tìm phiền não.
Phật tử! Bồ Tát như thị kiến chư Như Lai vô lượng sắc tướng, vô lượng hình trạng, vô lượng thị hiện, vô lượng quang minh, vô lượng quang minh võng, kỳ quang phần lượng đẳng vu Pháp giới, ư Pháp giới trung vô sở bất chiếu, phổ lệnh phát khởi vô thượng trí tuệ; hựu kiến Phật thân, vô hữu nhiễm trước, vô hữu chướng ngại, thượng diệu thanh tịnh.
Phật tử ! Bồ Tát thấy vô lượng sắc tướng, vô lượng hình trạng, vô lượng thị hiện, vô lượng quang minh, vô lượng lưới quang minh của các Như Lai như vậy. Quang minh đó phân lượng đồng pháp giới ở trong pháp giới, không chỗ nào không chiếu đến. Khắp khiến cho phát khởi vô thượng trí huệ. Lại thấy thân Phật không có nhiễm trước, không có chướng ngại, thượng diệu thanh tịnh.
Giảng: Các vị Phật tử ! Bồ Tát thấy vô lượng sắc tướng, vô lượng hình trạng, vô lượng thị hiện, vô lượng quang minh, vô lượng lưới quang minh, của mười phương ba đời tất cả chư Phật như vậy. Quang minh đó phân lượng đồng pháp giới ở trong pháp giới, không chỗ nào không chiếu đến. Khắp khiến cho phát khởi vô thượng trí huệ.
Thân Phật là vô tướng, là vô hình. Nhưng vô tướng mà thấy tướng, vô hình mà hiện hình. Thân Phật là vô lượng, ở tại Bồ Tát và chúng sinh mà nhìn, thì thấy lớn thấy nhỏ. Ở nơi thân Phật vốn chẳng lớn chẳng nhỏ. Thân Phật đầy khắp pháp giới, bao la vạn hữu. Cho nên thấy lớn thấy nhỏ, đều là tâm chúng sinh phân biệt mà ra.
Bồ Tát lại thấy thân Phật thanh tịnh không có nhiễm ô, cũng chẳng chấp trước, lại không có chướng ngại, đó là tối vô thượng thanh tịnh vi diệu. Chẳng giống như thân chúng sinh, là bất tịnh, là ô nhiễm, có sự chấp trước. Tóm lại, thân ai không có nhiễm ô chấp trước, thì người đó là Phật. Thân ai nhiễm ô chấp trước thì người đó là chúng sinh.
Nhiễm ô chấp trước là gì ? Nói đơn giản là nhìn chẳng thấu, buông chẳng đặng. Lúc nào cũng khởi vọng tưởng. Phật là bậc Thánh vô niệm, không chấp, cho nên chẳng có nhiễm ô chấp trước. Pháp thân của Phật, giống như hư không, chẳng có mọi sự chướng ngại. Tất cả chúng sinh đều ở trong pháp thân của Phật. Chúng ta đang sinh hoạt ở trong pháp thân của Phật, mà chính mình không biết. Pháp thân của Phật khắp cùng tất cả mọi nơi, bất cứ là nơi thanh tịnh, hoặc nơi dơ bẩn, đều có pháp thân của Phật ở đó. Do đó : « Vô tại vô bất tại », tức nhiên là như thế, nên chúng sinh chạy không ra khỏi pháp thân của Phật.
Phật tử! Bồ Tát như thị kiến ư Phật thân, nhi Như Lai thân bất tăng bất giảm. Thí như hư không, ư trùng sở thực giới tử khổng trung diệc bất giảm tiểu, ư vô số thế giới trung diệc bất tăng quảng; kỳ chư Phật thân diệc phục như thị, kiến Đại chi thời diệc vô sở tăng, kiến tiểu chi thời diệc vô sở giảm.
Phật tử! thí như nguyệt luân, Diêm-phù-đề nhân kiến kỳ hình tiểu nhi diệc bất giảm, nguyệt trung trụ giả kiến kỳ hình Đại nhi diệc bất tăng;
Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, trụ thử tam muội, tùy kỳ tâm lạc, kiến chư Phật thân chủng chủng hóa tướng, ngôn từ diễn Pháp, thọ trì bất vong, nhi Như Lai thân bất tăng bất giảm.
Phật tử! thí như chúng sanh mạng chung chi hậu, tướng thọ sanh thời, bất ly ư tâm, sở kiến thanh tịnh; Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, bất ly ư thử thậm thâm tam muội, sở kiến thanh tịnh.
Phật tử ! Bồ Tát thấy thân Phật như vậy, mà thân Phật không tăng, không giảm. Ví như hư không, trong lỗ hạt cải của con mọt ăn, cũng chẳng nhỏ bớt, ở trong vô số thế giới, cũng chẳng lớn thêm.
Thân của chư Phật cũng lại như thế, khi thấy lớn, cũng chẳng tăng thêm, khi thấy nhỏ cũng chẳng giảm bớt.
Phật tử ! Ví như mặt trăng, người cõi Diêm Phù Đề nhìn thấy hình nhỏ, mà cũng chẳng giảm bớt. Người ở trong mặt trăng, thấy hình mặt trăng lớn, cũng chẳng tăng thêm.
Đại Bồ Tát cũng lại như thế, trụ tam muội này, tuỳ tâm ưa thích của Ngài, thấy thân chư Phật đủ thứ hoá tướng, lời lẽ nói pháp, thọ trì chẳng quên, mà thân Như Lai chẳng tăng, chẳng giảm.
Phật tử ! Ví như chúng sinh, khi mạng chung rồi, lúc sắp thọ sinh, chẳng lìa sự thấy thanh tịnh của tâm. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, chẳng lìa sự thấy thanh tịnh của tam muội thâm sâu này.
Giảng: Các vị Phật tử !Bồ Tát thấy thân Phật như vậy, mà thân Phật không lớn thêm, cũng không nhỏ bớt. Ví như hư không, trong lỗ hạt cải bị con mọt ăn, cũng chẳng nhỏ bớt, ở trong vô số thế giới, cũng chẳng lớn thêm, đạo lý giống nhau. Thân của chư Phật cũng lại như thế, khi thấy lớn, cũng chẳng tăng thêm, khi thấy nhỏ cũng chẳng giảm bớt. Trong Tâm Kinh có nói : « Không sinh không diệt, không dơ không sạch, không tăng không giảm ».
Chúng sinh do nghiệp báo, cho nên thấy đủ thứ hình tướng khác nhau. Ví như chư Thiên nhìn thấy hình tướng của nước là lưu ly, con người thấy hình tướng của nước là nước. Quỷ thấy hình tướng của nước là lửa. Mỗi loài có nghiệp báo của họ, sự thấy hình tướng đều khác nhau. Bồ Tát ở trong định thấy thân Phật có lớn có nhỏ, có các thứ thân cao lớn khác nhau, nhưng bổn thân Phật không lớn không nhỏ. Chúng ta chúng sinh vốn chẳng thấy được Phật. Tại sao ? Vì tu trì chẳng đủ và chẳng tương ưng với Phật quang, cho nên chẳng có cảnh giới cảm ứng đạo giao.
Các vị Phật tử ! Ví như mặt trăng, người ở cõi Diêm Phù Đề nhìn thấy hình tướng mặt trăng thì nhỏ, nhưng bổn thân của mặt trăng chẳng có giảm bớt. Người ở trên mặt trăng, (Hiện tại chứng minh trên mặt trăng chẳng có sinh vật, đây là phàm phu dùng mắt thịt để quán sát báo cáo. Song, nhục nhãn của Thánh nhân quán sát thì có Bồ Tát, La Hán, trời người .v.v… đang ở trên mặt trăng) thấy thế giới mặt trăng rất lớn, nhưng bổn thân mặt trăng cũng chẳng tăng thêm.
Đại Bồ Tát cũng lại như thế, trụ trong tam muội biết rõ tất cả thế giới Phật trang nghiêm, tuỳ tâm ưa thích của Ngài, mà thấy được thân chư Phật mười phương ba đời, có đủ thứ tướng biến hoá khác nhau, Bồ Tát ở trong định nghe lời lẽ chư Phật diễn nói diệu pháp rõ ràng ghi nhớ trong đầu, thọ trì chẳng quên. Pháp thân của Phật chẳng tăng chẳng giảm.
Các vị Phật tử ! Ví như tất cả chúng sinh, khi mạng chung rồi, lúc sắp thọ sinh, trong giai đoạn này là thân trung ấm, tức cũng là « quỷ ». Khi năm ấm trước của con quỷ này (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) đã đoạn, năm ấm sau chưa sinh. Linh hồn cũng có thể nói là thức thứ tám (chủng tử) ở trong đen tối, đi khắp nơi tìm kiếm cha mẹ có duyên để thọ sinh. Dù có xa ngàn dặm, nếu phát hiện một chút ánh sáng (không có duyên thì nhìn chẳng thấy ánh sáng này), liền lập tức đến chỗ ánh sáng đó, trong khoảnh khắc bèn đi thọ sinh.
Khi nam nữ giao cấu thì phóng ra một thứ dâm quang, con cái phát hiện cảnh giới này, nếu có vọng niệm thương cha ghét mẹ, tức là thân nữ; còn nếu có vọng niệm thương mẹ ghét cha, tức là thân nam. Do một niệm vô minh này gieo xuống, mà thọ khổ luân hồi. Nếu chẳng có vô minh tác quái, thấy mà tâm chẳng động, thì không sinh, không sinh thì không chết. Lúc đó, chấm dứt sinh tử, vĩnh viễn được giải thoát.
Chúng sinh dùng gì để thọ sinh ? Là dùng tâm. Do đó : « Không lìa khỏi tâm ». Tâm có phân ra âm dương, dương là thần, có thể hoá sinh về trời; âm là quỷ, đầu thai vào nhân gian, hoặc làm người, hoặc làm súc sinh.
Chẳng lìa khỏi tâm mà thấy được cảnh giới này, là thanh tịnh. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, Ngài chẳng lìa khỏi cảnh giới thấy thanh tịnh của tam muội thâm sâu này, đều là thanh tịnh không nhiễm.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát trụ thử tam muội, thành tựu thập chủng tốc tật Pháp. hà giả vi thập? Sở vị: tốc tăng chư hạnh viên mãn đại nguyện, tốc dĩ pháp quang chiếu diệu thế gian, tốc dĩ phương tiện chuyển ư Pháp luân độ thoát chúng sanh, tốc tùy chúng sanh nghiệp thị hiện chư Phật thanh tịnh quốc độ, tốc dĩ ình đẳng trí thú nhập thập lực, tốc dữ nhất thiết Như Lai đồng trụ, tốc dĩ Đại từ lực tồi phá ma quân, tốc đoạn chúng sanh nghi lệnh sanh hoan hỉ, tốc tùy thắng giải thị hiện thần biến, tốc dĩ chủng chủng diệu pháp ngôn từ tịnh chư thế gian.
Phật tử ! Đại Bồ Tát trụ tam muội này, thành tựu mười pháp mau chóng. Những gì là mười ? Đó là : Mau tăng thêm các hạnh viên mãn đại nguyện. Mau dùng pháp quang chiếu sáng thế gian. Mau dùng phương tiện chuyển pháp luân, độ thoát chúng sinh. Mau tuỳ nghiệp chúng sinh, thị hiện cõi nước thanh tịnh của chư Phật. Mau dùng trí bình đẳng, thú hướng nhập vào mười lực. Mau cùng ở với tất cả Như Lai. Mau dùng sức đại bi, phá tan quân ma. Mau dứt nghi của chúng sinh, khiến cho họ sinh hoan hỉ. Mau tuỳ thắng giải, thị hiện thần biến. Mau dùng đủ thứ diệu pháp lời lẽ, tịnh các thế gian.
Giảng: Các vị Phật tử !Đại Bồ Tát trụ tam muội này, thành tựu mười pháp mau chóng. Những gì là mười ? Đó là :
1. Mau tăng thêm các hạnh viên mãn đại nguyện : Tức là rất mau chóng tăng trưởng công đức lục độ vạn hạnh, viên mãn đại nguyện thuở xưa đã phát ra.
2. Mau dùng pháp quang chiếu sáng thế gian : Tức là mau chóng dùng trí huệ quang minh, để chiếu khắp hết thảy thế gian, khiến cho tất cả chúng sinh phát bồ đề tâm.
3. Mau dùng phương tiện chuyển pháp luân, độ thoát chúng sinh : Tức là mau chóng chuyển đại pháp luân, dùng pháp môn phương tiện khéo léo để độ thoát tất cả chúng sinh, khiến cho họ lìa khổ được vui.
4. Mau tuỳ nghiệp chúng sinh, thị hiện cõi nước thanh tịnh của chư Phật : Tức là mau chóng tuỳ thuận nghiệp của chúng sinh, thị hiện cõi nước chư Phật thanh tịnh, khiến cho chúng sinh trụ ở trong đó được an ổn.
5. Mau dùng trí bình đẳng, thú hướng nhập vào mười lực : Tức là mau chóng dùng trí huệ bình đẳng, thú hướng nhập vào mười lực.
6. Mau cùng ở với tất cả Như Lai : Tức là mau chóng cùng ở với chư Phật, nên gần gũi chư Phật, thừa sự chư Phật.
7. Mau dùng sức đại bi, phá tan quân ma : Tức là mau chóng dùng sức lực đại từ đại bi để phá tan tất cả ma quân.
8. Mau dứt nghi của chúng sinh, khiến cho họ sinh hoan hỉ : Tức là mau chóng đoạn trừ nghi hoặc của chúng sinh, khiến cho họ sinh tâm hoan hỉ.
9. Mau tuỳ thắng giải, thị hiện thần biến : Tức là mau chóng tuỳ thuận giải thoát thù thắng, thị hiện đủ thứ thần thông biến hoá.
10. Mau dùng đủ thứ diệu pháp lời lẽ, tịnh các thế gian : Tức là mau chóng dùng đủ thứ lời lẽ diệu pháp, để thanh tịnh tất cả thế gian, khiến cho đời ác năm trược biến thành thế giới thanh tịnh.
Đả Phật thất lần này (ngày 20/8/1977) tại Vạn Phật Thành là lần thứ nhất. Tục ngữ có nói : « Bắt đầu tốt đẹp, tức là thành công một nửa ». Do đó : « Một thuận thì trăm thuận ». Hy vọng mọi người dũng mãnh để niệm Phật, chuyên tâm để niệm Phật, trói tâm khỉ lại, đừng để nó chạy bên ngoài. Tự mình quản thúc mình, niệm đến lúc nhất tâm bất loạn, thì sẽ được Phật Di Đà gia bị, khiến cho bạn khai mở đại trí huệ.
A Di Đà Phật, dịch là « Vô Lượng Thọ Phật », hoặc dịch là « Vô Lượng Quang Phật ». Vô lượng kiếp về trước, Ngài cũng là chúng sinh, giống như bạn, tôi và mọi người, chẳng có gì khác biệt. Bất quá, trước khi Ngài xuất gia, lúc nào cũng tu pháp môn niệm Phật. Về sau, xuất gia làm Tỳ Kheo pháp danh là Pháp Tạng. Chẳng những Ngài tinh tấn niệm Phật, mà còn phát ra 48 đại nguyện. Trong mỗi đại nguyện đều nguyện nhiếp thọ tất cả chúng sinh, đến cõi nước của Ngài (Thế giới Cực Lạc) thành Phật. Trong một lời nguyện có nói rằng : « Nếu tôi thành Phật, cõi nước của tôi gọi là thế giới Cực Lạc, không có các sự khổ, chỉ thọ các điều vui ». Lại nói : « Hết thảy chúng sinh mười phương, nếu ai xưng danh hiệu của tôi, mà không thành Phật, thì tôi không thủ Chánh Giác ». Vì Phật A Di Đà có nguyện lực như thế, cho nên chúng ta phải niệm sáu chữ hồng danh « Nam Mô A Di Đà Phật », có thể đới nghiệp vãng sinh, hoa nở thấy Phật. Muốn vãng sinh về thế giới Cực Lạc, nhất định phải nhờ sức niệm Phật, mới được vãng sinh về cõi đó; một phương diện phải nhờ sức chính mình niệm Phật, phương diện khác phải nhờ nguyện lực của Phật A Di Đà. Hai sức lực này trợ giúp lẫn nhau, giúp cho vượt qua biển sinh tử, khiến cho bạn bình an đạt đến thế giới Cực Lạc.
Nay giải thích sơ lược về hồng danh sáu chữ « Nam Mô A Di Đà Phật » : « Nam Mô » ý nghĩa là quy mạng. Chúng ta đem thân tâm tánh mạng đều quy y (nương tựa) Phật A Di Đà. « A » nghĩa là vô. « Di Đà » nghĩa là lượng thọ. Cho nên gọi là Phật Vô Lượng Thọ. Trong tịnh độ tông có ba bộ kinh :
1. Kinh A Di Đà.
2. Kinh Vô Lượng Thọ.
3. Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật.
Bộ kinh thứ nhất, kinh văn rất nông cạn dễ hiểu. Bộ kinh thứ hai, kinh văn sâu hơn một chút, chẳng phải một số người hiểu được, cho nên Kinh A Di Đà là kinh người niệm Phật phải tụng. Trong kinh văn có nói : « Đức Phật đó quang minh vô lượng, chiếu khắp mười phương cõi nước, không có chướng ngại, nên hiệu là A Di Đà ». Lại nói : « Đức Phật đó thọ mạng, và nhân dân của Ngài, vô lượng vô biên A tăng kỳ kiếp, nên hiệu là A Di Đà ». Phật Vô Lượng Thọ hay khiến cho tất cả chúng sinh tăng phước sống lâu. Tên của Ngài còn dịch là Phật Vô Lượng Quang, hay khiến cho tất cả chúng sinh đắc được đại trí huệ quang minh, tương lai được sinh về thế giới Cực Lạc phương tây, sớm thành Phật đạo, do đó : « Mười phương Phật ba đời, đều cùng một pháp thân ».
Niệm NamMô A Di Đà Phật, có bốn phương pháp niệm :
1. Quán tưởng niệm Phật.
2. Quán tượng niệm Phật.
3. Trì danh niệm Phật.
4. Thật tướng niệm Phật.
Giải thích sơ lược như sau :
1. Quán tưởng niệm Phật : Phải quán tưởng như vầy :
« Phật A Di Đà thân sắc vàng,
Tướng tốt trang nghiêm không ai bằng ».
Phật A Di Đà có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp. Thân phóng ra quang minh màu vàng, không gì sánh bằng. Lại phải quán tưởng như vầy :
« Hào quang trắng bay lượng như Tu Di,
Mắt Phật xanh biếc như nước bốn biển ».
Giữa lông mày của Phật A Di Đà, phóng ra quang minh màu trắng, bay lượng to lớn như năm toà núi Tu Di. Mắt của Ngài xanh biếc trong suốt như nước bốn biển. Lại phải quán tưởng như vầy :
« Trong quang minh có vô số ức hoá Phật,
Hoá Bồ Tát chúng cũng nhiều vô biên ».
Ở trong quang minh của Phật A Di Đà lại hoá hiện ra vô số ức vị Phật, lại hoá hiện vô lượng vô biên Bồ Tát. Lại phải quán tưởng như vầy :
« Bốn mươi tám nguyện độ chúng sinh,
Chín phẩm sen vàng lên bờ giác ».
Khi Phật A Di Đà tại nhân địa, đã từng phát bốn mươi tám đại nguyện. Ở trong mỗi nguyện, đều độ chúng sinh lên bờ bên kia, thành tựu Phật quả. Trong đó phân làm ba bậc, chín phẩm. Ba bậc là bậc thượng, bậc trung, bậc hạ. Chín phẩm là thượng ba phẩm, trung ba phẩm, hạ ba phẩm. Thượng thượng phẩm thấy Phật, hạ hạ phẩm thấy Bồ Tát.
2. Quán tượng niệm Phật : Phải cúng phụng Thánh tượng Phật A Di Đà (hoặc tây phương tam Thánh) nơi thanh tịnh. Khi niệm danh hiệu Phật thì mắt quán Phật A Di Đà, miệng niệm Phật A Di Đà, tâm nghĩ Phật A Di Đà, như vậy sẽ khiến cho ba nghiệp thanh tịnh, sẽ được vãng sinh về thế giới tây phương, do đó :
« Nguyện sinh về cõi tây phương cõi tịnh độ
Chín phẩm hoa sen là cha mẹ
Hoa nở thấy Phật ngộ vô sinh
Bồ Tát bất thối làm bạn lành ».
3. Trì danh niệm Phật : Hiện tại chúng ta là tu trì danh niệm Phật, nhất tâm bất loạn niệm sáu chữ hồng danh, kiền thành niệm, hoặc một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày, năm ngày, hoặc sáu ngày. Hiện tại chúng ta đã niệm được sáu ngày (ngày thứ sáu của Phật thất). Đợi khi đến ngày thứ bảy, sẽ chứng được niệm Phật tam muội. Niệm Phật tam muội là gì ? Tức là lúc nào cũng chuyên tâm niệm, tinh thần tập trung niệm. Lúc đó, đi chẳng biết đi, ngồi chẳng biết ngồi, khát chẳng biết khát, đói chẳng biết đói, ăn chẳng biết ăn, ngủ chẳng biết ngủ, bất cứ đi đừng nằm ngồi, đều là sáu chữ hồng danh « Nam Mô A Di Đà Phật ». Niệm đến bên trong cũng là A Di Đà Phật, bên ngoài cũng là A Di Đà Phật, bất cứ âm thanh gì, cũng đều biến thành âm thanh A Di Đà Phật, lúc đó, chẳng còn vọng tưởng nào khác, chỉ có một lòng niệm Phật, đó là đạt đến cảnh giới niệm Phật tam muội.
4. Thật tướng niệm Phật : Tức cũng là tham thoại đầu, tham « Niệm Phật là ai ? Ai đang niệm Phật » ? Một lòng một dạ truy cứu chữ « ai » này. Chữ « ai » này là kim cang vương bảo kiếm, là chuỳ báu hàng ma, chém sạch hết si tâm vọng tưởng. Đến lúc một niệm không sinh, một pháp không nhiễm, sẽ tìm được chữ « ai ». Tìm như thế nào ? Phương pháp này rất là đơn giản, nghĩa là từng phút từng giây luôn để tâm tới chữ « ai », đừng quên mất. Ăn cơm cũng tìm, ngủ nghỉ cũng tìm, tìm tới tìm lui, sẽ chứng được thật tướng (thật tướng vô tướng, vô tướng vô bất tướng) trí huệ, sẽ giác ngộ đạo lý tất cả các pháp thật tướng. Lúc đó, biển lặng trời xanh, nhậm vận tiêu dao, thật là tự tại, vô câu vô thúc, giải thoát tất cả.
Bốn thứ pháp môn niệm Phật này, bất cứ y pháp môn nào tu hành, cũng đều sẽ thành tựu, đều đắc được niệm Phật tam muội. Khi mạng chung, không quái không ngại, rất an tường vãng sinh tây phương.
Phật tử! thử Bồ-Tát Ma-ha-tát phục đắc thập chủng pháp ấn, ấn nhất thiết pháp. Hà đẳng vi thập?
Nhất giả đồng khứ, lai, kim nhất thiết chư Phật bình đẳng thiện căn,
Nhị giả đồng chư Như Lai đắc vô biên tế trí tuệ Pháp thân,
Tam giả đồng chư Như Lai trụ bất nhị Pháp,
Tứ giả đồng chư Như Lai quan sát tam thế vô lượng cảnh giới giai tất bình đẳng,
Ngũ giả đồng chư Như Lai đắc liễu đạt Pháp giới vô ngại cảnh giới,
Lục giả đồng chư Như Lai thành tựu thập lực sở hạnh vô ngại,
Thất giả đồng chư Như Lai vĩnh tuyệt nhị hành trụ vô tránh Pháp,
Bát giả đồng chư Như Lai giáo hóa chúng sanh hằng bất chỉ tức,
Cửu giả đồng chư Như Lai ư trí thiện xảo, nghĩa thiện xảo trung năng thiện quan sát,
Thập giả đồng chư Như Lai dữ nhất thiết Phật bình đẳng vô nhị.
Phật tử ! Đại Bồ Tát này lại được mười thứ pháp ấn, ấn tất cả pháp. Những gì là mười ?
Một là căn lành bình đẳng đồng với tất cả chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại.
Hai là đắc được pháp thân trí huệ không bờ mé đồng với các Như Lai.
Ba là trụ pháp không hai đồng với các Như Lai.
Bốn là quán sát vô lượng cảnh giới ba đời thảy đều bình đẳng đồng với các Như Lai.
Năm là thông đạt được cảnh giới pháp giới vô ngại đồng với các Như Lai.
Sáu là thành tựu mười lực, sở hành vô ngại đồng với các Như Lai.
Bảy là vĩnh viễn dứt trừ hai hành, trụ pháp vô tranh đồng với các Như Lai.
Tám là giáo hoá chúng sinh luôn không ngừng nghỉ đồng với các Như Lai.
Chín là nơi trí thiện xảo, nghĩa thiện xảo, hay khéo quán sát, đồng với các Như Lai.
Mười là bình đẳng không hai với tất cả Phật đồng với các Như Lai.
Giảng: Các vị Phật tử !Vị đại Bồ Tát này lại được mười thứ pháp ấn, ấn chứng tất cả các pháp. Những gì là mười
1. Căn lành của Bồ Tát bình đẳng đồng với tất cả chư Phật đời quá khứ, đời vị lai, đời hiện tại. Đắc được pháp ấn căn lành bình đẳng như thế, thì tương lai nhất định sẽ thành Phật.
2. Bồ Tát đắc được pháp thân trí huệ không bờ mé đồng với chư Phật mười phương ba đời. Hết thảy chúng sinh thế gian đều trụ ở trong pháp thân của Phật, do đó : « Pháp thân như hư không ». Có ai sống ở ngoài hư không chăng ? Cho nên đều ở trong pháp thân. Song, chúng sinh tự mình không biết mà thôi. Tại sao ? Vì chẳng có ngũ nhãn lục thông, cho nên nhìn chẳng thấy pháp thân của Phật. Nếu người khai mở ngũ nhãn sẽ nhìn thấy rất rõ ràng.
Ngũ nhãn là gì ? Trước hết nói bài kệ :
« Thiên nhãn thông phi ngại
Nhục nhãn ngại phi thông
Pháp nhãn duy quán tục
Huệ nhãn liễu chân không
Phật nhãn như thiên nhựt
Chiếu dị thể hoàn đồng
Viên minh pháp giới cảnh
Vô xứ bất hàm dung ».
Lược giải thích như sau :
A. Thiên nhãn thông phi ngại : Thiên nhãn thông đạt được tất cả sự vật hữu hình và vô hình. Hữu hình nhìn thấy được, vô hình nhìn thấu được, đều không có chướng ngại. Hết thảy sơn hà đại địa, nhà cửa phòng ốc, phàm là sự vật có hình có tướng, đều không che được thiên nhãn. Trên thấy được hành động của chư thiên, đang hưởng thụ khoái lạc gì ? Dưới nhìn thấy được chúng sinh dưới các địa ngục, đang thọ khổ hình gì ? Nhìn thấy rất rõ ràng.
B. Nhục nhãn ngại phi thông : Nhục nhãn này, chẳng phải con mắt thịt của phàm phu. Nhục nhãn này quán sát được vật có chướng ngại, vật có hình tướng. Có thể nhìn thấy tất cả thân Phật Bồ Tát, lại có thể nhìn thấy tất cả yêu ma quỷ quái. Nếu nói nhục nhãn có chướng ngại, thì không thể thông đạt tất cả cảnh giới, đó là không đúng. Nhục nhãn của phàm phu có chướng ngại, nhục nhãn của Thánh nhân không có sự chướng ngại.
C. Pháp nhãn duy quán tục : Pháp nhãn quán sát được pháp nghĩa trong tục đế. Mỗi hạt bụi trong hư không, nhìn thấy đều có tam tạng mười hai bộ kinh điển. Lại nhìn thấy pháp hội Linh Sơn, đức Phật vẫn đang ở đó diễn nói Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, chưa tan hội.
D. Huệ nhãn liễu chân không : Huệ nhãn biết rõ được trong chân không có những gì ? Minh bạch đạo lý thật tướng chân không. Thấy được tất cả sự vật vị lai, không cần tác ý, chỉ nhìn thì biết rõ.
Hiện tại khoa học đang phát triển, tuy nhiên đã phát minh điện tử, nguyên tử, phân tử, hạch tử .v.v…nhưng khi phát minh rồi, con người mới biết. Phàm là người có trí huệ, vật trước khi phát minh, đều nhìn thấy được. Giống như điện thoại, truyền hình, rađa .v.v…trước khi phát minh, Bồ Tát đều biết đều thấy.
Tôi thường nói : « Tương lai năm trăm năm sau, hoặc một ngàn năm sau, con người ở tại đông nam hai bán cầu, cách xa vạn dặm, không cần dùng điện thoại không dây, cũng có thể nói chuyện với nhau được, giống như đang ở trước mặt, không cần nhìn truyền hình, cũng có thể nhìn các thứ tiết mục. Đây là lời tiên đoán của tôi, sẽ mau chóng trở thành hiện thực.
Có người hỏi : « Hoà thượng ! Ngài có căn cứ gì mà phát biểu lời không thể nghĩ bàn như thế » ?
Đương nhiên là tôi có căn cứ, bằng không, sẽ phạm giới vọng ngữ, tương lai sẽ đoạ vào địa ngục cắt lưỡi. Căn cứ của tôi là dùng ngũ nhãn để chứng minh. Ai khổ cực tu đạo, tham thiền đả toạ, thì tự nhiên sẽ khai mở ngũ nhãn. Lúc đó, chẳng có gì mà không thấy, chẳng có gì mà không biết. Ai cũng đều có thần thông, có thể đi bộ ở trong hư không, không cần ngồi máy bay. Có thể đi bộ trên biển, không cần ngồi trên thuyền. Hiện tại tôi nói những lời này, các bạn không cần tin, cứ cho rằng là huyễn tưởng. Các bạn nhắm mắt lại nghĩ thử xem : Hai trăm năm trước, nếu có người nói tương lai có điện thoại, bất cứ xa cách bao nhiêu, cũng nói chuyện được, thì bạn chắc chắn sẽ không tin. Một trăm năm trước, nếu có người nói tương lai có truyền hình, không những nghe được tiếng ca hát, mà còn nhìn thấy tiết mục biểu diễn, ngồi ở trong nhà nhìn thấy được, không cần đến rạp hạt, rất là thuận tiện. Bạn nhất định cho rằng người đó bị thần kinh, là kẻ si nói mộng, làm sao mà có việc kỳ quái như thế ? Hiện tại đều đã chứng minh, đã trở thành sự thật. Những lời hôm nay tôi nói, các bạn cho rằng là nói bậy, đợi đến lúc đó, chẳng có ai nói với các bạn, các bạn cũng sẽ tin.
E. Phật nhãn như thiên nhựt : Phật nhãn sáng giống như ngàn mặt trời, có thể chiếu vô số ba ngàn đại thiên thế giới. Song, ánh sáng mặt trời chỉ chiếu dương chẳng chiếu âm, ánh sáng trí huệ của Phật không phân biệt âm dương, do đó : « Phật quang phổ chiếu ». Phật nhãn nhìn thế gian đều biết đều thấy hết.
Chiếu dị thể hoàn đồng : Quang minh của Phật chiếu vạn sự vạn vật, tuy nhiên khác nhau, nhưng bản thể là một, chứ chẳng hai.
Viên minh pháp giới cảnh : Phật nhãn cùng quán xem tất cả, bất cứ là chân đế, hoặc là tục đế, chẳng màng là có hình, hoặc là không hình, đều viên dung vô ngại, thấu rõ cảnh giới trong pháp giới.
Vô xứ bất hàm dung : Tận hư không khắp pháp giới, chẳng có một nơi nào mà không hàm dung ở bên trong, đều nhìn thấy được rất rõ ràng, đó là oai lực của Phật nhãn.
Bồ Tát đắc được vô biên trí huệ, biết được tất cả các pháp đều là không. Dùng pháp nhãn để quán sát tất cả tục đế, dùng huệ nhãn để quán sát tất cả chân đế, cho nên chứng được chân lý người và pháp đều không, nhưng chưa chứng minh lý ba không, vẫn chưa thành Phật.
3. Bồ Tát trụ pháp không hai đồng với chư Phật. Pháp môn không hai tức là pháp thật tướng rốt ráo. Bồ Tát Văn Thù hỏi ông Duy Ma Cật rằng : « Thế nào là pháp môn không hai » ? Ông Duy Ma Cật ngồi yên không nói, đó tức là pháp môn không hai, do đó : « Ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ diệt ».
4. Trí huệ của Bồ Tát quán sát vô lượng cảnh giới ba đời thảy đều bình đẳng đồng với chư Phật. Minh bạch tất cả các pháp đều là bình đẳng, chẳng có sự phân biệt, đắc được pháp ấn này. Pháp ấn là gì ? Tức là ấn tỉ diệu pháp, chứng minh chánh pháp của Phật, cũng là pháp các vị Tổ sư ấn khả với nhau, tâm tâm truyền với nhau.
5. Bồ Tát chứng đắc thấu rõ thông đạt được cảnh giới mười pháp giới vô ngại đồng với các Như Lai. Pháp giới chúng sinh nào đáng độ, thì Bồ Tát đến pháp giới đó để thọ sinh. Dùng bốn pháp nhiếp để giáo hoá chúng sinh pháp giới đó, khiến cho họ phát bồ đề tâm. Trên cầu Phật đạo, dưới độ chúng sinh, đều thành Phật đạo.
6. Bồ Tát thành tựu mười lực của Phật, cảnh giới sở hành vô ngại đồng với chư Phật. Mười lực tức là :
a. Giác xứ phi xứ lực.
b. Ba đời nghiệp báo lực.
c. Chư Phật giải thoát tam muội lực.
d. Chư căn thắng liệt lực.
e. Chủng chủng giải lực.
f. Chủng chủng giới lực.
g. Nhất thiết chí xứ đạo lực.
h. Thiên nhãn vô ngại lực.
i. Túc mạng vô lậu lực.
j. Vĩnh đoạn tập khí lực.
7. Bồ Tát vĩnh viễn dứt trừ hai hành (thấy và ái), chẳng có thấy cái ta và hành vi tình ái. Làm thế nào mà chẳng có tư tưởng đó ? Phải tu bốn vô lượng tâm (Từ, bi, hỉ, xả), thì mới tiêu diệt được, vĩnh viễn dứt hai hành, như thế thì trụ pháp vô tranh, đồng với chư Phật. Do đó :
« Tranh là tâm thắng phụ
Trái ngược lại với đạo
Bèn sinh bốn tướng tâm
Sao đắc được tam muội » ?
Vô tranh tức là :
« Hãy nhận chính mình sai
Đừng nói lỗi người khác
Lỗi người tức lỗi mình
Đồng thể gọi đại bi ».
Nói tóm lại, bất cứ người khác nói mình có chỗ nào không đúng, chẳng màng là ý tốt phê bình, hoặc ác ý phỉ báng, đều phải dùng tâm khiêm hư để tiếp thọ, thừa nhận lỗi của mình, đừng biện luận với người khác. Nếu biện luận, thì sẽ sinh ra bốn tướng tâm (ta, người, chúng sinh, thọ mạng), sẽ trái với tông chỉ tu đạo, làm sao đắc được tam muội ? Cho nên, không tranh luận, chẳng thị phi. Quán tưởng như thế, thì sẽ hoà bình với nhau. Việc lớn hoá thành nhỏ, việc nhỏ hoá không. Hết mưa trời lại sáng, sóng yên gió lặng.
8. Bồ Tát giáo hoá tất cả chúng sinh, khiến cho họ phát tâm bồ đề, cầu vô thượng đạo, thường chuyển bánh xe pháp, luôn luôn không ngừng nghỉ đồng với chư Phật. Nhiệm vụ của Bồ Tát là cứu khổ cứu nạn, thấy chúng sinh thọ khổ, nghe chúng sinh thọ nạn, thì lập tức hoá thân đến cứu vớt chúng sinh ra khỏi biển khổ, do đó :
« Vô duyên đại từ, đồng thể đại bi ».
Bồ Tát xem chúng sinh giống như chính mình, cùng một thể; chúng sinh thọ khổ thọ nạn, giống như chính mình thọ khổ thọ nạn. Chúng ta phải học tinh thần của Bồ Tát, tất cả vì chúng sinh mưu cầu hạnh phúc, đừng có nghĩ đến mình, do đó :
« Hy sinh tiểu ngã, để hoàn thành đại ngã ».
9. Bồ Tát nơi trí thiện xảo, nghĩa lý thiện xảo, hay khéo quán sát, khéo thấu hiểu, đồng với chư Phật. Khi Bồ Tát thực hành sâu vào nghĩa lý Bát Nhã Ba La Mật Đa, thì thấy rõ năm uẩn đều không, qua khỏi tất cả khổ ách. Bồ Tát biết các pháp không tướng, không sinh không diệt, không dơ không sạch, không tăng không giảm. Cho nên không chấp trước, chứng được giải thoát.
10. Bồ Tát bình đẳng không hai với tất cả Phật đồng với chư Phật. Do đó : « Phật Phật đạo đồng ». « Ba đời tất cả chư Phật, đều cùng một pháp thân ». Vị Bồ Tát này tu chứng biết rõ tất cả thế giới Phật trang nghiêm tam muội, Ngài đắc được mười pháp ấn này.
Phật tử! nhược Bồ-Tát Ma-ha-tát thành tựu thử liễu tri nhất thiết thế giới Phật trang nghiêm Đại tam muội thiện xảo phương tiện môn, thị vô sư giả, bất do tha giáo, tự nhập nhất thiết Phật Pháp cố; thị trượng phu giả, năng khai ngộ nhất thiết chúng sanh cố; thị thanh tịnh giả, tri tâm tánh bản tịnh cố; thị đệ nhất giả, năng độ thoát nhất thiết thế gian cố; thị an uý giả, năng khai hiểu nhất thiết chúng sanh cố; thị an trụ giả, vị trụ Phật chủng tánh giả lệnh đắc trụ cố; thị chân thật tri giả, nhập nhất thiết trí môn cố; thị vô dị tưởng giả, sở ngôn vô nhị cố; thị trụ pháp tạng giả, thệ nguyện liễu tri nhất thiết Phật Pháp cố; thị năng vũ Pháp vũ giả, tùy chúng sanh tâm lạc tất lệnh sung túc cố.
Phật tử ! Nếu đại Bồ Tát thành tựu đại tam muội môn thiện xảo phương tiện, biết rõ tất cả thế giới Phật trang nghiêm này.
Là bậc vô sư, vì không nhờ người khác dạy, mà tự vào tất cả Phật pháp.
Là bậc trượng phu, vì hay khai ngộ tất cả chúng sinh.
Là bậc thanh tịnh, vì biết tâm tánh vốn tịnh.
Là bậc đệ nhất, vì hay độ thoát tất cả thế gian.
Là bậc an ổn, vì hay khai thị lợi ích tất cả chúng sinh.
Là bậc an trụ, vì người chưa trụ vào chủng tánh Phật, khiến cho họ trụ vào.
Là bậc biết chân thật, vì vào môn Nhất thiết trí.
Là bậc không nghĩ khác, vì lời nói không hai.
Là bậc trụ pháp tạng, vì thệ nguyện biết rõ tất cả Phật pháp.
Là bậc hay mưa pháp vũ, vì tuỳ tâm chúng sinh ưa thích, đều khiến cho họ được đầy đủ.
Giảng: Các vị Phật tử !Nếu như có vị đại Bồ Tát, thành tựu đại tam muội môn thiện xảo phương tiện, biết rõ tất cả thế giới Phật trang nghiêm này, liền đắc được mười điều lợi ích dùng đức thành người :
1. Là bậc vô sư : Bồ Tát là người không thầy mà tự thông, chẳng nhờ người khác dạy mà biết, chính mình tự vào tất cả Phật pháp, đắc được chân lý của diệu pháp.
2. Là bậc trượng phu : Bồ Tát là đại trượng phu, tức cũng là điều ngự trượng phu, điều phục giá ngự được tất cả chúng sinh ba đời, khiến cho chúng sinh lìa khổ được vui, chấm dứt sinh tử. Vì Ngài hay khai ngộ tất cả chúng sinh, cho nên xưng là đại trượng phu.
3. Là bậc thanh tịnh : Bồ Tát là người thanh tịnh không nhiễm, vì biết tâm tánh vốn là thanh tịnh.
4. Là bậc đệ nhất : Bồ Tát là thiện tri thức đệ nhất thế gian, vì hay độ thoát tất cả thế gian.
5. Là bậc an ổn : Bồ Tát là thiện tri thức an ủi tất cả chúng sinh, dùng từ bi để an ủi, khiến cho họ phát bồ đề tâm. Dùng hỉ xả để khai thị lợi ích tất cả chúng sinh, khiến cho họ khôi phục lại tâm thanh tịnh vốn có.
6. Là bậc an trụ : Bồ Tát là người an trụ tại bồ đề đạo, khiến cho người chưa trụ vào chủng tánh Phật, phát đại bồ đề tâm, hành Bồ Tát đạo.
7. Là bậc biết chân thật : Bồ Tát là người biết chân thật tất cả khổ vui của thế gian, hay vào môn Nhất thiết trí.
8. Là bậc không nghĩ khác : Bồ Tát là thiện tri thức chẳng còn vọng tưởng, lời nói ra đều là chân thật, chẳng nói lời hư vọng không thật.
9. Là bậc trụ pháp tạng : Bồ Tát là thiện tri thức trụ nơi pháp tạng, phát đại thệ nguyện, nhất định phải thấu rõ nguồn gốc tất cả Phật pháp.
10. Là bậc hay mưa pháp vũ : Bồ Tát là thiện tri thức mưa xuống đại pháp vũ, khi giáo hoá chúng sinh, thì tuỳ thuận sự hoan hỉ trong tâm chúng sinh, mà khiến cho họ được đầy đủ toại tâm mãn nguyện, đó là pháp môn phương tiện thiện xảo, do đó :
« Muốn khiến vào Phật trí
Trước dùng câu dục móc ».
Phật tử! thí như Đế Thích, ư đảnh kế trung trí ma-ni bảo, dĩ bảo lực cố, uy quang chuyển thịnh. kỳ thích Thiên Vương sơ hoạch thử bảo tức đắc thập pháp, xuất qua nhất thiết tam thập tam thiên.
Hà đẳng vi thập? nhất giả sắc tướng, nhị giả hình thể, tam giả thị hiện, tứ giả quyến thuộc, ngũ giả tư cụ, lục giả âm thanh, thất giả thần thông, bát giả tự tại, cửu giả tuệ giải, thập giả trí dụng. Như thị thập chủng, tất qua nhất thiết tam thập tam thiên.
Phật tử ! Ví như Đế Thích, nơi búi tóc trên đỉnh đầu, có gắn hạt châu ma ni. Vì nhờ sức bảo châu mà oai quang càng thạnh. Khi trời Đế Thích mới được bảo châu này, liền đắc được mười pháp, vượt hơn tất cả trời Ba Mươi Ba.
Những gì là mười pháp ? Một là sắc tướng. Hai là hình thể. Ba là thị hiện. Bốn là quyến thuộc. Năm là đồ dùng. Sáu là âm thanh. Bảy là thần thông. Tám là tự tại. Chín là huệ giải. Mười là trí dụng. Mười pháp như vậy, đều hơn tất cả trời Ba Mươi Ba.
Giảng: Các vị Phật tử !Ví như trời Đế Thích (Thích Đề Hoàn Nhân), nơi búi tóc trên đỉnh đầu của ông ta, có gắn hạt châu báu ma ni. Vì nhờ sức ánh sáng bảo châu, cho nên oai quang của trời Đế Thích đặc biệt càng thạnh, phóng đại quang minh. Khi trời Đế Thích mới được bảo châu này, liền đắc được mười pháp, vượt hơn tất cả trời Ba Mươi Ba. Những gì là mười pháp ?
1. Sắc tướng viên mãn.
2. Hình thể thù thắng.
3. Thị hiện không ai bằng.
4. Quyến thuộc hơn hẳn.
5. Đồ dùng đầy đủ.
6. Âm thanh vang xa.
7. Thần thông biến hoá.
8. Tự tại diệu dụng.
9. Huệ giải vô ngại.
10. Trí dụng hợp nhất.
Mười pháp như vậy, đều hơn tất cả trời Ba Mươi Ba.
Trời Đế Thích có nhiều tên gọi. Ở trong Phật Giáo gọi là Thích Đề Hoàn Nhân, hoặc gọi là Nhân Đà La Gia. Ở trong Cơ Đốc Giáo gọi là Thượng Đế, trong Thiên Chúa Giáo gọi là Thiên Chúa. Ở trong Đạo Giáo gọi là Ngọc Hoàng Đại Đế. Một số người gọi là Thiên Lão Gia. Vì ông ta ở trên trời Đao Lợi, trên đỉnh núi Tu Di, chưa lìa khỏi thế giới, một số tôn giáo cho rằng ông ta là chủ tể tối cao, là chủ tạo vạn vật, là chủ nhân quản lý vũ trụ. Kỳ thật, ông ta bất quá là chủ nhân của địa cư Thiên mà thôi. Trong tam giới có hai mươi tám từng trời, cõi trời của ông ta ở, chỉ là từng trời thứ hai. Song, quyền lực của ông ta rất lớn, ở trên thì quản lý các cõi trời (ba mươi hai trời của trời Đao Lợi), ở giữa thì quản lý thiện ác của nhân gian, ở dưới thì quản lý chúng sinh địa ngục.
Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, sơ thủy hoạch đắc thử tam muội thời, tức đắc thập chủng quảng đại trí tạng. Hà đẳng vi thập?
Nhất giả chiếu diệu nhất thiết Phật sát trí,
Nhị giả tri nhất thiết chúng sanh thọ sanh trí,
Tam giả phổ tác tam thế biến hóa trí,
Tứ giả phổ nhập nhất thiết Phật thân trí,
Ngũ giả thông đạt nhất thiết Phật Pháp trí,
Lục giả phổ nhiếp nhất thiết tịnh Pháp trí,
Thất giả phổ lệnh nhất thiết chúng sanh nhập Pháp thân trí,
Bát giả hiện kiến nhất thiết pháp phổ nhãn thanh tịnh trí,
Cửu giả nhất thiết tự tại đáo ư bỉ ngạn trí,
Thập giả an trụ nhất thiết quảng đại Pháp phổ tận vô dư trí.
Đại Bồ Tát cũng lại như thế, khi mới đắc được tam muội này, thì được mười trí tạng rộng lớn. Những gì là mười ?
Một là trí chiếu sáng tất cả cõi Phật.
Hai là trí biết tất cả chúng sinh thọ sinh.
Ba là trí làm khắp ba đời biến hoá.
Bốn là trí vào khắp tất cả thân Phật.
Năm là trí thông đạt tất cả Phật pháp.
Sáu là trí nhiếp khắp tất cả tịnh pháp.
Bảy là trí khiến khắp tất cả chúng sinh vào pháp thân.
Tám là trí hiện thấy tất cả pháp phổ nhãn thanh tịnh.
Chín là trí tất cả tự tại đến nơi bờ kia.
Mười là trí an trụ tất cả pháp rộng lớn tận khắp không sót thừa.
Giảng: Đại Bồ Tát cũng lại như thế, vượt qua tất cả Bồ Tát. Từ khi mới đắc được đại tam muội biết rõ tất cả thế giới Phật trang nghiêm này, thì đắc được mười trí huệ tạng rộng lớn. Những gì là mười ?
1. Trí chiếu sáng tất cả cõi Phật : Trí huệ quang của Bồ Tát có thể chiếu khắp hết thảy cõi Phật.
2. Trí biết tất cả chúng sinh thọ sinh : Bồ Tát biết tình hình tất cả chúng sinh thọ sinh.
3. Trí làm khắp ba đời biến hoá : Bồ Tát có thể làm cho ba đời khắp đều chuyển biến.
4. Trí vào khắp tất cả thân Phật : Bồ Tát vào khắp được trong pháp thân của chư Phật.
5. Trí thông đạt tất cả Phật pháp : Bồ Tát thông đạt tất cả Phật pháp của chư Phật nói.
6. Trí nhiếp khắp tất cả tịnh pháp : Bồ Tát nhiếp trì khắp tất cả pháp thanh tịnh.
7. Trí khiến khắp tất cả chúng sinh vào pháp thân : Bồ Tát khiến khắp tất cả chúng sinh vào pháp thân của chư Phật.
8. Trí hiện thấy tất cả pháp phổ nhãn thanh tịnh : Bồ Tát hiện thấy tất cả các pháp, phổ nhãn thanh tịnh.
9. Trí tất cả tự tại đến nơi bờ kia : Bồ Tát đều tự tại hết thảy tất cả, đến được rốt ráo bờ bên kia.
10. Trí an trụ tất cả pháp rộng lớn tận khắp không sót thừa : Bồ Tát an trụ ở trong pháp rộng lớn, rốt ráo khắp không sót thừa.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát trụ thử tam muội, phục đắc thập chủng tối thanh tịnh uy đức thân. Hà đẳng vi thập?
Nhất giả vi chiếu diệu bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới cố, phóng bất khả thuyết bất khả thuyết quang minh luân;
Nhị giả vi lệnh thế giới hàm thanh tịnh cố, phóng bất khả thuyết bất khả thuyết vô lượng sắc tướng quang minh luân;
Tam giả vi điều phục chúng sanh cố, phóng bất khả thuyết bất khả thuyết quang minh luân;
Tứ giả vi thân cận nhất thiết chư Phật cố, hóa tác bất khả thuyết bất khả thuyết thân;
Ngũ giả vi thừa sự cúng dường nhất thiết chư Phật cố, vũ bất khả thuyết bất khả thuyết chủng chủng thù diệu hương hoa vân;
Lục giả vi thừa sự cúng dường nhất thiết Phật, cập điều phục nhất thiết chúng sanh cố, ư nhất nhất mao khổng trung hóa tác bất khả thuyết bất khả thuyết chủng chủng âm nhạc;
Thất giả vi thành thục chúng sanh cố, hiện bất khả thuyết bất khả thuyết chủng chủng vô lượng tự tại thần biến;
Bát giả vi ư thập phương chủng chủng danh hiệu nhất thiết Phật sở thỉnh vấn Pháp cố, nhất bộ siêu quá bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới;
Cửu giả vi lệnh nhất thiết chúng sanh kiến văn chi giả giai bất không cố, hiện bất khả thuyết bất khả thuyết chủng chủng vô lượng thanh tịnh sắc tướng thân, vô năng kiến đảnh;
Thập giả vi dữ chúng sanh khai thị vô lượng bí mật pháp cố, phát bất khả thuyết bất khả thuyết âm thanh ngữ ngôn.
Phật tử ! Đại Bồ Tát trụ tam muội này, lại đắc được mười thân oai đức thanh tịnh nhất. Những gì là mười ?
Một là vì chiếu sáng bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới, nên phóng ra bất khả thuyết bất khả thuyết quang minh luân.
Hai là vì khiến cho thế giới đều thanh tịnh, nên phóng ra bất khả thuyết bất khả thuyết vô lượng sắc tướng quang minh luân.
Ba là vì điều phục chúng sinh, nên phóng ra bất khả thuyết bất khả thuyết quang minh luân.
Bốn là vì gần gũi tất cả chư Phật, nên hoá làm bất khả thuyết bất khả thuyết thân.
Năm là vì thừa sự cúng dường tất cả chư Phật, nên mưa xuống bất khả thuyết bất khả thuyết đủ thứ mây hương hoa thù diệu.
Sáu là vì thừa sự cúng dường tất cả chư Phật, và điều phục tất cả chúng sinh, nên ở trong mỗi lỗ lông, hoá làm bất khả thuyết bất khả thuyết đủ thứ âm nhạc.
Bảy là vì thành thục chúng sinh, nên hiện bất khả thuyết bất khả thuyết đủ thứ vô lượng tự tại thần biến.
Tám là vì ở chỗ đủ thứ danh hiệu tất cả chư Phật trong mười phương thỉnh vấn pháp, nên một bước vượt qua bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới.
Chín là vì khiến cho tất cả chúng sinh thấy nghe được đều chẳng luống qua, nên hiện bất khả thuyết bất khả thuyết thân đủ thứ vô lượng sắc tướng, không ai thấy đỉnh được.
Mười là vì chúng sinh khai thị vô lượng pháp bí mật, nên phát ra bất khả thuyết bất khả thuyết lời lẽ âm thanh.
Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát trụ tại tam muội này, lại đắc được mười thân oai đức thanh tịnh nhất. Những gì là mười ?
1. Vì chiếu sáng bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới, nên phóng ra bất khả thuyết bất khả thuyết quang minh luân.
2. Vì khiến cho thế giới đều thanh tịnh, nên ra phóng bất khả thuyết bất khả thuyết vô lượng sắc tướng quang minh luân.
3. Vì muốn điều phục chúng sinh, nên phóng ra bất khả thuyết bất khả thuyết quang minh luân.
4. Vì gần gũi tất cả chư Phật, nên hoá làm bất khả thuyết bất khả thuyết thân.
5. Vì thừa sự cúng dường tất cả chư Phật, nên mưa xuống bất khả thuyết bất khả thuyết đủ thứ mây hương hoa thù diệu.
6. Vì thừa sự cúng dường tất cả chư Phật, và điều phục tất cả chúng sinh, nên ở trong mỗi lỗ lông, hoá làm bất khả thuyết bất khả thuyết đủ thứ âm nhạc.
7. Vì muốn thành thục chúng sinh, nên hiện bất khả thuyết bất khả thuyết đủ thứ vô lượng tự tại thần thông biến hoá.
8. Vì muốn ở tại đạo tràng đủ thứ danh hiệu tất cả chư Phật trong mười phương thỉnh vấn pháp, nên một bước vượt qua bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới.
9. Vì khiến cho tất cả chúng sinh thấy hoặc nghe được đều chẳng luống qua, có thể gieo trồng xuống căn lành, nên hiện bất khả thuyết bất khả thuyết thân đủ thứ vô lượng sắc tướng, không ai thấy tướng đỉnh của Ngài được.
10. Vì chúng sinh khai thị vô lượng pháp bí mật, nên phát ra bất khả thuyết bất khả thuyết lời lẽ và âm thanh, để giáo hoá tất cả chúng sinh.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát đắc thử thập chủng tối thanh tịnh uy đức thân dĩ, năng lệnh chúng sanh đắc thập chủng viên mãn. Hà đẳng vi thập?
Nhất giả năng lệnh chúng sanh đắc kiến ư Phật, nhị giả năng lệnh chúng sanh thâm tín ư Phật, tam giả năng lệnh chúng sanh thính văn ư Pháp, tứ giả năng lệnh chúng sanh tri hữu Phật thế giới, ngũ giả năng lệnh chúng sanh kiến Phật thần biến, lục giả năng lệnh chúng sanh niệm sở tập nghiệp, thất giả năng lệnh chúng sanh định tâm viên mãn, bát giả năng lệnh chúng sanh nhập Phật thanh tịnh, cửu giả năng lệnh chúng sanh phát Bồ-đề tâm, thập giả năng lệnh chúng sanh viên mãn Phật trí.
Phật tử ! Đại Bồ Tát được mười thân oai đức thanh tịnh nhất này rồi, khiến cho chúng sinh được mười thứ viên mãn. Những gì là mười ?
Một là khiến cho chúng sinh được thấy Phật. Hai là khiến cho chúng sinh tin sâu nơi Phật. Ba là khiến cho chúng sinh lắng nghe pháp. Bốn là khiến cho chúng sinh biết có thế giới của Phật. Năm là khiến cho chúng sinh thấy thần biến của Phật. Sáu là khiến cho chúng sinh nhớ nghiệp tích tập. Bảy là khiến cho chúng sinh định tâm viên mãn. Tám là khiến cho chúng sinh vào thanh tịnh của Phật. Chín là khiến cho chúng sinh phát tâm bồ đề. Mười là khiến cho chúng sinh viên mãn Phật trí.
Giảng: Các vị Phật tử !Đại Bồ Tát đắc được mười thân oai đức thanh tịnh nhất này rồi, khiến cho chúng sinh được mười thứ pháp ích viên mãn. Những gì là mười ?
1. Bồ Tát hay khiến cho tất cả chúng sinh đều thấy được tất cả chư Phật trong mười phương.
2. Bồ Tát hay khiến cho tất cả chúng sinh tin sâu nơi Phật. Thấy Phật rồi, phải tin không nghi, mới có công đức.
3. Bồ Tát hay khiến cho tất cả chúng sinh có cơ hội lắng nghe Phật pháp.
4. Bồ Tát hay khiến cho chúng sinh biết có thế giới nào có Phật, liền sinh về thế giới đó nghe kinh nghe pháp.
5. Bồ Tát hay khiến cho tất cả chúng sinh thấy được thần thông biến hoá của chư Phật, mới tin sâu nơi Phật.
6. Bồ Tát hay khiến cho tất cả chúng sinh nhớ nghiệp tích tập, mà phát tâm bồ đề.
7. Bồ Tát hay khiến cho tất cả chúng sinh đắc được cảnh giới định tâm viên mãn.
8. Bồ Tát hay khiến cho tất cả chúng sinh vào trong trí huệ thanh tịnh của Phật.
9. Bồ Tát hay khiến cho tất cả chúng sinh phát tâm bồ đề, cầu vô thượng đạo.
10. Bồ Tát hay khiến cho tất cả chúng sinh viên mãn hết thảy trí huệ của Phật. Đó là do đại Bồ Tát tu đại tam muội biết rõ tất cả thế giới Phật trang nghiêm, Ngài hay khiến cho tất cả chúng sinh đắc được mười thứ lợi ích viên mãn này.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát lệnh chúng sanh đắc thập chủng viên mãn dĩ, phục vi chúng sanh tác thập chủng Phật sự. hà đẳng vi thập?
Sở vị: dĩ âm thanh tác Phật sự,
vi thành thục chúng sanh cố; dĩ sắc hình tác Phật sự,
vi điều phục chúng sanh cố; dĩ ức niệm tác Phật sự,
vi thanh tịnh chúng sanh cố; dĩ chấn động thế giới tác Phật sự,
vi lệnh chúng sanh ly ác thú cố; dĩ phương tiện giác ngộ tác Phật sự,
vi lệnh chúng sanh bất thất niệm cố; dĩ mộng trung hiện tướng tác Phật sự,
vi lệnh chúng sanh hằng chánh niệm cố; dĩ phóng đại quang minh tác Phật sự,
vi phổ nhiếp thủ chư chúng sanh cố; dĩ tu Bồ Tát hạnh tác Phật sự,
vi lệnh chúng sanh trụ thắng nguyện cố; dĩ thành chánh đẳng giác tác Phật sự,
vi lệnh chúng sanh tri huyễn pháp cố; dĩ chuyển diệu pháp luân tác Phật sự,
vi chúng thuyết Pháp bất thất thời cố; dĩ hiện trụ thọ mạng tác Phật sự,
vi điều phục nhất thiết chúng sanh cố; dĩ thị Bát Niết Bàn tác Phật sự, tri chư chúng sanh khởi bì yếm cố.
Phật tử ! Đại Bồ Tát khiến cho chúng sinh đắc được mười thứ viên mãn rồi, lại vì chúng sinh làm mười Phật sự. Những gì là mười ?
Đó là : Dùng âm thanh làm Phật sự, vì thành thục chúng sinh. Dùng sắc hình làm Phật sự, vì điều phục chúng sinh. Dùng nghĩ nhớ làm Phật sự, vì thanh tịnh chúng sinh. Dùng chấn động thế giới làm Phật sự, vì khiến cho chúng sinh lìa cõi ác. Dùng phương tiện giác ngộ làm Phật sự, vì khiến cho chúng sinh không mất niệm. Dùng trong mộng hiện tướng làm Phật sự, vì khiến cho chúng sinh luôn chánh niệm. Dùng phóng đại quang minh làm Phật sự, vì khắp nhiếp lấy các chúng sinh. Dùng tu Bồ Tát hạnh làm Phật sự, vì khiến cho chúng sinh trụ nguyện thù thắng. Dùng thành Chánh Đẳng Giác làm Phật sự, vì khiến cho chúng sinh biết pháp huyễn. Dùng chuyển bánh xe pháp làm Phật sự, vì chúng nói pháp không mất thời cơ. Dùng hiện trụ thọ mạng làm Phật sự, vì điều phục tất cả chúng sinh. Dùng thị hiện Niết Bàn làm Phật sự, vì biết các chúng sinh khởi nhàm mỏi.
Giảng: Các vị Phật tử !Đại Bồ Tát khiến cho tất cả chúng sinh đắc được mười thứ viên mãn rồi, lại vì chúng sinh làm mười hai thứ Phật sự. Những gì là mười ? Đó là :
1. Bồ Tát dùng âm thanh để làm Phật sự, ví như tán thán Phật, làm pháp nhạc .v.v… đều là vì thành thục tất cả chúng sinh.
2. Bồ Tát dùng sắc hình để làm Phật sự, ví như thị hiện 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, vì điều phục tất cả chúng sinh.
3. Bồ Tát dùng nghĩ nhớ để làm Phật sự, vì thanh tịnh chúng sinh.
4. Bồ Tát dùng chấn động thế giới để làm Phật sự, vì khiến cho chúng sinh giác ngộ, biết tất cả vô thường, phát bồ đề tâm, xa lìa ba đường ác.
5. Bồ Tát dùng phương tiện khéo léo giác ngộ chúng sinh để làm Phật sự, vì khiến cho chúng sinh không mất niệm Phật niệm Pháp niệm Tăng.
6. Bồ Tát dùng ở trong mộng thị hiện các tướng để làm Phật sự, vì khiến cho chúng sinh luôn luôn có chánh niệm.
7. Bồ Tát dùng phóng đại quang minh để làm Phật sự, vì khắp nhiếp lấy tất cả chúng sinh.
8. Bồ Tát dùng tu Bồ Tát hạnh để làm Phật sự, vì khiến cho tất cả chúng sinh trụ ở trong nguyện thù thắng.
9. Bồ Tát dùng thành tựu Chánh Đẳng Chánh Giác để làm Phật sự, vì khiến cho tất cả chúng sinh biết rõ tất cả đều là hư huyễn như hoá, tìm chẳng được một pháp nào chân thật.
10. Bồ Tát dùng chuyển bánh xe pháp để làm Phật sự, vì tất cả chúng sinh nói pháp không mất thời cơ.
11. Bồ Tát dùng hiện trụ thọ mạng để làm Phật sự, vì điều phục tất cả chúng sinh.
12. Bồ Tát dùng thị hiện Niết Bàn để làm Phật sự, vì biết các chúng sinh khởi nhàm mỏi.
Phật tử! thị vi Bồ-Tát Ma-ha-tát đệ thất liễu tri nhất thiết thế giới Phật trang nghiêm Đại tam muội thiện xảo trí.
Phật tử ! Đó là đại tam muội Trí thiện xảo biết rõ tất cả thế giới Phật trang nghiêm thứ bảy của đại Bồ Tát.
Giảng: Các vị Phật tử ! Đó là đại tam muội Trí thiện xảo biết rõ tất cả thế giới Phật trang nghiêm thứ bảy của đại Bồ Tát.
— o0o —
Đệ Bát Đại Tam Muội
Phật tử! vân hà vi Bồ-Tát Ma-ha-tát nhất thiết chúng sanh sái biệt thân tam muội?
Phật tử ! Thế nào là tam muội Tất cả thân chúng sinh khác biệt của đại Bồ Tát ?
Giảng: Bồ Tát Phổ Hiền lại gọi một tiếng các vị đệ tử của Phật ! Thế nào là đại tam muội tất cả thân chúng sinh khác biệt của đại Bồ Tát ?
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát trụ thử tam muội, đắc thập chủng vô sở trước. hà giả vi thập? Sở vị: ư nhất thiết sát vô sở trước, ư nhất thiết phương vô sở trước, ư nhất thiết kiếp vô sở trước, ư nhất thiết chúng vô sở trước, ư nhất thiết Pháp vô sở trước, ư nhất thiết Bồ Tát vô sở trước, ư nhất thiết Bồ Tát nguyện vô sở trước, ư nhất thiết tam muội vô sở trước, ư nhất thiết Phật vô sở trước, ư nhất thiết địa vô sở trước. Thị vi thập.
Phật tử ! Đại Bồ Tát trụ tam muội này, đắc được mười thứ không chấp trước. Những gì là mười ? Đó là : Nơi tất cả cõi không chấp trước. Nơi tất cả phương không chấp trước. Nơi tất cả kiếp không chấp trước. Nơi tất cả chúng không chấp trước. Nơi tất cả pháp không chấp trước. Nơi tất cả Bồ Tát không chấp trước. Nơi tất cả Bồ Tát nguyện không chấp trước. Nơi tất cả tam muội không chấp trước. Nơi tất cả chư Phật không chấp trước. Nơi tất cả địa không chấp trước. Đó là mười.
Giảng: Các vị Phật tử ! Vị đại Bồ Tát này tu Bồ Tát đạo, viên mãn lục độ vạn hạnh, tích tập đủ thứ căn lành công đức, khi trụ tam muội tất cả thân chúng sinh khác biệt, đắc được mười thứ tự tại không chấp trước. Những gì là mười ? Đó là :
1. Đối với tất cả cõi Phật không chấp trước.
2. Đối với tất cả địa phương không chấp trước.
3. Đối với tất cả kiếp số không chấp trước.
4. Đối với tất cả chúng sinh không chấp trước.
5. Đối với tất cả pháp tướng không chấp trước.
6. Đối với tất cả Bồ Tát không chấp trước.
7. Đối với tất cả Bồ Tát nguyện không chấp trước.
8. Đối với tất cả tam muội không chấp trước.
9. Đối với tất cả chư Phật không chấp trước.
10. Đối với tất cả địa vị không chấp trước.
Đó là mười pháp không chấp trước. Vì Bồ Tát quét tất cả pháp lìa tất cả tướng, cho nên phá tất cả mọi sự chấp trước. Chúng ta người tu đạo, cũng phải phá tất cả mọi sự chấp trước, phải học tập theo tinh thần của Bồ Tát, vì người chẳng vì mình. Tóm lại, vạn sự đều « OK », thì chẳng có sự chấp trước. Nói cách khác, tốt cũng chẳng chấp trước, xấu cũng chẳng chấp trước, tất cả đều buông bỏ hết. Trong Tâm Kinh có nói : « Vì không quái ngại, nên không có sợ hãi, xa lìa điên đảo mộng tưởng, rốt ráo Niết Bàn ». Nếu như buông bỏ được tất cả, thì không có quái ngại, đó là chỗ tinh hoa của Phật pháp.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát ư thử tam muội vân hà nhập? vân hà khởi?
Phật tử ! Đại Bồ Tát nơi tam muội này, vào như thế nào ? Khởi như thế nào ?
Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát nơi tam muội tất cả thân chúng sinh khác biệt, làm thế nào nhập định ? Làm thế nào xuất định ? Đây là vấn đề Bồ Tát Phổ Hiền tự hỏi tự đáp.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát ư thử tam muội, nội thân nhập, ngoại thân khởi; ngoại thân nhập, nội thân khởi; đồng thân nhập, dị thân khởi; dị thân nhập, đồng thân khởi; nhân thân nhập, dạ xoa thân khởi; dạ xoa thân nhập, long thân khởi; long thân nhập, A-tu-la thân khởi; A-tu-la thân nhập, Thiên thân khởi; Thiên thân nhập, Phạm Vương thân khởi; Phạm Vương thân nhập, dục giới thân khởi; Thiên trung nhập, địa ngục khởi; địa ngục nhập, nhân gian khởi; nhân gian nhập, dư thú khởi; thiên thân nhập, nhất thân khởi; nhất thân nhập, thiên thân khởi; na-do-tha thân nhập, nhất thân khởi; nhất thân nhập, na-do-tha thân khởi;
Phật tử ! Đại Bồ Tát nơi tam muội này, trong thân nhập, ngoài thân khởi. Ngoài thân nhập, trong thân khởi. Đồng thân nhập, khác thân khởi. Khác thân nhập, đồng thân khởi. Thân người nhập, thân Dạ Xoa khởi. Thân Dạ Xoa nhập, thân rồng khởi. Thân rồng nhập, thân A tu la khởi. Thân A tu la nhập, thân trời khởi. Thân trời nhập, thân Phạm Vương khởi. Thân Phạm Vương nhập, thân dục giới khởi. Trên trời nhập, địa ngục khởi. Địa ngục nhập, nhân gian khởi. Nhân gian nhập, cõi kia khởi. Ngàn thân nhập, một thân khởi. Một thân nhập, ngàn thân khởi. Na do tha thân nhập, một thân khởi. Một thân nhập, Na do tha thân khởi.
Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát nơi tam muội này, có những cảnh giới như vầy : Từ trong thân nhập định, từ ngoài thân xuất định. Từ ngoài thân nhập định, từ trong thân xuất định. Từ đồng thân nhập định, từ khác thân xuất định. Từ khác thân nhập định, từ đồng thân xuất định. Từ thân người nhập định, từ thân Dạ Xoa xuất định. Từ thân Dạ Xoa nhập định, từ thân rồng xuất định. Từ thân rồng nhập định, từ thân A tu la xuất định. Từ thân A tu la nhập định, từ thân trời xuất định. Từ thân trời nhập định, từ thân Phạm Vương xuất định. Từ thân Phạm Vương nhập định, từ thân dục giới xuất định.
Bồ Tát có thể hoá thân ngàn vạn ức, phân thân vô số lượng. Đó đây không ngại, ta người vô ngại, trong ngoài vô ngại, đồng khác vô ngại, đó tức là cảnh giới thần thông diệu dụng của Bồ Tát. Bồ Tát nhập định hoặc xuất định, không nhất định tại thân mình, tuỳ thời tuỳ lúc đều có thể nhập định, tuỳ thời tuỳ lúc đều có thể xuất định, chẳng thọ sự hạn chế của thời gian và không gian, nhậm vận tự tại, diệu không thể tả.
Bồ Tát ở trên trời nhập định, từ địa ngục xuất định. Từ địa ngục nhập định, từ nhân gian xuất định. Từ nhân gian nhập định, từ cõi kia xuất định. Từ ngàn thân nhập định, từ một thân xuất định. Từ một thân nhập định, từ ngàn thân xuất định. Từ Na do tha thân nhập định, từ một thân xuất định. Từ một thân nhập định, từ Na do tha thân xuất định.
Bồ Tát vì tuỳ duyên giáo hoá tất cả chúng sinh, tự do nhập định, tự do xuất định. Cảnh giới này, toại tâm như ý. Hoan hỉ thế nào thì như thế đó, một chút cũng không miễn cưỡng, nhậm vận tự tại. Phàm là người thành tâm tu đạo, đều chứng được cảnh giới này.
Diêm-phù-đề chúng sanh chúng trung nhập, Tây Cồ đà ni chúng sanh chúng trung khởi; Tây Cồ đà ni chúng sanh chúng trung nhập, Bắc câu-lô chúng sanh chúng trung khởi; Bắc câu-lô chúng sanh chúng trung nhập, Đông tỳ đề ha chúng sanh chúng trung khởi; Đông tỳ đề ha chúng sanh chúng trung nhập, tam thiên hạ chúng sanh chúng trung khởi; tam thiên hạ chúng sanh chúng trung nhập, tứ thiên hạ chúng sanh chúng trung khởi; tứ thiên hạ chúng sanh chúng trung nhập, nhất thiết hải sái biệt chúng sanh chúng trung khởi;
Trong chúng sinh Diêm Phù Đề nhập, trong chúng sinh Tây Cù Đà Ni khởi. Trong chúng sinh Tây Cù Đà Ni nhập, trong chúng sinh Bắc Câu Lư khởi. Trong chúng sinh Bắc Câu Lư nhập, trong chúng sinh Đông Bì Đề Ha khởi. Trong chúng sinh Đông Bì Đề Ha nhập, trong chúng sinh ba thiên hạ khởi. Trong chúng sinh ba thiên hạ nhập, trong chúng sinh bốn thiên hạ khởi. Trong chúng sinh bốn thiên hạ nhập, trong chúng sinh tất cả biển khác biệt khởi. Trong chúng sinh tất cả biển khác biệt nhập, trong chúng thần tất cả biển khởi.
Giảng: Bồ Tát ở trong chúng sinh Diêm Phù Đề (Nam Thiệm Bộ Châu) nhập định, từ trong chúng sinh Tây Cù Đà Ni (Tây Ngưu Hoá Châu) xuất định. Trong chúng sinh Tây Cù Đà Ni nhập định, từ trong chúng sinh Bắc Câu Lư (Bắc Câu Lư Châu) xuất định. Trong chúng sinh Bắc Câu Lư nhập định, từ trong chúng sinh Đông Bì Đề Ha (Đông Thắng Thần Châu) xuất định. Trong chúng sinh Đông Bì Đề Ha nhập định, từ trong chúng sinh ba thiên hạ xuất định. Trong chúng sinh ba thiên hạ nhập định, từ trong chúng sinh bốn thiên hạ xuất định. Trong chúng sinh bốn thiên hạ nhập định, từ trong chúng sinh tất cả biển khác biệt xuất định. Trong chúng sinh tất cả biển khác biệt nhập định, từ trong chúng thần tất cả biển xuất định.
Nhất thiết hải sái biệt chúng sanh chúng trung nhập,
nhất thiết hải Thần chúng trung khởi; nhất thiết hải Thần chúng trung nhập,
nhất thiết hải thủy đại trung khởi; nhất thiết hải thủy đại trung nhập,
nhất thiết hải địa đại trung khởi; nhất thiết hải địa đại trung nhập,
nhất thiết hải hỏa đại trung khởi; nhất thiết hải hỏa đại trung nhập,
nhất thiết hải phong đại trung khởi; nhất thiết hải phong đại trung nhập,
nhất thiết tứ đại chủng trung khởi; nhất thiết tứ đại chủng trung nhập, vô sanh pháp trung khởi; vô sanh pháp trung nhập, diệu cao sơn trung khởi; diệu cao sơn trung nhập, thất bảo sơn trung khởi; thất bảo sơn trung nhập,
nhất thiết địa chủng chủng giá sắc thụ lâm hắc sơn trung khởi; nhất thiết địa chủng chủng giá sắc thụ lâm hắc sơn trung nhập,
nhất thiết diệu hương hoa bảo trang nghiêm trung khởi; nhất thiết diệu hương hoa bảo trang nghiêm trung nhập,
nhất thiết tứ thiên hạ hạ phương, thượng phương nhất thiết chúng sanh thọ sanh trung khởi;
Trong chúng thần tất cả biển nhập, trong thuỷ đại tất cả biển khởi. Trong thuỷ đại tất cả biển nhập, trong địa đại tất cả biển khởi. Trong địa đại tất cả biển nhập, trong hoả đại tất cả biển khởi. Trong hoả đại tất cả biển nhập, trong phong đại tất cả biển khởi. Trong phong đại tất cả biển nhập, trong tất cả bốn thứ đại khởi. Trong tất cả bốn thứ đại nhập, trong pháp vô sinh khởi. Trong pháp vô sinh nhập, trong núi Diệu Cao khởi. Trong núi Diệu Cao nhập, trong núi bảy báu khởi. Trong núi bảy báu nhập, trong tất cả đất đai đủ thứ cây cỏ lùm rừng hắc sơn khởi. Trong tất cả đất đai đủ thứ cây cỏ lùm rừng hắc sơn nhập, trong tất cả diệu hương hoa báu trang nghiêm khởi. Trong tất cả diệu hương hoa báu trang nghiêm nhập, trong tất cả chúng sinh thọ sinh của tất cả bốn thiên hạ phương dưới phương trên khởi.
Giảng: Bồ Tát ở trong chúng thần tất cả biển nhập định, từ trong thuỷ đại tất cả biển xuất định. Trong thuỷ đại tất cả biển nhập định, từ trong địa đại tất cả biển xuất định. Trong địa đại tất cả biển nhập định, từ trong hoả đại tất cả biển xuất định. Trong hoả đại tất cả biển nhập định, từ trong phong đại tất cả biển xuất định. Trong phong đại tất cả biển nhập định, từ trong tất cả bốn thứ đại xuất định. Trong tất cả bốn thứ đại nhập định, từ trong pháp vô sinh xuất định. Trong pháp vô sinh nhập định, từ trong núi Diệu Cao xuất định. Trong núi Diệu Cao nhập định, từ trong núi bảy báu xuất định. Trong núi bảy báu nhập định, từ trong tất cả đất đai đủ thứ cây cỏ lùm rừng hắc sơn khởi. Trong tất cả đất đai đủ thứ cây cỏ lùm rừng hắc sơn nhập định, từ trong tất cả diệu hương hoa báu trang nghiêm xuất định. Trong tất cả diệu hương hoa báu trang nghiêm nhập định, từ trong tất cả chúng sinh thọ sinh của tất cả bốn thiên hạ phương dưới phương trên xuất định.
Nhất thiết tứ thiên hạ hạ phương, thượng phương nhất thiết chúng sanh thọ sanh trung nhập,
Tiểu Thiên thế giới chúng sanh chúng trung khởi; Tiểu Thiên thế giới chúng sanh chúng trung nhập,
Trung Thiên thế giới chúng sanh chúng trung khởi; Trung Thiên thế giới chúng sanh chúng trung nhập,
Đại Thiên thế giới chúng sanh chúng trung khởi;
Đại Thiên thế giới chúng sanh chúng trung nhập,
Bách thiên ức na-do-tha tam thiên đại thiên thế giới chúng sanh chúng trung khởi;
Bách thiên ức na-do-tha tam thiên đại thiên thế giới chúng sanh chúng trung nhập,
vô số thế giới chúng sanh chúng trung khởi;
vô số thế giới chúng sanh chúng trung nhập,
vô lượng thế giới chúng sanh chúng trung khởi;
vô lượng thế giới chúng sanh chúng trung nhập,
vô biên Phật sát chúng sanh chúng trung khởi;
vô biên Phật sát chúng sanh chúng trung nhập,
vô đẳng Phật sát chúng sanh chúng trung khởi;
vô đẳng Phật sát chúng sanh chúng trung nhập,
Trong tất cả chúng sinh thọ sinh tất cả bốn thiên hạ phương dưới phương trên nhập, trong chúng sinh tiểu thiên thế giới khởi. Trong chúng sinh tiểu thiên thế giới nhập, trong chúng sinh trung thiên thế giới khởi. Trong chúng sinh trung thiên thế giới nhập, trong chúng sinh đại thiên thế giới khởi. Trong chúng sinh đại thiên thế giới nhập, trong chúng sinh trăm ngàn ức na do tha ba ngàn đại thiên thế giới khởi. Trong chúng sinh trăm ngàn ức Na do tha ba ngàn đại thiên thế giới nhập, trong chúng sinh vô số thế giới khởi. Trong chúng sinh vô số thế giới nhập, trong chúng sinh vô lượng thế giới khởi. Trong chúng sinh vô lượng thế giới nhập, trong chúng sinh vô biên cõi Phật khởi. Trong chúng sinh vô biên cõi Phật nhập, trong chúng sinh vô đẳng cõi Phật khởi. Trong chúng sinh vô đẳng cõi Phật nhập, trong chúng sinh bất khả số thế giới khởi.
Giảng: Bồ Tát ở trong tất cả chúng sinh thọ sinh tất cả bốn thiên hạ phương dưới phương trên nhập định, từ trong chúng sinh tiểu thiên thế giới xuất định. Trong chúng sinh tiểu thiên thế giới nhập định, trong chúng sinh trung thiên thế giới xuất định. Trong chúng sinh trung thiên thế giới nhập định, từ trong chúng sinh đại thiên thế giới xuất định. Trong chúng sinh đại thiên thế giới nhập định, từ trong chúng sinh trăm ngàn ức Na do tha ba ngàn đại thiên thế giới xuất định. Trong chúng sinh trăm ngàn ức Na do tha ba ngàn đại thiên thế giới nhập định, từ trong chúng sinh vô số thế giới xuất định. Trong chúng sinh vô số thế giới nhập định, từ trong chúng sinh vô lượng thế giới xuất định. Trong chúng sinh vô lượng thế giới nhập định, từ trong chúng sinh vô biên cõi Phật xuất định. Trong chúng sinh vô biên cõi Phật nhập định, từ trong chúng sinh vô đẳng cõi Phật xuất định. Trong chúng sinh vô đẳng cõi Phật nhập định, từ trong chúng sinh bất khả số thế giới khởi.
Bất khả số thế giới chúng sanh chúng trung khởi;
bất khả số thế giới chúng sanh chúng trung nhập,
bất khả xưng thế giới chúng sanh chúng trung khởi;
bất khả xưng thế giới chúng sanh chúng trung nhập,
bất khả tư thế giới chúng sanh chúng trung khởi;
bất khả tư thế giới chúng sanh chúng trung nhập,
bất khả lượng thế giới chúng sanh chúng trung khởi;
bất khả lượng thế giới chúng sanh chúng trung nhập,
bất khả thuyết thế giới chúng sanh chúng trung khởi;
bất khả thuyết thế giới chúng sanh chúng trung nhập,
bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới chúng sanh chúng trung khởi;
bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới chúng sanh chúng trung nhập, tạp nhiễm chúng sanh chúng trung khởi; tạp nhiễm chúng sanh chúng trung nhập, thanh tịnh chúng sanh chúng trung khởi; thanh tịnh chúng sanh chúng trung nhập, tạp nhiễm chúng sanh chúng trung khởi;
Trong chúng sinh bất khả số thế giới nhập, trong chúng sinh bất khả xưng thế giới khởi. Trong chúng sinh bất khả xưng thế giới nhập, trong chúng sinh bất khả tư thế giới khởi. Trong chúng sinh bất khả tư thế giới nhập, trong chúng sinh bất khả lượng thế giới khởi. Trong chúng sinh bất khả lượng thế giới nhập, trong chúng sinh bất khả thuyết thế giới khởi. Trong chúng sinh bất khả thuyết thế giới nhập, trong chúng sinh bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới khởi. Trong chúng sinh bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới nhập, trong chúng sinh tạp nhiễm khởi. Trong chúng sinh tạp nhiễm nhập, trong chúng sinh thanh tịnh khởi. Trong chúng sinh thanh tịnh nhập, trong chúng sinh tạp nhiễm khởi.
Giảng: Bồ Tát ở trong chúng sinh bất khả số thế giới nhập định, từ trong chúng sinh bất khả xưng thế giới xuất định. Trong chúng sinh bất khả xưng thế giới nhập định, từ trong chúng sinh bất khả tư thế giới xuất định. Trong chúng sinh bất khả tư thế giới nhập định, từ trong chúng sinh bất khả lượng thế giới xuất định. Trong chúng sinh bất khả lượng thế giới nhập định, từ trong chúng sinh bất khả thuyết thế giới xuất định. Trong chúng sinh bất khả thuyết thế giới nhập định, trong chúng sinh bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới xuất định. Trong chúng sinh bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới nhập định, từ trong chúng sinh tạp nhiễm xuất định. Trong chúng sinh tạp nhiễm nhập định, từ trong chúng sinh thanh tịnh xuất định. Trong chúng sinh thanh tịnh nhập định, từ trong chúng sinh tạp nhiễm xuất định.
Đoạn văn này nói về cảnh giới của Bồ Tát, là « không nhập mà chẳng tự được vậy ». Tức cũng là toại tâm như ý, muốn lúc nào nhập định thì lúc đó nhập định. Muốn nơi nào xuất định, thì nơi đó xuất định. Chẳng bị thời gian và không gian hạn chế. Lớn thì như núi Tu Di, nhỏ thì như hạt bụi, tuỳ ý biến hoá, đây là cảnh giới như ý thông của Bồ Tát.
Cảnh giới Kinh Hoa Nghiêm là khai mở tâm chúng sinh rộng lớn từng chút từng chút. Từ một đến mười, từ mười đến trăm, từ trăm đến ngàn, từ ngàn đến vạn, từ vạn đến ức, cho đến vô số vô số, vô lượng vô lượng. Chủ yếu làm cho tư tưởng rộng lớn, phải có cảnh giới «dọc bao thái hư, ngang khắp pháp giới ».
Kinh Hoa Nghiêm nói về thế giới vô lượng, cõi nước vô lượng, chư Phật vô lượng, Bồ Tát vô lượng, tất cả tất cả, đều không có hạn lượng. Cảnh giới đó, chẳng phải người tâm nhỏ lượng nhỏ minh bạch được, hiểu thấu được.
Chúng ta chúng sinh điên điên đảo đảo, lấy phải làm quấy, lấy quấy làm phải, chẳng nhận thức được chủ nhân ông của chính mình. Lấy nhiễm khổ làm vui, bỏ giác hợp trần, nhận giặc làm con, thật là đáng thương ! Bồ Tát rất từ bi đối với chúng ta, giống như mẹ hiền dạy con cái. Cha mẹ hy vọng con trai thành rồng, con gái thành phụng, Bồ Tát thì hy vọng chúng sinh thành Phật, hy vọng chúng sinh không điên đảo, không chấp trước, phát tâm bồ đề, tu vô thượng đạo. Song, chúng sinh chẳng nghe lời, vẫn cứ điên đảo, vẫn cứ chấp trước. Như vậy, chẳng phải là cô phụ một phen khổ tâm của Bồ Tát chăng ? Chúng ta người tu đạo, phải mau hồi đầu, cải ác hướng thiện, nghe lời dạy của Bồ Tát. Toàn bộ Kinh Hoa Nghiêm Đại Phương Quảng Phật đều nói về đạo lý tu Bồ Tát đạo, độ hoá chúng sinh. Nếu chúng ta như pháp thực hành một câu, một bài kệ, thì công đức vô lượng, thọ không hết.
Nhãn xứ nhập, nhĩ xứ khởi; nhĩ xứ nhập, nhãn xứ khởi; tỳ xứ nhập, thiệt xứ khởi; thiệt xứ nhập,
Tỳ xứ khởi; thân xứ nhập. Ý xứ khởi, Ý xứ nhập,
Thân xứ khởi; Tự xứ nhập. Tha xứ khởi, Tha xứ nhập, Tự xứ khởi;
Nhất vi trần trung nhập,
Vô số thế giới vi trần trung khởi;
Vô số thế giới vi trần trung nhập,
Nhất vi trần trung khởi;
Thanh văn nhập, độc giác khởi;
độc giác nhập, Thanh văn khởi; tự thân nhập,
Phật thân khởi; Phật thân nhập, tự thân khởi; nhất niệm nhập,
ức kiếp khởi; ức kiếp nhập, nhất niệm khởi; đồng niệm nhập, biệt thời khởi; biệt thời nhập,
đồng niệm khởi; tiền tế nhập, hậu tế khởi; hậu tế nhập, tiền tế khởi; tiền tế nhập,
trung tế khởi; trung tế nhập, tiền tế khởi; tam thế nhập, sát-na khởi; sát-na nhập,
tam thế khởi; chân như nhập, ngôn thuyết khởi; ngôn thuyết nhập, chân như khởi.
Nơi mắt nhập, nơi tai khởi. Nơi tai nhập, nơi mắt khởi. Nơi mũi nhập, nơi lưỡi khởi. Nơi lưỡi nhập, nơi mũi khởi. Nơi thân nhập, nơi ý khởi. Nơi ý nhập, nơi thân khởi. Nơi mình nhập, nơi họ khởi. Nơi họ nhập, nơi mình khởi. Trong một hạt bụi nhập, trong hạt bụi vô số thế giới khởi. Trong hạt bụi vô số thế giới nhập, trong một hạt bụi khởi. Thanh Văn nhập, Độc Giác khởi. Độc Giác nhập, Thanh Văn khởi. Thân mình nhập, thân Phật khởi. Thân Phật nhập, thân mình khởi. Một niệm nhập, ức kiếp khởi. Ức kiếp nhập, một niệm khởi. Đồng niệm nhập, thời khác khởi. Thời khác nhập, đồng niệm khởi. Tiền tế nhập, hậu tế khởi. Hậu tế nhập, tiền tế khởi. Tiền tế nhập, trung tế khởi. Trung tế nhập, tiền tế khởi. Ba đời nhập, sát na khởi. Sát na nhập, ba đời khởi. Chân như nhập, ngôn thuyết khởi. Ngôn thuyết nhập, chân như khởi.
Giảng: Bồ Tát nơi mắt nhập định, từ nơi tai xuất định. Nơi tai nhập định, từ nơi mắt xuất định. Nơi mũi nhập định, từ nơi lưỡi xuất định. Nơi lưỡi nhập định, từ nơi mũi xuất định. Nơi thân nhập định, từ nơi ý xuất định. Nơi ý nhập định, từ nơi thân xuất định. Nơi mình nhập định, từ nơi họ xuất định. Nơi họ nhập định, từ nơi mình xuất định.
Bồ Tát ở trong một hạt bụi nhập, từ trong hạt bụi vô số thế giới xuất định. Trong hạt bụi vô số thế giới nhập định, từ trong một hạt bụi xuất định. Thanh Văn nhập định, từ Độc Giác xuất định. Độc Giác nhập định, từ Thanh Văn xuất định. Thân mình nhập định, từ thân Phật xuất định. Thân Phật nhập định, từ thân mình xuất định. Một niệm nhập định, từ ức kiếp xuất định. Ức kiếp nhập định, từ một niệm xuất định. Đồng niệm nhập định, từ thời khác xuất định. Thời khác nhập định, từ đồng niệm xuất định. Tiền tế nhập định, từ hậu tế xuất định. Hậu tế nhập định, tiền tế xuất định. Tiền tế nhập định, từ trung tế xuất định. Trung tế nhập định, từ tiền tế xuất định. Ba đời nhập định, từ sát na xuất định. Sát na nhập định, từ ba đời xuất định. Chân như nhập định, từ ngôn thuyết xuất định. Ngôn thuyết nhập định, từ chân như xuất định.
Phật tử! thí như hữu nhân vi quỷ sở trì, kỳ thân chiến động bất năng tự an, quỷ bất hiện thân lệnh tha thân nhiên. Bồ-Tát Ma-ha-tát trụ thử tam muội diệc phục như thị, tự thân nhập định tha thân khởi, tha thân nhập định tự thân khởi.
Phật tử ! Ví như có người, bị quỷ nhập, làm cho thân họ rung động, không thể được an. Quỷ không hiện thân, khiến thân họ như vậy. Đại Bồ Tát trụ tam muội này, cũng lại như thế. Thân mình nhập định thân họ khởi. Thân họ nhập định thân mình khởi.
Giảng: Các vị Phật tử ! Ví như có người, bị quỷ nhập, thân thể của họ rung động không ngừng, không thể được an tĩnh. Quỷ chẳng hiện thân, mà khiến cho người khác phát sinh tình hình như thế, rung động không ngừng. Đại Bồ Tát cũng như thế, chẳng nhìn thấy thân Ngài, mà Ngài có thể ở trên thân của bạn xuất định. Do đó kinh văn có nói : « Tại thân mình nhập định, từ thân người khác xuất định. Tại thân người khác nhập định, từ thân mình xuất định ». Cảnh giới này chẳng chướng ngại nhau.
Phật tử! thí như tử thi dĩ chú lực cố nhi năng khởi hành, tùy sở tác sự giai đắc thành tựu, thi chi dữ chú tuy các sái biệt, nhi năng hòa hợp thành tựu bỉ sự; Bồ-Tát Ma-ha-tát trụ thử tam muội diệc phục như thị, đồng cảnh nhập định dị cảnh khởi, dị cảnh nhập định đồng cảnh khởi.
Phật tử ! Ví như tử thi, vì nhờ lực của Chú mà có thể dậy đi, tuỳ theo các việc đều làm được. Tử thi và Chú tuy đều khác biệt, mà có thể hoà hợp, thành tựu việc đó. Đại Bồ Tát trụ tam muội này, cũng lại như thế. Đồng cảnh nhập định, mà khác cảnh khởi. Khác cảnh nhập định, mà đồng cảnh khởi.
Giảng: Các vị Phật tử !Ví như tử thi, nhờ sức lực của Chú ngữ, mà có thể khiến cho tử thi dậy đi. Tử thi tuy chẳng còn tri giác, nhưng có thể thay thế bạn làm việc, những việc làm đều thành tựu. Tử thi và Chú tuy đều khác biệt, nhưng Chú ngữ có thể khiến cho tử thi đi được, lại có thể hợp tác với nhau, thành tựu việc làm đó. Đại Bồ Tát trụ tam muội này, cũng lại như thế. « Đồng cảnh nhập định, mà khác cảnh xuất định. Khác cảnh nhập định, mà đồng cảnh xuất định ». Cảnh giới này chẳng có chướng ngại nhau.
Phật tử! thí như Tỳ-kheo đắc tâm tự tại, hoặc dĩ nhất thân tác đa thân, hoặc dĩ đa thân tác nhất thân, phi nhất thân một đa thân sanh, phi đa thân một nhất thân sanh; Bồ-Tát Ma-ha-tát trụ thử tam muội diệc phục như thị, nhất thân nhập định đa thân khởi, đa thân nhập định nhất thân khởi.
Phật tử ! Ví như Tỳ Kheo, đắc được tâm tự tại. Hoặc dùng một thân làm nhiều thân, hoặc dùng nhiều thân làm một thân. Chẳng phải một thân chẳng còn, mà nhiều thân sinh. Chẳng phải nhiều thân chẳng còn, mà một thân sinh. Đại Bồ Tát trụ tam muội này, cũng lại như thế. Một thân nhập định nhiều thân khởi, nhiều thân nhập định một thân khởi.
Giảng: Các vị Phật tử ! Ví như Tỳ Kheo, đắc được như ý thông, tức là toại tâm như ý, biến hoá vô cùng. Hoặc dùng một thân mà biến thành nhiều thân, hoặc dùng nhiều thân mà biến thành một thân. Chẳng phải nói thân này chẳng còn mà sinh ra nhiều thân. Cũng chẳng phải nhiều thân chẳng còn, lại làm một thân. Đây là cảnh giới thần thông biến hoá không thể nghĩ bàn. Đại Bồ Tát trụ tam muội này, cũng lại như thế. « Một thân nhập định nhiều thân xuất định, nhiều thân nhập định một thân xuất định ». Cảnh giới này chẳng chướng ngại nhau.
Tỳ kheo có ba ý nghĩa :
1. Khất sĩ : Trên khất pháp của chư Phật, để nuôi huệ mạng; dưới khất thực của chúng sinh, để nuôi dưỡng sắc thân.
2. Bố ma : Khi Tỳ Kheo thọ giới cụ túc, đắc giới hoà thượng hỏi :
– « Ông có phải là đại trượng phu không ? »
– Đáp : « Là đại trượng phu ».
– Lại hỏi : « Ông có phát bồ đề tâm chăng ? »
– Đáp : « Đã phát bồ đề tâm ».
Lúc đó, ma vương nghe được, bèn sinh sợ hãi. Tại sao ? Vì quyến thuộc của ma lại bớt đi một người, còn quyến thuộc của Phật lại thêm một người, cho nên sinh tâm sợ hãi.
3. Phá ác : Tức là phá phiền não ác. Vì Tỳ Kheo có ba ý nghĩa này, nên không dịch. Khi Trung Quốc phiên dịch kinh điển tiếng Phạn, có năm loại không dịch :
1. Bí mật không dịch : Như Chú ngữ.
2. Tôn trọng không dịch : Như « Bát Nhã », « Bồ đề ».
3. Thuận cổ không dịch : Như « A nậu đa la tam miệu tam bồ đề ».
4. Đa hàm không dịch : Như « Tỳ Kheo ».
5. Thử phương vô bất dịch : Như « quả Am ma la ».
Phật tử! thí như Đại địa kỳ vị nhất chủng, sở sanh cây cỏ chủng chủng vị biệt, địa tuy vô sái biệt, nhiên vị hữu thù dị; Bồ-Tát Ma-ha-tát trụ thử tam muội diệc phục như thị, vô sở phân biệt, nhiên hữu nhất chủng nhập định đa chủng khởi, đa chủng nhập định nhất chủng khởi.
Phật tử ! Ví như đại địa, chỉ có một vị, mà sinh ra cây cỏ đủ thứ vị khác nhau. Tuy đất không khác nhau, mà vị có sự khác nhau đặc thù. Đại Bồ Tát trụ tam muội này, cũng lại như thế, không có sự phân biệt, mà có một thứ nhập định nhiều thứ khởi, nhiều thứ nhập định một thứ khởi.
Giảng: Các vị Phật tử !Ví như đại địa, tuy chỉ có một vị, mà sinh ra cây cỏ đủ thứ vị khác nhau. Có vị đắng, có vị ngọt, có vị chua. Đất không khác nhau, mà sinh ra thực vật có vị khác nhau. Đại Bồ Tát trụ tam muội này, cũng lại như thế, không có gì phân biệt, mà « Tại một thứ nhập định, từ nhiều thứ xuất định, tại nhiều thứ nhập định, một thứ xuất định ». Cảnh giới này chẳng chướng ngại nhau.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát trụ thử tam muội, đắc thập chủng xưng tán Pháp chi sở xưng tán. hà giả vi thập? Sở vị: nhập chân như cố, danh vi Như Lai; giác nhất thiết pháp cố, danh chi vi Phật; vi nhất thiết thế gian sở xưng tán cố, danh vi Pháp sư; tri nhất thiết pháp cố, danh nhất thiết trí; vi nhất thiết thế gian sở quy y cố, danh sở y xứ; liễu đạt nhất thiết pháp phương tiện cố, danh vi Đạo sư; dẫn nhất thiết chúng sanh nhập Tát bà nhã đạo cố, danh đại đạo sư; vi nhất thiết thế gian đăng cố, danh vi quang minh; tâm chí viên mãn, nghĩa lợi thành tựu, sở tác giai biện, trụ vô ngại trí, phân biệt liễu tri nhất thiết chư pháp cố, danh vi thập lực tự tại; thông đạt nhất thiết pháp luân cố, danh nhất thiết kiến giả. Thị vi thập.
Phật tử ! Đại Bồ Tát trụ tam muội này, đắc được mười pháp khen ngợi của sự khen ngợi. Những gì là mười ? Đó là : Vì vào chân như, nên gọi là Như Lai. Vì giác tất cả pháp, nên gọi là Phật. Vì được tất cả thế gian khen ngợi, nên gọi là pháp sư. Vì biết tất cả pháp, nên gọi là Nhất thiết trí. Vì là chỗ nương tựa của tất cả thế gian, nên gọi là chỗ nương tựa. Vì thấu đạt tất cả pháp phương tiện, nên gọi là Đạo sư. Vì dẫn dắt tất cả chúng sinh vào đạo Tát bà nhạ, nên gọi là đại Đạo sư. Vì làm đèn của tất cả thế gian, nên gọi là quang minh. Vì tâm chí viên mãn, nghĩa lợi thành tựu, những gì cần làm đã làm xong, trụ trí huệ vô ngại, phân biệt biết rõ tất cả các pháp, nên gọi là Thập lực. Vì tự tại thông đạt tất cả pháp luân, nên gọi là bậc thấy tất cả. Đó là mười.
Giảng: Các vị Phật tử !Đại Bồ Tát trụ nơi tam muội này, đắc được mười pháp khen ngợi của sự khen ngợi. Những gì là mười ? Đó là :
1. Vì vào chân như, nên gọi là Như Lai : Vì Bồ Tát chứng nhập chân như thật tướng lý thể, cho nên gọi là Như Lai.
2. Vì giác tất cả pháp, nên gọi là Phật : Vì Bồ Tát giác ngộ thấu rõ tất cả các pháp, cho nên xưng là Phật.
3. Vì được tất cả thế gian khen ngợi, nên gọi là pháp sư : Vì Bồ Tát có tâm từ bi, độ khắp chúng sinh, được hết thảy mọi người thế gian khen ngợi, cho nên xưng là Pháp sư.
4. Vì biết tất cả pháp, nên gọi là Nhất thiết trí : Vì Bồ Tát biết rõ tất cả Phật pháp, cho nên xưng là Nhất thiết trí.
5. Vì là chỗ nương tựa của tất cả thế gian, nên gọi là chỗ nương tựa : Vì Bồ Tát là chỗ nương tựa của tất cả chúng sinh thế gian, cho nên xưng là chỗ nương tựa.
6. Vì thấu đạt tất cả pháp phương tiện, nên gọi là Đạo sư : Vì Bồ Tát thấu rõ thông đạt tất cả tất cả pháp phương tiện, cho nên xưng là Đạo sư.
7. Vì dẫn dắt tất cả chúng sinh vào đạo Tát bà nhạ, nên gọi là đại Đạo sư : Vì Bồ Tát dẫn dắt tất cả chúng sinh đều vào đạo Tát bà nhạ (Nhất thiết trí), cho nên xưng là đại Đạo sư.
8. Vì làm đèn của tất cả thế gian, nên gọi là quang minh : Vì Bồ Tát là đèn quang minh của tất cả thế gian, cho nên xưng là quang minh.
9. Vì tâm chí viên mãn, nghĩa lợi thành tựu, những gì cần làm đã làm xong, trụ trí huệ vô ngại, phân biệt biết rõ tất cả các pháp, nên gọi là Thập lực : Vì tâm chí của Bồ Tát đã viên mãn, nghĩa lợi đã thành tựu, những gì cần làm đã làm xong, chẳng còn thọ thân sau nữa, trụ nơi trí huệ không có chướng ngại, phân biệt biết rõ được tất cả các pháp, cho nên xưng là Thập lực.
10. Vì tự tại thông đạt tất cả pháp luân, nên gọi là bậc Thấy tất cả : Vì Bồ Tát tự tại thông đạt tất cả pháp luân, cho nên xưng là bậc Thấy tất cả. Đó là mười pháp khen ngợi.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát trụ thử tam muội, phục đắc thập chủng quang minh chiếu diệu. Hà giả vi thập? Sở vị: đắc nhất thiết chư Phật quang minh, dữ bỉ bình đẳng cố; đắc nhất thiết thế giới quang minh, phổ năng nghiêm tịnh cố; đắc nhất thiết chúng sanh quang minh, tất vãng điều phục cố; đắc vô lượng vô úy quang minh, Pháp giới vi trường diễn thuyết cố; đắc vô sái biệt quang minh, tri nhất thiết pháp vô chủng chủng tánh cố; đắc phương tiện quang minh, ư nhất thiết Pháp ly dục tế nhi chứng nhập cố; đắc chân thật quang minh, ư nhất thiết Pháp ly dục tế tâm bình đẳng cố; đắc biến nhất thiết thế gian thần biến quang minh, mông Phật sở gia hằng bất tức cố; đắc thiện tư duy quang minh, đáo nhất thiết Phật tự tại ngạn cố; đắc nhất thiết pháp chân như quang minh, ư nhất mao khổng trung thiện thuyết nhất thiết cố. Thị vi thập.
Phật tử ! Đại Bồ Tát trụ tam muội nầy, lại được mười thứ quang minh chiếu sáng. Những gì là mười ?
Đó là : Được quang minh của tất cả chư Phật, vì bình đẳng với chư Phật. Được quang minh của tất cả thế giới, vì nghiêm tịnh khắp. Được quang minh của tất cả chúng sinh, vì đều đến điều phục. Được vô lượng vô uý quang minh, vì pháp giới làm đạo tràng diễn nói. Được quang minh không khác biệt, vì biết tất cả pháp không có các thứ tánh. Được quang minh phương tiện, vì nơi tất cả pháp lìa dục tế mà chứng nhập. Được quang minh chân thật, vì nơi tất cả pháp lìa dục tế tâm bình đẳng. Được quang minh khắp tất cả thế gian thần thông biến hoá, vì được Phật gia trì luôn không ngừng nghỉ. Được quang minh khéo tư duy, vì đến được bờ tự tại của tất cả chư Phật. Được quang minh tất cả pháp chân thật, vì trong một lỗ lông khéo nói tất cả. Đó là mười.
Giảng: Các vị Phật tử !Đại Bồ Tát trụ tam muội này, lại đắc được mười thứ quang minh chiếu sáng. Những gì là mười ? Đó là :
1. Bồ Tát đắc được quang minh của tất cả chư Phật, vì bình đẳng với chư Phật.
2. Bồ Tát đắc được quang minh của tất cả thế giới, vì trang nghiêm thanh tịnh khắp tất cả thế giới.
3. Bồ Tát đắc được quang minh của tất cả chúng sinh, vì đều đến điều phục tất cả chúng sinh.
4. Bồ Tát đắc được vô lượng vô uý quang minh, vì dùng pháp giới làm đạo tràng diễn nói diệu pháp.
5. Bồ Tát đắc được quang minh không phân biệt, vì biết tất cả pháp không có các thứ tự tánh.
6. Bồ Tát đắc được quang minh phương tiện, vì đối với tất cả pháp lìa khỏi dục tế, mà chứng nhập chân như.
7. Bồ Tát đắc được quang minh chân thật, vì nơi tất cả pháp lìa dục tế tâm và pháp là bình đẳng.
8. Bồ Tát đắc được quang minh khắp tất cả thế gian thần thông biến hoá, vì được Phật gia trì luôn không ngừng nghỉ.
9. Bồ Tát đắc được quang minh khéo tư duy, vì đạt đến được bờ bên kia tự tại của tất cả chư Phật.
10. Bồ Tát đắc được quang minh tất cả pháp chân thật, vì trong một lỗ lông khéo nói tất cả các pháp. Đó là mười thứ quang minh.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát trụ thử tam muội, phục đắc thập chủng vô sở tác. hà giả vi thập? Sở vị: thân nghiệp vô sở tác, ngữ nghiệp vô sở tác, ý nghiệp vô sở tác, thần thông vô sở tác, liễu Pháp Vô tánh vô sở tác, tri nghiệp bất hoại vô sở tác, vô sái biệt trí vô sở tác, vô sanh khởi trí vô sở tác, tri Pháp vô diệt vô sở tác, tùy thuận ư văn bất hoại ư nghĩa vô sở tác. Thị vi thập.
Phật tử ! Đại Bồ Tát trụ tam muội này, lại được mười thứ vô sở tác. Những gì là mười ? Đó là : Thân nghiệp vô sở tác, lời nghiệp vô sở tác, ý nghiệp vô sở tác, thần thông vô sở tác, rõ pháp không tánh vô sở tác, biết nghiệp chẳng hư hoại vô sở tác, trí vô sai biệt vô sở tác, trí không sinh khởi vô sở tác, biết pháp không diệt vô sở tác, tuỳ thuận nơi văn chẳng hoại nơi nghĩa vô sở tác. Đó là mười.
Giảng: Các vị Phật tử !Đại Bồ Tát trụ tam muội này, lại được mười thứ nghiệp vô sở tác, tức cũng là mười thứ thanh tịnh, cũng có thể nói là mười thứ pháp tịch diệt. Những gì là mười ? Đó là :
1. Thân nghiệp vô sở tác : Tức là thân thanh tịnh không ô nhiễm
2. Lời nghiệp vô sở tác : Tức là miệng thanh tịnh không nhiễm ô.
3. Ý nghiệp vô sở tác : Tức là ý thanh tịnh không nhiễm.
4. Thần thông vô sở tác : Thần thông vốn là thanh tịnh, không có sở tác.
5. Rõ pháp không tánh vô sở tác : Thấu được tất cả pháp chẳng có tự tánh, chẳng có sở tác.
6. Biết nghiệp chẳng hư hoại vô sở tác : Biết được tất cả nghiệp thiện không hư hoại, chẳng có sở tác.
7. Trí vô sai biệt vô sở tác : Trí huệ chẳng có sự phân biệt, thông đạt được tất cả, đây cũng là vô sở tác.
8. Trí không sinh khởi vô sở tác : Trí huệ chẳng có sinh khởi, mà biết rõ tất cả, đây cũng là vô sở tác.
9. Biết pháp không diệt vô sở tác : Vì Bồ Tát biết các pháp không sinh không diệt, cho nên vô sở tác.
10. Tuỳ thuận nơi văn chẳng hoại nơi nghĩa vô sở tác : Vì Bồ Tát hay tuỳ thuận nơi câu văn, lại chẳng hoại nơi nghĩa lý, cho nên vô sở tác.
Đó là mười thứ nghiệp vô sở tác.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát trụ thử tam muội, vô lượng cảnh giới chủng chủng sái biệt. Sở vị: nhất nhập đa khởi, đa nhập nhất khởi; đồng nhập dị khởi, dị nhập đồng khởi; tế nhập thô khởi, thô nhập tế khởi; Đại nhập tiểu khởi, tiểu nhập Đại khởi; thuận nhập nghịch khởi, nghịch nhập thuận khởi; vô thân nhập hữu thân khởi, hữu thân nhập vô thân khởi; vô tướng nhập hữu tướng khởi, hữu tướng nhập vô tướng khởi; khởi trung nhập, nhập trung khởi. Như thị giai thị thử chi tam muội tự tại cảnh giới.
Phật tử ! Đại Bồ Tát trụ nơi tam muội này, có vô lượng cảnh giới, đủ thứ sự khác biệt. Đó là : Một nhập nhiều khởi, nhiều nhập một khởi. Đồng nhập khác khởi, khác nhập đồng khởi. Tế nhập thô khởi, thô nhập tế khởi. Đại nhập tiểu khởi, tiểu nhập đại khởi. Thuận nhập nghịch khởi, nghịch nhập thuận khởi. Không thân nhập có thân khởi, có thân nhập không thân khởi. Không tướng nhập có tướng khởi, có tướng nhập không tướng khởi. Trong khởi nhập trong nhập khởi. Như vậy đều là cảnh giới tự tại của tam muội này.
Giảng: Các vị Phật tử !Đại Bồ Tát trụ nơi tam muội này, lại có vô lượng cảnh giới, đủ thứ sự khác biệt. Đó là : Tại một nhập định, từ nhiều xuất định. Tại nhiều nhập định, từ một xuất định. Tại đồng nhập định, từ khác xuất định. Tại khác nhập định, từ đồng xuất định. Tại tế nhập định, từ thô xuất định. Tại thô nhập định, từ tế xuất định. Tại đại nhập định, từ tiểu xuất định. Tại tiểu nhập định, từ đại xuất định. Tại thuận nhập định, từ nghịch xuất định. Tại nghịch nhập định, từ thuận xuất định. Tại không thân nhập định, từ có thân xuất định. Tại có thân nhập định, từ không thân xuất định. Tại không tướng nhập định, từ có tướng xuất định. Tại có tướng nhập định, từ không tướng xuất định. Tại trong khởi nhập định, từ trong nhập xuất định. Nhập định xuất định như vậy đều không ngại nhau. Đó là cảnh giới tự tại của tam muội này
Phật tử! thí như huyễn sư, trì chú đắc thành, năng hiện chủng chủng sái biệt hình tướng; chú dữ huyễn biệt nhi năng tác huyễn, chú duy thị thanh nhi năng huyễn tác nhãn thức sở tri chủng chủng chư sắc, nhĩ thức sở tri chủng chủng chư thanh, tị thức sở tri chủng chủng chư hương, thiệt thức sở tri chủng chủng chư vị, thân thức sở tri chủng chủng chư xúc, ý thức sở tri chủng chủng cảnh giới. Bồ-Tát Ma-ha-tát trụ thử tam muội diệc phục như thị, đồng trung nhập định dị trung khởi, dị trung nhập định đồng trung khởi.
Phật tử ! Ví như nhà huyễn thuật, trì chú được thành tựu, có thể hiện ra đủ thứ hình tướng khác nhau. Chú với huyễn khác nhau, mà làm huyễn được. Tuy chú là tiếng, mà có thể huyễn làm nhãn thức biết đủ thứ các sắc, nhĩ thức biết được đủ thứ các tiếng, tĩ thức biết được đủ thứ các mùi, thiệt thức biết được đủ thứ các vị, thân thức biết được đủ thứ các súc, ý thức biết được đủ thứ cảnh giới.
Đại Bồ Tát trụ tam muội này, cũng lại như thế. Trong đồng nhập định trong khác khởi, trong khác nhập định trong đồng khởi.
Giảng: Các Phật tử !Ví như nhà huyễn thuật trì chú ngữ, có thể tự không hoá có, tự có hoá không, có thể hiện ra đủ thứ hình tướng khác nhau. Giống như một bình không có rượu, ông ta niệm chú thì trong bình tự nhiên có rượu. Lại đem một hạt giống hoa, trồng xuống đất, lập tức đâm chồi nảy mầm, ra cành ra lá, đơm hoa kết trái, trong khoảnh khắc liền thành tựu. Lại có thể ở trong lửa sinh ra hoa sen rất đẹp. Cảnh giới này, đều do huyễn tướng trì chú mà hiện ra. Chú và huyễn tướng tuy khác nhau, nhưng chú có thể làm huyễn tướng. Niệm chú chỉ là âm thanh, mà làm ra đủ thứ cảnh giới hư vọng – nhãn thức biết đủ thứ các màu sắc, nhĩ thức biết được đủ thứ các tiếng, tĩ thức biết được đủ thứ các mùi, thiệt thức biết được đủ thứ các vị, thân thức biết được đủ thứ các súc, ý thức biết được đủ thứ cảnh giới. Đại Bồ Tát trụ tam muội này, cũng lại như thế. Ở trong đồng nhập định, từ trong khác xuất định, ở trong khác nhập định, từ trong đồng xuất định. Đây là cảnh giới xuất định nhập định toại tâm như ý không thể nghĩ bàn.
Phật tử! thí như tam thập tam thiên cọng A-tu-la đấu chiến chi thời, chư Thiên đắc thắng, tu La thoái nục; A-tu-la Vương kỳ thân trường đại thất bách do-tuần, tứ binh vi nhiễu vô số thiên vạn, dĩ huyễn thuật lực tướng chư quân chúng, đồng thời tẩu nhập ngẫu ti khổng trung. Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, dĩ thiện thành tựu chư huyễn trí địa, huyễn trí tức thị Bồ Tát, Bồ Tát tức thị huyễn trí, thị cố năng ư vô sái biệt Pháp trung nhập định, sái biệt Pháp trung khởi, sái biệt Pháp trung nhập định, vô sái biệt Pháp trung khởi.
Phật tử ! Ví như khi trời Ba Mươi Ba đánh nhau với A tu la, chư Thiên thắng lợi, A tu la thua trận. Vua A tu la thân cao lớn bảy trăm do tuần, bốn binh vây quanh vô số ngàn vạn, dùng sức huyễn thuật, đem tất cả quân lính cùng nhau chạy trốn trong lỗ ngó sen. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, đã khéo thành tựu các huyễn trí địa. Huyễn trí tức là Bồ Tát, Bồ Tát tức là huyễn trí. Cho nên, có thể ở trong pháp không phân biệt nhập định, ở trong pháp phân biệt khởi. Ở trong pháp phân biệt nhập định, ở trong pháp không phân biệt khởi.
Giảng: Các vị Phật tử !Ví như khi Đế Thích trời Ba Mươi Ba đánh nhau với A tu la, thì chư Thiên thường thắng lợi. Có lúc A tu la chiến thắng, trời Đế Thích không cách nào kháng cự, bèn đến chỗ đức Phật cầu cứu. Đức Phật nói cho ông ta một câu chú, niệm : « Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa », dịch ra nghĩa là « Đại trí huệ đến bờ kia ». Ma Ha nghĩa là « Đại », Bát Nhã là « Trí huệ », Ba La Mật Đa là « Đến bờ kia ». Đế Thích trở về trời Ba Mươi Ba, bèn nói với binh trời tướng trời rằng : « Khi các vị gặp binh lính A tu la, thì hãy thành tâm niệm ‘‘Ma Ha Mát Nhã Ba La Mật Đa’’, đây là pháp mà đức Phật ban tặng để đánh lui quân địch ».
Ngày thứ hai lại đánh với A tu la. Binh trời tướng trời đều niệm câu chú này quả nhiên linh nghiệm, binh lính A tu la thua bỏ chạy. Tại sao ? Vì binh trời tướng trời thân đều phóng ra ánh sáng rất mạnh, binh lính A tu la không thể nào mở mắt ra được, cho nên bại trận bỏ chạy.
A tu la dịch là « Vô đoan chánh », vì tướng mạo của người nam rất là xấu xí, ngũ quan chẳng đoan chánh. Song, nữ A tu la rất xinh đẹp, ai thấy cũng đều thương mến. Vợ đẹp của trời Đế Thích là con gái của vua A tu la. Do đó, có thể biết người trời vẫn còn dục tham luyến sắc đẹp. Chư Thiên đến được cõi sắc giới, mới dứt được sắc dục. Người ở cõi sắc giới là hoá sinh, chỉ có diệu sắc thân, chứ chẳng còn nam nữ khác nhau.
Vua A tu la thân cao lớn bảy trăm đại do tuần, lại có bốn thứ binh (tượng binh, mã binh, xa binh, bộ binh) vây quanh vô số ngàn vạn. Vua A tu la dùng sức huyễn thuật, đem tất cả quân lính cùng nhau chạy trốn trong lỗ ngó sen. Đây là cảnh giới lớn nhỏ vô ngại, tức cũng là cảnh giới trong lớn có thể hiện nhỏ, trong nhỏ có thể dung lớn, dung nạp với nhau không ngại. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, vì tu hành căn lành, cho nên thành tựu tất cả huyễn trí địa, tức cũng là trí huệ thần thông. Huyễn trí tức là Bồ Tát, Bồ Tát tức là huyễn trí. Vì vậy cho nên, có thể ở trong pháp không phân biệt nhập định, từ trong pháp phân biệt xuất định. Ở trong pháp phân biệt nhập định, từ trong pháp không phân biệt xuất định. Đó là thần thông diệu dụng của Bồ Tát tu, đã đạt đến cảnh giới nhậm vận tự tại. Tóm lại, muốn như thế nào thì như thế đó, chẳng có mọi sự chướng ngại. Đó là do trí huệ biến hoá, chứ chẳng phải do thức biến hoá.
Phật tử! thí như nông phu điền trung hạ chủng, chủng tử tại hạ, quả sanh ư thượng. Bồ-Tát Ma-ha-tát trụ thử tam muội diệc phục như thị, nhất trung nhập định đa trung khởi, đa trung nhập định nhất trung khởi.
Phật tử ! Ví như nông phu, trong ruộng gieo giống xuống, hạt giống ở dưới, quả sinh ở trên. Đại Bồ Tát trụ tam muội này, cũng lại như thế. Trong một nhập định, trong nhiều khởi. Trong nhiều nhập định, trong một khởi.
Giảng: Các vị Phật tử !Ví như nông phu, trong ruộng đất gieo hạt giống ngũ cốc xuống, trồng hạt giống ở dưới đất, quả thật sinh trưởng ở trên đất. Đây là luật nhân quả tự nhiên. Đại Bồ Tát trụ tam muội này, cũng lại như thế. Có thể ở trong thân một chúng sinh nhập định, từ trong thân nhiều chúng sinh xuất định. Ở trong thân nhiều chúng sinh nhập định, từ trong một thân chúng sinh xuất định, chẳng có chướng ngại.
Phật tử! thí như nam nữ xích bạch hòa hợp, hoặc hữu chúng sanh ư trung thọ sanh, nhĩ thời danh vi: Ca la lá vị, tòng thử thứ đệ, trụ mẫu thai trung, mãn túc thập nguyệt; thiện nghiệp lực cố, nhất thiết chi phần giai đắc thành tựu, chư căn bất khuyết, tâm ý minh liễu; kỳ Ca la lá dữ bỉ lục căn thể trạng các biệt, dĩ nghiệp lực cố, nhi năng lệnh bỉ thứ đệ thành tựu, thọ đồng dị loại chủng chủng quả báo.
Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, tùng nhất thiết trí Ca la lá vị, tín giải nguyện lực tiệm thứ tăng trưởng; kỳ tâm quảng đại, nhâm vận tự tại, vô trung nhập định hữu trung khởi, hữu trung nhập định vô trung khởi.
Phật tử ! Ví như tinh cha huyết mẹ của nam nữ hoà hợp, hoặc có chúng sinh ở trong đó thọ sinh. Bấy giờ, gọi là Ca la lã vị. Từ đây lần lược trụ ở trong thai mẹ, đầy đủ mười tháng. Do sức nghiệp thiện, nên tất cả chi phần đều được thành tựu, các căn không thiếu, tâm ý sáng tỏ. Ca la lã với sáu căn, thể tướng đều khác nhau. Do nghiệp lực, khiến cho lần lược thành tựu, thọ đủ thứ các loại quả báo khác nhau.
Bồ Tát cũng lại như thế, từ Nhất thiết trí Ca la lã vị, tin hiểu nguyện lực, dần dần tăng trưởng. Tâm của Bồ Tát rộng lớn, nhậm vận tự tại. Trong không nhập định, trong có khởi. Trong có nhập định, trong không khởi.
Giảng: Các vị Phật tử ! Ví như khi tinh cha huyết mẹ của nam nữ hoà hợp, hoặc có một thân trung ấm thọ sinh. Lúc đó, thức thọ sinh gọi là Ca la lã vị. Từ đó bắt đầu lần lược sống, đầy đủ mười tháng, sinh ra thế gian này, tiếp thọ các sự khổ, nhưng chúng sinh vẫn cứ lấy khổ làm vui.
Lược thuật quá trình của đời người là : Trước hết bắt đầu từ vô minh, vô minh tức là vọng tâm tham ái của nam nữ. Vô minh duyên hành : Hành tức là tánh hành vi. Nam nữ yêu nhau kết thành vợ chồng, để nối dõi giống nòi, nên có hành vi này. Hành duyên thức : Thức tức là bào thai, tinh cha huyết mẹ kết tinh thể, tức cũng là nơi ký thác thọ sinh của thân trung ấm. Thức duyên danh sắc : Bào thai ở trong bụng mẹ sinh ra hệ thống thần kinh (danh), còn sinh ra nhục thể (sắc). Danh sắc duyên lục nhập : Tức nhiên có trạng thái tâm lý và sinh lý, thì đương nhiên sinh ra sáu căn, tức cũng là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Lục nhập duyên súc : Súc là súc giác, tức cũng là có sự tác dụng của tri giác. Khi đứa bé sinh ra thì da tiếp súc với không khí, biết cảm giác lạnh nóng. Súc duyên thọ : Có tiếp súc thì có cảm thọ, cảm thấy thọ tốt thì đi tranh lấy. Thọ duyên ái : Vì lãnh thọ tất cả tốt đẹp, nên tăng thêm tâm ái. Ái duyên thủ : Có tâm ái rồi, thì tìm hết biện pháp, hết tâm sức để tranh lấy, chiếm làm sở hữu của mình. Thủ duyên hữu : Vì thủ lấy, nên tạo ba nghiệp thân, khẩu, ý. Có nghiệp tạo rồi, bèn có hạt giống thọ sinh. Hữu duyên sinh : Do đó : « Khởi hoặc, tạo nghiệp, thọ báo ». Vì nhất thời hồ đồ, bèn tạo ra nghiệp thọ sinh, nên có quả báo lai sinh. Sinh duyên lão tử : Lai sinh có thân năm uẩn, thì đương nhiên có sự uy hiếp lão tử. Từ nhỏ lớn lên thành thiếu niên, từ thiếu niên thành thanh niên, từ thanh niên rồi già, do già rồi chết đi – đó là quá trình đời người phải đi qua, bất cứ người nào cũng không tránh khỏi. Đây là luật nhân quả ba đời tuần hoàn, sinh sinh tử tử, tử tử sinh sinh, từ vô thuỷ kiếp đến nay, vĩnh viễn không dứt được gốc, đó là vòng mười hai nhân duyên sinh mạng.
Người tu đạo tức là dứt sinh tử, không thọ khổ luân hồi. Làm thể nào để dứt sinh tử ? Chỉ có một phương pháp, tức là niệm « Nam Mô A Di Đà Phật », niệm đến lúc nhất tâm bất loạn, thì có thể đới nghiệp vãng sinh về thế giới Cực Lạc, hoa nở thấy Phật. Ở đó hoa sen hoá sinh, chẳng có con nít, chỉ hiện thân thể chín phẩm thành người. Ngoài ra còn có một phương pháp chấm dứt sinh tử đó là tham thiền. Tham đến cảnh giới tứ thiền, chẳng biết đủ mà dừng lại, đó vẫn là cảnh giới của phàm phu. Phải tiếp tục dụng công phu tiến về trước, trải qua trời Ngũ Bất Hoàn, lúc đó vượt qua trời Tứ Không, mà ra khởi tam giới, sẽ dứt được phần đoạn sinh tử.
Bây giờ đưa ra một vấn đề, để mọi người cùng nhau nghiên cứu : Tại sao người nam thương người nữ ? Người nữ thương người nam ? Có người nói : « Đây là thiên tính ! Khổng Tử đã từng nói : ‘’Tánh tham sắc vậy’’, đây là tham dục của con người ». Bởi nhân duyên này, cho nên chúng sinh do sắc dục mà sinh, do sắc dục mà chết. Ai phá được ải sắc dục, đoạn dục khử ái, thì không bị mười hai nhân duyên ràng buộc, sẽ được giải thoát.
Con người sinh ra thế giới này, đều là có nhân duyên. Có người có duyên lành đến làm cha con, hoặc mẹ con. Có người có báo oán đến làm cha con, hoặc mẹ con. Cho nên, có những con cái đến trả nợ, cũng có những con cái đến đòi nợ, do đó :
« Không con, không cái, không oan gia ».
Nếu nói về nhân quả, thì có những sự việc hoàn toàn chân thật. Nay đưa ra một câu chuyện để tham khảo.
Phong tục nhân gian trước kia, hễ có lễ cưới, sinh con, đám ma .v.v…đều thỉnh mời mấy Thầy đến tụng kinh. Mục đích là để được cát tường như ý, tiêu tai sống lâu, vãng sinh về Cực Lạc. Một ngày nọ, hoà thượng Xã Thuận (sơ tổ của tông Hoa Nghiêm) đến nhà trai chủ ứng cúng. Thọ trai xong, vợ chồng trai chủ bồng em bé đến trước mặt hoà thượng, thỉnh hoà thượng từ bi gia trì cho em bé, muốn cho em bé được sống lâu giàu có. Hoà thượng dùng pháp nhãn quán sát, biết nhân duyên của đứa bé, đứa bé đó đến để đòi nợ, vì muốn cho đôi bên giải trừ oán cừu, hoà thượng bèn kêu vợ chồng trai chủ bồng đứa bé đến bờ sông. Hoà thượng ôm đứa bé liệng xuống sông.
Lúc đó, vợ chồng trai chủ khóc lóc, kêu hoà thượng đòi con lại. Hoà thượng nói với họ rằng : « Các vị hãy trở về nhìn con của các vị đi » ! Vợ chồng trai chủ trở về nhìn xem, thì ở trong nước hiện ra thân một người nam, trợn mắt nói với vợ chồng đó rằng : « Ai là con của các vị ! Ba năm trước, tôi là người buôn bán, ngồi thuyền của các vị qua sông, các vị thấy tôi có tiền, bèn sinh tâm bất lương, giết tôi cướp tiền của. Khi thuyền đến giữa sông, bèn xô tôi té xuống sông, để chiếm đoạt tài vật của tôi. Đời này tôi đến để đòi nợ, nay may mắn gặp hoà thượng từ bi, hoà giải cho chúng ta. Bằng không, nhất định tôi sẽ làm hại quý vị nhà tan người mất ». Nói xong không thấy tông tích nữa. Lúc đó, vợ chồng như ngây như dại, rất là hổ thẹn. Bèn kính thỉnh hoà thượng Xã Thuận làm pháp hội Thuỷ Lục Không, siêu độ cô hồn dã quỷ, đều được vãng sinh. Từ đó về sau, vợ chồng tụng kinh lễ Phật, ăn chay suốt đời.
Thai nhi ở trong bụng mẹ, mãn mười tháng, do sức nghiệp thiện, nên ngũ quan tứ chi, tất cả đều được đầy đủ. Ngũ tạng lục phủ đều thành tựu, các căn không thiếu. Tâm ý minh bạch tất cả sự lý. Ca la lã vị này với sáu căn, thể tướng đều khác nhau. Do nghiệp lực thiện đã tạo ra trong kiếp trước, khiến cho lần lược thành tựu thai nhi, thọ đồng loại (người), hoặc loài khác (súc sinh) đủ thứ các loại quả báo khác nhau.
Bồ Tát tu Bồ Tát đạo, viên mãn lục độ vạn hạnh cũng lại như thế, từ Nhất thiết trí ca la lã vị, vì có nguyện lực tin hiểu, dần dần tăng trưởng. Tâm của Bồ Tát đặc biệt rộng lớn, nhậm vận tự tại, tất cả đều toại tâm như ý. Cảnh giới này, chẳng có tơ hào chướng ngại. Ở trong chân không nhập định, từ trong diệu hữu xuất định. Ở trong diệu hữu nhập định, từ trong chân không xuất định, không có chướng ngại.
Phật tử! thí như long cung y địa nhi lập, bất y hư không, long y cung trụ, diệc bất tại không, nhi năng hưng vân biến mãn không trung; hữu nhân ngưỡng thị sở kiến cung điện, đương tri giai thị càn thát bà thành, phi thị long cung.
Phật tử! long tuy xứ hạ nhi vân bố thượng. Bồ-Tát Ma-ha-tát trụ thử tam muội diệc phục như thị, ư vô tướng nhập hữu tướng khởi, ư hữu tướng nhập vô tướng khởi.
Phật tử ! Ví như cung rồng, nương đất mà lập, chẳng nương hư không. Rồng nương cung điện mà ở, cũng chẳng phải ở trong hư không, mà hay nổi mây đầy khắp trong hư không. Có người ngước nhìn thấy cung điện. Nên biết đó là thành của Càn Thát Bà, chẳng phải cung rồng.
Phật tử ! Rồng tuy ở dưới thấp, còn mây giăng trên trời. Đại Bồ Tát trụ tam muội này, cũng lại như thế. Nơi không tướng nhập, có tướng khởi. Nơi có tướng nhập, không tướng khởi.
Giảng: Các vị Phật tử ! Ví như cung điện rồng ở trong biển, nương đất mà lập, chẳng phải ở trong hư không. Rồng nương cung mà ở, cũng chẳng phải ở trong hư không. Nhưng khi nổi mây mưa xuống, thì mây giăng đầy khắp trong hư không. Có người ngước nhìn lên hư không, thấy có cung điện. Nên biết đó là thành thị của Càn Thát Bà, chứ chẳng phải cung điện của rồng.
Các vị Phật tử ! Rồng tuy ở dưới biển, nhưng khi nổi mây mưa xuống thì ở trên hư không. Đại Bồ Tát trụ tam muội này, cũng lại như thế. Nơi không tướng nhập, từ có tướng xuất định. Nơi có tướng nhập, từ không tướng xuất định, chẳng có chướng ngại.
Phật tử! thí như diệu quang Đại phạm Thiên Vương sở trụ chi cung, danh: nhất thiết thế gian tối thắng thanh tịnh tạng; thử Đại cung trung, phổ kiến tam thiên đại thiên thế giới chư tứ thiên hạ Thiên cung, long cung, dạ xoa cung, Càn thát bà cung, A-tu-la cung, Ca Lâu La cung, khẩn na la cung, Ma hầu la già cung; nhân gian trụ xứ cập tam ác đạo, Tu-di sơn đẳng, chủng chủng chư sơn, đại hải, giang hà, pha trạch, tuyền nguyên, thành ấp, tụ lạc, thụ lâm, chúng bảo, như thị nhất thiết chủng chủng trang nghiêm, tận đại luân vi sở hữu biên tế, nãi chí không trung vi tế du trần, mạc bất giai ư phạm cung hiển hiện, như ư minh kính kiến kỳ diện tượng.
Bồ-Tát Ma-ha-tát trụ thử nhất thiết chúng sanh sái biệt thân Đại tam muội, tri chủng chủng sát, kiến chủng chủng Phật, độ chủng chủng chúng, chứng chủng chủng Pháp, thành chủng chủng hạnh, mãn chủng chủng giải, nhập chủng chủng tam muội, khởi chủng chủng thần thông, đắc chủng chủng trí tuệ, trụ chủng chủng sát-na tế.
Phật tử ! Ví như cung điện của Diệu Quang Đại Phạm Thiên Vương ở, gọi là Nhất thiết thế gian tối thắng thanh tịnh tạng. Ở trong đại cung điện đó, thấy khắp các bốn thiên hạ trong ba ngàn đại thiên thế giới, cung trời, cung rồng, cung Dạ Xoa, cung Càn Thát Bà, cung A Tu La, cung Ca Lâu La, cung Khẩn Na La, cung Ma Hầu La Già, chỗ ở nhân gian, và ba đường ác, núi Tu Di đủ thứ các núi, biển cả sông ngòi, ao đầm nguồn suối, thành ấp làng xóm, cây rừng các báu, tất cả đủ thứ sự trang nghiêm như vậy, tột cùng hết thảy bờ mé đại luân vi. Cho đến du trần vi tế ở trong hư không, thảy đều hiển hiện ra ở trong Phạm cung. Giống như thấy mặt mình hiện ra trong gương sáng.
Đại Bồ Tát trụ đại tam muội Tất cả thân chúng sinh khác biệt này, biết đủ thứ cõi, thấy các vị Phật, độ đủ thứ chúng, chứng đủ thứ pháp, thành tựu đủ thứ hạnh, viên mãn đủ thứ giải, vào đủ thứ tam muội, khởi đủ thứ thần thông, được đủ thứ trí huệ, trụ đủ thứ sát na tế.
Giảng: Các vị Phật tử !Ví như cung điện của Diệu Quang Đại Phạm Thiên Vương ở, gọi là Nhất thiết thế gian tối thắng thanh tịnh tạng. Ở trong đại cung điện đó, thấy khắp tất cả các bốn thiên hạ trong ba ngàn đại thiên thế giới. Hết thảy cung điện trời, cung điện rồng, cung điện Dạ xoa, cung điện Càn thát bà, cung điện A tu la, cung điện Ca lâu la, cung điện Khẩn na la, cung điện Ma hầu la già, cùng với chỗ ở nhân gian, và ba đường ác.
Ở trong Phạm cung đó, lại thấy núi Tu di đủ thứ các núi, đủ thứ biển cả, đủ thứ sông ngòi, đủ thứ ao đầm, đủ thứ nguồn suối, thành ấp, làng xóm, cây rừng, các báu .v.v…tất cả đủ thứ sự trang nghiêm như vậy, tột cùng hết thảy bờ mé đại luân vi. Cho đến du trần vi tế tận cùng ở trong hư không, thảy đều hiển hiện ra ở trong đại cung điện Nhất thiết thế gian tối thắng thanh tịnh tạng của Diệu Quang Đại Phạm Thiên. Giống như thấy tướng mặt mình hiện ra trong gương sáng.
Đại Bồ Tát trụ đại tam muội tất cả thân chúng sinh khác biệt này, biết đủ thứ cõi Phật, thấy được các vị Phật, độ được đủ thứ chúng, chứng được đủ thứ pháp, thành tựu đủ thứ hạnh, viên mãn đủ thứ tri giải, vào được đủ thứ tam muội, sinh khởi đủ thứ thần thông, đắc được đủ thứ trí huệ, trụ tại đủ thứ sát na tế.
Ở trên đưa ra sáu ví dụ :
1. Dụ về huyễn hiện sáu cảnh.
2. Dụ về A tu la chạy trốn.
3. Dụ về nông phu gieo giống.
4. Dụ về thọ thai lớn lên.
5. Dụ về rồng ở dưới mây ở trên.
6. Dụ về Phạm cung hiện khắp.
Đó là biểu thị đại Bồ Tát thị hiện, khi nhập vào đại tam muội Tất cả thân chúng sinh khác biệt, có vô lượng cảnh giới, có đủ thứ sự khác biệt, nhậm vận tự tại, muốn nhập định lúc nào ? Lúc nào xuất định ? Nơi nào nhập định ? Nơi nào xuất định ? Đều toại tâm như ý, chẳng có chướng ngại. Cảnh giới này, thật là không thể nghĩ bàn, diệu không thể tả.
Phật tử! thử Bồ-Tát Ma-ha-tát đáo thập chủng thần thông bỉ ngạn. hà giả vi thập? Sở vị:
đáo chư Phật tận hư không biến Pháp giới thần thông bỉ ngạn,
đáo Bồ Tát cứu cánh vô sái biệt tự tại thần thông bỉ ngạn,
đáo năng phát khởi Bồ Tát quảng đại hạnh nguyện nhập Như Lai môn Phật sự thần thông bỉ ngạn,
đáo năng chấn động nhất thiết thế giới nhất thiết cảnh giới tất lệnh thanh tịnh thần thông bỉ ngạn,
đáo năng tự tại tri nhất thiết chúng sanh bất tư nghị nghiệp quả giai như huyễn hóa thần thông bỉ ngạn,
đáo năng tự tại tri chư tam muội thô tế nhập xuất sái biệt tướng thần thông bỉ ngạn,
đáo năng dũng mãnh nhập Như Lai cảnh giới nhi ư kỳ trung phát sanh đại nguyện thần thông bỉ ngạn,
đáo năng hóa tác Phật hóa chuyển pháp luân điều phục chúng sanh lệnh sanh Phật chủng lệnh nhập Phật thừa tốc đắc thành tựu thần thông bỉ ngạn,
đáo năng liễu tri bất khả thuyết nhất thiết bí mật văn cú nhi chuyển pháp luân lệnh bách thiên ức na-do-tha bất khả thuyết bất khả thuyết Pháp môn giai đắc thanh tịnh thần thông bỉ ngạn,
đáo bất giả trú dạ niên nguyệt kiếp số nhất niệm tất năng tam thế thị hiện thần thông bỉ ngạn. Thị vi thập.
Phật tử ! Đại Bồ Tát này đến được mười thứ thần thông bờ kia. Những gì là mười ? Đó là :
Thần thông bờ kia đến được chư Phật tận hư không khắp pháp giới.
Thần thông bờ kia đến được Bồ Tát rốt ráo không khác biệt tự tại.
Thần thông bờ kia đến được hay phát khởi Bồ Tát hạnh nguyện rộng lớn, vào Như Lai môn Phật sự.
Thần thông bờ kia đến được hay chấn động tất cả thế giới, tất cả cảnh giới đều khiến cho thanh tịnh.
Thần thông bờ kia đến được hay tự tại biết nghiệp quả không nghĩ bàn của tất cả chúng sinh, đều như huyễn hoá.
Thần thông bờ kia đến được hay tự tại biết tam muội thô tế nhập xuất tướng khác biệt.
Thần thông bờ kia đến được hay dũng mãnh vào cảnh giới Như Lai, mà ở trong đó phát sinh đai nguyện.
Thần thông bờ kia đến được hay hoá làm Phật hoá chuyển pháp luân, điều phục chúng sinh, khiến cho sinh giống Phật, khiến cho vào Phật thừa, sớm được thành tựu.
Thần thông bờ kia đến được hay biết rõ bất khả thuyết tất cả bí mật câu văn mà chuyển pháp luân, khiến cho trăm ngàn ức Na do tha bất khả thuyết bất khả thuyết pháp môn đều được thanh tịnh.
Thần thông bờ kia đến được chẳng mượn ngày đêm năm tháng kiếp số, một niệm đều có thể thị hiện ba đời. Đó là mười.
Giảng: Các vị Phật tử !Đại Bồ Tát này đến được cảnh giới mười thứ thần thông bờ kia. Bờ kia tức là Ba la mật. Những gì là mười ? Đó là :
1. Thần thông bờ kia đến được chư Phật tận hư không khắp pháp giới.
2. Thần thông bờ kia đến được Bồ Tát tự tại rốt ráo không khác biệt.
3. Thần thông bờ kia đến được hay phát khởi Bồ Tát hạnh nguyện rộng lớn, vào môn của Như Lai, làm đủ thứ Phật sự
4. Thần thông bờ kia đến được hay chấn động tất cả thế giới, tất cả cảnh giới đều khiến cho thanh tịnh.
5. Thần thông bờ kia đến được hay tự tại biết nghiệp quả không nghĩ bàn của tất cả chúng sinh, đều như huyễn như hoá.
6. Thần thông bờ kia đến được hay tự tại biết tất cả tam muội thô tế nhập xuất tướng khác biệt.
7. Thần thông bờ kia đến được hay dũng mãnh vào cảnh giới của Như Lai, mà ở trong đó phát sinh đai nguyện.
8. Thần thông bờ kia đến được hay hoá làm tướng Phật, hoá làm chuyển pháp luân, điều phục chúng sinh, khiến cho sinh giống tánh Phật, khiến cho vào diệu pháp của Phật thừa, sớm được thành tựu.
9. Thần thông bờ kia đến được hay biết rõ bất khả thuyết tất cả bí mật câu văn, mà chuyển đại pháp luân, khiến cho trăm ngàn ức Na do tha bất khả thuyết bất khả thuyết pháp môn đều được thanh tịnh.
10. Thần thông bờ kia đến được chẳng giả mượn ngày đêm năm tháng kiếp số, trong một niệm, hoàn toàn đều có thể thị hiện ba đời. Đó là cảnh giới mười thứ thần thông bờ kia.
Phật tử! thị danh: Bồ-Tát Ma-ha-tát đệ bát nhất thiết chúng sanh sái biệt thân Đại tam muội thiện xảo trí.
Phật tử ! Đó là đại tam muội Trí thiện xảo tất cả thân chúng sinh khác biệt thứ tám của đại Bồ Tát.
Giảng: Các vị Phật tử ! Đó là đại tam muội Trí huệ thiện xảo tất cả thân chúng sinh khác biệt thứ tám của đại Bồ Tát tu nhập vào.
— o0o —
Đệ Cửu Đại Tam Muội
Phật tử! vân hà vi Bồ-Tát Ma-ha-tát Pháp giới tự tại tam muội?
Phật tử ! Thế nào là tam muội Tự tại pháp giới của đại Bồ Tát ?
Giảng: Bồ Tát Phổ Hiền lại gọi một tiếng các vị đệ tử của Phật ! Thế nào gọi là đại tam muội Tự tại pháp giới của đại Bồ Tát phải tu hành ?
Phật tử! thử Bồ-Tát Ma-ha-tát ư tự nhãn xứ nãi chí ý xứ nhập tam muội, danh: Pháp giới tự tại.
Bồ Tát ư tự thân nhất nhất mao khổng trung nhập thử tam muội, tự nhiên năng tri chư thế gian, tri chư thế gian pháp, tri chư thế giới, tri ức na-do-tha thế giới, tri a-tăng-kì thế giới, tri bất khả thuyết Phật sát vi trần số thế giới; kiến nhất thiết thế giới trung hữu Phật xuất hưng, Bồ Tát chúng hội tất giai sung mãn, quang minh thanh tịnh, thuần thiện vô tạp, quảng đại trang nghiêm, chủng chủng chúng bảo dĩ vi nghiêm sức.
Phật tử ! Đại Bồ Tát này ở nơi con mắt của mình, cho đến nơi ý nhập tam muội, gọi là tự tại pháp giới.
Trong mỗi lỗ chân lông nơi thân của Bồ Tát, đều nhập tam muội này. Tự nhiên biết được các thế gian, biết các pháp thế gian, biết các thế giới, biết ức Na do tha thế giới, biết A tăng kỳ thế giới, biết thế giới nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết cõi Phật. Thấy trong tất cả thế giới có Phật xuất hiện ra đời, Bồ Tát chúng hội, thảy đều đầy dẫy. Quang minh thanh tịnh, thuần thiện không tạp, rộng lớn trang nghiêm, đủ thứ các báu dùng để nghiêm sức.
Giảng: Các vị Phật tử !Vị đại Bồ Tát này tu hành Bồ Tát đạo, viên mãn lục độ vạn hạnh, tích tập đủ thứ căn lành. Ở nơi con mắt của mình, cho đến nơi ý của mình, nhập tam muội, đại tam muội này tên gọi là Tự tại pháp giới.
Trong mỗi lỗ chân lông nơi thân của Bồ Tát, đều nhập tam muội Tự tại pháp giới, tự nhiên biết được cảnh giới của tất cả thế gian, biết được tất cả pháp thế gian, biết được tất cả thế giới, biết được ức Na do tha thế giới, biết được A tăng kỳ thế giới, biết được thế giới nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết cõi Phật. Lại thấy được trong tất cả thế giới có Phật xuất hiện ra đời, Bồ Tát đại chúng pháp hội, đều đầy dẫy khắp thế giới. Vừa quang minh vừa thanh tịnh, thuần thiện không tạp, vừa rộng lớn lại trang nghiêm. Dùng đủ thứ các châu báu để nghiêm sức.
Bồ Tát ư bỉ, hoặc nhất kiếp, bách kiếp, thiên kiếp, ức kiếp, bách thiên ức na-do-tha kiếp, vô số kiếp, vô lượng kiếp, vô biên kiếp, vô đẳng kiếp, bất khả số kiếp, bất khả xưng kiếp, bất khả tư kiếp, bất khả lượng kiếp, bất khả thuyết kiếp, bất khả thuyết bất khả thuyết kiếp, bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số kiếp. Tu Bồ Tát hạnh thường bất hưu tức;
Bồ Tát ở nơi đó, hoặc một kiếp, trăm kiếp, ngàn kiếp, ức kiếp, trăm ngàn ức Na do tha kiếp, vô số kiếp, vô lượng kiếp, vô biên kiếp, vô đẳng kiếp, bất khả số kiếp, bất khả xưng kiếp, bất khả tư kiếp, bất khả lượng kiếp, bất khả thuyết kiếp, bất khả thuyết bất khả thuyết kiếp, bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số kiếp, tu Bồ Tát hạnh, thường không ngừng nghỉ.
Giảng: Bồ Tát ở trong chúng hội đạo tràng, hoặc một kiếp, trăm kiếp, ngàn kiếp, ức kiếp, trăm ngàn ức Na do tha kiếp, vô số kiếp, vô lượng kiếp, vô biên kiếp, vô đẳng kiếp, bất khả số kiếp, bất khả xưng kiếp, bất khả tư kiếp, bất khả lượng kiếp, bất khả thuyết kiếp, bất khả thuyết bất khả thuyết kiếp, bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số kiếp, trong thời gian dài này, Bồ Tát tu Bồ Tát hạnh, luôn luôn không ngừng nghỉ, cũng chẳng có khi nào nhàm mỏi. Đó là đại hạnh đại nguyện của Bồ Tát, tinh thần đó, khiến cho mọi người khởi tâm kính phục.
Hựu ư như thị vô lượng kiếp trung trụ thử tam muội, diệc nhập diệc khởi, diệc thành tựu thế giới, diệc điều phục chúng sanh, diệc biến liễu Pháp giới, diệc phổ tri tam thế, diệc diễn thuyết chư Pháp, diệc hiện đại thần thông, chủng chủng phương tiện Vô Trước vô ngại; dĩ ư Pháp giới đắc tự tại cố, thiện phân biệt nhãn, thiện phân biệt nhĩ, thiện phân biệt tỳ, thiện phân biệt thiệt, thiện phân biệt thân, thiện phân biệt ý, như thị chủng chủng sái biệt bất đồng, tất thiện phân biệt tận kỳ biên tế.
Lại ở trong vô lượng kiếp như vậy, trụ tam muội này. Cũng nhập, cũng khởi, cũng thành tựu thế giới, cũng điều phục chúng sinh, cũng rõ khắp pháp giới, cũng biết khắp ba đời, cũng diễn nói các pháp, cũng hiện đại thần thông. Đủ thứ phương tiện, không chấp, không ngại, vì nhờ nơi pháp giới mà đắc được tự tại. Khéo phân biệt mắt, khéo phân biệt tai, khéo phân biệt mũi, khéo phân biệt lưỡi, khéo phân biệt thân, khéo phân biệt ý. Đủ thứ sự khác nhau như vậy, đều khéo phân biệt, tột cùng bờ mé.
Giảng: Bồ Tát lại ở trong vô lượng kiếp như vậy, khi trụ nơi tam muội tự tại pháp giới, cũng nhập định, cũng xuất định, cũng thành tựu thế giới, cũng điều phục chúng sinh, cũng rõ khắp pháp giới, cũng biết khắp ba đời, cũng diễn nói các pháp, cũng thị hiện đại thần thông. Đủ thứ phương tiện, cũng không chấp trước, cũng không chướng ngại.
Bồ Tát ở trong pháp giới, nhờ đắc được nhậm vận tự tại, cho nên khéo phân biệt mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, sáu căn. Đủ thứ các căn khác nhau như vậy, Bồ Tát hoàn toàn phân biệt được, tột cùng bờ mé. Cảnh giới đó, Bồ Tát có đại trí huệ mới phân biệt rõ ràng được.
Bồ Tát như thị thiện tri kiến dĩ, năng sanh khởi thập thiên ức Đà-la-ni pháp quang minh, thành tựu thập thiên ức thanh tịnh hạnh, hoạch đắc thập thiên ức chư căn, viên mãn thập thiên ức thần thông, năng nhập thập thiên ức tam muội, thành tựu thập thiên ức thần lực, trưởng dưỡng thập thiên ức chư lực, viên mãn thập thiên ức thâm tâm, vận động thập thiên ức lực trì, thị hiện thập thiên ức thần biến, cụ túc thập thiên ức Bồ Tát vô ngại, viên mãn thập thiên ức Bồ Tát trợ đạo, tích tập thập thiên ức Bồ-tát tạng, chiếu minh thập thiên ức Bồ Tát phương tiện, diễn thuyết thập thiên ức chư nghĩa, thành tựu thập thiên ức chư nguyện, xuất sanh thập thiên ức hồi hướng, tịnh trì thập thiên ức Bồ Tát chánh vị, minh liễu thập thiên ức Pháp môn, khai thị thập thiên ức diễn thuyết, tu trì thập thiên ức Bồ Tát thanh tịnh.
Bồ Tát khéo thấy biết như vậy rồi, bèn sinh khởi mười ngàn ức Đà la ni pháp quang minh, thành tựu mười ngàn ức hạnh thanh tịnh, đắc được mười ngàn ức các căn, viên mãn mười ngàn ức thần thông, vào được mười ngàn ức tam muội, thành tựu mười ngàn ức thần lực, trưởng dưỡng mười ngàn ức các lực, viên mãn mười ngàn ức thâm tâm, vận động mười ngàn ức lực trì, thị hiện mười ngàn ức thần biến, đầy đủ mười ngàn ức Bồ Tát vô ngại, viên mãn mười ngàn ức Bồ Tát trợ đạo, tích tập mười ngàn ức Bồ Tát tạng, chiếu rõ mười ngàn ức Bồ Tát phương tiện, diễn nói mười ngàn ức các nghĩa, thành tựu mười ngàn ức các nguyện, sinh ra mười ngàn ức hồi hướng, tịnh trị mười ngàn ức Bồ Tát chánh vị, thấu rõ mười ngàn ức pháp môn, khai thị mười ngàn ức diễn nói, tu trị mười ngàn ức Bồ Tát thanh tịnh.
Giảng: Bồ Tát khéo thấy biết như vậy rồi, bèn sinh khởi mười ngàn ức đà la ni pháp quang minh, thành tựu mười ngàn ức hạnh thanh tịnh, đắc được mười ngàn ức các căn, viên mãn mười ngàn ức thần thông, vào được mười ngàn ức tam muội, thành tựu mười ngàn ức thần lực, trưởng dưỡng mười ngàn ức các lực, viên mãn mười ngàn ức thâm tâm, vận động mười ngàn ức lực trì, thị hiện mười ngàn ức thần biến, đầy đủ mười ngàn ức cảnh giới Bồ Tát vô ngại, viên mãn mười ngàn ức Bồ Tát trợ đạo, tích tập mười ngàn ức Bồ Tát tạng, chiếu rõ mười ngàn ức Bồ Tát phương tiện, diễn nói mười ngàn ức các nghĩa, thành tựu mười ngàn ức các nguyện, sinh ra mười ngàn ức hồi hướng, tịnh trị mười ngàn ức Bồ Tát chánh vị, thấu rõ mười ngàn ức pháp môn, khai thị mười ngàn ức diễn nói, tu trị mười ngàn ức Bồ Tát thanh tịnh.
Phật tử! thử Bồ-Tát Ma-ha-tát phục hưũ vô số công đức, vô lượng công đức, vô biên công đức, vô đẳng công đức, bất khả số công đức, bất khả xưng công đức, bất khả tư công đức, bất khả lượng công đức, bất khả thuyết công đức, vô tận công đức.
Phật tử! thử Bồ Tát ư như thị công đức, giai dĩ biện cụ, giai dĩ tích tập, giai dĩ trang nghiêm, giai dĩ thanh tịnh, giai dĩ oánh triệt, giai dĩ nhiếp thọ, giai năng xuất sanh, giai khả xưng thán, giai đắc kiên cố, giai dĩ thành tựu.
Phật tử ! Đại Bồ Tát này, lại có vô số công đức, vô lượng công đức, vô biên công đức, vô đẳng công đức, bất khả số công đức, bất khả xưng công đức, bất khả tư công đức, bất khả lượng công đức, bất khả thuyết công đức, vô tận công đức.
Phật tử ! Bồ Tát này nơi công đức như vậy, đều đã làm đủ, đều đã tích tập, đều đã trang nghiêm, đều đã thanh tịnh, đều đã thấu triệt, đều đã nhiếp thọ, đều hay sinh ra, đều đáng khen ngợi, đều được kiên cố, đều đã thành tựu.
Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát lại thành tựu vô số, vô lượng, vô biên, vô đẳng, bất khả số, bất khả xưng, bất khả tư, bất khả lượng, vô cùng vô tận công đức như vậy,
Các vị Phật tử ! Vị Bồ Tát này đối với công đức như đã nói ở trên, đều đã viên mãn đầy đủ, đều đã tích tập thành tựu, đều đã trang nghiêm thanh tịnh, đều đã thấu triệt, đều đã nhiếp thọ chúng sinh, đều hay sinh ra Bát nhã, đều đáng tán thán khen ngợi, đều được kiên cố bất hoại, đều đã thành tựu đạo nghiệp.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát trụ thử tam muội, vi Đông phương thập thiên a-tăng-kì Phật sát vi trần số danh hiệu chư Phật chi sở nhiếp thọ, nhất nhất danh hiệu phục hưũ thập thiên a-tăng-kì Phật sát vi trần số Phật, các các sái biệt; như Đông phương, Nam, Tây, Bắc phương, tứ duy, thượng, hạ, diệc phục như thị.
Bỉ chư Phật tất hiện kỳ tiền, vi hiện chư Phật thanh tịnh sát, vi thuyết chư Phật vô lượng thân, vi thuyết chư Phật nan tư nhãn, vi thuyết chư Phật vô lượng nhĩ, vi thuyết chư Phật thanh tịnh tỳ, vi thuyết chư Phật thanh tịnh thiệt, vi thuyết chư Phật vô trụ tâm, vi thuyết Như Lai vô thượng thần thông,
Phật tử ! Đại Bồ Tát trụ tam muội này, được danh hiệu chư Phật phương đông, nhiều như số hạt bụi mười ngàn ức A tăng kỳ cõi Phật nhiếp thọ. Mỗi mỗi danh hiệu, lại có chư Phật nhiều như số hạt bụi mười ngàn ức A tăng kỳ cõi Phật, thảy đều khác biệt. Như phương đông, phương nam tây bắc bốn hướng trên dưới cũng lại như thế.
Chư Phật đó đều hiện ra ở trước mặt, vì hiện cõi nước chư Phật thanh tịnh, vì nói vô lượng thân của chư Phật, vì nói mắt khó nghĩ bàn của chư Phật, vì nói vô lượng tai của chư Phật, vì nói mũi thanh tịnh của chư Phật, vì nói lưỡi thanh tịnh của chư Phật, vì nói tâm vô trụ của chư Phật, vì nói thần thông vô thượng của Như Lai.
Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát trụ tam muội này, được danh hiệu chư Phật phương đông, nhiều như số hạt bụi mười ngàn ức A tăng kỳ cõi Phật nhiếp thọ. Ở trong mỗi danh hiệu, lại có Phật nhiều như số hạt bụi mười ngàn ức A tăng kỳ cõi Phật, mỗi vị Phật đều khác biệt. Như phương đông là như thế, phương nam, tây, bắc, bốn hướng trên dưới, cũng lại như thế.
Hết thảy chư Phật đó, thảy đều hiện ra ở trước mặt, vì hiện cõi Phật thanh tịnh của chư Phật, vì nói vô lượng thân của chư Phật, vì nói mắt khó nghĩ bàn của chư Phật, vì nói vô lượng tai của chư Phật, vì nói mũi thanh tịnh của chư Phật, vì nói lưỡi thanh tịnh của chư Phật, vì nói tâm vô trụ của chư Phật, vì nói thần thông vô thượng của Như Lai.
Lệnh tu Như Lai vô thượng Bồ-đề, Lệnh đắc Như Lai thanh tịnh âm thanh, khai thị Như Lai bất thoái Pháp luân, hiển thị Như Lai vô biên chúng hội, lệnh nhập Như Lai vô biên bí mật, tán thán Như Lai nhất thiết thiện căn, lệnh nhập Như Lai bình đẳng chi Pháp, tuyên thuyết Như Lai tam thế chủng tánh, thị hiện Như Lai vô lượng sắc tướng, xiển dương Như Lai hộ niệm chi Pháp, diễn sướng Như Lai vi diệu pháp âm, biện minh nhất thiết chư Phật thế giới, tuyên dương nhất thiết chư Phật tam muội, thị hiện chư Phật chúng hội thứ đệ, hộ trì chư Phật bất tư nghị Pháp, thuyết nhất thiết pháp do như huyễn hóa, minh chư pháp tánh vô hữu động chuyển, khai thị nhất thiết vô thượng pháp luân, tán mỹ Như Lai vô lượng công đức, lệnh nhập nhất thiết chư tam muội vân, lệnh tri kỳ tâm như huyễn như hóa, vô biên vô tận.
Khiến tu vô thượng bồ đề của Như Lai. Khiến được âm thanh thanh tịnh của Như Lai. Khai thị bánh xe pháp bất thối của Như Lai. Hiển bày vô biên chúng hội của Như Lai. Khiến vào vô biên bí mật của Như Lai. Tán thán tất cả căn lành của Như Lai. Khiến vào pháp bình đẳng của Như Lai. Tuyên nói giống tánh ba đời của Như Lai. Thị hiện vô lượng sắc tướng của Như Lai. Xiển dương pháp hộ niệm của Như Lai. Diễn xướng pháp âm vi diệu của Như Lai. Biện minh tất cả thế giới của chư Phật. Tuyên dương tất cả tam muội của chư Phật. Thị hiện chúng hội thứ tự của chư Phật. Hộ trì pháp không nghĩ bàn của chư Phật. Nói tất cả pháp giống như huyễn hoá. Thấu rõ tánh của các pháp không có động chuyển. Khai thị tất cả pháp luân vô thượng. Khen ngợi vô lượng công đức của Như Lai. Khiến vào tất cả các mây tam muội. Khiến biết tâm như huyễn, như hoá, vô biên, vô tận.
Giảng: Tại sao ở trước nói đủ thứ pháp ? Vì Phật khiến cho tất cả Bồ Tát tu hành vô thượng bồ đề của Như Lai. Khiến cho tất cả Bồ Tát đắc được âm thanh thanh tịnh của Như Lai. Khai thị bánh xe pháp bất thối của Như Lai. Hiển bày vô biên chúng hội của Như Lai. Khiến vào vô biên bí mật của Như Lai. Tán thán tất cả căn lành của Như Lai. Khiến vào pháp môn bình đẳng của Như Lai. Tuyên nói giống tánh ba đời của Như Lai. Thị hiện vô lượng sắc tướng của Như Lai. Xiển dương pháp môn hộ niệm của Như Lai. Diễn xướng pháp âm vi diệu của Như Lai. Biện minh tất cả thế giới của chư Phật. Tuyên dương tất cả tam muội của chư Phật. Thị hiện chúng hội thứ tự của chư Phật. Hộ trì pháp môn không nghĩ bàn của chư Phật. Nói tất cả pháp giống như huyễn hoá. Thấu rõ tự tánh của các pháp là tịch tĩnh, không có lúc nào động chuyển. Khai thị tất cả pháp luân vô thượng. Khen ngợi vô lượng công đức của Như Lai. Khiến vào tất cả các mây tam muội. Khiến biết tâm như huyễn như hoá, chẳng chân thật, là vô biên vô tận.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát trụ thử pháp giới tự tại tam muội thời, bỉ thập phương các thập thiên a-tăng-kì Phật sát vi trần số danh hiệu Như Lai, nhất nhất danh trung các hữu thập thiên a-tăng-kì Phật sát vi trần số Phật đồng thời hộ niệm, lệnh thử Bồ Tát đắc vô biên thân; lệnh thử Bồ Tát đắc vô ngại tâm; lệnh thử Bồ Tát ư nhất thiết Pháp đắc vô vong niệm; lệnh thử Bồ Tát ư nhất thiết Pháp đắc quyết định tuệ; lệnh thử Bồ Tát chuyển canh thông mẫn, ư nhất thiết Pháp giai năng lĩnh thọ; lệnh thử Bồ Tát ư nhất thiết Pháp tất năng minh liễu; lệnh thử Bồ Tát chư căn mãnh lợi, ư thần thông Pháp tất đắc thiện xảo; lệnh thử Bồ Tát cảnh giới vô ngại, châu hành Pháp giới hằng bất hưu tức; lệnh thử Bồ Tát đắc vô ngại trí, tất cánh thanh tịnh; lệnh thử Bồ Tát dĩ thần thông lực, nhất thiết thế giới thị hiện thành Phật.
Phật tử ! Khi đại Bồ Tát trụ tam muội Tự tại pháp giới này, mỗi phương trong mười phương, đều có danh hiệu Như Lai, nhiều như số hạt bụi mười ngàn A tăng kỳ cõi Phật. Trong mỗi danh hiệu, đều có Phật nhiều như số hạt bụi mười ngàn A tăng kỳ cõi Phật, đồng thời hộ niệm.
Khiến cho Bồ Tát này được vô biên thân. Khiến cho Bồ Tát này được tâm vô ngại. Khiến cho Bồ Tát này nơi tất cả pháp, hay nhớ không quên. Khiến cho Bồ Tát này nơi tất cả pháp, được huệ quyết định. Khiến cho Bồ Tát này càng thêm thông minh sáng suốt, nơi tất cả pháp, đều được lãnh thọ. Khiến cho Bồ Tát này nơi tất cả pháp, đều được sáng tỏ. Khiến cho Bồ Tát này các căn dũng mãnh lanh lợi, nơi pháp thần thông, đều được khéo léo. Khiến cho Bồ Tát này được cảnh giới vô ngại, đi khắp pháp giới, luôn không ngừng nghỉ. Khiến cho Bồ Tát này được trí vô ngại, rốt ráo thanh tịnh. Khiến cho Bồ Tát này dùng sức thần thông, tất cả thế giới thị hiện thành Phật.
Giảng: Các vị Phật tử ! Khi đại Bồ Tát trụ tam muội tự tại pháp giới này, mỗi phương trong mười phương thế giới, đều có danh hiệu Như Lai, nhiều như số hạt bụi mười ngàn A tăng kỳ cõi Phật. Trong mỗi danh hiệu, đều có Phật nhiều như số hạt bụi mười ngàn A tăng kỳ cõi Phật, đồng thời hộ niệm Bồ Tát trụ tam muội này.
Khiến cho vị Bồ Tát này được vô biên thân. Khiến cho vị Bồ Tát này được tâm vô ngại. Khiến cho vị Bồ Tát này nơi tất cả pháp, đắc được sức nhớ không quên. Do đó :
« Một khi lọt qua tai,
Vĩnh viễn là giống đạo ».
Khiến cho vị Bồ Tát này nơi tất cả pháp, đắc được huệ quyết định, vì có con mắt chọn pháp, cho nên có trí huệ quyết định. Khiến cho vị Bồ Tát này càng thêm thông minh sáng suốt, nơi tất cả pháp, đều được lãnh thọ. Khiến cho vị Bồ Tát này nơi tất cả pháp, hoàn toàn được minh bạch sáng tỏ. Khiến cho vị Bồ Tát này các căn dũng mãnh lanh lợi, nơi pháp thần thông tự tại, hoàn toàn đắc được phương tiện khéo léo. Khiến cho vị Bồ Tát này đắc được cảnh giới vô ngại, đi khắp pháp giới, luôn không ngừng nghỉ. Khiến cho vị Bồ Tát này được trí vô ngại, rốt ráo thanh tịnh. Khiến cho vị Bồ Tát này dùng sức thần thông, trong tất cả thế giới thị hiện thành Phật.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát trụ thử tam muội, đắc thập chủng hải. Hà giả vi thập? Sở vị: đắc chư Phật hải, hàm đổ kiến cố; đắc chúng sanh hải, tất điều phục cố; đắc chư pháp hải, năng dĩ trí tuệ tất liễu tri cố; đắc chư sát hải, dĩ Vô tánh vô tác thần thông giai vãng nghệ cố; đắc công đức hải, nhất thiết tu hành tất viên mãn cố; đắc thần thông hải, năng quảng thị hiện lệnh khai ngộ cố; đắc chư căn hải, chủng chủng bất đồng tất thiện tri cố; đắc chư tâm hải, tri nhất thiết chúng sanh chủng chủng sái biệt vô lượng tâm cố; đắc chư hạnh hải, năng dĩ nguyện lực tất viên mãn cố; đắc chư nguyện hải, tất sử thành tựu, vĩnh thanh tịnh cố.
Phật tử ! Đại Bồ Tát trụ tam muội này, được mười thứ biển. Những gì là mười ? Đó là : Được biển chư Phật, vì đều được thấy. Được biển chúng sinh, vì đều điều phục. Được biển các pháp, vì hay dùng trí huệ đều biết rõ. Được biển các cõi, vì dùng thần thông không tánh, không làm, đều đi đến. Được biển công đức, vì tất cả tu hành đều viên mãn. Được biển thần thông, vì hay rộng thị hiện khiến cho khai ngộ. Được biển các căn, vì đủ thứ khác nhau đều khéo biết. Được biển các tâm, vì biết tất cả chúng sinh đủ thứ khác biệt vô lượng tâm. Được biển các hạnh, vì hay dùng nguyện lực đều viên mãn. Được biển các nguyện, vì đều khiến cho thành tựu vĩnh viễn thanh tịnh.
Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát trụ tam muội này, đắc được lợi ích mười thứ biển sâu rộng. Những gì là mười ? Đó là :
1. Đắc được biển pháp tánh của tất cả chư Phật, vì đều thấy được tất cả chư Phật.
2. Đắc được biển tất cả chúng sinh, vì đều điều phục được chúng sinh cang cường.
3. Đắc được biển tất cả các pháp, vì hay dùng Nhất thiết trí huệ, hoàn toàn biết rõ.
4. Đắc được biển tất cả các cõi, vì dùng thần thông không tánh không làm, đều đi đến cõi nước chư Phật.
5. Đắc được biển tất cả công đức, vì tất cả tu hành đều viên mãn.
6. Đắc được biển tất cả thần thông, vì hay rộng thị hiện rộng lớn khiến cho khai ngộ.
7. Đắc được biển tất cả các căn, vì biết các căn của tất cả chúng sinh, có đủ thứ khác nhau.
8. Đắc được biển tất cả các tâm, vì biết tâm của tất cả chúng sinh, có đủ thứ khác biệt vô lượng.
9. Đắc được biển tất cả các hạnh, vì hay dùng nguyện lực đều viên mãn hạnh môn.
10. Đắc được biển tất cả các nguyện, vì đều khiến cho thành tựu đạo quả, vĩnh viễn thanh tịnh.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát đắc như thị thập chủng hải dĩ, phục đắc thập chủng thù thắng. Hà đẳng vi thập? nhất giả ư nhất thiết chúng sanh trung tối vi đệ nhất, nhị giả ư nhất thiết chư Thiên trung tối vi Thù đặc, tam giả ư nhất thiết Phạm Vương trung tối cực tự tại, tứ giả ư chư thế gian vô sở nhiễm trước, ngũ giả nhất thiết thế gian vô năng ánh tế, lục giả nhất thiết chư ma bất năng hoặc loạn, thất giả phổ nhập chư thú vô sở quái ngại, bát giả xứ xứ thọ sanh tri bất kiên cố, cửu giả nhất thiết Phật Pháp giai đắc tự tại, thập giả nhất thiết thần thông tất năng thị hiện.
Phật tử ! Đại Bồ Tát được mười thứ biển như vậy rồi, lại được mười thứ thù thắng. Những gì là mười ?
Đó là : Một là đệ nhất ở trong tất cả chúng sinh. Hai là thù đặc nhất ở trong tất cả chư Thiên. Ba là tự tại nhất ở trong tất cả Phạm Vương. Bốn là không nhiễm trước nơi các thế gian. Năm là tất cả thế gian không che khuất được. Sáu là tất cả các ma không mê hoặc loạn được. Bảy là vào khắp các cõi, không có quái ngại. Tám là nơi nơi thọ sinh, biết không vững bền. Chín là tất cả Phật pháp đều được tự tại. Mười là tất cả thần thông đều thị hiện được.
Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát đắc được lợi ích mười thứ biển sâu rộng như vậy rồi, lại được mười thứ lợi ích thù thắng siêu tuyệt. Những gì là mười ? Đó là :
1. Bồ Tát ở trong tất cả chúng sinh là đệ nhất không có ai bằng.
2. Bồ Tát thù thắng nhất lại đặc biệt ở trong tất cả chư Thiên.
3. Bồ Tát tự tại nhất ở trong tất cả Phạm Vương.
4. Bồ Tát không nhiễm ô, cũng không chấp trước trong tất cả thế gian.
5. Quang minh của tất cả thế gian không cách chi che khuất được quang minh của Bồ Tát.
6. Tất cả các ma không mê hoặc nhiễu loạn được tâm thanh tịnh của Bồ Tát.
7. Tuy Bồ Tát vì độ sinh, mà vào khắp các cõi thọ sinh, nhưng không có sự quái ngại.
8. Khi Bồ Tát nơi nơi thọ sinh, biết tất cả đều không vững bền, nên không tham luyến.
9. Bồ Tát đối với tất cả Phật pháp, đều được nhậm vận tự tại.
10. Bồ Tát đắc được tất cả thần thông, đều có thể thị hiện trước tất cả chúng sinh.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát đắc như thị thập chủng thù thắng dĩ, phục đắc thập chủng lực, ư chúng sanh giới tu tập chư hạnh. Hà đẳng vi thập? nhất vị dũng kiện lực, điều phục thế gian cố; nhị vị tinh tấn lực, hằng Bất-thoái-chuyển cố, tam vị Vô Trước lực, Ly chư cấu nhiễm cố; tứ vị tịch tĩnh lực, ư nhất thiết Pháp vô tránh luận cố; ngũ vị nghịch thuận lực, ư nhất thiết Pháp tâm tự tại cố; lục vị Pháp tánh lực, ư chư nghĩa trung đắc tự tại cố; thất vị vô ngại lực, trí tuệ quảng đại cố; bát vị vô úy lực, năng thuyết chư Pháp cố; cửu vị biện tài lực, năng trì chư Pháp cố; thập vị khai thị lực, trí tuệ vô biên cố.
Phật tử ! Đại Bồ Tát được mười thứ thù thắng như vậy rồi, lại được mười thứ lực. Nơi cõi chúng sinh, tu tập các hạnh. Những gì là mười ?
Một là lực dũng kiện, vì điều phục thế gian. Hai là lực tinh tấn, vì luôn không thối chuyển. Ba là lực không chấp trước, vì lìa các cấu nhiễm. Bốn là lực tịch tĩnh, vì nơi tất cả pháp không tranh luận. Năm là lực nghịch thuận, vì nơi tất cả pháp tâm tự tại. Sáu là lực pháp tánh, vì trong các nghĩa được tự tại. Bảy là lực vô ngại, vì trí huệ rộng lớn. Tám là lực vô uý, vì hay nói các pháp. Chín là lực biện tài, vì hay trì các pháp. Mười là lực khai thị, vì trí huệ vô biên.
Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát đắc được mười thứ thù thắng siêu tuyệt như vậy rồi, lại đắc được mười thứ sức lực không thể nghĩ bàn. Ở trong cõi chúng sinh, tu tập tất cả các hạnh, đến được bất thối chuyển. Những gì là mười ?
1. Lực dũng kiện : Vì hay điều phục chúng sinh thế gian cang cường.
2. Lực tinh tấn : Vì ngày đêm tinh tấn, luôn không thối chuyển.
3. Lực không chấp trước : Vì hay lìa khỏi tất cả ô uế, mà không nhiễm trước.
4. Lực tịch tĩnh : Vì thường ở trong định, đối với tất cả các pháp, không sinh hoài nghi, không khởi tranh luận.
5. Lực nghịch thuận : Vì bất cứ nghịch cảnh, hoặc thuận cảnh, đối với tất cả pháp trong tâm tự tại.
6. Lực pháp tánh : Vì ở trong tất cả nghĩa lý, nhậm vận tự tại, cho nên không có chướng ngại.
7. Lực vô ngại : Vì trí huệ rộng lớn, cho nên viên dung vô ngại.
8. Lực vô uý : Vì khéo thuyết pháp, cho nên không có sợ hãi.
9. Lực biện tài : Vì thọ trì tất cả các pháp, cho nên có đại biện tài.
10. Lực khai thị. Vì trí huệ vô biên, cho nên giáo hoá chúng sinh phát tâm bồ đề, học vô thượng đạo.
Phật tử! thử thập chủng lực thị quảng đại lực, tối thắng lực, vô năng tồi phục lực, vô lượng lực, thiện tập lực, bất động lực, kiên cố lực, trí tuệ lực, thành tựu lực, thắng định lực, thanh tịnh lực, cực thanh tịnh lực, Pháp thân lực, pháp quang minh lực, pháp đăng lực, Pháp môn lực, vô năng hoại lực, cực dũng mãnh lực, đại trượng phu lực, thiện trượng phu tu tập lực, thành chánh giác lực, quá khứ tích tập thiện căn lực, an trụ vô lượng thiện căn lực, trụ Như Lai lực lực, tâm tư tánh lực, tăng trưởng Bồ Tát hoan hỉ lực, xuất sanh Bồ Tát tịnh tín lực, tăng trưởng Bồ Tát dũng mãnh lực, Bồ-đề tâm sở sanh lực, Bồ Tát thanh tịnh thâm tâm lực, bồ tát thù thắng thâm tâm lực, Bồ Tát thiện căn huân tập lực, cứu cánh chư Pháp lực, vô chướng ngại thân lực, nhập phương tiện thiện xảo Pháp môn lực, thanh tịnh diệu pháp lực, an trụ đại thế nhất thiết thế gian bất năng khuynh động lực, nhất thiết chúng sanh vô năng ánh tế lực.
Phật tử ! Mười thứ lực này, là lực rộng lớn, lực tối thắng, lực không thể hàng phục, lực vô lượng, lực khéo tập, lực bất động, lực kiên cố, lực trí huệ, lực thành tựu, lực thắng định, lực thanh tịnh, lực rất thanh tịnh, lực pháp thân, lực pháp quang minh, lực pháp đăng, lực pháp môn, lực không thể hoại, lực rất dũng mãnh, lực đại trượng phu, lực trượng phu khéo tu tập, lực thành Chánh Giác, lực quá khứ tích tập căn lành, lực an trụ vô lượng căn lành, lực trụ Như Lai lực, lực tâm tư duy, lực tăng trưởng Bồ Tát hoan hỉ, lực sinh ra Bồ Tát tịnh tín, lực tăng trưởng Bồ Tát dũng mãnh, lực bồ đề tâm sinh ra, lực Bồ Tát thanh tịnh thâm tâm, lực Bồ Tát thù thắng thâm tâm, lực huân tập căn lành của Bồ Tát, lực các pháp rốt ráo, lực thân không chướng ngại, lực vào pháp môn phương tiện khéo léo, lực diệu pháp thanh tịnh, lực an trụ đại thế tất cả thế gian không thể khuynh động, lực tất cả chúng sinh không thể che lấp.
Giảng: Các vị Phật tử ! Mười thứ lực này, lại đầy đủ ba mươi tám thứ lực. Tức là :
1. Lực rộng lớn.
2. Lực tối thắng.
3. Lực không thể hàng phục.
4. Lực vô lượng.
5. Lực khéo tập.
6. Lực bất động.
7. Lực kiên cố.
8. Lực trí huệ.
9. Lực thành tựu.
10. Lực thắng định.
11. Lực thanh tịnh.
12. Lực rất thanh tịnh.
13. Lực pháp thân.
14. Lực pháp quang minh.
15. Lực pháp đăng.
16. Lực pháp môn.
17. Lực không thể hoại.
18. Lực rất dũng mãnh.
19. Lực đại trượng phu.
20. Lực trượng phu khéo tu tập.
21. Lực thành Chánh Giác.
22. Lực quá khứ tích tập căn lành.
23. Lực an trụ vô lượng căn lành.
24. Lực trụ Như Lai lực.
25. Lực tâm tư duy.
26. Lực tăng trưởng Bồ Tát hoan hỉ.
27. Lực sinh ra Bồ Tát tịnh tín.
28. Lực tăng trưởng Bồ Tát dũng mãnh.
29. Lực bồ đề tâm sinh ra.
30. Lực Bồ Tát thanh tịnh thâm tâm.
31. Lực Bồ Tát thù thắng thâm tâm.
32. Lực huân tập căn lành của Bồ Tát.
33. Lực các pháp rốt ráo.
34. Lực thân không chướng ngại.
35. Lực vào pháp môn phương tiện khéo léo.
36. Lực diệu pháp thanh tịnh.
37. Lực an trụ đại thế tất cả thế gian không thể khuynh động.
38. Lực tất cả chúng sinh không thể che lấp.
Phật tử! thử Bồ-Tát Ma-ha-tát ư như thị vô lượng công đức Pháp, năng sanh, năng thành tựu, năng viên mãn, năng chiếu minh, năng cụ túc, năng biến cụ túc, năng quảng đại, năng kiên cố, năng tăng trưởng, năng tịnh trì, năng Biến tịnh trì.
Phật tử ! Đại Bồ Tát này nơi pháp vô lượng công đức như vậy, hay sinh, hay thành tựu, hay viên mãn, hay chiếu sáng, hay đầy đủ, hay đầy đủ khắp, hay rộng lớn, hay kiên cố, hay tăng trưởng, hay tịnh trị, hay tịnh trị khắp.
Giảng: Các vị Phật tử ! Vị đại Bồ Tát này, đối với pháp vô lượng công đức như đã nói ở trước, hay sinh ra công đức này, hay thành tựu công đức này, hay viên mãn công đức này, hay chiếu sáng công đức này, hay đầy đủ công đức này, hay đầy đủ khắp công đức này, hay rộng lớn công đức này, hay kiên cố công đức này, hay tăng trưởng công đức này, hay tịnh trị công đức này, hay tịnh trị khắp công đức này.
Thử Bồ Tát công đức biên tế, trí tuệ biên tế, tu hành biên tế, Pháp môn biên tế, tự tại biên tế, khổ hạnh biên tế, thành tựu biên tế, thanh tịnh biên tế, xuất ly biên tế, pháp tự tại biên tế, vô năng thuyết giả.
Thử Bồ Tát sở hoạch đắc, sở thành tựu, sở thú nhập, sở hiện tiền, sở hữu cảnh giới, sở hữu quan sát, sở hữu chứng nhập, sở hữu thanh tịnh, sở hữu liễu tri, sở hữu kiến lập nhất thiết pháp môn, ư bất khả thuyết kiếp vô năng thuyết tận.
Bờ mé công đức, bờ mé trí huệ, bờ mé tu hành, bờ mé pháp môn, bờ mé tự tại, bờ mé khổ hạnh, bờ mé thành tựu, bờ mé thanh tịnh, bờ mé xuất ly, bờ mé pháp tự tại của Bồ Tát này, không ai có thể nói được.
Bồ Tát này, sự đắc được, sự thành tựu, sự thú nhập, sự hiện tiền, hết thảy cảnh giới, hết thảy quán sát, hết thảy chứng nhập, hết thảy thanh tịnh, hết thảy sự biết rõ, hết thảy kiến lập, tất cả pháp môn. Trong bất khả thuyết kiếp, không thể nói hết được.
Giảng: Vị đại Bồ Tát này, tất cả bờ mé của Ngài không cách chi biết được. Bờ mé công đức, bờ mé trí huệ, bờ mé tu hành, bờ mé pháp môn, bờ mé tự tại, bờ mé khổ hạnh, bờ mé thành tựu, bờ mé thanh tịnh, bờ mé xuất ly, bờ mé pháp tự tại. Mười thứ bờ mé này chẳng cách chi nói ra được.
Vị Bồ Tát này, Ngài có công đức không thể nghĩ bàn. Sự đắc được, sự thành tựu, sự thú nhập, sự hiện tiền, hết thảy cảnh giới, hết thảy quán sát, hết thảy chứng nhập, hết thảy thanh tịnh, hết thảy sự biết rõ, hết thảy kiến lập, tất cả pháp môn. Trong bất khả thuyết đại kiếp, cũng không cách chi có thể nói hết được.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát trụ thử tam muội, năng liễu tri vô số, vô lượng, vô biên, vô đẳng, bất khả số, bất khả xưng, bất khả tư, bất khả lượng, bất khả thuyết, bất khả thuyết bất khả thuyết nhất thiết tam muội. Bỉ nhất nhất tam muội, sở hữu cảnh giới vô lượng quảng đại, ư cảnh giới trung nhược nhập, nhược khởi, nhược trụ, sở hữu tướng trạng, sở hữu thị hiện, sở hữu hành xử, sở hữu đẳng lưu, sở hữu tự tánh, sở hữu trừ diệt, sở hữu xuất ly, như thị nhất thiết mị bất minh kiến.
Phật tử ! Đại Bồ Tát trụ tam muội này, biết rõ vô số, vô lượng, vô biên, vô đẳng, bất khả số, bất khả xưng, bất khả tư, bất khả lượng, bất khả thuyết, bất khả thuyết bất khả thuyết tất cả tam muội.
Hết thảy cảnh giới của mỗi tam muội đó, rộng lớn vô lượng. Ở trong cảnh giới, hoặc nhập, hoặc khởi, hoặc trụ, hết thảy tướng trạng, hết thảy thị hiện, hết thảy hành xứ, hết thảy đẳng lưu, hết thảy tự tại, hết thảy trừ diệt, hết thảy xuất ly, tất cả như vậy, thảy đều thấy rõ.
Giảng: Các vị Phật tử ! Khi đại Bồ Tát trụ tam muội này, biết rõ vô số tam muội, vô lượng tam muội, vô biên tam muội, vô đẳng tam muội, bất khả số tam muội, bất khả xưng tam muội, bất khả tư tam muội, bất khả lượng tam muội, bất khả thuyết tam muội, bất khả thuyết bất khả thuyết tất cả tam muội.
Ở trong những tam muội đó, mỗi một thứ tam muội, hết thảy cảnh giới, rộng lớn vô lượng. Ở trong cảnh giới, hoặc nhập định, hoặc xuất định, hoặc trụ định, hết thảy tướng trạng, hết thảy thị hiện, hết thảy hành xứ, hết thảy đẳng lưu, hết thảy tự tại, hết thảy trừ diệt, hết thảy xuất ly, tất cả tất cả như vậy chẳng có gì mà không biết, chẳng có gì mà không thấy được.
Phật tử! thí như vô nhiệt não Đại long vương cung lưu xuất tứ hà, vô trược vô tạp, vô hữu cấu uế, quang sắc thanh tịnh do như hư không. kỳ trì tứ diện các hữu nhất khẩu, nhất nhất khẩu trung lưu xuất nhất hà, ư tượng khẩu trung xuất Hằng già hà, sư tử khẩu trung xuất tư đà hà, ư ngưu khẩu trung xuất tín độ hà, ư mã khẩu trung xuất phược sô hà.
Kỳ tứ đại hà lưu xuất chi thời, Hằng già hà khẩu lưu xuất ngân sa, tư đà hà khẩu lưu xuất Kim cương sa, tín độ hà khẩu lưu xuất kim sa, phược sô hà khẩu lưu xuất lưu ly sa; Hằng già hà khẩu tác bạch ngân sắc, tư đà hà khẩu tác Kim cương sắc, tín độ hà khẩu tác hoàng kim sắc, phược sô hà khẩu tác lưu ly sắc, nhất nhất hà khẩu quảng nhất do-tuần.
Kỳ tứ đại hà ký lưu xuất dĩ, các cộng vi nhiễu Đại trì thất tạp, tùy kỳ phương diện tứ hướng phần lưu, hồng dũng bôn trì nhập ư đại hải.
Phật tử ! Ví như cung của Vô Nhiệt Não Đại Long Vương, nơi ao A Nậu Đạt chảy ra bốn con sông lớn. Không đục, không tạp, chẳng có dơ bẩn. Quang sắc thanh tịnh, giống như hư không.
Bốn mặt ao đó, đều có một cửa sông, chảy ra một con sông. Nơi cửa Tượng Khẩu, chảy ra sông Hằng Già. Nơi cửa Sư Tử khẩu, chảy ra sông Tư Đà. Nơi cửa Ngưu Khẩu, chảy ra sông Tín Độ. Nơi cửa Mã Khẩu, chảy ra sông Phược Sô.
Bốn ao lớn đó, khi chảy ra, thì cửa sông Hằng Già chảy ra cát bạc. Cửa sông Tư Đà chảy ra cát kim cương. Cửa sông Tín Độ chảy ra cát vàng. Cửa sông Phược Sô chảy ra cát lưu ly. Cửa sông Hằng Già màu bạc trắng. Cửa sông Tư Đà màu kim cương. Cửa sông Tín Độ màu vàng thật. Cửa sông Phược Sô màu lưu ly.
Mỗi cửa sông rộng một do tuần. Nước bốn con sông lớn đó, đều chảy quanh ao A Nậu Đạt bảy vòng, rồi theo phương diện mà chảy ra bốn hướng, nổi sóng cuồn cuộn rồi chảy vào biển.
Giảng: Các vị Phật tử ! Ví như cung của Vô Nhiệt Não Đại Long Vương, ở trên đỉnh Tuyết Sơn. Có một cái ao lớn, tên là ao A Nậu Đạt, dịch là “Vô nhiệt”. Ao đó chu vi năm mươi do tuần, hình vuông. Có một vị đại Bồ Tát hành Bồ Tát đạo, dùng nguyện lực hoá làm Long Vương, tên gọi là A Na Bà Đạt Đa, sống ở trong đó.
Bốn phía chảy ra bốn con sông lớn, để cung ứng cho chúng sinh ở Nam Thiệm Bộ Châu sử dụng. Nước đó trong trẻo không đục không tạp, chẳng có dơ bẩn. Ánh sáng và màu sắc của nước rất thanh tịnh, giống như hư không.
Bốn mặt ao Vô Nhiệt đó, đều có một cửa sông, chảy ra một con sông. Hướng đông của ao đó, cửa Tượng Khẩu màu bạc trắng, nước chảy ra thành sông Hằng Già. Hướng bắc của ao đó, cửa Sư Tử khẩu màu kim cương, nước chảy ra thành sông Tư Đà. Hướng nam của ao đó, cửa Ngưu Khẩu màu vàng thật, nước chảy ra thành sông Tín Độ. Hướng tây của ao đó, cửa Mã Khẩu màu lưu ly, nước chảy ra thành sông Phược Sô.
Bốn ao lớn đó, khi chảy ra, thì cửa sông Hằng Già chảy ra cát bạc. Cửa sông Tư Đà chảy ra cát kim cương. Cửa sông Tín Độ chảy ra cát vàng. Cửa sông Phược Sô chảy ra cát lưu ly.
Cửa sông Hằng Già màu bạc trắng. Cửa sông Tư Đà màu kim cương. Cửa sông Tín Độ màu vàng thật. Cửa sông Phược Sô màu lưu ly. Mỗi cửa sông rộng một do tuần. Nước bốn con sông lớn đó, đều chảy quanh ao A Nậu Đạt bảy vòng, rồi sau đó theo phương diện mà chảy ra bốn hướng đông tây nam bắc, thế nước rất mạnh nổi sóng cuồn cuộn, rồi chảy vào biển.
Kỳ hà toàn nhiễu, nhất nhất chi gian hữu Thiên bảo sở thành ưu-bát-la hoa, ba-đầu-ma hoa, câu vật đầu hoa, phân đà lợi hoa, kì hương phát việt, diệu sắc thanh tịnh; chủng chủng hoa diệp, chủng chủng đài nhị, tất thị chúng bảo, tự nhiên ánh triệt, hàm phóng quang minh, hỗ tương chiếu hiện.
Kỳ vô nhiệt trì châu vi quảng đại ngũ thập do-tuần, chúng bảo diệu sa biến bố kỳ để, chủng chủng ma-ni dĩ vi nghiêm sức, vô lượng diệu bảo trang nghiêm kỳ ngạn, chiên đàn diệu hương phổ tán kỳ trung, ưu-bát-la hoa, ba-đầu-ma hoa, câu vật đầu hoa, phân đà lợi hoa cập dư bảo hoa giai tất biến mãn, vi phong xuy động, hương khí viễn triệt, hoa lâm bảo thụ châu táp vi nhiễu. Nhật quang xuất thời, phổ giai chiếu minh trì hà nội ngoại nhất thiết chúng vật, tiếp ảnh liên huy thành quang minh võng. Như thị chúng vật, nhược viễn, nhược cận, nhược cao, nhược hạ, nhược quảng, nhược hiệp, nhược thô, nhược tế, nãi chí cực tiểu nhất sa nhất trần, tất thị diệu bảo, quang minh giám triệt, mị bất ư trung nhật luân ảnh hiện, diệc phục triển chuyển cánh tướng hiện ảnh; như thị chúng ảnh bất tăng bất giảm, phi hợp phi tán, giai như bản chất nhi đắc minh kiến
Ở giữa bốn con sông đó, đều có báu trời làm thành hoa Ưu bát la, hoa Ba đầu ma, hoa Câu vật đầu, hoa Phân đà lợi. Những hoa đó toả ra hương thơm ngào ngạt kỳ lạ, sắc đẹp thanh tịnh. Đủ thứ lá hoa, đủ thứ đài nhuỵ, đều bằng các báu, tự nhiên chiếu rực rỡ, đều thành quang minh, chiếu hiện với nhau.
Ao Vô Nhiệt đó, chu vi rộng lớn năm mươi do tuần. Cát bằng các thứ báu đẹp, rải khắp dưới đáy ao, có đủ thứ ma ni dùng để nghiêm sức. Vô lượng báu đẹp trang nghiêm bờ ao.
Hương thơm chiên đàn toả khắp trong ao. Hoa Ưu bát la, hoa Ba đầu ma, hoa Câu vật đầu, hoa Phân đà lợi, và các hoa báu khác, đều đầy khắp. Gió nhẹ thổi động, hương thơm toả xa. Rừng hoa cây báu bày khắp chung quanh ao.
Khi mặt trời mọc lên, ánh sáng chiếu khắp, trong ngoài sông ao, tất cả các vật, chiếu sáng lẫn nhau, thành lưới quang minh. Các vật như vậy, hoặc xa, hoặc gần, hoặc cao, hoặc thấp, hoặc rộng, hoặc hẹp, hoặc thô, hoặc tế, cho đến rất nhỏ như hạt cát, hạt bụi, đều là báu đẹp, quang minh chiếu sáng.
Tất cả các vật đều hiện bóng mặt trời, các vật đó cũng chuyển động hiện bóng lẫn nhau. Các bóng như vậy, chẳng tăng, chẳng giảm, chẳng hợp, chẳng tan, đều như bản chất mà được thấy rõ.
Giảng: Bốn con sông lớn đó, đều vòng về bên phải, ở giữa mỗi con sông đó, đều có báu trờilàm thành hoa Ưu bát la (hoa sen xanh), hoa Ba đầu ma (hoa sen đỏ), hoa Câu vật đầu (hoa sen vàng), hoa Phân đà lợi (hoa sen trắng). Những hoa sen đó toả ra hương thơm ngào ngạt kỳ lạ, không thể sánh bằng, màu sắc của hoa rất đẹp thanh tịnh. Đủ thứ lá hoa, đủ thứ đài nhuỵ, đều bằng các thứ báu. Có lá bằng vàng thật, hoa bằng bạc trắng, rất là tươi tốt.
Ở giữa hoa tự nhiên chiếu rực rỡ, ở giữa lá tự nhiên chiếu hiện, phóng quang minh với nhau, chiếu sáng với nhau. Năm quang mười sắc, sáng lạn chói mắt. Cảnh đó dị thường, khó mà nhìn thấy được.
Ao Vô Nhiệt đó, đặc biệt rộng lớn, chu vi năm mươi do tuần. Cát bằng các thứ báu đẹp, rải đầy khắp dưới đáy ao, có đủ thứ ma ni báu dùng để nghiêm sức ao. Dùng vô lượng báu đẹp để trang nghiêm bờ ao. Dùng hương thơm chiên đàn toả khắp trong ao. Trong ao có hoa Ưu bát la, hoa Ba đầu ma, hoa Câu vật đầu, hoa Phân đà lợi, và các hoa báu khác, đều đầy khắp. Khi gió nhẹ thổi động, hương thơm toả xa mấy do tuần.
Bốn bên ao lại có rừng hoa cây báu bày khắp chung quanh ao, rất là trang nghiêm. Khi mặt trời mọc lên, ánh sáng chiếu khắp trong ngoài sông ao, tất cả các vật, tiếp bóng lẫn nhau, chiếu sáng lẫn nhau, tạo thành lưới quang minh. Các vật như vậy, hoặc xa hoặc gần, hoặc cao hoặc thấp, hoặc rộng hoặc hẹp, hoặc thô hoặc tế, cho đến vật rất nhỏ như hạt cát hạt bụi, đều là báu đẹp, quang minh chiếu sáng.
Tất cả các vật đều hiện bóng mặt trời, các vật đó cũng chuyển động hiện bóng lẫn nhau. Do đó : “Bóng bóng chiếu nhau, bóng bóng tiếp nhau”. Các bóng như vậy, chẳng tăng, cũng chẳng giảm, cũng chẳng hợp, cũng chẳng tan, đều là chất vốn có, ánh sáng vốn có, mà được thấy rõ.
Phật tử! như vô nhiệt Đại trì, ư tứ khẩu trung lưu xuất tứ hà nhập ư đại hải; Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, tùng tứ biện tài, lưu xuất chư hạnh, cứu cánh nhập ư nhất thiết trí hải.
Phật tử ! Như ao Vô Nhiệt, nơi bốn cửa, chảy ra bốn con sông, rồi nhập vào biển. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, từ bốn biện tài, chảy ra các hạnh, rốt ráo nhập vào biển Nhất thiết trí.
Giảng: Các vị Phật tử ! Như ao Vô Nhiệt, nơi bốn cửa, chảy ra bốn con sông, rồi nhập vào biển. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, từ bốn biện tài, chảy ra các hạnh, rốt ráo nhập vào biển Nhất thiết trí.
Như hằng già đại hà, tùng ngân sắc tượng khẩu lưu xuất ngân sa. Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, dĩ nghĩa biện tài, thuyết nhất thiết Như Lai sở thuyết nhất thiết nghĩa môn, xuất sanh nhất thiết thanh tịnh bạch pháp, cứu cánh nhập ư vô ngại trí hải. Như tư đà đại hà, tùng Kim cương sắc sư tử khẩu lưu xuất Kim cương sa
Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, dĩ pháp biện tài, vi nhất thiết chúng sanh thuyết Phật Kim cương cú, dẫn xuất Kim Cương trí, cứu cánh nhập ư vô ngại trí hải. Như tín độ đại hà, tùng kim sắc ngưu khẩu lưu xuất kim sa
Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, dĩ huấn từ biện, thuyết tùy thuận thế gian duyên khởi phương tiện, khai ngộ chúng sanh, lệnh giai hoan hỉ, điều phục thành thục, cứu cánh nhập ư duyên khởi phương tiện hải. Như phược sô đại hà, ư lưu ly sắc mã khẩu lưu xuất lưu ly sa
Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, dĩ vô tận biện, vũ bách thiên ức na-do-tha bất khả thuyết Pháp, lệnh kỳ văn giả giai đắc nhuận hiệp, cứu cánh nhập ư chư Phật Pháp hải.
Như sông lớn Hằng Già, từ cửa tượng khẩu màu bạc, chảy ra cát bạc. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, dùng nghĩa biện tài, nói tất cả nghĩa môn mà tất cả Như Lai nói. Sinh ra tất cả pháp trắng thanh tịnh, rốt ráo nhập vào biển trí vô ngại.
Như sông lớn Tư Đà, từ cửa khẩu sư tử màu kim cương, chảy ra cát kim cương. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, dùng pháp biện tài, vì tất cả chúng sinh nói câu kim cang của Phật, dẫn đến kim cang trí, rốt ráo nhập vào biển trí vô ngại.
Như sông lớn Tín Độ, từ cửa ngưu khẩu màu vàng, chảy ra cát vàng. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, dùng huấn từ biện thuyết, tuỳ thuận phương tiện duyên khởi thế gian, khai ngộ chúng sinh, khiến cho họ đều hoan hỉ, điều phục thành thục, rốt ráo nhập vào biển phương tiện duyên khởi.
Như sông lớn Phược sô, từ cửa mã khẩu màu lưu ly, chảy ra cát lưu ly. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, dùng vô tận biện, mưa pháp hàng trăm ngàn ức Na do tha bất khả thuyết, khiến cho người nghe, đều được thấm nhuần, rốt ráo nhập vào biển Phật pháp.
Giảng: Như sông lớn Hằng Già, từ cửa tượng khẩu màu bạc, chảy ra cát bạc. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, dùng nghĩa vô ngại biện tài, nói tất cả nghĩa lý pháp môn mà tất cả Như Lai nói. Sinh ra tất cả pháp trắng thanh tịnh, rốt ráo nhập vào biển trí huệ vô ngại.
Như sông lớn Tư Đà, từ cửa khẩu sư tử màu kim cương, chảy ra cát kim cương. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, dùng pháp vô ngại biện tài, vì tất cả chúng sinh nói câu kim cang của Phật, dẫn đến kim cang trí trong tự tánh, rốt ráo nhập vào biển trí huệ vô ngại.
Như sông lớn Tín Độ, từ cửa ngưu khẩu màu vàng, chảy ra cát vàng. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, dùng từ vô ngại biện tài, tuỳ thuận phương tiện duyên khởi thế gian, để khai ngộ chúng sinh, khiến cho họ đều đại hoan hỉ, điều phục tất cả chúng sinh, thành thục tất cả chúng sinh, rốt ráo nhập vào biển phương tiện duyên khởi.
Như sông lớn Phược sô, từ cửa mã khẩu màu lưu ly, chảy ra cát lưu ly. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, dùng nhạo thuyết vô ngại biện tài, nói trăm ngàn ức na do tha bất khả thuyết pháp môn, khiến cho người nghe, đều được thấm nhuần pháp vũ, rốt ráo nhập vào biển pháp của chư Phật.
Như tứ đại hà, tùy thuận vi nhiễu vô nhiệt trì dĩ tứ phương nhập hải. Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, thành tựu tùy thuận thân nghiệp, tùy thuận ngữ nghiệp, tùy thuận ý nghiệp, thành tựu trí vi tiền đạo thân nghiệp, trí vi tiền đạo ngữ nghiệp, trí vi tiền đạo ý nghiệp, tứ phương lưu chú, cứu cánh nhập ư nhất thiết trí hải.
Phật tử! hà giả danh vi Bồ Tát tứ phương?
Phật tử! sở vị: kiến nhất thiết Phật nhi đắc khai ngộ, văn nhất thiết pháp thọ trì bất vong, viên mãn nhất thiết Ba-la-mật hạnh, đại bi thuyết Pháp mãn túc chúng sanh.
Như bốn con sông lớn, tuỳ thuận bao quanh ao Vô Nhiệt rồi, từ bốn phương chảy vào biển. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, thành tựu tuỳ thuận thân nghiệp, tuỳ thuận lời nghiệp, tuỳ thuận ý nghiệp. Thành tựu trí làm tiền đạo thân nghiệp, trí làm tiền đạo lời nghiệp, trí làm tiền đạo ý nghiệp. Bốn phương chảy ra, rốt ráo nhập vào biển Nhất thiết trí.
Phật tử ! Thế nào gọi là bốn phương của Bồ Tát ?
Phật tử ! Đó là thấy tất cả chư Phật mà được khai ngộ. Nghe tất cả pháp thọ trì không quên. Viên mãn tất cả hạnh Ba la mật. Đại bi thuyết pháp, đầy đủ chúng sinh.
Giảng: Như bốn con sông lớn, tuỳ thuận phương hướng bao quanh ao lớn Vô Nhiệt rồi, từ bốn phương chảy nhập vào biển. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, thành tựu tuỳ thuận thân nghiệp, lời nghiệp, ý nghiệp. Thành tựu trí làm tiền đạo thân nghiệp, lời nghiệp, ý nghiệp. Từ bốn phương chảy ra, cuối cùng chảy vào biển Nhất thiết trí.
Các vị Phật tử ! Thế nào gọi là bốn phương của Bồ Tát ?
Các vị Phật tử ! Hãy chú ý lắng nghe, đó là :
1. Bồ Tát thấy được tất cả chư Phật, mà được khai ngộ, minh bạch bản lai diện mục (bộ mặt thật xưa nay).
2. Bồ Tát nghe được tất cả pháp, vì văn, tư, tu, ba huệ viên mãn, cho nên thọ trì không quên.
3. Bồ Tát viên mãn được tất cả hạnh Ba la mật.
4. Bồ Tát dùng đại bi tâm để thuyết pháp, đầy đủ dục vọng của tất cả chúng sinh.
Như tứ đại hà vi nhiễu Đại trì, ư kỳ trung gian, ưu-bát-la hoa, ba-đầu-ma hoa, câu vật đầu hoa, phân đà lợi hoa giai tất biến mãn. Bồ Tát ma ha tát diệc phục như thị, ư Bồ-đề tâm trung gian, bất xả chúng sanh, thuyết Pháp điều phục, tất lệnh viên mãn vô lượng tam muội, kiến Phật quốc độ trang nghiêm thanh tịnh.
Như bốn con sông lớn, bao quanh ao lớn. Ở trong giữa ao đó, đều đầy dẫy hoa ưu bát la, hoa ba đầu ma, hoa câu vật đầu, hoa phân đà lợi. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, ở trong giữa tâm bồ đề, chẳng bỏ chúng sinh, nói pháp điều phục, đều khiến cho viên mãn vô lượng tam muội, thấy cõi nước Phật trang nghiêm thanh tịnh.
Giảng: Như bốn con sông lớn, bao quanh ao lớn Vô Nhiệt. Ở trong giữa ao đó, đều đầy dẫy hoa ưu bát la, hoa ba đầu ma, hoa câu vật đầu, hoa phân đà lợi. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, ở trong giữa tâm bồ đề, chẳng bỏ chúng sinh nào, mà vì họ nói đủ thứ pháp, để điều phục chúng sinh cang cường, đều khiến cho viên mãn vô lượng tam muội, thấy được cõi nước Phật đều trang nghiêm thanh tịnh.
Như vô nhiệt Đại trì, bảo thụ vi nhiễu. Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, hiện Phật quốc độ trang nghiêm vi nhiễu, lệnh chư chúng sanh thú hướng Bồ-đề.
Như ao lớn Vô Nhiệt, có cây báu chung quanh. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, hiện cõi nước Phật chung quanh trang nghiêm, khiến cho các chúng sinh hướng về bồ đề.
Giảng: Như ao lớn Vô Nhiệt, có đủ thứ cây báu chung quanh tứ phía. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, dùng sức thần thông biến hoá, thị hiện cõi nước chư Phật chung quanh trang nghiêm, khiến cho các chúng sinh hướng về bồ đề giác đạo.
Như vô nhiệt Đại trì, kỳ trung túng quảng ngũ thập do-tuần, thanh tịnh vô trược. Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, Bồ-đề chi tâm kỳ lượng vô biên, thiện căn sung mãn, thanh tịnh vô trược.
Như ao lớn Vô Nhiệt, bề ngang rộng năm mươi do tuần, thanh tịnh không đục. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, tâm bồ đề rộng vô lượng vô biên, căn lành đầy dẫy, thanh tịnh không đục.
Giảng: Như ao lớn Vô Nhiệt, bề ngang rộng năm mươi do tuần, nước rất thanh tịnh không đục. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, phát tâm bồ đề vô lượng vô biên, căn lành đầy dẫy pháp giới, thanh tịnh không đục.
Như vô nhiệt Đại trì, dĩ vô lượng bảo trang nghiêm kỳ ngạn, tán chiên đàn hương biến mãn kỳ trung. Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, dĩ ách thiên ức thập chủng trí bảo nghiêm Bồ-đề tâm đại nguyện chi ngạn, phổ tán nhất thiết chúng thiện diệu hương.
Như ao lớn Vô Nhiệt, dùng vô lượng báu trang nghiêm bờ ao, rải hương chiên đàn, đầy khắp trong đó. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, dùng trăm ngàn ức mười thứ trí báu, trang nghiêm bờ bồ đề tâm đại nguyện, khắp rải hương thơm tất cả các điều thiện.
Giảng: Như ao lớn Vô Nhiệt, dùng vô lượng các báu để trang nghiêm bờ ao, rải hương bột chiên đàn, đầy khắp trong đó. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, dùng trăm ngàn ức mười thứ trí huệ báu, để trang nghiêm bờ bồ đề tâm đại nguyện, khắp rải hương thơm tất cả các điều thiện.
Như vô nhiệt Đại trì, để bố kim sa, chủng chủng ma-ni gian thác trang nghiêm. Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, vi diệu trí tuệ chu biến quan sát, bất khả tư nghị Bồ Tát giải thoát chủng chủng pháp bảo gian thác trang nghiêm, đắc nhất thiết pháp vô ngại quang minh, trụ ư nhất thiết chư Phật sở trụ, nhập ư nhất thiết thậm thâm phương tiện.
Như ao lớn Vô Nhiệt, đáy ao rải cát vàng, đủ thứ ma ni, xen lẫn trang nghiêm. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, trí huệ vi diệu, quán sát khắp cùng, bất khả tư nghì giải thoát của Bồ Tát, đủ thứ pháp bảo, xen lẫn trang nghiêm. Được tất cả pháp quang minh vô ngại, trụ chỗ trụ của tất cả chư Phật, vào trong tất cả phương tiện thâm sâu.
Giảng: Như ao lớn Vô Nhiệt, đáy ao rải đầy cát vàng, đủ thứ châu báu ma ni, xen lẫn để trang nghiêm. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, dùng trí huệ vi diệu, để quán sát khắp cùng, bất khả tư nghì giải thoát của Bồ Tát. Có đủ thứ pháp bảo, xen lẫn trang nghiêm. Được tất cả pháp vô ngại quang minh, trụ nơi cảnh giới chỗ trụ của tất cả chư Phật, vào được trong tất cả pháp môn phương tiện khéo léo thâm sâu.
Như A na bà đạt đa long Vương, vĩnh ly long trung sở hữu nhiệt não. Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, vĩnh ly nhất thiết thế gian ưu não, tuy hiện thọ sanh nhi vô nhiễm trước.
Như A Na Bà Đạt Đa Long Vương, vĩnh viễn lìa khỏi mọi nhiệt não trong loài rồng. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, vĩnh viễn lìa khỏi tất cả ưu não của thế gian. Tuy hiện thọ sinh mà không nhiễm trước.
Giảng: Như A Na Bà Đạt Đa Long Vương, vĩnh viễn lìa khỏi tất cả mọi nhiệt não trong loài rồng. Rồng sợ nhất là ánh nắng mặt trời nóng, cho nên khi hành động thì dùng mây để che đỡ. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, vĩnh viễn lìa khỏi tất cả ưu sầu phiền não của thế gian. Tuy nhiên thị hiện thọ sinh trong sáu cõi, mà không nhiễm trước tất cả thế gian.
Như tứ đại hà, nhuận trạch nhất thiết Diêm-phù-đề địa, ký nhuận trạch dĩ nhập ư đại hải. Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, dĩ tứ trí hà nhuận trạch Thiên, nhân, Sa Môn, Bà-la-môn, lệnh kỳ phổ nhập A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề trí tuệ đại hải, dĩ thập chủng lực nhi vi trang nghiêm. Hà giả vi tứ?
Nhất giả nguyện trí hà, cứu hộ điều phục nhất thiết chúng sanh thường bất hưu tức
Nhị giả Ba-la-mật trí hà, tu Bồ-đề hạnh nhiêu ích chúng sanh, khứ, lai, kim thế tướng tục vô tận, cứu cánh nhập ư chư Phật trí hải
Tam giả Bồ Tát tam muội trí hà, vô số tam muội dĩ vi trang nghiêm, kiến nhất thiết Phật, nhập chư Phật hải
Tứ giả đại bi trí hà, đại từ tự tại phổ cứu chúng sanh, phương tiện nhiếp thủ vô hữu hưu tức, tu hành bí mật công đức chi môn, cứu cánh nhập ư thập lực đại hải
Như bốn con sông lớn, thấm nhuần tất cả đất đai cõi Diêm Phù Đề. Thấm nhuần rồi, chảy vào trong biển cả. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, dùng sông bốn trí, thấm nhuần trời, người, Sa môn, Bà la môn, khiến cho họ khắp vào biển trí huệ A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, dùng mười thứ lực để trang nghiêm. Những gì là bốn ?
Một là sông nguyện trí, cứu hộ điều phục tất cả chúng sinh, thường không ngừng nghỉ.
Hai là sông trí Ba la mật, tu hạnh bồ đề, lợi ích chúng sinh. Đời quá khứ, vị lai, hiện tại, liên tục vô tận, rốt ráo nhập vào biển trí của chư Phật.
Ba là sông trí tam muội của Bồ Tát, vô số tam muội, dùng để trang nghiêm. Thấy tất cả chư Phật, vào biển chư Phật.
Bốn là sông trí đại bi, đại từ tự tại, cứu khắp chúng sinh. Phương tiện nhiếp lấy, không có ngừng nghỉ. Tu hành môn công đức bí mật, rốt ráo nhập vào biển thập lực.
Giảng: Như nước bốn con sông lớn, thấm nhuần hết tất cả đất đai cõi Diêm Phù Đề. Thấm nhuần rồi, bèn chảy vào trong biển cả. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, dùng sông bốn thứ trí huệ, để thấm nhuần trời, người, Sa môn, Bà la môn, khiến cho họ khắp vào biển trí huệ Vô thượng chánh đẳng chánh giác, dùng mười thứ lực để trang nghiêm. Những gì là bốn thứ sông trí ?
1. Sông nguyện trí : Hay cứu hộ tất cả chúng sinh, hay điều phục tất cả chúng sinh, không có lúc nào ngừng nghỉ.
2. Sông trí Ba la mật : Thường tu hạnh bồ đề, để lợi ích tất cả chúng sinh. Đời quá khứ, vị lai, hiện tại, liên tục vô tận, rốt ráo nhập vào biển trí của chư Phật.
3. Sông trí tam muội của Bồ Tát : Dùng vô số vô lượng tam muội, để trang nghiêm. Thấy được tất cả chư Phật, vào biển tất cả chư Phật.
4. Sông trí đại bi : Dùng tâm đại từ tự tại, để khắp cứu độ tất cả chúng sinh. Phương tiện khéo léo để nhiếp lấy tất cả chúng sinh, không có lúc nào ngừng nghỉ. Chuyên tu hành môn công đức bí mật, rốt ráo nhập vào biển thập lực.
Như tứ đại hà, tùng vô nhiệt trì ký lưu xuất dĩ, cứu cánh vô tận, nhập ư đại hải; Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, dĩ đại nguyện lực tu Bồ Tát hạnh, tự tại tri kiến vô hữu cùng tận, cứu cánh nhập ư nhất thiết trí hải.
Như bốn con sông lớn, từ ao Vô Nhiệt chảy ra rồi, rốt ráo vô tận, nhập vào biển cả. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, dùng đại nguyện lực, tu hạnh Bồ Tát, tự tại tri kiến không cùng tận, rốt ráo nhập vào biển Nhất thiết trí.
Giảng: Như bốn con sông lớn, từ ao lớn Vô Nhiệt chảy ra rồi, rốt ráo không hết được, mà chảy nhập vào biển cả. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, dùng đại nguyện lực, để tu hạnh Bồ Tát, nhậm vận tự tại, chánh tri chánh kiến, không có lúc nào hết được, rốt ráo nhập vào biển Nhất thiết trí.
Như tứ đại hà, nhập ư đại hải, vô năng vi ngại lệnh bất nhập giả. Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, thường cần tu tập Phổ Hiền hạnh nguyện, thành tựu nhất thiết trí tuệ quang minh, trụ ư nhất thiết Phật Bồ-đề Pháp, nhập Như Lai trí vô hữu chướng ngại.
Như bốn con sông lớn, nhập vào biển cả. Không có gì chướng ngại, khiến cho không nhập vào biển. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, thường siêng tu tập hạnh nguyện Phổ Hiền, thành tựu nhất thiết trí huệ quang minh, trụ nơi pháp bồ đề của tất cả chư Phật, nhập vào trí của Như Lai, không có chướng ngại.
Giảng: Như bốn con sông lớn, nhập vào biển cả. Không có gì chướng ngại được, khiến cho không nhập vào biển. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, thường siêng tu tập hạnh nguyện Bồ Tát Phổ Hiền, thành tựu quang minh nhất thiết trí huệ. Trụ trong pháp bồ đề của tất cả chư Phật, chứng được trí huệ của Như Lai, không có chướng ngại.
Như tứ đại hà, bôn lưu nhập hải, Kinh ư luy kiếp diệc vô bì yếm. Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, dĩ Phổ Hiền hạnh nguyện, tận vị lai kiếp tu Bồ Tát hạnh, nhập Như Lai hải bất sanh bì yếm.
Như bốn con sông lớn, chảy thẳng vào biển, trải qua nhiều kiếp, cũng không nhàm mỏi. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, dùng hạnh nguyện Phổ Hiền, hết kiếp vị lai, tu Bồ Tát hạnh, vào biển Như Lai, chẳng sinh nhàm mỏi.
Giảng: Như bốn con sông lớn, chảy thẳng vào biển, trải qua vô số kiếp, cũng không có lúc nào nhàm chán mệt mỏi. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, dùng hạnh nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền, hết kiếp thuở vị lai, tu Bồ Tát hạnh, vào biển pháp của Như Lai, cũng chẳng sinh tâm nhàm mỏi.
Phật tử! như nhật quang xuất thời, vô nhiệt trì trung kim sa, ngân sa, Kim cương sa, lưu ly sa cập dư nhất thiết chủng chủng bảo vật, giai hữu nhật ảnh ư trung hiển hiện; kỳ kim sa đẳng nhất thiết bảo vật, diệc các triển chuyển nhi hiện kỳ ảnh, hỗ tương giám triệt, vô sở phương ngại.
Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, trụ thử tam muội, ư tự thân nhất nhất mao khổng trung, tất kiến bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số chư Phật Như Lai, diệc kiến bỉ Phật sở hữu quốc độ đạo tràng chúng hội nhất nhất Phật sở thính pháp, thọ trì, tín giải, cúng dưỡng, các Kinh bất khả thuyết bất khả thuyết ức na-do-tha kiếp nhi bất tưởng niệm thời tiết trường đoản, kỳ chư chúng hội diệc vô bách ải.
Phật tử ! Như khi mặt trời mọc lên, cát vàng, cát bạc, các kim cương, cát lưu ly, và tất cả đủ thứ báu vật khác trong ao Vô Nhiệt, đều có bóng mặt trời hiện ra trong đó. Những cát vàng, cát bạc, cát kim cương, cát lưu ly, tất cả báu vật, cũng đều lần lượt hiện bóng, chiếu soi lẫn nhau, không có chướng ngại.
Đại Bồ Tát cũng lại như thế, trụ tam muội này, trong mỗi lỗ chân lông thân mình, đều thấy chư Phật Như Lai nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật, cũng thấy hết thảy cõi nước đạo tràng chúng hội của các đức Phật đó. Ở chỗ mỗi đức Phật, nghe pháp thọ trì, tin hiểu cúng dường, đều trải qua bất khả thuyết bất khả thuyết ức Na do tha kiếp, mà chẳng nghĩ nhớ thời tiết dài ngắn, các chúng hội đó cũng không bị chật hẹp.
Giảng: Các vị Phật tử ! Giống như khi mặt trời mọc lên, thì hết thảy cát vàng, cát bạc, các kim cương, cát lưu ly, và tất cả đủ thứ báu vật khác trong ao Vô Nhiệt, đều có bóng mặt trời hiện ra trong đó. Hết thảy tất cả cát vàng, cát bạc, cát kim cương, cát lưu ly, tất cả báu vật, mỗi thứ cũng đều lần lượt hiện ra hình bóng, chiếu soi lẫn nhau, không có chướng ngại.
Đại Bồ Tát cũng lại như thế, trụ tam muội này, trong mỗi lỗ chân lông thân mình, đều thấy chư Phật Như Lai nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật, cũng thấy hết thảy cõi nước đạo tràng chúng hội của các đức Phật đó. Bồ Tát ở nơi đạo tràng của mỗi đức Phật, nghe Phật nói chánh pháp, thọ trì chánh pháp, tin hiểu Phật pháp, cúng dường Phật, thừa sự Phật, đều trải qua bất khả thuyết bất khả thuyết ức na do tha kiếp, mà chẳng nghĩ nhớ thời gian dài ngắn, hết thảy mọi người ở trong chúng hội, cũng chẳng cảm giác chật hẹp.
Hà dĩ cố? dĩ vi diệu tâm, nhập vô biên pháp giới cố, nhập vô đẳng sái biệt nghiệp quả cố, nhập bất tư nghị tam muội cảnh giới cố, nhập bất tư nghị tư tánh cảnh giới cố, nhập nhất thiết Phật tự tại cảnh giới cố, đắc nhất thiết Phật sở hộ niệm cố, đắc nhất thiết Phật Đại thần biến cố, đắc chư Như Lai nan đắc nan tri thập chủng lực cố, nhập Phổ Hiền Bồ Tát hạnh viên mãn cảnh giới cố, đắc nhất thiết Phật vô lao quyện thần thông lực cố.
Tại sao ? Vì dùng tâm vi diệu, vào vô biên pháp giới. Vì vào vô đẳng sai biệt nghiệp quả. Vì vào cảnh giới tam muội không nghĩ bàn. Vì vào cảnh giới tư duy không nghĩ bàn. Vì vào cảnh giới tự tại của tất cả chư Phật. Vì được tất cả chư Phật hộ niệm. Vì được đại thần biến của tất cả chư Phật. Vì được mười thứ lực khó được khó biết của các Như Lai. Vì vào cảnh giới hạnh viên mãn của Bồ Tát Phổ Hiền. Vì được sức thần thông không mệt mỏi của tất cả chư Phật.
Giảng: Tại sao có những cảnh giới đó ? Do nguyên nhân gì ? Vì dùng tâm vi diệu không thể nghĩ bàn, mà đắc được mười thứ cảnh giới.
1. Vì vào được vô biên pháp giới.
2. Vì vào được nghiệp quả vô đẳng sai biệt.
3. Vì vào được cảnh giới tam muội không thể nghĩ bàn.
4. Vì vào được cảnh giới tư duy không thể nghĩ bàn.
5. Vì vào được cảnh giới tự tại của tất cả chư Phật.
6. Vì được tất cả chư Phật hộ niệm.
7. Vì đắc được đại thần biến của tất cả chư Phật.
8. Vì đắc được mười thứ lực khó được khó biết của tất cả chư Phật.
9. Vì vào được cảnh giới hạnh viên mãn của Bồ Tát Phổ Hiền.
10. Vì đắc được sức thần thông không mệt mỏi của tất cả chư Phật.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát tuy năng ư định nhất niệm nhập xuất, nhi diệc bất phế trường thời tại định, diệc vô sở trước; tuy ư cảnh giới vô sở y trụ, nhi diệc bất xả nhất thiết sở duyên; tuy thiện nhập sát-na tế, nhi vi lợi ích nhất thiết chúng sanh, hiện Phật thần thông vô hữu yếm túc; tuy đẳng nhập Pháp giới, nhi bất đắc kỳ biên; tuy vô sở trụ, vô hữu xứ sở, nhi hằng thú nhập nhất thiết trí đạo, dĩ iến hóa lực phổ nhập vô lượng chúng sanh chúng trung, cụ túc trang nghiêm nhất thiết thế giới; tuy ly thế gian điên đảo phân biệt, siêu quá nhất thiết phân biệt chi địa, diệc bất xả ư chủng chủng chư tướng; tuy năng cụ túc phương tiện thiện xảo, nhi cứu cánh thanh tịnh; tuy bất phân biệt Bồ Tát chư địa, nhi giai dĩ thiện nhập.
Phật tử ! Tuy đại Bồ Tát có thể ở trong định một niệm nhập xuất, nhưng cũng chẳng bỏ thời gian lâu dài ở trong định, cũng chẳng chấp trước.
Tuy nơi cảnh giới không nương trụ, nhưng cũng không xả bỏ tất cả sở duyên. Tuy khéo vào sát na tế, nhưng vì lợi ích tất cả chúng sinh, mà thị hiện thần thông của Phật, không nhàm đủ.
Tuy đồng vào pháp giới, nhưng không được bờ mé pháp giới. Tuy vô sở trụ, không có xứ sở, nhưng luôn nhập vào Nhất thiết trí đạo. Dùng sức biến hoá, khắp vào trong chúng vô lượng chúng sinh, trang nghiêm đầy đủ tất cả thế giới.
Tuy lìa phân biệt điên đảo của thế gian, vượt qua sự phân biệt tất cả các địa, cũng không xả bỏ đủ thứ các tướng. Tuy đầy đủ phương tiện khéo léo, nhưng rốt ráo thanh tịnh. Tuy không phân biệt các địa của Bồ Tát, nhưng đều đã khéo vào các địa.
Giảng: Các vị Phật tử ! Tuy đại Bồ Tát đều trụ ở trong định, một niệm có thể nhập, một niệm có thể xuất. Nhập định xuất định, nhậm vận tự tại, nhưng cũng chẳng bỏ thời gian lâu dài ở trong định, cũng chẳng chấp trước nơi định. Nhập xuất đều ở trong cảnh giới như như bất động, liễu liễu thường minh.
Tuy Bồ Tát ở trong cảnh giới, cũng không nương tựa cảnh giới, cũng không chấp trụ cảnh giới, nhưng cũng không xả bỏ tất cả sở duyên tiếp cận.
Tuy Bồ Tát có thể nhập định trong thời gian rất ngắn, nhưng vì lợi ích tất cả chúng sinh, mà thị hiện thần thông của chư Phật, không có khi nào nhàm mỏi và đầy đủ.
Tuy Bồ Tát đồng vào pháp giới, nhưng không được bờ mé pháp giới.
Tuy Bồ Tát vô sở trụ, không có xứ sở, nhưng luôn nhập vào đạo Nhất thiết trí. Dùng sức biến hoá, khắp vào vô lượng đại chúng trong chúng sinh, đầy đủ trang nghiêm tất cả thế giới.
Tuy Bồ Tát lìa khỏi tất cả phân biệt điên đảo của thế gian, vượt qua được tất cả địa phân biệt, nhưng Bồ Tát tức thế gian, lìa thế gian, không xả bỏ đủ thứ các tướng, tức cũng là tuy vượt xuất thế gian, nhưng không lìa khỏi tất cả tướng của thế gian.
Tuy Bồ Tát đầy đủ pháp môn phương tiện khéo léo, nhưng rốt ráo là diệu pháp thanh tịnh.
Tuy Bồ Tát không phân biệt các địa của Bồ Tát, nhưng đều đã khéo vào tất cả các địa, đạt được địa vị Đẳng giác (địa vị cao nhất của Bồ Tát).
Phật tử! thí như hư không, tuy năng dung thọ nhất thiết chư vật, nhi ly hữu vô.
Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, tuy phổ nhập nhất thiết thế gian, nhi ly thế gian tưởng; tuy cần độ nhất thiết chúng sanh, nhi ly chúng sanh tưởng; tuy thâm tri nhất thiết pháp, nhi ly chư pháp tưởng; tuy lạc kiến nhất thiết Phật, nhi ly chư Phật tưởng; tuy thiện nhập chủng chủng tam muội, nhi tri nhất thiết pháp tự tánh giai như, vô sở nhiễm trước; tuy dĩ vô biên biện tài diễn vô tận Pháp cú, nhi tâm hằng trụ ly văn tự Pháp; tuy lạc quan sát vô ngôn thuyết Pháp, nhi hằng thị hiện thanh tịnh âm thanh; tuy trụ nhất thiết ly ngôn Pháp tế, nhi hằng thị hiện chủng chủng sắc tướng; tuy giáo hóa chúng sanh, nhi tri nhất thiết pháp tất cánh tánh không; tuy cần tu đại bi độ thoát chúng sanh, nhi tri chúng sanh giới vô tận vô tán;
Tuy liễu đạt Pháp giới thường trụ bất biến, nhi dĩ tam luân điều phục chúng sanh hằng bất hưu tức; tuy thường an trụ Như Lai sở trụ, nhi trí tuệ thanh tịnh, tâm vô bố úy, phân biệt diễn thuyết chủng chủng chư Pháp, chuyển ư Pháp luân thường bất hưu tức.
Phật tử ! Ví như hư không, tuy dung thọ tất cả sự vật, mà lìa có, không. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, tuy khắp vào tất cả thế gian, mà lìa tưởng thế gian.
Tuy siêng độ tất cả chúng sinh, mà lìa tưởng chúng sinh. Tuy biết sâu tất cả các pháp, mà lìa tưởng các pháp. Tuy thích thấy tất cả chư Phật, mà lìa tưởng chư Phật. Tuy khéo nhập đủ thứ tam muội, mà biết tất cả pháp tự tánh đều như, không có nhiễm trước. Tuy dùng vô biên biện tài, diễn nói vô tận câu pháp, là tâm luôn trụ lìa pháp văn tự. Tuy thích quán sát nói pháp không lời, mà luôn thị hiện âm thanh thanh tịnh. Tuy trụ tất cả pháp tế lìa lời nói, mà luôn thị hiện đủ thứ sắc tướng. Tuy giáo hoá chúng sinh, mà biết tất cả pháp rốt ráo tánh không. Tuy siêng tu đại bi, độ thoát chúng sinh, mà biết cõi chúng sinh vô tận vô số.
Tuy thấu đạt pháp giới thường trụ không thay đổi, mà dùng ba luân điều phục chúng sinh, luôn không nghỉ ngơi. Tuy thường an trụ chỗ trụ của Như Lai, mà trí huệ thanh tịnh, tâm không sợ hãi, phân biệt diễn nói đủ thứ các pháp, chuyển bánh xe pháp, thường không nghỉ ngơi.
Giảng: Các vị Phật tử ! Ví như hư không, tuy dung thọ tất cả sự vật, mà lìa nghĩ tưởng có, không. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, tuy Bồ Tát khắp đi đến tất cả thế gian, giáo hoá tất cả chúng sinh, nhưng lìa tưởng thế gian, hành sở vô sự, không chấp tất cả tướng. Tuy Bồ Tát siêng độ tất cả chúng sinh, nhưng lìa tưởng chúng sinh. Trong Kinh Kim Cang có nói :
« Tôi phải diệt độ tất cả chúng sinh,
Diệt độ tất cả chúng sinh rồi,
Mà không có một chúng sinh thật diệt độ ».
Đây là lìa tưởng chúng sinh. Tuy Bồ Tát biết sâu tất cả các pháp, nhưng lìa tưởng các pháp, nghĩa là không chấp nơi pháp, không chấp về tưởng. Tuy Bồ Tát thích thấy tất cả mười phương chư Phật ba đời, nhưng lìa tưởng chư Phật. Tuy Bồ Tát khéo nhập đủ thứ tam muội, nhưng biết tự tánh của tất cả các pháp đều không chỗ có, không chấp trước, đã đạt đến cảnh giới chẳng chấp trước, không nhiễm trước. Tuy Bồ Tát dùng vô biên biện tài, diễn nói vô tận câu pháp, nhưng tâm luôn trụ nơi pháp lìa văn tự. Do đó :
« Lìa tướng lời nói,
Lìa tướng văn tự,
Lìa tướng duyên tâm ».
Tuy Bồ Tát hoan hỉ quán sát nói pháp không lời, tức cũng là pháp vắng lặng, nhưng luôn thị hiện âm thanh thanh tịnh, vì chúng sinh diễn nói diệu pháp. Tuy Bồ Tát trụ tất cả pháp tế lìa lời nói, nhưng luôn thị hiện đủ thứ sắc tướng, tức cũng là ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp trang nghiêm thân. Tuy Bồ Tát giáo hoá tất cả chúng sinh, nhưng biết tất cả pháp rốt ráo tánh không. Tuy Bồ Tát siêng tu đại bi tâm, độ thoát tất cả chúng sinh, nhưng biết cõi chúng sinh vô tận vô số, chúng sinh tuy nhiên độ không hết, nhưng vẫn phải độ. Tuy Bồ Tát thấu đạt pháp giới thường trụ không thay đổi, nhưng dùng ba luân (thân, miệng, ý) để điều phục chúng sinh cang cường, luôn không nghỉ ngơi. Tuy Bồ Tát thường an trụ quả vị chỗ trụ của Như Lai, nhưng trí huệ thanh tịnh, tâm không sợ hãi, phân biệt diễn nói được đủ thứ diệu pháp, chuyển được bánh xe pháp vô thượng, thường không nghỉ ngơi.
Phật tử! thị vi Bồ-Tát Ma-ha-tát đệ cửu Pháp giới tự tại Đại tam muội thiện xảo trí.
Phật tử ! Đó là đại tam muội Trí thiện xảo pháp giới tự tại thứ chín của đại Bồ Tát.
Giảng: Các vị Phật tử ! Đó là đại tam muội Trí huệ thiện xảo pháp giới tự tại thứ chín của đại Bồ Tát tu.
— o0o —
Đệ Thập Đại Tam Muội
Phật tử! vân hà vi Bồ-Tát Ma-ha-tát vô ngại luân tam muội?
Phật tử ! Thế nào là tam muội Vô ngại luân của đại Bồ Tát ?
Giảng: Bồ Tát Phổ Hiền lại gọi một tiếng các vị đệ tử của Phật ! Thế nào gọi là tam muội Vô ngại luân của đại Bồ Tát nên tu hành ?
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát nhập thử tam muội thời, trụ vô ngại thân nghiệp, vô ngại ngữ nghiệp, vô ngại ý nghiệp, trụ vô ngại Phật quốc độ, đắc vô ngại thành tựu chúng sanh trí, hoạch vô ngại điều phục chúng sanh trí, phóng vô ngại quang minh, hiện vô ngại quang minh võng, thị vô ngại quảng đại biến hóa, chuyển vô ngại thanh tịnh Pháp luân, đắc Bồ Tát vô ngại tự tại, phổ nhập chư Phật lực, phổ trụ chư Phật trí, tác Phật sở tác, tịnh Phật sở tịnh, hiện Phật thần thông, lệnh Phật hoan hỉ, hành Như Lai hạnh, trụ Như Lai đạo, thường đắc thân cận vô lượng chư Phật, tác chư Phật sự thiệu chư Phật chủng.
Phật tử ! Khi đại Bồ Tát nhập tam muội này, thì trụ thân nghiệp vô ngại, lời nghiệp vô ngại, ý nghiệp vô ngại. Trụ cõi Phật vô ngại, được trí vô ngại thành tựu chúng sinh, được trí vô ngại điều phục chúng sinh. Phóng quang minh vô ngại, hiện lưới quang minh vô ngại, thị hiện biến hoá rộng lớn vô ngại, chuyển bánh xe pháp thanh tịnh vô ngại. Được tự tại vô ngại của Bồ Tát, khắp vào lực của chư Phật, khắp trụ trí huệ của chư Phật, làm những gì Phật làm, tịnh những gì Phật tịnh, hiện thần thông của Phật, khiến cho Phật hoan hỉ. Thực hành những gì Phật thực hành, trụ đạo của Như Lai. Thường được gần gũi vô lượng chư Phật, làm các Phật sự, tiếp nối hạt giống của chư Phật.
Giảng: Các vị Phật tử ! Vị đại Bồ Tát này tu hành Bồ Tát đạo, viên mãn lục độ vạn hạnh, tích tụ đủ thứ căn lành. Khi Ngài chứng được tam muội Vô ngại luân, trụ nơi thân nghiệp vô ngại, trụ nơi lời nghiệp vô ngại, trụ nơi ý nghiệp vô ngại. Trụ cõi Phật vô ngại, đắc được trí huệ thành tựu chúng sinh không chướng ngại, đắc được trí huệ điều phục chúng sinh không chướng ngại. Phóng ra trí huệ quang minh không chướng ngại, hiện ra lưới quang minh trí huệ không chướng ngại, thị hiện biến hoá rộng lớn không chướng ngại, thường chuyển bánh xe pháp thanh tịnh không chướng ngại. Đắc được nhậm vận tự tại không chướng ngại của Bồ Tát.
Vị Bồ Tát này lại khắp vào mười lực của tất cả chư Phật, lại khắp trụ trí huệ của tất cả chư Phật, lại làm những gì mà tất cả chư Phật làm, lại thanh tịnh cõi nước mà tất cả chư Phật thanh tịnh, lại thị hiện thần thông của tất cả chư Phật, khiến cho mười phương chư Phật hoan hỉ tán thán. Lại thực hành những gì Phật thực hành, lại trụ đạo của tất cả chư Phật. Lại thường được gần gũi vô lượng chư Phật, lại thường làm việc của tất cả chư Phật, lại tiếp nối hạt giống của tất cả chư Phật.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát trụ thử tam muội dĩ, quán nhất thiết trí, tổng quán nhất thiết trí, biệt quán nhất thiết trí, tùy thuận nhất thiết trí, hiển thị nhất thiết trí, phàn duyên nhất thiết trí, kiến nhất thiết trí, tổng kiến nhất thiết trí, biệt kiến nhất thiết trí.
Phật tử ! Đại Bồ Tát trụ tam muội này rồi, quán nhất thiết trí, tổng quán nhất thiết trí, biệt quán nhất thiết trí. Tuỳ thuận nhất thiết trí, hiển bày nhất thiết trí, phan duyên nhất thiết trí. Thấy nhất thiết trí, tổng thấy nhất thiết trí, biệt thấy nhất thiết trí.
Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát trụ tam muội này rồi, hay quán sát nhất thiết trí huệ. Lại hay tổng quát để quán sát nhất thiết trí huệ. Lại hay phân biệt để quán sát nhất thiết trí huệ. Lại hay tuỳ thuận nhất thiết trí huệ. Lại hay hiển bày nhất thiết trí huệ. Lại hay phan duyên nhất thiết trí huệ. Lại hay thấy được nhất thiết trí huệ. Lại hay tổng quát thấy được nhất thiết trí huệ. Lại hay phân biệt thấy được nhất thiết trí huệ.
Ư Phổ Hiền Bồ Tát quảng đại nguyện, quảng đại tâm, quảng đại hạnh, quảng đại sở thú, quảng đại sở nhập, quảng đại quang minh, quảng đại xuất hiện, quảng đại hộ niệm, quảng đại biến hóa, quảng đại đạo, bất đoạn bất thoái, vô hưu vô thế, vô quyện vô xả, vô tán vô loạn, thường tăng tiến, hằng tướng tục.
Hà dĩ cố? thử Bồ-Tát Ma-ha-tát ư chư Pháp trung, thành tựu đại nguyện, phát hạnh Đại-Thừa, nhập ư Phật Pháp đại phương tiện hải; dĩ thắng nguyện lực, ư chư Bồ-tát sở hạnh chi hành, trí tuệ minh chiếu giai đắc thiện xảo, cụ túc Bồ Tát thần thông biến hóa, thiện năng hộ niệm nhất thiết chúng sanh; như khứ, lai, kim nhất thiết chư Phật chi sở hộ niệm, ư chư chúng sanh hằng khởi đại bi, thành tựu Như Lai bất biến dị pháp.
Nơi Bồ Tát Phổ Hiền, nguyện rộng lớn, tâm rộng lớn, hạnh rộng lớn, thú hướng rộng lớn, sở nhập rộng lớn, quang minh rộng lớn, xuất hiện rộng lớn, hộ niệm rộng lớn, biến hoá rộng lớn, đạo rộng lớn, không dứt, không lùi, không nghỉ, không đổi, không mệt, không bỏ, không tán, không loạn, thường tăng tấn, luôn liên tục.
Tại sao ? Vì đại Bồ Tát này ở trong các pháp, thành tựu nguyện lớn, phát tâm tu hành đại thừa, vào biển đại phương tiện Phật pháp, dùng nguyện lực thù thắng, nơi hạnh của các Bồ Tát tu hành, trí huệ chiếu sáng, đều được khéo léo. Đầy đủ thần thông biến hoá của Bồ Tát, khéo hộ niệm tất cả chúng sinh, như tất cả chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm, đối với các chúng sinh luôn khởi tâm đại bi, thành tựu pháp không biến đổi của Như Lai.
Giảng: Nơi Bồ Tát Phổ Hiền, nguyện lực rộng lớn, tâm rộng lớn, tu hành rộng lớn, thú hướng rộng lớn, sở nhập rộng lớn, quang minh rộng lớn, xuất hiện rộng lớn, hộ niệm rộng lớn, biến hoá rộng lớn, đạo rộng lớn, cũng không dứt hẳn, cũng không thối lùi, cũng không nghỉ ngơi, cũng không biến đổi, không mệt mỏi, không xả bỏ, không tán mất, không mê loạn, thường tinh tấn hướng về trước, siêng tu đạo của Bồ Tát tu, thường liên tục không dứt, không nghỉ ngơi.
Đây là nguyên nhân gì ? Vì vị đại Bồ Tát này đối với tâm bồ đề, luôn luôn tăng tấn, liên tục không ngừng. Cho nên, ở trong tất cả các pháp, thành tựu nguyện lớn đã phát ra, phát tâm bồ đề đại thừa, vào biển đại phương tiện Phật pháp, dùng nguyện lực thù thắng, đối với hạnh môn của tất cả Bồ Tát tu hành, dùng trí huệ để chiếu sáng, đều được pháp phương tiện khéo léo. Đầy đủ hết thảy thần thông biến hoá của tất cả Bồ Tát, khéo hộ niệm tất cả chúng sinh, như tất cả chư Phật ba đời quá khứ vị lai hiện tại hộ niệm. Đối với hết thảy tất cả chúng sinh, luôn sinh tâm đại bi, thành tựu pháp không biến đổi, tuỳ duyên không đổi, không đổi tuỳ duyên của chư Phật.
Phật tử! thí như hữu nhân dĩ ma-ni bảo trí sắc y trung, kỳ ma-ni bảo tuy đồng y sắc, bất xả tự tánh. Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, thành tựu trí tuệ dĩ vi tâm bảo, quán nhất thiết trí phổ giai minh hiện, nhiên bất xả ư Bồ Tát chư hạnh.
Hà dĩ cố? Bồ-Tát Ma-ha-tát phát đại thệ nguyện, lợi ích nhất thiết chúng sanh, độ thoát nhất thiết chúng sanh, thừa sự nhất thiết chư Phật, nghiêm tịnh nhất thiết thế giới, an uý chúng sanh, thâm nhập pháp hải; vi tịnh chúng sanh giới, hiện đại tự tại, cấp thí chúng sanh, phổ chiếu thế gian, nhập ư vô biên huyễn hóa Pháp môn, bất thoái bất chuyển, vô bì vô yếm.
Phật tử ! Ví như có người, dùng ma ni báu để vào trong y phục màu sắc. Ma ni báu đó, tuy đồng với màu sắc y phục, mà không bỏ tự tánh. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, thành tựu trí huệ dùng làm tâm báu. Quán nhất thiết trí đều hiện rõ khắp, mà không bỏ các hạnh của Bồ Tát.
Tại sao ? Vì đại Bồ Tát phát đại thệ nguyện, lợi ích tất cả chúng sinh, độ thoát tất cả chúng sinh, thừa sự tất cả chư Phật, nghiêm tịnh tất cả thế giới, an ổn chúng sinh, vào sâu biển pháp. Vì tịnh cõi chúng sinh, mà hiện đại tự tại, thí cho chúng sinh, chiếu khắp thế gian, vào vô biên pháp môn huyễn hoá, chẳng thối chuyển, chẳng mỏi nhàm.
Giảng: Các vị Phật tử ! Ví như có người, dùng châu báu ma ni báu để vào trong y phục màu sắc. Ánh sáng châu báu ma ni đó, tuy đồng với màu sắc y phục, nhưng tự tánh của châu báu vẫn tồn tại, chẳng bỏ đi. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, thành tựu đại trí đại huệ dùng làm tâm báu. Dùng diệu quán sát trí để quán sát nhất thiết trí, đều hiện rõ khắp, mà không bỏ các hạnh của Bồ Tát tu. Đây là nguyên nhân gì ? Vì đại Bồ Tát phát đại bốn hoằng thệ nguyện :
« Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành ».
Nguyện lợi ích tất cả chúng sinh, độ thoát tất cả chúng sinh. Thừa sự mười phương ba đời tất cả chư Phật, trang nghiêm thanh tịnh tất cả thế giới. An ổn chúng sinh, khiến cho họ vào sâu biển pháp tánh của tất cả chư Phật. Vì thanh tịnh cõi chúng sinh, mà thị hiện cảnh giới đại tự tại vô ngại. Thường hành bố thí cho chúng sinh, khiến cho họ được pháp ích. Dùng trí huệ quang minh để chiếu khắp tất cả thế gian, khiến cho đen tối thành ánh sáng. Khiến cho tất cả chúng sinh, đều đắc được đại trí huệ. Bồ Tát biết tất cả đều như huyễn, như hoá, cho nên chẳng chấp trước vào bất cứ sự việc gì. Hay vào vô biên pháp môn huyễn hoá, chẳng thối chuyển, chẳng mỏi nhàm, quán triệt thuỷ chung, hành Bồ Tát đạo, cứu chúng sinh thoát khỏi biển khổ.
Phật tử! thí như hư không trì chúng thế giới, nhược thành nhược trụ, vô yếm vô quyện, vô luy vô hủ, vô tán vô hoại, vô biến vô dị, vô hữu sái biệt, bất xả tự tánh. Hà dĩ cố? hư không tự tánh, Pháp ưng nhĩ cố. Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, lập vô lượng đại nguyện, độ nhất thiết chúng sanh, tâm vô yếm quyện.
Phật tử ! Ví như hư không chi trì các thế giới. Hoặc thành, hoặc trụ, không nhàm, không mỏi, không gầy, không hư, không tan, không hoại, không đổi, không khác, không có khác biệt, chẳng bỏ tự tánh. Tại sao ? Vì tự tánh hư không là như vậy. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, lập vô lượng đại nguyện, độ tất cả chúng sinh, tâm không nhàm mỏi.
Giảng: Các vị Phật tử ! Ví như hư không, hay chi trì hết thảy thế giới, hoặc thế giới thành, hoặc thế giới trụ, hoặc thế giới hoại, hoặc thế giới không. Trong tự tánh của hư không chẳng có nhàm chán, chẳng có mỏi mệt; không có gầy ốm, không có hư mục, không tan mất, không phá hoại; không biến đổi, không có hai dạng. Bất cứ trong tình huống nào, hư không chẳng có tâm phân biệt, cũng chẳng có bỏ lìa tự tánh. Tại sao ? Vì tự tánh hư không là như vậy. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, phát ra vô lượng đại nguyện, độ thoát tất cả chúng sinh, đó là bổn phận của Bồ Tát, độ thoát chúng sinh làm sự nghiệp. Tuy độ chúng sinh, mà không chấp trước độ chúng sinh, vì hành sở vô sự, cho nên tâm không nhàm mỏi.
Phật tử! thí như Niết-Bàn, khứ, lai, hiện tại vô lượng chúng sanh ư trung diệt độ, chung vô yếm quyện. Hà dĩ cố? nhất thiết chư pháp bổn tánh thanh tịnh, Thị vị: Niết-Bàn, vân hà ư trung nhi hữu yếm quyện?
Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, vi dục độ thoát nhất thiết chúng sanh giai lệnh xuất ly nhi hiện ư thế, vân hà nhi khởi bì yếm chi tâm?
Phật tử ! Ví như Niết Bàn, quá khứ vị lại hiện tại vô lượng chúng sinh, ở trong sự diệt độ, mà trọn không nhàm mỏi. Tại sao ? Vì tất cả các pháp bổn tánh thanh tịnh, đó là Niết Bàn, làm sao trong đó có sự nhàm mỏi.
Đại Bồ Tát cũng lại như thế, vì muốn độ thoát tất cả chúng sinh, khiến cho họ đều thoát khỏi, mà hiện ra đời, sao lại khởi tâm nhàm mỏi.
Giảng: Các vị Phật tử ! Ví như Niết Bàn (không sinh không diệt), trong quá khứ, vị lại, hiện tại, ba đời vô lượng chúng sinh, đều ở trong sự diệt độ, mà trọn không nhàm mỏi. Tại sao ? Vì bổn tánh của tất cả các pháp thanh tịnh không nhiễm, đó là Niết Bàn. Tức nhiên là thanh tịnh, sao lại có sự nhàm mỏi ? Nếu có sự nhàm mỏi thì chẳng thanh tịnh, chẳng thanh tịnh thì có sinh tử, thanh tịnh thì không sinh tử.
Đại Bồ Tát cũng lại như thế, vì muốn độ thoát tất cả chúng sinh, khiến cho họ đều thoát khỏi ba cõi, cho nên Bồ Tát mới thị hiện ra đời. Tức nhiên là cam tâm tình nguyện vô điều kiện để độ chúng sinh, sao lại có tâm nhàm mỏi ?
Phật tử! như Tát bà nhã, năng lệnh quá khứ, vị lai, hiện tại nhất thiết Bồ Tát, ư chư Phật gia dĩ, hiện, đương sanh, nãi chí lệnh thành vô thượng Bồ-đề, chung bất bì yếm. hà dĩ cố? nhất thiết trí dữ Pháp giới vô nhị cố, ư nhất thiết Pháp vô sở trước cố. Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, kỳ tâm bình đẳng trụ nhất thiết trí, vân hà nhi hữu bì yếm chi tâm?
Phật tử ! Như Tát bà nhạ, hay khiến tất cả Bồ Tát quá khứ vị lai hiện tại, đã sinh, sẽ sinh, đang sinh vào nhà chư Phật, cho đến khiến cho thành tựu vô thượng bồ đề, trọn không nhàm mỏi. Tại sao ? Vì nhất thiết trí với pháp giới không hai, vì nơi tất cả pháp không chấp trước. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, tâm của Ngài bình đẳng, trụ nhất thiết trí, sao lại có tâm nhàm mỏi.
Giảng: Phật tử ! Như Tát bà nhạ (nhất thiết trí), hay khiến tất cả Bồ Tát trong quá khứ, vị lai, hiện tại, ba đời, đều sinh vào trong nhà của chư Phật, hoặc đã sinh vào nhà của chư Phật, hoặc vị lai sẽ sinh vào nhà của chư Phật, hoặc hiện tại đang sinh vào nhà chư Phật, cho đến khiến cho tất cả chúng sinh thành tựu vô thượng bồ đề, trọn không nhàm mỏi. Tại sao ? Vì thể tánh của nhất thiết trí và pháp giới là một chẳng phải hai. Người có trí huệ, chẳng chấp vào tất cả các pháp, tức cũng là không có pháp chấp. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, tâm của Ngài bình đẳng, trụ nơi nhất thiết trí, thì làm sao lại có tâm nhàm mỏi ? Tuyệt đối không có.
Phật tử! thử Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu nhất liên hoa, kỳ hoa quảng đại tận thập phương tế, dĩ bất khả thuyết diệp, bất khả thuyết bảo, bất khả thuyết hương nhi vi trang nghiêm; kỳ bất khả thuyết bảo, phục các thị hiện chủng chủng chúng bảo, thanh tịnh diệu hảo, cực thiện an trụ. kỳ hoa thường phóng chúng sắc quang minh, phổ chiếu thập phương nhất thiết thế giới vô sở chướng ngại; chân kim vi võng, di phước kỳ thượng; bảo đạc từ diêu, xuất vi diệu âm, kỳ âm diễn sướng nhất thiết trí Pháp.
Phật tử ! Đại Bồ Tát này có một hoa sen. Hoa sen đó rộng lớn, tận cùng bờ mé mười phương. Dùng bất khả thuyết lá, bất khả thuyết báu, bất khả thuyết hương, để trang nghiêm. Bất khả thuyết báu đó, mỗi thứ lại thị hiện đủ thứ các báu, thanh tịnh tốt đẹp, rất khéo an trụ.
Hoa sen đó thường phóng ra các màu sắc quang minh, chiếu khắp mười phương tất cả thế giới, không có sự chướng ngại. Vàng thật làm lưới, giăng che phía trên. Linh báu lay động vang ra âm thanh vi diệu, âm thanh đó diễn xướng pháp nhất thiết trí.
Giảng: Các vị Phật tử ! Vị đại Bồ Tát này, Ngài có một đoá hoa sen lớn. Hoa sen đó đặc biệt rộng lớn, thể tích của nó tận cùng bờ mé mười phương. Dùng bất khả thuyết lá, và bất khả thuyết báu, cùng với bất khả thuyết hương, để trang nghiêm hoa sen lớn đó. Trong bất khả thuyết báu đó, mỗi thứ lại thị hiện đủ thứ các báu, thanh tịnh không nhiễm, tốt đẹp trang nghiêm, rất khéo an trụ.
Hoa sen đó thường phóng ra các màu sắc quang minh, chiếu khắp mười phương tất cả thế giới, không có mọi sự chướng ngại. Dùng vàng thật làm lưới báu, giăng che phía trên hoa sen lớn đó. Phía trên hoa sen báu đó, lại có vô lượng linh báu lay động nhẹ nhàng, vang ra âm thanh vi diệu rất êm tai, khiến cho tất cả chúng sinh nghe được âm thanh này, tâm rất hoan hỉ, quên mất phiền não, quên luôn sự đói khát. Tại sao ? Vì tinh thần tập trung lắng nghe âm thanh hay, cho nên mới có cảnh giới đó. Trong âm thanh đó, diễn xướng pháp nhất thiết trí, khiến cho người nghe phát tâm bồ đề, hành Bồ Tát đạo, khai mở đại trí huệ.
Thử đại liên hoa cụ túc Như Lai thanh tịnh trang nghiêm, nhất thiết thiện căn chi sở sanh khởi, cát tường vi biểu, thần lực sở hiện, hữu thập thiên a-tăng-kì thanh tịnh công đức, Bồ Tát diệu đạo chi sở thành tựu, nhất thiết trí tâm chi sở lưu xuất, thập phương Phật ảnh ư trung hiển hiện, thế gian chiêm ngưỡng do như Phật tháp, chúng sanh kiến giả vô bất lễ kính, tùng năng liễu huyễn chánh pháp sở sanh, nhất thiết thế gian bất khả vi dụ. Bồ-Tát Ma-ha-tát ư thử hoa thượng kết già phu tọa, kỳ thân đại tiểu dữ hoa tướng xưng.
Hoa sen lớn đó, đầy đủ thanh tịnh trang nghiêm của Như Lai. Do tất cả căn lành sinh ra, tiêu biểu sự cát tường, sự hiển hiện thần lực. Có mười ngàn A tăng kỳ công đức thanh tịnh. Chỗ thành tựu diệu đạo của Bồ Tát, chỗ chảy ra tâm nhất thiết trí. Hình bóng mười phương chư Phật, hiển hiện ra trong đó. Thế gian chiêm ngưỡng, giống như tháp của Phật. Chúng sinh thấy được, thảy đều lễ kính. Từ chỗ thấu rõ chánh pháp huyễn sinh ra, tất cả thế gian không thể ví dụ được. Đại Bồ Tát ngồi kiết già trên hoa sen đó, thân Ngài không lớn nhỏ, rất tương xứng với hoa sen.
Giảng: Đoá hoa sen lớn đó, đầy đủ sự thanh tịnh trang nghiêm của chư Phật. Đó là do tất cả căn lành sinh ra, tiêu biểu bên ngoài để quán, hoa sen đó cát tường dị thường, đó là thần lực của Bồ Tát hiện ra, cũng nhờ mười phương chư Phật gia bị sở hiện. Đoá hoa sen lớn đó, có mười ngàn A tăng kỳ công đức thanh tịnh thành tựu, cũng là sự tu hành lục độ vạn hạnh của Bồ Tát thành tựu. Đó là từ tâm nhất thiết trí chảy ra. Hình bóng của mười phương chư Phật, đều hiển hiện ra trong hoa sen. Tất cả chúng sinh thế gian chiêm ngưỡng đoá hoa sen lớn đó, giống như bảo tháp của Phật. Hết thảy chúng sinh, phàm thấy được đoá hoa sen đó, thảy đều cung kính lễ bái. Đoá hoa sen đó là từ chỗ thấu rõ chánh pháp huyễn sinh ra, tất cả lời lẽ và văn tự thế gian không cách chi hình dung, không thể nào ví dụ được.
Người có duyên, mới nghe được Phật pháp, mà sinh tín tâm. Người không có duyên, nghe pháp cũng không sinh tâm tin, chẳng gần gũi thiện tri thức. Do đó :
« Nước mưa tuy nhiều,
Nhưng không thấm nhuần cây không rễ
Cửa Phật tuy rộng,
Nhưng khó độ người vô duyên ».
Người có căn lành, mới có cơ hội nghe được Phật pháp; người chẳng có căn lành, không thể nghe được Phật pháp. Chúng ta đều là người có căn lành, vì kiếp trước đã tu căn lành, cho nên đời này nghe được chánh pháp. Hiện tại phải thương tiếc căn lành, phải tài bồi căn lành, khiến cho nó sinh rễ, khiến cho nó nở hoa, khiến cho nó kết quả. Cũng có nghĩa là khiến cho căn lành của mình tăng trưởng, khiến cho căn lành của mình thành thục. Khi căn lành thành thục thì liền được giải thoát.
Đại Bồ Tát ngồi kiết già trên hoa sen báu lớn đó, thân Ngài lớn nhỏ, rất tương xứng với hoa sen. Tóm lại, hoa sen lớn bao nhiêu, thì thân Bồ Tát lớn bấy nhiêu, đó là biểu thị tự nội mà quán, lượng chu sa giới; tự ngoại mà quán, hộ chúng quán xem. Cho nên, cảnh giới tức nhỏ tức lớn.
Ngồi kiết già còn gọi là ngồi kim cang, còn gọi là ngồi hoa sen, còn gọi là ngồi tu di, tuy nhiên danh từ khác nhau, nhưng tư thế đều giống nhau, tác dụng như nhau. Pháp ngồi này, sinh ra tất cả chánh định, sinh ra tất cả chánh thọ. Từ trong sự ngồi kiết già này, sinh ra trăm ngàn vạn ức môn tam muội.
Tại sao gọi là ngồi kim cang ? Vì tư thế ngồi này rất là kiên cố, hay hàng phục thiên ma, chế các ngoại đạo. Dùng định thắng động, dùng định thắng loạn, vì định lực này, vượt qua tất cả pháp thuật của ma vương (còn gọi là ngồi hàng ma). Nếu ngồi được kiết già, thì sẽ có cảnh giới như như bất động, rõ ràng sáng suốt. Tự nhiên sinh ra đại định Lăng Nghiêm, vì định lực này từ trong tâm kim cang sinh ra, nên gọi là ngồi kim cang.
Tại sao gọi là ngồi hoa sen ? Vì tư thế ngồi giống như hoa sen. Lại vì thường ngồi trên hoa sen, biểu thị thân nhẹ mà có định lực. Lại có ý nghĩa thủ hoa sen tạng thế giới, nên gọi là ngồi hoa sen, còn gọi là ngồi cát tường.
Tại sao gọi là ngồi tu di ? Vì tư thế ngồi này, giống như núi Tu Di, an ổn bất động, lớn mà không ngoài, nhỏ mà chẳng trong. Tận hư không khắp pháp giới, đầy dẫy quang minh, nên gọi là ngồi tu di.
Nhất thiết chư Phật thần lực sở gia, lệnh Bồ Tát thân nhất nhất mao khổng các xuất bách vạn ức na-do-tha bất khả thuyết Phật sát vi trần số quang minh, nhất nhất quang minh hiện bách vạn ức na-do-tha bất khả thuyết Phật sát vi trần số ma ni bảo, kỳ bảo giai danh: phổ quang minh tạng, chủng chủng sắc tướng dĩ vi trang nghiêm, vô lượng công đức chi sở thành tựu, chúng bảo cập hoa dĩ vi la võng di phước kỳ thượng, tán bách thiên ức na-do-tha thù thắng diệu hương, vô lượng sắc tướng chủng chủng trang nghiêm, phục hiện bất tư nghị bảo trang nghiêm cái dĩ phước kỳ thượng.
Được thần lực của tất cả chư Phật gia bị, khiến cho mỗi lỗ chân lông trên thân Bồ Tát, đều phóng ra quang minh nhiều như số hạt bụi trăm ngàn ức Na do tha bất khả thuyết cõi Phật. Mỗi quang minh, đều hiện ra ma ni báu nhiều như số hạt bụi trăm ngàn ức Na do tha bất khả thuyết cõi Phật. Các ma ni báu đó đều gọi là phổ quang minh minh tạng, đủ thứ sắc tướng dùng để trang nghiêm. Thành tựu vô lượng công đức, các báu và hoa dùng làm lưới la, giăng che phía trên. Rải trăm ngàn ức Na do tha hương thơm thù thắng, có vô lượng sắc tướng đủ thứ sự trang nghiêm. Lại hiện lọng báu trang nghiêm không nghĩ bàn để che phía trên.
Giảng: Được thần lực của tất cả mười phương chư Phật ba đời gia bị, khiến cho mỗi lỗ chân lông trên toàn thân Bồ Tát, đều phóng ra quang minh. Trong mỗi lỗ chân lông, đều phóng ra quang minh, nhiều như số hạt bụi trăm ngàn ức na do tha bất khả thuyết cõi Phật. Trong mỗi luồng quang minh, lại hiện ra ma ni báu nhiều như số hạt bụi trăm ngàn ức na do tha bất khả thuyết cõi Phật. Các ma ni báu đó, đều đồng một tên, đều gọi là phổ quang minh minh tạng. Quang minh đó, chiếu khắp mười phương bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới, chúng sinh ở trong mỗi thế giới, thọ được quang minh đó chiếu sáng, không lâu liền thành tựu Phật đạo.
Các ma ni báu đó, phóng ra đủ thứ vô lượng quang minh. Dùng đủ thứ sắc tướng dùng để trang nghiêm. Cảnh giới đó, do Bồ Tát tu vô lượng công đức mà thành tựu. Dùng các báu và hoa để làm lưới la, giăng che phía trên hoa sen báu lớn, khắp rải trăm ngàn ức na do tha hương thơm đặc biệt thù thắng. Vô lượng sắc tướng có đủ thứ sự trang nghiêm. Lại hiện lọng báu trang nghiêm không thể nghĩ bàn, ở trong hư không để che phía trên hoa sen báu lớn.
Nhất nhất ma-ni bảo tất hiện bách vạn ức na-do-tha bất khả thuyết Phật sát vi trần số lâu các; nhất nhất lâu các hiện bách vạn ức na do tha bất khả thuyết Phật sát vi trần số liên hoa tạng sư tử chi tọa; nhất nhất sư tử tọa hiện bách vạn ức na-do-tha bất khả thuyết Phật sát vi trần số quang minh; nhất nhất quang minh hiện bách vạn ức na-do-tha bất khả thuyết Phật sát vi trần số sắc tướng; nhất nhất sắc tướng hiện bách vạn ức na-do-tha bất khả thuyết Phật sát vi trần số quang minh luân; nhất nhất quang minh luân hiện bách vạn ức na-do-tha bất khả thuyết Phật sát vi trần số Tì Lô-giá-na ma-ni bảo hoa; nhất nhất hoa hiện bách vạn ức na do tha bất khả thuyết Phật sát vi trần số đài; nhất nhất đài hiện bách vạn ức na-do-tha bất khả thuyết Phật sát vi trần số Phật; nhất nhất Phật hiện bách vạn ức na-do-tha bất khả thuyết Phật sát vi trần số thần biến; nhất nhất thần biến tịnh bách vạn ức na-do-tha bất khả thuyết Phật sát vi trần số chúng sanh chúng
Mỗi ma ni báu, đều hiện lầu các nhiều như số hạt bụi trăm vạn ức Na do tha bất khả thuyết cõi Phật. Mỗi lầu các, lại hiện ra toà sư tử liên hoa tạng, nhiều như số hạt bụi trăm vạn ức Na do tha bất khả thuyết cõi Phật.
Mỗi toà sư tử, lại hiện ra quang minh, nhiều như số hạt bụi trăm vạn ức Na do tha bất khả thuyết cõi Phật. Mỗi quang minh, lại hiện ra sắc tướng, nhiều như số hạt bụi trăm vạn ức bất khả thuyết cõi Phật.
Mỗi sắc tướng, lại hiện ra quang minh luân, nhiều như số hạt bụi trăm vạn ức Na do tha bất khả thuyết cõi Phật. Mỗi quang minh luân, lại hiện ra hoa báu ma ni tỳ lô giá na, nhiều như số hạt bụi trăm vạn ức Na do tha bất khả thuyết cõi Phật.
Mỗi hoa báu, lại hiện ra đài, nhiều như số hạt bụi trăm vạn ức Na do tha bất khả thuyết cõi Phật. Mỗi đài, lại hiện ra chư Phật, nhiều như số hạt bụi trăm vạn ức Na do tha bất khả thuyết cõi Phật.
Mỗi vị Phật, lại hiện thần biến, nhiều như số hạt bụi trăm vạn ức Na do tha bất khả thuyết cõi Phật. Mỗi thần biến, thanh tịnh cõi chúng sinh, nhiều như số hạt bụi trăm vạn ức Na do tha bất khả thuyết cõi Phật.
Giảng: Trong mỗi hạt ma ni báu, đều hiện ra lầu các nhiều như số hạt bụi trăm vạn ức na do tha bất khả thuyết cõi Phật. Trong mỗi lầu các, lại hiện ra toà sư tử liên hoa tạng, nhiều như số hạt bụi trăm vạn ức na do tha bất khả thuyết cõi Phật.
Trong mỗi toà sư tử, lại hiện ra quang minh, nhiều như số hạt bụi trăm vạn ức na do tha bất khả thuyết cõi Phật. Trong mỗi quang minh, lại hiện ra sắc tướng, nhiều như số hạt bụi trăm vạn ức bất khả thuyết cõi Phật.
Trong mỗi thứ sắc tướng, lại hiện ra quang minh luân, nhiều như số hạt bụi trăm vạn ức na do tha bất khả thuyết cõi Phật. Trong mỗi quang minh luân, lại hiện ra hoa báu ma ni tỳ lô giá na, nhiều như số hạt bụi trăm vạn ức na do tha bất khả thuyết cõi Phật.
Trong mỗi đoá hoa báu, lại hiện ra đài, nhiều như số hạt bụi trăm vạn ức na do tha bất khả thuyết cõi Phật. Trong mỗi toà đài, lại hiện ra chư Phật, nhiều như số hạt bụi trăm vạn ức na do tha bất khả thuyết cõi Phật.
Trong mỗi vị Phật, lại hiện thần biến, nhiều như số hạt bụi trăm vạn ức na do tha bất khả thuyết cõi Phật. Trong mỗi thứ thần biến, thanh tịnh cõi chúng sinh, nhiều như số hạt bụi trăm vạn ức na do tha bất khả thuyết cõi Phật.
Nhất nhất chúng sanh chúng trung hiện bách vạn ức na-do-tha bất khả thuyết Phật sát vi trần số chư Phật tự tại; nhất nhất tự tại vũ bách vạn ức na-do-tha bất khả thuyết Phật sát vi trần số Phật Pháp; nhất nhất Phật Pháp hữu bách vạn ức na-do-tha bất khả thuyết Phật sát vi trần số tu-đa-la; nhất nhất tu-đa-la thuyết bách vạn ức na-do-tha bất khả thuyết Phật sát vi trần số Pháp môn; nhất nhất Pháp môn hữu bách vạn ức na do tha bất khả thuyết Phật sát vi trần số Kim Cương trí sở nhập Pháp luân, sái biệt ngôn từ các biệt diễn thuyết; nhất nhất Pháp luân thành thục bách vạn ức na-do-tha bất khả thuyết Phật sát vi trần số chúng sanh giới; nhất nhất chúng sanh giới hữu bách vạn ức na-do-tha bất khả thuyết Phật sát vi trần số chúng sanh, ư Phật Pháp trung nhi đắc điều phục.
Trong mỗi chúng sinh, lại hiện ra tự tại của chư Phật, nhiều như số hạt bụi trăm vạn ức Na do tha bất khả thuyết cõi Phật. Mỗi tự tại, mưa Phật pháp, nhiều như số hạt bụi trăm vạn ức Na do tha bất khả thuyết cõi Phật.
Mỗi Phật pháp, lại có Tu đa la, nhiều như số hạt bụi trăm vạn ức Na do tha bất khả thuyết cõi Phật. Mỗi Tu đa la, diễn nói pháp môn, nhiều như số hạt bụi trăm vạn ức Na do tha bất khả thuyết cõi Phật.
Mỗi pháp môn, lại có kim cang trí nhập vào pháp luân, nhiều như số hạt bụi trăm vạn ức Na do tha bất khả thuyết cõi Phật, những lời lẽ đều khác biệt, đều diễn nói khác nhau. Mỗi pháp luân, thành thục cõi chúng sinh, nhiều như số hạt bụi trăm vạn ức Na do tha bất khả thuyết cõi Phật.
Mỗi cõi chúng sinh, lại có chúng sinh, nhiều như số hạt bụi trăm vạn ức Na do tha bất khả thuyết cõi Phật, ở trong Phật pháp được điều phục.
Giảng: Ở trong mỗi chúng sinh, lại hiện ra tự tại của chư Phật, nhiều như số hạt bụi trăm vạn ức na do tha bất khả thuyết cõi Phật. Ở trong mỗi thứ tự tại, mưa Phật pháp, nhiều như số hạt bụi trăm vạn ức na do tha bất khả thuyết cõi Phật.
Ở trong mỗi Phật pháp, lại có Tu đa la (kinh điển), nhiều như số hạt bụi trăm vạn ức na do tha bất khả thuyết cõi Phật. Ở trong mỗi Tu đa la, diễn nói pháp môn, nhiều như số hạt bụi trăm vạn ức na do tha bất khả thuyết cõi Phật.
Ở trong mỗi thứ pháp môn, lại có kim cang trí, nhiều như số hạt bụi trăm vạn ức na do tha bất khả thuyết cõi Phật, chứng được pháp luân, lời lẽ khác biệt, đều diễn nói khác nhau. Ở trong mỗi pháp luân, thành thục cõi chúng sinh, nhiều như số hạt bụi trăm vạn ức na do tha bất khả thuyết cõi Phật.
Ở trong mỗi cõi chúng sinh, lại có chúng sinh, nhiều như số hạt bụi trăm vạn ức na do tha bất khả thuyết cõi Phật, ở trong Phật pháp được điều phục. Những cảnh giới ở trên, sum la vạn tượng, thật là không thể nghĩ bàn.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát trụ thử tam muội, thị hiện như thị thần thông cảnh giới vô lượng biến hóa, tất tri như huyễn nhi bất nhiễm trước, an trụ vô biên bất khả thuyết Pháp. Tự tánh thanh tịnh, Pháp giới thật tướng, Như Lai chủng tánh, vô ngại tế trung, vô khứ vô lai, phi tiên phi hậu, thậm thâm vô để, hiện lượng sở đắc, dĩ trí tự nhập, bất do tha ngộ. Tâm bất mê loạn diệc vô phân biệt.
Phật tử ! Đại Bồ Tát trụ tam muội này, thị hiện cảnh giới thần thông như vậy, vô lượng sự biến hoá, đều biết như huyễn, nên không chấp trước. An trụ vô biên bất khả thuyết pháp, tự tánh thanh tịnh, pháp giới thật tướng. Trong chủng tánh không bờ mé của Như Lai, không đến, không đi, chẳng trước, chẳng sau, thâm sâu không đáy. Hiện lượng sở đắc, dùng trí tự vào, chẳng do người khác mà ngộ, tâm chẳng mê loạn, cũng không phân biệt.
Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát khi trụ tam muội này, thì thị hiện cảnh giới thần thông như vậy, diệu dụng biến hoá, tự có hoá không, tự không hoá có, vô lượng vô biên. Bồ Tát đều biết tất cả sự biến hoá, như huyễn như hoá, cho nên không nhiễm trước, không tham luyến, an trụ trong vô biên bất khả thuyết pháp. Tự tánh là thanh tịnh, pháp giới là thật tướng. Thật tướng là tướng như thật, cũng là vô tướng, tướng không hư vọng, nhưng vô sở bất tướng. Chứng được chủng tánh của Như Lai, ở trong cảnh giới chẳng có chướng ngại, cũng không đến, cũng không đi, cũng chẳng trước, cũng chẳng sau, pháp đó thâm sâu không đáy. Dùng hiện lượng sở đắc, dùng trí huệ mà tự vào, chẳng phải do người khác giúp đỡ mà khai ngộ, tâm của Bồ Tát chẳng mê loạn, cũng không phân biệt.
Vi khứ, lai, kim nhất thiết chư Phật chi sở xưng tán, tùng chư Phật lực chi sở lưu xuất, nhập ư nhất thiết chư Phật cảnh giới. Thể tánh như thật, Tịnh nhãn hiện chứng, Tuệ-nhãn phổ kiến, thành tựu Phật nhãn vi thế minh đăng, hành ư trí nhãn sở tri cảnh giới, quảng năng khai thị vi diệu Pháp môn.
Được tất cả chư Phật quá khứ vị lai hiện tại khen ngợi, từ lực của chư Phật chảy ra, vào tất cả cảnh giới của chư Phật, thể tánh như thật. Mắt thanh tịnh hiện chứng, mắt trí huệ thấy khắp, thành tựu mắt của Phật, làm đèn sáng cho thế gian. Tu hành mắt trí huệ, biết được cảnh giới, rộng khai thị pháp môn vi diệu.
Giảng: Cảnh giới của Bồ Tát, được tất cả chư Phật mười phương, quá khứ, vị lai, hiện tại, khen ngợi tán thán. Là từ sức đại oai đức của tất cả chư Phật chảy ra, nhập vào trong cảnh giới của tất cả chư Phật. Thể tánh là chân thật, không có hư vọng. Mắt pháp thanh tịnh hiện chứng, mắt trí huệ thấy khắp, thành tựu mắt của Phật, làm đèn sáng cho thế gian. Tu hành mắt trí huệ, biết được cảnh giới, rộng vì tất cả chúng sinh khai thị pháp môn vi diệu không thể nghĩ bàn.
Thành Bồ-đề tâm, thú thắng trượng phu, ư chư cảnh giới vô hữu chướng ngại. Nhập trí chủng tánh xuất sanh chư trí, ly thế sanh pháp nhi hiện thọ sanh, thần thông biến hóa, phương tiện điều phục. Như thị nhất thiết vô phi thiện xảo.
Thành tựu tâm bồ đề, hướng về trượng phu thù thắng. Nơi các cảnh giới, chẳng có chướng ngại. Vào trí huệ chủng tánh, sinh ra các trí huệ. Lìa sinh pháp thế gian, mà hiện thọ sinh. Thần thông biến hoá, điều phục tất cả như vậy, đều là phương tiện khéo léo.
Giảng: Bồ Tát thành tựu tâm bồ đề, hướng về đại trượng phu thù thắng. Đối với tất cả cảnh giới, chẳng có chướng ngại. Vào trí huệ chủng tánh, sinh ra nhất thiết trí huệ. Tuy nhiên lìa khỏi pháp sinh tử thế gian, nhưng vẫn còn thị hiện tướng thọ sanh tử. Dùng đủ thứ thần thông biến hoá, phương tiện để điều phục chúng sinh, tất cả như vậy đều là phương tiện khéo léo.
Công đức giải dục tất giai thanh tịnh, tối cực vi diệu cụ túc viên mãn, trí tuệ quảng đại do như hư không, thiện năng quan sát chúng Thánh cảnh giới, tín hạnh, nguyện. lực kiên cố bất động, công đức vô tận thế sở xưng thán. ư nhất thiết Phật sở quán chi tạng, Đại bồ-đề xứ nhất thiết trí hải, tập chúng diệu bảo, vi Đại trí giả, do như liên hoa tự tánh thanh tịnh, chúng sanh kiến giả giai sanh hoan hỉ, hàm đắc lợi ích. trí quang phổ chiếu, kiến vô lượng Phật. Tịnh nhất thiết pháp
Công đức thấu hiểu mong muốn, thảy đều thanh tịnh, vi diệu tối cực, đầy đủ viên mãn. Trí huệ rộng lớn như hư không. Khéo quán sát cảnh giới của các bậc Thánh. Tin hành nguyện lực, kiên cố bất động. Công đức vô tận, được thế gian khen ngợi.
Nơi tạng chỗ quán của tất cả chư Phật, nơi đại bồ đề, biển nhất thiết trí, tích tập các báu đẹp, làm bậc đại trí. Như hoa sen, tự tánh thanh tịnh. Chúng sinh thấy được, đều sinh hoan hỉ, đều được lợi ích. Trí huệ quang minh chiếu khắp, thấy vô lượng chư Phật, tịnh tất cả pháp.
Giảng: Bồ Tát đối với công đức, sự thấu hiểu, sự hy vọng, thảy đều thanh tịnh. Nói tóm lại, dù ở trong pháp nhiễm ô, cũng tu pháp thanh tịnh. Chỗ vi diệu đến chỗ tối cực nhất, lại đầy đủ lại viên mãn. Nhất thiết rí huệ rộng lớn vô biên, giống như hư không, bao la vạn hữu. Do đó : « Chân không diệu hữu, diệu hữu chân không ». Bồ Tát khéo quán sát cảnh giới của các bậc Thánh, tức cũng là cảnh giới của Phật Bồ Tát. Đầy đủ tâm tin và nguyện lực tu hành, kiên cố bất động. Do đó : « Tám gió thổi không lay ». Công đức của Bồ Tát vô cùng vô tận, được tất cả chúng sinh thế gian khen ngợi.
Đối với tất cả tạng pháp chỗ quán của tất cả chư Phật, nơi đại bồ đề, biển pháp nhất thiết trí, tích tập tất cả căn lành báu đẹp, làm bậc đại trí. Giống như hoa sen lớn, tự tánh của nó thanh tịnh. Nếu chúng sinh thấy được hoa sen thanh tịnh, đều sinh tâm hoan hỉ, đều đắc được lợi ích đáng được. Trí huệ quang minh chiếu khắp tất cả chúng sinh, thấy được mười phương vô lượng chư Phật, thanh tịnh tất cả các pháp.
Sở hạnh tịch tĩnh, ư chư Phật Pháp cứu cánh vô ngại. Hằng dĩ phương tiện trụ Phật Bồ-đề công đức hạnh trung nhi đắc xuất sanh, cụ Bồ Tát trí, vi Bồ Tát thủ, nhất thiết chư Phật cọng sở hộ niệm. Đắc Phật uy thần, thành Phật Pháp thân, niệm lực nan tư, ư cảnh nhất duyên nhi vô sở duyên, kỳ hành quảng đại vô tướng vô ngại, đẳng vu Pháp giới vô lượng vô biên. Sở chứng Bồ-đề do như hư không, vô hữu biên tế, vô sở phược trứ.
Tu hành tịch tĩnh, nơi các Phật pháp, rốt ráo vô ngại. Luôn dùng phương tiện, trụ Phật bồ đề, trong công đức tu hành, được sinh ra. Đủ trí huệ của Bồ Tát, làm Bồ Tát thượng thủ, được tất cả chư Phật cùng hộ niệm, được oai thần của Phật, thành tựu pháp thân Phật, niệm lực khó nghĩ bàn, nơi cảnh một duyên mà vô sở duyên. Bồ Tát tu hành rộng lớn, vô tướng vô ngại, đồng với pháp giới, vô lượng vô biên. Bồ đề chứng được như hư không, chẳng có bờ mé, không có ràng buộc chấp trước.
Giảng: Bồ Tát tu hành đều là pháp tịch tĩnh, đối với tất cả Phật pháp, được rốt ráo không chướng ngại. Thường dùng phương tiện khéo léo, trụ nơi bồ đề giác đạo của Phật. Hết thảy công đức của Phật, ở trong sự tu hành, được sinh ra diệu quả bồ đề. Nếu đầy đủ trí huệ viên mãn của Bồ Tát, thì làm Bồ Tát thượng thủ, được tất cả chư Phật mười phương cùng đến hộ niệm, được đại oai thần lực của Phật, thành tựu pháp thân của Phật, đầy khắp tất cả mọi nơi. Niệm lực của Bồ Tát là khó nghĩ bàn, nơi mỗi một thứ cảnh giới và mỗi một thứ duyên, chẳng phan duyên. Bồ Tát tu hành rộng lớn vô biên, chẳng có tướng, cũng chẳng có chướng ngại, đồng với pháp giới, vô lượng vô biên. Bồ đề chứng được như hư không, chẳng có bờ mé, không có ràng buộc chấp trước.
Ư chư thế gian phổ tác nhiêu ích, nhất thiết trí hải thiện căn sở lưu, tất năng thông đạt vô lượng cảnh giới. Dĩ thiện thành tựu thanh tịnh thí Pháp, trụ Bồ Tát tâm, tịnh Bồ Tát chủng, năng tùy thuận sanh chư Phật Bồ-đề, ư chư Phật Pháp giai đắc thiện xảo, cụ vi diệu hạnh, thành kiên cố lực.
Trong các thế gian, khắp làm lợi ích. Từ biển nhất thiết trí căn lành chảy ra, đều thông đạt vô lượng cảnh giới, đã khéo thành tựu pháp bố thí thanh tịnh, trụ tâm Bồ Tát, tịnh hạt giống Bồ Tát, tuỳ thuận sinh ra bồ đề của chư Phật. Nơi các Phật pháp đều được khéo léo, đủ hạnh vi diệu, thành tựu sức kiên cố.
Giảng: Bồ Tát đối với tất cả chúng sinh thế gian, khắp làm lợi ích. Đó là do biển nhất thiết trí sở tu căn lành chảy ra, hoàn toàn viên mãn vô ngại, thông đạt vô lượng cảnh giới của chư Phật, đã khéo thành tựu pháp môn bố thí thanh tịnh, thường trụ tâm từ bi của Bồ Tát, thanh tịnh hạt giống Bồ Tát, hay tuỳ thuận tu hành, sinh ra bồ đề giác đạo của chư Phật. Đối với tất cả đều đắc được phương tiện khéo léo, đầy đủ hạnh môn vi diệu, thành tựu sức kiên cố.
Nhất thiết chư Phật tự tại uy thần, chúng sanh nan văn, Bồ Tát tất tri nhập bất nhị môn trụ vô tướng Pháp. Tuy phục vĩnh xả nhất thiết chư tướng, nhi năng quảng thuyết chủng chủng chư Pháp, tùy chư chúng sanh tâm lạc dục giải, tất sử điều phục, hàm lệnh hoan hỉ.
Tự tại oai thần của tất cả chư Phật, chúng sinh khó nghe được, Bồ Tát đều biết, vào môn không hai. Trụ pháp vô tướng, nhưng lại vĩnh viễn xả bỏ tất cả các tướng, mà rộng nói đủ thứ các pháp. Tuỳ thuận tâm ưa muốn hiểu biết của các chúng sinh, đều khiến cho họ điều phục, đều khiến cho họ hoan hỉ.
Giảng: Tự tại oai thần của tất cả chư Phật mười phương ba đời, chúng sinh khó nghe khó biết, chỉ có Đẳng giác Bồ Tát mới biết được cảnh giới này, mà vào pháp môn không hai, trụ quả vị pháp vô tướng. Bồ Tát là tức tướng lìa tướng, do đó :
« Quét tất cả pháp, lìa tất cả tướng ».
Bồ Tát lại vĩnh viễn xả bỏ tất cả các pháp, nhưng lại rộng nói đủ thứ pháp tướng của các pháp. Bồ Tát phát nguyện tuỳ thuận chúng sinh, khiến cho trong tâm tất cả chúng sinh hoan hỉ những gì, thì Bồ Tát vì chúng sinh nói pháp đó, khiến cho chúng sinh cang cường, đều bị điều phục. Khiến cho chúng sinh đều đại hoan hỉ.
Pháp giới vi thân vô hữu phân biệt, trí tuệ cảnh giới bất khả cùng tận, chí thường dũng mãnh, tâm hằng bình đẳng. kiến nhất thiết Phật công đức biên tế, liễu nhất thiết kiếp sái biệt thứ đệ
Bồ Tát dùng pháp giới làm thân, không có phân biệt. Trí huệ cảnh giới, không thể cùng tận. Chí thường dũng mãnh, tâm luôn bình đẳng. Thấy được bờ mé công đức của tất cả chư Phật, thấu rõ tất cả kiếp thứ lớp khác nhau.
Giảng: Bồ Tát dùng pháp giới làm thân, hư không làm dụng. Chẳng có tất cả tâm phân biệt, lìa khỏi tất cả thức, mà dùng nhất thiết trí. Cảnh giới trí huệ của Bồ Tát vô cùng vô tận. Chí nguyện của Bồ Tát thường dũng mãnh tinh tấn, chẳng thối lùi về sau. Tâm của Bồ Tát luôn bình đẳng, chẳng có sự phân biệt đó đây, nghĩa là không ta, không người, không chúng sinh, không thọ mạng, tâm bốn tướng. Bồ Tát thấy được bờ mé công đức của tất cả chư Phật tu, thấu rõ tất cả kiếp thứ lớp khác nhau, phân biệt rất rõ ràng.
Khai thị nhất thiết pháp, an trụ nhất thiết sát, nghiêm tịnh nhất thiết chư Phật quốc độ, hiển Hiện-Nhất-Thiết chánh pháp quang minh, diễn khứ, lai, kim nhất thiết Phật Pháp, thị chư Bồ-tát sở trụ chi xứ. Vi thế minh đăng, sanh chư thiện căn, vĩnh ly thế gian, thường sanh Phật sở
Bồ Tát khai thị tất cả pháp, an trụ tất cả cõi, nghiêm tịnh cõi nước của tất cả chư Phật, hiển hiện tất cả chánh pháp quang minh, diễn nói tất cả Phật pháp quá khứ, vị lai, hiện tại. Chỉ bày xứ sở của các Bồ Tát ở, làm đèn sáng cho thế gian, sinh ra các căn lành, vĩnh viễn lìa thế gian, thường sinh vào chỗ Phật.
Giảng: Bồ Tát khai thị chúng sinh tất cả pháp, an trụ tại cõi nước của tất cả chư Phật, trang nghiêm thanh tịnh cõi nước của tất cả chư Phật, hiển hiện tất cả chánh pháp quang minh, diễn nói tất cả Phật pháp ba đời quá khứ, vị lai, hiện tại. Chỉ bày xứ sở của tất cả Bồ Tát ở, làm đèn sáng cho thế gian, sinh ra tất cả các căn lành, vĩnh viễn lìa khỏi tất cả pháp ô nhiễm, thường sinh vào đạo tràng của Phật, gần gũi Phật, thừa sự Phật.
Đắc Phật trí tuệ minh liễu đệ nhất. Nhất thiết chư Phật giai cộng nhiếp thọ, dĩ nhập vị lai chư Phật chi số, tùng chư thiện hữu nhi đắc xuất sanh, sở hữu chí cầu giai vô bất quả.
Bồ Tát đắc được trí huệ sáng tỏ đệ nhất của Phật, được tất cả chư Phật đều cùng nhiếp thọ, đã vào số của chư Phật vị lai. Từ các bạn lành mà được sinh ra, hết thảy chí cầu, đều thành tựu quả.
Giảng: Bồ Tát đắc được hết thảy tất cả trí huệ, thấu rõ đạo lý đệ nhất nghĩa đế của Phật, tức cũng là trung đạo. Trung đạo tức là chẳng rơi vào bên có, chẳng rơi vào bên không, hai bên. Được tất cả chư Phật mười phương ba đời, đều cùng đến nhiếp thọ. Đã chứng nhập vào số của chư Phật vị lai. Là từ các bạn lành mà được sinh ra, hết thảy chí nguyện, đều được viên mãn thành tựu quả.
Cụ đại uy đức, trụ tăng thượng ý, tùy sở thính văn hàm năng thiện thuyết, diệc vi khai thị văn Pháp thiện căn. Trụ thật tế luân, ư nhất thiết Pháp tâm vô chướng ngại. Bất xả chư hạnh, ly chư phân biệt
Bồ Tát đầy đủ đại oai đức, trụ tại ý tăng thượng, theo chỗ nghe được, đều khéo diễn nói. Cũng vì khai thị thiện căn nghe pháp trụ thật tế luân, nơi tất cả pháp, tâm không chướng ngại, không xả bỏ các hạnh, lìa khỏi các sự phân biệt.
Giảng: Bồ Tát lại đầy đủ đại oai đức, trụ tại tâm bồ đề tăng thượng. Bất cứ ở trong đạo tràng nào, phàm là nghe được pháp của Phật nói, đều nhớ mãi không quên, tuỳ thời tuỳ lúc khéo nói diệu pháp, giáo hoá chúng sinh. Bồ Tát khai thị chúng sinh, khiến cho chúng sinh nghe pháp mà tăng trưởng căn lành, trụ tại thật tế (chân như pháp tánh) luân. Đối với tất cả pháp, trong tâm không chướng ngại. Không xả bỏ tất cả hạnh môn của Bồ Tát tu, lìa khỏi tất cả tâm phân biệt.
Ư nhất thiết Pháp tâm vô động niệm. Đắc trí tuệ minh diệt chư si ám, tất năng minh chiếu nhất thiết Phật Pháp, bất hoại chư hữu nhi sanh kỳ trung, liễu tri nhất thiết chư hữu cảnh giới. Tùng bổn dĩ lai vô hữu động tác, thân, ngữ, ý nghiệp giai tất vô biên
Nơi tất cả pháp, tâm không động niệm. Đắc được trí huệ quang minh, diệt trừ các ngu si đen tối. Đều chiếu sáng tất cả Phật pháp, chẳng phá hoại các cõi, mà sinh trong đó. Biết rõ tất cả cảnh giới các cõi. Từ xưa đến nay, không có động tác. Thân lời ý nghiệp, thảy đều vô biên.
Giảng: Bồ Tát đối với tất cả pháp, thấu hiểu thâm sâu, cho nên tâm không có vọng niệm. Đắc được trí huệ quang minh, diệt trừ các ngu si đen tối, đều chiếu sáng thông đạt tất cả pháp của chư Phật nói, không cần phá hoại tam giới hai mươi lăm cõi, tuy nhiên ở trong tam giới các cõi, nhưng thấu rõ cảnh giới các cõi trong tam giới. Từ vô thuỷ cho đến hiện tại, không có động tác. Thân lời ý ba nghiệp, thảy đều vô lượng vô biên.
Tuy tùy thế tục diễn thuyết chủng chủng vô lượng văn tự, nhi hằng bất hoại ly văn tự Pháp. Thâm nhập Phật hải, tri nhất thiết pháp đãn hữu giả danh, ư chư cảnh giới vô hệ Vô Trước;
Tuy tuỳ thế tục, diễn nói đủ thứ vô lượng văn tự, mà luôn hoại lìa pháp văn tự. Vào sâu biển Phật, biết tất cả pháp chỉ có giả danh. Nơi các cảnh giới, không ràng buộc, không chấp trước.
Giảng: Bồ Tát tuy nhiên tuỳ thế tục của thế gian, diễn nói đủ thứ vô lượng văn tự, nhưng thường không phá hoại pháp chân đế lìa khỏi pháp văn tự. Vào sâu biển trí huệ của Phật, biết tất cả pháp chỉ có giả danh mà thôi. Đối với hết thảy tất cả cảnh giới, không ràng buộc, không chấp trước.
Liễu nhất thiết pháp không vô sở hữu, sở tu chư hạnh tùng Pháp giới sanh, do như hư không vô tướng vô hình. Thâm nhập Pháp giới tùy thuận diễn thuyết, ư nhất cảnh môn sanh nhất thiết trí,
Thấu rõ tất cả các pháp, vốn không chẳng chỗ có, tu các hạnh đều từ pháp giới sinh ra. Giống như hư không, không tướng, không hình, vào sâu pháp giới, tuỳ thuận diễn nói. Nơi một môn cảnh giới, sinh ra nhất thiết trí.
Giảng: Bồ Tát thấu rõ tất cả pháp, vốn không chẳng chỗ có, tu các hạnh đều từ pháp giới sinh ra. Giống như hư không, không tướng, cũng không hình. Vào sâu pháp giới, tuỳ thuận chúng sinh diễn nói diệu pháp. Ở trong một môn cảnh giới, bèn sinh ra nhất thiết trí.
Quán thập lực địa dĩ trí tu học, trí vi kiều lương chí Tát bà nhã, dĩ trí Tuệ-nhãn kiến pháp vô ngại, thiện nhập chư địa tri chủng chủng nghĩa, nhất nhất Pháp môn tất đắc minh liễu, sở hữu đại nguyện mị bất thành tựu.
Quán bậc Thập lực, dùng trí tu học. Trí làm kiều lương, đến Tát bà nhạ. Dùng mắt trí huệ, thấy pháp vô ngại. Khéo vào các địa, biết đủ thứ nghĩa lý. Mỗi mỗi pháp môn, đều được sáng tỏ. Hết thảy đại nguyện, thảy đều thành tựu.
Giảng: Bồ Tát quán sát địa vị của mười phương chư Phật thập lực, dùng trí huệ để tu học tất cả Phật pháp. Dùng trí làm kiều lương, đến bờ bên kia nhất thiết trí. Dùng mắt trí huệ, thấy tất cả pháp không chướng ngại. Khéo vào mười địa của Bồ Tát, biết rõ đủ thứ nghĩa lý. Hết thảy mỗi một pháp môn, hoàn toàn minh bạch thấu rõ. Đại nguyện của Bồ Tát phát ra, nguyện nguyện đều thành tựu, chẳng có một nguyện nào mà chẳng thành tựu.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát dĩ thử khai thị nhất thiết Như Lai vô sái biệt tánh, thử thị vô ngại phương tiện chi môn, thử năng xuất sanh Bồ Tát chúng hội, thử pháp duy thị tam muội cảnh giới, thử năng dũng tiến nhập Tát bà nhã, thử năng khai hiển chư tam muội môn, thử năng vô ngại phổ nhập chư sát, thử năng điều phục nhất thiết chúng sanh, thử năng trụ ư vô chúng sanh tế, thử năng khai thị nhất thiết Phật Pháp, thử ư cảnh giới giai vô sở đắc.
Phật tử ! Đại Bồ Tát dùng nghĩa lý này, để khai thị tánh không khác biệt của tất cả Như Lai. Đây là môn phương tiện vô ngại. Đây hay sinh ra Bồ Tát chúng hội. Pháp này chỉ là cảnh giới tam muội. Đây hay dũng mãnh tinh tấn vào Tát bà nhạ. Đây hay khai hiển các môn tam muội. Đây hay vào khắp các cõi vô ngại. Đây hay điều phục tất cả chúng sinh. Đây hay trụ bờ mé không chúng sinh. Đây hay khai thị tất cả Phật pháp. Nơi cảnh giới này, đều vô sở đắc.
Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát dùng nghĩa lý này, để khai thị pháp tánh không khác biệt của tất cả chư Phật. Đây là môn phương tiện khéo léo không chướng ngại. Đây hay sinh ra Bồ Tát đạo tràng chúng hội. Pháp này hết thảy đều là cảnh giới tam muội. Đây hay dũng mãnh tinh tấn vào Tát bà nhạ. Đây hay khai hiển tất cả môn tam muội. Đây hay vào khắp tất cả cõi Phật không chướng ngại. Đây hay điều phục tất cả chúng sinh cang cường. Đây hay trụ bờ mé không chúng sinh. Đây hay khai thị pháp của tất cả chư Phật nói. Nơi tất cả cảnh giới này đều vô sở đắc, do đó : « Vô trí diệc vô đắc ».
Tuy nhất thiết thời diễn thuyết khai thị, nhi hằng viễn ly vọng tưởng phân biệt;
Tuy tất cả thời diễn nói khai thị, mà luôn xa lìa vọng tưởng phân biệt.
Giảng: Tuy Bồ Tát tất cả thời, diễn nói diệu pháp, khai thị chúng sinh. Song, pháp môn đó, luôn xa lìa tất cả vọng tưởng và phân biệt. Ý nghĩa câu này là « Có chẳng ngại không », vì dùng có là có ở trong không. Ý nghĩa bốn mươi câu dưới đây là nói rõ đạo lý « Không chẳng ngại có », vì không là không ở trong có. Cho nên một câu ở trước là « Hai mà chẳng hai », bốn mươi câu sau là « Chẳng hai mà hai ».
Tuy tri chư Pháp giai vô sở tác, nhi năng thị Hiện-Nhất-Thiết tác nghiệp; tuy tri chư Phật vô hữu nhị tướng, nhi năng hiển thị nhất thiết chư Phật; tuy tri vô sắc, nhi diễn thuyết chư sắc
Tuy tri thị cố, nhi diễn thuyết chư thọ; tuy tri vô tưởng, nhi diễn thuyết chư tưởng; tuy tri vô hành, nhi diễn thuyết chư hạnh; tuy tri vô thức, nhi diễn thuyết chư thức, hằng dĩ Pháp luân khai thị nhất thiết; tuy tri Pháp vô sanh, nhi thường chuyển pháp luân; tuy tri Pháp vô sái biệt, nhi thuyết chư sái biệt môn; tuy tri chư Pháp vô hữu sanh diệt, nhi thuyết nhất thiết sanh diệt chi tướng;
Tuy biết các pháp đều vô sở tác, mà hay thị hiện tất cả tác nghiệp. Tuy biết chư Phật không có hai tướng, mà hay hiển bày tất cả chư Phật. Tuy biết không sắc, mà diễn nói các sắc.
Tuy biết không thọ, mà diễn nói các thọ. Tuy biết không tưởng, mà diễn nói các tưởng. Tuy biết không hành, mà diễn nói các hành. Tuy biết không thức, mà diễn nói các thức. Luôn dùng pháp luân khai thị tất cả. Tuy biết pháp không sinh, mà thường chuyển pháp luân.
Tuy biết pháp không khác biệt, mà nói các môn khác nhau. Tuy biết các pháp không có sinh diệt, mà nói tất cả tướng sinh diệt.
Giảng: Bồ Tát tuy biết các pháp, vốn đều không tạo tác, nhưng vẫn phải thị hiện tất cả nghiệp làm ra và sở thọ quả báu.
Các pháp là gì ? Nói đơn giản tức là tất cả pháp. Nói rộng ra tức là tám vạn bốn ngàn pháp. Tám vạn bốn ngàn pháp lại chia thành trăm pháp. Trăm pháp là những pháp gì ? Đó là :
1. Sắc pháp : Có 11 thứ pháp.
2. Tâm pháp : Có 8 thứ pháp.
3. Tâm sở pháp : Có 51 thứ pháp.
4. Bất tương ưng pháp : Có 24 thứ pháp.
5. Vô vi pháp : Có 6 thứ pháp.
Tổng cộng lại có 100 pháp. Đây là 100 pháp của đại thừa, tiểu thừa chỉ có 75 pháp. Nếu muốn thấu hiểu tường tận, thì hãy tham khảo quyển Bách Pháp Minh Môn Luận.
Bồ Tát tuy biết tất cả chư Phật không có hai tướng, chỉ có một tướng, mà vẫn phải thị hiện mười phương ba đời tất cả chư Phật đủ thứ tướng. Tại sao ? Vì muốn độ chúng sinh thoát khỏi ba cõi, chấm dứt sinh tử, cho nên thị hiện pháp môn phương tiện.
Bồ Tát tuy biết không có sắc, là không, mà vẫn phải diễn nói pháp môn tất cả các sắc. Các pháp vô ngã, năm uẩn đều không, đạo lý này Bồ Tát đều thấu hiểu. Vì độ chúng sinh, cho nên trong không nói có, trong có nói không, dùng pháp phương tiện khéo léo, để giáo hoá chúng sinh, khiến cho họ phát bồ đề tâm, cầu vô thượng đạo.
Bồ Tát tuy biết thọ là không, mà vẫn phải diễn nói pháp môn tất cả các thọ.
Bồ Tát tuy biết tưởng là không, mà vẫn phải diễn nói pháp môn tất cả các tưởng.
Bồ Tát tuy biết hành là không, mà vẫn phải diễn nói pháp môn tất cả các hành.
Bồ Tát tuy biết thức là không, mà vẫn phải diễn nói pháp môn tất cả các thức.
Bồ Tát luôn thường chuyển đại pháp luân, để khai thị tất cả chúng sinh, để giáo hoá tất cả chúng sinh, khiến cho họ bỏ mê về giác, chứng được giải thoát.
Bồ Tát tuy biết « Các pháp tùng bản lai, thường tự tịch diệt tướng » không thể dùng lời nói, mà vẫn ở trong pháp không sinh, thường chuyển pháp luân, để vì tất cả chúng sinh thuyết pháp.
Bồ Tát tuy biết tất cả pháp, không có sự khác biệt, mà vẫn phải diễn nói tất cả các môn khác nhau.
Bồ Tát tuy biết tất cả các pháp, không có sinh diệt, mà vẫn phải diễn nói tất cả tướng có sinh diệt.
Tuy tri chư Pháp vô thô vô tế, nhi thuyết chư Pháp thô tế chi tướng; tuy tri chư Pháp vô thượng, trung, hạ, nhi năng tuyên thuyết tối thượng chi Pháp; tuy tri chư Pháp bất khả ngôn thuyết, nhi năng diễn thuyết thanh tịnh ngôn từ; tuy tri chư Pháp vô nội vô ngoại, nhi thuyết nhất thiết nội ngoại chư Pháp; tuy tri chư Pháp bất khả liễu tri, nhi thuyết chủng chủng trí tuệ quan sát; tuy tri chư Pháp vô hữu chân thật, nhi thuyết xuất ly chân thật chi đạo; tuy tri chư Pháp tất cánh vô tận, nhi năng diễn thuyết tận chư hữu lậu
Tuy tri chư Pháp vô vi vô tránh, nhiên diệc bất vô tự tha sái biệt; tuy tri chư Pháp tất cánh vô sư, nhi thường tôn kính nhất thiết sư trưởng; tuy tri chư Pháp bất do tha ngộ, nhi thường tôn kính chư thiện tri thức;
Tuy biết các pháp không thô, không tế, mà nói tướng các pháp thô tế. Tuy biết các pháp không có thượng trung hạ, mà hay diễn nói pháp tối thượng. Tuy biết các pháp không thể nói ra, mà hay diễn nói lời lẽ thanh tịnh.
Tuy biết các pháp không trong, không ngoài, mà nói tất cả các pháp trong ngoài. Tuy biết các pháp không thể biết rõ, mà nói đủ thứ trí huệ quán sát. Tuy biết các pháp không có chân thật, mà nói ra đạo lìa chân thật.
Tuy biết các pháp rốt ráo vô tận, mà hay diễn nói hết các hữu lậu. Tuy biết các pháp không trái, không tranh, nhưng cũng chẳng không tự tha khác biệt.
Tuy biết các pháp rốt ráo vô sư, mà thường tôn kính tất cả sư trưởng. Tuy biết các pháp chẳng do người khác mà ngộ, nhưng thường tôn kính các thiện tri thức.
Giảng: Bồ Tát tuy biết tất cả các pháp, chẳng có tướng thô, cũng chẳng có tướng tế, mà vẫn phải diễn nói tướng pháp thô và pháp tế.
Bồ Tát tuy biết tất cả các pháp, chẳng có phân biệt thượng trung hạ, đều là bình đẳng. Trong Kinh Kim Cang có nói :
« Là pháp bình đẳng, chẳng có cao thấp ».
Mà vẫn phải ở tại pháp bình đẳng diễn nói pháp môn tối thượng.
Bồ Tát tuy biết tất cả các pháp, không thể dùng lời nói, do đó : « Lìa lời nói tướng, lìa tướng văn tự, lìa tâm duyên tướng », mà hay diễn nói lời lẽ thanh tịnh.
Bồ Tát tuy biết tất cả các pháp, chẳng có bên trong, cũng chẳng có bên ngoài, mà vẫn phải diễn nói tất cả các pháp trong ngoài.
Bồ Tát tuy biết tất cả các pháp, là không thể biết rõ, mà vẫn phải diễn nói đủ thứ trí huệ, để quán sát tất cả pháp.
Bồ Tát tuy biết tất cả các pháp, chẳng có tánh chân thật, vốn là hư vọng, mà nói ra pháp lìa khỏi hư vọng không thật, đắc được đạo chân thật.
Bồ Tát tuy biết tất cả các pháp, là rốt ráo vô tận, mà vẫn phải diễn nói hết tất cả pháp hữu lậu. Lại minh bạch pháp vô lậu. Pháp hữu lậu tức là pháp có tướng, tức là pháp hữu vi. Pháp vô lậu tức là pháp vô tướng, tức là pháp vô vi.
Bồ Tát tuy biết tất cả các pháp, là không trái, không tranh, tức cũng là giữa pháp và pháp, chẳng có trái nhau, chẳng tranh luận với nhau, nhưng pháp cũng chẳng có sự phân biệt có tự, cũng chẳng có tha.
Bồ Tát tuy biết tất cả các pháp, đến cực điểm rồi, không thầy mà tự thông, nhưng luôn luôn tôn kính tất cả sư trưởng.
Tại sao không có người dạy mà tự mình thông đạt ? Vì đến được cảnh giới :
« Quét tất cả pháp, lìa tất cả tướng ».
Do đó :
« Lìa tướng lời nói,
Lìa tướng văn tự,
Lìa tướng tâm duyên ».
Nhưng Bồ Tát giáo hoá chúng sinh, dạy họ phải tôn trọng sư phụ, hiếu kính trưởng bối.
Bồ Tát tuy biết tất cả các pháp, là tự giác tự ngộ, chẳng phải do người khác dạy mà khai ngộ, nhưng vẫn phải tôn kính tất cả thiện tri thức, vẫn phải cúng dường thiện tri thức.
Làm thế nào để tự giác tự ngộ ? Tức là y pháp tu hành, tu đến chỗ rốt ráo, thì vẫn cần chính mình đi giác ngộ. Pháp này tuy nhiên là tự ngộ, nhưng đây là đốn ngộ. Vì thuở xưa, kết quả do thiện tri thức giáo hoá từng chút từng chút. Do đó :
« Lý là đốn ngộ, sự là tiệm tu ».
Tuy nhiên có căn lành, vẫn phải tu hành, mới được khai ngộ.
Tuy tri Pháp vô chuyển, nhi chuyển pháp luân; tuy tri Pháp vô khởi, nhi thị chư nhân duyên; tuy tri chư Pháp vô hữu tiền tế, nhi quảng thuyết quá khứ; tuy tri chư Pháp vô hữu hậu tế, nhi quảng thuyết vị lai; tuy tri chư Pháp vô hữu trung tế, nhi quảng thuyết hiện tại; tuy tri chư Pháp vô hữu tác giả, nhi thuyết chư tác nghiệp; tuy tri chư Pháp vô hữu nhân duyên, nhi thuyết chư tập nhân; tuy tri chư Pháp vô hữu đẳng bỉ, nhi thuyết bình đẳng, bất bình đẳng đạo; tuy tri chư Pháp vô hữu ngôn thuyết, nhi quyết định thuyết tam thế chi Pháp. Tuy tri chư Pháp vô hữu sở y, nhi thuyết y thiện Pháp nhi đắc xuất ly;
Tuy biết pháp không chuyển, mà chuyển pháp luân. Tuy biết pháp không khởi, mà thị hiện các nhân duyên. Tuy biết các pháp không có tiền tế, mà rộng nói quá khứ. Tuy biết các pháp không có hậu tế, mà rộng nói vị lai. Tuy biết các pháp không có trung tế, mà rộng nói hiện tại. Tuy biết các pháp không có tác giả, mà nói các nghiệp làm.
Tuy biết các pháp không có nhân duyên, mà nói các nhân tập. Tuy biết các pháp không có bình đẳng so sánh, mà nói đạo bình đẳng, không bình đẳng. Tuy biết các pháp không có lời nói, mà quyết định nói pháp ba đời. Tuy biết các pháp không có chỗ nương, mà nói nương pháp lành để được thoát khỏi.
Giảng: Bồ Tát tuy biết tất cả các pháp là vắng lặng, chẳng có pháp có thể chuyển, mà vẫn phải thường chuyển đại pháp luân, để giáo hoá chúng sinh.
Bồ Tát tuy biết tất cả các pháp, chẳng có sinh khởi, mà vẫn phải thị hiện nhân duyên của tất cả pháp. Do đó :
« Các pháp do duyên khởi,
Các pháp do duyên diệt ».
Pháp duyên sinh, là chẳng có tự tánh, do đó :
« Nhân duyên sinh ra pháp
Ta nói tức là không
Cũng gọi là giả danh
Cũng gọi nghĩa trung đạo ».
Bồ Tát tuy biết tất cả các pháp, chẳng có tiền tế, mà rộng nói tất cả pháp quá khứ.
Bồ Tát tuy biết tất cả các pháp, chẳng có hậu tế, mà rộng nói tất cả pháp vị lai.
Bồ Tát tuy biết tất cả các pháp, chẳng có trung tế, mà rộng nói tất cả pháp hiện tại.
Tại bổn thể pháp mà nói, là chẳng có phân biệt quá khứ, hiện tại, vị lai, nhưng Bồ Tát phân biệt ra để nói pháp ba đời. Tại sao phải phiền phức như vậy ? Vì Bồ Tát thích làm việc cực khổ, lại có thể nói Bồ Tát thích quản nhàn sự, cho nên cam tâm tình nguyện đi hành Bồ Tát đạo, vì lợi ích tất cả chúng sinh, mà chịu hy sinh lợi ích của chính mình. Chịu khổ chịu cực đi giáo hoá chúng sinh, thọ hết sự cực khổ, mà không một lời oán trách. Đều hy vọng chúng sinh cải tà theo chánh, bỏ tối về sáng. Cho nên chỗ làm của Bồ Tát và chỗ làm của phàm phu đều hoàn toàn khác nhau. Tư tưởng của phàm phu là ích kỷ lợi mình. Nếu việc đối với mình có lợi ích, thì tìm cách đi tranh giành, bằng không, thì tuyệt đối không đi làm. Tư tưởng của Bồ Tát thì ngược lại, chuyên nghĩ đến chúng sinh, chẳng nghĩ đến mình, cho nên tinh thần « vô duyên đại từ, đồng thể đại bi ».
Các vị hãy quán sát nhân loại trên thế giới này, người nào vì mọi người mưu hạnh phúc ? Vốn chẳng có, hoàn toàn đều vì mình : Tôi phải mặc quần áo đẹp, tôi phải ăn thức ăn ngon, tôi phải ở nhà sang trọng, tôi phải chạy xe mới .v.v…Tóm lại, tất cả đều vì mình mà nghĩ đến sự hưởng thụ. Ai Ai cũng có tư tưởng như thế, thì thế giới làm sao mà thái bình!
Mục đích học Phật là thay đổi tâm ích kỷ, thành tâm đại công vô tư. Việc việc đều vì người, mà chẳng vì mình. Hy sinh sự khoái lạc của chính mình, đi trợ giúp người khác khốn khổ, do đó : « Từ bi làm gốc, phương tiện làm cửa », đây là tông chỉ của Phật giáo.
Phật giáo là giáo cứu thế độ nhân, ban cho chúng sinh sự khoái lạc, cứu khổ chúng sinh. Chúng sinh có sự đau khổ, thì tận sức đi cứu họ thoát khỏi biển khổ, thậm chí vào chỗ dầu sôi lửa bỏng, cũng không từ nan, đây là trách nhiệm của người Phật tử. Trước hết bắt đầu từ chính mình, sau đó mới lan rộng tới quần chúng, ai ai cũng như thế, thì thế giới sẽ hoà bình, an cư lạc nghiệp.
Bồ Tát tuy biết tất cả các pháp không có tác giả, mà vẫn phải nói tất cả tác nghiệp, tức cũng là luật nhân quả, do đó : « Trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu »; trồng nghiệp lành, thì thọ báo lành; trồng nghiệp ác, thì thọ báo ác.
Bồ Tát tuy biết tất cả các pháp không có nhân duyên, mà vẫn phải nói đạo lý tập nhân của tất cả các pháp.
Bồ Tát tuy biết tất cả các pháp không có bình đẳng so sánh, mà vẫn phải nói đạo lý bình đẳng và không bình đẳng.
Bồ Tát tuy biết tất cả các pháp không có lời nói, do đó : « Lời nói đã bặc, tâm hành đã diệt », mà vẫn phải quyết định nói pháp ba đời.
Bồ Tát tuy biết tất cả các pháp không có chỗ nương, mà vẫn phải nói nương tựa pháp lành, để được thoát khỏi tam giới hai mươi lăm cõi.
Tuy tri Pháp vô thân, nhi quảng thuyết Pháp thân; tuy tri tam thế chư Phật vô biên, nhi năng diễn thuyết duy hữu nhất Phật; tuy tri Pháp vô sắc, nhi hiện chủng chủng sắc; tuy tri Pháp vô kiến, nhi quảng thuyết chư kiến; tuy tri Pháp vô tướng, nhi thuyết chủng chủng tướng; tuy tri chư Pháp vô hữu cảnh giới, nhi quảng tuyên thuyết trí tuệ cảnh giới; tuy tri chư Pháp vô hữu sái biệt, nhi thuyết hành quả chủng chủng sái biệt; tuy tri chư Pháp vô hữu xuất ly, nhi thuyết thanh tịnh chư xuất ly hạnh; tuy tri chư pháp bản lai thường trụ, nhi thuyết nhất thiết chư lưu chuyển Pháp; tuy tri chư Pháp vô hữu chiếu minh, nhi hằng quảng thuyết chiếu minh chi Pháp.
Tuy biết pháp không thân, mà rộng nói pháp thân. Tuy biết ba đời chư Phật vô biên, mà hay diễn nói chỉ có một vị Phật. Tuy biết pháp không sắc, mà hiện đủ thứ sắc. Tuy biết pháp vô kiến, mà diễn nói các kiến. Tuy biết pháp vô tướng, mà nói đủ thứ tướng. Tuy biết các pháp không có cảnh giới, mà rộng diễn nói cảnh giới trí huệ.
Tuy biết các pháp không có khác biệt, mà nói hành quả đủ thứ sự khác biệt. Tuy biết các pháp không có xuất ly, mà nói các hạnh thanh tịnh xuất ly. Tuy biết các pháp vốn thường trụ, mà nói tất cả các dòng chuyển pháp. Tuy biết các pháp không có chiếu sáng, mà luôn rộng nói pháp chiếu sáng.
Giảng: Bồ Tát tuy biết tất cả các pháp không thân, mà vẫn phải rộng nói lý thể của pháp thân.
Bồ Tát tuy biết ba đời chư Phật vô biên không bờ mé, mà vẫn hay diễn nói chỉ có một vị Phật, tức là Phật Thích Ca Mâu Ni.
Bồ Tát tuy biết tất cả các pháp không hình không tướng, không sắc, mà vẫn phải thị hiện đủ thứ sắc tướng.
Bồ Tát tuy biết tất cả các pháp vô kiến, mà vẫn phải rộng diễn nói đạo lý các kiến.
Bồ Tát tuy biết tất cả các pháp vô tướng, mà vẫn phải rộng nói đủ thứ tướng.
Bồ Tát tuy biết tất cả các các pháp không có cảnh giới, mà vẫn phải rộng diễn nói cảnh giới nhất thiết trí huệ.
Bồ Tát tuy biết tất cả các các pháp không có phân biệt, mà vẫn phải nói quả báo tu hành sở đắc, có đủ thứ sự phân biệt. Do đó :
« Thiện có thiện quả, ác có ác quả;
Nếu không có báo, tức thời chưa đến ».
Người học Phật, phải tin chân lý nhân quả báo ứng.
Bồ Tát tuy biết tất cả các các pháp không có xuất ly. Vì bổn thể của các pháp là không sinh, không diệt, không dơ, không sạch, không tăng, không giảm, mà Bồ Tát vẫn phải nói làm thế nào tu hạnh thanh tịnh để thoát khỏi ba cõi.
Bồ Tát tuy biết tất cả các các pháp vốn thường trụ, không thay đổi, mà vẫn phải nói pháp tất cả các dòng lưu chuyển biến hoá.
Bồ Tát tuy biết tất cả các các pháp không có chiếu sáng, mà luôn luôn rộng nói pháp trí huệ quang minh chiếu khắp.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát nhập như thị đại uy đức tam muội trí luân, tức năng chứng đắc nhất thiết Phật Pháp, tức năng thú nhập nhất thiết Phật Pháp, tức năng thành tựu, tức năng viên mãn, tức năng tích tập, tức năng thanh tịnh, tức năng an trụ, tức năng liễu đạt, dữ nhất thiết pháp tự tánh tướng ứng, nhi thử Bồ-Tát Ma-ha-tát bất tác thị niệm: Hữu nhược can chư Bồ-tát, nhược can Bồ Tát Pháp, nhược can Bồ Tát cứu cánh, nhược can huyễn cứu cánh, nhược can hóa cứu cánh, nhược can thần thông thành tựu, nhược can trí thành tựu, nhược can tư tánh, nhược can chứng nhập, nhược can thú hướng, nhược can cảnh giới.
Phật tử ! Đại Bồ Tát nhập vào tam muội trí luân đại oai đức như vậy : Liền chứng được tất cả Phật pháp. Liền nhập vào tất cả Phật pháp.
Liền thành tựu, liền viên mãn, liền tích tập, liền thanh tịnh, liền an trụ, liền thấu đạt, cùng tất cả pháp tự tánh tương ưng, mà đại Bồ Tát đó chẳng nghĩ như vầy : Có bao nhiêu Bồ Tát, bao nhiêu Bồ Tát pháp, bao nhiêu Bồ Tát rốt ráo, bao nhiêu huyễn rốt ráo, bao nhiêu hoá rốt ráo, bao nhiêu thần thông thành tựu, bao nhiêu trí thành tựu, bao nhiêu tư duy, bao nhiêu chứng nhập, bao nhiêu thú hướng, bao nhiêu cảnh giới ?
Giảng: Bồ Tát Phổ Hiền lại gọi một tiếng các vị Phật tử ! Vị đại Bồ Tát đó tu hành Bồ Tát đạo, tích tập đủ thứ căn lành, viên mãn lục độ vạn hạnh, Ngài nhập vào được tam muội trí luân đại oai đức như vậy : Liền chứng được pháp của tất cả chư Phật nói, liền nhập vào được pháp của tất cả chư Phật nói, liền thành tựu pháp của tất cả chư Phật nói, liền viên mãn pháp của tất cả chư Phật nói, liền tích tập căn lành của tất cả chư Phật Bồ Tát tích tập, liền thanh tịnh pháp thân của tất cả chư Phật Bồ Tát, liền an trụ quả vị của tất cả chư Phật Bồ Tát an trụ, liền thấu đạt nghĩa lý của tất cả chư Phật Bồ Tát đã nói, cùng với tự tánh của tất cả pháp tương ưng.
Vị đại Bồ Tát đó chẳng nghĩ như vầy : Có bao nhiêu Bồ Tát ? Có bao nhiêu Bồ Tát pháp ? Có bao nhiêu Bồ Tát rốt ráo ? Có bao nhiêu huyễn vọng rốt ráo ? Có bao nhiêu biến hoá rốt ráo ? Có bao nhiêu thần thông thành tựu ? Có bao nhiêu trí thành tựu ? Có bao nhiêu tam muội tư duy ? Có bao nhiêu trí huệ chứng nhập ? Có bao nhiêu thú hướng về bồ đề đạo ? Có bao nhiêu cảnh giới khai ngộ ? Bồ Tát không khởi những vọng tưởng như thế.
Hà dĩ cố? Bồ Tát tam muội, như thị thể tánh, như thị vô biên, như thị thù thắng cố. Thử tam muội chủng chủng cảnh giới, chủng chủng uy lực, chủng chủng thâm nhập,
Tại sao ? Vì Bồ Tát tam muội thể tánh như vậy, vô biên như vậy, thù thắng như vậy. Tam muội này đủ thứ cảnh giới, đủ thứ oai lực, đủ thứ thâm nhập.
Giảng: Tại sao Bồ Tát không khởi vọng tưởng ? Vì Bồ Tát chứng được tam muội, lý thể là như vậy, tức là vô biên như vậy, là thù thắng như vậy. Cho nên, không cần khởi tất cả vọng tưởng. Vì tam muội này, có đủ thứ cảnh giới, đủ thứ oai lực, đủ thứ thâm nhập, cho nên chứng được hai mươi tám thứ pháp môn dưới đây.
Sở vị: nhập bất khả thuyết trí môn, nhập ly phân biệt chư trang nghiêm, nhập vô biên thù thắng ba la mật, nhập vô số Thiền định, nhập bách thiên ức na-do-tha bất khả thuyết quảng đại trí, nhập kiến vô biên Phật thắng diệu tạng, nhập ư cảnh giới bất hưu tức, nhập thanh tịnh tín giải trợ đạo Pháp, nhập chư căn mãnh lợi đại thần thông, nhập ư cảnh giới tâm vô ngại,
Đó là : Vào môn trí huệ bất khả thuyết. Vào các sự trang nghiêm lìa phân biệt. Vào vô biên thù thắng Ba la mật. Vào vô số thiền định. Vào trăm ngàn ức Na do tha bất khả thuyết trí rộng lớn. Vào thắng diệu tạng thấy vô biên Phật. Vào nơi cảnh giới không ngừng nghỉ. Vào pháp trợ đạo thanh tịnh tin hiểu. Vào các căn mãnh lợi đại thần thông. Vào nơi cảnh giới tâm vô ngại.
Giảng: Đó là :
1. Vào môn trí huệ nhiều bất khả thuyết.
2. Vào môn tất cả sự trang nghiêm lìa khỏi sự phân biệt.
3. Vào môn Ba la mật vô biên thù thắng.
4. Vào vô số vô lượng môn thiền định.
5. Vào trăm ngàn ức na do tha bất khả thuyết môn trí huệ rộng lớn.
6. Vào môn thắng diệu tạng thấy vô biên Phật.
7. Vào môn cảnh giới không ngừng nghỉ.
8. Vào môn pháp trợ đạo thanh tịnh tin hiểu.
9. Vào môn các căn mãnh lợi đại thần thông.
10. Vào môn cảnh giới tâm vô ngại.
Nhập kiến nhất thiết Phật bình đẳng nhãn, nhập tích tập Phổ Hiền thắng chí hạnh, nhập trụ Na-la-diên diệu trí thân, nhập thuyết Như Lai trí tuệ hải, nhập khởi vô lượng chủng tự tại thần biến, nhập sanh nhất thiết Phật vô tận trí môn, nhập trụ nhất thiết Phật hiện tiền cảnh giới, nhập tịnh Phổ Hiền Bồ Tát tự tại trí, nhập khai thị vô bỉ Phổ môn trí, nhập phổ tri Pháp giới nhất thiết vi tế cảnh giới
Nhập vào mắt thấy tất cả chư Phật bình đẳng. Vào tích tập thắng chí hạnh của Phổ Hiền. Vào trụ trí thân na la diên. Vào nói biển trí huệ của Như Lai. Vào khởi vô lượng thứ tự tại thần biến. Vào môn sinh ra vô tận trí của tất cả chư Phật. Vào cảnh giới hiện tiền của tất cả chư Phật. Vào tịnh tự tại trí của Bồ Tát Phổ Hiền. Vào trí phổ môn khai thị vô tỉ. Vào tất cả cảnh giới vi tế biết khắp pháp giới.
Giảng:
11. Bồ Tát có thể nhập vào môn mắt thấy tất cả chư Phật bình đẳng.
12. Vào môn tích tập hết thảy tất cả thù thắng chí hạnh của Bồ Tát Phổ Hiền.
13. Vào môn trụ trí thân na la diên (kiên cố).
14. Vào môn nói biển trí huệ của Phật.
15. Vào môn khởi vô lượng thứ tự tại thần biến.
16. Vào môn sinh ra vô tận trí của tất cả chư Phật.
17. Vào môn cảnh giới hiện tiền của tất cả chư Phật.
18. Vào môn thanh tịnh tự tại trí huệ của Bồ Tát Phổ Hiền.
19. Vào môn trí huệ phổ môn khai thị vô tỉ.
20. Vào môn tất cả cảnh giới vi tế biết khắp pháp giới.
Nhập phổ hiện Pháp giới nhất thiết vi tế cảnh giới, nhập nhất thiết thù thắng trí quang minh, nhập nhất thiết tự tại biên tế, nhập nhất thiết biện tài Pháp môn tế, nhập biến Pháp giới trí tuệ thân, nhập thành tựu nhất thiết xứ biến hành đạo, nhập thiện trụ nhất thiết sái biệt tam muội, nhập tri nhất thiết chư Phật tâm.
Vào khắp hiện pháp giới tất cả cảnh giới vi tế. Vào tất cả trí huệ quang minh thù thắng. Vào tất cả tự tại biên tế. Vào tất cả biện tài bờ mé pháp môn. Vào khắp pháp giới trí huệ thân. Vào thành tựu tất cả chỗ hành đạo khắp. Vào tam muội khéo trụ tất cả sự khác biệt. Vào tâm biết tất cả chư Phật.
Giảng:
21. Bồ Tát vào môn khắp hiện pháp giới tất cả cảnh giới vi tế.
22. Vào môn tất cả trí huệ quang minh thù thắng.
23. Vào môn tất cả tự tại biên tế.
24. Vào môn tất cả biện tài bờ mé pháp môn.
25. Vào môn đầy khắp pháp giới trí huệ thân.
26. Vào môn thành tựu tất cả chỗ hành đạo khắp.
27. Vào tam muội khéo trụ tất cả tam muội khác biệt.
28. Vào tâm biết tất cả chư Phật.
Phật tử! thử Bồ-Tát Ma-ha-tát trụ Phổ Hiền hạnh, niệm niệm nhập bách ức bất khả thuyết tam muội, nhiên bất kiến Phổ Hiền Bồ Tát tam muội cập Phật cảnh giới trang nghiêm tiền tế. Hà dĩ cố?
Phật tử ! Đại Bồ Tát này trụ hạnh Phổ Hiền, niệm niệm vào trăm ức bất khả thuyết tam muội, mà chẳng thấy tam muội Bồ Tát Phổ Hiền, và cảnh giới trang nghiêm tiền tế của Phật. Tại sao ?
Giảng: Các vị Phật tử ! Vị đại Bồ Tát này, tuy nhiên trụ ở trong hạnh Bồ Tát Phổ Hiền, vẫn có thể ở trong niệm niệm, vào trăm ức bất khả thuyết môn tam muội, mà vẫn chẳng thấy tam muội của Bồ Tát Phổ Hiền, và cảnh giới trang nghiêm tiền tế của Phật. Đây là nguyên nhân gì ?
Tri nhất thiết pháp cứu cánh vô tận cố, tri nhất thiết Phật sát vô biên cố, tri nhất thiết chúng sanh giới bất tư nghị cố, tri tiền tế vô thủy cố, tri vị lai vô cùng cố, tri hiện tại tận hư không biến Pháp giới vô biên cố, tri nhất thiết chư Phật cảnh giới bất khả tư nghị cố, tri nhất thiết Bồ Tát hạnh vô số cố, tri nhất thiết chư Phật biện tài sở thuyết cảnh giới bất khả thuyết vô biên cố, tri nhất thiết huyễn tâm sở duyên pháp vô lượng cố.
Vì biết tất cả pháp rốt ráo vô tận. Vì biết tất cả cõi Phật vô biên. Vì biết tất cả cõi chúng sinh không nghĩ bàn. Vì biết quá khứ không có bắt đầu. Vì biết vị lai không cùng tận. Vì nói hiện tại tận hư không khắp pháp giới vô biên. Vì biết cảnh giới tất cả chư Phật không thể nghĩ bàn. Vì biết tất cả Bồ Tát hạnh vô số. Vì biết cảnh giới biện tài của tất cả chư Phật nói, vô biên bất khả thuyết. Vì biết tất cả tâm huyễn duyên pháp vô lượng.
Giảng: Vì vị đại Bồ Tát này vào tam muội Vô ngại luân, cho nên biết mười thứ cảnh giới ở dưới đây. Những gì là mười thứ cảnh giới ? Đó là :
1. Vì biết tất cả pháp rốt ráo vô cùng vô tận.
2. Vì biết tất cả cõi Phật, rốt ráo vô lượng vô biên.
3. Vì biết tất cả cõi chúng sinh không nghĩ bàn.
4. Vì biết quá khứ không có bắt đầu.
5. Vì biết vị lai không cùng tận.
6. Vì nói hiện tại tận hư không khắp pháp giới vô biên.
7. Vì biết hết thảy cảnh giới tất cả chư Phật, đều không thể nghĩ bàn.
8. Vì biết Bồ Tát hạnh của tất cả Bồ Tát tu hành, đều vô số vô lượng.
9. Vì biết cảnh giới biện tài tất cả chư Phật nói, đều vô biên bất khả thuyết.
10. Vì biết tất cả tâm huyễn duyên pháp, đều là vô lượng vô biên.
Phật tử! như như ý châu, tùy hữu sở cầu nhất thiết giai đắc, cầu giả vô tận, ý giai mãn túc, nhi châu thế lực chung bất quỹ chỉ. Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, nhập thử tam muội, tri tâm như huyễn, xuất sanh nhất thiết chư pháp cảnh giới, chu biến vô tận, bất quỹ bất tức.
Hà dĩ cố? Bồ-Tát Ma-ha-tát thành tựu Phổ Hiền vô ngại hạnh trí, quan sát vô lượng quảng đại huyễn cảnh, do như ảnh tượng vô tăng giảm cố.
Phật tử ! Như châu như ý, tuỳ theo sở cầu, tất cả đều được. Người cầu vô tận, ý nguyện đều đầy đủ, mà thế lực của châu trọn không hết, không dừng lại. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, vào tam muội này, biết tâm như huyễn, sinh ra cảnh giới tất cả các pháp, khắp cùng vô tận, không hết, không ngừng.
Tại sao ? Vì đại Bồ Tát thành tựu hạnh trí vô ngại Phổ Hiền, quán sát vô lượng cảnh huyễn rộng lớn, giống như hình bóng, không tăng giảm.
Giảng: Các vị Phật tử ! Giống như châu như ý, tuỳ theo tâm ý mong cầu, khiến cho tất cả đều đắc được sở cầu. Tuy nhiên dục vọng của người cầu vô tận, nhưng đều khiến cho họ tuỳ tâm mãn nguyện được đầy đủ. Thế lực của châu như ý, trọn không hết, cũng không thiếu bớt.
Đại Bồ Tát cũng lại như thế, khi vào tam muội vô ngại luân này, biết tâm do hư huyễn sinh, do hư huyễn diệt. Do tâm huyễn sinh ra cảnh giới tất cả các pháp, khắp cùng vô cùng tận, cũng không hết, cũng không ngừng.
Tại sao ? Vì đại Bồ Tát thành tựu hạnh vô ngại và trí vô ngại của Bồ Tát Phổ Hiền. Cho nên, quán sát được vô lượng cảnh huyễn rộng lớn, giống như hình bóng, là hư huyễn không thật, cũng chẳng tăng, cũng chẳng giảm.
Phật tử! thí như phàm phu, các biệt sanh tâm, dĩ sanh, hiện sanh cập dĩ đương sanh, vô hữu biên tế, vô đoạn vô tận; kỳ tâm lưu chuyển, tướng tục bất tuyệt, bất khả tư nghị. Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, nhập thử phổ huyễn môn tam muội, vô hữu biên tế, bất khả trắc lượng.
Hà dĩ cố? liễu đạt Phổ Hiền Bồ Tát phổ huyễn môn vô lượng Pháp cố.
Phật tử ! Ví như phàm phu, đều sinh tâm khác nhau, đã sinh, hiện sinh, và sẽ sinh, chẳng có bờ mé, không dứt, không tận. Tâm đó lưu chuyển, liên tục không đoạn tuyệt, không thể nghĩ bàn.
Đại Bồ Tát cũng lại như thế, khi vào môn tam muội phổ huyễn này, chẳng có bờ mé, không thể dò lường. Tại sao ? Vì thấu đạt môn phổ huyễn pháp vô tận của Bồ Tát Phổ Hiền.
Giảng: Các vị Phật tử ! Ví như phàm phu, đều sinh tâm vọng tưởng khác nhau, hoặc đã sinh ra, hoặc hiện tại sinh ra, hoặc tương lai sẽ sinh ra. Những vọng tâm đó, chẳng có bờ mé, không thể dứt tuyệt, không thể cùng tận. Vọng tâm đó lưu chuyển không dứt, liên tục không đoạn tuyệt, cảnh giới đó không thể nghĩ bàn.
Đại Bồ Tát cũng lại như thế, khi vào môn tam muội phổ huyễn này, chẳng có bờ mé, không thể dò lường. Tại sao ? Vì thấu rõ thông đạt môn phổ huyễn pháp vô tận của Bồ Tát Phổ Hiền.
Phật tử! thí như Nan-đà Bạt-nan-đà, Ma na tư long Vương cập dư Đại long hàng vũ chi thời, tích như xa trục, vô hữu biên tế; tuy như thị vũ, vân chung bất tận, thử thị chư long vô tác cảnh giới.
Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, trụ thử tam muội, nhập Phổ Hiền Bồ Tát chư tam muội môn, trí môn, Pháp môn, kiến chư Phật môn, vãng chư phương môn, tâm tự tại môn, gia trì môn, thần biến môn, Thần thông môn, huyễn hóa môn, chư Pháp như huyễn môn, bất khả thuyết bất khả thuyết chư Bồ-tát sung mãn môn, thân cận bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số Như Lai chánh giác môn, nhập bất khả thuyết bất khả thuyết quảng đại huyễn võng môn, tri bất khả thuyết bất khả thuyết sái biệt quảng đại Phật sát môn, tri bất khả thuyết bất khả thuyết hữu thể tánh, vô thể tánh thế giới môn, tri bất khả thuyết bất khả thuyết chúng sanh tưởng môn, tri bất khả thuyết bất khả thuyết thời sái biệt môn, tri bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới thành hoại môn, tri bất khả thuyết bất khả thuyết phước trụ, ngưỡng trụ chư Phật sát môn, ư nhất niệm trung giai như thật tri.
Phật tử ! Ví như Nan Đà Long Vương, Bạt Nan Đà Long Vương, Ma Na Tư Long Vương, và các đại Long Vương khác, khi mưa xuống, giọt nước như trục bánh xe, không có bờ mé. Tuy mưa như vậy, mà mây trọn không hết. Đây là cảnh giới vô tác của các Long Vương.
Đại Bồ Tát cũng lại như thế, trụ tam muội này, vào các môn tam muội Bồ Tát Phổ Hiền. Trí môn, pháp môn, môn thấy chư Phật, môn đến các phương, môn tâm tự tại, môn như trì, môn thần biến, môn thần thông, môn huyễn hoá, môn các pháp như huyễn.
Môn sung mãn bất khả thuyết bất khả thuyết các Bồ Tát. Môn gần gũi Như Lai chánh giác nhiều bất khả thuyết bất khả thuyết số hạt bụi cõi Phật. Môn lưới huyễn rộng lớn bất khả thuyết bất khả thuyết. Môn biết cõi Phật rộng lớn khác biệt bất khả thuyết bất khả thuyết. Môn biết thế giới có thể tánh không thể tánh bất khả thuyết bất khả thuyết.
Môn biết chúng sinh tưởng bất khả thuyết bất khả thuyết. Môn thời kiếp khác biệt bất khả thuyết bất khả thuyết. Môn biết thế giới thành hoại bất khả thuyết bất khả thuyết. Môn biết các cõi Phật úp ngửa bất khả thuyết bất khả thuyết.
Giảng: Các vị Phật tử ! Ví như Nan Đà Long Vương, Bạt Nan Đà Long Vương, Ma Na Tư Long Vương, (Bà Già La Long Vương, Hoà Tu Cát Long Vương, Đức Xoa Già Long Vương, A Na Bà Đạt Đa Long Vương, Ưu Bát La Long Vương gọi là Bát Long Vương), và hết thảy các đại Long Vương khác, khi chúng mưa xuống, thì giọt nước mưa như trục bánh xe rơi xuống không ngừng, chẳng có bờ mé. Tuy mưa xuống vô lượng như vậy, nhưng mây trọn không cùng tận. Đây là đạo lý gì ? Vì rồng có thần thông, đầy đủ diệu dụng, không cần tạo tác, không cần miễn cưỡng, đây là cảnh giới tự nhiên của các Long Vương.
Đại Bồ Tát cũng lại như thế, khi trụ tam muội vô ngại luân này, vào hai mươi thứ pháp môn của Bồ Tát Phổ Hiền tu. Những gì là hai mươi ? Đó là :
1. Vào pháp môn tất cả tam muội.
2. Vào pháp môn nhất thiết trí huệ.
3. Vào pháp môn tất cả pháp.
4. Vào pháp môn thấy tất cả chư Phật.
5. Vào pháp môn đến mười phương.
6. Vào pháp môn tâm tự tại.
7. Vào pháp môn như trì chúng sinh.
8. Vào pháp môn thần thông biến hoá.
9. Vào pháp môn thần thông diệu dụng.
10. Vào pháp môn như huyễn như hoá.
11. Vào pháp môn tất cả các pháp như huyễn hoá.
12. Vào pháp môn đầy dẫy bất khả thuyết bất khả thuyết các Bồ Tát.
13. Vào pháp môn gần gũi Như Lai chánh giác, nhiều bất khả thuyết bất khả thuyết số hạt bụi cõi Phật (ba ngàn đại thiên thế giới là một cõi Phật).
14. Vào pháp môn lưới huyễn rộng lớn bất khả thuyết bất khả thuyết.
15. Vào pháp môn biết cõi Phật rộng lớn khác biệt bất khả thuyết bất khả thuyết.
16. Vào pháp môn biết thế giới có thể tính và không có thể tính bất khả thuyết bất khả thuyết.
17. Vào pháp môn biết chúng sinh tưởng bất khả thuyết bất khả thuyết, do đó :
« Tất cả chúng sinh bao nhiêu thứ tâm, Bồ Tát đều biết đều thấy ».
18. Vào pháp môn thời kiếp khác biệt bất khả thuyết bất khả thuyết.
19. Vào pháp môn biết thế giới hoặc thành, hoặc trụ, hoặc hoại, hoặc không, bất khả thuyết bất khả thuyết.
20. Vào pháp môn biết tất cả cõi Phật úp, hoặc ngửa, bất khả thuyết bất khả thuyết.
Như thị nhập thời, vô hữu biên tế, vô hữu cùng tận, bất bì bất yếm, bất đoạn bất tức, vô thoái vô thất; ư chư Pháp trung bất trụ phi xứ, hằng chánh tư duy, bất trầm bất cử; cầu nhất thiết trí thường vô thoái xả, vi nhất thiết Phật sát chiếu thế minh đăng, chuyển bất khả thuyết bất khả thuyết Pháp luân; dĩ diệu biện tài ti vấn Như Lai vô cùng tận thời, thị thành Phật đạo vô hữu biên tế, điều phục chúng sanh hằng vô phế xả, thường cần tu tập Phổ Hiền hạnh nguyện vị tằng hưu tức, thị hiện vô lượng bất khả thuyết bất khả thuyết sắc tướng thân vô hữu đoạn tuyệt.
Hà dĩ cố? thí như nhiên hỏa, tùy sở hữu duyên, ư nhĩ sở thời hỏa khởi bất tức.
Ở trong một niệm, đều biết như thật, khi nhập vào như vậy, không có bờ mé, không có cùng tận, không mỏi, không nhàm, không dứt, không ngừng, không thối, không mất.
Ở trong các pháp, chẳng trụ phi xứ. Luôn tư duy chân chánh, không trầm, không cử. Cầu nhất thiết trí, thường không lùi bỏ. Vì tất cả cõi Phật đèn chiếu sáng thế gian, chuyển bất khả thuyết bất khả thuyết pháp luân.
Dùng diệu biện tài, thưa hỏi Như Lai, không khi nào cùng tận. Thị hiện thành Phật đạo, không có bờ mé. Điều phục chúng sinh, luôn không xả bỏ. Thường siêng tu tập hạnh nguyện Phổ Hiền, chưa từng ngừng nghỉ. Thị hiện bất khả thuyết bất khả thuyết thân sắc tướng, không có đoạn tuyệt.
Tại sao ? Ví như đốt lửa, theo duyên đã có, thì trong lúc đó, lửa cháy không ngừng.
Giảng: Bồ Tát ở trong một niệm, đều biết cảnh giới đó chân thật, giống như khi nhập vào môn tam muội phổ huyễn như vậy. Tuy nhiên không có bờ mé, không có cùng tận, nhưng không mệt mỏi, không nhàm chán, không dứt tuyệt, không ngừng nghỉ, cũng không thối chuyển bồ đề tâm, cũng không mất đi bồ đề tâm.
Ở trong tất cả pháp, chẳng trụ nơi phi pháp. Luôn luôn tư duy chân chánh, không khởi vọng tưởng, cũng không hôn trầm, cũng không trạo cử. Bồ Tát ngồi thiền không ngủ gục, tại sao phàm phu ngồi thiền hay ngủ gục ? Vì tâm cầu pháp không chân thật. Bồ Tát mỗi cử chỉ hành động, đều theo quy cụ, không phóng dật. Phàm phu thì ngược lại, cho rằng giữ quy cụ thì không được tự do, cho nên giải đãi phóng đãng. Phải hiểu rằng, sự tự do như thế, khi chết đi rồi thì chẳng còn tự do nữa.
Bồ Tát vì cầu nhất thiết trí, cho nên thường không lùi bỏ bồ đề tâm. Vì tất cả cõi nước chư Phật, làm đèn sáng chiếu thế gian. Lại thường chuyển bất khả thuyết bất khả thuyết pháp luân. Dùng biện tài không thể nghĩ bàn, thưa hỏi Như Lai thật tướng của tất cả các pháp, chẳng khi nào cùng tận. Thị hiện chư Phật thành tựu đạo bồ đề Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, không có bờ mé. Thời thời điều phục chúng sinh cang cường, không khi nào xả bỏ. Điều là điều luyện thân khẩu ý ba nghiệp, phục là chế phục tất cả vọng tưởng. Vì chúng sinh cang cường, khó điều khó phục, Bồ Tát xử dụng từ bi hỷ xả bốn vô lượng tâm để điều phục. Sau đó, lại dùng bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự, bốn pháp nhiếp để nghiếp thọ, khiến cho chúng sinh phát bồ đề tâm, cầu vô thượng đạo. Bồ Tát luôn luôn siêng tu tập hạnh nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền, chưa từng ngừng nghỉ. Lại thị hiện bất khả thuyết bất khả thuyết thân sắc tướng, không có khi nào đoạn tuyệt. Tại sao phải như thế ? Là nguyên nhân gì ? Đưa ra một ví dụ, giống như đốt lửa, phàm là có vật làm duyên để đốt cháy, thì trong lúc đó, lửa cháy lên không ngừng.
Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, quan sát chúng sanh giới, Pháp giới, thế giới, do như hư không vô hữu biên tế, nãi chí năng ư nhất niệm chi khoảnh, vãng bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số Phật sở. Nhất nhất Phật sở nhập bất khả thuyết bất khả thuyết nhất thiết trí chủng chủng sái biệt Pháp; lệnh bất khả thuyết bất khả thuyết chúng sanh giới xuất gia vi đạo, cần tu thiện căn, cứu cánh thanh tịnh; lệnh bất khả thuyết bất khả thuyết Bồ Tát ư Phổ Hiền hạnh nguyện vị quyết định giả nhi đắc quyết định, an trụ Phổ Hiền trí tuệ chi môn; dĩ vô lượng phương tiện, nhập bất khả thuyết bất khả thuyết tam thế thành, trụ, hoại quảng đại sai biệt kiếp, ư bất khả thuyết bất khả thuyết thành, trụ, hoại thế gian sái biệt cảnh giới, khởi ư nhĩ sở đại bi đại nguyện, điều phục vô lượng nhất thiết chúng sanh tất sử vô dư.
Hà dĩ cố? thử Bồ-Tát Ma-ha-tát vi dục độ thoát nhất thiết chúng sanh, tu Phổ Hiền hạnh, sanh Phổ Hiền trí, mãn túc Phổ Hiền sở hữu hạnh nguyện.
Đại Bồ Tát cũng lại như thế, quán sát chúng sinh giới, pháp giới, thế giới, giống như hư không, chẳng có bờ mé. Cho đến có thể ở trong khoảng một niệm, đến chỗ chư Phật, nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật.
Ở chỗ mỗi vị Phật, vào bất khả thuyết bất khả thuyết nhất thiết trí đủ thứ pháp khác biệt. Khiến cho bất khả thuyết bất khả thuyết cõi chúng sinh, xuất gia vì đạo, siêng tu căn lành, rốt ráo thanh tịnh. Khiến cho bất khả thuyết bất khả thuyết Bồ Tát, chưa quyết định nơi hạnh nguyện Phổ Hiền, được quyết định, an trụ môn trí huệ Phổ Hiền.
Dùng vô lượng phương tiện, vào bất khả thuyết bất khả thuyết ba đời kiếp thành trụ hoại rộng lớn khác biệt. Nơi bất khả thuyết bất khả thuyết cảnh giới thế gian thành trụ hoại khác biệt, sinh khởi bấy nhiêu đại bi đại nguyện, điều phục vô lượng tất cả chúng sinh, đều khiến không sót thừa. Tại sao ? Vì đại Bồ Tát này muốn độ thoát tất cả chúng sinh, tu hạnh Phổ Hiền, sinh trí huệ Phổ Hiền, đầy đủ hết thảy hạnh nguyện Phổ Hiền.
Giảng: Đại Bồ Tát cũng lại như thế, hay quán sát nhân duyên chúng sinh giới, hay quán sát pháp giới, hay quán sát thế giới, giống như hư không, chẳng có bờ mé. Cho đến có thể ở trong khoảng một niệm, đến đạo tràng của chư Phật, nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật.
Ở chỗ đạo tràng của mỗi vị Phật, vào bất khả thuyết bất khả thuyết pháp môn nhất thiết trí đủ thứ pháp khác biệt. Hay khiến cho bất khả thuyết bất khả thuyết cõi chúng sinh, xuất gia tu đạo, tinh tấn siêng năng tu tập căn lành, rốt ráo đắc được thanh tịnh, chẳng có chút nhiễm ô nào. Hay khiến cho bất khả thuyết bất khả thuyết Bồ Tát, đối với hạnh nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền tu, người chưa quyết định nơi hạnh nguyện Phổ Hiền, thì đắc được trí huệ quyết định, để tu hạnh nguyện Bồ Tát Phổ Hiền, an trụ môn trí huệ Phổ Hiền.
Dùng vô lượng pháp môn phương tiện khéo léo, vào bất khả thuyết bất khả thuyết ba đời kiếp thành trụ hoại rộng lớn khác biệt. Nơi bất khả thuyết bất khả thuyết cảnh giới thế gian thành trụ hoại khác biệt, sinh khởi bất khả thuyết bất khả thuyết tâm đại bi và tâm đại nguyện, điều phục vô lượng vô biên tất cả chúng sinh, khiến cho hết thảy chúng sinh đều được giải thoát, chẳng có một chúng sinh nào mà không được độ. Tại sao ? Vì vị đại Bồ Tát này, muốn độ thoát tất cả chúng sinh lìa khổ được vui, cho nên tu hạnh nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền, sinh ra trí huệ của Bồ Tát Phổ Hiền, đầy đủ hết thảy tất cả hạnh nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền
Thị cố, chư Bồ-tát ưng ư như thị chủng loại, như thị cảnh giới, như thị uy đức, như thị quảng đại, như thị vô lượng, như thị bất tư nghị, như thị phổ chiếu minh, như thị nhất thiết chư Phật hiện tiền trụ, như thị nhất thiết Như Lai sở hộ niệm, như thị thành tựu vãng tích thiện căn, như thị kỳ tâm vô ngại bất động
Tam muội chi trung, cần gia tu tập, ly chư nhiệt não, vô hữu bì yếm, tâm Bất-thoái-chuyển, lập thâm chí lạc, dũng mãnh vô khiếp, thuận tam muội cảnh giới, nhập nan tư trí địa. Bất y văn tự, bất trước thế gian, bất thủ chư Pháp, bất khởi phân biệt, bất nhiễm trước thế sự, bất phân biệt cảnh giới,
Do vậy các Bồ Tát, phải ở nơi giống loại như vậy, cảnh giới như vậy, oai đức như vậy, rộng lớn như vậy, vô lượng như vậy, không thể nghĩ bàn như vậy, chiếu sáng khắp như vậy, tất cả chư Phật hiện tiền trụ như vậy, được tất cả Như Lai hộ niệm như vậy, thành tựu căn lành thuở xưa như vậy, trong tam muội tâm vô ngại chẳng động như vậy.
Siêng năng tu tập, lìa các nhiệt não, chẳng có mỏi nhàm, tâm chẳng thối chuyển, lập chí thâm sâu, dũng mãnh chẳng sợ. Tuỳ thuận cảnh giới tam muội, vào trí địa khó nghĩ bàn, chẳng nương văn tự, chẳng chấp thế gian, chẳng thủ lấy các pháp, chẳng khởi phân biệt, chẳng nhiễm trước việc đời, chẳng phân biệt cảnh giới.
Giảng: Vì vậy cho nên tất cả các Bồ Tát, phải đối với nơi giống loại như đã nói ở trước, cảnh giới như đã nói, oai đức như đã nói, nguyện lực rộng lớn, vô lượng pháp môn, cảnh giới không thể nghĩ bàn, trí huệ quang minh Phật pháp chiếu sáng khắp, tất cả chư Phật thị hiện trụ nơi ba đời như vậy, được tất cả chư Phật hộ niệm và gia trì như vậy, thành tựu căn lành thuở xưa như vậy, tâm Bồ Tát không chướng, không ngại, ở trong tam muội bất động như vậy.
Siêng năng tu tập pháp môn hạnh nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền tu tập. Phải lìa khỏi tất cả nhiệt não, chẳng có khi nào mệt mỏi và nhàm chán. Bồ Tát vì pháp, tâm chẳng thối chuyển, lập xuống chí nguyện thâm sâu, dũng mãnh tinh tấn, tâm chẳng sợ hãi, mà được an vui. Tuỳ thuận cảnh giới tam muội, vào trí địa không thể nghĩ bàn, tức cũng là chứng nhập quả vị Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Bồ Tát chẳng nhất định y chiếu theo văn tự để tu hành, chẳng chấp trước vào tất cả pháp hữu vi thế gian, cũng chẳng thủ lấy tất cả pháp nhiễm ô thế gian, cũng chẳng sinh khởi tất cả tâm phân biệt, cũng chẳng nhiễm trước tất cả việc đời, cũng chẳng phân biệt tất cả cảnh giới.
Ư chư Pháp trí đãn ưng an trụ, bất ưng xưng lượng. Sở vị: thân cận nhất thiết trí, ngộ giải Phật Bồ-đề, thành tựu pháp quang minh, thí dữ nhất thiết chúng sanh thiện căn. Ư ma giới trung bạt xuất chúng sanh, lệnh kỳ đắc nhập Phật Pháp cảnh giới, lệnh bất xả đại nguyện, cần quán xuất đạo, tăng quảng tịnh cảnh, thành tựu chư độ. Ư nhất thiết Phật thâm sanh tín giải. Thường ưng quan sát nhất thiết pháp tánh, vô thời tạm xả;
Nơi các pháp trí, chỉ nên an trụ, không nên so lường. Tức là : Gần gũi nhất thiết trí, ngộ hiểu Phật bồ đề, thành tựu pháp quang minh, thí cho tất cả chúng sinh căn lành.
Ở trong cõi ma, cứu chúng sinh thoát khỏi, khiến cho họ được vào cảnh giới Phật pháp, khiến cho không bỏ đại nguyện, siêng quán đạo xuất thế, thêm rộng cảnh thanh tịnh, thành tựu các độ. Nơi tất cả chư Phật, sinh tin hiểu thâm sâu. Thường phải quán sát tất cả pháp tánh, không lúc nào tạm bỏ.
Giảng: Bồ Tát đối với tất cả các pháp và nhất thiết trí, phải an trụ ở trong đó, không nên so lường, pháp rốt ráo có bao nhiêu ? Trí rốt ráo có bao nhiêu ? Không thể sinh tâm phân biệt. Nghĩa là : Gần gũi nhất thiết trí huệ, ngộ hiểu Phật bồ đề giác đạo, thành tựu pháp trí huệ quang minh. Sau đó bố thí cho tất cả chúng sinh, khiến cho họ căn lành tăng trưởng. Đối với chúng sinh ở trong cõi ma, phải cứu họ thoát khỏi biển phiền não nước sâu lửa nóng, khiến cho họ được vào cảnh giới Phật pháp.
Trước khi chúng ta chưa xuất gia phát bồ đề tâm, đều làm quyến thuộc của ma vương, làm việc gì cũng đều có quan hệ với ma, ví như ích kỷ lợi mình, đố kị chướng ngại, tranh luận đệ nhất, nói thị phi, đều bị ma chỉ huy. Cho nên nói chúng sinh là quyến thuộc của ma. Nếu tu hành thì sẽ thành Phật; nếu không tu hành tức là chúng sinh. Đây là hai con đường giữa ánh sáng và đen tối, do chúng sinh tự mình lựa chọn. Cứ hưởng thụ tài sắc danh ăn và ngủ năm dục, thì vĩnh viễn làm chúng sinh. Nếu xuất gia tu đạo, chỉ cần « Siêng tu giới định huệ, diệt trừ tham sân si », thì thẳng đến cảnh Niết Bàn bờ bên kia.
Bồ Tát có tâm từ bi, từ trong cảnh ma, cứu độ chúng sinh, khiến cho chúng sinh sớm được giác ngộ, chứng được cảnh giới Phật pháp, khiến cho tất cả Bồ Tát và phàm phu không xả bỏ đại nguyện đã phát, siêng năng quán sát con đường thoát khỏi ba cõi, tăng trưởng cảnh giới thanh tịnh rộng lớn, thành tựu mười pháp môn Ba la mật. Đối với pháp của mười phương ba đời tất cả chư Phật đã nói, phải sinh tâm tin hiểu thâm sâu, phải thường quán sát tự tánh của tất cả các pháp, không lúc nào không quán sát.
Ứng tri tự thân dữ chư pháp tánh phổ giai bình đẳng; ứng đương minh giải thế gian sở tác, thị kỳ như pháp trí tuệ phương tiện; ưng Thường-tinh-tấn, vô hữu hưu tức; ưng quán tự thân thiện căn tiên thiểu; ưng cần tăng trưởng tha chư thiện căn; ưng tự tu hành nhất thiết trí đạo; ưng cần tăng trưởng Bồ Tát cảnh giới; ưng lạc thân cận chư thiện tri thức; ưng dữ đồng hành nhi cọng chỉ trụ; ưng bất phân biệt Phật; ưng bất xả ly niệm; ưng thường an trụ bình đẳng pháp giới; ứng tri nhất thiết tâm thức như huyễn; ưng tri thế gian chư hạnh như mộng; ứng tri chư Phật nguyện lực xuất hiện do như ảnh tượng; ứng tri nhất thiết chư quảng đại nghiệp do như biến hóa;
Ứng tri ngôn ngữ tất giai như hưởng; ưng quán chư Pháp nhất thiết như huyễn; Ứng tri nhất thiết sanh diệt chi Pháp giai như âm thanh; ứng tri sở vãng nhất thiết Phật sát giai vô thể tánh; ưng vi thỉnh vấn Như Lai Phật Pháp bất sanh bì quyện; ưng vi khai ngộ nhất thiết thế gian, cần gia giáo hối nhi bất xả ly; ưng vi điều phục nhất thiết chúng sanh, tri thời thuyết Pháp nhi bất hưu tức.
Nên biết thân mình và các pháp tánh, thảy đều bình đẳng. Phải hiểu rõ việc làm của thế gian, chỉ bày cho họ trí huệ phương tiện đúng như pháp. Phải thường tinh tấn, không có ngừng nghỉ.
Nên quán thân mình, căn lành kém ít. Nên siêng năng tăng trưởng các căn lành cho họ. Nên tự mình tu hành đạo nhất thiết trí. Nên siêng năng tăng trưởng cảnh giới của Bồ Tát. Nên thích gần gũi các thiện tri thức. Nên cùng ở với người đồng hành. Đừng nên phân biệt Phật, đừng nên xả lìa niệm.
Nên thường an trụ pháp giới bình đẳng. Nên biết tất cả tâm thức như huyễn. Nên biết thế gian các hành như mộng. Nên biết nguyện lực xuất hiện ra đời của chư Phật, giống như hình bóng. Nên biết tất cả các nghiệp rộng lớn, giống như biến hoá.
Nên biết lời nói thảy đều như tiếng vang. Nên quán tất cả các pháp như huyễn. Nên biết tất cả pháp sinh diệt, đều như âm thanh. Nên biết chỗ đến của tất cả cõi Phật, đều không thể tánh. Nên thưa hỏi Như Lai về Phật pháp, mà không sinh tâm mệt mỏi. Nên vì khai ngộ tất cả chúng sinh thế gian, mà siêng năng dạy bảo, không xả bỏ chúng sinh. Nên vì điều phục tất cả chúng sinh, biết thời thuyết pháp, mà không ngừng nghỉ.
Giảng: Nên biết thân thể của mình và tự tánh của các pháp, thảy đều bình đẳng. Nên minh bạch hiểu rõ việc làm của thế gian, chỉ bày cho họ pháp chân thật, pháp trí huệ phương tiện. Phải thường tinh tấn học tập Phật pháp, không có ngừng nghỉ. Nên quán sát thân mình, thuở xưa tu căn lành rất ít. Nên siêng tăng trưởng tất cả căn lành, chẳng những khiến cho mình tăng trưởng căn lành, mà cũng khiến cho họ căn lành tăng trưởng.
Nên tự mình tu hành đạo nhất thiết trí, cũng nên khiến cho họ tu hành đạo nhất thiết trí, đó là tư tưởng của Bồ Tát. Do đó : « Tự giác giác tha, tự độ độ tha, tự lợi lợi tha ». Tư tưởng của tiểu thừa là « Tự giác chẳng giác tha, tự độ chẳng độ tha, tự lợi chẳng lợi tha ». Đó là tác phong của tự liễu hán !
Nên siêng năng tăng trưởng cảnh giới của Bồ Tát. Nên ưa thích gần gũi tất cả thiện tri thức. Nên cùng tu hành với thiện tri thức mà ở với nhau. Đừng nên phân biệt tất cả chư Phật. Đừng nên xả lìa niệm Phật niệm Pháp niệm Tăng. Nên thường an trụ trong pháp giới bình đẳng. Nên biết tất cả tâm thức đều hư vọng như huyễn như hoá. Nên biết thế gian tất cả các hành không chân thật như mộng như bọt nước.
Nên biết chư Phật xuất hiện ra đời, đều vì nguyện lực đã phát ra trong quá khứ, giống như hình bóng. Nên biết tất cả các nghiệp rộng lớn, giống như biến hoá. Nên biết lời nói, đều như tiếng vang. Nên quán tất cả các pháp như huyễn không thật. Nên biết tất cả pháp sinh diệt, đều như âm thanh, hốt có hốt không. Nên biết chỗ đến của tất cả cõi Phật, đều chẳng có một thật thể. Nên thưa hỏi pháp mà Phật đã nói, không sinh tâm mệt mỏi. Nên vì khai ngộ tất cả chúng sinh thế gian, siêng năng dạy bảo, không xả bỏ chúng sinh. Nên vì điều phục tất cả chúng sinh, biết lúc nào vì chúng sinh thuyết pháp, vĩnh viễn không ngừng nghỉ. Tóm lại, tuỳ thời tuỳ lúc vì chúng sinh thuyết pháp, do đó : « Quán căn cơ chúng sinh, vì người thuyết pháp ».
Nhìn lại đoạn kinh văn này, chúng ta người tu đạo, phải triệt để phản tỉnh lại, có phải hằng ngày y chiếu theo Phật pháp tu hành ? Có tâm đại công vô tư chăng ? Có tâm ích kỷ chăng ? Những gì chúng ta làm mỗi ngày là lợi ích chúng sinh hay là lợi ích chính mình ? Phải kiểm thảo triệt để lại xem.
Nếu muốn lợi ích chúng sinh, thì lợi ích chúng sinh như thế nào ? Có phải mỗi ngày khởi vọng tưởng lợi ích chúng sinh ? Có phải mỗi ngày tìm người nhiễu loạn họ để lợi ích chúng sinh ? Mỗi ngày điên điên đảo đảo, chẳng nhận ra được mình sai. Mỗi ngày cẩu cẩu thả thả, chẳng chịu thành thật tu hành. Như vậy có thể lợi ích chúng sinh chăng ? Chẳng hồi quang phản chiếu, chẳng trở về cầu nơi chính mình, như vậy có thể lợi ích chúng sinh chăng ? Những chỗ này phải đặc biệt chú ý.
Nếu mỗi ngày chuyên vì mình mà tính toán, thì sẽ lỗ vốn. Giống như buôn bán, phải làm cho tiền vốn có lời. Nếu như chuyên làm việc lợi ích cho người khác, mà không lợi mình, như vậy, thì sự làm ăn (đức hạnh) càng làm càng phát triển. Chúng ta học Phật pháp, chỉ có một phương pháp, đó là cước đạp thật địa, thành thật tu hành. Phải biết mình từ vô thuỷ đến nay, vì có tâm tham sân si, cho nên tu hành một chút cũng không có sự thành tựu.
Nếu tâm nhiễm ô quá nặng, tâm thanh tịnh quá nhẹ, thì tu đến thuở vị lai, cũng không thể thành công. Cho nên phải tu hạnh nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền. Vì hạnh nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền, chẳng có tư tưởng ích kỷ, chẳng có hành vi ích kỷ. Nếu như dùng tà tri tà kiến để chi phối hành vi của mình, ngày ngày chướng ngại người khác tu hành, thì nhất định sẽ đoạ vào địa ngục vô gián, vĩnh viễn không ra khỏi.
Hy vọng mọi người phải đoàn kết nhất chí, phải hoà bình với nhau, dùng tâm thành đối đãi với nhau, dùng đức cảm hoá. Chúng ta đều là người có nhân duyên, mới có thể cùng ở một chỗ học tập tu hành Phật pháp. Đây là căn lành đã gieo xuống nhiều đời nhiều kiếp, cho nên mới không phân biệt chủng tộc, không phân biệt quốc tịch, mọi người cùng nhau hoà thuận. Chuyên tâm cùng nhau nghiên cứu Phật pháp, tụng kinh trì chú, tham thiền đả toạ. Do đó « Bốn biển đều là huynh đệ », cũng có thể nói toàn thế giới đều là người một nhà. Ai ai cũng quan niệm như vậy, lấy Đức Phật Thích Ca làm thầy, chúng ta đều là con cháu của Ngài, thì hà tất phải đấu tranh, tranh sáng đoạt tối, làm tổn thương hoà khí, trở thành kẻ địch. Có câu nói, nói rất là có đạo lý :
« Chẳng nhìn Tăng mà nhìn mặt Phật ».
Mọi người đều là đệ tử của Phật ! Phải trợ giúp lẫn nhau, chỉ dẫn lẫn nhau, đồng tâm hiệp lực, phát triển Phật giáo, khiến cho rộng lớn, đến khắp cùng các nơi trên thế giới, làm cho lòng người hướng thiện, chấm dứt chiến tranh. Mọi người phải sớm tiến về trước, hoàn thành sứ mạng của chúng ta.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát như thị tu hành Phổ Hiền chi hạnh, như thị viên mãn Bồ Tát cảnh giới, như thị thông đạt xuất ly chi đạo, như thị thọ trì tam thế Phật Pháp, như thị quan sát nhất thiết trí môn, như thị tư duy bất biến dị pháp, như thị minh khiết tăng thượng chí lạc, như thị tín giải nhất thiết Như Lai, như thị liễu tri Phật quảng đại lực, như thị quyết định vô sở ngại tâm, như thị nhiếp thọ nhất thiết chúng sanh.
Phật tử ! Đại Bồ Tát tu hành hạnh Phổ Hiền như vậy. Viên mãn cảnh giới Bồ Tát như vậy. Thông đạt đạo xuất ly như vậy. Thọ trì pháp ba đời của chư Phật như vậy. Quán sát môn nhất thiết trí như vậy.
Tư duy pháp không biến đổi như vậy. Sáng sạch tăng thượng chí ưa thích như vậy. Tin hiểu tất cả Như Lai như vậy. Biết rõ Phật lực rộng lớn như vậy. Quyết định tâm không chướng ngại như vậy. Nhiếp thọ tất cả chúng sinh như vậy.
Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát thời thời tu hành hạnh của Bồ Tát Phổ Hiền, nơi nơi trợ giúp chúng sinh thành tựu Phật đạo. Hay làm viên mãn cảnh giới của Bồ Tát, sẽ thông đạt đạo thoát khỏi ba cõi, sẽ thọ trì pháp của ba đời chư Phật đã nói, thọ nơi tâm, trì nơi thân, phải tâm miệng như một, nói được thì làm được, đừng có « Khẩu đầu thiền ». Nếu nói được mà làm không được, cũng chẳng có ích gì. Tóm lại, bất cứ làm những gì đều lợi ích người khác đó là Phật pháp; còn làm những gì mà lợi ích chính mình, đó là ma pháp. Chánh tà hai pháp, do thiện ác để quyết định. Người thiện thì giúp người, còn kẻ ác thì hại người, tâm ích kỷ tuyệt đối không thể có; tâm cứu đời cứu người, tuyệt đối không thể không có. Do đó : « Hy sinh tiểu ngã, mà thành tựu đại ngã ». Phải có tinh thần như thế, thì mới thật là Phật tử.
Giống như dùng quán sát trí để quán sát môn nhất thiết trí, để tư duy pháp không biển đổi, tức cũng là đừng thấy khác mà nghĩ sai lệch, bị cảnh giới chuyển. Sáng sạch trí huệ tăng trưởng căn lành, chí nguyện để tu hành, đắc được cảnh giới khoái lạc. Tin ngưỡng thấu hiểu pháp của tất cả chư Phật nói, để biết rõ Phật có sức lực rộng lớn, để tâm tin quyết định không có sự chướng ngại, để nhiếp thọ tất cả chúng sinh, Bồ Tát tu hành hạnh Phổ Hiền, đắc được mười một cảnh giới như vậy.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát nhập Phổ Hiền Bồ Tát sở trụ như thị Đại trí tuệ tam muội thời, thập phương các hữu bất khả thuyết bất khả thuyết quốc độ, nhất nhất quốc độ các hữu bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số Như Lai danh hiệu, nhất nhất danh hiệu các hữu bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số chư Phật nhi hiện kỳ tiền,
Phật tử ! Khi đại Bồ Tát nhập vào tam muội đại trí huệ, chỗ trụ của Bồ Tát Phổ Hiền như vậy, thì mười phương đều có bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật. Mỗi cõi nước, đều có danh hiệu Như Lai nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật. Mỗi danh hiệu, đều có chư Phật nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật, hiện ra ở trước.
Giảng: Các vị Phật tử ! Khi đại Bồ Tát nhập vào tam muội đại trí huệ, chỗ trụ của Bồ Tát Phổ Hiền như vậy, thì mười phương đều có bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật. Ở trong mỗi cõi nước, lại có danh hiệu Như Lai nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật. Ở trong mỗi danh hiệu, lại có chư Phật nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật, thảy đều thị hiện ra ở trước Bồ Tát.
Dữ Như Lai niệm lực, lệnh bất vong thất Như Lai cảnh giới; dữ nhất thiết pháp cứu cánh tuệ, lệnh nhập nhất thiết trí; dữ tri nhất thiết pháp chủng chủng nghĩa quyết định tuệ, lệnh thọ trì nhất thiết Phật Pháp thú nhập vô ngại; dữ vô thượng Phật Bồ-đề, lệnh nhập nhất thiết trí khai ngộ Pháp giới; dữ Bồ Tát cứu cánh tuệ, lệnh đắc nhất thiết pháp quang minh, vô chư hắc ám; dữ Bồ Tát bất thoái trí, lệnh tri thời, phi thời, thiện xảo phương tiện điều phục chúng sanh; dữ vô chướng ngại Bồ Tát biện tài, lệnh ngộ giải vô biên Pháp diễn thuyết vô tận; dữ thần thông biến hóa lực, lệnh hiện bất khả thuyết bất khả thuyết sái biệt thân vô biên sắc tướng chủng chủng bất đồng khai ngộ chúng sanh; dữ viên mãn ngôn âm, lệnh hiện bất khả thuyết bất khả thuyết sái biệt âm thanh chủng chủng ngôn từ khai ngộ chúng sanh; dữ bất đường quyên lực, lệnh nhất thiết chúng sanh nhược đắc kiến hình, nhược đắc văn Pháp giai tất thành tựu, vô không quá giả.
Ban cho niệm lực của Như Lai, khiến cho không quên mất cảnh giới của Như Lai.
Ban cho tất cả pháp huệ rốt ráo, khiến cho vào nhất thiết trí.
Ban cho biết tất cả pháp đủ thứ nghĩa quyết định huệ, khiến cho thọ trì tất cả Phật pháp, nhập vào vô ngại.
Ban cho Phật bồ đề vô thượng, khiến cho vào nhất thiết trí, khai ngộ pháp giới.
Ban cho huệ rốt ráo của Bồ Tát, khiến cho đắc được tất cả pháp quang minh, không có các đen tối.
Ban cho trí bất thối của Bồ Tát, khiến cho biết thời, phi thời, phương tiện khéo léo điều phục chúng sinh.
Ban cho biện tài không chướng ngại của Bồ Tát, khiến cho ngộ hiểu vô biên pháp, diễn nói vô tận.
Ban cho sức thần thông biến hoá, khiến cho hiện bất khả thuyết bất khả thuyết thân khác nhau, vô biên sắc tướng, đủ thứ sự khác nhau, để khai ngộ chúng sinh.
Ban cho âm thanh viên mãn, khiến cho hiện bất khả thuyết bất khả thuyết âm thanh khác nhau đủ thứ lời lẽ, để khai ngộ chúng sinh.
Ban cho sức không luống bỏ, khiến cho tất cả chúng sinh, hoặc được thấy thân hình, hoặc được nghe pháp, thảy đều thành tựu, không có luống qua.
Giảng: Có bất khả thuyết chư Phật, thị hiện ở trước vị đại Bồ Tát này. Ban cho mười sức trí huệ:
1. Ban cho niệm lực của Như Lai, khiến cho không quên mất cảnh giới của Như Lai.
2. Ban cho tất cả pháp trí huệ rốt ráo, khiến cho Ngài chứng nhập vào nhất thiết trí.
3. Ban cho biết tất cả pháp đủ thứ nghĩa lý, trí huệ quyết định, khiến cho Ngài thọ trì tất cả Phật pháp, nhập vào pháp môn không chướng ngại.
4. Ban cho Phật bồ đề giác đạo vô thượng, khiến cho Ngài vào nhất thiết trí, khai ngộ pháp giới tất cả chúng sinh.
5. Ban cho huệ rốt ráo của Bồ Tát, khiến cho Ngài đắc được tất cả pháp quang minh, chiếu phá tất cả đen tối.
6. Ban cho trí huệ bất thối của Bồ Tát, khiến cho Ngài biết thời thuyết pháp, hoặc chẳng phải thời thuyết pháp, phương tiện khéo léo để điều phục tất cả chúng sinh.
7. Ban cho biện tài không chướng ngại của Bồ Tát, khiến cho Ngài khai ngộ thấu hiểu vô biên Phật pháp, diễn nói vô tận diệu pháp.
8. Ban cho sức thần thông biến hoá, khiến cho Ngài hiện ra bất khả thuyết bất khả thuyết thân khác nhau, vô lượng vô biên sắc tướng, đủ thứ sự khác nhau, để khai ngộ tất cả chúng sinh.
9. Ban cho âm thanh viên mãn vô ngại, khiến cho Ngài hiện ra bất khả thuyết bất khả thuyết âm thanh khác nhau, đủ thứ lời lẽ khác nhau, để khai ngộ tất cả chúng sinh.
10. Ban cho sức không luống bỏ, khiến cho tất cả chúng sinh, hoặc được thấy thân hình Bồ Tát, hoặc nghe được pháp âm của Bồ Tát, thảy đều thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, không có luống qua, nghĩa là không thể nào không đắc được lợi ích. Tóm lại, phàm là thấy được tướng của Bồ Tát, nghe được pháp của Bồ Tát, đều thành Phật đạo.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát như thị mãn túc Phổ Hiền hạnh cố, đắc Như Lai lực, tịnh xuất ly đạo, mãn nhất thiết trí, dĩ vô ngại biện tài thần thông biến hóa, cứu cánh điều phục nhất thiết chúng sanh; cụ Phật uy đức, tịnh Phổ Hiền hạnh, trụ Phổ Hiền đạo, tận vị lai tế, vi dục điều phục nhất thiết chúng sanh, chuyển nhất thiết Phật vi diệu pháp luân. hà dĩ cố?
Phật tử! Vì đại Bồ Tát đầy đủ hạnh Phổ Hiền như vậy, nên đắc được lực của Như Lai, thanh tịnh đạo xuất ly, viên mãn nhất thiết trí. Dùng biện tài vô ngại, thần thông biến hoá, rốt ráo điều phục tất cả chúng sinh, đủ oai đức của Phật, thanh tịnh hạnh Phổ Hiền, trụ đạo Phổ Hiền. Hết thuở vị lai, vì muốn điều phục tất cả chúng sinh, chuyển bánh xe pháp vi diệu của tất cả chư Phật. Tại sao?
Giảng: Các vị Phật tử! Vì đại Bồ Tát tu hành như vậy, nên viên mãn đầy đủ hạnh Bồ Tát Phổ Hiền như vậy, nên đắc được lực của Như Lai gia bị, thanh tịnh đạo xuất ly ba cõi, viên mãn nhất thiết trí. Dùng biện tài vô ngại, thần thông biến hoá vô ngại, rốt ráo điều phục được tất cả chúng sinh. Đầy đủ đại oai đức của Phật, thanh tịnh hạnh của Bồ Tát Phổ Hiền tu, trụ đạo của Bồ Tát Phổ Hiền tu. Hết thuở vị lai, vì muốn điều phục tất cả chúng sinh, mà chuyển bánh xe pháp vi diệu của tất cả chư Phật. Đây là nguyên nhân gì?
Phật tử! thử Bồ-Tát Ma-ha-tát thành tựu như thị thù thắng đại nguyện chư Bồ-tát hạnh, tức vi nhất thiết thế gian Pháp sư, tức vi nhất thiết thế gian Pháp nhật, tức vi nhất thiết thế gian trí nguyệt; tức vi nhất thiết thế gian Tu Di Sơn Vương, nghi nhiên cao xuất, kiên cố bất động; tức vi nhất thiết thế gian vô nhai trí hải; tức vi nhất thiết thế gian chánh pháp minh đăng, phổ chiếu vô biên, tướng tục bất đoạn;
Vi nhất thiết chúng sanh khai thị vô biên thanh tịnh công đức, giai lệnh an trụ công đức thiện căn; thuận nhất thiết trí, đại nguyện bình đẳng, tu tập Phổ Hiền quảng đại chi hạnh, thường năng khuyến phát vô lượng chúng sanh, trụ bất khả thuyết bất khả thuyết quảng đại hạnh tam muội, hiện đại tự tại.
Phật tử! Đại Bồ Tát này thành tựu các hạnh Bồ Tát đại nguyện thù thắng như vậy: Là pháp sư của tất cả thế gian. Là mặt trời pháp của tất cả thế gian. Là mặt trăng trí huệ của tất cả thế gian. Là núi chúa Tu Di của tất cả thế gian, cao lớn vòi vọi, kiên cố bất động. Là biển trí không bờ của tất cả thế gian. Là đèn sáng chánh pháp của tất cả thế gian, chiếu khắp vô biên, liên tục không dứt.
Vì tất cả chúng sinh khai thị vô biên công đức thanh tịnh, đều khiến cho họ an trụ nơi công đức căn lành. Tuỳ thuận nhất thiết trí đại nguyện bình đẳng. Tu tập hạnh Phổ Hiền rộng lớn. Thường hay khuyến phát vô lượng chúng sinh, trụ bất khả thuyết bất khả thuyết tam muội hạnh rộng lớn, hiện đại tự tại.
Giảng: Các vị Phật tử! Vị đại Bồ Tát này, Ngài dùng đủ thứ căn lành, thành tựu hạnh của tất cả Bồ Tát tu và đại nguyện thù thắng như đã nói ở trước, Ngài thành tựu đại nguyện và đại hạnh: Là đại pháp sư của tất cả thế gian. Là mặt trời pháp của tất cả thế gian. Là mặt trăng trí huệ của tất cả thế gian, cũng là mặt trăng mát mẻ. Là núi chúa Tu Di của tất cả thế gian, vì cao lớn vòi vọi, hơn hẳn tất cả các núi khác, kiên cố bất động. Là biển trí không bờ bến của tất cả thế gian. Là đèn sáng chánh pháp của tất cả thế gian, chiếu khắp mười phương vô biên thế giới, liên tục không gián đoạn.
Vì tất cả chúng sinh khai thị vô biên công đức thanh tịnh, khiến cho tất cả chúng sinh an trụ nơi tất cả công đức căn lành. Tuỳ thuận nhất thiết trí huệ, tất cả đại nguyện đều bình đẳng. Tu tập hạnh Bồ Tát Phổ Hiền rộng lớn. Thường khuyến phát vô lượng chúng sinh, trụ bất khả thuyết bất khả thuyết tam muội đại hạnh Bồ Tát Phổ Hiền rộng lớn, thị hiện thần thông biến hoá đại tự tại.
Phật tử! thử Bồ-Tát Ma-ha-tát, hoạch như thị trí, chứng như thị pháp, ư như thị pháp thẩm trụ minh kiến; đắc như thị thần lực, trụ như thị cảnh giới, hiện như thị thần biến, khởi như thị thần thông; thường an trụ đại bi, thường lợi ích chúng sanh, khai thị chúng sanh an ổn chánh đạo, kiến lập phước trí đại quang minh tràng; chứng bất tư nghị giải thoát, trụ nhất thiết trí giải thoát, đáo chư Phật giải thoát bỉ ngạn, học bất tư nghị giải thoát phương tiện môn dĩ đắc thành tựu, nhập Pháp giới sái biệt môn vô hữu thác loạn, ư Phổ Hiền bất khả thuyết bất khả thuyết tam muội du hí tự tại, trụ sư tử phấn tấn trí tâm ý vô ngại.
Phật tử! Đại Bồ Tát này trí huệ như vậy, chứng pháp như vậy, nơi pháp như vậy, suy xét trụ thấy rõ. Đắc được thần lực như vậy, trụ cảnh giới như vậy, hiện thần biến như vậy, khởi thần thông như vậy. Thường an trụ đại bi, thường lợi ích chúng sinh, khai thị chúng sinh an ổn chánh đạo, kiến lập phước trí tràng đại quang minh. Chứng được giải thoát không nghĩ bàn, trụ nơi giải thoát nhất thiết trí, đến bờ giải thoát bên kia của chư Phật.
Học môn phương tiện giải thoát không nghĩ bàn. Đã được thành tựu vào môn pháp giới khác biệt, chẳng có tán loạn. Nơi bất khả thuyết bất khả thuyết tam muội Phổ Hiền, du hí tự tại. Trụ nơi trí huệ sư tử phấn tấn, tâm ý vô ngại.
Giảng: Các vị Phật tử! Vị đại Bồ Tát này, đắc được trí huệ như vậy, chứng được pháp môn như vậy. Đối với pháp này, suy xét chứng được trí huệ thấy rõ. Đắc được thần lực không thể nghĩ bàn, trụ nơi cảnh giới không thể nghĩ bàn, hiện ra thần biến không thể nghĩ bàn, sinh khởi thần thông không thể nghĩ bàn. Thường thường an trụ tâm đại bi, luôn luôn lợi ích tất cả chúng sinh, khiến cho họ phát tâm bồ đề, thường thường khai thị tất cả chúng sinh, an ổn trụ nơi bồ đề chánh đạo, kiến lập phước trí tràng đại quang minh. Chứng được giải thoát không nghĩ bàn. Trụ nơi giải thoát nhất thiết trí, đến được bờ giải thoát bên kia của tất cả chư Phật.
Học tập môn phương tiện giải thoát không nghĩ bàn, đã được thành tựu vào môn pháp giới khác biệt. Pháp môn tuy rất nhiều, nhưng chẳng có tán loạn. Đối với bất khả thuyết bất khả thuyết tam muội của Bồ Tát Phổ Hiền, nhậm vận du hí tự tại. Trụ nơi trí huệ sư tử phấn tấn, tâm ý đều không có sự chướng ngại.
Kỳ tâm hằng trụ thập Đại Pháp tạng. hà giả vi thập? Sở vị: trụ ức niệm nhất thiết chư Phật, trụ ức niệm nhất thiết Phật Pháp, trụ điều phục nhất thiết chúng sanh đại bi, trụ thị hiện bất tư nghị thanh tịnh quốc độ trí, trụ thâm nhập chư Phật cảnh giới quyết định giải, trụ khứ, lai, hiện tại nhất thiết Phật bình đẳng tướng Bồ-đề, trụ vô ngại Vô Trước tế, trụ nhất thiết pháp vô tướng tánh, trụ khứ, lai, hiện tại nhất thiết Phật bình đẳng thiện căn, trụ khứ, lai, hiện tại nhất thiết Như Lai Pháp giới vô sái biệt thân, ngữ, ý nghiệp tiên đạo trí, trụ quan sát tam thế nhất thiết chư Phật thọ sanh, xuất gia, nghệ đạo tràng, thành chánh giác, chuyển pháp luân, bát niết bàn tất nhập sát-na tế.
Tâm Bồ Tát thường trụ nơi mười đại pháp tạng. Những gì là mười? Đó là: Trụ vào sự nghĩ nhớ tất cả chư Phật. Trụ vào sự nghĩ nhớ tất cả Phật pháp. Trụ nơi đại bi điều phục tất cả chúng sinh. Trụ nơi trí huệ không nghĩ bàn thị hiện cõi nước thanh tịnh. Trụ nơi quyết định giải vào sâu cảnh giới của chư Phật.
Trụ nơi tướng bồ đề bình đẳng của tất cả chư Phật quá khứ vị lai hiện tại. Trụ nơi bờ mé không chướng ngại, không chấp trước. Trụ nơi tất cả pháp tánh vô tướng. Trụ nơi căn lành bình đẳng của tất cả chư Phật quá khứ vị lai hiện tại. Trụ nơi trí tiên đạo thân miệng ý pháp giới không khác biệt của tất cả Như Lai quá khứ, vị lai, hiện tại. Trụ vào sát na tế, quán sát tất cả chư Phật ba đời, thọ sinh, xuất gia, đến đạo tràng, thành Chánh Giác, chuyển pháp luân, vào Niết Bàn.
Giảng: Vị đại Bồ Tát này, tâm của Ngài thường trụ ở trong mười đại pháp tạng. Những gì là mười đại pháp tạng? Đó là:
1. Thường trụ nghĩ nhớ danh hiệu của tất cả mười phương chư Phật.
2. Thường trụ nghĩ nhớ pháp của tất cả mười phương chư Phật.
3. Thường trụ tâm đại bi, để điều phục tất cả chúng sinh, khiến cho chúng sinh thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
4. Thường trụ trí huệ thị hiện cõi nước thanh tịnh không thể nghĩ bàn.
5. Thường trụ quyết định giải vào sâu cảnh giới của tất cả chư Phật.
6. Thường trụ tướng bồ đề bình đẳng của tất cả chư Phật đời quá khứ, đời vị lai, đời hiện tại.
7. Thường trụ nơi bờ mé không chướng ngại, không chấp trước.
8. Thường trụ nơi tất cả pháp vô tánh, vô tướng.
9. Thường trụ nơi căn lành bình đẳng của tất cả chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại.
10. Thường trụ nơi trí tiên đạo thân miệng ý, pháp giới không khác biệt của tất cả chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại. Hoàn toàn vào sát na tế, quán sát tất cả chư Phật ba đời, thọ sinh, xuất gia, đến đạo tràng, thành Chánh Giác, chuyển pháp luân, vào Niết Bàn.
Phật tử! thử thập Đại Pháp tạng quảng đại vô lượng, bất khả số, bất khả xưng, bất khả tư, bất khả thuyết, vô cùng tận, nan nhẫn thọ, nhất thiết thế trí vô năng xưng thuật.
Phật tử! Mười đại pháp tạng này rộng lớn vô lượng, bất khả số, bất khả xưng, bất khả tư, bất khả thuyết, vô cùng tận, khó nhẫn thọ. Tất cả trí huệ thế gian, không thể xưng tán tường thuật hết được.
Giảng: Các vị Phật tử! Mười đại pháp tạng này, rộng lớn vô lượng, bất khả số, bất khả xưng, bất khả tư, bất khả thuyết, vô cùng tận, khó nhẫn thọ. Hết thảy tất cả trí huệ thế gian, không cách chi tán thán khen ngợi, tường thuật hết được.
Phật tử! thử Bồ-Tát Ma-ha-tát dĩ đáo Phổ Hiền chư hạnh bỉ ngạn, chứng thanh tịnh Pháp, chí lực quảng đại, khai thị chúng sanh vô lượng thiện căn, tăng trưởng Bồ Tát nhất thiết thế lực, ư niệm niệm khoảnh mãn túc Bồ Tát nhất thiết công đức, thành tựu Bồ Tát nhất thiết chư hạnh, đắc nhất thiết Phật Đà-la-ni Pháp, thọ trì nhất thiết chư Phật sở thuyết; tuy thường an trụ chân như thật tế, nhi tùy nhất thiết thế tục ngôn thuyết, thị hiện điều phục nhất thiết chúng sanh.
Hà dĩ cố? Bồ-Tát Ma-ha-tát trụ thử tam muội, Pháp như thị cố.
Phật tử! Đại Bồ Tát này đã đến được bờ bên kia các hạnh của Bồ Tát Phổ Hiền. Chứng được pháp thanh tịnh, chí lực rộng lớn. Khai thị chúng sinh vô lượng căn lành, tăng trưởng tất cả thế lực của Bồ Tát. Trong khoảng niệm niệm, đầy đủ tất cả công đức của Bồ Tát, thành tựu tất cả các hạnh của Bồ Tát, đắc được pháp đà la ni của tất cả chư Phật, thọ trì pháp của tất cả chư Phật nói. Tuy thường an trụ chân như thật tế, mà tuỳ thuận tất cả lời nói của thế tục, thị hiện điều phục tất cả chúng sinh.
Tại sao? Vì đại Bồ Tát trụ tam muội này, pháp như vậy.
Giảng: Các vị Phật tử! Vị đại Bồ Tát này, đã đến được bờ bên kia tất cả các hạnh của Bồ Tát Phổ Hiền tu. Chứng được pháp thanh tịnh, chí lực rộng lớn vô biên. Khai thị tất cả chúng sinh, đắc được vô lượng căn lành, tăng trưởng tất cả oai đức thế lực của Bồ Tát tu. Trong khoảng mỗi một niệm, đầy đủ tất cả công đức của Bồ Tát tu, thành tựu hết thảy tất cả hạnh của Bồ Tát, đắc được pháp đà la ni của tất cả chư Phật, thọ trì pháp của tất cả chư Phật nói. Tuy thường an trụ ở trong chân như thật tế, mà có thể tuỳ thuận tất cả lời nói của thế tục. Thị hiện điều phục tất cả chúng sinh cang cường.
Tại sao? Vì khi đại Bồ Tát trụ nơi tam muội Vô ngại luân, cho nên pháp như vậy.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát dĩ thử tam muội, đắc nhất thiết Phật quảng đại trí, đắc xảo thuyết nhất thiết quảng đại pháp tự tại biện tài, đắc nhất thiết thế trung tối vi thù thắng thanh tịnh vô úy Pháp, đắc nhập nhất thiết tam muội trí, đắc nhất thiết Bồ Tát thiện xảo phương tiện, đắc nhất thiết pháp quang minh môn, đáo an uý nhất thiết thế gian Pháp bỉ ngạn, tri nhất thiết chúng sanh thời, phi thời, chiếu thập phương thế giới nhất thiết xứ, lệnh nhất thiết chúng sanh đắc thắng trí, tác nhất thiết thế gian vô thượng sư, an trụ nhất thiết chư công đức, khai thị nhất thiết chúng sanh thanh tịnh tam muội, lệnh nhập tối thượng trí. Hà dĩ cố?
Phật tử! Đại Bồ Tát nhờ tam muội này, mà đắc được trí rộng lớn của tất cả chư Phật. Được biện tài tự tại khéo nói tất cả pháp rộng lớn. Được pháp vô uý thanh tịnh thù thắng nhất trong tất cả thế gian. Được trí huệ vào tất cả tam muội. Được phương tiện khéo léo của tất cả Bồ Tát. Được môn quang minh của tất cả các pháp. Đến được bờ bên kia an ổn tất cả thế gian pháp. Biết tất cả chúng sinh thời, phi thời. Chiếu mười phương thế giới tất cả mọi nơi, khiến cho tất cả chúng sinh được thắng trí. Làm Vô thượng sư của tất cả thế gian, an trụ nơi tất cả các công đức, khai thị cho tất cả chúng sinh tam muội thanh tịnh, khiến cho họ vào trí huệ tối thượng. Tại sao?
Giảng: Các vị Phật tử! Đại Bồ Tát nhờ trụ vào tam muội này, mà đắc được mười thứ cảnh giới. Những gì là mười?
1. Đắc được hết thảy trí huệ rộng lớn của tất cả chư Phật.
2. Đắc được phương tiện khéo léo, biện tài vô ngại nhậm vận tự tại, để nói tất cả Phật pháp rộng lớn.
3. Đắc được pháp vô uý thanh tịnh thù thắng nhất trong tất cả thế gian.
4. Đắc được trí huệ vào tất cả tam muội.
5. Đắc được pháp môn có đủ phương tiện khéo léo của tất cả Bồ Tát.
6. Đắc được môn quang minh của tất cả các pháp.
7. Đến được bờ bên kia an ổn tất cả thế gian pháp.
8. Biết tất cả chúng sinh thời, phi thời.
9. Chiếu mười phương thế giới tất cả mọi nơi, khiến cho tất cả chúng sinh được trí huệ thù thắng.
10. Làm vô thượng sư của tất cả thế gian, an trụ nơi tất cả các công đức, khai thị cho tất cả chúng sinh đắc được tam muội thanh tịnh, khiến cho họ vào trí huệ tối thượng. Tại sao?
Bồ-Tát Ma-ha-tát như thị tu hành, tức lợi ích chúng sanh, tức tăng trường đại bi, tức thân cận thiện tri thức, tức kiến nhất thiết Phật, tức liễu nhất thiết pháp, tức nghệ nhất thiết sát, tức nhập nhất thiết phương, tức nhập nhất thiết thế, tức ngộ nhất thiết pháp bình đẳng tánh, tức tri nhất thiết Phật bình đẳng tánh, tức trụ nhất thiết trí bình đẳng tánh.
Vì đại Bồ Tát tu hành như vậy, thì lợi ích chúng sinh, tăng trưởng đại bi, gần gũi thiện tri thức, thấy được tất cả chư Phật, thấu rõ tất cả các pháp, đến được tất cả cõi Phật, vào được tất cả phương, vào tất cả thế gian, ngộ tất cả pháp tánh bình đẳng, biết tất cả chư Phật tánh bình đẳng, trụ nhất thiết trí tánh bình đẳng.
Giảng: Đại Bồ Tát tu hành tất cả Bồ Tát đạo như vậy, thì có mười thứ cảnh giới, những gì là mười? Đó là:
1. Hay lợi ích tất cả chúng sinh.
2. Hay tăng trưởng đại bi.
3. Hay gần gũi thiện tri thức.
4. Hay thấy được tất cả chư Phật.
5. Hay thấu rõ tất cả Phật pháp.
6. Hay đến được tất cả cõi nước chư Phật.
7. Hay vào tất cả địa phương.
8. Hay vào tất cả thế gian.
9. Hay ngộ tánh bình đẳng của tất cả pháp.
10. Hay biết tánh bình đẳng của tất cả chư Phật, thì trụ nhất thiết trí tánh bình đẳng.
Ư thử Pháp trung, tác như thị nghiệp, bất tác dư nghiệp; trụ vị túc tâm, trụ bất tán loạn tâm, trụ chuyên nhất tâm, trụ cần tu tâm, trụ quyết định tâm, trụ bất biến dị tâm; như thị tư duy, như thị tác nghiệp, như thị cứu cánh.
Ở trong pháp đó, tạo nghiệp như vậy, chẳng tạo nghiệp khác. Trụ tâm chưa đủ, trụ tâm chẳng tán loạn, trụ tâm chuyên nhất, trụ tâm siêng tu, trụ tâm quyết định, trụ tâm chẳng biến đổi. Tư duy như vậy, tạo nghiệp như vậy, rốt ráo như vậy.
Giảng: Ở trong pháp đó, tạo nghiệp thanh tịnh, chẳng tạo nghiệp nhiễm ô. Trụ tâm vì pháp chưa đầy đủ, trụ tâm chẳng tán loạn, trụ tâm chuyên nhất, trụ tâm siêng tu hành, trụ tâm quyết định, trụ tâm chẳng biến đổi. Bồ Tát tư duy như vậy, tạo nghiệp như vậy, rốt ráo như vậy, tức cũng là pháp môn tu hành, đều làm đến cực điểm.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát vô dị ngữ, dị tác, hữu như ngữ, như tác. hà dĩ cố?
Phật tử! Đại Bồ Tát không nói khác, làm khác, mà nói như thật, làm thật. Tại sao?
Giảng: Các vị Phật tử! Đại Bồ Tát chẳng nói hai lời, chẳng làm hai dạng. Những lời nói ra, đều như pháp, việc làm đều hợp pháp. Đây là nguyên nhân gì? Ở dưới đây có đưa ra mười ví dụ để nói rõ.
1. Ví dụ kim cang bất hoại.
2. Ví dụ sắc đẹp vàng thật.
3. Ví dụ ánh sáng mặt trời.
4. Ví dụ bốn ngọn núi Tu Di.
5. Ví dụ đại địa giữ gìn.
6. Ví dụ biển cả chứa nước.
7. Ví dụ tướng quân khai chiến.
8. Ví dụ luân vương hộ đời.
9. Ví dụ cây trồng lớn lên.
10. Khi mưa sinh giống.
Thí như Kim cương, dĩ ất khả hoại nhi đắc kỳ danh, chung vô hữu thời ly ư bất hoại; Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, dĩ chư hạnh Pháp nhi đắc kỳ danh, chung vô hữu thời ly chư hạnh Pháp.
Ví như kim cang, nhờ không thể hoại mà được tên, trọn không khi nào lìa khỏi sự bất hoại. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, nhờ tu hành các pháp mà được tên, trọn không khi nào lìa khỏi tu hành các pháp.
Giảng: Giống như kim cang, ví nó kiên cố, không dễ gì phá hoại, cho nên được tên là kim cang, trọn không khi nào phá hoại được. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, vì tu lục độ vạn hạnh, mà được tên là Bồ Tát, trọn không khi nào lìa khỏi lục độ vạn hạnh.
Thí như chân kim, dĩ hữu diệu sắc nhi đắc kỳ danh, chung vô hữu thời ly ư diệu sắc; Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, dĩ chư thiện nghiệp nhi đắc kỳ danh, chung vô hữu thời ly chư thiện nghiệp.
Ví như vàng thật, nhờ có màu sắc đẹp mà được tên, trọn không khi nào lìa khỏi màu sắc đẹp. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, nhờ các nghiệp lành mà được tên, trọn không khi nào lìa khỏi các nghiệp lành.
Giảng: Giống như vàng thật, nhờ màu sắc đẹp của nó mà khiến cho mọi người ưa thích, cho nên được tên là vàng thật, trọn không khi nào lìa khỏi màu sắc đẹp. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, vì làm tất cả nghiệp lành, để lợi ích tất cả chúng sinh, cho nên được tên là Bồ Tát, trọn không khi nào lìa khỏi tất cả nghiệp lành.
Thí như Nhật Thiên tử, dĩ quang minh luân nhi đắc kỳ danh, chung vô hữu thời ly quang minh luân; Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, dĩ trí tuệ quang nhi đắc kỳ danh, chung vô hữu thời ly trí tuệ quang.
Ví như mặt trời, nhờ ánh sáng mà được tên, trọn không khi nào lìa khỏi ánh sáng. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, nhờ trí huệ quang minh mà được tên, trọn không khi nào lìa khỏi trí huệ quang minh.
Giảng: Giống như mặt trời, nhờ có ánh sáng chiếu khắp thế gian, khiến cho tất cả đều được lợi ích, cho nên gọi là mặt trời, trọn không khi nào lìa khỏi ánh sáng. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, vì có trí huệ quang minh, cho nên được tên Bồ Tát, trọn không khi nào lìa khỏi trí huệ quang minh.
Thí như Tu Di Sơn Vương, dĩ tứ bảo phong xứ ư đại hải, huýnh nhiên cao xuất nhi đắc kỳ danh, chung vô hữu thời xả ly tứ phong; Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, dĩ chư thiện căn xứ tại ư thế, huýnh nhiên cao xuất nhi đắc kỳ danh, chung vô hữu thời xả ly thiện căn.
Ví như núi chúa Tu Di, nhờ bốn ngọn núi báu, ở tại biển cả, cao lớn sừng sững mà được tên, trọn không khi nào lìa khỏi bốn ngọn núi. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, nhờ các căn lành, ở tại thế gian, cao lớn vòi vọi mà được tên, trọn không khi nào lìa khỏi căn lành.
Giảng: Giống như núi chúa Tu Di, có bốn ngọn núi báu, ở giữa biển cả, cao lớn sừng sững mà được tên, trọn không khi nào lìa khỏi bốn ngọn núi. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, nhờ các căn lành, ở tại thế gian, cao lớn vòi vọi hơn tất cả chúng sinh, mà được tên Bồ Tát, trọn không khi nào lìa khỏi tất cả căn lành.
Thí như Đại địa, dĩ trì nhất thiết nhi đắc kỳ danh, chung vô hữu thời xả ly năng trì; Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, dĩ độ nhất thiết nhi đắc kỳ danh, chung vô hữu thời xả ly đại bi.
Ví như đại địa, nhờ giữ gìn tất cả vạn vật mà được tên, trọn không khi nào lìa khỏi năng giữ. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, nhờ độ tất cả mà được tên, trọn không khi nào lìa khỏi đại bi.
Giảng: Giống như đại địa, nhờ giữ gìn tất cả vạn vật, mà được tên là đại địa, trọn không khi nào lìa khỏi năng giữ. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, nhờ độ thoát tất cả chúng sinh, cho nên được tên là Bồ Tát, trọn không khi nào lìa khỏi tâm đại bi.
Thí như đại hải, dĩ hàm chúng thủy nhi đắc kỳ danh, chung vô hữu thời xả ly ư thủy; Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, dĩ chư đại nguyện nhi đắc kỳ danh, chung bất tạm xả độ chúng sanh nguyện.
Ví như biển cả, nhờ chứa các dòng nước mà được tên, trọn không khi nào lìa khỏi nước. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, nhờ các đại nguyện mà được tên, trọn không khi nào tạm lìa khỏi nguyện độ chúng sinh.
Giảng: Giống như biển cả, vì nó dung chứa tất cả các dòng nước, cho nên được tên là biển cả, trọn không khi nào lìa khỏi nước. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, nhờ tất cả các đại nguyện cứu chúng sinh thọ khổ, cho nên được tên Bồ Tát, trọn không khi nào tạm lìa khỏi nguyện độ chúng sinh.
Thí như quân tướng, dĩ năng quán tập chiến đấu chi Pháp nhi đắc kỳ danh, chung vô hữu thời xả ly thử năng; Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, dĩ năng quán tập như thị tam muội nhi đắc kỳ danh, nãi chí thành tựu nhất thiết trí trí, chung vô hữu thời xả ly thử hạnh.
Ví như tướng quân, nhờ giỏi tập luyện phương pháp chiến đấu mà được tên, trọn không khi nào lìa khỏi tài năng này. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, nhờ giỏi tu tập tam muội như vậy mà được tên, cho đến thành tựu trí huệ nhất thiết trí, trọn không khi nào lìa khỏi hạnh này.
Giảng: Giống như tướng quân, ở trong trận mạc, quyết thắng ngoài ngàn dặm, đều thắng lợi, đi đến đâu thắng đến đó, bách chiến bách thắng. Hiểu rõ thao lược tôn tử binh pháp. Vì thích chiến đấu, cho nên được tên là đại tướng quân, trọn không khi nào lìa khỏi khoa sự như thần, chưa bói đã biết trước. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, nhờ giỏi tu tập tam muội như vậy mà được tên Bồ Tát, cho đến thành tựu trí huệ nhất thiết trí, trọn không khi nào lìa khỏi từ bi hỉ xả bốn tâm vô lượng.
Như Chuyển luân Vương, ngự tứ thiên hạ, thường cần thủ hộ nhất thiết chúng sanh, lệnh vô hoạnh tử, hằng thọ khoái lạc; Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, nhập như thị đẳng chư Đại tam muội, thường cần hóa độ nhất thiết chúng sanh, nãi chí lệnh kỳ cứu cánh thanh tịnh.
Ví như Chuyển Luân Vương, thống trị bốn thiên hạ, thường siêng bảo hộ tất cả chúng sinh, khiến cho không hoạnh tử, luôn được an lạc. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, vào các đại tam muội như thế, thường siêng hoá độ tất cả chúng sinh, cho đến khiến cho họ rốt ráo được thanh tịnh.
Giảng: Giống như Chuyển Luân Thánh Vương, thống trị bốn thiên hạ, thường siêng bảo hộ tất cả chúng sinh, khiến cho hết thảy chúng sinh không có tai nạn hoạnh tử, luôn luôn được an lạc vô tỉ. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, vào các đại tam muội như thế, thường siêng giáo hoá độ thoát tất cả chúng sinh, cho đến khiến cho tất cả chúng sinh, rốt ráo được thanh tịnh.
Thí như chủng tử, thực chi ư địa, nãi chí năng lệnh hành diệp tăng trưởng; Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, tu Phổ Hiền hạnh, nãi chí năng lệnh nhất thiết chúng sanh thiện Pháp tăng trưởng.
Ví như hạt giống gieo trồng xuống đất, cho đến hay làm cho cành lá lớn lên. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, tu hạnh Phổ Hiền, cho đến hay khiến cho tất cả chúng sinh tăng trưởng pháp lành.
Giảng: Giống như hạt giống gieo trồng xuống đất, cho đến hay làm cho nảy mầm, sinh rễ, ra cành lá lớn lên, nở hoa, kết trái, lớn lên dần dần mà thành thục. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, tu hạnh của Bồ Tát Phổ Hiền tu, cho đến hay khiến cho tất cả chúng sinh, ngày càng tăng trưởng hết thảy pháp lành.
Thí như đại vân, ư hạ thử nguyệt hàng tuôn Đại vũ, nãi chí tăng trưởng nhất thiết chủng tử; Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, nhập như thị đẳng chư Đại tam muội, tu Bồ Tát hạnh, vũ đại pháp vũ, nãi chí năng lệnh nhất thiết chúng sanh cứu cánh thanh tịnh, cứu cánh Niết Bàn, cứu cánh an ổn, cứu cánh bỉ ngạn, cứu cánh hoan hỉ, cứu cánh đoạn nghi, vi chư chúng sanh cứu cánh phước điền, lệnh kỳ thí nghiệp giai đắc thanh tịnh, lệnh kỳ giai trụ Bất-thoái-chuyển đạo, lệnh kỳ đồng đắc nhất thiết trí trí, lệnh kỳ giai đắc xuất ly tam giới, lệnh kỳ giai đắc cứu cánh chi trí, lệnh kỳ giai đắc chư Phật Như Lai cứu cánh chi Pháp, trí chư chúng sanh nhất thiết trí xứ. Hà dĩ cố?
Ví như mây lớn, tháng mùa hè nóng nực, đổ mưa lớn xuống, cho đến tăng trưởng tất cả hạt giống. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, vào các đại tam muội như vậy, tu hạnh Bồ Tát, mưa đại pháp vũ. Cho đến hay khiến cho tất cả chúng sinh rốt ráo được thanh tịnh. Rốt ráo được Niết Bàn. Rốt ráo được an ổn. Rốt ráo đến bờ bên kia. Rốt ráo hoan hỉ. Rốt ráo dứt nghi.
Vì các chúng sinh làm ruộng phước rốt ráo. Khiến cho nghiệp bố thí của họ đều được thanh tịnh. Khiến cho họ đều trụ đạo bất thối chuyển. Khiến cho họ đồng được trí nhất thiết trí. Khiến cho họ đều được thoát khỏi ba cõi. Khiến cho họ đều được trí rốt ráo. Khiến cho họ đều được pháp rốt ráo của chư Phật Như Lai. Đặt để chúng sinh nơi nhất thiết trí. Tại sao?
Giảng: Giống như mây lớn, tháng mùa hè nóng nực, thường đổ mưa lớn xuống, cho đến tăng trưởng tất cả hạt giống. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, vào các đại tam muội như vậy, tu hạnh của Bồ Tát tu, mưa đại pháp vũ, đánh trống pháp lớn, thổi loa pháp lớn, chuyển đại pháp luân, giáo hoá tất cả chúng sinh.
Cho đến hay khiến cho tất cả chúng sinh rốt ráo đắc được pháp thanh tịnh, lìa khỏi pháp nhiễm ô, tức cũng là đắc được giới định huệ ba học, lìa khỏi tham sân si ba độc, khiến cho tất cả chúng sinh rốt ráo được Niết Bàn, tức cũng là không sinh không diệt, đắc được thường, lạc, ngã, tịnh, bốn đức. Khiến cho tất cả chúng sinh rốt ráo được an ổn, chẳng có mọi phiền não. Khiến cho tất cả chúng sinh rốt ráo đến được bờ bên kia, chẳng còn thọ khổ trong luân hồi. Khiến cho tất cả chúng sinh rốt ráo được hoan hỉ. Khiến cho tất cả chúng sinh rốt ráo dứt được nghi.
Bồ Tát vì hết thảy chúng sinh làm ruộng phước rốt ráo, khiến cho tất cả chúng sinh chẳng chấp tướng bố thí, chẳng chấp tướng thọ, đều được thanh tịnh. Khiến cho tất cả chúng sinh đều trụ nơi giác đạo A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Khiến cho tất cả chúng sinh đồng được trí nhất thiết trí. Khiến cho tất cả chúng sinh đều được thoát khỏi nhà lửa ba cõi. Khiến cho tất cả chúng sinh đều được trí huệ rốt ráo. Khiến cho tất cả chúng sinh đều được pháp yếu rốt ráo của chư Phật. Đặt để chúng sinh nơi nhất thiết trí. Tại sao phải như vậy?
Bồ-Tát Ma-ha-tát thành tựu thử pháp, trí tuệ minh liễu, nhập Pháp giới môn, năng tịnh Bồ Tát bất khả tư nghị vô lượng chư hạnh. Sở vị: năng tịnh chư trí, cầu nhất thiết trí cố; năng tịnh chúng sanh, sử điều phục cố; năng tịnh sát độ, thường hồi hướng cố; năng tịnh chư Pháp, phổ liễu tri cố; năng tịnh vô úy, vô khiếp nhược cố; năng tịnh vô ngại biện, xảo diễn thuyết cố; năng tịnh Đà-la-ni, ư nhất thiết Pháp đắc tự tại cố; năng tịnh thân cận hạnh, thường kiến nhất thiết Phật hưng thế cố.
Vì đại Bồ Tát thành tựu pháp này, trí huệ sáng tỏ, mà vào môn pháp giới, hay thanh tịnh vô lượng các hạnh không thể nghĩ bàn của Bồ Tát. Đó là:
Hay tịnh các trí, vì cầu nhất thiết trí. Hay tịnh chúng sinh, vì khiến cho điều phục. Hay tịnh cõi nước, vì thường hồi hướng. Hay tịnh các pháp, vì khắp biết rõ. Hay tịnh chẳng sợ, vì chẳng khiếp sợ. Hay tịnh vô ngại biện, vì khéo diễn nói. Hay tịnh đà la ni, vì nơi tất cả pháp được tự tại. Hay tịnh hạnh gần gũi, vì thường thấy tất cả chư Phật ra đời.
Giảng: Vì đại Bồ Tát thành tựu pháp này, trí huệ đã sáng tỏ, mà vào môn pháp giới, cho nên hay thanh tịnh vô lượng các hạnh không thể nghĩ bàn của Bồ Tát. Đó là: Hay thanh tịnh nhất thiết trí, vì cầu được nhất thiết trí huệ. Hay thanh tịnh tất cả chúng sinh, vì khiến cho chúng sinh cang cường bị điều phục. Hay tịnh tất cả cõi nước, vì thường hồi hướng công đức, cầu trang nghiêm cõi nước thanh tịnh. Hay thanh tịnh tất cả các pháp, vì khắp biết rõ. Hay thanh tịnh không sợ, vì có đức hạnh, cho nên chẳng khiếp sợ. Hay thanh tịnh vô ngại biện, vì khéo léo diễn nói tất cả các pháp. Hay thanh tịnh đà la ni, vì trong tất cả pháp được tự tại. Hay thanh tịnh hạnh gần gũi chư Phật, vì thường thấy tất cả chư Phật xuất hiện ra đời.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát trụ thử tam muội, đắc như thị đẳng bách thiên ức na-do-tha bất khả thuyết bất khả thuyết thanh tịnh công đức, ư như thị đẳng tam muội cảnh giới đắc tự tại cố, nhất thiết chư Phật sở gia bị cố, tự thiện căn lực chi sở lưu cố, nhập trí tuệ địa đại uy lực cố, chư thiện tri thức dẫn đạo lực cố, tồi phục nhất thiết chư ma lực cố, đồng phần thiện căn thuần tịnh lực cố, quảng đại thệ nguyện dục lạc lực cố, sở chủng thiện căn thành tựu lực cố, siêu chư thế gian vô tận chi phước, vô đối lực cố.
Phật tử! Đại Bồ Tát trụ tam muội này, đắc được trăm ngàn ức Na do tha bất khả thuyết bất khả thuyết, công đức thanh tịnh như vậy. Vì trong các cảnh giới tam muội như vậy được tự tại. Vì được tất cả chư Phật gia bị. Vì nhờ sức căn lành của mình mà ra. Vì vào bậc trí huệ đại oai lực. Vì nhờ sức các thiện tri thức dẫn đường. Vì sức hàng phục tất cả các ma. Vì sức đồng phận căn lành thuần tịnh. Vì sức thệ nguyện ưa thích rộng lớn. Vì sức trồng căn lành thành tựu. Vì sức vô đối của phước vô tận vượt qua các thế gian.
Giảng: Các vị Phật tử! Khi đại Bồ Tát trụ tam muội vô ngại luân, đắc được trăm ngàn ức na do tha bất khả thuyết bất khả thuyết công đức thanh tịnh như vậy.
Bồ Tát đối với tam muội này, đắc được mười thứ lực. Những gì là mười?
1. Vì đắc được cảnh giới tam muội nhậm vận tự tại.
2. Vì được tất cả chư Phật gia bị.
3. Vì nhờ sức căn lành thuở xưa của mình mà ra.
4. Vì vào bậc trí huệ có đại oai lực.
5. Vì nhờ sức các thiện tri thức dẫn đường.
6. Vì sức hàng phục tất cả các ma.
7. Vì sức đồng phận căn lành thuần tịnh.
8. Vì sức thệ nguyện ưa thích rộng lớn.
9. Vì sức trồng căn lành thành tựu.
10. Vì sức vô đối của phước vô tận vượt qua các thế gian.
Bồ Tát phát bốn hoằng thệ nguyện:
“Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành”.
Chúng ta là người học Phật pháp, cũng phải phát bốn đại nguyện này, mỗi ngày phải y chiếu bốn đại nguyện này mà thực hành, thì mới có sự tiến bộ. Bằng không, miệng đọc thuộc làu, nhưng chẳng thực hành, thì chẳng có chút ích lợi gì. Chẳng những không thể độ chúng sinh, mà cho đến chính mình cũng cứu không được. Nay giải thích sơ lược bốn đại nguyện này:
Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ: Trước hết phải hồi quang phản chiếu, tự mình hỏi mình, độ được chúng sinh chưa? Nếu có độ chúng sinh, nhưng đừng có chấp trước vào tướng chúng sinh. Trong Kinh Kim Cang có nói:
“Tôi phải diệt độ tất cả chúng sinh
Diệt độ tất cả chúng sinh rồi,
Mà không có một chúng sinh thật được diệt độ”.
Ý nghĩa này dạy mọi người đừng chấp trước vào công đức của mình, đừng chấp trước vào tướng độ chúng sinh, do đó: “Độ sinh lìa tướng, lìa tướng độ sinh”.
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn: Trước hết phải phản tỉnh, nhìn xem phiền não của mình đã dứt chưa? Hiện nay nói thật với các vị, phiền não của tôi cũng chưa dứt, nhưng muốn dứt phiền não. Nói ra thật là xấu hổ, giảng kinh nhiều năm rồi, mà vô minh vẫn chưa phá, phiền não vẫn chưa dứt, thật có lỗi các vị, cho nên phiền não của các vị cũng rất nhiều.
Song, tôi sớm đã từng nói với các vị: “Tôi muốn hoá duyên với các vị, muốn hoá duyên lớn, chẳng hoá duyên nhỏ”. Thế nào là duyên lớn? Tức là không hình không tướng. Thế nào là duyên nhỏ? Nghĩa là có hình có tướng. Nóng giận phiền não là không hình không tướng; tiền bạc châu báu là có hình có tướng. Mười mấy năm trước tôi đã từng nói qua: “Hãy đem nóng giận phiền não của quý vị, bố thí hết cho tôi”. Tôi hoan hỉ phiền não, tôi muốn ăn cơm phiền não, tôi muốn mặc y phiền não, tôi muốn ở nhà phiền não, tôi muốn ngồi toà phiền não, nhưng các vị không để ý đến, không bố thí bỏ được, vẫn giữ lại để chính mình dùng. Bất cứ xuất gia bao nhiêu năm? Nếu không bố thí phiền não, thì vĩnh viễn không thể chứng đạo.
Làm thế nào không có phiền não? Thì phải xem tất cả chúng sinh đều là Phật. Nếu trực tiếp đối với tất cả chúng sinh sinh phiền não, cũng giống như gián tiếp đối với tất cả chư Phật mà sinh phiền não. Chúng ta là đệ tử của Phật, không thể đối với Phật sinh phiền não, cho nên phải dứt trừ phiền não.
Người nào không chịu bố thí phiền não? Đó là người ngu. Người có trí huệ, thì không có phiền não. Tôi thường nói:
“Mọi việc đều đi qua
Nóng giận khó hoá giải
Thật không sinh nóng giận
Tức được báu vô giá.
Lại đừng có oán người
Mọi việc đều tốt đẹp
Phiền não vĩnh không sinh
Oan nghiệt biết đâu tìm!
Thường nhìn người không đúng
Khổ của mình chẳng dứt”.
Mấy câu này đã nói với quý vị nhiều lần, nhưng các vị coi như gió thoảng qua tai, chẳng lưu lại trong tâm, nói xong quên mất, qua rồi không nhớ nữa.
Tại sao hay có phiền não? Vì có nghiệp chướng, có oan nghiệt. Trong vô lượng kiếp đến nay, giết cha, giết mẹ, giết A la hán, phá hoà hợp Tăng, làm thân Phật chảy máu – phạm tội ngũ nghịch. Tóm lại, phàm là ở trong Tăng đoàn, đâm thọc ly gián, nói thị nói phi, khiến cho Tỳ Kheo nghi ngờ, thậm chí tạo ra đủ thứ việc không tốt, đó là phá hoà hợp tăng. Nếu phá hoại quy cụ trong đạo tràng, khiến cho đạo tràng không được an ổn, tạo ra nhiều việc phiền não, đó là làm thân Phật chảy máu. Tạo năm tội ngũ nghịch này, nghĩ muốn tu hành, thì những tội nghiệt này tìm đến nhiễu loạn, khiến cho bạn không thể tĩnh tâm tu hành, vọng tưởng lung tung, phiền não trùng trùng.
Người có bệnh hoạn, là vì có nghiệp chướng, oan nghiệt đến tác quái, khiến cho tinh thần của bạn hoảng hốt, không tự làm chủ được. Phàm là người mạnh khoẻ, là do chẳng tạo oan nghiệt.
Vì trong quá khứ chúng ta chẳng giữ năm giới, chẳng làm mười điều lành, cho nên chẳng có căn lành. Đời này muốn phát bồ đề tâm, nhưng ma lại đến nhiễu loạn. Vậy, phải làm bằng cách nào? Hãy mau sám hối sửa lỗi làm con người mới, tâm bình khí hoà, sửa lỗi triệt để, làm mới triệt để. Nên nhớ! Không thể nửa sửa, nửa không sửa, đó là hành vi gạt chính mình. Tu hành phải chân đạp xuống đất, không thể xen tạp thành phần hư nguỵ ở trong tâm. Tu đạo tức là tu thành thật, do đó: “Tâm thành tức linh”, tâm thành đến cực điểm thì sẽ có cảm ứng. Nhà Nho có nói: “Tinh thành sở chí, kim thạch vi khai”.
Chúng ta lúc nào cũng phải kiểm thảo chính mình, xem thử phiền não đã dứt chưa? Nếu chưa dứt thì sớm dứt trừ, còn nếu đã dứt thì đừng để nó sinh ra nữa. Phiền não là thứ tệ nhất, phiền thân não tâm, là đá buộc chân người tu đạo.
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học: Mỗi ngày các vị đến nghe kinh, nghiên cứu Phật pháp, song danh tướng cũng không nhớ.
– Hỏi: Thế nào là tứ niệm xứ? Tôi không biết.
– Hỏi: Thế nào là ngũ căn? Có phải hôm qua tôi đốt hương ngũ căn chăng?
– Hỏi: Thế nào là lục độ? Con người của tôi chẳng có sáu cái bụng!
– Hỏi: Thế nào là bát chánh đạo? Đại khái là tám con đường!
– Hỏi: Thế nào là thập lực? Có phải là mười sức lực chăng!
– Lại hỏi: Thế nào là mười tám pháp bất cộng? Lại không biết. Một hỏi ba không biết, đến học Phật pháp như vậy có tiến bộ chăng!
Pháp môn thì vô lượng, thử hỏi mình học chưa? Nếu chưa học, thì hãy mau học. Nếu đã học rồi, thì càng phải học cho nhiều. Phải dũng mãnh tinh tấn, siêng học Phật pháp, thì tương lai có thể trợ giúp Phật hoằng pháp, hoàn thành nhiệm vụ là Phật giáo đồ. Bằng không, “Thư đáo dụng thời phương hận thiếu”, đến lúc dùng, hậu hối cũng không kịp. “Sự phi kinh quá bất tri nan”. Nghe người ta giảng kinh thuyết pháp, cảm thấy rất dễ dàng. Song, khi mình giảng thì mới biết mùi vị của nó chẳng đơn giản, phải trải qua một phen công phu khổ cực, thì mới được thắng lợi, không thể làm á dương tăng.
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành: Lời nguyện này phải nương vào công phu thật để thành tựu, chẳng phải nói suông, mà là thực hành. Nói mà làm không được, thì vĩnh viễn không thể thành đạo. Tự mình hỏi mình Phật đạo đã thành chưa? Nếu chưa thành, thì hãy mau y pháp tu hành, tương lai nhất định sẽ thành Phật đạo.
Bốn hoằng thệ nguyện này, các vị phải ghi nhớ mà thực hành, đừng cô phụ mục đích mỗi ngày đến nghe kinh. Nghe kinh là vì khai ngộ, khai ngộ mới có thể thành Phật, cho nên nói Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát trụ thử tam muội, đắc thập chủng Pháp, đồng khứ, lai, kim nhất thiết chư Phật. hà giả vi thập? Sở vị: đắc chư tướng hảo, chủng chủng trang nghiêm, đồng ư chư Phật; năng phóng thanh tịnh đại quang minh võng, đồng ư chư Phật; thần thông biến hóa, điều phục chúng sanh, đồng ư chư Phật; vô biên sắc thân, thanh tịnh viên âm, đồng ư chư Phật; tùy chúng sanh nghiệp hiện tịnh Phật quốc, đồng ư chư Phật; nhất thiết chúng sanh sở hữu ngữ ngôn giai năng nhiếp trì, bất vong bất thất, đồng ư chư Phật; vô tận biện tài tùy chúng sanh tâm nhi chuyển pháp luân lệnh sanh trí tuệ, đồng ư chư Phật; Đại sư tử hống vô sở khiếp úy, dĩ vô lượng Pháp khai ngộ quần sanh, đồng ư chư Phật; ư nhất niệm khoảnh, dĩ đại thần thông phổ nhập tam thế, đồng ư chư Phật; phổ năng hiển thị nhất thiết chúng sanh chư Phật trang nghiêm, chư Phật uy lực, chư Phật cảnh giới, đồng ư chư Phật.
Phật tử! Đại Bồ Tát trụ tam muội này, được mười pháp, đồng với tất cả chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại. Những gì là mười?
Đó là: Được các tướng tốt đủ thứ sự trang nghiêm, đồng với chư Phật. Hay phóng lưới đại quang minh thanh tịnh, đồng với chư Phật. Thần thông biến hoá điều phục chúng sinh, đồng với chư Phật. Vô biên sắc thân thanh tịnh viên âm, đồng với chư Phật. Tuỳ chúng sinh nghiệp, hiện tịnh cõi Phật, đồng với chư Phật.
Hết thảy lời lẽ của tất cả chúng sinh, đều nhiếp trì được không quên, không mất, đồng với chư Phật. Vô tận biện tài, tuỳ tâm chúng sinh mà chuyển pháp luân, khiến cho sinh trí huệ, đồng với chư Phật. Đại sư tử hống, không khiếp sợ, dùng vô lượng pháp, khai ngộ quần sinh, đồng với chư Phật.
Trong khoảng một niệm, dùng đại thần thông vào khắp ba đời, đồng với chư Phật. Khắp hiển bày cho tất cả chúng sinh biết, sự trang nghiêm của chư Phật, oai lực của chư Phật, cảnh giới của chư Phật, đồng với chư Phật.
Giảng: Các vị Phật tử! Khi đại Bồ Tát trụ tam muội vô ngại luân, đắc được mười pháp, đồng với tất cả chư Phật đời quá khứ, đời vị lai, đời hiện tại. Những gì là mười? Đó là:
1. Bồ Tát đắc được 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, đủ thứ sự trang nghiêm, đồng với chư Phật.
2. Bồ Tát hay phóng lưới đại quang minh thanh tịnh ở trong hư không, đồng với chư Phật.
3. Bồ Tát dùng thần thông biến hoá để điều phục tất cả chúng sinh, đồng với chư Phật.
4. Bồ Tát có vô biên sắc thân và viên âm thanh tịnh, đồng với chư Phật. Phật có tám âm:
a. Âm cực tốt.
b. Âm nhẹ nhàng.
c. Âm hài hoà.
d. Âm êm tai.
e. Âm chẳng phải người nữ.
f. Âm chẳng lầm.
g. Âm sâu xa.
h. Âm chẳng hết được.
5. Bồ Tát tuỳ nghiệp của chúng sinh tạo ra, mà hiện cõi Phật thanh tịnh, đồng với chư Phật.
6. Bồ Tát đối với hết thảy lời lẽ của tất cả chúng sinh, như phi cầm có lời lẽ của phi cầm, tẩu thú có lời lẽ của tẩu thú, cá rùa có lời lẽ của cá rùa, côn trùng có lời lẽ của côn trùng. Tóm lại, phi tiềm động thực, đều có lời lẽ của chúng. Tất cả lời lẽ Bồ Tát đều nhiếp trì, không quên không mất, đồng với chư Phật.
7. Biện tài của Bồ Tát như nước sông lớn chảy, thao thao bất tuyệt, chẳng có khi nào cùng tận. Bồ Tát có trí huệ phương tiện khéo léo, tuỳ thuận tâm niệm của chúng sinh, mà thường chuyển đại pháp luân, khiến cho chúng sinh đắc được trí huệ, đồng với chư Phật.
8. Bồ Tát có oai lực của đại sư tử hống, trong Chứng Đạo Ca có nói :
“Sư tử hống, vô uý thuyết.
Bách thú văn chi giai não liệt,
Hương tượng bôn ba thất cước uy,
Thiên long tịch thính sinh hân duyệt”,
Chẳng có khi nào khiếp sợ. Dùng vô lượng pháp môn, để khai ngộ tất cả chúng sinh, khiến cho chúng sinh bỏ mê về giác, bỏ tà theo chánh, thân tâm kiện khang, tư tưởng thuần chánh, đồng với chư Phật.
9. Bồ Tát trong khoảng một niệm, dùng đại oai thần thông lực vào khắp cảnh giới ba đời vô ngại, đồng với chư Phật. Có thể đem ba đời dời đi, đời quá khứ tuy đã quá khứ, song có thể dời đến hiện tại. Hiện tại tuy không ngừng, song có thể dời đến vị lai. Đời vị lai tuy chưa đến, song có thể dời về quá khứ. Lý luận cảnh giới này là của bậc trí, người thế tục khó mà tin được. Tại sao ? Vì sự chấp trước của người thế tục quá sâu, cho rằng quá khứ tức là quá khứ, hiện tại tức là hiện tại, vị lai tức là vị lai. Làm sao mà dời đổi được ? Làm đảo lộn thời gian, đâu có lý này !
Người thế tục không hiểu được đạo lý ba đời vô ngại. Thật ra mà nói, vốn chẳng có quá khứ, chẳng có vị lai, chẳng có hiện tại. Bất quá, tâm chấp trước của chúng sinh khởi phân biệt mà thôi. Ở trong đại viên cảnh trí của chư Phật, ba đời không phân biệt. Ở trong thức A lại da của chúng sinh, ba đời có sự phân biệt. Cho nên, trong Kinh Kim Cang nói :
“Tâm quá khứ bất khả đắc
Tâm hiện tại bất khả đắc
Tâm vị lai bất khả đắc”.
Đó là đạo lý thấu rõ ba tâm bất khả đắc, tức cũng là dạy con người đừng chấp trước, đừng có tâm phân biệt. Phải có tư tưởng viên dung vô ngại. Do đó : “Dọc bao thái hư, ngang khắp sa giới”, phóng tâm lượng rộng lớn.
10. Bồ Tát khắp hiển bày cho tất cả chúng sinh, biết sự trang nghiêm của chư Phật, oai lực của chư Phật, cảnh giới của chư Phật, tất cả tất cả đồng với chư Phật, chẳng có gì khác biệt.
Nhĩ thời, Phổ nhãn Bồ Tát bạch Phổ Hiền Bồ Tát ngôn: Phật tử! thử Bồ-Tát Ma-ha-tát đắc như thị pháp, đồng chư Như Lai, hà cố bất danh: Phật? hà cố bất danh: thập lực? hà cố bất danh: nhất thiết trí? hà cố bất danh: nhất thiết pháp trung đắc Bồ-đề giả? hà cố bất đắc danh vi: phổ nhãn? hà cố bất danh: nhất thiết cảnh trung vô ngại kiến giả? hà cố bất danh: giác nhất thiết Pháp? hà cố bất danh: dữ tam thế Phật vô nhị trụ giả? hà cố bất danh: trụ thật tế giả? hà cố tu hành Phổ Hiền hạnh nguyện do vị hưu tức? hà cố bất năng cứu cánh Pháp giới xả Bồ Tát đạo?
Bấy giờ, Bồ Tát Phổ Nhãn bạch với Bồ Tát Phổ Hiền rằng : Phật tử ! Đại Bồ Tát này được pháp như vậy, đồng với các Như Lai, sao chẳng gọi là Phật ? Sao chẳng gọi là bậc Thập lực ? Sao chẳng gọi là bậc Nhất thiết trí ? Sao chẳng gọi là bậc được bồ đề trong trong tất cả pháp ? Sao chẳng gọi là bậc thấy khắp ? Sao chẳng gọi là bậc thấy vô ngại trong tất cả cảnh ? Sao chẳng gọi là bậc giác tất cả pháp ? Sao chẳng gọi bậc trụ không hai với ba đời chư Phật ? Sao chẳng gọi bậc trụ thật tế ? Tại sao tu hành hạnh nguyện Phổ Hiền chưa từng ngừng nghỉ ? Tại sao không thể rốt ráo pháp giới xả Bồ Tát đạo ?
Giảng: Lúc đó, Bồ Tát Phổ Nhãn bèn nói với Bồ Tát Phổ Hiền rằng : “Đệ tử của Phật ! Vị đại Bồ Tát này đắc được đủ thứ pháp như vậy, đồng với cảnh giới của chư Phật, chẳng có khác biệt. Song, tại sao chẳng phải là Phật ? Tôi thật chẳng minh bạch. Xin nhân giả từ bi, chỉ thị mười một vấn đề dưới đây, trả lời rõ ràng những vấn đề này tại sao ?
1. Tại sao chẳng gọi là Phật ?
2. Tại sao chẳng gọi là bậc Thập lực ?
3. Tại sao chẳng gọi là bậc Nhất thiết trí ?
4. Tại sao chẳng gọi là bậc Được bồ đề trong trong tất cả pháp ?
5. Tại sao chẳng gọi là bậc Thấy khắp ?
6. Tại sao chẳng gọi là bậc Thấy rõ viên dung vô ngại trong tất cả cảnh giới ?
7. Tại sao chẳng gọi là bậc Giác ngộ tất cả pháp ?
8. Tại sao chẳng gọi là bậc Trụ không hai với ba đời chư Phật ?
9. Tại sao chẳng gọi là bậc Trụ thật tế lý thể ?
10. Tại sao vị đại Bồ Tát này, tu hành hạnh nguyện của Phổ Hiền chưa từng ngừng nghỉ ? Tức nhiên đồng với chư Phật, phải nên ngừng nghỉ, không cần tu hành nữa.
11. Tại sao vị đại Bồ Tát này, không thể rốt ráo pháp giới các pháp thật tướng ? Chưa xả bỏ đạo của Bồ Tát tu ? Tức nhiên vẫn tu Bồ Tát đạo, làm sao đồng với chư Phật ?
Bồ Tát Phổ Nhãn Ngài đương nhiên minh bạch mười một vấn đền này, nhưng vì nghĩ đến đại chúng trong pháp hội Hoa Nghiêm, và tất cả chúng sinh tương lai, nên thỉnh Bồ Tát Phổ Hiền giải đáp. Đây tức là tinh thần của Bồ Tát, nguyện làm ảnh hưởng chúng, thay thế chúng sinh để thỉnh pháp.
Nhĩ thời, Phổ Hiền Bồ Tát cáo phổ nhãn Bồ Tát ngôn: Thiện tai Phật tử! như nhữ sở ngôn, nhược thử Bồ-Tát Ma-ha-tát đồng nhất thiết Phật, dĩ hà nghĩa cố bất danh vi: Phật? nãi chí bất năng xả Bồ Tát đạo?
Bấy giờ, Bồ Tát Phổ Hiền nói với Bồ Tát Phổ Nhãn rằng : Lành thay Phật tử ! Như lời Ngài hỏi, nếu đại Bồ Tát này đồng với tất cả chư Phật, tại sao chẳng gọi là Phật, cho đến không thể xả bỏ Bồ Tát đạo ?
Giảng: Lúc đó, Bồ Tát Phổ Hiền nói với Bồ Tát Phổ Nhãn rằng : “Lành thay ! Lành thay ! Đệ tử của Phật ! Như lời Ngài hỏi, nếu đại Bồ Tát này đồng với tất cả chư Phật, tại sao chẳng gọi là Phật, cho đến không thể xả bỏ Bồ Tát đạo ?”
Phật tử! thử Bồ-Tát Ma-ha-tát dĩ năng tu tập khứ, lai, kim thế nhất thiết Bồ Tát chủng chủng hạnh nguyện, nhập trí cảnh giới, tức danh vi: Phật; ư Như Lai sở tu Bồ Tát hạnh vô hữu hưu tức, thuyết danh: Bồ Tát. Như Lai chư lực giai tất dĩ nhập, tức danh: thập lực; tuy thành thập lực, hành Phổ Hiền hạnh nhi vô hưu tức, thuyết danh: Bồ Tát. Tri nhất thiết pháp nhi năng diễn thuyết, danh: nhất thiết trí; tuy năng diễn thuyết nhất thiết chư pháp, ư nhất nhất pháp thiện xảo tư tánh vị thường chỉ tức, thuyết danh: Bồ Tát. Tri nhất thiết pháp vô hữu nhị tướng, thị tắc thuyết danh: ngộ nhất thiết pháp; ư nhị, bất nhị nhất thiết chư pháp sái biệt chi đạo thiện xảo quán sát, triển chuyển tăng thắng vô hữu hưu tức, thuyết danh: Bồ Tát. Dĩ năng minh kiến phổ nhãn cảnh giới, thuyết danh: Phổ Nhãn
Tuy năng chứng đắc phổ nhãn cảnh giới, niệm niệm tăng trưởng vị tằng hưu tức, thuyết danh: Bồ Tát. Ư nhất thiết Pháp tất năng minh chiếu, ly chư ám chướng, danh: vô ngại kiến; thường cần ức niệm vô ngại kiến giả, thuyết danh: Bồ Tát.
Phật tử ! Đại Bồ Tát này, đã tu tập đủ thứ hạnh nguyện của tất cả Bồ Tát đời quá khứ, vị lai, hiện tại, vào cảnh giới trí huệ, tức gọi là Phật. Ở chỗ Như Lai tu hạnh Bồ Tát, không có ngừng nghỉ, gọi là Bồ Tát.
Các lực của Như Lai, thảy đều đã vào, tức gọi là thập lực. Tuy thành mười lực, thực hành hạnh Phổ Hiền mà không ngừng nghỉ, gọi là Bồ Tát.
Biết tất cả pháp mà hay diễn nói, gọi là nhất thiết trí. Tuy hay diễn nói tất cả các pháp, nơi mỗi mỗi pháp tư duy khéo léo, chưa từng ngừng nghỉ, gọi là Bồ Tát.
Biết tất cả pháp không có hai tướng, tức gọi là ngộ tất cả pháp. Nơi đạo tất cả các pháp sai biệt, hai mà chẳng hai, khéo léo quán sát, triển chuyển tăng thắng, không có ngừng nghỉ, gọi là Bồ Tát.
Đã thấy rõ cảnh giới phổ nhãn, gọi là phổ nhãn. Tuy chứng được cảnh giới phổ nhãn, niệm niệm tăng trưởng, chưa từng ngừng nghỉ, gọi là Bồ Tát.
Nơi tất cả pháp, thảy đều chiếu rõ, lìa các ám chướng, gọi là thấy vô ngại. Bậc thấy vô ngại thường siêng nghĩ nhớ, gọi là Bồ Tát.
Giảng: Phật tử ! Xin chú ý lắng nghe, nay tôi sẽ nói rõ ràng về mười một vấn đền này.
1. Đại Bồ Tát này, đã tu hành học tập đủ thứ hạnh nguyện của tất cả Bồ Tát quá khứ, vị lai, hiện tại, ba đời, vào cảnh giới nhất thiết trí huệ, liền gọi là Phật. Song, ở chỗ chư Phật vẫn tu hạnh Bồ Tát, không có lúc nào ngừng nghỉ, cho nên gọi là Bồ Tát.
2. Vị đại Bồ Tát này, đối với mười lực của chư Phật, thảy đều chứng được, liền gọi là thập lực. Tuy đã thành tựu thập lực, nhưng vẫn phải tu hành hạnh môn của Bồ Tát Phổ Hiền, chẳng có lúc nào ngừng nghỉ, cho nên gọi là Bồ Tát.
3. Vị đại Bồ Tát này, biết tất cả các pháp, minh bạch tất cả nghĩa, hay vì tất cả chúng sinh diễn nói nghĩa lý diệu pháp, liền gọi là nhất thiết trí. Tuy hay diễn nói tất cả các pháp, nhưng ở trong mỗi thứ pháp, dùng thiện xảo để tư duy, chưa từng dừng lại, hoặc ngừng nghỉ, cho nên gọi là Bồ Tát.
4. Vị đại Bồ Tát này, biết tất cả các pháp, không có hai tướng, dù một tướng cũng không có, tức gọi là ngộ tất cả pháp. Vì đối với đạo lý hai tướng chẳng tướng, phân biệt tất cả các pháp, dùng thiện xảo để quán sát, triển chuyển tăng thắng, không có lúc nào ngừng nghỉ, cho nên gọi là Bồ Tát.
5. Vị đại Bồ Tát này, đã thấy rõ cảnh giới phổ nhãn, tức gọi là phổ nhãn. Tuy chứng được cảnh giới phổ nhãn, nhưng niệm niệm tăng trưởng, vẫn phải hướng về trước cầu tiến bộ, chưa từng ngừng nghỉ, cho nên gọi là Bồ Tát.
6. Vị đại Bồ Tát này, đối với tất cả các pháp, thảy đều chiếu rõ, lìa khỏi tất cả ám chướng, cho nên gọi là thấy vô ngại. Vì Bồ Tát thường siêng nghĩ nhớ tất cả chư Phật, cho nên gọi là Bồ Tát.
Dĩ đắc chư Phật trí tuệ chi nhãn, thị tắc thuyết danh: giác nhất thiết pháp; quán chư Như Lai chánh giác trí nhãn nhi bất phóng dật, thuyết danh: Bồ Tát. Trụ Phật sở trụ, dữ Phật vô nhị, thuyết danh: dữ Phật vô nhị trụ giả; vi Phật nhiếp thọ, tu chư trí tuệ, thuyết danh: Bồ Tát. Thường quán nhất thiết thế gian thật tế, thị tắc thuyết danh: trụ thật tế giả; tuy thường quan sát chư Pháp thật tế, nhi bất chứng nhập diệc bất xả ly, thuyết danh: Bồ Tát. Bất lai bất khứ, vô đồng vô dị, thử đẳng phân biệt tất giai vĩnh tức, thị tắc thuyết danh: hưu tức nguyện giả; quảng đại tu tập, viên mãn bất thoái, tức danh: vị tức Phổ Hiền nguyện giả. liễu tri Pháp giới vô hữu biên tế, nhất thiết chư pháp nhất tướng vô tướng, thị tắc thuyết danh: cứu cánh Pháp giới xả Bồ Tát đạo; tuy tri Pháp giới vô hữu biên tế, nhi tri nhất thiết chủng chủng dị tướng, khởi đại bi tâm độ chư chúng sanh, tận vị lai tế vô hữu bì yếm, thị tắc thuyết danh: Phổ Hiền Bồ Tát.
Đã được mắt trí huệ của chư Phật, tức gọi là giác ngộ tất cả pháp. Quán các Như Lai chánh giác trí nhãn, mà chẳng phóng dật, gọi là Bồ Tát.
Trụ chỗ Phật trụ, với Phật không hai, gọi là bậc trụ với Phật không hai. Được Phật nhiếp thọ, tu các trí huệ, gọi là Bồ Tát.
Thường quán tất cả thế gian thật tế, tức gọi là bậc trụ thật tế. Tuy thường quán sát các pháp thật tế, mà không chứng nhập, cũng không xả lìa, gọi là Bồ Tát.
Chẳng đến, chẳng đi, chẳng đồng, chẳng khác, sự phân biệt này thảy đều vĩnh viễn diệt trừ, tức gọi là bậc nghỉ ngơi nguyện. Tu tập rộng lớn, viên mãn bất thối, tức gọi là bậc chưa nghỉ nguyện Phổ Hiền. Biết rõ pháp giới không có bờ mé, tất cả các pháp, một tướng vô tướng, tức gọi là rốt ráo pháp giới xả Bồ Tát đạo.
Tuy biết pháp giới không có bờ mé, mà biết đủ thứ tất cả tướng khác nhau, khởi tâm đại bi, độ các chúng sinh, hết thuở vị lai, không có mệt mỏi, tức gọi là Bồ Tát Phổ Hiền.
Giảng:
7.Vị đại Bồ Tát này, đã chứng được mắt trí huệ của chư Phật, tức gọi là giác ngộ tất cả pháp. Vì mắt quán sát chánh giác trí huệ của tất cả chư Phật, mà chẳng phóng dật, lúc nào cũng tinh tấn, ở đâu cũng đều giữ quy cụ, cho nên gọi là Bồ Tát.
8. Vị đại Bồ Tát này, trụ cảnh giới chỗ của Phật trụ, với Phật không hai, gọi là bậc trụ với Phật không hai. Vì được Phật nhiếp thọ, tu tập nhất thiết trí huệ, cho nên gọi là Bồ Tát.
9. Vị đại Bồ Tát này, thường quán sát chân thật lý thể của tất cả thế gian, tức gọi là bậc trụ thật tế. Tuy thường quán sát các pháp thật tế, mà không chứng nhập thật tế lý thể, cũng không xả lìa chân thật lý thể, cho nên gọi là Bồ Tát.
10. Vị đại Bồ Tát này, chẳng đến, chẳng đi, chẳng đồng, chẳng khác, sự phân biệt này, vĩnh viễn diệt trừ, tức gọi là bậc nghỉ ngơi nguyện. Vì Bồ Tát tu tập rộng lớn hạnh nguyện Phổ Hiền, viên mãn bất thối, tức gọi là bậc chưa nghỉ nguyện Phổ Hiền.
11. Vị đại Bồ Tát này, biết rõ pháp giới chẳng có bờ mé, tất cả các pháp, một tướng vô tướng, tức gọi là rốt ráo pháp giới xả Bồ Tát đạo. Tuy biết pháp giới không có bờ mé, mà biết có đủ thứ tất cả tướng khác nhau, khởi tâm đại bi, nguyện độ tất cả chúng sinh, dù hết thuở vị lai, cũng không có mệt mỏi, cũng không nhàm chán, cho nên gọi là Bồ Tát Phổ Hiền.
Phật tử! thí như y La bát na Tượng Vương, trụ kim hiếp sơn thất bảo quật trung, kỳ quật châu vi tất dĩ thất bảo nhi vi lan thuẫn, bảo Ta-la thụ thứ đệ hàng liệt, chân kim la võng di phước kỳ thượng; tượng thân khiết bạch do như kha tuyết, thượng lập kim tràng, kim vi anh lạc, bảo võng phước tỳ, bảo linh thùy hạ, thất chi thành tựu, lục nha cụ túc, đoan chánh sung mãn, kiến giả hân lạc, điều lương thiện thuận, tâm vô sở nghịch.
Phật tử ! Ví như voi chúa Y La Bát Na, ở núi Kim Hiếp trong hang bảy báu. Hang đó chu vi đều dùng bảy báu làm lan can. Cây đa la báu thứ tự thẳng hàng. Lưới La bằng vàng thật che phủ phía trên. Thân voi trắng khiết giống như ngọc kha tuyết, phía trên dựng tràng bằng vàng, chuỗi bằng vàng, lưới báu trùm vòi, linh báu thòng xuống. Thất chi thành tựu, đầy đủ sáu ngà, đoan chánh sung mãn, người thấy rất vui thích. Điều thuận lương thiện, tâm không trái nghịch.
Giảng: Các vị Phật tử ! Giống như voi chúa Y la bát na (hương diệp), ở núi Kim Hiếp trong hang bảy báu. Chu vi hang đó đều dùng bảy báu làm lan can, rất là trang nghiêm. Lại có rất nhiều cây đa la báu, thứ tự rất thẳng hàng, nhìn trái cũng thẳng hàng, nhìn phải cũng thẳng hàng. Lại có lưới La làm bằng vàng thật che phủ phía trên hang báu. Thân voi chúa đó màu rất trắng khiết, giống như ngọc kha tuyết, phía trên có tràng bằng vàng, chuỗi làm bằng vàng. Lại có lưới báu trùm vòi, linh báu thòng xuống, thất chi (bốn chân, đầu, âm, đuôi) thành tựu, đầy đủ sáu ngà. Chẳng những đoan chánh, mà còn sung mãn, người thấy rất vui thích. Tánh tình của voi chúa điều thuận lương thiện, bất cứ sự việc gì, tâm cũng không trái nghịch mà không vui. Tóm lại, đều tuỳ thuận tâm ý của chủ nhân (Thích Đề Hoàn Nhân), nghe sự điều khiển, phục tùng mệnh lệnh.
Nhược Thiên đế thích tướng dục du hành, nhĩ thời Tượng Vương tức tri kỳ ý, tiện ư bảo quật nhi một kỳ hình, chí Đao Lợi Thiên thích chủ chi tiền, dĩ thần thông lực chủng chủng biến hiện, lệnh kỳ thân hữu tam thập tam đầu, ư nhất nhất đầu hóa tác thất nha, ư nhất nhất nha hóa tác thất trì, nhất nhất trì trung hữu thất liên hoa, nhất nhất hoa trung hữu thất thải nữ, nhất thời câu tấu bách thiên Thiên nhạc.
Thị thời, Đế Thích thừa tư bảo tượng, tùng nan thắng điện vãng nghệ hoa viên, phân đà lợi hoa biến mãn kỳ trung. Thị thời, Đế Thích chí hoa viên dĩ, tùng tượng nhi hạ, nhập ư nhất thiết bảo trang nghiêm điện, vô lượng thải nữ dĩ vi thị tòng, ca vịnh kĩ lạc thọ chư khoái lạc.
Tượng Vương phục dĩ thần thông ẩn kỳ tượng hình hiện tác Thiên thân, dữ tam thập tam thiên cập chư thải nữ, ư phân đà lợi hoa viên chi nội hoan ngu hí lạc, sở hiện thân tướng, quang minh y phục, vãng lai tiến chỉ, ngữ tiếu quán chiêm, giai như bỉ Thiên, đẳng vô hữu dị, vô năng phân biệt; thử tượng, thử Thiên, tượng chi dữ Thiên, cánh hỗ tương tự.
Nếu như trời Đế Thích sắp muốn đi du hành, thì bấy giờ voi chúa liền biết ý của trời Đế Thích, bèn từ hang báu ẩn hình, đến trước Đế Thích trời Đao Lợi. Dùng sức thần thông biến hiện đủ thứ, khiến cho thân nó hiện ra ba mươi hai đầu. Trên mỗi đầu hoá hiện ra bảy ngà. Mỗi cái ngà hoá làm bảy ao nước, trong mỗi ao nước có bảy hoa sen, trên mỗi hoa sen có bảy thể nữ. Nhất thời đều tấu lên trăm ngàn nhạc trời.
Bấy giờ, trời Đế Thích bèn ngồi lên voi báu, từ điện Nan Thắng đi đến vườn hoa. Hoa phân đà lợi đầy khắp trong đó. Lúc đó, Đế Thích đến vười hoa rồi, từ voi chúa đi xuống, vào trong điện Tất Cả Báu Trang Nghiêm, có vô lượng thể nữ theo hầu đờn ca múa hát, thọ các sự khoái lạc.
Bấy giờ, voi chúa lại dùng thần thông, ẩn thân voi, hiện ra thân trời, cùng với trời Đế Thích, và các thể nữ, ở trong vườn hoa phân đà lợi vui chơi. Thân tướng hiện ra, ánh sáng y phục, tới lui nói cười nhìn ngắm, đều giống như chư Thiên không khác, không thể phân biệt được là voi, hoặc là chư Thiên. Voi và chư Thiên đều giống nhau.
Giảng: Nếu như trời Đế Thích (Thích Đề Hoàn Nhơn) nghĩ muốn đi du hành, thì bấy giờ voi chúa liền biết ý của trời Đế Thích, bèn từ hang báu ẩn hình, đến trước Đế Thích trời Đao Lợi. Bèn dùng sức thần thông biến hoá ra đủ thứ, khiến cho thân nó đồng thời hiện ra ba mươi hai cái đầu. Trên mỗi cái đầu hoá hiện ra bảy ngà. Trên mỗi cái ngà đều hoá hiện bảy ao nước, trong mỗi ao nước đều có bảy hoa sen báu lớn, trên mỗi hoa sen báu lớn đó, lại hoá hiện ra bảy thể nữ. Nhất thời đều tấu lên trăm ngàn thứ nhạc trời.
Bấy giờ, trời Đế Thích bèn ngồi lên voi báu trắng lớn, từ điện Nan Thắng đi đến vườn hoa thưởng ngoạn. Trong vườn hoa có hoa phân đà lợi (hoa sen trắng) đầy khắp trong đó, hoa sen trắng khiết, một bụi không nhiễm. Lúc đó, trời Đế Thích đến vười hoa rồi, từ voi chúa trắng báu đi xuống, đến điện Tất Cả Báu Trang Nghiêm. Có vô lượng thể nữ theo hầu, đờn ca múa hát, thọ các sự khoái lạc.
Bấy giờ, voi chúa lại dùng đủ thứ thần thông, ẩn mất thân voi, hiện ra thân trời, cùng với trời Đế Thích và tất cả thể nữ, ở trong vườn hoa phân đà lợi cùng nhau vui chơi thưởng ngoạn. Voi chúa trắng lớn hiện ra thân hình, ánh sáng y phục, tới lui nói cười nhìn ngắm, đủ thứ hành động, đều giống như người trời không khác, không ai có thể phân biệt được nó là voi chúa trắng lớn biến hoá ra người. Vì nó biến hoá ra người và người trời giống nhau, không cách chi phân biệt được thật giả.
Phật tử! bỉ y La bát na Tượng Vương, ư kim hiếp sơn thất bảo quật trung vô sở biến hóa, chí ư tam thập tam thiên chi thượng, vi dục cúng dường Thích-đề-hoàn-nhân, hóa tác chủng chủng chư khả lạc vật, thọ Thiên khoái lạc, dữ Thiên vô dị.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, tu tập Phổ Hiền Bồ Tát hạnh nguyện cập chư tam muội dĩ vi chúng bảo trang nghiêm chi cụ, thất Bồ-đề phần vi Bồ Tát thân, sở phóng quang minh dĩ chi vi võng, kiến Đại Pháp-Tràng, minh đại pháp chung, đại bi vi quật, kiên cố đại nguyện dĩ vi kỳ nha, trí tuệ vô úy do như sư tử, Pháp tăng hệ đảnh, khai thị bí mật, đáo chư Bồ-tát hạnh nguyện bỉ ngạn.
Phật tử ! Voi chúa Y La Bát Na đó, ở tại núi Kim Hiếp trong động bảy báu, chẳng có sự biến hoá. Đến trên trời Tam Thập Tam, vì muốn cúng dường Thích Đề Hoàn Nhân, mà hoá ra đủ thứ vật vui thích, thọ sự khoái lạc của chư Thiên, với chư Thiên không khác.
Phật tử ! Đại Bồ Tát cũng lại như thế, tu tập hạnh nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền, và các tam muội, dùng các châu báu làm đồ trang nghiêm. Bảy bồ đề phần làm thân Bồ Tát, phóng ra quang minh dùng làm lưới. Kiến lập pháp tràng lớn, đánh chung pháp lớn. Đại bi làm hang, đại nguyện kiên cố dùng làm y. Trí huệ vô uý như sư tử, lụa pháp quấn đầu, khai thị bí mật, đến được hạnh nguyện bờ bên kia của các Bồ Tát.
Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát cũng lại như thế, tu tập hạnh nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền, và đủ thứ các tam muội khác nữa, dùng đủ thứ các châu báu làm đồ trang nghiêm. Bảy bồ đề phần làm thân của Bồ Tát, phóng ra quang minh dùng làm lưới la. Kiếp lập pháp tràng lớn, đánh chung pháp lớn. Dùng tâm đại bi làm hang bảy báu, dùng đại nguyện kiên cố làm y. Trí huệ vô uý oai lực dũng mãnh như sư tử, dùng lụa pháp để quấn đầu, khai thị pháp bí mật, đến được hạnh nguyện bờ bên kia của các Bồ Tát tu.
Vi dục an xứ Bồ-đề chi tọa, thành nhất thiết trí, đắc tối chánh giác, tăng trưởng Phổ Hiền quảng đại hạnh nguyện, bất thoái bất tức, bất đoạn bất xả, đại bi tinh tấn, tận vị lai tế độ thoát nhất thiết khổ não chúng sanh. Bất xả Phổ Hiền đạo, hiện thành tối chánh giác, hiện bất khả thuyết bất khả thuyết thành chánh giác môn, hiện bất khả thuyết bất khả thuyết chuyển pháp luân môn, hiện bất khả thuyết bất khả thuyết trụ thâm tâm môn. Ư bất khả thuyết bất khả thuyết quảng đại quốc độ, hiện Niết-Bàn biến hóa môn.
Vì muốn an xứ toà bồ đề, thành tựu nhất thiết trí, đắc được tối Chánh Giác. Tăng trưởng hạnh nguyện Phổ Hiền rộng lớn, không lùi không nghỉ, không dứt không bỏ, đại bi tinh tấn, hết thuở vị lai, độ thoát tất cả phiền não chúng sinh, chẳng bỏ đạo Phổ Hiền.
Hiện thành tối Chánh Giác, hiện bất khả thuyết bất khả thuyết môn thành Chánh Giác. Hiện bất khả thuyết bất khả thuyết môn chuyển pháp luân. Hiện bất khả thuyết bất khả thuyết môn trụ thâm tâm. Tại bất khả thuyết bất khả thuyết cõi nước rộng lớn, hiện môn Niết Bàn biến hoá.
Giảng: Bồ Tát vì muốn an xứ toà bồ đề, cho đến thành tựu nhất thiết trí, đắc được quả vị tối Chánh Giác. Tăng trưởng hạnh nguyện Phổ Hiền rộng lớn, vĩnh viễn không thối lùi, vĩnh viễn không nghỉ ngơi, cũng không đoạn tuyệt, cũng không xả bỏ. Đại từ bi thường tinh tấn, hết thuở vị lai, độ thoát tất cả chúng sinh khổ não, khiến cho họ được an lạc.
Bồ Tát cũng chẳng xả bỏ đạo của Bồ Tát Phổ Hiền tu, thị hiện thành tựu tối thượng Chánh Giác. Hiện ra bất khả thuyết bất khả thuyết pháp môn thành Chánh Giác. Lại hiện ra bất khả thuyết bất khả thuyết pháp môn chuyển đại pháp luân. Lại hiện ra bất khả thuyết bất khả thuyết pháp môn trụ thâm tâm. Tại bất khả thuyết bất khả thuyết cõi nước rộng lớn, hiện ra pháp môn Niết Bàn biến hoá.
Ư bất khả thuyết bất khả thuyết sái biệt thế giới, nhi hiện thọ sanh tu Phổ Hiền hạnh, hiện bất khả thuyết bất khả thuyết Như Lai; ư bất khả thuyết bất khả thuyết quảng đại quốc độ Bồ-đề thụ hạ thành tối chánh giác, bất khả thuyết bất khả thuyết Bồ Tát chúng thân cận vi nhiễu. hoặc ư nhất niệm khoảnh, tu Phổ Hiền hạnh nhi thành chánh giác, hoặc tu du khoảnh, hoặc ư nhất thời, hoặc ư nhất nhật, hoặc ư bán nguyệt, hoặc ư nhất nguyệt, hoặc ư nhất niên, hoặc vô số niên, hoặc ư nhất kiếp, như thị nãi chí bất khả thuyết bất khả thuyết kiếp, tu Phổ Hiền hạnh nhi thành chánh giác.
Tại bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới khác nhau, mà hiện thọ sinh, tu hạnh Phổ Hiền. Hiện bất khả thuyết bất khả thuyết Như Lai, tại bất khả thuyết bất khả thuyết cõi nước rộng lớn, ở dưới cội bồ đề thành tối Chánh Giác. Có bất khả thuyết bất khả thuyết chúng Bồ Tát, gần gũi vây quanh.
Hoặc ở trong khoảng một niệm, tu hạnh Phổ Hiền mà thành Chánh Giác. Hoặc trong khoảng sát na, hoặc một thời, một ngày, nửa tháng, một tháng, hoặc vô số năm, hoặc một kiếp, như vậy cho đến bất khả thuyết bất khả thuyết kiếp, tu hạnh Phổ Hiền, mà thành Chánh Giác.
Giảng: Bồ Tát ở trong bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới khác nhau, mà hiện tướng thọ sinh, tu hạnh Bồ Tát Phổ Hiền. Lại hiện bất khả thuyết bất khả thuyết chư Phật, tại bất khả thuyết bất khả thuyết cõi nước rộng lớn, ở dưới cội bồ đề thành tựu tối thượng Chánh Giác. Có bất khả thuyết bất khả thuyết chúng Bồ Tát, đến gần gũi đức Phật, đến vây quanh đức Phật. Hoặc ở trong khoảng một niệm, tu hạnh Phổ Hiền mà thành Chánh Giác. Hoặc trong khoảng sát na, hoặc một thời, một ngày, nửa tháng, một tháng, hoặc vô số năm, hoặc một kiếp, như vậy cho đến bất khả thuyết bất khả thuyết kiếp, tu hạnh Bồ Tát Phổ Hiền, mà thành chánh giác.
Phục ư nhất thiết chư Phật sát trung nhi vi thượng thủ, thân cận ư Phật, đảnh lễ cúng dường, thỉnh vấn quan sát như huyễn cảnh giới, tịnh tu Bồ Tát vô lượng chư hạnh, vô lượng chư trí, chủng chủng thần biến, chủng chủng uy đức, chủng chủng trí tuệ, chủng chủng cảnh giới, chủng chủng thần thông, chủng chủng tự tại, chủng chủng giải thoát, chủng chủng pháp minh, chủng chủng giáo hóa điều phục chi Pháp.
Lại ở trong tất cả cõi nước chư Phật, mà làm thượng thủ. Gần gũi Phật, đảnh lễ cúng dường. Thỉnh vấn quán sát cảnh giới như huyễn. Tịnh tu vô lượng các hạnh, vô lượng các trí, thần thông biến hoá, đủ thứ oai đức, đủ thứ trí huệ, đủ thứ cảnh giới, đủ thứ thần thông, đủ thứ tự tại, đủ thứ giải thoát, đủ thứ pháp minh, đủ thứ pháp giáo hoá điều phục của Bồ Tát.
Giảng: Bồ Tát lại ở trong tất cả cõi nước chư Phật, mà làm thượng thủ. Gần gũi chư Phật, đảnh lễ chư Phật, cúng dường chư Phật. Thỉnh vấn chư Phật tất cả pháp môn, quán sát chư Phật tất cả pháp môn. Trong cảnh giới như huyễn không thật, chuyên tâm nhất chí để tu vô lượng các hạnh thanh tịnh, vô lượng các trí, thần thông biến hoá, đủ thứ oai đức, đủ thứ trí huệ, đủ thứ cảnh giới, đủ thứ thần thông, đủ thứ tự tại, đủ thứ giải thoát, đủ thứ pháp minh, đủ thứ pháp giáo hoá điều phục của Bồ Tát.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát bản thân bất diệt, dĩ hạnh nguyện lực ư nhất thiết xứ như thị biến hiện. Hà dĩ cố?
Phật tử ! Bổn thân của đại Bồ Tát không diệt. Dùng sức hạnh nguyện, tại tất cả mọi nơi, biến hiện như vậy, tại sao ?
Giảng: Các vị Phật tử ! Bổ thân của đại Bồ Tát không có huỷ diệt. Dùng đủ thứ nguyện lực tu hành, ở tại tất cả mọi nơi, tuỳ thời tuỳ lúc biến hiện như vậy, tại sao ?
Dục dĩ Phổ Hiền tự tại thần lực điều phục nhất thiết chư chúng sanh cố, lệnh bất khả thuyết bất khả thuyết chúng sanh đắc thanh tịnh cố, lệnh kỳ vĩnh đoạn sanh tử luân cố, nghiêm tịnh quảng đại chư thế giới cố, thường kiến nhất thiết chư Như Lai cố, thâm nhập nhất thiết Phật Pháp lưu cố, ức niệm tam thế chư Phật chủng cố, ức niệm thập phương nhất thiết Phật Pháp cập Pháp thân cố, phổ tu nhất thiết Bồ Tát chư hạnh sử viên mãn cố, nhập Phổ Hiền lưu tự tại năng chứng nhất thiết trí cố.
Vì muốn dùng thần lực tự tại của Phổ Hiền, để điều phục tất cả chúng sinh. Vì khiến cho bất khả thuyết bất khả thuyết chúng sinh đắc được thanh tịnh. Vì khiến cho họ vĩnh viễn dứt bánh xe sinh tử. Vì nghiêm tịnh các thế giới rộng lớn. Vì thường thấy tất cả các Như Lai. Vì vào sâu tất cả dòng Phật pháp. Vì nghĩ nhớ dòng dõi chư Phật ba đời. Vì nghĩ nhớ pháp và pháp thân của tất cả chư Phật mười phương. Vì khắp tu các hạnh của tất cả Bồ Tát, khiến cho được viên mãn. Vì vào dòng Phổ Hiền, tự tại chứng được nhất thiết trí.
Giảng: Bồ Tát tu pháp môn Thập định, là vì mười nguyên nhân này :
1. Vì muốn dùng thần lực tự tại của Bồ Tát Phổ Hiền, để điều phục tất cả các chúng sinh.
2. Vì khiến cho bất khả thuyết bất khả thuyết chúng sinh, đều đắc được nguồn gốc thanh tịnh, tánh diệu chân như.
3. Vì khiến cho tất cả chúng sinh vĩnh viễn dứt bánh xe sinh tử. Gốc rễ của sinh tử là tình ái mà ra, nếu dứt được vô minh tình ái, thì gốc rễ sinh tử cũng dứt hẳn. Do đó : “Đoạn dục khử ái”, đây là phương pháp giải quyết gốc rễ sinh tử.
4. Vì trang nghiêm thanh tịnh tất cả mười phương thế giới rộng lớn.
5. Vì thường thấy tất cả chư Phật mười phương ba đời.
6. Vì vào sâu tất cả dòng pháp rộng lớn của tất cả chư Phật.
7. Vì nghĩ nhớ dòng dõi chư Phật ba đời.
8. Vì nghĩ nhớ pháp và pháp thân của tất cả chư Phật mười phương.
9. Vì khắp tu các hạnh của tất cả Bồ Tát, khiến cho lục độ vạn hạnh sớm được viên mãn.
10. Vì khắp vào dòng pháp tánh của Bồ Tát Phổ Hiền, nhậm vận tự tại chứng được nhất thiết trí.
Phật tử! nhữ ưng quán thử Bồ-Tát Ma-ha-tát, bất xả Phổ Hiền hạnh, bất đoạn Bồ Tát đạo, kiến nhất thiết Phật, chứng nhất thiết trí, tự tại thọ dụng nhất thiết trí Pháp. Như y La bát na Tượng Vương bất xả tượng thân, vãng tam thập tam thiên, vi Thiên sở thừa, thọ Thiên khoái lạc, tác Thiên du hí, thừa sự Thiên Chủ, dữ Thiên thải nữ nhi tác hoan ngu, đồng ư chư Thiên vô hữu sái biệt.
Phật tử ! Ông nên quán đại Bồ Tát này, không bỏ hạnh Phổ Hiền, không dứt Bồ Tát đạo, thấy tất cả chư Phật, chứng nhất thiết trí, tự tại thọ dụng pháp nhất thiết trí. Như voi chúa Y La Bát Na, chẳng bỏ thân voi, mà ở trời Tam Thập Tam, được trời Đế Thích cỡi, thọ khoái lạc trên trời, làm người trời vui chơi. Hầu hạ Thiên chủ, vui chơi với thể nữ, giống như chư Thiên, không có gì khác biệt.
Giảng: Phật tử ! Ông nên quán vị đại Bồ Tát này, Ngài không bỏ hạnh của Bồ Tát Phổ Hiền tu, cũng không đoạn tuyệt Bồ Tát đạo. Thấy tất cả chư Phật chứng được nhất thiết trí, tự tại thọ dụng pháp môn nhất thiết trí. Giống như voi chúa Y la bát na, chẳng bỏ thân voi, mà ở trời Tam Thập Tam, được trời Đế Thích cỡi, thọ khoái lạc trên trời, làm người trời vui chơi. Hầu hạ Thiên chủ, vui chơi với thể nữ, giống như chư Thiên, không có gì khác biệt.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, bất xả Phổ Hiền Đại-Thừa chư hạnh, bất thoái chư nguyện, đắc Phật tự tại, cụ nhất thiết trí, chứng Phật giải thoát, Vô chướng vô ngại, thành tựu thanh tịnh, ư chư quốc độ vô sở nhiễm trước, ư Phật Pháp trung vô sở phân biệt; tuy tri chư Pháp phổ giai bình đẳng vô hữu nhị tướng, nhi hằng minh kiến nhất thiết Phật thổ; tuy dĩ đẳng đồng tam thế chư Phật, nhi tu Bồ Tát hạnh tướng tục bất đoạn.
Phật tử ! Đại Bồ Tát cũng lại như thế, không bỏ các hạnh đại thừa Phổ Hiền, không thối chuyển các nguyện. Được tự tại của Phật, đủ nhất thiết trí. Chứng được giải thoát của Phật, không chướng không ngại, thành tựu thanh tịnh. Nơi các cõi nước không có nhiễm trước. Ở trong Phật pháp không có phân biệt. Tuy biết các pháp khắp đều bình đẳng, không có hai tướng, mà luôn thấy rõ tất cả cõi Phật. Tuy đã bình đẳng đồng với chư Phật ba đời, mà tu Bồ Tát hạnh liên tục không ngừng.
Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát cũng lại như thế, không xả bỏ tất cả hạnh môn đại thừa Bồ Tát Phổ Hiền tu, không thối chuyển các nguyện đã phát, đắc được tự tại của chư Phật, đầy đủ nhất thiết trí huệ. Chứng được giải thoát của chư Phật, cảnh giới không chướng, không ngại, thành tựu quả vị thanh tịnh. Nơi các cõi nước của chư Phật, không có nhiễm trước. Ở trong pháp của tất cả chư Phật nói, không có phân biệt.
Tuy Bồ Tát biết tất cả các pháp, đều là bình đẳng, không có hai tướng, mà luôn luôn thấy rõ cõi nước của tất cả chư Phật. Tuy đã bình đẳng đồng với chư Phật ba đời, mà vẫn tu tất cả hạnh môn của Bồ Tát tu, liên tục không ngừng.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát an trụ như thị Phổ Hiền hạnh nguyện quảng đại chi Pháp, đương tri thị nhân tâm đắc thanh tịnh.
Phật tử ! Đại Bồ Tát an trụ pháp hạnh nguyện Phổ Hiền rộng lớn như vậy, nên biết người đó tâm được thanh tịnh.
Giảng: Phật tử ! Đại Bồ Tát an trụ ở trong pháp hạnh nguyện rộng lớn của Bồ Tát Phổ Hiền tu như vậy, nên biết người đó tâm đắc được cảnh giới thanh tịnh, không nhiễm ô.
Phật tử! thử thị Bồ-Tát Ma-ha-tát đệ thập vô ngại luân Đại tam muội thù thắng tâm quảng đại trí.
Phật tử! thử thị Bồ-Tát Ma-ha-tát sở trụ Phổ Hiền hạnh thập Đại tam muội luân.
Phật tử ! Đó là đại tam muội Vô ngại luân, tâm thù thắng trí quảng đại thứ mười của đại Bồ Tát.
Phật tử ! Đó là sở trụ mười đại tam muội luân, hạnh Phổ Hiền của đại Bồ Tát.
Giảng: Phật tử ! Đó là đại tam muội Vô ngại luân, tâm thù thắng trí huệ quảng đại thứ mười của đại Bồ Tát tu.
Phật tử ! Đó là sở trụ mười đại tam muội luân, hạnh Phổ Hiền của đại Bồ Tát.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét